13 thg 1, 2014

Mộ Hoàng Bì Tử - Chương 42- 47 (Thiên Hạ Bá Xướng)

Chương 42: Lão Dương Bì, kẻ trộm mộ

Cũng chẳng rõ vì lao lực quá độ hay bởi sự tình diễn ra quá bất ngờ, dù sao thì lúc đó tư duy của tôi lẫn Tuyền béo đều hoàn toàn không theo kịp sự biến hóa của tình thế. Chúng tôi hơi ngẩn ra trong giây lát, nhưng ít nhất cũng đều lập tức có phản ứng, cái rương lão Dương Bì đang ôm kia, ngàn vạn lần cũng không thể mở ra được, bằng không thì đừng hòng ai ở đây mong sống sót.
Mặc kệ ông già ấy đã có tính toán từ trước hay là bị mất trí, tôi và Tuyền béo đồng thanh hét lên một tiếng, ném thứ đang ở trên tay xuống rồi bổ nhào đến. Tuyền béo chỉ bị thương ở cổ, tinh lực vẫn còn rất dồi dào, cậu ta nhảy xổ tới trước, gạt phắt hết những thứ tạp nhạp chắn phía trước mặt sang một bên. Đúng vào khoảnh khắc lão Dương Bì sắp mở cái nắp rương lên, cậu ta đã chồm cả người đến, đè cứng ông già xuống đất.
Tuyền béo tuy mới mười tám tuổi, thân thể vẫn chưa trưởng thành hoàn toàn, nhưng riêng tấm thân phì nộn ấy của cậu ta thời bấy giờ, cũng xứng được gọi là lưng hùm eo gấu rồi. Thêm vào đó, nửa năm trời được bần hạ trung nông tái giáo dục ở Đại Hưng An Lĩnh, đích thực cũng là môi trường rèn luyện rất khủng khiếp, vì vậy toàn thân trên dưới cậu ta đều rắn chắc như vâm, xông lên mà nghe tiếng gió rít vù vù. Chỉ nghe “bình” một tiếng, tức thì đã đè cho lão Dương Bì ngã chổng vó lên trời.
Người em Dương Nhị Đản của lão Dương Bì không ngờ lại là thổ phỉ Nê Hội, vậy thì không còn là mâu thuẫn nội bộ trong nhân dân nữa rồi, mà chắc hai trăm phần trăm là quan hệ thù địch. Có điều, chuyện này thực sự cũng quá bất ngờ, tôi lo chưa kịp làm rõ chân tướng thì đã gây ra án mạng, vội vàng bảo Tuyền béo nhẹ tay một chút, nên đấu văn chứ đừng đấu võ, chỉ cần khống chế ông lão là đủ rồi.
Tuyền béo nghe thấy tôi kêu lên thế, liền đè lão Dương Bì xuống rồi thuận đà lăn một vòng, kéo ông lão vào sâu bên trong mật thất, tránh xa cái rương đồng kia ra. Tôi đưa mắt nhìn thử tình trạng của Đinh Tư Điềm trước, thấy cô vẫn đang ngủ say thiêm thiếm, bèn đến giúp lão Dương Bì vỗ lưng, vuốt vuốt ngực.
Hồi lâu sau, lão Dương Bì chợt “a” lên một tiếng, lồng ngực bị Tuyền béo đè cho tắc nghẹn cuối cùng cũng được khai thông. Ông già thở phì phì mấy hơi liền, ngạc nhiên nói với Tuyền béo: “Này... cậu định lấy cái mạng già của lão đấy à...”
Tôi thấy thần trí lão Dương Bì đã bình ổn hơn lúc nãy nhiều, có thể hỏi chuyện được rồi, nhưng gian mật thất này không phải chỗ có thể ở lâu, vậy là bèn cõng Đinh Tư Điềm, áp giải ông già bước qua cái thân xác bị cắt nát của cây thi sâm ra gian phòng bên ngoài, tìm một chỗ tương đối sạch sẽ an toàn ngồi xuống, đốt một cây nến lên, bấy giờ mới hỏi: “Vừa nãy ông suýt nữa thì hại chết cả bọn rồi đấy. Giờ thì hãy nói cho rõ ràng đi, chuyện người anh em Dương Nhị Đản của ông là như thế nào? Tại sao ông ấy lại ăn mặc giống như bọn thổ phỉ chuyên đào trộm mộ kia? Không phải ông kể là ông ấy bị bọn phỉ ép phải dẫn chúng vào động Bách Nhãn này hay sao? Ngay từ đầu cháu đã thấy không ổn rồi, bọn Hán gian Nê Hội đến viện nghiên cứu bí mật của bọn Nhật, lẽ nào lại đi tìm một người chăn dê chưa bao giờ vào động Bách Nhãn dẫn đường chứ? Ngay từ đầu ông đã lừa bọn cháu rồi đúng không!”
Lão Dương Bì bị tôi nói cho một tràng, chỉ biết cúi gằm mặt xuống, tôi không biết ông lựa chọn im lặng là vì hổ thẹn trong lòng hay vì nguyên nhân gì khác, nhưng không nói cho rõ ngọn ngành thì không được. Chuyện này mà chưa làm rõ thì đừng nghĩ đến những chuyện khác. Nhưng muốn moi được lời của ông già này thì cần có sách lược, tôi bèn bảo Tuyền béo chú ý phương pháp làm việc, cứ buông lão Dương Bì ra trước đã. Tuyền béo cũng bắt đầu lấy đại nghĩa ra khuyên bảo ông già, nói từ tình hình quốc tế đến tình hình trong nước, cùng với tính tất nhiên của cuộc Đại Cách mạng văn hóa của giai cấp vô sản, kế đó lại nói đến xu thế đi từ diệt vong này đến diệt vong khác của bè phái phản động, hy vọng lão Dương Bì chớ nên từ bỏ nhân dân. Đồng thời, Tuyền béo cũng bày tỏ thái độ của mình, cậu ta sẵn sàng hy sinh thân mình vì cách mạng, vì nhân dân, luôn hướng trái tim hồng về phía Mao chủ tịch, tuyệt đối không cho phép đám thổ phỉ Hán gian trà trộn vào đội ngũ bần hạ trung nông, kể cả đổ máu cũng không tiếc, thề quyết tử bảo vệ cuộc Đại Cách mạng Văn hóa do đích thân Mao chủ tịch phát động.
Nhưng lão Dương Bì vốn không có sự giác ngộ và tính tự giác cao đến thế, trong đống lý luận tràng giang đại hải ấy, có những từ ông cũng biết, cũng nói được, đấy là do tình thế thời bấy giờ như thế, nhưng bảo ông nói ý nghĩa cụ thể, giá trị nằm ở đâu thì chắc chắn là ông chịu. Vả lại, trong lòng ông đang đầy tâm sự, nghe thấy cũng như không nghe, mặt cúi gằm xuống không nói tiếng nào, chỉ không ngừng thở dài não nuột.
Tôi cũng đành thở dài một tiếng, xua tay với Tuyền béo, ra hiệu cho cậu ta đừng có thao thao bất tuyệt đọc thuộc lòng mấy bài đấy nữa, rồi nói với lão Dương Bì: “Thôi chúng ta đừng nhắc đến cương lĩnh cương liếc, đấu tranh giai cấp với không giai cấp gì nữa nhé, nói thật một câu, cháu và Tuyền béo ở Đại Hưng An Lĩnh đến thăm Đinh Tư Điềm, kết quả vừa gặp lúc mọi người bị mất bò, theo lý thì ở đây chẳng có việc gì của chúng cháu cả, nhưng chúng cháu lại chẳng nề hà do dự, lập tức liều mạng giúp ông và Đinh Tư Điềm đi tìm bò về ngay. Từ hôm qua đến hôm nay đã chảy bao nhiêu máu, đổ bao nhiêu mồ hôi thì ông cũng thấy cả rồi đấy, suýt chút nữa còn mất cả mạng nữa? Còn ông thì sao?”
Nói tới đây, tôi cố ý nhấn giọng xuống: “Còn ông thì sao? Ông là đồng chí mà chúng cháu tôn kính nhất, vậy mà đến giờ chúng cháu thậm chí còn không biết ông nói câu nào là thật, câu nào là giả nữa. Ông có thể nể tình bọn cháu suýt nữa đã toi mạng ở động Bách Nhãn này, nói cho rõ ràng mọi việc được không... nếu ông vẫn còn một chút lương tri, cháu đảm bảo, những chuyện xảy ra trước đây sẽ không nhắc đến nữa, chỉ cần không can thiệp đến âm mưu phá hoại hôm nay, chúng cháu nhất định sẽ giữ lời trong lòng, quyết không lộ ra. Nhưng vì yếu tố hoàn cảnh của chúng ta lúc này, và vì sự an toàn của bản thân bọn cháu nữa, ông nhất định phải cho chúng cháu một lời giải thích hợp lý đi.”
Tuy tôi nói những lời này một cách có tính toán, muốn tấn công bằng tâm lý, nhưng đây thực sự cũng toàn là những lời phế phủ. Lão Dương Bì rõ ràng đã bị tôi đánh động, ông bảo tôi nhét đầy thuốc lá vào ống điếu, rít mạnh hai hơi, rồi vừa ho khục khặc, vừa câu được câu mất kể lại chuyện xưa.
Lão Dương Bì và người anh em Dương Nhị Đản từ nhỏ đã sống bằng nghề chăn dê, thường thường bữa đói bữa no, cuộc sống thật khổ không bút nào tả xiết. Năm hai anh em họ mười mấy tuổi, có lần Dương Nhị Đản đói quá không chịu nổi, lén ăn trộm thịt dê của chủ nhà. Tên địa chủ liền đánh cho Dương Nhị Đản một trận chết đi sống lại, hai anh em không chịu nổi trận đòn đau, trong lúc phản kháng đẩy tên địa chủ ngã lăn ra đất. Không ngờ tên địa chủ này cũng đáng tận số, huyệt Thái dương va ngay phải cái cối đá, liền lập tức đi đời nhà ma.
Giết người đền mạng, thiếu nợ trả tiền, từ ngàn xưa đây đã là chuyện thiên kinh địa nghĩa, gây án mạng thì phải đền mạng cho người ta, nếu không muốn chết thì phải làm sao đây? Chỉ còn cách mai danh ẩn tích chạy trốn tha hương mà thôi. Hai anh em lão Dương Bì không dám ở lại quê cũ nữa, phải chạy trốn gấp trong đêm, cậy mình sức trẻ, vả lại cũng thông thuộc những kênh rạch, khe núi trong vùng, nên đã thoát khỏi sự truy bắt của quan phủ, một mạch chạy đến vùng phía Nam Hoàng Hà. Hai anh em ông già không có nghề gì mưu sinh, bèn đi làm công, khiêng hòm vác xiểng cho một ban kịch rối bóng người Thiểm Tây, thoắt cái đã hơn chục năm trôi đi.
Thời bấy giờ thế đạo cực kỳ hỗn loạn, có một hôm, lão Dương Bì và Dương Nhị Đản theo đoàn kịch về quê biểu diễn, không may gặp phải bọn thổ phỉ. Bà chủ đoàn chỉ hơi có ý bất tuân, liền bị chúng lột sạch quần áo rồi vót làm “côn thịt người”, những người khác cũng hầu hết đều bỏ chạy tán loạn. Lão Dương Bì dẫn theo Dương Nhị Đản chạy vào một hang núi gần đấy, không ngờ bên trong hang núi đó lại có một ngôi mộ cổ, bên trong địa cung có đủ đình đài lầu các cứ như hoa viên của hoàng đế. Đương nhiên, lão Dương Bì chẳng biết nhà của hoàng đế trông như thế nào, nhưng đoán chừng cũng chỉ như trong cái hang động đó thôi, thật đúng là chẳng khác nào lạc bước cõi tiên. Hai anh em lão Dương Bì đi bừa vào địa cung, vô tình cứu được một vị đạo sĩ. Đạo sĩ ấy còn rất trẻ, so ra còn trẻ hơn cả Dương Nhị Đản, nhưng nhìn cung cách nói năng cử chỉ thì tuyệt không phải hạng tầm thường.
Điều làm họ bất ngờ nhất là vị đạo sĩ này giết người như ngóe, còn hơn cả bọn thổ phỉ, nghe họ kể bà chủ đoàn kich bị bọn thổ phỉ giết, y liền bảo họ chờ trong sơn động giây lát, chỉ thoáng sau đã xách theo một dây đầu người trở lại. Hai anh em lão Dương Bì vừa thấy chùm dây đầu người đó, liền nhận ra chính là đầu của mấy tên phỉ đã chặn đường cướp giết đoàn kịch. Tuy rằng ác giả ác báo, nhưng lão Dương Bì là người yên phận, nhìn thấy một đống đầu người máu thịt bầy nhầy, trong lòng cũng không khỏi kinh khiếp. Nhưng nhìn lại đạo sĩ trẻ tuổi kia, thì dường như y không hề coi việc giết người ấy vào đâu cả.
Hơn nữa đạo nhân trẻ tuổi ấy cũng rất trượng nghĩa, nhận ơn một giọt, trả ơn suối nguồn, chẳng những báo thù cho hai anh em lão Dương Bì, lại còn cho họ một khoản tiền. Lão Dương Bì sợ đạo nhân ấy cũng là hạng cướp đường giết người như ngóe, nào dám nhận tiền bạc của y. Đạo nhân trẻ tuổi đó thấy họ không nhận tiền, bèn dẫn đến nhà một người giàu có họ Trần, bảo họ Trần ấy từ nay chiếu cố cho hai anh em, sau đó lại vội vội vàng vàng đi luôn, trước lúc đi cũng không để lại tên họ gì.
Người họ Trần đó tuổi tác cũng không lớn lắm, tuy rằng hết sức cung kính với đạo nhân trẻ tuổi kia, song bản thân cũng là nhân vật lắm thủ đoạn hơn người, dưới tay có nhiều huynh đệ, trong nhà bày đầy cổ vật, lại thường xuyên làm những chuyện kỳ bí. Người này trời sinh có tài ăn nói, giỏi biện luận, hễ mở miệng là lời tuôn như suối. Mới ban đầu người họ Trần này sắp cho lão Dương Bì và Dương Nhị Đản ở trong nhà mình, cũng không coi như người hầu kẻ hạ, chỉ bảo giúp làm một số việc vặt vãnh nhẹ nhàng, một ngày ba bữa cơm, có gì ngon đều cho ăn cùng, cuối tháng còn cho họ một ít tiền để muốn mua gì thì mua nữa.
Lão Dương Bì trời sinh số khổ, đã bao giờ được đãi ngộ như vậy đâu, liền cảm thấy rất ngại ngùng, chỉ muốn giúp người ta làm những việc nặng nhọc hơn, nhưng mấy việc ấy đều có người hầu làm cả rồi, muốn làm cũng không có phần. Sau này ở lâu, họ rốt cuộc cũng biết người họ Trần này thì ra là một tên trộm chuyên đào cổ mộ, có điều y chẳng những không thấy áy náy xấu hổ mà còn rất tự hào, bảo rằng có gì to tát đâu, muốn thành đại nghĩa thì không thể chấp nhặt tiểu tiết, đây gọi là chia tài tụ nghĩa, cùng chung mưu lớn, đừng nói là đào mấy cái mồ hoang mả vắng, đến mộ của hoàng đế lão tử cũng chẳng phải là y chưa từng đào đâu.
Về sau lão Dương Bì và Dương Nhị Đản cũng nhập bọn, thoắt cái đã được mấy năm, học được rất nhiều ngón nghề đổ đấu từ người họ Trần này. Đám người này có thể nhìn sắc cỏ, quan sát màu đất, biết thuật “Thiên can khuyên huyệt” và “Xuyên lĩnh thủ mộ”, thường xuyên giả mạo làm thầy phong thủy đi khắp nơi thăm dò tin tức, cơ sở ngầm phân bố rất rộng, một khi hành động là có mấy chục đến cả trăm người tham gia. Băng đảng này không chỉ đổ đấu, dọc đường nếu gặp phú hào bất nhân thì cũng tiện tay làm một mẻ, kể ra cũng hơi giống với hảo hán Lương Sơn. Nhưng có một lần, tay thủ lĩnh họ Trần ấy dẫn theo một nhóm anh em xuống phía Nam làm ăn lớn, vì đường sá xa xôi nên người đi theo không nhiều lắm, đồng thời, rất có thể bọn họ đã gặp phải chuyện gì ở phương Nam, nên không một ai trở về, mất hoàn toàn tung tích.
Sau khi người cầm đầu mất tích, cây đổ thì ổ cáo cũng tan, trong bọn cũng có người đi miền Nam tìm tung tích thủ lĩnh, còn những người khác đều ai đi đường nấy. Lão Dương Bì cũng định xuống miền Nam, nhưng Dương Nhị Đản lại đã thương lượng xong xuôi với một nhóm phỉ ở miền Đông Bắc, muốn hai người cùng sang mấy tỉnh phía Đông làm ăn. Lão Dương Bì đã ra sức khuyên giải Dương Nhị Đản đừng đi Đông Bắc, cả vùng Mãn Châu ấy đều đã bị quân Nhật chiếm đóng, đi đến đấy làm gì có chốn nào mà dung thân? Nhưng Dương Nhị Đản sống chết gì cũng đòi đi, lão Dương Bì gặng hỏi mãi, mới biết thì ra có một nhóm phỉ chuyên đào trộm mộ hoạt động ở vùng Đại Hưng An Lĩnh tên là Nê Hội, đám người này là một bọn trộm lang thang, không thuộc dòng nào, chỉ cậy gan lớn và mấy trò tà thuật, thứ gì cũng dám đào hết, nhưng lại căn bản không biết cách tìm những mộ cổ không có đánh dấu rõ ràng. Dương Nhị Đản có tâm cơ hơn lão Dương Bì nhiều, bản lĩnh học được cũng tương đối, sau khi được người dẫn tiến, liền động tà niệm muốn gia nhập vào cái hội đó. Lúc bấy giờ, bọn Nê Hội đang rất cần người như Dương Nhị Đản, đàn bà cũng được, tiền cũng xong, muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, mà quan trọng nhất là, bọn chúng còn cho Dương Nhị Đản ngồi lên ghế cao, hết sức a dua nịnh nọt. Dương Nhị Đản từ bé đến lớn đều phải nhìn sắc mặt người khác, bao nhiêu năm nay phải sống cúi đầu, có lẽ cũng bởi sống ở đáy xã hội lâu quá rồi, nên bản thân y thậm chí cũng không đủ quyết đoán để một mình xông pha thiên hạ, bấy giờ được bọn Nê Hội kia tâng bốc một hồi, hồn phách lửng lơ, thấy có chuyện tốt như vậy, bèn quyết định đi sang vùng Đông Bắc làm “Đại Quỹ” của bọn đào mộ đó.

Chương 43: Đường không lối về

Dương Nhị Đản thấy lợi đen lòng, quyết tâm vào vùng núi sâu miền Đông Bắc làm lão đại của bọn phỉ trộm mộ Nê Hội. Lão Dương Bì chỉ có một người anh em này, còn coi trọng hơn cả tính mạng mình, thấy Dương Nhị Đản đã quyết chí ra đi, cũng chẳng có cách nào khác, đành theo y đến ba tỉnh Đông Bắc, làm “Đổng Cục” của Nê Hội, chức vụ này đại khái tương đương với cố vấn kỹ thuật thời bây giờ.
Tuy lão Dương Bì và Dương Nhị Đản là hai anh em ruột, nhưng tính cách lại khác hẳn nhau. Dương Nhị Đản có dã tâm hơn, còn lão Dương Bì thì nhát gan vô cùng, chỉ muốn sống an phận thủ thường cho qua ngày. Chẳng những vậy, lão Dương Bì còn kính quỷ sợ thần, tư tưởng mê tín thâm căn cố đế, đúng như câu nói “sợ ma không trộm mộ, trộm mộ không sợ ma”, với tích cách ấy của ông, thực sự không thích hợp để làm những nghề “đổ đấu” và “hung lũ” một chút nào.
“Hung lũ” chính là chỉ một thủ đoạn che mắt người đời của bọn trộm mộ. Trộm mộ vơ vét được các loại vật phẩm bồi táng có giá trị trong mồ hoang, mộ cổ, cần phải tiến hành cả giao dịch. Trong xã hội thời xưa, phương pháp thông tin khá lạc hâu, nhịp sống chậm chạp, để tiện liên lạc với người mua, khuếch trương kinh doanh, trộm mộ phải sử dụng chiêu “mượn danh” của hắc đạo. Phàm là trộm mộ làm ăn kinh doanh, không ai đi mở tiệm đồ cổ cả, mà chỉ chuyên kinh doanh các loại đồ dùng trong ma chay, chẳng hạn như đồ vàng mã hương đèn để đốt cho người chết, nào là người giấy, ngựa giấy, trâu bò giấy, nhà giấy, kiệu giấy... toàn là những thứ dùng ở cõi âm.
Về tên gọi thì tiệm của bọn trộm mộ mở ra chỉ khác tiệm giấy tiền vàng mã bình thường một chữ, tiệm bình thường gọi là “hung tứ”, nhưng thoáng nhìn bề ngoài cũng thấy hai loại cửa tiệm này khác nhau. Hồi trước, mở tiệm làm ăn đều phải có biển hiệu treo trước cửa, để cho người ta biết trong tiệm bán thứ gì. Cửa tiệm vàng mã của trộm mộ, nhất nhất đều treo lên một xâu tiền giấy màu trắng, tổng cộng có bảy mươi hai lá, là số địa sát, trên mặt tờ tiền đều in những hoa văn hung sát. Những người làm ăn bình thường, cho dù là có bán hàng giấy tiền vàng mã đốt cho người chết chăng nữa, cũng tuyệt không bao giờ treo xâu tiền không cát lợi ấy lên. Phàm tiệm nào có treo bảy mươi hai lá tiền giấy, thì người trong nghề liền biết ngay đấy là “hung lũ”, dù không phải do trộm mộ mở ra, thì ít nhất cũng là nơi chuyên đẩy hàng trộm được trong các mộ cổ.
Những người làm nghề “đổ đấu”, mỗi lần hành động đều là vét sạch huyệt mộ nhà người ta, tục gọi là “giặc đến như dao cạo”, phàm trong mộ có thứ gì cũng đều quơ hết, đến cả thứ bít ở lỗ đít người chết cũng không chịu bỏ qua. Những món minh khí quý giá thì đều rất dễ bán đi, nhưng mấy món lặt vặt hoặc có một số đồ quý nhưng nhất thời chưa tìm được người mua thích hợp, đều nhất loạt quy về “hung lũ”. Cứ cách độ vài ngày lại có đám thương nhân chuyên mua đi bán lại đến thu mua, lúc đàm phán tự nhiên cũng toàn dùng ám ngữ của hắc đạo, đại đa số những người không hiểu nghề này đều không thể hiểu nổi.
Tên trùm sỏ họ Trần ấy có mở hai cửa tiệm “hung lũ” ở Thiểm Tây, ngấm ngầm buôn bán đồ minh khí, lão Dương Bì từng làm quản lý cho y, kết quả là suýt chút nữa bị dọa cho thọt cả “bi” lên cổ. Đồ tùy táng bên trong mộ cổ tích lũy âm khí đã lâu, mùi hôi thối của xác chết ám vào rất khó tẩy, hơn nữa, một số món đặc thù lại còn thường xuyên gây những việc quái dị không rõ nguyên nhân, lão Dương Bì vốn cũng không phải “hạt giống” làm cái nghề này, về sau còn đi theo đồng bọn đào mồ quật mả người ta, lại càng gặp phải nhiều chuyện đáng sợ hơn, toàn là những chuyện mà thần kinh ông không thể chịu đựng nối.
Sau khi họ Trần mất tích, lão Dương Bì bèn định sử dụng tích lũy trong mấy năm trộm mộ về quê sống những ngày an phận thủ thường, treo “hắc hổ phù”, triệt để rửa tay gác kiếm, tránh xa cái nghề suốt ngày ôm đống minh khí tùy táng của người chết ra. Nhưng sự đời đâu có theo ý mình, vì Dương Nhị Đản, ông lão không thể không theo y đến vùng Đông Bắc làm “Đổng Cục” của đám phỉ Nê Hội ấy. Bọn phỉ Nê Hội lôi kéo anh em lão Dương Bì, để cho Dương Nhị Đản lên làm lão đại cũng chẳng phải thực lòng mà chẳng qua chỉ muốn lợi dụng hai người. Kẻ thực sự có tiếng nói trong Nê Hội, là quân sư “Thông Toán tiên sinh”, người này trước đây từng làm thầy giáo, lại có thời đi đào đất đào bùn dưới sông, cũng từng lang bạt giang hồ làm thầy bói xem tướng. Kẻ này hành tẩu nhiều năm, cũng coi như là hạng kiến thức rộng rãi, nhưng con người thì cực kỳ âm hiểm xảo trá, lòng dạ ác độc, chỉ cần có lợi lộc thì chẳng có gì mà y không dám làm cả. Bọn thổ phỉ dưới tay y chẳng đơn thuần chỉ có trộm mộ, những việc táng tận thiên lương khác chúng cũng làm chẳng ít, hoàn toàn xứng với bốn chữ “tội ác ngập đầu”.
Thông Toán tiên sinh và Dương Nhị Đản dẫn theo bọn thổ phỉ Nê Hội đi khắp thâm sơn cùng cốc đào mộ cổ, đục khoét lỗ chỗ tất cả những nơi nào có thể có mộ cổ ở vùng núi Đông Bắc, sau đó đem minh khí đào được đổi lấy tiền bạc, thuốc phiện, thả sức ăn chơi phè phỡn. Chỉ cần người mua nào trả giá cao, thì dù có bán cho thương nhân Nhật Bản, gánh lấy danh Hán gian chúng cũng chẳng hề để ý. Trong hội nếu có kẻ nào mang lòng phản đối, liền lập tức trúng phải độc thủ của Thông Toán tiên sinh, tính mạng chẳng còn.
Lão Dương Bì về sau rồi cũng nhận ra, cứ tiếp tục lăn lộn với đám Nê Hội này, tuyệt đối sẽ chẳng có kết cục tốt, bèn lại hết lời khuyên Dương Nhị Đản quay đầu, nhưng Dương Nhị Đản đã bị ma quỷ mê hoặc tâm trí, hoàn toàn chẳng hề để tâm, coi như đã quyết đi đến cùng trên con đường hắc đạo. Làm thổ phỉ ăn ngon, uống cay, giết đàn ông, hiếp đàn bà, hút thuốc phiện, tiêu tiền to, ông trời là nhất thì ta là nhì, thử hỏi làm một lương dân khiếp nhược, an phận thủ thường sao có thể sánh bằng? Đối với y con người sống ở đời chỉ có một lần, phải sống như vậy thì mới đáng.
Mùa đông năm đó, có một người Nhật đến tìm Thông Toán tiên sinh, hai người đóng cửa bí mật thương nghị một kế hoạch cực kỳ trọng đại. Thì ra, tay Thông Toán tiên sinh này trong khi buôn bán cổ vật đã bắt quan hệ với Hắc Long hội của Nhật Bản, được bọn chúng rất tín nhiệm. Bấy giờ, quân Quan Đông đang tìm kiếm một vật bị thất lạc trong dân gian Trung Quốc, theo tin tình báo của chúng, rất có khả năng vật ấy được chôn trong mộ cổ hoặc tháp bia của chùa chiền gì đó.
Lão Dương Bì vô tình nghe được chuyện cơ mật này, thì ra ở vùng Đại Hưng An Lĩnh thời xưa, có một bộ phận không nhỏ lén lút thờ cúng hoàng bì tử, cho rằng Hoàng đại tiên chưởng quản linh hồn của người chết, là một vị Câu hồn sứ giả. Câu hồn sứ giả chuyên đi lấy vong hồn người chết, phàm người nào bị bắt hồn, đều bị đưa đến Quỷ nha môn, cũng tức là Âm tào Địa phủ. Người dân bình thường đa phần đều có nghe qua truyền thuyết về Quỷ nha môn, đó là một nơi vào rồi là không thể quay lại, nhưng cũng chỉ biết Quỷ nha môn ở sâu trong núi chứ cụ thể ở đâu thì không ai hay, vì những người vào đó rồi đều không thể sống trở về.
Không chỉ có người chết, bình thường ngay cả người sống cũng bị bắt hồn đi, một người đang sống khỏe mạnh, đột nhiên mất hết thần trí, trở nên ngây ngốc điên dại, mọi người liền cho rằng kẻ đó đã bị hoàng bì tử do Âm tào Địa phủ phái lên bắt hồn rồi. Người nào bị Hoàng đại tiên câu hồn, cho dù không chết ngay tại chỗ thì cũng coi như một cái xác sống, tuy vẫn còn thở đấy, nhưng hồn phách đã mất, chỉ còn lại cái vỏ thịt, chẳng khác nào cái xác biết đi.
Từ xưa đến nay, Trung Quốc có rất nhiều dân tộc thiểu số, các loại phong tục tập quán dung nhập diễn hóa, sau này cũng chẳng ai có thể tìm ra tập tục coi hoàng bì tử là Câu hồn sứ giả của Âm tào Địa phủ này khởi nguồn từ đâu và từ bao giờ nữa.
Cũng có thể phong tục này, có liên quan đến một vài con hoàng bì tử có đạo hành tương đối cao thâm, hiểu được ý người, lại biết thuật mê hồn. Ngoài ra, trên thực tế, đích thực cũng có một số con hoàng bì tử hết sức đặc thù, chẳng hạn nếu hoàng bì tử ăn phải một loại chuột đen đặc biệt, chất bài tiết trong cơ thể sẽ biến đổi, người sống mà ngửi phải rắm thối của chúng thì sẽ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, thần trí không còn tỉnh táo nữa, bảo khóc là khóc, bảo cười là cười, như bị ma nhập vậy. Những người nhà quê mê tín không hiểu, trong quá trình tin đồn lan đi khắp chốn, thông tin ban đầu lại càng được thần cách hóa lên.
Những truyền thuyết về hoàng bì tử và Quỷ nha môn đến thời Tống dần dần mai một, người biết đến càng lúc càng ít, có điều trong các câu chuyện dân gian vẫn còn giữ lại khá nhiều nội dung liên quan. Tương truyền rằng, Hoàng đại tiên có một cái rương đồng, bên trong chứa đựng bí mật câu dẫn hồn phách của hoàng bì tử, có rất nhiều bích họa và tượng đất trong các miếu thờ hoàng bì tử trùng khớp với truyền thuyết này, nhưng vì năm tháng đã lâu, không ai biết được cái rương đồng của Hoàng đại tiên lưu lạc nơi nào mất rồi.
Rồi quân Nhật phát hiện ra một cái hang chứa xác người bộ tộc Tiên Ty ở cuối mạch núi Đại Hưng An Lĩnh, cũng tức là khu vực động Bách Nhãn nằm ở vùng giáp ranh giữa thảo nguyên và hoang mạc. Trong hang động này ngoài vô số xác chết ra, còn có rất nhiều hiện tượng kỳ lạ thời đó không thể nào giải thích được. Chẳng hạn, khu vực động Bách Nhãn này có hai lối ra vào ở hai đầu hẻm núi, trong đám đồi núi trập trùng ở giữa có sông ngầm và “Quỷ môn quan”, tất cả đều phù hợp với truyền thuyết về Quỷ nha môn, rất có thể cánh cửa dẫn đến địa ngục này là một bí mật đã bị cổ nhân chôn giấu suốt nghìn năm nay. Thêm nữa, lối vào phía trước hẻm núi nối liền với thảo nguyên, thi thoảng lại có “phần phong” đáng sợ xuất hiện cuốn lấy người và động vật. “Phần phong” chính là loại gió ma quỷ thổi từ chốn A Tỳ địa ngục được nhắc đến trong kinh Phật; cửa hẻm núi phía sau thì thông đến hoang mạc Mông Cổ, không dấu chân người. Đất đá trong hang chứa xác ở động Bách Nhãn có rất nhiều vật chất đặc biệt, có thể giữ gìn thi thể trải bao năm tháng cũng không thối rữa.
Sau khi điều tra tìm hiểu, người ta mới biết nơi này thì ra là mộ huyệt của các vu sư bộ tộc Tiên Ty. Trong truyền thuyết của họ, động Bách Nhãn được coi là nơi về của người chết, xếp ngang hàng với động Cát Tiên là nơi khởi nguồn của người Tiên Ty, gọi là hai đại thánh địa, được thờ cúng lễ bái quanh năm, tế người sống thì chôn ngọc, tế người chết thì chôn đá. Về sau, bị thời gian bào mòn, truyền thuyết và vị trí chính xác của hang động này đã mất đi, và được thay thế bằng những câu chuyện dân gian về Quỷ nha môn. Trong hang động có rất nhiều bích họa và tượng đá, nội dung diễn tả vu sư nắm trong tay một cái rương đồng có thể khống chế linh hồn người chết, có thể lợi dụng nó gọi hồn người chết từ chốn Âm tào về để bói toán, bốc quẻ, nhưng bên trong rốt cuộc có bí mật gì thì lại không tìm được ghi chép nào cả.
Người Nhật Bản rất hứng thú với truyền thuyết này, cho rằng “phần phong” có liên quan đến lối vào địa ngục ở đáy động chứa xác, là thứ gió chết chóc lùa từ chốn u minh lên dương gian, mà cái rương đồng kia rất có thể là mấu chốt để nắm giữ và điều khiển nó, nên muốn tiến hành nghiên cứu bí mật. Muốn bắt đầu nghiên cứu, thì trước tiên phải tìm được cái rương ấy, vì vậy mới mua chuộc đám phỉ Nê Hội, nhờ chúng tìm kiếm trong dân gian cái rương chiêu hồn của Hoàng đại tiên. Hai tên Hán gian Thông Toán tiên sinh và Dương Nhị Đản thấy tiền sáng mắt, liền bắt đầu lùng sục khắp nơi, và đã dần dần có chút đầu mối.
Lão Dương Bì biết được chuyện này xong lại cật lực khuyên giải Dương Nhị Đản, đào mồ quật mả người ta là được rồi, giờ lại còn muốn móc xuống tận Âm tào Địa phủ nữa, thế không phải là tìm chết à? Khuyên mãi không được, cuối cùng anh em cũng trở mặt thành thù, Dương Nhị Đản cảm thấy lão Dương Bì lúc nào cũng gây trở ngại, để lại bên cạnh sớm muộn gì cũng là mối họa, bèn giả bộ nghe lời huynh trưởng, thề sau này sẽ rửa tay gác kiếm không làm nữa, rồi lừa lão Dương Bì đến một vách núi, từ phía sau đá cho ông một cú lăn nhào xuống.
Lão Dương Bì cũng là người mạng lớn, rơi xuống vách núi liền mắc vào cành tùng mọc chìa ra nên không chết, chỉ bị gãy mất mấy dẻ xương sườn, và suýt chút nữa bị cành cây chọc thủng bụng, may mắn được thợ săn cứu về, dưỡng thương mất hơn nửa năm mới bình phục. Ông vẫn lo lắng cho Dương Nhị Đản, chẳng những không hận y, mà còn tự oán trách mình không thể khuyên bảo y quay đầu, lại một lần nữa vào trong núi tìm em trai. Bấy giờ mới biết, đám Nê Hội rốt cuộc cũng đào được cái rương chiêu hồn ấy trong một nơi gọi là Mộ Hoàng Bì Tử, vì vụ này mà thiệt mất mấy mạng người, cả tay Thông Toán tiên sinh kia cũng bị Hoàng đại tiên ép phải treo cổ tự sát. Dương Nhị Đản may mắn thoát chết, lại còn mang được cái rương ra ngoài, mang theo mấy thủ hạ và tên thương nhân Nhật Bản đã liên lạc với bọn chúng, tập hợp thanh một nhóm tiến vào động Bách Nhãn ở sâu bên trong thảo nguyên.
Lão Dương Bì liền bám đuôi theo sau, định kéo Dương Nhị Đản về, nhưng bám theo đến khe núi phía trước động Bách Nhãn, liền bị làn khói đen trong lò thiêu xác người chết kia dọa cho khiếp vía, thêm nữa, lúc bây giờ mây khói biến ảo, làm lão Dương Bì tưởng đó chính là con yêu long mà dân du mục trên thảo nguyên vẫn hay nhắc đến đang tác quái. Ông già cực kỳ tin vào những thứ đó, sau một hồi do dự, cuối cùng cũng không dám lại gần động Bách Nhãn. Kỳ thực, cho dù ông có bám theo vào trong, chắc chắn sẽ bị quân Quan Đông bắt giữ, không bị làm vật thí nghiệm sống thì cũng bị giết người diệt khẩu. Lão Dương Bì quanh quẩn bên ngoài động Bách Nhãn gần nửa tháng trời mà không thấy bên trong có người nào sống trở ra, trong lòng cũng hiểu nhất định đã xảy ra chuyện gì rồi. Thử hỏi, động Bách Nhãn là nơi nào kia chứ? Đó là Quỷ nha môn thông xuống tận cõi Âm tào cơ mà, đặt chân lên con đường không lối về ấy, chẳng ai có thể sống sót được.
Lão Dương Bì tính tình vốn nhu nhược, không đủ dũng khí vào động Bách Nhãn mang thi thể Dương Nhị Đản về chôn cất, cũng không dám tưởng tượng ra cảm giác phải đối mặt với xác chết người anh em ruột thịt của mình thì sẽ như thế nào. Sau bận đó, ông lang thang trên thảo nguyên, giúp dân du mục làm một số công việc lặt vặt mưu sinh. Sau giải phóng, vì cuộc sống nghèo khó bần hàn, được chính phủ giúp đỡ cho làm hộ chăn nuôi, cả ngày cứ trầm mặc ít lời, bao nhiêu chuyện quá khứ chôn chặt trong lòng, thi thoảng mới mượn tiếng đàn và điệu Tần Xoang để phát tiết bớt nỗi khổ giày xéo tâm can.
Tôi và Tuyền béo nghe đến đây, cũng đã hiểu ra quá nửa, những chuyện sau này thì gần như chúng tôi đều cùng lão Dương Bì trải qua cả rồi. Vì đuổi theo đàn bò, lão Dương Bì và chúng tôi vô tình lạc vào khu vực động Bách Nhãn này, bị hoàn cảnh bức bách, ông không dám nói thực chuyện trước đây. Đến lúc trông thấy xác Dương Nhị Đản ở ngay bên cạnh, lão Dương Bì mới không sao kiềm chế được tình cảm, quá khứ dồn nén trong lòng hơn hai chục năm trời đột nhiên bùng lên, khiến ông mất hết thần trí, định mở cái rương chiêu hồn đó ra gọi âm hồn Dương Nhị Đản từ chốn Âm ty về đây mà hỏi cho rõ ràng, tại sao không chịu nghe lời khuyên của huynh trưởng, để rồi cuối cùng gặp phải kết cục chịu khổ sở như thế, giờ đã thấy hối hận hay chưa?
Lão Dương Bì ngập ngừng kể hết sự tình cho tôi và Tuyền béo. Tuyền béo nghe xong, liền tỏ vẻ hết sức đồng tình với ông lão: “Quá khứ của ông tuy khiến thanh niên trí thức chúng cháu cảm thấy hết sức đồng tình và thương cảm, nhưng người anh em Dương Nhị Đản của ông cam tâm bán mạng cho giặc, vậy là đã từ bỏ nhân dân, về đường lối là không thể thỏa hiệp được rồi, ông phải hạ quyết tâm vạch rõ ranh giới với hắn ta đi thôi.”
Song tôi không dễ bị người ta gạt như Tuyền béo, từ đầu vẫn luôn chú ý lắng nghe lời kể của lão Dương Bì, thấy ông già cuối cùng cũng đã kể xong, trong lòng thoáng động, ý nghĩ chợt lóe lên. Trong khoảnh khắc, tôi giật luôn sợi dây lưng da trói nghiến hai tay lão Dương Bì ra đằng sau: “Dương Nhị Đản, đến nước này rồi mà ông vẫn không chịu nói thật hả?”


Chương 44: Mộng

Tôi ấn vai lão Dương Bì xuống, quát lên: “Ông vốn không phải là lão Dương Bì, ông là Dương Nhị Đản.” Lời này vừa thốt ra, lão Dương Bì và Tuyền béo đều cả kinh thất sắc. Tuyền béo nghe không rõ, đớ người ra thắc mắc: “Ông già này là Dương Nhị Đản, thế người chết kia là ai? Là lão Dương Bì à?”
Tôi làm ra vẻ căm phẫn sục sôi, nói: “Kẻ tự nhận mình là lão Dương Bì này chắc chắn là kẻ thù giai cấp của chúng ta giả mạo đấy. Cậu thử nghĩ xem, năm đó lão Dương Bì bị Dương Nhị Đản mưu hại, rơi từ trên vách núi xuống, móc vào cành cây, suýt chút nữa thì bị cành cây đâm lủng bụng, vậy tại sao lúc ở bên hồ, ông ta ăn bao nhiêu cá đen căng phình cả bụng lên, chúng ta cởi hộ áo ra cho ông ta dễ thở, lại không thấy có vết sẹo nào từ thời đó? Còn nữa, lẽ nào cậu không phát hiện ra bên trong thắt lưng của ông ta, cũng buộc một sợi dây đỏ để kỵ tà hay sao? Đây chính là bằng cớ chứng tỏ người này vẫn còn mưu toan ngóc đầu dậy chứ còn gì nữa! Chắc là người này đã một lòng muốn làm thổ phỉ suốt đời rồi, hai con hoàng bì tử kia, tám chín phần mười cũng là của ông ta nuôi, bằng không sao chúng nó lại ở trên người ông ta chứ.”
Tôi cưỡng từ đoạt lý, cố tình bịa bừa ra mấy cái cớ, có điều những lý do này đã đủ để thuyết phục Tuyền béo rồi. Cậu này được cái sức trâu, nhưng phàm chuyện gì cũng chỉ có thể nghĩ từ một góc độ, vả lại trên cổ cậu ta còn bị lão Dương Bì cắn mất một miếng thịt, đến giờ vẫn còn đau đến nỗi cứ hít hà suốt không thôi, trong lòng cũng không khỏi có chút khó chịu với ông già, vì vậy cậu ta lập tức tin ngay mấy chứng cứ tôi vừa đưa ra, giận dữ gầm lên: “Nhất à, may là cậu có mắt lửa ngươi vàng, một phát nhìn ra được ngay âm mưu ngụy kế của lão phản động này. Tôi cũng cảm thấy không được ổn cho lắm, rõ ràng là đúng như cậu nói rồi, vậy chúng ra có nên lập tức mở đại hội đấu tranh, trừng trị cái lão này hay không?”
Kỳ thực, tôi đương nhiên biết lão Dương Bì không thể nào là Dương Nhị Đản được, có điều, hiện giờ tình thế ép buộc, không thể nào không vu oan giá họa cho ông già ấy. Chủ yếu là bởi tôi nghĩ đến mấy nhân tố sau: Thứ nhất, chúng tôi phải trải bao khó khăn khổ sở mới cầm cự được tới giờ, mình mẩy đều là thương tích, không nặng thì nhẹ, rồi vết thương cứ vỡ ra hết lần này đến lần khác, người nào người nấy đều đã mắt hoa óc váng, trong đầu như thể có vô số con kiến nhỏ bò qua bò lại cắn xé, trước mắt tối sầm đi, thực sự là đã sắp thành ngọn đèn cạn dầu tới nơi, bất cứ lúc nào cũng có thể ngã lăn ra hôn mê bất tỉnh. Vả lại, đường đi lối lại bên trong tầng hầm này đan xen chằng chịt, địa hình phức tạp cực kỳ, nếu không nghỉ ngơi một lúc thì không có sức đâu mà quay trở ra được.
Thứ hai là vì lão Dương Bì vừa nãy trông thấy thi thể Dương Nhị Đản, sém chút nữa đã mở cái rương đồng của Hoàng đại tiên ra để chiêu hồn cho em trai. Tình cảm của ông già này với tên Dương Nhị Đản táng tận thiên lương ấy rất sâu sắc, cơ hồ đã đến mức chấp mê bất ngộ, tư tưởng tình cảm như vậy rất dễ xoay chuyển, chúng tôi chỉ cần sơ sẩy một chút, hoặc không thể kiên trì được mà ngủ thiếp đi, có trời mới biết lão Dương Bì sẽ gây ra hành động gì lỗ mãng. Thế nên, vì sự an toàn của tất cả mọi người, tốt nhất là tạm thời trói nghiến lão Dương Bì lại, đợi khi cả bọn an toàn rút ra được bên ngoài, rồi xin lỗi ông cũng không muộn. Tôi đây sẽ không vì tình cảm giai cấp mà lơ là cảnh giác, để rồi phải trả giá bằng tính mạng của Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đâu, huống hồ cách nghĩ này của tôi tuy cũng có điểm bất ổn, nhưng vẫn có thể xem như là kế quyền nghi. Tuy rằng cũng hơi bất công với lão Dương Bì, nhưng trên thực tế cũng có thể xem như là đang bảo vệ ông lão, tránh để ông làm lại chuyện ngu ngốc liên lụy đến tất cả mọi người ở đây.
Có điều, tôi lo Đinh Tư Điềm tỉnh lại sẽ trách móc, nên cần phải tìm cho mình một lý do hợp lý, không hợp lý thì cũng phải cưỡng từ đoạt lý, vậy nên mới quyết định không nói rõ ý đồ thực sự của mình cho Tuyền béo, lừa gạt tình cảm giai cấp thuần phác mộc mạc của cậu ta. Nghe tôi xúi bẩy đổ dầu vào lửa, Tuyền béo chủ trương lập tức mở đại hội phê đấu, vạch trần tố cáo, triệt để phê phán tội phản động của lão Dương Bì.
Tôi thấy cậu ta hăng quá, bèn nói: “Chuyện này quan trọng nhưng không thể vội vàng. Sau nhiều lần phát huy tinh thần chiến đấu liên tục, giờ chẳng còn hơi sức đâu mà mở đại hội phê đấu nữa rồi, chúng ta phải mau chóng tìm một nơi an toàn tạm thời nghỉ ngơi chỉnh đốn, sau đó trở về khu chăn nuôi, vạch trần tội trạng của lão ta trước mặt đông đảo quần chúng nhân dân mới được.”
Nói đoạn, tôi cũng không để lão Dương Bì giải thích gì, liền bảo Tuyền béo dùng thắt lưng da trói ngoặt hai tay ông già ra phía sau, rồi tôi lần mò trở lại trước cánh cửa sắt số “0” tìm cái bao bị thất lạc ở đấy. Cả bọn quay trở lại gian chứa đồ đầu tiên, khóa chặt cửa lại, ai nấy đều mệt mỏi ngả nghiêng, trông thảm hại nhếch nhác vô cùng. Bước được vào đến đây thì chân đã gần như không nhấc lên nổi nữa, càng khó cưỡng hơn là cơn buồn ngủ đang ập đến khiến hai mắt chúng tôi cứ díp lại. Tôi tìm mấy cái rương bằng phẳng kê sát lại với nhau, để Đinh Tư Điềm nằm lên đó. Tuy sắc xanh trên gương mặt cô vẫn chưa tan hết, nhưng hơi thở nặng nề đã bình ổn lại từ nãy, cơ hồ như đang chìm vào giấc ngủ sâu.
Tôi thấy yên tâm phần nào, lại đút cho lão Dương Bì ăn một chút. Ông già bị trói cứng cả tay chân, cũng không vùng vẫy gì, thái độ như thể tùy theo ý trời, muốn ra sao thì ra. Tôi bảo ông cứ nghỉ ngơi một chút đi, giờ trạng thái Đinh Tư Điềm đã ổn định rồi, đợi lấy lại sức lực và tinh thần, chúng ta sẽ lập tức trở về. Sau đó đến lượt tôi và Tuyền béo ăn, hai chúng tôi ăn ngấu ăn nghiến như hổ đói, nhưng rốt cuộc chỉ ăn được nửa chừng, trong miệng vẫn còn đồ ăn chưa nuốt hết đã lơ mơ thiếp đi.
Trong trạng thái cả thân thể và tinh thần đều phải chịu đựng quá giới hạn, tôi ngủ một giấc rất sâu. Trong mơ, dường như đã trở lại thời mười lăm mười sáu tuổi, tôi và một đám chiến hữu Hồng vệ binh trong các trường cùng quân khu đến thủ đô Bắc Kinh để tham gia đại hội, lại còn được Mao chủ tịch kiểm duyệt đội hình nữa. Lúc đó, phong trào đang lên rất cao, ga xe lửa Bắc Kinh như một biển người, các học sinh và thầy giáo trên khắp cả nước đều đổ về, tuy rằng mỗi người một giọng, mày tao răng rứa loạn cả lên, nhưng ai nấy đều hết sức hưng phấn. Chúng tôi đã bao giờ thấy nhiều người như thế đâu, cảm giác như có thêm hai con mắt nữa cũng không đủ nhìn, thật sự là choáng váng. Vừa mới xuống tàu, liền bị dòng người tràn lên cuốn đi, kết quả là tôi và Tuyền béo lạc khỏi đội hình. Hai thằng chúng tôi bàn bạc một hồi, quyết định là bị lạc cũng chẳng sao hết, một đốm lửa nhỏ cũng có thể thiêu cháy cả thảo nguyên, chi bằng cứ thế tham gia hành động cách mạng, trực tiếp đi thẳng đến Thiên An môn là được rồi. Nghe nói, Thiên An môn rất gần ga xe lửa, Mao chủ tịch đang đứng trên lầu cao tiếp kiến đại biểu Hồng vệ binh, cứ đến thẳng đấy gặp chủ tịch, báo cáo tình hình đấu tranh cho oách.
Chủ ý đã quyết, tôi và Tuyền béo liền xếp hàng một, túi đeo trên vai, thẳng chân tiến bước, hùng dũng oai vệ bước đều. Bấy giờ trẻ con, lại mới được lên thủ đô, cảm xúc dâng trào nên hai chúng tôi quên cả hỏi đường, cứ thấy chỗ nào đông vui náo nhiệt là đi chỗ đó. Tôi và Tuyền béo theo dòng người đi khắp nơi trên phố, càng đi người càng ít, đường Bắc Kinh tuy cắt nhau như bàn cờ, nhưng những con ngõ sâu thông đi khắp chốn thì thật khiến người ta đau đầu. Tôi thấy cứ tiếp tục đi thế này thì không ổn, trời sắp tối đến nơi rồi, mà hôm ấy lại âm u, không phân biệt được đâu là Đông Tây Nam Bắc nữa, phỏng chừng nguyện vọng gặp được Mao chủ tịch không thành rồi, cần phải nhanh chóng tìm quần chúng cách mạng hỏi thăm xem gần đây có trường học hay cơ quan nào chiêu đãi Hồng vệ binh hay không mới được.
Đang nghĩ thế, hai chúng tôi liền trông thấy một cô gái mặc quân trang cũ màu vàng, đeo thắt lưng vũ trang, cầm một tờ báo chữ lớn đi phía trước. Tôi nói với Tuyền béo, chúng ta lên hỏi bạn gái kia đi, vậy là hai thằng liền sải chân bước dài, chạy đuổi theo cô gái đó. Vì thời bấy giờ, mỗi khi mở miệng nói chuyện đều phải đọc một câu trong “Ngữ lục” của Mao chủ tịch trước, nên tôi vừa bước phía sau cô vừa cất tiếng: “Hỏi mặt đất mênh mang, ai đang chìm nổi? Bạn ơi, cho mình hỏi, bọn mình từ phương Nam đến, muốn hỏi thăm trên mặt đất mênh mang, nơi đâu là...”
Giấc mơ ấy của tôi, thực tế chính là tình cảnh lúc tôi gặp Đinh Tư Điềm lần đầu tiên, trong mơ cũng lờ mờ cảm thấy cô gái đó chính là Đinh Tư Điềm, đồng thời cũng biết, cô sẽ nhanh chóng quay người lại, mỉm cười nói với chúng tôi, trong lòng chợt dâng lên một chút cảm giác vừa chua xót lại vừa ấm áp.
Đinh Tư Điềm trong giấc mơ đột nhiên quay đầu lại nhưng gương mặt ấy lạnh lẽo cực cùng, hoàn toàn không phải Đinh Tư Điềm mà chúng tôi quen thuộc. Tuy cô đang mặc quân trang màu vàng, trên tay có phù hiệu của Hồng vệ binh, nhưng trên mặt lại đeo một tấm mặt nạ kim loại không hề có chút xúc cảm nào, chỗ hai hốc mắt là hai cái hố sâu hoắm u ám, vừa đối diện với chúng tôi, liền bắn ra hai tia sáng lạnh lẽo. Bị ánh mắt lạnh lẽo như băng ấy chiếu phải, tôi lập tức cảm thấy tâm can phế phổi như chạm vào băng đá, toàn thân lạnh buốt.
Người tôi đầm đìa mồ hôi, giật bắn mình tỉnh dậy ngay tắp lự, tim loạn nhịp đập thình thịch thình thịch, chỉ thấy trong phòng chứa đồ tối đen như mực, cũng không biết đã ngủ bao lâu rồi nữa. Tôi định thần lại, thầm nhủ cũng may chỉ là một cơn ác mộng, đời này chỉ mong không phải gặp lại mụ yêu bà đeo mặt nạ kim loại ấy lần nào nữa. Ngủ một giấc, tinh lực cũng khôi phục phần nào, cảm thấy chân tay đều đã có sức, chỉ còn vết thương trên vai là vẫn vừa đau vừa ngứa. Nghe người ta nói, vết thương ngứa ngáy là dấu hiệu sắp hồi phục, nhưng tôi cảm thấy trên mu bàn tay cũng hơi tê tê ngứa ngứa, rờ thử vào, liền thấy toàn là mụn nước mưng mủ hết cả lên. Tôi vội bật đèn pin đeo trước ngực chiếu vào, phát hiện ra mu bàn tay mình bắt đầu hơi rữa ra, ngửi có mùi như thịt bò thối, lại hơi tanh tanh như là cá ươn.
Bấy giờ tôi mới sực nhớ ra, lúc nãy chỉ lo giải độc cho Đinh Tư Điềm, đầu óc mông muội, không ngờ đã gạt hết chuyện mình và Tuyền béo bị nước thối của cây thi sâm bắn phải ra khỏi đầu. Lúc mới phát hiện ra, tôi từng nghi ngờ mình có thể đã trúng độc, giờ thì quả nhiên không sai, nhưng Tễ hồng hương đã cho Đinh Tư Điềm uống hết, không còn để lại hạt nào, vả lại cái hạt thịt ở chân con thủ cung ấy chỉ khắc chế được các loại độc của rắn rết, sâu bọ mà thôi. Còn cây thi sâm của nước Hồi Hồi kia, chẳng phải là thực vật cũng không phải độc vật, độc tố toàn là do những tử thi thối rữa tiết ra, có cả trăm loại độc khác nhau, tuy biết là có độc đấy, nhưng lại không rõ độc tính thế nào, cũng chẳng biết nên tìm thứ gì mới giải độc được nữa.
Quả tim tôi như chìm xuống đáy biển sâu, nhưng cũng may bình thường tôi đã khá thoáng đạt với chuyện sinh tử của cá nhân, chỉ buồn một lát, rồi lại nghĩ cũng chẳng còn sớm nữa, đã đến lúc lên đường rồi, nếu có chết thì cũng đừng chết ở chỗ quái quỷ này là được.
Tôi cầm đèn pin lên chiếu vào những người khác, Tuyền béo ngáy to như sấm, miệng vẫn còn ú ớ nói mơ: “Cha mẹ mày... dám dọa ông à! Hừ hừ hừ hừ, ông đánh cho mày... đập cho mày... cả linh hồn lẫn thể xác... quét sạch cả vào bãi rác của... của lịch sử...”
Còn bệnh tình của Đinh Tư Điềm dường như đã đỡ nhiêu, nhưng cô cũng đang nói mơ gì đó, không nghe rõ, chỉ thấy lồng ngực phập phồng. Tôi nhìn dung nhan tiều tụy của cô, thầm nhủ đúng là may mắn thật, vừa nãy bọn tôi quá liều lĩnh, chỉ dựa vào một chút kinh nghiệm từ bé mà dám cho cô ăn mấy hạt Tễ hồng hương ấy, chẳng may khiến cô trúng độc nặng thêm, hoặc không có tác dụng gì, há chẳng phải đã hại tính mạng cô rồi sao? Nếu bây giờ cho tôi chọn lựa lại lần nữa, chưa chắc tôi đã có sự quyết liệt dám lấy tính mạng Đinh Tư Điềm ra đánh cược như thế. Lúc ấy, toàn là do cuống quá u mê cả đầu óc mới đánh liều một phen, không ngờ lại cứu được cô, xem ra, giai cấp vô sản quả nhiên là có sức mạnh sáng tạo nên kỳ tích.
Tôi không còn để tâm đến chất độc mình trúng phải nữa, ngược lại còn lấy làm đắc ý trước những gì mình làm được hôm nay, nhưng rồi đột nhiên cảm thấy không ổn lắm, khoảng quá độ từ lúc đầu óc còn đang đắm chìm trong cơn ác mộng đến khi tỉnh táo hoàn toàn cuối cùng đã kết thúc, lúc này mới phát hiện ra lão Dương Bì bị trói cứng cả tay chân đã biến mất. Trên mặt đất chỉ còn lại mấy đoạn thắt lưng da bị cắt đứt, thanh bảo đao Khang Hy vẫn nằm trong vỏ da bên cạnh. Thì ra lão Dương Bì đã lợi dụng lúc chúng tôi ngủ say, xoay tay trộm lấy thanh đao bên cạnh Tuyền béo, rồi dùng lưỡi đao cắt đứt thắt lưng, lẳng lặng trốn đi mất rồi.
Tôi vội đánh thức Tuyền béo dậy, nói rõ tình hình với cậu ta, nhất thiết phải bắt được lão Dương Bì về đây. Lúc này, Đinh Tư Điềm cũng bị tiếng nói chuyện của chúng tôi làm thức giấc, tuy thần trí cô đã tỉnh táo hoàn toàn, màu xanh trên gương mặt cũng không còn nữa, nhưng sắc mặt vẫn còn vàng vọt yếu ớt lắm. Chỉ nghe cô mơ màng hỏi tôi đã xảy ra chuyện gì.
Tôi chẳng còn cách nào che giấu, bèn kể sơ qua tình hình từ sau khi cô bị hôn mê, Tuyền béo lại bổ sung thêm vụ lão Dương Bì là kẻ thù giai cấp xâm nhập vào quần chúng nhân dân. Đinh Tư Điềm nói sao có thể được, cậu ta bèn chỉ mặt tôi nói: “Cậu này nói thế mà, lúc về còn phải mở đại hội phê đấu vạch trần bộ mặt đen tối của lão Dương Bì ra nữa cơ.”
Tôi đành phải nói sự thật ra: “Chúng ta đã hai ngày một đêm chưa chợp mắt rồi, tôi sợ mọi người mệt quá không cưỡng lại được mà ngủ hết, lão Dương Bì sẽ làm chuyện gì ngu ngốc, vì vậy mới kiếm cớ trói ông lão lại. Không ngờ trăm cẩn thận nghìn cẩn thận cũng vẫn sơ suất. Đừng tưởng lão Dương Bì bình thường ít nói, nhưng ông già ấy mà đã quyết chuyện gì rồi thì ba bò chín trâu cũng không ngăn được đâu. Tôi thấy ông già này tư tưởng mê tín nghiêm trọng lắm, chắc là đã đi chiêu hồn dẫn phách cho em trai Dương Nhị Đản của mình rồi.”
Qua tiếp xúc một khoảng thời gian, tôi dám chắc rằng lão Dương Bì đã tỉnh dậy trước, rồi lén quay trở lại gian mật thất kia để tìm cái rương đồng thần bí. Chỉ có điều chúng tôi đều ngủ quá say, cũng không biết ông già đã đi bao nhiêu lâu rồi, giờ có đuổi theo thì sợ rằng cũng đã quá muộn.
Tuyền béo nói: “Được rồi, Nhất này, tôi bảo cho cậu biết nhé, lần sau đừng có mà giở trò gạt tôi làm đao phủ cho cậu nữa, tôi còn tưởng cậu cảnh giác cao, tìm được động hướng mới cho cuộc đấu tranh giai cấp nữa chứ, thì ra lão Dương Bì vẫn là lão Dương Bì, giờ tính sao đây? Chúng ta mau quay lại gian mật thất kia tìm ông lão hay là sao? Tôi... tôi vừa nãy nằm ngủ, còn mơ... mơ thấy cái xác đàn bà trong mật thất ấy, bộ mặt quỷ lạnh lẽo ấy thật đúng là tà môn chết đi được, nhưng may mà tôi đây nộ khí thiên binh bốc cửu trùng, quét sạch nghìn quân như cuộn quyển, đá đít cả linh hồn lẫn thể xác của nó vào đống rác đầy bụi bặm của lịch sử rồi.”
Đinh Tư Điềm nghe Tuyền béo nói thế, cũng khe khẽ thốt lên: “Hả... sao bạn Tuyền béo cũng mơ thấy cái xác đó à? Mình... mình vừa nãy cũng mơ thấy, không biết các bạn có cảm giác gì không, chứ... chứ mình thì cảm thấy... cái xác... cái xác ấy... vẫn còn sống...”
Vừa nãy tôi nghe Tuyền béo nói mơ, là đã biết cậu ta mơ thấy nữ vu sư người Tiên Ty ấy rồi, không ngờ Đinh Tư Điềm cũng có giấc mơ như thế. Hai người thì còn có thể là trùng hợp, nhưng cả ba người cùng mơ thấy thì đúng là gặp ma rồi. Vả lại, cảm giác mà Đinh Tư Điềm nói ấy, bản thân tôi cũng cảm nhận được một cách sâu sắc, có điều, dường như không phải cảm giác của người sống, không trực quan, rất khó dùng lời để miêu tả, đó chỉ là một cảm giác rất mãnh liệt, một thứ cảm giác khiến người ta rợn hết cả người.

Chương 45: Con đường tăm tối

Tôi và Tuyền béo, Đinh Tư Điềm bàn tính sơ qua rồi đưa ra quyết định, dù trong mật thất ấy có ma chăng nữa cũng phải đánh liều quay lại, nhất thiết phải tìm được lão Dương Bì, sống thì thấy người, chết phải thấy xác. Dẫu rằng trước đây ông lão đã từng là kẻ trộm mộ đổ đấu, nhưng xét thành phần thì chắc cũng vẫn thuộc đại đa số quần chúng nhân dân có thể đoàn kết lại. Người làm nghề đổ đấu phải dựa vào tay nghề để kiếm sống, không có vốn sản xuất, cùng lắm cũng chỉ có thể coi là nghề thuộc các ngành thủ công, tranh chấp với chúng tôi chẳng qua chỉ là mâu thuẫn trong nội bộ quần chúng. Vả lại, những chủ mộ bị trộm ấy, gần như toàn bộ đều là giai cấp thống trị bóc lột ở bên kia giới tuyến với nhân dân lao động, nhìn xa hơn các vị anh hùng hảo hán khởi nghĩa tạo phản trong lịch sử, đa phần cũng đều có những sự tích anh hùng quật mộ đế vương, từ Trương Hiến Trung của quân Xích My, quân khởi nghĩa nông dân thời xưa chẳng mấy ai là không làm qua những chuyện này cả. Vì vậy, lúc đó chúng tôi cũng không cảm thấy người làm nghề đổ đấu là có gì sai trong xã hội cũ xấu xa tội lỗi ấy, thử hỏi có bao nhiêu người nghèo phải đổ cả máu và mồ hôi chứ, không tạo phản liệu có được chăng? Tóm lại, dù gì thì gì, cũng phải tìm lão Dương Bì về.
Tôi vốn định bảo Đinh Tư Điềm và Tuyền béo ở lại, để một mình tôi đi tìm lão Dương Bì, nhưng Đinh Tư Điềm bất chấp thân thể yếu ớt, nghiến răng đòi đi cùng. Không biết phải làm sao, tôi đành chấp nhận để cả ba người cùng quay lại. Khi ấy, đối với cái xác của người đàn bà bộ tộc Tiên Ty kia, chúng tôi đã có một nhận thức ngầm bám rễ vào trong óc, tuy ngoài miệng không nói ra, nhưng trong tiềm thức, đều đã coi nó là một dạng nữ yêu quái kiểu như Bạch Cốt tinh rồi. Vì vậy, bất giác cả ba đều lẩm nhẩm: “Khỉ vàng vung gậy nghìn cân, điện ngọc trong veo vạn dặm trần. Hôm nay gọi vang Tôn đại thánh, chỉ bởi yêu khí lại cuộn dần” để tăng thêm lòng can đảm. Chúng tôi vừa đi vừa lẩm nhẩm, vừa cổ vũ cho nhau, nói ra cũng thật kỳ quái, không ngờ lại không hề có cảm giác sợ hãi gì, có thể thấy ‘bom nguyên Tử tinh thần’ thật đúng không phải là thứ Mao chủ tịch bốc phét ra. Ba người quay lại đường cũ, thoáng cái đã vòng trở lại cửa trước của gian mật thất đó.
Tuyền béo vẫn đang luôn mồm niệm: “Tất cả bè phái phản động đều chỉ là lũ hổ giấy” để tăng lòng can đảm. Tôi vội bịt miệng cậu ta lại, nói với cậu ta và Đinh Tư Điềm: “Hai người có cảm giác thấy quanh đây thay đổi gì không? Hình như không giống như lúc chúng ta lần đầu bước vào cho lắm.”
Đinh Tư Điềm có sự mẫn cảm trời sinh, lập tức đáp ngay: “Hình như... hình như bóng ma trong gian mật thất không còn ở đây nữa, không có cảm giác lạnh hết cả sống lưng khi chúng ta đến đây lần đầu tiên...”
Cô nói không sai, đứng trước cửa gian mật thất tôi đã cảm thấy có điều kỳ lạ rồi, cảm giác uy hiếp lặng lẽ lan tỏa trong bóng tối đã không còn nữa, không phải vì “bom nguyên Tử tinh thần” của chúng tôi làm tăng thêm lòng can đảm, mà bởi thứ khiến cho tâm thần người ta hốt hoảng bất an trong mật thất đã biến mất. Lẽ nào cái xác nữ đeo mặt nạ kia đã không còn ở đấy nữa?
Cảm giác thấp thỏm vì không hiểu chân tướng còn khiến chúng tôi bất an hơn sự uy hiếp trực tiếp, cứ đứng trước cửa mà đoán lung tung thế này, chi bằng tận mắt chứng thực, vào trong xem cho rõ ràng. Nghĩ tới đây, ba bọn tôi bèn hướng vào phía bên trong gọi tên lão Dương Bì mấy lượt, thấy không có hồi đáp gì, liền dựa sát bên nhau, tiến vào mật thất. Chúng tôi giơ đèn pin lên chiếu một vòng xung quanh, vẫn là cảnh tượng bừa bộn ấy, cây thi sâm chết khô và những xác chết thối rữa nằm nghiêng ngả khắp sàn nhà, đưa ánh mắt vào phía bên trong nữa, chúng tôi đều không kìm được mà “í” lên một tiếng.
Nằm ngoài dự đoán của chúng tôi, cái xác nữ vu sư đeo mặt nạ kim loại ấy vẫn lặng lẽ nằm trên bệ xi măng, có điều lần này, chúng tôi có thể cảm nhận được một cách rõ ràng, cái xác này cũng không khác gì những xác chết khác trong cả viện nghiên cứu này, chẳng qua chỉ là một cái vỏ xác không có linh hồn mà thôi. Sự uy hiếp tựa hồ như có âm hồn vẩn vít bên trong gian mật thất đã hoàn toàn biến mất.
Trong lúc chúng tôi thiếp đi vì quá mệt mỏi, nơi này nhất định đã xảy ra biến hóa gì đó. Tôi dẫn Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đi xem những nơi khác, trong mật thất cũng không thấy bóng dáng lão Dương Bì đâu, cái xác Dương Nhị Đản mặc đồ đen đeo thắt lưng đỏ đã thối rữa vẫn nằm yên dưới đất. Tuyền béo làm ra vẻ thông minh, gật gù suy đoán:
“Lão Dương Bì chắc là sợ bị mở đại hội phê đấu, nên đã bôi mỡ vào chân cao bay xa chạy rồi, tôi thấy rất có khả năng ông ta đã qua biên giới, đầu hàng Liên Xô để ăn bánh mì chấm sữa rồi cũng nên.”
Tôi lắc đầu nói: “Không thể nào, nếu chạy sang nước khác, thì ông ấy sẽ không quay lại gian mật thất này nữa. Lúc chúng ta ra khỏi đây, tôi còn nhớ rõ cái rương đồng của Hoàng đại tiến đã bị đá vào trong góc, nhưng hai người nhìn xem, sao cái rương ấy lại biến mất rồi? Nhất định là lão Dương Bì đã quay lại đây mang nó đi.”
Đinh Tư Điềm lo lắng hỏi: “Vì sao ông ấy lại làm vậy? Giờ ông ấy đi đâu rồi.”
Tôi nói: “Có lẽ ông ấy còn giấu giếm chúng ta về việc sử dụng cái rương đó để gọi hồn...” Nói đến đây, tôi đột nhiên sực nghĩ ra, trong gian mật thất này bỗng dưng không còn cảm giác lạnh lẽo âm u đầy quỷ khí, rất có thể là vì cái rương đồng của hoàng bì tử kia không còn nữa. Có lẽ ngay từ đầu chúng tôi đã quá chủ quan mà đưa ra phán đoán sai lầm vì trông thấy cái xác nữ trong mật thất, lại cảm thấy nơi này hình như có vong linh lẩn khuất. Nhưng sự thực cảm giác lạnh lẽo âm u khiến người ta cảm thấy khó chịu từ sâu thẳm trong lòng ấy, đều bắt nguồn từ cái rương đồng có khắc hình hoàng bì tử đó. Cái rương nay đã bị lão Dương Bì mang đi rồi, vì vậy gian mật thất cũng không còn bầu không khí u ám như thể có âm hồn đang lượn lờ quanh đây nữa.
Cho đến lúc này, chúng tôi vẫn chưa biết bên trong cái rương đồng rốt cuộc đựng gì, có điều, dường như là thứ hung tà chứ chẳng phải cát lợi. Thật không hiểu động cơ của lão Dương Bì là gì? Lẽ nào cái xác trong mật thất ấy vốn không phải là Dương Nhị Đản, bằng không sao lão Dương Bì lại bỏ mặc y lại như thế? Trước mắt, có thể khẳng định rằng, bất luận lão Dương Bì muốn làm gì, ông già cũng là một nhân tố bất xác định cực kỳ nguy hiểm.
Tôi nói với Tuyền béo và Đinh Tư Điềm: “Giờ không biết lão Dương Bì đi đâu, mà địa hình khu vực động Bách Nhãn này rất phức tạp, bốn bề đều có nguy cơ, chỉ dựa vào ba người chúng ta, muốn tìm ông ấy thật chẳng khác gì mò kim đáy bể, tạm thời cứ rút ra khỏi đây rồi bàn tính tiếp vậy.”
Tuyền béo nói: “Trước lúc đi, cho chỗ này một mồi lửa, tránh để hậu họa sau này.” Cậu ta rất khoái trò phóng hỏa, chẳng cần đợi người khác đồng ý, nói dứt lời liền đi tìm mồi lửa luôn. Gian mật thất chồng chất đồ gỗ, ván gỗ, Tuyền béo xé một tấm vải trắng phủ đồ vật, rồi tìm cồn đổ lên trên, lửa lập tức bốc ngùn ngụt.
Tôi thầm nhủ, đốt cũng tốt, cát bụi lại trở về với cát bụi, để lại thân xác trăm năm không tan chắc gì đã là điều người chết mong muốn, hóa đi xương cốt, cũng là để họ khỏi phải xấu mặt với hậu nhân. Thấy thế lửa lớn dần, chúng tôi buộc phải lùi dần ra khỏi gian mật thất. Lúc đi qua chỗ cái xác nữ ấy, tôi lại không thể kìm nổi hiếu kỳ, nhủ thầm chắc cũng không có nguy hiểm gì, tôi chỉ muốn xem người chết này tại sao lại đeo mặt nạ thôi mà. Nghĩ đoạn, tôi liền dùng bảo đao Khang Hy hất cái mặt nạ trên mặt cái xác đàn bà ấy ra, ai ngờ thi thể này lại không có mặt, gương mặt bên dưới đã bị khoét một cái lỗ lớn, trông khủng bố dị thường.
Tôi chỉ liếc một cái mà rùng hết cả mình. Lúc này, Đinh Tư Điềm thấy tôi ở phía sau lạch cạch gì đấy, liền ngoái lại nhìn. Tôi vội bảo cô đừng quay đầu lại, nhưng nói hết câu thì cô cũng đã trông thấy cái hốc toang hoác trên mặt cái xác nữ, lập tức kinh hãi đớ người ra tại chỗ.
Tôi đột nhiên thoáng động tâm, cái xác đàn bà không có mặt này rất có thể còn ẩn chứa điều gì đó, nhưng đã không còn kịp xem kỹ hơn nữa rồi. Ngọn lửa cuồn cuộn đã nuốt trọn cái xác, gọi là xác, nhưng thực ra chỉ là một cái vỏ da nguời mà thôi, trong chớp mắt đã bị thiêu thành tro bụi, chỉ còn lại cái mặt nạ kim loại phát ra những tia sáng kỳ dị màu vàng chói giữa những lưỡi lửa.
Thế lửa lan nhanh đến không ngờ, bốc lên ngùn ngụt dữ dội, thông đạo ngầm chẳng mấy chốc đã ùn ùn khói. Tôi và Tuyền béo vội kéo Đinh Tư Điềm sợ đến ngây ngốc cả người, xông qua làn khói chạy một mạch ra ngoài, đến cửa tòa nhà trên mặt đất mới dừng lại bàn bạc xem bước tiếp theo nên hành động như thế nào.
Vì chạy gấp quá, vết thương đã khép miệng trên vai lại đau nhói, tôi bịt vết thương rồi nói với Tuyền béo và Đinh Tư Điềm: “Ở bên dưới miếu Hoàng đại tiên vùng Đông Bắc có chôn hai con chồn lông vàng được bọc bằng da người. Người chết bị khoét rỗng, giống như một cỗ quan tài bằng da người vậy. Vừa nãy tôi thấy cái xác nữ vu sư cũng rỗng, dưới cái mặt nạ rất có thể là nơi hoàng bì tử nấp. Nó nấp bên trong cỗ da người để giả thần giả quỷ mê hoặc nhân tâm, nữ vu sư rất có thể chỉ là như vậy. Xem ra, Mộ Hoàng Bì Tử ở trong núi Đoàn Sơn thuộc dãy Đại Hưng An Lĩnh, gần như là sản phẩm phục chế dựa theo động Bách Nhãn này, chẳng qua là quy mô hình thế nhỏ hơn rất nhiều mà thôi.”
Tuyền béo đột nhiên sực hiểu: “Thì ra cái Quỷ nha môn ở núi Đoàn Sơn chỉ là hàng nhái mô phỏng thôi hả, động Bách Nhãn này mới là lối thông xuống cõi Âm thật? Chúng ta có nên cho thêm một mồi lửa đốt cả ngọn núi này, hủy cái lối thông ấy đi, để lũ oan hồn quỷ đói trong ấy không bò ra ngoài, mưu đồ ngóc đầu trở lại đoạt quyền, đẩy quần chúng nhân dân vào biển lửa lần nữa.”
Trong truyền thuyết dân gian ở vùng Đông Bắc, sâu trong sơn động có thú đá đứng sừng sững bên ngoài, là lối thông xuống Địa phủ. Con người ta sau khi chết đi, âm hồn không tan, mà đều phải quy về nơi đó. Đó là thế giới của người chết, bên trong cũng có thành trì lầu các không khác gì nhân gian, chẳng qua chỉ là thế giới của người chết, không thuộc về người sống mà thôi.
Nếu phải nói trên thế gian này có ma quỷ hay không, thái độ của tôi dạo gần đây thoảng có chút mơ hồ. Vì có một số chuyện đích thực rất khó lý giải, có điều, bảo rằng chốn Âm tào Địa phủ đình đài lầu các trùng trùng điệp điệp thì tuyệt đối tôi không chịu tin. Nghe Tuyền béo nói thế, tôi liền mắng: “Vớ va vớ vẩn, ban ngày ban mặt, trời đất sáng sủa, làm quái gì có cửa thông xuống cõi Âm chứ. Cái gọi là Quỷ nha môn, chẳng qua chỉ là một ngôi mộ quần táng lớn, chôn rất rất nhiều người chết, rồi càng lan truyền thì càng tà dị, bị người ta coi thành cõi Âm đầy rẫy vong linh tụ tập mà thôi.”
Đinh Tư Điềm nói: “Hồi nhỏ mình từng nghe bà ngoại kể các câu chuyện trong thủy lục đồ[32], ở chốn Âm tào Địa phủ có rất nhiều cực hình tàn khốc, ấn tượng sâu sắc nhất là có một người đàn bà bị lũ quỷ nhét thân dưới vào cái cối xay bằng đá, nghiền thành tương thịt và bọt máu, có một con chó mực ở bên cạnh liếm máu, phần máu thịt không bị liếm sạch đều chảy cả vào một bát sứ, ở kiếp sau sẽ biến thành giòi bọ trùng kiến ruồi nhặng cho người đời đánh đập. Thế nhưng, nửa phần trên của người đàn bà ấy vẫn còn sống. Nghe bà ngoại mình nói, những người đàn bà không hiếu thuận với bề trên sau khi chết sẽ gặp phải kết cục này, bấy giờ mình nghe mà sợ đến nỗi toàn thân nổi hết cả da gà lên. Chốn Âm tào Địa phủ như thế thì thật đáng sợ quá, chỉ mong là ông lão Dương Bì không chạy vào Quỷ nha môn ấy.”
Tuyền béo nói: “Tư Điềm, sao càng lúc bạn càng trở nên nhát gan vậy nhỉ, dù trên đời này có Âm tào Địa phủ thật, thì những người cách mạng theo chủ nghĩa duy vật chúng ta cũng đến đó cắm cờ hồng, trảm Diêm La, dán lên mặt bọn đầu trâu mặt ngựa mấy tờ báo chữ to, tiện thể phê đấu luôn thằng cha Diêm vương nữa.”
Tôi thấy mây mù xung quanh không tụ lại, sắc trời âm u, xem chừng lại sắp tối đến nơi rồi, vậy là chúng tôi đã rời khỏi khu chăn nuôi trọn hai ngày một đêm, cũng chẳng biết tay thủ trưởng họ Nghê kia có phái người đi tìm chúng tôi hay không nữa. Trước mắt, việc cần nhất vẫn là nghĩ cách tìm được lão Dương Bì, bằng không thì chẳng biết phải ăn nói với những người ở khu chăn nuôi thế nào, nghĩ đoạn, tôi bèn ngắt lời Tuyền béo: “Được rồi được rồi, cậu vẫn chưa chán à? Tôi thấy Quỷ nha môn hay Quỷ môn quan cũng không có quan hệ lợi ích trực tiếp gì với chúng ta cả, có điều, trước mắt thì không thể không ra khu vực hang động phía sau núi một chuyến, vì lão Dương Bì chắc là đã vào đấy. Và nếu cái của nợ Quỷ môn quan thật sự là lối vào cõi Âm, sợ rằng ông già bây giờ đã đặt chân lên con đường tăm tối ấy mất rồi.”
Trên lớp bùn đất trước cửa tòa nhà, có một vệt kéo dài về phía sau núi, đây là dấu vết của người kéo món đồ gì đó để lại. Xét về mặt phong thủy, khu vực động Bách Nhãn này có môi trường tự nhiên cực kỳ hiếm thấy. Theo lẽ thường, mức chênh lệch nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm ở vùng thảo nguyên và hoang mạc rất lớn, nhưng ở nơi này chênh lệch lại không hề rõ rệt, nhiệt độ và độ ẩm đều tương đối cao, ngoài ra thổ nhưỡng còn có những thành phần đặc biệt có tác dụng bảo tồn xác chết, đồng thời khiến hầu hết thi thể đều mọc lông như lông vũ. Khắp thế giới, sợ rằng khó mà tìm được nơi thứ hai nào khác.
Chính bởi sự đặc thù về mặt thổ nhưỡng ấy, khoảng cách giữa các hạt đất tương đối lớn, nên chất đất cũng khá mềm và rời rạc, khiến dấu vết kéo lê trên mặt đất hết sức rõ rệt. Lúc chúng tôi đến tòa nhà này lần đầu, không hề trông thấy vệt kéo ấy, không cần phải hỏi cũng biết, đó chắc chắn là do lão Dương Bì kéo lê chiếc rương đồng của hoàng bì tử vào trong núi để lại. Tuy cái rương đồng không lớn, nhưng ôm nó đi trong thời gian dài thì cũng rất tốn sức, chắc ông già đã vừa lôi vừa kéo cái rương đó vào hang chứa xác kia rồi, có trời mới biết tiếp theo ông ấy sẽ làm gì nữa.
Đinh Tư Điềm phàm chuyện gì cũng nghĩ theo chiều hướng tốt, cô cho rằng có lẽ lão Dương Bì muốn tìm nơi nào đấy tiêu hủy cái rương chiêu hồn nguy hiểm ấy đi, không để nó lưu lại trên thế gian này gây họa nữa. Trước khi tìm được lão Dương Bì, tôi cũng khó mà đưa ra kết luận, nên chỉ nói mong là như thế, sau đó, ba người bèn lần theo dấu vết đi vào trong núi.
Cảm giác tê tê ngứa ngứa trên tay tôi và Tuyền béo mỗi lúc một thêm khó chịu, nhưng hai thằng lại không dám gãi, hễ chạm vào bị rỉ nước, đau đến nỗi cứ xuýt xoa hít hà mãi không thôi. Tôi sợ Đinh Tư Điềm lo lắng hoặc lại tự trách mình làm liên lụy đến chúng tôi, nên cũng không dám nói chuyện mình trúng độc với cô, chỉ cố cắn răng chịu đựng, nhưng thực lòng cũng không biết với tình trạng này thì còn kiên trì được bao nhiêu lâu nữa.
Có điều, việc khiến tôi lấy làm an ủi nhất là coi như đã cứu được tính mạng Đinh Tư Điềm, thấy tinh thần và sức khỏe của cô đều đã khá hơn nhiều, áp lực trong lòng tôi cũng giảm đi phần lớn, tinh thần phấn chấn tiến vào khu vực núi đồi phía sau tòa nhà nghiên cứu. Dốc núi này, không hiểu là do sụt lở hay do con người phá hủy, mà hiện nguyên một mặt cắt của quả núi, bao nhiêu hang động lớn nhỏ trong lòng núi đều lộ hết cả ra ngoài, cái hang có tượng người đá thú đá khổng lồ ở trước cửa là cái lớn nhất trong các hang động, thoạt nhìn tựa như một cái miệng đen ngòm, muốn đi sâu vào trong, cái hang động như thể cái miệng khổng lồ này chính là con đường duy nhất.
Chúng tôi dìu đỡ nhau tiến vào trong hang, bên trong nhấp nháy ánh lân tinh, cảnh vật lờ mờ, nhưng cũng không phải tối đen như mực. Trong này không có lối rẽ, lòng hang vừa cao vừa rộng, vách đá mát lạnh, sâu bên trong động gió thổi vù vù, khiến người ta không khỏi rùng mình hoảng hốt. Khoảng hơn hai trăm bước chân phía trước, là một hang sâu hình thang rộng bằng chừng bốn năm cái sân đá bóng, bốn phía có bậc đất chia thành từng tầng xuống dưới, tạo nên một hình kim tự tháp ngược. Nhìn các loại công cụ và thiết bị chiếu sáng còn vương vãi lại, bọn tôi cho rằng đây hẳn là một khu khai quật quy mô cực lớn. Có điều, khu vực này thực sự là quá lớn, tôi đang phát rầu không biết phải làm sao mới lần theo được dấu vết của lão Dương Bì, đột nhiên thấy Đinh Tư Điềm bên cạnh lảo đảo thân hình, ọe ra một búng máu đen, rồi ngã lăn ra đất.
Chú thích
[32] Tranh vẽ mười tám tầng địa ngục.

Chương 46: Điện Diêm La

Đinh Tư Điềm đột nhiên ọe ra một đống máu đen sau đó ngã vật ra đất, tôi và Tuyền béo đều hoảng hồn, vội luống cuống đỡ cô ngồi dựa lưng vào bức tường, vốn tưởng rằng chất độc cô trúng phải đã bị Tễ hồng hương của con thủ cung áp chế, chẳng ngờ lại còn ọe ra máu đen. Trong lòng tôi hết sức bất an, thầm đoán không biết có phải dùng thuốc quá liều chăng? Hay là Tễ hồng hương ấy căn bản không có tác dụng giải độc, mà chỉ kéo dài thời gian chất độc phát tác ra thôi?
Còn Đinh Tư Điềm thì đã gượng đứng lên định tiếp tục đi tìm lão Dương Bì: “Không sao đâu… chỉ là mình hơi bị tức ngực một chút thôi mà, nôn máu bầm ra xong thì dễ chịu hơn nhiều rồi, nghỉ một lát là không sau đâu. Bát Nhất, rốt cuộc bạn và Tuyền béo cho mình uống thuốc giải độc gì thế? Sao mình cảm thất trong miệng cứ có vị...” Vừa nói, cô vừa lảo đảo đứng dậy đi tiếp.
Tôi thấy cô miễn cưỡng cầm cự, trước mắt khó mà phán đoán ra được tình trạng sức khỏe thế nào, nhưng nôn ra máu đen thì tuyệt đối không phải dấu hiệu tốt lành gì. Có điều, Đinh Tư Điềm hết sức cố chấp, tôi đành phải đỡ cô tiếp tục tiến bước, bị cô hỏi rốt cuộc đã cho uống thuốc gì giải độc, tôi đương nhiên cũng không dám nói thật đó là hạt thịt móc trên tiêu bản con thủ cung, chỉ đáp: “Thuốc đắng dã tật, đã là thuốc bao giờ chẳng có ba phần độc. Thuốc mà, dĩ nhiên không thể ngon như kẹo hoa quả được, vả lại cái viện nghiên cứu này bị bỏ hoang nhiều năm rồi, thuốc men trong kho tuy không biến chất, nhưng cũng khó tránh khỏi có mùi lạ. Đợi khi nào về khu chăn nuôi, mình sẽ kể cho bạn nghe lai lịch của thứ thuốc giải độc này, đảm bảo sẽ rất thú vị cho mà xem.”
Tuyền béo nói: “Không sai, thề có Mao chủ tịch là bạn sẽ cảm thấy rất thú vị, vì vậy trước khi nghe cậu Nhất đây kể chuyện thuốc giải độc, tốt nhất là nên ôn tập lại một lần quyển Thép đã tôi thế đấy của ông Ostrovsky mà chuẩn bị tinh thần cho đầy đủ.”
Tôi trừng mắt nhìn cậu ta một cái, cũng may là Đinh Tư Điềm nghe không hiểu Tuyền béo nói nhảm cái gì, còn tưởng cậu ta bảo cô học tập nghị lực ngoan cường chiến đấu với bệnh tật của Pavel Korchagin, nên cũng không hỏi gì thêm nữa. Tôi thấy mặt cô vàng ệch, bước đi hết sức khó khăn, nhưng tôi biết có khuyên cô ở lại bên ngoài hang động chờ thì cũng uổng công vô ích. Tính cách của cô gái này quá quật cường, đã quyết chuyện gì tuyệt đối không dễ quay đầu lại, vậy là đành phải để Tuyền béo cõng cô lên, ba người lại tiếp tục đi sâu vào trong tìm kiếm tung tích lão Dương Bì.
Trong lòng núi đâu đâu cũng có những đốm sáng lập lòe tựa như lửa ma trơi, lại tựa như khoáng thạch, lợi dụng chút ánh sáng nhấp nhóa như sao trời, chúng tôi có thể nhìn thấy lờ mờ đường nét địa hình. Khu khai quật khổng lồ phân bố theo hình thang, tầng tầng lớp lớp xuôi sâu xuống, ở bên ngoài khó có thể nhìn rõ dưới tầng sâu nhất có gì, nhưng trong lớp đất vàng ở những tầng phía trên đều lộ ra một vài bộ phận thi thể, chỗ cái đầu, chỗ cánh tay, tất cả cơ hồ đều đã mọc lông, bất cứ lúc nào như cũng có thể đội đất sâu chui lên. Chỉ liếc qua một góc khu khai quật, đã có thể hình dung khu vực khai quật này từ xưa đã là một hố chôn xác khổng lồ đến cỡ nào, thực không biết có bao nhiêu là xác cổ nằm ở đây nữa.
Hẳn “Quy miên địa” mà các sách phong thủy nhắc đến chính là đây rồi, thành phần thổ nhưỡng đặc thù khiến xác chết rơi vào một trạng thái tương tự như trạng thái “vũ hóa” trong Đạo giáo. Nhưng thế thì có tác dụng gì nhỉ? “Vũ hóa” cũng chưa thể thăng thiên thành tiên được, bao nhiêu người sau khi chết đều được chôn cất trong hang động này một cách thành tâm thành ý, e rằng đây cũng xuất phát từ sự không hiểu biết và sợ hãi của con người thời xưa đối với quy luật sinh tử. Bọn họ không thể chấp nhận sự thực rằng con người chỉ có thể sống một lần, mà hy vọng sau khi chết, sinh mạng có thể tiếp diễn dưới một hình thức khác, vậy nên mới có những truyền thuyết về Âm tào Địa phủ. Thảng nhược, người sau khi chết mà có vong linh thật, nhìn thấy xác mình biến thành hình dạng cổ quái dị dạng thế này, rồi bị người ta đào lên, chẳng hề tôn trọng, thực không biêt cảm giác sẽ như thế nào nữa?
Đống xác chết này già trẻ trai gái gì cũng có, ăn mặc kỳ quái dị hợm, chúng tôi đều chưa từng thấy bao giờ. Hôm nay chúng tôi cũng đã nhìn thấy quá nhiều xác chết kỳ hình quái trạng rồi, vốn rằng tinh thần đã tê liệt không còn cảm giác, nhưng đứng trước khu khai quật có cả nghìn vạn xác chết, tầng tầng lớp lớp vô số cương thi, ai nấy đều không khỏi run rẩy sợ hãi. Chẳng trách người ta nói trong Quỷ nha môn là mười tám tầng địa ngục, người sống đặt chân vào đây đều chết đứng tại trận vì khiếp sợ.
Trong cái hang lớn toàn là xác người chết này, ngoại trừ ba chúng tôi ra, căn bản không có một bóng người sống nào, có trời mới biết lão Dương Bì đã vác cái rương đồng kia chạy tới đây làm gì. Chúng tôi đoán lão Dương Bì chẳng có lý do gì mà xuống cái hố toàn người chết chất thành đống này, rất có khả năng là đã men theo vách đá vào sâu hang động rồi, nghĩ đoạn, bèn cũng đi dọc theo mép khu khai quật, tiếp tục tiến vào bên trong. Dọc đường, ba người vừa lo lắng nghiêng ngó khắp nơi, vừa gọi tên lão Dương Bì, bảo ông già mau mau quay lại.
Tuyền béo mãi không thấy bóng người nào, trong lòng càng thêm nôn nóng, mà ngay từ đầu cũng luôn cho rằng lão Dương Bì có lòng phản quốc, hang động này chạy theo hướng Nam Bắc, đi qua vùng cao nguyên phía Bắc thì đã là biên giới, nên cậu ta bèn hỏi tôi có nên áp dụng thế công chính trị, dùng lời lẽ tuyên truyền tấn công tâm lý lão Dương Bì hay không? Tôi thầm nhủ cái hang thật sự quá lớn, chúng tôi cứ như người mù cưỡi ngựa đui tìm kiếm thế này cũng không phải là cách hay, chi bằng cứ theo cách của Tuyền béo, kêu gọi trước đã, nếu lão Dương Bì đang nấp ở gần đây, biết đâu lại khuyên được ông già hồi tâm chuyển ý cũng nên. Nghĩ thế, tôi bèn gật đầu đồng ý.
Tuyền béo lập tức hướng vào sâu trong hang động hét lớn: “Tôi bảo ông này lão Dương Bì, đổ đấu là nghề dựa vào lao động kiếm cơm, mâu thuẫn giữa chúng ta chỉ là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân mà thôi, ông đừng có mơ chạy sang nước ngoài, đoạn tuyệt với nhân dân, đó là con đường chết đấy... Stalin đã phản bội chủ nghĩa Mác - Lê, phản bội Cách mạng tháng Mười, Matxcơva đang đau lòng rơi lệ, bia kỷ niệm anh hùng vô danh cũng đang chảy nước mắt... ông chớ nên vì hai cái bánh mì chấm sữa mà sai lại càng thêm sai, đứng nhầm đội ngũ cũng không phải chuyện gì to tát, ông chỉ cần đứng lại là được thôi mà...”
Tôi thực không thể nào nghe thêm nổi, vội kéo Tuyền béo lại, chẳng hiểu cậu này hò hét cái của khỉ của nợ gì nữa, trình độ thật sự là thấp quá đi mất. Tôi đang định thay cậu ta tiếp tục thực hiện chính sách tuyên truyền với lão Dương Bì, bỗng bị Đinh Tư Điềm kéo tay giữ lại, cô chỉ xuống dưới chân nói: “Hai bạn nhìn con đường đi xuống phía dưới này mà xem, bên trên cũng có dấu vết kéo lê vật nặng, vẫn còn mới nguyên, liệu có phải ông lão Dương Bì đã đi xuống bên dưới khu vực khai quật này rồi không?”
Tôi cúi đầu xuống nhìn, quả đúng như Đinh Tư Điềm nói, ở mỗi góc khu khai quật đều có một con dốc tương đối thoai thoải, vòng vèo dẫn xuống sâu bên dưới. Con dốc này lát đá, có thể trước đây cũng vùi trong đất, mỗi tầng bị xác chết che mất một đoạn, về sau người Nhật Bản đào ra, nền đá còn vương vãi đầy đất. Trên lớp đất vụn ấy còn lưu rõ dấu vết có đồ vật bị kéo qua. Gió hú gào trong sơn động, không khí mát rượi cực kỳ thông thoáng, nếu như dấu vết này có từ rất lâu trước đây thì tuyệt đối không thể nào rõ rệt như vậy được, điều này chứng tỏ, lão Dương Bì rất có khả năng mới đi qua đây chưa được bao lâu.
Ba chúng tôi đều nôn nóng muốn tìm lão Dương Bì về, rồi nhanh chóng rời khỏi khu động Bách Nhãn như một cơn ác mộng này, thấy cuối cùng cũng có đầu mối, ai nấy đều phấn chấn hẳn lên, vội bước xuống theo con đường đá. Lúc này, cảm giác so với lúc nhìn xuống từ bên ngoài hoàn toàn khác hẳn, càng đi càng xuống sâu, cơ hồ như áp sát vào những xác chết lộ ra bên ngoài mặt cắt của lớp đất vàng, mà con đường đá này lại rất chật hẹp, người chúng tôi chốc chốc lại cọ phải những cánh tay, cẳng thân của xác chết thò ra bên ngoài. Cảm giác băng lạnh mà không có sinh khí ấy khiến dây thần kinh mỗi người lại càng thêm căng ra.
Dù vừa sợ vừa mệt, nhưng không ai đề nghị bỏ cuộc, tất cả đều nghiến răng đi tiếp xuống dưới. Tuyền béo đeo đèn pin trước ngực đi phía trước dò đường, ba người tay nắm tay chầm chậm nhích từng bước xuống con đường đá quanh co. Đường càng đi càng tối, sâu bên dưới kia dường như có một cái miệng khổng lồ, thoạt nhìn chỉ thấy một vùng mông lung mờ mịt, nhưng cũng không phải đen kịt một màu, toát lên một vẻ hết sức kỳ dị. Tuyền béo nói với chúng tôi: “Cái hố chôn người chết này sao mà sâu thế không biết, các cậu nói xem dưới đáy cái hố này liệu có gì được nhỉ?”
Đinh Tư Điềm nói: “Không phải hố đâu, chỗ này chôn cất bao nhiêu người chết như thế, sợ rằng bên dưới cũng có vô số xác chết nữa, nơi đây chính xác phải nói là một ngôi mộ khổng lồ mới đúng. Không biết ông lão Dương Bì đi sâu xuống dưới này để làm gì...” Nói tới đây, cô lại không khỏi lo lắng thay cho lão Dương Bì, muốn rảo chân bước nhanh, nhưng hai chân mềm nhũn yếu ớt không chịu nghe lệnh, nếu không phải tôi và Tuyền béo kéo lại, suýt nữa cô đã ngã khuỵu xuống rồi.
Tôi thấy lòng bàn tay Đinh Tư Điềm đẫm mồ hôi lạnh, biết rằng cô đang vừa lo vừa sợ, lòng thầm nhủ: “Cái khu khai quật này của bọn Nhật rõ ràng là càng đào càng sâu, lẽ nào bên dưới tầng tầng lớp lớp xác chết này còn có thứ gì quan trọng? Chẳng lẽ chính là...” Tôi lo bên dưới ngôi mộ cổ của cả vạn con người này chính là địa ngục thổi ra “phần phong” trong truyền thuyết, không thể không cẩn thận một chút, nên bèn bảo Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đừng nôn nóng, đến như bọn chuột cống rời hang cũng còn phải tính toán nữa là chúng ta, nhất thiết phải hết sức cẩn thận, đi chầm chậm, động não suy nghĩ, nhìn thật kỹ tất cả mọi thứ xung quanh đây, ngộ ngỡ có xảy ra chuyện thì cũng còn biết đường mà tiến thoái.
Đinh Tư Điềm rất đồng ý với quan điểm của tôi, cô hỏi: “Ông nội bạn hồi trước hình như là thầy phong thủy thì phải, chắc bạn cũng học được khá nhiều kiến thức của ông nhỉ? Xác chết trong ngôi mộ này đều không bị thối rữa, có phải là do nguyên nhân phong thủy gì đó mà bạn nói hay không? Bọn họ... liệu bọn họ có đột nhiên sống lại không thế?”
Tôi biết, Đinh Tư Điềm nói vòng vo như vậy là muốn nhờ tôi tìm một lý do để cô không phải sợ hãi, bèn nói: “Mấy mớ kiến thức ông nội mình dạy toàn là đồ của xã hội cũ, tuy rằng mấy năm nay mình cảm thấy một số chuyện ông nói cũng có lý lẽ riêng, có điều, không thể nghe gì tin đấy được.” Như tôi được biết, ngoài nguyên nhân phong thủy ra, cũng có rất nhiều nhân tố khác, người ta sau khi chết đi, dưới tác dụng của vi khuẩn, thân thể thông thường đều thối rữa. Nhưng loại vi khuẩn làm người chết thối rữa này, cần nhiệt độ thích hợp và một môi trường tương đối ẩm thấp thì mới sinh tồn được. Ở những nơi khí hậu lạnh giá, hoặc thời tiết khô nóng như trong sa mạc hoặc trên núi tuyết, đều không có loại vi khuẩn này tồn tại, vì thế xác khô trong sa mạc và xác đóng băng trên núi tuyết, đều không mục rữa.
Ngoài ra còn có nhân tố con người nữa, tỷ như người chết nhập liệm, quan quách được làm bằng loại gỗ tuyển chọn kỹ càng, chất gỗ dày đặc, không thông khí, rồi trong quan tài lại bỏ thêm các thứ chống ẩm như vôi bột, than củi, hình thành nên một không gian kín, khô ráo và có nhiệt độ ổn định, khiến vi khuẩn không thể hoạt động thì xác chết cũng không dễ gì mà rữa nát ra được, có thể sẽ biến thành xác khô, hoặc thậm chí là xác ướt, thành phần nước trong cơ thể vẫn không mất đi. Ngoài ra, còn có một số ngoại lệ đặc biệt, ví dụ như chết vì bệnh thổ tả, hoặc khi còn sống bị bệnh tật giày vò, lúc gần chết cơ thể đã gần như mất hết nước, trường hợp như thế sau khi chết sẽ nhanh chóng biến thành xác khô, không dễ gì bị mục rữa. Xác khô hình dạng khô quắt queo, trọng lượng nhẹ bằng một nửa người mới chết hoặc hơn, da dẻ nhăn nheo co rút, thường có màu đen hoặc màu nâu nhạt, lông tóc và móng tay móng chân vẫn có thể tiếp tục mọc dài ra thêm.
Hiếm nhất là loại xác nguyên hình hay còn gọi là thi lạp, những thi thể tương đối béo hoặc nhiều mỡ, bị rơi xuống sông hay vào chỗ đất nhiễm phèn, rất dễ hình thành nên lớp “thi lạp” bên ngoài, khiến cái xác không bị thối rữa, vì khi ở trong dòng nước, chỗ nào thối rữa đều sẽ bị dòng nước cuốn đi, mang theo cả vi khuẩn gây thối rữa, còn mỡ trong cơ thể biến thành dạng vật chất giống như xà phòng, vừa trơn vừa ngấy, chính là “thi lạp”. Ngoài ra, nếu muối phèn ngấm vào xác, cũng sẽ tạo ra thứ cao mỡ trắng mịn đó, xác người được ở bọc bên trong, không dễ gì bị thối rữa.
Hồi lên cấp II, tôi từng đi xem một triển lãm tiêu bản thi thể do Sở Công an tổ chức, bấy giờ đó được gọi là một hoạt động giáo dục tri thức phổ cập, bài trừ mê tín dị đoan. Ông nội Hồ Quốc Hoa cũng đi với tôi, ông nói triển lãm tuy khá khoa học, cũng khá là có lý, nhưng không toàn diện, vì trên đời này, nguyên nhân khiến người ta sau khi chết không bị thối rữa thật quá nhiều, một cái triển lãm nhỏ này không thể bao quát hết được. Có điều, những chuyện ông tôi nói kia, đương nhiên tôi không dám kể với Đinh Tư Điềm, chỉ là dựa theo ký ức của lần triển lãm ấy mà nói sơ qua một chút với cô, để cô khỏi lo lắng những cái xác này sẽ nảy sinh thi biến mà thôi.
Có điều, một người có trí tưởng tượng bình thường, rất dễ nảy sinh liên tưởng với những thứ mình nghe được. Càng nói khoa học, người ta lại càng liên tưởng đến những truyền thuyết mê tín từ thời phong kiến, đặc biệt là Tuyền béo lại không biết lựa lúc lựa lời, mồm lúc nào cũng ngậm một chữ “ma” chỉ chực phun ra. Cậu ta cứ vừa đi vừa cằn nhằn: “Cái Quỷ nha môn này mang tiếng là nơi tà quái, đi xuống sâu thế này rồi cũng chẳng thấy quái gì, lại càng chẳng có bóng ma nào, chỉ có mỗi một đống xác chết mọc đầy lông lá, thật vớ va vớ vẩn! Lúc ở chỗ cái lò thiêu xác chúng ta nghi thần nghi quỷ lại còn tưởng ở đấy có con ma bị nhốt, thực ra chỉ là bọn hoàng bì tử giở trò thôi, xem ra đúng là ma quỷ ở tại lòng người, kẻ ngu tự chuốc lấy phiền toái vào thân. Đầu óc chúng ta được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lê, thêm cả tư tưởng Mao Trạch Đông, thật không nên tin vào mấy cái lý luận của chủ nghĩa duy tâm ấy làm gì, đây là một sự sỉ nhục, là sự sỉ nhục của chủ nghĩa duy vật thế giới! Thế nhưng tại sao chúng ta lại hết lần này đến lần khác bị ăn quả lừa thế nhỉ? Xem ra bài học lịch sử không phải bao giờ cũng khiến người đi sau cảnh giác, đây là quy luật khách quan của đấu tranh giai cấp, ý chí con người không thể nào xoay chuyển được...”
Trong tiếng lảm nhảm tự tìm cớ cho mình của Tuyền béo, chúng tôi đã đi đến cuối con đường đá ngoằn ngoèo, chỗ này lại xuất hiện một cửa hang bị bít kín bằng những khối đá tròn màu trắng, bên trên dán rất nhiều bùa chú của Nhật Bản. Người Nhật nghi trong động Bách Nhãn này có ma, nên dán loại bùa chú kiểu này ở rất nhiều chỗ, kể cả chỗ lò đốt xác lúc ban đầu. Có điều, ma ở đây, rất có thể chỉ là bọn hoàng bì tử giở trò mà thôi.
Bức tường bằng đá ấy đã bị người ta dỡ ra, một lỗ hổng lớn lồ lộ trước mặt chúng tôi, bên trong thoáng hắt ra ánh sáng mờ mờ. Bọn tôi vốn tưởng xuống dưới đáy cái mộ khổng lồ này đã là tận cùng rồi, chẳng ngờ bên dưới này lại còn một không gian khác nữa. Chúng tôi cũng không dám đi thẳng vào, chỉ đứng bên ngoài gọi lão Dương Bì mấy tiếng, không thấy có hồi đáp, mới quyết định đi vào, tôi đây không tin rằng cái hang này không có đáy.
Tuyền béo vẫn đi trước mở đường, tay cầm cây bảo đao Khang Hy, vừa gọi tên lão Dương Bì, vừa lần dò từng bước một đi sâu vào hang. Tôi đỡ Đinh Tư Điềm đi sát phía sau. Được khoảng hai chục bước, Tuyền béo đột nhiên dừng lại, vẻ mặt hoang mang thì thào với hai chúng tôi: “Nhất này, vừa nãy ai bảo có ma thế? Thật chẳng có trách nhiệm gì cả, mau nhìn phía trước... phía trước kìa... cái... cái đó là gì thế?”
Tôi bước lên mấy bước xem thử, tức thì da gà nổi khắp người, thầm than không hay, sao lại có cả một khu đình đài lầu các kiểu cổ thế này, nơi đấy rốt cuộc là ở đâu vậy? Vả lại, trong những kiến trúc cổ xưa này, dường như còn thứ gì đó đang hoạt động nữa, lẽ nào chúng tôi đã lạc bước xuống điện Diêm La mất rồi?

Chương 47: Giếng vàng

Lối ra của hang động không dài lắm ấy là một cái cầu đá thiên nhiên, dưới cầu nước ngầm cuồn cuộn, qua phía bên kia, khung cảnh đột ngột rộng mở. Không hiểu nguồn sáng ở đâu mà thấy phát ra một thứ ánh sáng lờ mờ xam xám. Trong ánh sáng mông lung đó, hiện lên một quần thể kiến trúc cổ xưa, nhất thời cũng không thể phân biệt rõ được quy mô bố cục thế nào. Chúng tôi cũng không nhìn ra những phòng ốc điện đường này là cổ vật của triều đại nào, chỉ biết những rường cột điêu khắc chạm trổ kỹ lưỡng kia đều hết sức xa xưa, thật khó tưởng tượng trong động Bách Nhãn này lại chôn vùi cả một quần thể đình đài lầu các như thế.
Trong những căn nhà căn điện cổ kính âm u ấy, tựa như có rất nhiều bóng đen đang đi qua đi lại, tiếng người huyên náo thoắt xa thoắt gần. Tuy rằng kiến trúc xa xưa, nhưng lại không hề có dấu hiệu gì của sự cũ kỹ đổ nát, tựa hồ như đến giờ vẫn có người cư ngụ bên trong vậy. Ba chúng tôi cứ trợn mắt há hốc cả miệng, trong đầu hiện ra một câu hỏi, lẽ nào mình thật sự đã bước vào thế giới của linh hồn người chết? Thậm chí, tôi còn bắt đầu nghi ngờ không hiểu mình đang sống hay đã chết rồi nữa, bằng không sao có thể nhìn thấy cảnh tượng ở chốn địa phủ này?
Tôi thấy nước dưới chân cầu, vội ngồi thụp xuống vốc lên mấy vốc hắt vào mặt mình. Nước ngầm lạnh thấu xương, đúng thực không phải đang nằm mơ, cảnh tượng trước mắt toàn bộ đều là sự thực trăm phần trăm.
Tuyền béo và Đinh Tư Điềm cũng học theo tôi, lấy nước lạnh rửa mặt. Chỉ nghe Tuyền béo nói: “Cái cầu này làm tôi nhớ đến quê nhà Phúc Kiến quá. Ở đấy cũng có một cái cầu đá thiên nhiên hình thành do dòng thác ngầm trong hang động xối vào, người nhà quê đều gọi là Cầu Tiên. Nhưng năm đó cậu Nhất này lại giở trò điêu ngoa, cứ bảo đấy là do thần tiên trên trời đi tè xuống tạo nên... Phía trước trông như cõi Âm tào Địa phủ nhỉ, bước vào đấy rồi, cũng không biết đời này kiếp này có còn cơ hội về quê nhìn lại Cầu Tiên không nữa... Thôi tốt nhất ta cứ nên chuẩn bị tinh thần sẵn sàng ở lại Âm phủ làm đầu trâu mặt ngựa chuyên nghề dán áp phích đi.”
Tôi thấy thần sắc Đinh Tư Điềm thoáng lộ nét ảm đạm, có lẽ tại cô nghe thấy Tuyền béo nhắc đến chuyện về nhà, nên cảm xúc nhớ quê cũng dấy lên. Lúc đó, tôi không biết rằng khi chịu áp lực lớn, con người ta thường sẽ nảy sinh một thứ cảm xúc vô cùng nhung nhớ quyến luyến quê hương nơi mình sinh ra và lớn lên. Tôi nhìn vào vùng xám mờ sâu bên trong hang động, thở dài một tiếng, rồi nói với Đinh Tư Điềm và Tuyền béo: “Làm gì có nhà chứ, cha mẹ chúng ta nếu không phải bị thẩm vấn cách ly thì cũng bị đưa ra vùng biên làm việc rồi, nhà cửa phòng ốc đều niêm phong cả lại. Người cách mạng lấy việc thiên hạ làm việc của mình, sau này chúng ta cứ coi bốn biển là nhà thôi...” Nói tới đây, trong lòng tôi chợt bùng lên một ngọn lửa vô danh, hai hàm răng nghiến chặt lại, tôi đứng thẳng người lên, vẫy tay gọi hai người còn lại: “Bọn đế quốc còn bị chúng ta chôn vùi tiêu diệt rồi, còn sợ gì Âm tào Địa phủ với cả Diêm vương Diêm viếc nữa! Đằng nào cũng đã đến nước này rồi, không tìm được lão Dương Bì quyết không quay đầu lại, tôi thấy chúng ta cứ đi thẳng qua đó thôi, để xem bên trong cái thành quỷ ấy có cái thá gì.”
Ba chúng tôi lấy nước lạnh táp vào mặt, đều cảm thấy tinh thần phấn chấn lên nhiều, miệng hát vang một ca khúc cổ động, kiểu tung hỏa lực đánh bại bè lũ đen tối, từng bước từng bước đi vào vùng âm u xám xịt kia. Bốn phía hang núi chập chờn ánh lửa ma trơi, thứ lửa ma ấy kỳ thực chính là lân tinh, chỉ cần tiếp xúc với dương khí của người sống, là từng đám từng đám cầu lửa màu xanh lục sẽ theo dấu người, thoắt sáng thoắt tối. Chúng tôi phải cậy vào tráng trí đấu tranh hừng hực mới dám đi sâu vào bên trong, nhưng càng đến gần tòa thành mây khói vẩn vít ấy, lại càng thấy hai chân mềm nhũn, bước thấp bước cao, tưởng như đang giẫm lên gối bông, muốn đứng vững cũng thấy rõ là rất mất sức.
Tôi thầm rủa mình vô dụng, sao càng đi chân lại càng mềm nhũn ra thế này, tương lai ngộ nhỡ có xảy ra Đại chiến thế giới lần thứ Ba, ra chiến trường gặp địch đổ máu, há chẳng phải sẽ sợ vãi cả đái ra quần hay sao?
Chợt một bóng người màu xám hùng hục lướt thẳng về phía chúng tôi. Cả ba người đều giật bắn mình, loạng choạng nhảy tránh vội sang một bên, nơi cửa hang lùa vào một trận gió lạnh, cái bóng kia liền lập tức biến vào vùng tối, không thấy đâu nữa. Cơn gió cuộn đến đâu, đình đài lầu các, đèn đuốc bóng người biến mất đến đấy, trong chớp mắt tất cả đã không tăm tích, chỉ còn lập lòe ánh lửa ma trơi dày đặc giữa những tảng đá lởm chởm. Bọn tôi đều lấy làm kinh ngạc: “Có phải chợ ma không nhỉ?” Tuyền béo thò tay ra sờ mó chỗ cái bóng người kia biến mất một hồi lâu, rồi thắc mắc: “Sao lại chui vào trong đất được nhỉ?”
Tôi cảm thấy dưới chân càng lúc càng không vững, vội kéo Đinh Tư Điềm và Tuyền béo dựa vào vách núi, bấy giờ mới phát hiện không phải vì sợ quá chân mềm nhũn ra, mà tại mặt đất không hề bằng phẳng, bước đi liền giẫm lên nhiều khối đá hình tròn, rất dễ mất trọng tâm. Khói nhạt phủ kín mặt đất trong sơn động, chân bước đều lún vào trong đó, không nhìn được bên dưới, tôi bèn thò tay xuống sờ thử, định xem cho rõ rốt cuộc là thứ gì.
Đinh Tư Điềm căng thẳng hỏi tôi xem dưới đất có gì, liệu có phải xương đầu lâu người chết hay không. Tôi bảo, làm gì có chuyện đầu lâu to như thế, giống như là cái chảo ngược xuống đất hơn, rờ thử thấy trơn bóng. Trong lúc nói chuyện, tay tôi đã rờ đến mép vật ấy, liền vận lực một cái, không ngờ đã nhấc được cả một khối gỗ lên khỏi mặt đất.
Quan sát kỹ lưỡng trong làn khói bụi và mùi hôi thối xộc lên mũi, mới phát hiện hóa ra thứ bị tôi nhấc lên đó là một cái mai rùa to tướng, bên trong vẫn còn xác của con rùa già, đã mọc lông dày đặc. Xem ra, trong hang này còn có vô số mai rùa thế này nữa. Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đều lấy làm lạ, không hiểu thế này là thế nào.
Riêng tôi thì bỗng sực hiểu ra: Đây là Quy miên địa, Quy miên địa thực sự, là nơi lũ rùa già dưới biển khi tự biết mạng mình không còn được bao lâu nữa, bò đến để tự chôn xác, giống hệt như những gì được tả trong Thập lục tự âm dương phong thủy bí thuật. Những cái xác chôn ở tầng phía trên, nhất định là muốn mượn linh khí của Quy miên địa này hòng “vũ hóa phi thăng” rồi.
Đinh Tư Điềm hỏi tôi: “Vậy đây có phải chốn Âm tào Địa phủ không?” Tôi lắc đầu, kiến thức của tôi cũng rất hữu hạn, ai mà biết đám người cổ đại đó nghĩ thế nào chứ. Có điều, nghe nói ở các vùng duyên hải có truyền thuyết rằng, rùa già sống dưới biển nghìn năm vạn năm, trong vỏ mai và thi thể đều có rất nhiều “hải khí”, vì vậy ở nơi đàn rùa chôn thây, tất sẽ sinh ảo ảnh của nơi chúng từng sinh sống. Tòa kiến trúc xam xám mờ mờ mà chúng tôi trông thấy đó, rất có thể là nơi tụ tập của lũ rùa ngoài biển khơi. Tôi đoán, có đến tám phần mười là bởi người thời xưa đã coi ảo ảnh do hải khí của lũ rùa tạo ra thành chốn Âm tào Địa phủ, nên mới chôn nhiều người chết ở đây như thế, đồng thời còn nghĩ ra truyền thuyết về Quỷ nha môn nữa.
Thời bấy giờ, tôi mới chỉ biết được chút ít ngoài rìa của thuật phong thủy, ấy là bởi những lúc nhàn rỗi thường giở cuốn Thập lục tự âm dương phong thủy bí thuật ra xem bừa, cộng với hồi bé nghe ông nội Hồ Quốc Hoa kể chuyện, còn lý luận cụ thể thì hoàn toàn không nắm rõ. Đằng nào thì nói ra mấy chuyện này, Tuyền béo với Đinh Tư Điềm cũng chẳng thể hiểu được, chúng tôi đành tạm gác lại, tiếp tục tìm kiếm lão Dương Bì trong hang động khổng lồ.
Đi sâu nữa vào là đã đến cận cùng của hang động, dưới đất và trên đầu lởm chởm thạch nhũ, khói nhẹ vẩn vít bay. Ở đây có một cái giường đá lớn, bên dưới có rất nhiều quan tài đá, tạc thành hình người, dài chưa đến nửa mét, nằm nghiêng ngả rất hỗn loạn. Trên nắp quan tài đều có hình khắc đủ loại nhân vật nam nữ, đường nét tuy sinh động, nhưng mặt mũi lại khiến người ta có cảm giác vô cùng đáng ghét. Tuyền béo nhìn thấy thì bực cả mình, giơ chân đá luôn. Chiếc quan tài vốn đã bị cậy ra rồi lại đậy vào, nắp đóng không chặt lắm, Tuyền béo đá cho một cú liền đổ nhào, thứ ở bên trong lăn lông lốc dưới đất, liếc thấy chỉ là xác một con hoàng bì tử, Tuyền béo tức quá chửi bới loạn cả lên.
Tôi phát hiện trên bệ đá này khắc rất nhiều hình ảnh đàn bà đeo mặt nạ làm phép, chiêm bốc, lại có rất nhiều người chân thành quỳ lạy dâng lễ, bèn nhắc nhở Tuyền béo chớ nên làm bậy, đây rất có thể chính là nơi ban đầu đặt cái xác của nữ vu sư đeo mặt nạ kia. Có điều, bảo đấy là một cái xác thực ra cũng không được thích đáng cho lắm, người đàn bà ấy đã bị khoét rỗng, chỉ còn lại bộ da, gọi là đạo cụ của bọn lừa đảo dùng kết hợp với hoàng bì tử để mê hoặc lòng người thì đúng hơn. Cảm giác hốt hoảng bất an khi lần đầu tiên nhìn thấy cái vỏ xác trong gian thạch thất dường như lại xuất hiện, có lẽ chúng tôi đã không còn cách lão Dương Bì và cái rương đông thần bí kia quá xa nữa.
Trong lúc tôi và Tuyền béo nói chuyện, Đinh Tư Điềm đã vòng sang phía bên kia bệ đá, đột nhiên khẽ kêu lên một tiếng, tôi vội vàng chạy qua xem sao. Chỉ thấy lão Dương Bì đang ôm cái rương đồng nằm hôn mê bất tỉnh đằng sau bệ đá. Bậc đá hình chữ nhật dường như là một cái nắp, đã bị ông đẩy ra một góc nhỏ, lộ ra một cái hốc, bên trong xây quây bằng những viên gạch to tướng. Trên viên gạch có tiêu ký hình con rồng màu đen, hình dạng giản ước, nếu không phải có móng vuốt, thì rất dễ nhận lầm thành con lươn. Tôi thấy kỳ lạ, nhìn đi nhìn lại thật kỹ mấy lượt, các tiêu ký hình rồng trên gạch cơ hồ giống hệt nhau, khó hiểu nhất là lũ rồng đều không có mắt. Thường có câu rằng “vẽ rồng điểm mắt”, rồng không có mắt há chẳng phải thành rồng mù hay sao? Trong cái hốc này mai rùa cũng xếp tầng tầng lớp lớp, dường như chính là một cái “giếng vàng” trong huyệt mộ phong thủy, dùng để ngưng tụ sinh khí trong mạch đất, nhưng không hiểu người ta vẽ rồng lên mấy viên gạch này để làm gì? Tôi đoán, lũ rồng không có mắt không hiểu có phải do người Nhật làm hay không? Nhưng nhìn kỹ lại thì có vẻ không phải, trên viên gạch không hề có dấu vết bị con người cạo xóa.
Tôi thấy cái rương đồng cổ quái kia chưa bị mở ra rốt cuộc cũng thở phào nhẹ nhõm. Ba người bước đến đỡ lão Dương Bì dậy, vừa xoa ngực vừa đấm lưng, lại luôn miệng gọi tên, một lúc lâu mới khiến ông tỉnh lại được. Thì ra, lúc ông đẩy phiến đá chắn bên trên huyệt động ra, liền bị âm khí tích tụ bên trong xông lên làm xây xẩm mặt mày, ngất xỉu tại chỗ. Cũng may đây là giếng vàng trong cổ mộ, khí thể bên trong tuy đã trầm tích nhiều năm, nhưng lại là sinh khí được hun đúc trong đất báu phong thủy, chứ nếu là hơi xác chết thì ba hồn bảy vía ít nhất cũng bay mất đi một nửa rồi.
Lão Dương Bì định thần lại, vẫn chưa hiểu ba chúng tôi tìm được ông bằng cách nào. Còn tôi, tuy có rất nhiều điều cần hỏi, nhưng thấy âm phong trong hang động này lúc có lúc không, những lúc không có gió thì cảnh tượng đình đài lầu các nhà cửa mờ mờ ảo ảo kia lại hiện ra, không khí thập phần quỷ dị, xem ra nơi này không tiện ở lâu, không phải là nơi để nói chuyện, nên phải tính toán dẫn cả bọn mau chóng rời khỏi đây trước. Nhưng ánh mắt lão Dương Bì vô cùng hỗn loạn, cứ nhìn chằm chằm vào cái rương đồng dưới đất: “Mau bỏ cái rương đồng vào giếng vàng...” Ông già không ngừng lặp đi lặp lại, chỉ nói với chúng tôi một câu duy nhất ấy.
Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đều ngoảnh lại nhìn tôi. Tôi biết hai người đang đợi tôi đưa ra chủ ý, có nên làm theo lời lão Dương Bì hay không? Tôi thầm nhủ, cái thứ họa hại này tuyệt đối không thể mang trở về khu chăn nuôi được, ném vào trong giếng vàng này cũng tốt. Vì đang nôn nóng muốn rời khỏi đây, tôi cũng chẳng nghĩ ngợi gì nhiều, liền gật đầu đồng ý luôn. Tôi đang định ra tay thì Tuyền béo đã sớm hơn một bước, bước đến ôm lấy cái rương toan ném vào trong cái hốc tối đen. Nhưng không ngờ cái rương ấy niên đại đã quá lâu, đồ cổ vốn mỏng manh, chất đồng đã bị thủy thổ làm cho hư hoại, rồi lại bị lão Dương Bì vừa lê vừa kéo đi cả một quãng dài, Tuyền béo vừa cầm lên khỏi mặt đất, nắp và thân rương đã rời nhau ra, thứ đựng ở bên trong liền rơi xuống đất đánh “bộp” một tiếng.


Nguồn doc.178vn.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét