Hồi 98: Bát Quái Giáo phá cung Thanh
Một năm trước, khi Lâm
Thanh mưu phản, quan Đồng trị huyện Đạm Thuỷ tỉnh Đài Loan có bắt được một giáo
đồ tên gọi Cao Ma Đạt. Đạt tự nhận là tiểu đầu mục của Bát Quái Giáo và cung
khai là còn có vị đầu mục Lâm Thanh thông đồng với bọn thái giám tại kinh đô,
ước định mùa thu sang năm hội binh mã đánh thẳng vào cung. Quan Đồng Trị được
tin này, vội viết văn thư đưa về kinh. Quan đại thần tại kinh nhận được lại cho
là y hoảng bảo, ném đi không thèm tâu.
Hồi 99: Mất vợ chỉ vì có vợ đẹp
Lại nói Lý Văn Thành
chiếm được Hoạt huyện. Được tin Lâm Thanh đã chết, bèn triệu tập một vạn đồ
đảng rùng rùng khởi loạn suốt một giải Sơn Đông, Hà Nam , nói để báo thù cho Thanh.
Thành ỷ có sông Vận Hà vận chuyển lương thực dễ dàng tiện lợi nên đóng quân
suốt dọc sông này, chống chọi với quan quân của triều đình. Tổng đốc Trực Lệ là
Ôn Thừa Huệ, tuần phủ Hà Nam là Cao Dĩ đem quân đánh, đều bị Thành đả bại tơi
bời. Gia Khánh đế bèn hạ chỉ sai tổng đốc Thiểm Cam là Na Ngạn Thành đem quân
Sơn Đông và Hà Nam
đi tiêu diệt giáo đồ.
Na Ngạn Thành có một vị phó
tướng tên Dương Ngô Xuân, hết sức kiêu dũng, đã nhiều lần chinh đông dẹp tây,
khiến các giáo đồ thấy đều sợ hãi. Xuân có ba chòm râu dưới cằm nên thường được
gọi là "Tướng Râu". Và mỗi lần nghe nói tướng râu tới là cả bọn ai
cũng lo tháo thân trước. Về sau lại có thêm tướng Dương Phương cũng đem quân từ
Thiểm Tây tới để trợ chiến. Hai vị tướng họ Dương này đã lấy lại được nhiều
thành trì, giết chết đến hơn hai vạn giáo đồ Bát Quái Giáo.
Lý Văn Thành chạy trốn tới gò
Bạch Thổ cương thì bị phục binh tứ phía bao vây. Thành biết mình trúng kế, tính
mạng khó toàn, bèn đốt một đống lửa tự thiêu chết. Từ đó, ba tinh Trực Lệ, Sơn
Đông, Hà Nam
mới được yên.
Gia Khánh đế nghĩ tới chuyện
đáng sợ vừa qua của các giáo đồ, bèn hạ chiếu: "Từ nay về sau, bất luận tôn
giáo nào, nhất luận đều bị nghiêm cấm".
Hồi đó, có viên tri huyện huyện
Dương được tin một vị giáo sĩ người nước Anh truyền đạo tại huyện mình, chẳng
hỏi ba bảy hai mươi mốt gì, bắt ngay đem về thắt cổ chết. Thế là vua nước Anh
cáu tiết, phái luôn một lúc mười ba chiếc tàu binh tới chiếm Áo môn. Tổng đốc
Lưỡng Quảng Hùng Quang hoảng lên, cấp báo về kinh. Gia Khánh đế hạ chỉ bảo
Quang phong cấm đường thuỷ, đoạn tuyệt lương thực địch. Quả nhiên, quân Anh
không thể giữ mãi, đành quay về Ấn Độ.
Cũng hồi đó, trên mặt bể mấy
tỉnh Giang Chiết, Lưỡng Quảng thường có một bọn cướp bể xuất hiện. Hoàng đế hạ
chỉ cho các tỉnh duyên hải huấn luyện thêm hải quân, đóng nhiều binh thuyền,
tăng cường tuần thám trên biển. Ngài cũng nghiêm cấm tàu bè ngoại quốc chở
thuốc phiện lậu. Mỗi khi tàu cập bến, tức thì đóng cửa, nghiêm ngặt khám xét,
bắt được hai trăm cân trở lên đều được thưởng. Bởi thế bọn nhân viên kiểm nã
càng sưu tra gắt. Thuyền bè ngoại quốc không dám cập bến nữa.
Gia Khánh đế lúc này thấy trong
ngoài đã thái bình, bèn có ý xuất kinh tuần thú. Thế là ngài lên đường vào
tháng ba năm đó. Tới Ngũ Đài sơn hồi tháng năm, rồi ngài từ Ngũ Đài sơn trở về.
Ngài lại tuần hành Nhiệt Hà tránh nóng.
Tại vùng Nhiệt Hà ngài có toà
sơn trang nghỉ mát một mặt tựa vào núi, ba mặt kề mép nước, xây cất rất là tân
kỳ tráng lệ. Gia Khánh đế ở tại nơi đây, cứ nghĩ tới những chuyện phong lưu thú
vị của các đời vua triều trước mà khoái thích.
Từ khi tịch biên hết gia sản
của Hoà Khôn, ngài tỏ ra rất khoan khoái thư thái. Ngài vốn nổi danh là một vị
vua tiết kiệm trong lịch sử, nhưng hoàng đế lúc tuổi già, bỗng nghĩ tới cái
cảnh "nhân sinh kỷ hà" thì làm sao chả thèm muốn cái chuyện "vớt
vát". Ngài bèn truyền lệnh ngầm cho nội vụ đại thần tới Giang Nam, tìm
kiếm vật liệu để xây cất ngay tại đây một khu nghỉ ngơi cho ngài.
Lúc này, Gia Khánh đế đã lập
thêm mấy bà phi nữa. Ngài tìm vui hưởng thú suốt ngày trong vườn với người đẹp.
Chẳng bao lâu, đại thần trông coi việc tìm kiếm vật liệu trở về, đem theo mô
hình của toà Kính Hổ đình. Nó vốn là tác phẩm của hai vợ chồng Vương Sâm do
tuần phủ Chiết Giang bảo làm.
Nay nghe hoàng đế có ý xây cất
đền vũ, tuần phủ Chiết Giang bèn đem dâng mô hình toà đình này và sai cả hai vợ
chồng Sâm lên Nhiệt Hà nữa. Mặt khác, ông còn dâng lên một bản tấu chương ca
tụng tài nghệ kiến trúc của vợ chồng Vương Sâm, đồng thời xin hoàng đế cho họ
đứng coi chương trình kiến tạo viên đình đó.
Gia Khánh hoàng đế bảo đem mô
hình ngôi đình lên cho ngài xem. Một tên nội giám bưng lên một cái hộp, bên
trong đặt ngôi đình nhỏ xíu. Hoàng đế xem xét kỹ lưỡng, quả thấy ngôi đình kiến
trúc cực kỳ tinh xảo: ngói bằng pha lê, cột bằng thuỷ tinh, tường chung quanh
bốn mặt gắn hàng mấy vạn miếng kính nhỏ, lấp lánh hào quang. Ở giữa đình đặt
một chiếc giường bằng ngà voi, chung quanh cẩn những miếng kính lớn.
Gia Khánh đế xem xong, tấm tắc
khen đẹp. Ngài lại truyền lệnh cho hai vợ chồng Vương Sâm vào bệ kiến, viên
thái giám hồi tâu nói hai vợ chồng Vương Sâm vì không có công danh gì nên không
dám vào. Gia Khánh đế tức khắc thưởng cho Sâm áo mũ hàng thất phẩm. Hai vợ
chồng Vương Sâm ăn mặc tề chỉnh rồi mới rón rén bước vào, bò mọp dưới đất. Sâm
thấy hoàng đế, người bỗng run bắn lên như bị sốt, còn vợ Sâm thì cúi đầu quỳ
lạy một bên.
Gia Khánh đế ngắm nhìn vợ Sâm thấy nàng yểu điệu duyên dáng, da trắng, má đào, bỗng thấy trong người xúc động bâng khuâng. Ngài bảo ngẩng đầu lên và thấy nàng quá đẹp, lông mày cong, cặp mắt lóng lánh như sóng nước mùa thu, miệng xinh, mũi dọc dừa, phảng phất mùi hương phấn. Ngài nhủ thầm: trong cung nội, không biết bao cung tần mỹ nữ, thế mà chẳng có ai đẹp bằng nàng. Bỗng mắt ngài sáng lên, mặt tươi như hoa. Ngài vừa cười khì khì vừa hỏi nàng họ gì thì nàng nhỏ nhẹ tâu họ Đổng. Ngài lại hỏi nàng lấy chồng đã bao lâu thì Đổng thị đáp: đã bốn năm. Lại hỏi: mô hình toà Kính Hổ đình có phải là do hai vợ chồng làm ra không, thì nàng đáp: mái ngói, cột tường thì do chồng nàng làm, còn điêu khắc cẩn khảm là do nàng làm. Gia Khánh đế khen cả hai người tài nghệ khéo léo, sau đó sai cho đưa Vương Sâm vào xảo nghệ viện chờ đợi sai khiến. Còn Đổng thị thì ngài cho đưa vào nội đình để làm cung phụng nữ quan.
Trong hoàng cung có một bọn
cung phụng nữ quan, chuyên việc khâu vá, viết vẽ, điêu khắc những đồ nữ công
tinh xảo. Làm chức nữ quan này, phần lớn là người Hán. Từ khi vào nội uyển,
Đổng thị chẳng phải làm gì, chỉ suốt ngày hầu hạ hoàng đế du ngoạn quanh đảo mà
thôi, Đổng thị thực tâm chẳng có ý muốn hầu hạ hoàng đế, nhưng nàng biết trong
cung cấm có bướng bỉnh cũng chẳng ích gì. Thấy tính tình Hoàng đế hết sức ôn
nhu, bữa nọ nàng vừa khóc vừa xin ngài cho nàng ra thăm chồng một bữa. Ngài
cười và vỗ về nàng:
- Nàng hãy chịu khó ở nơi đây
một năm rồi trẫm sẽ cho người đưa nàng về nhà.
Lại hỏi nàng:
- Nàng ở Giang Nam đã được nhìn
thấy Tây Hồ chưa?
Đổng thị đáp:
- Tây Hồ chính là quê của tiện
thiếp, làm sao lại chẳng thấy?
Thế là hoàng đế sai nàng làm
một cái mô hình Tây Hồ mười cảnh, từ đó nàng ở trong cung nhào đất, nặn bủn, tỉ
mỉ khởi công sáng tạo tác phẩm của mình. Hoàng đế hằng ngày ngồi ở bên cạnh xem
nàng làm, cũng có khi ngài pha thuốc màu, nhào đất cho nàng. Trong căn nhà vắng
lặng, hai người quấn quýt chẳng khác gì đôi vợ chồng dân dã vô cùng yêu thương
nhau.
Cũng có lúc không thể ngăn lòng
được, ngài kéo nàng vào toan tính chuyện ân ái thì nàng nhỏ đôi dòng lệ, khẩn
khoản cầu xin. Nàng nói:
- Hoàng thượng có đến ba ngàn
hương phấn, há tất cứ phải phá hoại trinh tiết của tiện thiếp?
Gia Khánh đế thấy nàng có vẻ
đáng thương, lòng cũng mềm lại. Mấy lần nhờ đó mà Đổng thị thoát được. Song
hoàng đế vẫn vương vấn nhớ nhung, không thể nào rời xa nàng được.
Cho nên ngày nào cũng phải ghé
qua nói cười một lúc, miễn là được thấy dung nhan nàng là toại nguyện rồi. Ngài
thường nói với bọn thái giám:
- Ngày xưa Ngô Giáng Tiên đẹp
đến nỗi người ta ăn gì cũng thấy ngon. Nay Đổng thị đẹp đến nỗi khiến người ta
quên cả ăn cả ngủ.
Câu nói này truyền vào cung
cấm, nhiều phi tần có vẻ đố kỵ với Đổng thị. Hơn nữa, họ lại thấy hoàng đế suốt
ngày ở Quỳnh đảo với nàng, không tới thăm bà nào, cô nào nữa, cho nên họ lại
càng ghen tức thêm. Họ đồn rằng Đổng thị chỉ là một con hồ ly tinh mê hoặc
hoàng đế. Thế rồi họ đến mách với hoàng hậu. Bà hậu này nổi danh hiền đức sáng
suốt, nghe lời nói của bọn phi tần, cho rằng bọn này ghen tuông, đem lời khuyên
can họ. Họ không ngờ rằng giữa hoàng đế và Đổng thị chưa hề có chuyện gì dâm ô
xấu xa cả. Sở dĩ có được điều tốt đẹp này là nhờ ở cái đẹp như thiên tiên, cái
đức tinh khiết của nàng khiến Hoàng đế phải kính phục mà trấn áp được lòng dục.
Tới lúc thân mật nhất, bất quá cũng chỉ có một cái nắm tay là cùng.
Điều khổ tâm nhất là tình cảnh
cô đơn thê thảm của Vương Sâm, trong khi chàng bị bỏ quên nơi viện xảo nghệ,
ngày đêm nhớ tới người vợ vừa, đẹp vừa hiền đức. Chàng cầu khẩn viên tổng quản
thái giám cho tới gặp mặt vợ chàng nhưng y chỉ đáp rằng người mà hoàng thượng
đã giữ lại thì làm sao y dám tới gọi được. Thế là từ đó Vương Sâm như điên như
dại, suốt ngày lúc khóc lúc cười khiến mọi người trong viện cho rằng chàng đã
mất trí, chẳng thèm để ý tới chàng nữa.
Bỗng một hôm hoàng thượng từ
trong cung đi ra: Sâm nhìn thấy vội bò mọp trên mặt đất, dập đầu liên hồi xin
ngài cho phép vợ chồng ra ngoài gặp mặt một lần. Hoàng đế cười nói:
- Vợ người thủ công hết sức
tinh xảo nên hoàng hậu lưu lại trong cung, không chịu cho ra nữa. Nếu người sợ
buồn bã tẻ lạnh, trẫm sẽ thưởng cho người một cô cung nữ nhé!
Nói đoạn, ngài đi luôn. Đêm hôm
đó, quả nhiên trong cung đình đưa ra một cô cung nữ thật. Viên thái giám quét
dọn cho Sâm một căn phòng thật sạch sẽ, rồi đưa cả hai vào bên trong. Không ngờ
luôn ba đêm, hai người chẳng ai gần ai. Sâm lại càng nổi cơn điên dại. Thấy ai
Sâm cũng kêu, cũng cầu xin được gặp mặt vợ mình.
Hoàng đế biết hết mọi hành
động, thái độ của Sâm. Ngài thăng chàng lên quan hàm ngũ phẩm, lại thưởng cho
chàng hai vạn lạng bạc, rồi sai hai tên thị vệ đưa về Giang Nam, thưởng thêm cả
cô cung nữ nọ nữa.
Cô cung nữ này vốn người Giang
Nam, nên rất sung sướng được trở về quê nhà, cũng nguyện ý lấy Sâm. Sâm bảo
nàng:
- Tôi cùng với vợ tôi, hai
người tình nghĩa sâu như biển cả, chẳng may nàng bị giữ lại nơi cung cấm, tôi
không thể nhẫn tâm phụ nàng được.
Nói đoạn, chàng cho cô cung nữ
ba ngàn lạng bạc, đưa về nhà cha mẹ để đi lấy chồng. Chàng lại mang theo một
vạn lạng bạc, lẻn lên Nhiệt Hà, bỏ tiền ra đút lót bọn thái giám, dò la tin vợ
mình. Bọn thái giám thấy Sâm yêu quý vợ con đến đáng thương, bèn vào cung thăm
dò tin tức cho chàng.
Cách vài hôm, Đổng thị gửi ra
cho chàng một phong thơ nói:
"Thiên tử là người rất đa
tình nhưng thiếp ở trong cung đã mười tháng vẫn không hề bị thất tiết. Thiếp đã
cầu xin ngài thì hiện ngài đã hứa mãn một năm sẽ cho thiếp trở về nhà, vợ chồng
đoàn tụ như xưa!"
Vương Sâm nhận được tin này,
mừng rỡ khôn xiết. Từ đó chàng ở bên ngoài yên tâm chờ đợi. Những lúc rỗi rảnh,
chàng cùng bọn thái giám vào cao lâu tửu điếm uống rượu mạn đàm.
Bọn thái giám thấy Sâm đã hết
khùng, tính tình trở lại bình thường, nên hay đem những chuyện bí mật trong
cung cấm nói cho chàng nghe: nào là hôm nay hoàng đế triệu bà phi thứ mấy, ngày
mai, ngài đưa một bà phi thứ mấy khác đi du ngoạn… không một ngày nào là không
có kẻ tới nói chàng nghe những chuyện như vậy.
Có một hôm, một thái giám tới
bảo chàng:
- Đêm nay, Oanh Tần phát ghen
quá xá, chỉ tại hoàng thượng sủng ái Đổng thị. Ngài thường tới Quỳnh đảo thăm
nàng khiến Oanh Tần chịu không nổi cơn ghen, chạy vội tới nắm Đồng thị đánh đấm
túi bụi, mãi khi Hoàng đế quát bảo mới ngừng tay. Oanh Tần còn nắm vạt áo hoàng
đế kéo về phòng mình nữa, nhất định không chịu thua Đổng thị.
Vương Sâm nghe xong liền nói:
- Đường đường một vị thiên tử
mà phải sợ một phi tần ư?
Tên thái giám thì thầm nói với
Sâm:
- Không phải thế đâu. Vạn tuế
gia đa tình quá trời mà. Nghe nói ngài quen biết Oanh Tần từ khi còn chưa làm
lễ đại hôn kia. Nhớ đến tình cũ nghĩa xưa, ngài chẳng khỏi sủng ái bà ta hơn
chút ít đó thôi.
Sâm nghe đoạn, rơi lệ nói:
- Có con cọp cái ấy trong cung
thì chỉ khổ cho vợ tôi mà thôi.
Tên thái giám an ủi đôi ba lần
rồi bảo Sâm:
- Vợ anh sắp được ra rồi, buồn
khổ mà làm gì!
Sắp tới cái ngày đủ năm đó,
Vương Sâm ở bên ngoài, lòng như kiến bò trên chảo rang. Chàng chờ đợi từng giờ
từng phút.
Rồi một hôm, Sâm ước định với
viên Tổng quản thái giám đợi ở toà lầu trên bờ hồ. Phía sau hồ lầu, có một cái
hồ lớn.
Trên lầu bán rượu và đồ nhậu.
Vương Sâm đến nơi hẹn còn sớm, gọi rượu ra, khề khà trước để đợi. Một lát sau,
Sâm thấy một tên thái giám hoảng hốt chạy tới, mặt mất cả thần sắc, Sâm thấy
thế, lòng bỗng như lửa đốt, biết có chuyện gì nguy kịch, vội hỏi:
- Vợ tôi làm sao rồi vậy?
Tên thái giám chẳng nói gì rõ,
chỉ an ủi Sâm:
- Tôi khuyên anh đừng nên buồn
khổ làm gì!
Gia Khánh đế ngắm nhìn vợ Sâm thấy nàng yểu điệu duyên dáng, da trắng, má đào, bỗng thấy trong người xúc động bâng khuâng. Ngài bảo ngẩng đầu lên và thấy nàng quá đẹp, lông mày cong, cặp mắt lóng lánh như sóng nước mùa thu, miệng xinh, mũi dọc dừa, phảng phất mùi hương phấn. Ngài nhủ thầm: trong cung nội, không biết bao cung tần mỹ nữ, thế mà chẳng có ai đẹp bằng nàng. Bỗng mắt ngài sáng lên, mặt tươi như hoa. Ngài vừa cười khì khì vừa hỏi nàng họ gì thì nàng nhỏ nhẹ tâu họ Đổng. Ngài lại hỏi nàng lấy chồng đã bao lâu thì Đổng thị đáp: đã bốn năm. Lại hỏi: mô hình toà Kính Hổ đình có phải là do hai vợ chồng làm ra không, thì nàng đáp: mái ngói, cột tường thì do chồng nàng làm, còn điêu khắc cẩn khảm là do nàng làm. Gia Khánh đế khen cả hai người tài nghệ khéo léo, sau đó sai cho đưa Vương Sâm vào xảo nghệ viện chờ đợi sai khiến. Còn Đổng thị thì ngài cho đưa vào nội đình để làm cung phụng nữ quan.
Hồi 100: Chính sách tiết kiệm của Đạo Quang
Viên thái giám này, nhà
vốn ở cách Quỳnh đảo rất gần. Nhất cử nhất động của Đổng thị y đều biết cả. y
bảo Vương Sâm.
- Từ khi vợ ngươi vào cung,
hoàng thượng rất yêu kính nàng. Hằng ngày, ngài ngồi nhìn nàng nặn đắp Tây Hồ
thập cảnh. Ngài thường khen nàng tuyệt kỹ. Cứ mỗi lần nàng làm xong công việc,
hoàng thượng đều có đồ thưởng tứ: khi thì châu báu, khi thì y phục. Nàng cũng
bầu bạn với hoàng thượng, lúc thì đánh vài ván cờ, lúc thì dạo vài bản nhạc.
Hai người tuy thân mật hết sức, nhưng tuyệt nhiên không có chuyên sa ngã lỗi
lầm. Mấy hôm vừa đây, chỉ vì hoàng thượng bị Oanh Tần giữ rịt lấy nên không thể
tới Quỳnh đảo. Đổng thị một mình làm việc trong nhà. Tối hôm đó, bỗng xảy ra
chuyện rùng rợn…
Viên thái giám nói tới đây,
Vương Sâm bỗng tái mặt. Hắn vội khuyên Sâm chớ có huỷ hoại thân thể rồi lại
tiếp.
- Tối qua, bọn lính gác đã điểm
canh ba. Bỗng tôi thấy có tiếng động mở cửa cung, nhưng vì ở xa, nghe chẳng
được rõ, nhất là lúc đó đang mê ngủ. Một lát sau, tôi lại thiếp đi.
Nhưng rồi tôi giật bắn mình
lên, chỉ vì tai nghe đánh rầm một cái ở phía cửa sổ. Thế là trông Quỳnh đảo trở
thành náo loạn. Sau đó là tiếng một người con gái kêu la ầm ĩ. Tôi không còn có
thể ngủ được nữa, bèn nhỏm dậy mặc áo, gọi mấy người đồng bạn chạy vội tới
Quỳnh đảo. Nhìn vào phòng Đổng thị, bọn tôi thấy cửa sổ mở toang. Chạy hẳn vào
bên trong, bọn tôi thấy chăn gối trên giường Đồng thị bị đạp xéo nhàu nát ngổn
ngang. Hoa vàng rơi rải rác đó đây. Ngay bên cửa sổ, bên cạnh bao lơn, cũng còn
thấy một chiếc trâm ngọc rơi nằm đó, nhưng đã gãy nát. Đó chính là chiếc trâm
nàng thường gài hằng ngày. Chẳng biết nàng đã đi đâu mất dạng… Hôm nay, bọn tôi
đã tới tâu rõ cho hoàng thượng hay. Ngài sai người đi khắp nơi tìm kiếm. Thấy
có chiếc áo hồng lót mình nổi trên mặt hồ Thái Dịch, xem kỹ mới biết là áo của
Đổng thị. Hoàng thượng vội sai các tay bơi lội nhảy xuống hồ tìm kiếm, nhưng
chẳng thấy tông tích…
Vương Sâm từ nãy đến giờ theo
dõi từng lời kể một, và chỉ hy vọng có một cứu tinh nào đó giải cứu vợ mình.
Nhưng khi nghe tới đây, xem ra không còn có cứu tinh nào nữa, thì lòng đã như
chết hẳn. Nhè lúc viên thái giám không để ý, Sâm la lên mấy tiếng: "Đau
khổ quá, mình ơi" rồi nhảy phóc ra cửa sổ phía sau lầu.
Viên thái giám vội chạy theo
níu lại nhưng không còn kịp nữa. Chiếc lầu này cao vượt trên mặt hồ có tới năm,
sáu trượng.
Sâm nhảy vụt ra ngoài rơi tõm
mãi xuống đáy hồ. Chiếc hồ này lại rộng mà sâu, nên mọi người đành chịu, chẳng
có cách gì cứu được Sâm. Thật đáng thương thay cho đôi vợ chồng Sâm chỉ vì có
tuyệt nghệ mà chết cả đôi!
Gia Khánh hoàng đế trước đây
thấy Đổng thị đã đẹp lại trinh thục, hằng ngày tới nhìn ngắm một lúc thì lòng
cũng yên ả. Nhưng nay người đẹp đã qua đời, ngài cảm thấy chua xót, não nề, đau
đớn khôn nguôi. Năm đó, ngài đã sáu mươi tuổi. Tinh thần ngài đã suy, lòng lại
có điều đau khổ não nề, cho nên ngài chẳng thiết gì việc triều chính nữa. Nhất
thiết mọi việc quốc sự từ nhỏ tới lớn, đều giao cho vị tướng quốc người Mãn tên
gọi Mục Chương A. A vốn là một tên gian tham chuyên ăn hối lộ, bậy bạ chẳng kém
gì Hoà Khôn.
Mấy tinh miền Đông bắc, các
giáo đồ phá quấy. Mấy tỉnh miền Đông nam: bọn cướp bể hoành hành. Ở Tân Cương,
Tây Tạng, tín đồ Hồi giáo cũng nổi lên chống lại triều đình. Tại Quảng Đông lại
xảy ra vụ thuốc phiện, mối bang giao giữa Anh và Tàu càng ngày càng căng thẳng.
Cả nước sôi lên sùng sục dân chúng không một ai là không oán hận. Bọn quan Ngự
Sử dâng sớ hạch tội A như bươm bướm, nhưng những bản sớ này đều bị A sai người
ngăn chặn lại ngay trước khi tới tay hoàng đế.
Hồi đó Trí thân vương là Mân
Ninh cũng tới lui trong cung nhưng lại là người chí hiếu không dám nói gì. Gia
Khánh hoàng đế tưởng nhớ Đổng thị càng ngày càng khắc khoải hơn. Oanh Tần lại
thường đánh ghen ầm ĩ với các phi tử khác trước mặt ngài. Đã già lại buồn bã
đau khổ, ngài bỗng nhuốm bệnh. Chẳng bao ngày, bệnh ngài trở nên nặng. Trí thân
vương hằng ngày hầu hạ ngài, trong cung không dám cởi dây lưng.
Gia Khánh hoàng đế đau luôn một
hơi sáu, bảy chục ngày trời. Mọi việc triều chính, ngài đều phó mặc Tướng quốc
Mạc Chương A. Ba tháng trọng bệnh, ngài tự biết mình gần đất xa trời rồi, bèn
triệu tập Ngự triều đại thần Mạc Chương A, Quân cồ đại thần Đái Quân Nguyên và
Thác Luật, củng một số lão thần quây quanh giường bệnh của ngài. Di chiếu được
viết, đại lược nói:
"Trẫm chiếu theo phép nhà
đã viết nhị hoàng tử Mân Ninh cất kín tại sau biển của điện Chính Đại Quang
Minh từ năm thứ tư niên biểu Gia Khánh. Khi trẫm băng hà, ngôi báu sẽ truyền
lại cho nhị hoàng tử Trí thân vương Mân Ninh. Các người đều chịu ơn sâu phải
nên phải hết lòng phò tả hoàng tử nhất là phải cần, kiệm, nhân, hiếu, chớ có
sửa đổi phép tắc của tổ tông. Khâm thử".
Đạo di chiếu này xuống xong thì
hôm sau Gia Khánh đế mất. Trí Thân vương thương cha khóc lên khóc xuống suốt
ngày đêm. Các đại thần đưa Trí Thân vương về kinh, lên ngồi tại điện Thái Hoà,
chịu trăm quan triều hạ, cải niên hiệu là Đạo Quang nguyên niên.
Điều kỳ quặc nhất của Đạo Quang
hoàng đế là lúc còn trẻ ngài tỏ ra rất dũng cảm, tính tình lại hào sảng. Thế mà
sau khi cưới vợ, ngài bỗng đổi tính thay nết, đâm ra keo kiệt hết sức, nghĩa là
về vấn đề tiền tài, ngài tiêu xài cực kỳ dè xẻn chứ không phung phí như các đời
vua trước.
Sau khi Gia Khánh hoàng đế tịch
thu hết gia sản của Hoà Khôn thì ngân khố của hoàng gia trở thành giàu có khôn
xiết kể, ấy thế mà Đạo Quang hoàng đế vẫn kêu là nghèo mạt rồi bắt mọi người dè
xẻn, cứ thấy bọn đại thần là ngài liền khuyên họ chớ xài phí nhiều. Bọn đại
thần vốn khéo chiều ý kẻ bề trên, nghe hoàng thượng nói vậy, anh nào anh nấy cố
ý làm ra vẻ cùng kiệt, nghèo khổ: Kẻ điêu xảo nhất trong bọn là Mục tướng quốc.
Mỗi khi vào chầu, Mục tướng quốc chuyên mặc áo khoác rách. Đạo Quang hoàng đế
thấy thế khen ầm lên, cho ông ta là một vị đại thần gương mẫu bậc nhất. Ngài
đâu có biết ông ta ở bên ngoài tham lam, hối lộ, xa xỉ đến cực độ.
Thế là khắp triều văn võ đều
bắt chước lối đó, anh nào anh náy cũng đều mặc quần áo rách. Đứng trên điện
nhìn xuống chẳng khác gì hai hàng ăn mày đứng chực xin của bố thí, mà hoàng đế
chính là lão cái bang vậy. Và cũng từ đó, bọn quan lại khắp nơi cũng không dám
ăn mặc quần lành áo tốt nữa. Trong kinh thành, các tiệm bán quần áo cũ thoáng
cái đã hết nhẵn, giá đồ cũ đắt chẳng thua gì giá đồ mới. Có nhiều gia đình quan
lại nghĩ cách đem quần áo lành đi đổi quần áo cũ rách để mặc. Về sau, quần áo
cũ đã bán gần hết thì giá lại càng cao, có khi một bộ cũ còn đắt hơn hai bộ mới
nữa. Cũng có vị quan nghĩ ra kế khâu mấy miếng vá vào tay áo hoặc vào lưng vào
ngực áo để cho có vẻ rách rưới cũ kỹ.
Hoàng đế thấy vậy, mới yên chí
không khuyên nhủ gì về việc ăn mặc nữa.
Trời đã sang đông thời, tiết
trời lạnh. Bọn quan lại trước đây ai chả có năm, ba cái áo da hoặc áo lông ngự
hàn. Nhưng năm nay, có vị nào dám đem ra đâu! Vì sợ hoàng đế ngài quở trách thế
là cả bọn đành chịu rét, rét cóng cả chân tay mà chẳng anh nào dám mặc.
Câu chuyện thú vị nhất về việc
này phải kể chuyện Đại học sĩ Tào Chấn Dung tại điện Võ Anh. Bản tính của Dung
rất keo kiệt. Dung với Đạo Quang hoàng đế có thể nói là một cặp tri kỷ về điểm
này. Bởi thế bộ đôi này nói chuyện với nhau thật hết sức tương đắc. Hằng ngày
Đạo Quang hoàng đế triệu Tào học sĩ vào cung bàn soạn. Bọn thái giám từ lâu cứ
tưởng hai người luận bàn về quốc gia đại sự, ai ngờ khi nghe kỹ mới biết chỉ
nói những chuyện vụn vặt đâu đâu.
Có một hôm, Tào học sĩ mặc một
cái quần ống rách toác, có hai miếng vá bự bằng bàn tay ngay tại trên đầu gối,
Đạo Quang hoàng đế thấy thế bèn hỏi:
- Ngươi vá hai miếng bự ấy hết
bao tiền?
Tào học sĩ liền tâu:
- Chỉ hết có ba tiền.
Hoàng đế nghe xong giật mình,
lấy làm lạ:
- Trẫm cũng có hai miếng vá như
vậy, thế mà Nội vụ phủ tính những năm lạng bạc là tại sao?
Nói soạn, ngài liền kéo áo long
bào lên cho xem. Tào học sĩ chẳng biết nói gì hơn, đành phải nhận rằng miếng vá
của ngài đắt hơn miếng vá của ông quá xá. Đạo Quang hoàng đế thở dài đánh sượt
một cái, tỏ vẻ tiếc tiền mà không dám nói rõ ra.
Nhưng từ đó, Đạo Quang bắt buộc
bọn cung nữ cũng như hoàng hậu, phi tần đều phải học vả may thêu thùa, rồi cứ
hễ có quần áo rách, ngài liền bắt đám này sửa chữa lại ngay cấp kỳ. Do đó, Nội
vụ phủ chẳng còn xơ múi gì nữa để mà khai man, đến nỗi các quan đương ty đói
rách quá, khó bề sống nổi.
Đạo Quang hoàng đế còn bảo
trong cung chỉ tiêu quá tốn, rồi ngài cho bọn cung nữ và thái giám ra ngoài tự
ý làm ăn lấy mà sống, khiến cả một toà đại nội rộng lớn như vậy trở thành hoang
vắng tiêu điều. Rất nhiều đình viện bị đóng cửa và niêm phong. Hoàng đế cũng
chẳng thiết dạo chơi đó đây nữa mà cả ngày chỉ ở lỳ trong cung lo những chi phí
chuyện gạo muối củi lửa… tính toán kỹ lưỡng lại rồi hạ một đạo thánh chỉ như
sau: các khoản chi dụng tại nội đình từ nay mỗi năm không được quá hai mươi vạn
lạng bạc, bọn phi tần cả năm không được may thêu áo mới, tất cả đều phải mặc
quần áo cũ rách. Ngay cả trong cung của hoàng hậu cũng phải bày các bàn ghế cũ
kỹ, mục nát. Đạo Quang hoàng đế cùng với Tào học sĩ ngày ngày còn bàn tính sao
cho rõ ràng và kỹ lưỡng hơn nữa. Hằng ngày muốn tiêu một món tiền gì Tào học sĩ
lại phải đổ một con toán.
Trong nhà ông có một cỗ xe lừa cũ kỹ, long càng bể ván nhiều nơi, do một tên nhà bếp đánh xe cho ông. Ngày nào cũng vậy, cứ mỗi phiên chầu sớm trở về thế nào ông cũng cho xe qua chợ, rồi cởi áo bào khoác ngoài, lấy cái giỏ mây trong thùng xe ra, đích thân đi mua rau cỏ đồ ăn thức uống, cùng với bọn buôn thúng bán bưng mặc cả đôi co rầm cả chợ. Nhiều lần hai bên không vừa lòng nhau về giá cả đến nỗi cáu giận, quai mồm ỉa mà chửi bới nhau. Cuối cùng Tào học sĩ không biết làm thế nào, đành phải rút thẻ bài Đại học sĩ từ trong bọc ra làm áp lực, rồi đưa tên bán rau vào nha môn để nhờ xử giùm. Tên bán rau nghe nói ông là Đại học sĩ thì hoảng sợ đến són đái ra quần vội bò sát xuống đất, đập đầu xin tha tội và xin vui lòng tính giá rẻ mạt theo ý ông. Tào học sĩ lúc đó ăn thua hơn kém được một vài cắc bạc, lấy làm đắc ý lắm, vênh vênh váo váo bước đi. Ông thường ra ngoài phô, vào trong các tiệm ăn quán nhậu hỏi giá hết thứ này đến thứ kia; hỏi giá nhưng không phải để vào ăn nhậu, mà là để bẩm báo với hoàng đế. Khi nghe biết được giá cả rồi hoàng đế liền bảo nhà bếp làm ngay các món ăn đó, cho ngài xơi. Chỉ tại rau cỏ trong cung quá đắt, nên ngài hết sức tính toán giảm chi đến mức tối đa. Chiếu lệ thì môi bữa cơm của nhà vua tính trung bình mất tám trăm lạng bạc. Đạo Quang hoàng đế thấy quá tốn, bèn giảm hết những món ăn cao quý, chỉ còn có rau dưa, mỗi bữa chỉ tốn một trăm bốn mươi lạng mà thôi. Nếu ngài muốn ăn thêm một món khoái khẩu nào đó, bất luận món gì cũng đều phải tốn thêm sáu, bảy chục lạng. Muốn ăn một cái hột gà, ngài phải bỏ ra năm lạng bạc mới được.
Có một hôm Đạo Quang hoàng đế
ngồi bàn chuyện với Tào Chấn Dung, nhân hỏi Dung ở nhà có ăn hột gà không thì
Dung trả lời:
- Hột gà là một món ăn rất bổ…
Mỗi buổi sáng thần đều ăn luôn bốn chiếc trụng nước sôi.
Nghe vừa xong câu nói, Hoàng đế
giật mình đánh thót một cái, vội nói:
- Hột gà giá mỗi cái năm lạng
bạc, mỗi ngày ngươi ăn bốn cái, vị chi là tốn hai chục lạng bạc phải không?
Tào học sĩ vội tâu:
- Trong nhà thần, vốn có nuôi
gà mái đẻ. Hột gà mà thần ăn đó đều là hột gà của nhà, chính những con gà mái
này đẻ ra cả.
Đạo Quang hoàng đế nghe xong
cười nói:
- Nuôi mấy ổ gà mái mẹ kể ra
cũng đỡ tốn kém đấy!
Thế là ngày hôm sau, ngài hạ
chỉ cho nội vụ phủ phải đi mua gà mái đẻ đem vào cung nuôi lấy trứng cho ngài.
Nhưng khi được biết giá mỗi đầu gà phải mua tới hai mươi bốn lạng bạc thì ngài
chỉ còn có nước thở dài mà thôi.
Trong nhà ông có một cỗ xe lừa cũ kỹ, long càng bể ván nhiều nơi, do một tên nhà bếp đánh xe cho ông. Ngày nào cũng vậy, cứ mỗi phiên chầu sớm trở về thế nào ông cũng cho xe qua chợ, rồi cởi áo bào khoác ngoài, lấy cái giỏ mây trong thùng xe ra, đích thân đi mua rau cỏ đồ ăn thức uống, cùng với bọn buôn thúng bán bưng mặc cả đôi co rầm cả chợ. Nhiều lần hai bên không vừa lòng nhau về giá cả đến nỗi cáu giận, quai mồm ỉa mà chửi bới nhau. Cuối cùng Tào học sĩ không biết làm thế nào, đành phải rút thẻ bài Đại học sĩ từ trong bọc ra làm áp lực, rồi đưa tên bán rau vào nha môn để nhờ xử giùm. Tên bán rau nghe nói ông là Đại học sĩ thì hoảng sợ đến són đái ra quần vội bò sát xuống đất, đập đầu xin tha tội và xin vui lòng tính giá rẻ mạt theo ý ông. Tào học sĩ lúc đó ăn thua hơn kém được một vài cắc bạc, lấy làm đắc ý lắm, vênh vênh váo váo bước đi. Ông thường ra ngoài phô, vào trong các tiệm ăn quán nhậu hỏi giá hết thứ này đến thứ kia; hỏi giá nhưng không phải để vào ăn nhậu, mà là để bẩm báo với hoàng đế. Khi nghe biết được giá cả rồi hoàng đế liền bảo nhà bếp làm ngay các món ăn đó, cho ngài xơi. Chỉ tại rau cỏ trong cung quá đắt, nên ngài hết sức tính toán giảm chi đến mức tối đa. Chiếu lệ thì môi bữa cơm của nhà vua tính trung bình mất tám trăm lạng bạc. Đạo Quang hoàng đế thấy quá tốn, bèn giảm hết những món ăn cao quý, chỉ còn có rau dưa, mỗi bữa chỉ tốn một trăm bốn mươi lạng mà thôi. Nếu ngài muốn ăn thêm một món khoái khẩu nào đó, bất luận món gì cũng đều phải tốn thêm sáu, bảy chục lạng. Muốn ăn một cái hột gà, ngài phải bỏ ra năm lạng bạc mới được.
Hồi 101: Đốt thuốc phiện của người Anh
Ngày hôm sau, Tào học
sĩ lại ra ngoài phố, hỏi thăm giá cả các món trong quán ăn rồi vào cung báo lại
cho hoàng đế Đạo Quang.
- Tiệm ăn Phúc Hương ngoài cửa
cung có món đậu hũ nấu với gan heo ăn ngon lắm, mà giá lại rẻ.
Đạo Quang hỏi:
- Đậu hũ nấu gan heo? Trẫm chưa
từng được ăn? Chẳng biết bao tiền một bát?
Tào học sĩ tâu:
- Mua tại tiệm này thì giá chỉ
bốn mươi đồng một bát thôi.
Hoàng đế nghe xong, nhảy lên vì
sung sướng, vội nói:
- Trong thiên hạ này mà có thứ
rẻ đến thế sao?
Thế là ngài cho gọi Nội giám
tới để truyền lệnh cho nhà bếp từ ngày hôm sau đồ ăn gì không cần, mà chỉ cần
một chén đậu hũ nấu gan heo là đủ cho một bữa cơm.
Bọn nhà bếp lâu nay vốn rành vì
hoàng đế ngài hà tiện quá, chẳng phải nấu nướng gì nhiều. Nay được lệnh ngài,
chúng bèn lăng xăng sửa soạn để đi kiếm đậu hũ nấu gan heo cho ngài. Bữa cơm
trưa hôm sau, quả nhiên có món đó thật. Đạo Quang đế ăn vào, thấy ngon quá, làm
luôn một lèo mười hôm mà vẫn còn thèm. Nội vụ phủ trình lên cho ngài rõ thực
đơn với giá cả. Ngài thấy tổng số tiền mua đậu hũ mất hơn hai ngàn lạng bạc,
phía dưới còn ghi thêm nhiều món lặt vặt khác. Thì ra cái đơn ấy ghi như sau;
mỗi ngày giết một con heo để làm món đậu hũ gan heo tính giá mười lạng, một đấu
đậu vàng giá mười lạng, tiền mướn hai anh hàng thịt mổ heo cho nhà bếp tính
công hết bốn lạng; tiền mướn bốn thợ làm đậu hũ, mỗi anh mỗi ngày một lạng năm
tiền. Ngoài ra, còn phải mua các thứ dụng cụ như dao mổ heo, nồi niêu xoong
chảo, bếp lò, cối tán đậu, giàn mổ heo, v.v Cộng tất cả là bốn trăm sáu mươi
lạng… Đồ gia vị nào là dầu, mỡ, muối, mắm, dấm, giá cũng lên tới trên một trăm
bốn mươi lăm lạng… Như thế suốt một tháng Ngự thiện với món đậu hũ nấu gan heo,
kể ra phải chi tất cả là hai ngàn năm trăm hai mươi lăm lạng bạc.
Đạo Quang hoàng đế xem tấm thực
đơn tới đâu, đấm xuống bàn thình thình tới đó, miệng càu nhàu:
- Hỏng bét! Hỏng bét!
Lập tức, ngài truyền lệnh gọi
viên tổng quản nhà bếp lên, cho một bài học nên thân, rồi bảo:
- Tiệm Phúc Hương phía ngoài
cửa cung bán có bốn mươi đồng tiền một bát. Chỉ có một mình trẫm ăn mà tốn hết
quá nhiều thế kia ư? Từ nay về sau bỏ cái lối làm ăn này đi. Mỗi ngày chỉ cần
bốn mươi đồng tiền, chạy ra ngoài cổng kia mà mua là được rồi, nghe chưa?
Viên tổng quản nhà bếp hồi tấu:
- Theo thể lệ của Tôn tông thì
trong cung không được ra ngoài mua các món ăn nấu chín.
Đạo Quang nghe tấu, khoát mạnh
ống tay áo một cái tỏ ý vô cùng bực tức nói:
- Thể lệ với chẳng thể lệ, rẻ
là được rồi!
Viên tổng quản nhà bếp nghe
xong, chẳng dám nói thêm, chỉ còn cách rút êm ra ngõ sau, bắt buộc tiệm ăn Phúc
Hương phải đóng cửa. Y lại còn bắt hàng xóm láng giềng của tiệm này phải đảm
bảo, lúc đó mới trở về cung tâu với Đạo Quang hoàng đế là tiệm đã nghỉ bán,
không còn có chỗ nào để mua món đậu hũ nấu với gan heo nữa.
Qua ngày thứ ba Hoàng đế thèm
món đậu hũ quá, bèn sai Tào học sĩ ra ngoài phố xem lại có đúng không, lúc đó
ngài mới chịu tin lời viên tổng quản nhà bếp và đành nuốt nước miếng đỡ thèm.
Nhưng rồi cũng từ đó, ngài dẹp luôn món đậu hũ này. Bọn nhà bếp lại buồn như
chấu cắn. Sau lưng ngài chúng hậm hực bảo nhau:
- Bọn mình thế là khốn nạn rồi.
Làm cách nào mà sống đây?
Cách một tháng sau, trong cung
cử hành lễ Đại khánh. Hồi này, Đại học sĩ Tràng Linh đã dẹp yên miền Hồi Cương,
bắt giải tay đầu đảng là Trương Cách Nhĩ Hạm về kinh đô.
Đạo Quang hoàng đế ngự giá tới
cửa Ngọ môn để nhận chiến lợi phẩm. Sau đó, ngài cho lệnh bày tiệc ăn mừng trên
núi Vạn Thọ trong Ngọc Lan đường, bảo bọn nhà bếp bầy biện rượu thịt, nhưng lại
sợ bọn này thừa dịp chi tiền quá sộp, ngài bèn truyền chỉ phải hết sức tiết
kiệm.
Hôm đó mời khách dự tiệc, ngoài
Dương oai trưởng quân, Đại học sĩ Thy Dũng Công và Tràng Linh, còn có mười lăm
lão thần tức là Ngự tiền đại thần Mục Chương A, Đại học sĩ Thái Luật, Đại học
sĩ quân cơ đại thần Tào Chấn Dung, Đại học sĩ Đái Quân Nguyên, Đại học sĩ tổng
đốc Lưỡng Giang Tôn Ngọc Đình, Hộ bộ thưởng thủ quân cơ đại thần Hoàng Việt, Lễ
bộ thượng thư Mục Khắc Đổng Ngạch, Công bộ thượng thư Sơ Bành Linh, Lý Phiên
Viện thượng thư Phú Tuấn, Tả đô ngự sử, Tùng Dương, quận vương hàm Đô thống Cáp
Địch Nhĩ, Đô thống A Na Bảo, Đại học sĩ Bá Lân, Trí sĩ Đô thống Mục Khắc Đăng
Bố.
Tất cả đám đông này ngồi quây
quanh hai thồi. Trên mặt thồi chỉ thấy lơ thơ có vài món ăn rau dưa rẻ tiền.
Bọn đại thần ngồi chung quanh thồi, mặt tần ngần, tay chẳng muốn gắp chỉ sợ có
một đũa là hết sạch, không còn cho người khác, khó coi lắm!
Đạo Quang hoàng đế ngồi trước
mặt, không uống rượu mà cũng chẳng nhắm, chỉ luôn mồm bàn bạc chuyện võ công
của tiên triều với bọn đại thần. Lâu về sau ngài lại nói đến thơ, rồi còn giở
chuyện câu đối ra nữa. Các ông quan không biết làm thơ, câu đối, đành phải nhờ
các quan văn làm thế. Cuối cùng vua tôi bóp óc mãi cũng xong được một bài dài
tám mươi vần theo thể cổ phong thất ngôn để kỷ niệm cái ngày vui hôm đó. Ngài
còn bảo Đại Quân Nguyên vẽ cảnh quân thần đồng lạc đó thành một bức hoạ. Vua
tôi hết chuyện đến thơ, hết thơ đến hoạ, chẳng mấy chốc đã qua mấy giờ liền,
rượu cũng chẳng uống, đồ nhậu cũng chẳng nếm. Rồi tiệc tan.
Hồi đó lạnh rét căm gan. Đạo
Quang hoàng đế thấy bọn đại thần đều mặc áo da chồn kỵ gió khoác ngoài, ngài
hỏi:
- Áo da khoác ngoài kỵ gió của
các ngươi phải bao tiền một chiếc?
Cả bọn chả anh nào hồi đáp
được, chỉ có mình Tào học sĩ là người duy nhất trả lời được:
- Chiếc áo da khoác ngoài kỵ
gió của thần có một lượt, giá chỉ có hai chục lượng bạc.
Đại Quang hoàng đế thở phào một
cái, vội khen:
- Rẻ quá! Rẻ quá! Mấy hôm
trước, trẫm có một chiếc áo da cáo màu đen, chỉ vì nó rộng quá, và muốn thêm
một lớp lót, thế mà khi đưa cho Nội vụ đi sửa, chúng tính những một ngàn lạng
bạc kia đấy. Thấy đắt quá, trẫm còn treo đó chưa sửa vội.
Tào học sĩ nghe đoạn, liền tâu:
- Chiếc áo da của thần không
lót cả đâu!
Nói đoạn, ông liền cầm vạt áo
kéo thếch lên. Mọi người nhìn xem, quả nhiên thấy chiếc áo của ông chỉ có bốn
chung quanh mép áo là lót, còn phía giữa, vạt chỉ một lượt đơn mỏng dính.
Đạo Quang hoàng đế cũng nhìn
kỹ, rồi buột miệng khen "Tuyệt, và rẻ nữa". Ngài lại còn khen là đẹp,
là ấm, cuối cùng ngài gục gặc cái đầu tỏ vẻ chịu lắm và bảo thêm rằng lót hay
không lót, kỵ gió hay không kỵ gió, cần gì.
Từ hôm đó, bọn đại thần mặc áo
da khoác ngoài đều chẳng anh nào báo anh nào, lột cho bằng hết những tấm lót kỵ
gió phía trong. Quan to đã thế thì quan nhỏ cũng phải thế, chẳng mấy chốc nó
lan ra như bệnh dịch, người ta chẳng còn thấy cái áo da khoác ngoài nào còn lót
nữa.
Đặc biệt có quan tướng quốc Mạc
Chương A, bề ngoài ăn mặc đơn bạc, rét run cầm cập, nhưng về nhà thì lại có đến
ba thê bốn thiếp. Y còn nuôi thêm một ban nữ nhạc mua vui mỗi khi mời khách chè
chén. Đi ngang cổng phủ nhà y, ai lại chẳng nghe những tiếng sênh phách đàn ca.
Do đó nhiều vị đại thần thanh liêm chính trực không kết bạn với y.
Phải cái Đạo Quang hoàng đế lại hết sức tín nhiệm y. Ngài thường nói với mọi người rằng y vốn là đại thần cố mệnh của tiên đế, do đó thường nghe lời tâu bầy của y.
Mục tướng quốc vừa khôn lại vừa
ngoan. Ở trước mặt hoàng đế y khua môi múa mỏ, tung hứng nịnh hót, khiến ngài
"phải lòng" y lúc nào chả biết.
Đạo Quang hoàng đế tuy tín
nhiệm Chương A, nhưng Tào học sĩ lại chẳng "khoái" y chút nào. Bởi
vậy, hai người thường tranh biện với nhau trước mặt hoàng đế đến nỗi ngài phải
ra sức dàn xếp mới ổn thoả được. Mục tướng quốc ngày càng kiêu ngạo, bất luận
quan trong quan ngoài nào cũng đều phải tới hiếu kính, nếu không thì dám bị
cách tuột chức tước lắm. Do đó trong nhà Mục tướng quốc, thường bọn quan ngoài
(quan trấn nhậm ở các tỉnh ngoài kinh đô) thường lui tới chạy chọt, vàng bạc
ngọc ngà đem tới nhờ y nhận lo liệu giùm.
Hồi đó có một vị tiến sĩ miền
Phúc Kiến tên gọi Lâm Tắc Từ. Từ đã được bổ nhiệm chức Hàng hồ đạo, sau lại làm
Giang tô án sát sứ thành Giang Tây tuần phủ.
Lâm Tắc Từ làm quan rất công
minh chính trực. Tiếng khen đồn khắp trong ngoài rồi đến tai hoàng đế, thế là
Từ được trọng dụng.
Cũng hồi đó thuyền buôn của
nước Anh thường chở a phiến tới Trung Quốc để bán. Báo hại người Tầu suốt dọc
bờ biền tỉnh Quảng Đông hút phải, thân hình tiều tuỵ, chỉ còn bộ xương bọc da,
trông chẳng khác gì quỷ ốm.
Lâm Tắc Từ dâng sớ tâu:
- Nếu không cấm a phiến ắt nước
ngày càng suy dân càng ngày càng yếu. Vài chục năm cả nước lẫn dân đều tiêu
vong.
Đạo Quang hoàng đế xem xong tờ
sớ, rất quan tâm, bèn thăng nhiệm ông làm tổng đốc Lưỡng Quảng, về kinh ấp để
bệ kiến. Từ vào chầu, đề đạt rất nhiều kế sách và biện pháp cấm thuốc phiện.
Hoàng đế càng lấy làm đắc ý, liền phong luôn cho ông chức "Khâm sai đại
thần quan phòng kiểm tra bờ biển Quảng Đông hải khẩu sự vụ, tiết chế Quảng Đông
thuỷ sư".
Thế là Lâm Tắc Từ vận bỗng phát
nhanh không tưởng tượng nổi. Điều này không đẹp ý Mục Chương A. Đã thế Từ khi
lên kinh lại không có "chè lá" cho A nên A càng hậm hực bực tức.
Lâm Tắc Từ đáo nhậm Quảng Đông,
tức thì thẳng tay hành động. Ông bắt bọn lái buôn trên thuyền buôn Anh phải
trình xuất hai mươi ngàn ba trăm tám mươi thùng thuốc phiện, rồi phóng một mồi
lửa đốt cháy rụi.
Người Anh giận lắm, lập tức
điều động tàu binh đánh phá miền duyên hải Phúc Kiến, Chiết Giang. Mục tướng
quốc nhờ cơ hội này gièm pha họ Lâm tự tung tự tác, làm hỏng việc nước.
A ngầm sai người tới tư thông
với người Anh, xúi họ đem tàu binh tiến đánh Quảng Đông. Mặt khác, A còn bảo
bọn quan lại tỉnh Quảng Đông về kinh cáo mật.
Có một tên ngự sử người Mãn gọi
là Y Thiện, nghe lời xúi của Mục tướng quốc bèn hùng hùng hổ hổ dâng một tờ sớ
đàn hặc Lâm Tắc Từ. Mục tướng quốc ở bên cạnh lại đánh trống hoạ vào, khiến Đạo
Quang hoàng đế mờ luôn cả đôi mắt.
Ngài hạ một đạo ý chỉ, cách
tuột chức tước Lâm Tắc Từ rồi cắt cử Y Thiện đi nhậm chức tổng đốc Lưỡng Quảng.
Y Thiện vừa đáo nhiệm, tức thì
giảng hoà với nước Anh ngay, bồi thường bảy triệu, mở toang cửa Quảng Châu, Hạ
Môn, Phúc Kiến, Ninh Ba, Thượng Hải để cho bọn ngoại quốc dùng làm tô giới.
Nhưng người Anh đâu có chịu thôi. Họ đòi bắt Lâm Tắc Từ để trị tội. Mục Chương
A đưa ra một ý, thay hoàng đế hạ một đạo thánh chỉ tống Lâm Tắc Từ sang mãi Tân
Cương sung quân.
Việc này khiến một vị đại học
sĩ nổi giận. Vị này tên gọi Vương Đĩnh, Đĩnh thấy Từ là một vị đại trung thần,
bỗng dưng chịu cảnh oan ức, đã có đôi lời cãi lý với Mục tướng quốc ngay tại
triều đình. Nhưng Đĩnh muốn nói thì cứ nói, A vẫn làm thinh, không nghe. Có một
hôm, Đĩnh với A đều được vời vào trong thư phòng để bệ kiến. Vừa thấy mặt A,
Đĩnh vụt cả giận, lớn tiếng quát hỏi:
- Lâm Tắc Từ vốn là một vị đại
trung thần. Tại sao người lại cố tình dối hoàng đế để buộc y phải sung quân đi
Tân Cương? Ngươi chỉ là một tên gian thần đại gian đại ác, thế mà ngươi còn dám
làm quan lớn tại triều ư? Ngươi đúng là tên Tần Cối triều Tống. Nghiêm Tung
triều Minh. Rồi đây thiên hạ sinh linh thế nào cũng bị ngươi hại hết!
Mục Chương A nghe xong, bất
giác biến sắc mặt. Đạo Quang hoàng đế thấy tình hình quá căng thẳng giữa hai
người, liền gọi thái giám đưa Vương Đĩnh khỏi cung rồi nói:
- Vương học sĩ say rồi!
Đĩnh bò mọp xuống đất dập đầu
xin ngỏ lời, nhưng Đạo Quang hoàng đế đã phất mạnh ống tay áo, quay gót vào
cung.
Vương Đĩnh trở về nhà càng nghĩ
càng tức. Suốt đêm đó Đĩnh thức đỏ mắt viết sớ dâng tên, nói Mục Chương A dối
vua như thế nào, Lâm Tắc Từ chịu oan như thế nào, viết luôn một hơi năm ngàn
chữ. Rồi Đĩnh cho người đem sớ vào triều, lặng lẽ quay về phòng thắt cổ chết.
Qua ngày hôm sau, con trai
Vương Đĩnh phát giác bố mình đã chết, vừa thương, vừa sợ. Chiếu theo lệ thì khi
có một vị đại thần tự vận, hoàng đế phải tới khám nghiệm qua rồi mới cho liệm,
nhập quan an táng. Nhưng Mục Chương A tai mắt quá nhiều. Y được tin này, lập
tức sai một tên môn khách tới nhà họ Vương xin cho xem tờ sớ. Vương công tử vốn
người thành thật, liền đem tờ sớ đưa cho tên môn khách.
Phải cái Đạo Quang hoàng đế lại hết sức tín nhiệm y. Ngài thường nói với mọi người rằng y vốn là đại thần cố mệnh của tiên đế, do đó thường nghe lời tâu bầy của y.
Hồi 102: Máu ghen đâu có lạ đời
Trong số phi, có một nàng tên gọi Lan Tần. Nàng vốn là một người đẹp, đẹp hơn hết trong đám và cũng là người vốn được hoàng đế sủng ái. Nàng biết ngài đã mê người khác, máu ghen đâu bỗng sôi lên sùng sục. Nàng vừa ghen lại vừa tức, liền bỏ ra một số tiền đút cho bọn thái giám để thực hiện kế hoạch của mình.
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét