Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

13 thg 1, 2014

Mộ Hoàng Bì Tử - Chương 27- 31 (Thiên Hạ Bá Xướng)

Chương 27: Cương thi

Tôi phát giác trên vách ống cống xi năng có thêm một cái bóng, nghĩ bụng, phen này đúng là chó cắn áo rách, không ngờ âm hồn kia lại theo xuống tận dưới này, nhưng lúc lắng nghe động tĩnh phía sau lại tuyệt không có âm thanh gì cả, tựa hồ như sau lưng bốn chúng tôi, ngoài cái bóng ma ra, thì căn bản không hề tồn tại bất cứ thứ gì nữa.
Tôi không dám tùy tiện manh động, trong đầu thầm suy đoán ý đồ của bóng ma ấy, rõ ràng là nó không thể trực tiếp hại chết chúng tôi được, vì sao vậy nhỉ? Rất có khả năng là thanh bảo đao Khang Hy của lão Dương Bì kỵ tà thật. Những thứ binh khí từng giết người trong chiến trận, bản thân đã có mấy phần hung khí, giết người càng nhiều, sát khí càng nặng.
Có điều, hoàng đế Khang Hy tuy có ngự giá thân chinh thật đấy, song chắc gì đã xông trận sát địch bao giờ, vậy nên đao này chắc không thể có sát khí. Tuy nhiên, vật ở trong Tử cấm thành của hoàng gia sao có thể tầm thường được, có thể cái bóng ma kia vẫn có điều úy kị thanh đao này, vậy nên mới chỉ ra tay với chúng tôi qua con đường gián tiếp.
Những ý nghĩ lóe lên trong óc, bước chân tôi vẫn không dừng lại, chỉ thấy ngọn đuốc trong tay lão Dương Bì đã cháy hết đến nơi. Nếu không nhân lúc vẫn còn chút ánh sáng mà nhìn cho rõ ràng, kéo dài thời gian thêm nữa sẽ chỉ càng bất lợi. Tôi tuy cũng hơi sờ sợ, nhưng không thể không đánh liều một phen, nghiến răng quay đầu lại nhìn cho rõ ràng. Không triệt để thoát khỏi sự đeo bám của bóng ma, sợ rằng chúng tôi khó mà thoát khỏi nơi đây.
Tôi xuất kỳ bất ý, đột nhiên quay ngoắt người lại, vốn tưởng rằng sẽ trông thấy gì đó, rồi gọi Tuyền béo rút đao đuổi ma, không ngờ lại được một phen chưng hửng, trước mắt chỉ có đường ống cống tối đen như mực, đừng nói là bóng ma bóng quỷ gì, đến cả mấy con giòi bọ, gián giếc cũng chẳng có. Bóng đen trên tường cũng biến mất trong khoảnh khắc tôi vừa quay người lại, chỉ còn lại mùi hôi thối vẫn lan tỏa trong không gian tối tăm mờ mịt.
Tôi dõi mắt nhìn vào đường ống cống sâu hun hút, tim đập thình thịch, có thể cảm nhận được, ở trong chỗ tối tăm kia, thực sự có một đôi mắt oán độc đang nhìn về phía này, toàn thân tôi nổi hết cả da gà lên, một cảm giác lạnh lẽo xuyên thấu qua lồng ngực. Nhưng chỉ với ánh sáng của một ngọn đuốc, chúng tôi cũng chẳng thể làm gì được nó.
Tôị đang ngập ngừng chưa biết tính sao, thì mấy người hội lão Dương Bì, Đinh Tư Điềm và Tuyền béo bị hành động đột nhiên xoay người ấy làm cho sợ tái cả mặt, lại còn tưởng phía sau đã xảy ra chuyện gì. Cả bọn đều dừng lại ngoảnh đầu ngó nghiêng, họ thấy tôi cứ nhìn chằm chằm vào đường ống cống tối tăm bần thần cả người ra, tưởng lúc tôi ở trong gian đốt xác bị kinh hãi quá độ, vội vàng kéo lại hỏi han tình hình.
Tôi thầm nhủ: “Nếu nói vừa nãy phát hiện ra phía sau có một cái bóng đi theo chúng tôi thì há chẳng phải là đánh cỏ động rắn hay sao? Chi bằng tạm thời không nói ra, tùy cơ hành động thôi vậy.” Nghĩ đoạn, liền nói với mọi người: “Đi mãi trong cái cống thối hoắc này mà không thấy lối ra, tôi thấy hơi lo lo nên dừng lại quan sát địa hình một chút thôi.”
Đinh Tư Điềm thấy vậy bèn an ủi: “Đường ống cống này vừa dài vừa sâu, chắc hẳn trên mặt đất ngoài tòa nhà ba tầng có cái lò đốt xác ấy, còn có rất nhiều công trình kiến trúc khác nữa. Nếu là vậy, thì thế nào cũng có những đường cống khác nối liền với đường này, nước bẩn cuối cùng sẽ tụ hợp lại một chỗ, chúng ta cứ đi tiếp, thế nào cũng sẽ gặp cửa ra thôi.
Tôi gật đầu khen phải, kiên trì đến cùng sẽ thấy thắng lợi. Từ lúc sáng sớm xuất phát đi tìm bò, cho đến giờ đã quá nửa đêm, cả một ngày trời đằng đẵng vất vả khôn cùng, nhưng chưa tìm được lối ra thì chưa thể thả lỏng mình được, cần phải đề cao cảnh giác mà tiếp tục tiến lên. Nghĩ xong, tôi bảo lão Dương Bì đốt cây đuốc mới, rồi lại bảo Tuyền béo đưa thanh bảo đao Khang Hy cho. Bốn người lấy lại tinh thần, tiếp tục bước đi, tôi vẫn đoạn hậu, bất cứ lúc nào cũng lưu tâm động tĩnh phía sau, nhưng kể từ lúc đó lại không thấy có gì dị thường nữa.
Tốc độ tiêu hao đuốc nhanh hơn tính toán của chúng tôi, nếu không mau ra khỏi đường ống cống tối om này, một khi hết nguồn sáng thì càng không có hy vọng rời khỏi nơi đây. Chúng tôi không thể không rảo bước chân nhanh hơn, mới đi được một quãng không xa, đã thấy đường ống cống xi măng bị một cửa chấn song sắt chặn lại, phía dưới còn có một cái khóa xích rất to, một nửa xích chìm sâu trong nước, chấn song cái nào cái nấy đều to như quả trứng gà. Phía trên đỉnh đầu có một cái nắp cống hình chữ nhật đục đầy lỗ thoát nước, nhưng quá hẹp, không thể nào chui lên được, vả lại cũng đã bị khóa cứng phía bên trên rồi, căn bản không thể nào đẩy ra từ phía dưới này được. Thấy tình hình đó, chúng tôi đều lạnh hết cả người, phía trước không còn đường nào để đi nữa, lần này đúng là tiêu đời rồi.
Lão Dương Bì ngồi xổm xuống rờ tay sờ bên dưới lớp nước đen ngòm, đột nhiên mừng rỡ kêu lên: “Đừng cuống, thanh đao của lão là bảo đao ngự dụng, bao nhiêu năm rồi mà lưỡi đao vẫn sắc bén như thế, tuy không cắt được mấy thanh sắt này, nhưng đoạn xích sắt ngâm trong bùn này thì đã gỉ hết cả rồi, dồn sức vào thì cũng không khó chặt đứt lắm đâu!”
Tôi nghe vậy lập tức động lòng, vội cúi xuống kiểm tra đoạn xích bị khóa chặt lại ấy. Cửa sắt kiểu này vốn không có chỗ để lắp khóa, ở phía ngoài chỉ có một cái then sắt có thể di động được. Dây xích này có lẽ là được khóa tạm vào trong lúc gấp gáp, vì vậy mới bị tuột xuống dưới, đoạn xích ngâm trong nước đã gỉ sét hết cả, vả lại dây xích cũng nhỏ hơn các chấn song phía trên rất nhiều. Thanh bảo đao Khang Hy này được rèn phỏng theo kiểu trường đao của người Mông Cổ, là loại vũ khí chuyên dùng chiến đấu trên lưng ngựa, sống đao rất dày, tuy không thể chém sắt như chém bùn, nhưng muốn chặt đứt sợi xích đã gỉ này thì cũng không hề khó. Thấy vậy, tôi vội bảo Tuyền béo và Đinh Tư Điềm kéo sợi xích sắt lên, rồi nhắm chuẩn vào mắt xích rút đao chém tới. Sợi xích gỉ to bằng ngón tay lập tức đứt lìa, nhìn lại lưỡi đao, thấy không hề sứt mẻ chút nào.
Mọi người đều khen lưỡi đao sắc bén, rồi nhanh chóng hợp sức đẩy cửa sắt ra, đi thêm mấy bước nữa liền gặp một ngã tư, trong đó một lối rẽ quá hẹp, không len vào được. Hai phía còn lại lần lượt đều có một cửa cống thoát nước có thể mở được từ phía chúng tôi đang đứng, xem ra nơi này đã thuộc một khu vực khác rồi. Sau khi mở cánh cửa sắt to nhất, chúng tôi không vội vào ngay, nhớ lại cảm giác lúc bị khóa trái trong gian đốt xác lên trời không được xuống đất không xong đến giờ vẫn thấy rùng cả mình, cũng may đó là lò đốt xác chứ không phải nhà ngục, bằng không dù có lỗ thoát nước thì người cũng không thể nào chui lọt được. Một lần thiệt là một lần khôn ra, lần này chúng tôi phá hỏng luôn cái khóa trên cửa sắt, vạn nhất phía trước không đi được thì cũng không đến nỗi không còn đường quay lại.
Chúng tôi kiểm tra mấy lượt, chắc chắn tuyệt đối không thể bị khóa trái từ phía bên này rồi mới đặt chân bước vào trong cánh cửa. Thế nhưng, sau đó vẫn chỉ là đường cống ngầm thối hoắc dài tít tắp không thấy tận cùng. Chúng tôi cảm thấy đường cống ngầm này đi mãi không hết, trên thực tế rất có khả năng chỉ là do ảo giác gây ra. Vì không gian xung quanh vừa dài vừa hẹp lại nồng nặc mùi hôi thối, thân thể mệt mỏi, tốc độ bước đi lại cực kỳ chậm chạp, vậy nên mới sinh ra cảm giác ấy. Sau khi đi được một đoạn, hai bên đường ống cuối cùng cũng bắt đầu xuất hiện một số đường ống thoát nước phụ nhỏ hẹp hơn, nhưng đường kính của chúng đều không lớn hơn quả bóng rổ, chỉ có chuột và gián mới có thể chui vào. Ngoài ra còn mấy chỗ khe thoát nước hình chữ nhật, nhưng đều rất hẹp, người không chui vào được, ngó vào chỉ thấy tối om om, không hiểu là chỗ nào, xem ra không phải khu vực nào cũng có cống thoát nước lớn như chỗ lò đốt xác kia.
Tôi đi sau cùng, nhưng không lưu ý lắm đến sự thay đổi của địa hình trong cống ngầm, những thứ này để cho hội Đinh Tư Điềm lo là được rồi, sức chú ý của tôi đều tập trung hết cả ra phía sau để đề phòng bất trắc. Đinh Tư Điềm đi trước đột nhiên dừng lại, tôi hoàn toàn bị bất ngờ, suýt chút nữa thì đụng vào người cô, định thần ngước mắt lên nhìn, thì ra Tuyền béo và lão Dương Bì đi trước đều đã dừng bước. Tôi đang định hỏi họ đã xảy ra chuyện gì, nhưng nhờ ánh sáng của ngọn đuốc, đã phát hiện ra sự tình.
Ở trên bức vách rất gần chỗ trước mặt Tuyền béo, có một vòng tròn màu đen, đường kính cũng khoảng bằng cái miệng cống thoát nước, hình dáng khấp khểnh không đều, cũng chẳng theo quy tắc gì. Dưới ánh đuốc, trên bức vách xi măng màu trắng xám tự dưng có một vòng tròn màu đen như thế nên rất nổi bật. Trong ánh lửa bập bùng, chỉ thấy cái vòng màu đen ấy dường như đang khẽ cựa quậy, Tuyền béo trông thế, tưởng là một con rắn nước màu đen bò trên tường, liền dừng phắt lại.
Tôi thầm nhủ rắn nước có loại nào màu đen hay không thì không chắc lắm, huống hồ rắn nước sao có thể cuộn thành một vòng dính người trên vách tường như vậy được chứ? Cho dù là rắn, thì với chiều dài ấy, cơ thể nó cũng không thể nhỏ xíu vậy được, mà chỗ này lại càng không thể có giun đất được. Nhưng chúng tôi không nhìn lầm, vết đen trên tường không phải là dấu vết bùn đất lắng lại, đích thực là đang nhích động, tuy biên độ rất nhỏ, nếu không nhìn kỹ thì rất có thể sẽ không để ý thấy, còn tưởng rằng đó chỉ là một dấu hiệu hình tròn bôi lên bằng thứ bùn đen dưới chân mà thôi.
Vòng tròn màu đen ấy đã thu hút sự chú ý của chúng tôi, sau khi nhìn rõ đó chắc chắn không phải là rắn nước hay du diên gì cuộn thành vòng tròn, bốn người chúng tôi liền bước lại gần mấy bước, quan sát bức vách ấy kỹ hơn. Vừa trông rõ đó là thứ gì, cả bọn đều không khỏi rùng mình, da dầu gai gai, tóc gáy dựng ngược cả lên. Thì ra trên bức vách trét xi măng ấy có một cái rãnh hình tròn, bên trong toàn là gián đang bò ra bò vào, con nào con nấy chẳng to hơn hạt vừng là bao, toàn bộ đều là lũ gián sơ sinh cả, cái rãnh hình tròn này đã bị chúng nó biến thành ổ đẻ mất rồi, vừa khéo khép đúng một vòng, trong ánh sáng mờ ảo này mà đứng xa một chút, thì chắc chắn sẽ tưởng rằng trên vách có một vòng tròn màu đen đang nhúc nhích chầm chậm.
Đinh Tư Điềm nhìn thế chỉ thấy buồn nôn, muốn lập tức rời khỏi đây, mau chóng tìm lối ra ở phía trước, nhưng tôi kéo cô lại nói: “Đường cống ngầm này chẳng khác nào mê cung, đến phương hướng chúng ta còn chẳng phân biệt nổi, mà đuốc cũng sắp dùng hết rồi, đi tiếp cũng chẳng biết đến bao giờ mới hết đường cống này nữa. Cái rãnh hình tròn trên bức vách này thật kỳ lạ, nói không chừng lại là một lối đi bí mật cũng nên.”
Tuyền béo cũng nói: “Chắc chắn là thế rồi, dùng mông đít cũng nghĩ ra được điều ấy, trong ống cống làm sao lại dễ dàng xuất hiện một chỗ khuyết hình dáng quy chuẩn thế này được chứ.” Cậu ta sớm đã khó chịu với cái ống cống hôi thối này lắm rồi, nói xong cũng chẳng buồn quan sát kỹ càng, giơ chân lên đạp luôn vào chỗ giữa vòng tròn, làm vô số con gián bên trong khe rãnh bị chấn động chạy toán loạn ra.
Mảng vách xi măng ấy không lớn lắm, khe rãnh hình tròn là do có người đục ra từ phía bên trong, ở chỗ tiếp giáp không khít lắm bò đầy những gián là gián, mảng vách xi măng lỏng lẻo bị Tuyền béo đạp sập xuống, lũ gián lớn gián nhỏ bên trong liền chạy loạn khắp lên. Lão Dương Bì vội vung đuốc xua chúng ra xa, phía sau mảng vách vừa sập là một đường hầm do người đào, bên trong gập ghềnh nhấp nhô, phải quỳ hai gối khom người xuống, khó khăn lắm mới chui vào được. Tính hiếu kỳ của tôi nổi lên, muốn tra xét tận cùng, liền đón lấy cây đuốc chui vào bên trong xem thử. Đoạn đường hầm này chỉ dài khoảng bảy tám mét, ở phía cuối có một lối ra hướng lên trên đậy bằng gạch lát, đẩy lên là mở được. Tôi thò đầu lên quan sát, thấy lối ra này nằm ở bên dưới gầm giường trong một gian phòng, trong phòng còn bày bừa bãi rất nhiều thứ linh tinh khác.
Bọn Đinh Tư Điềm ở đằng sau gọi tôi mau chui ra, tôi sợ họ lo lắng, nên cũng không kịp quan sát kỹ, đành chui ngược trở ra, rồi kể lại tình hình trong ấy cho cả bọn nghe, ở trong ống cống thối mù, người nào người nấy đều cảm thấy bực bội khó chịu, sắp bị hun cho chết đến nơi rồi, nếu đã có lối thông lên một gian phòng, thì ngại gì mà không vào hít thở ít không khí trong lành. Vả lại, căn phòng đó hình như còn rất nhiều dồ dùng được, nói không chừng lại tìm đươc đồ ăn và công cụ chiếu sáng cũng nên, ít ra cũng có thêm mấy phần hy vọng sống sót.
Vậy là cả bọn đều nhất trí đồng ý, vẫn là tôi bò vào trước tiên. Mới đầu, tôi tưởng đây là một nhà giam, còn chỗ khuyết trong đường cống ngầm này là do người bị nhốt bên trong đào khi vượt ngục. Nhưng ngay khi thò đầu ra khỏi gầm giường quan sát, tôi liền tự phủ định ngay phán đoán của mình. Phòng giam tuyệt đối không giống như thế này, tôi chuyển mấy viên gạch lát và cái giường ra nơi khác, lần lượt kéo ba người kia lên. Mọi người giơ đuốc quan sát xung quanh, đều cảm thấy hết sức kỳ lạ, nơi này tuy cũng là tầng ngầm, nhưng rõ ràng là có bố trí hệ thống lỗ thông gió khá hoàn thiện, không khí lưu thông, hoàn toàn không khiến người ta có cảm giác tức ngực khó thở. Gian phòng được bố trí theo phong cách châu Âu điển hình, thậm chí còn có một cái lò sưởi trong tường để trang trí nữa. Tuy đang ở trong một gian hầm dưới lòng đất, song chúng tôi đều có cảm giác như mình vừa lạc bước vào miền đất xa lạ nào đấy vậy. Trong đây có đủ mọi đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt, sát tường có một giá gỗ chất đầy sách, nhưng đường điện thì đã đứt từ lâu, không thể nào dùng đèn điện được.
Đinh Tư Điềm thấy trong phòng bày một giá nến dùng để trang trí, bên trên lại có cả mấy ngọn nến vẫn còn nguyên vẹn chưa hư hao gì, bèn bước tới cầm lên châm lửa, sau đó giơ giá nến lên cao, tò mò quan sát xung quanh, bất giác đã đi ra phòng bên ngoài lúc nào cũng chẳng hay. Tuyền béo thấy trên giá có mấy chai rượu Tây, vừa khéo đang khát khô cả cổ, bèn cầm lên tu luôn mấy ngụm. Lão Dương Bì quanh năm ngày tháng chỉ biết bò dê lợn gà, không biết Tuyền béo đang uống cái gì, liền hỏi tôi xem cái thứ đựng trong bình thủy tinh ấy là gì thế?
Tôi đang định trả lời, bỗng nghe Đinh Tư Điềm ở gian phòng bên ngoài thét lên kinh hãi, ba chúng tôi vừa nghe có động vội vàng xông qua tiếp ứng. Đinh Tư Điềm thấy chúng tôi chạy tới, liền kinh hãi vòng ra nấp sau lưng tôi. Không cần hỏi cũng biết chắc trăm phần trăm là cô đã trông thấy thứ gì đó kinh khủng lắm, bọn tôi đón lấy giá nến, vừa giơ lên soi sáng gian phòng, cũng không khỏi giật thót mình kinh ngạc.
Trong miệng Tuyền béo vẫn còn ngậm nửa ngụm rượu Tây chưa kịp nuốt xuống, khi ấy liền “phụt” một tiếng, phun hết cả rượu ra ngoài: “Ở đây sao lại có con khỉ chết khô thế?” Lão Dương Bì run run giọng nói: “Cái cậu này đừng có nói bậy, khỉ đâu mà khỉ, trong mộ hoang ở Thiểm Tây quê lão, thứ này là nhiều nhất đấy, đây là... là... là là là...” Lúc này ông già cũng kinh hoảng thất sắc, không sao tự điều khiển được mình nữa, nói được đến đấy thì cứ “là” mãi không thôi.
Tôi thấy trên ghế gỗ ở gian bên ngoài có một cái xác đàn ông cao lớn đang ngồi, xác chết mặc áo choàng ngủ, nước trong cơ thể đã bay hơi sạch, biến thành cương thi rồi, làn da khô đét màu tím mọc ra một tầng lông trắng trông như lông chim, nửa người bên dưới thì mọc lông thú, móng tay sắc nhọn dài thượt mà không gãy, đã uốn lại thành một đường cong, ngũ quan hung ác dữ tợn, miệng há hốc, chết không nhắm mắt. Vì các xác ấy đã mọc lông khắp người, nên tướng mạo cũng khó mà nhìn cho rõ được.
Tôi đáp thay lão Dương Bì: “Là một cỗ cương thi, đừng ai chạm vào nó, người sống không chạm vào thì sẽ không xảy ra thi biến đâu.” Tuyền béo không tin: “Sao cậu biết là cương thi? Chẳng lẽ chạm vào một cái là nó nhảy dựng lên luôn à? Cậu lại muốn hù dọa anh em đấy phỏng?”
Tôi chỉ chú ý vào cái xác cổ quái trước mắt, hoàn toàn để ngoài tai những lời của Tuyền béo. Hồi trước chưa lần nào tận mắt trông thấy cương thi, nhưng tương truyền hình dạng của nó đúng là vậy rồi. Trong ánh nến, tôi thấy trên bàn viết phía trước cỗ cương thi, có mấy tấm giấy đã ngả vàng viết chi chít chữ, nói không chừng những tờ giấy này là do người chết viết trước lúc lâm chung, cũng biết đâu lại giúp được gì cho việc thoát khỏi nơi đây của chúng tôi. Vậy là tôi đưa giá nến cho Tuyền béo, bảo cậu ta đứng bên soi cho rõ, rồi tôi bịt mũi hết sức dè dặt bước đến phía trước cái xác, đưa tay nhặt mấy tờ giấy đó lên, rồi mau chóng giật lùi trở lại.
Tôi bảo Tuyền béo và lão Dương Bì để ý quan sát tử thi và ngọn nến, một khi có động, phải mau chóng rút trở về đường cống ngầm, sau đó giơ tờ giấy đã ngả vàng ấy lên xem thử, bên trên kín đặc toàn là chữ Nga. Trình độ tiếng Nga của tôi thực sự quá thấp, đành đưa cho Đinh Tư Điềm xem trên đó viết gì, rốt cuộc có thông tin gì giá trị hay không?
Đinh Tư Điềm nhanh chóng lật xem mấy tờ giấy, rồi thuận miệng dịch cho chúng tôi nghe mấy câu, càng nghe tôi lại càng kinh hồn động phách. Thì ra đây là một nhà khoa học người Nga bị quân Nhật giam lỏng, ép phải tham gia một hành động trong căn cứ bí mật này. Mấy tờ giấy này là di thư của ông, bên trong có nhắc đến rất nhiều sự thực khó tưởng tượng ra nổi, người Nhật đã đào được một số thứ ở trong động Bách Nhãn này.


Chương 28: Quy Miên Địa

Tiếng Nga của Đinh Tư Điềm cũng đã lâu lắm không dùng đến rồi, ngày thường chẳng chịu thắp hương, cuống lên mới ôm chân Phật, đọc một bức thư cũng hơi vất vả, tôi bảo cô đừng nôn nóng, cứ ngồi xuống từ từ xem, có đầu mối rồi hãy cho chúng tôi biết nội dung cụ thể tường tận thế nào, đoạn cùng Tuyền béo, lão Dương Bì bàn bạc. Trạng thái của cỗ cương thi này quá đỗi kỳ lạ, để lại ắt có hậu họa về sau, chúng tôi muốn tạm thời nghỉ ngơi chỉnh đốn ở đây mà có người chết ngồi lù lù ra đấy thì hẳn cũng khó mà yên tâm được, thôi thì dứt khoát đã làm thì làm cho trót, xử lý cái xác chết này trước đã.
Tuyền béo nói: “Thế chẳng phải đơn giản quá còn gì? Lấy đao chặt đầu nó xuống, nếu vẫn không yên tâm thì cắt thêm bảy tám chín phát nữa, rồi ném xuống đường cống ngầm là xong.” Lão Dương Bì lại nói: “Ở Thiểm Tây mà phát hiện cương thi thì nhất định phải dùng lửa đốt, trước khi đốt còn phải lấy lưới cá phủ lên, không để nó nhập vào trong đất tác oai tác quái.”
Tôi nói với lão Dương Bì: “Ở vùng núi Đông Bắc cũng có cách tương tự như vậy, nhưng đấy là để xử lý ma chết treo, phàm là nơi nào có người chết treo, đào sâu ba thước đất ắt sẽ phát hiện một vật màu đen hình dáng như hòn than, đó chính là oán khí của con ma chết treo ấy lưu lại trước lúc lâm chung, nếu không đào lên sớm muộn gì nó cũng tác quái hại người. Có điều, cháu thì chưa tận mắt thấy bao giờ.”
Chẳng ai hy vọng mình chết rồi lại biến ra như vậy cả, hủy diệt cương thi đã nảy sinh thi biến là việc có lợi cho cả mình lẫn người, nhưng sử dụng cách nào để tiêu hủy cái xác này đây, thiêu đốt hay băm chặt nó ra? Với lại, cái xác này sao lại trở nên quái dị hung tợn nhường này, nửa thân dưới mọc ra lông thú, nửa thân trên mọc ra lông chim? Không tìm hiểu được duyên cơ bên trong, tôi vẫn chưa muốn lập tức khinh cử vọng động.
Theo tôi được biết, một nơi xuất hiện cương thi cũng không ngoài mấy nguyên nhân sau. Đầu tiên là do người chết rồi không tiêu tán được, lâu ngày khô cứng lại; kế đó là trước lúc chết đã tự uống thuốc độc mãn tính để ngăn ngừa xác bị thối rữa, hoặc sau khi chết được người nhà đổ thủy ngân vào bụng. Cương thi nào có thủy ngân, trên người ắt sẽ có rất nhiều mảng đốm đen, còn nếu trước lúc chết uống một loại dược vật bí truyền trong dân gian bao gồm thạch tín, chì và thủy nhân thì thi thể chắc sẽ lên mốc; ngoài ra, còn một loại cương thi do tác dụng của điện khí, xác chết chưa thối rữa, gặp phải điện sinh vật hoặc sét đánh trúng, liền bò dậy đi bắt người sống.
Loại thứ ba thường gặp nhất, còn một số hiện tượng tương đối hiếm gặp, chẳng hạn như thi thể bị loài yêu tinh ma quái nào nhập vào, hoặc do cái chết ly kỳ, ngoài ra, những nơi có điều kiện phong thủy đặc thù cũng sẽ khiến xác chết lâu ngày không thối rữa, da thịt vẫn như lúc sống, có điều những huyệt báu phong thủy kiểu động thiên phúc địa ấy thực sự là quá hiếm gặp.
Tôi móc ra cuốn Thập lục tự âm dương phong thủy bí thuật lật xem qua, tìm được một đoạn có ghi chép về truyền thuyết “Quy miên địa”, trong sách viết rằng: Năm ấy, có người ở bờ biển thấy giữa biển đột nhiên nổi lên một tòa núi đen, nhìn kỹ lại, thì ra là mấy chục con rùa già, trên lưng cõng theo một con rùa khổng lồ dưới biển nổi lên. Những con rùa già này đưa xác con rùa chết đến một khe núi, chôn cất cẩn thận rồi mới lục tục bơi trở về biển. Người nấp một chỗ quan sát tất cả kia, rất giỏi thuật chọn đất tìm huyệt, biết rằng huyệt địa này là nơi tứ linh tụ hội, trong hang động kia có “long khí xung thiên”. Lúc ấy, vừa khéo trong nhà ông ta có bề trên vừa qua đời, vậy là sau khi tìm hiểu rõ tình hình bên trong, người đó bèn để xác bề trên nhà mình trần truồng, không quan không quách chôn luôn vào trong đó. Sau đấy, người đó liền bình bộ thanh vân, thăng quan phát tài, tạo thành bá nghiệp một phương. Chỗ hang rùa ấy cũng trở thành mộ huyệt chuyên dùng của họ nhà đó, mấy trăm năm sau long khí đã hết, đất sụt xuống, lộ ra vô số xác chết. Người trong vùng quây lại xem, thấy cái xác nào cũng mọc lông vũ vảy rồng, bị gió biển thổi một ngày một đêm, tất cả đều hóa thành hư không.
Năm đó, khi đọc đoạn ghi chép này, tôi cảm thấy rất vô lý nên không để tâm lắm, nhưng tận mắt thấy cương thi trong hầm ngầm này mọc lông vũ giống như trong Thập lục tự âm dương phong thủy bí thuật miêu tả, cũng không khỏi lấy làm kinh hãi. Rất nhiều năm sau đó, tôi mới biết chân tướng sự thực. Thì ra ở một số nơi hoàn cảnh đặc thù, có một loại vi sinh vật khiến cho xác chết vẫn giữ được nguyên vẹn không bị thối rữa, nhưng sau một thời gian dài sẽ làm thi thể nảy sinh biến dị. Ở những nơi thế này, nếu chặt một cành cây cắm xuống đất, mấy tháng sau lá cây cũng không khô héo. Thời cổ đại, nơi như thế được các vị phong thủy tiên sinh gọi là “cát nhưỡng”, không biết bao nhiêu người tốn cả đời, dấu chân in khắp núi non cũng chỉ vì cầu mong tìm được một mảnh phong thủy bảo địa như thế mà tâm nguyện cũng không thành.
Lão Dương Bì và Tuyền béo thấy tôi lật quyển sách cũ rách nát ra, hồi lâu sau cũng không đưa ra chủ ý, thì cứ cằn nhằn hỏi mãi không thôi. Tôi gấp cuốn Thập lục tự âm dương phong thủy bí thuật lại rồi nói: “Tôi cũng chỉ là học đến đâu dùng đến đấy thôi, không chắc lắm đâu nhé. Cỗ cương thi này sở dĩ biến ra như vậy, rất có thể là do ảnh hưởng của môi trường dưới lòng đất này. Chúng ta không có lưới cá, cũng không có móng lừa đen, nhưng chúng ta có khăn trải giường, muốn tiêu hủy chỉ có cách bọc nó lại, rồi dùng rượu Tây rưới lên mà đốt thôi.” Nói đoạn, tôi liền cùng Tuyền béo, lão Dương Bì lấy vải quấn chặt mũi miệng, và hai tay, rồi lại xé tấm ga giường ở phòng trong ra, bọc kín cái cương thi nước Nga trên ghế lại, kéo vào trong đường cống ngầm.
Tôi bảo Tuyền béo lấy ra mấy chai rượu Tây, không biết đây có phải rượu vodka mà người Nga thích uống hay không, nhưng đúng là rượu rất mạnh. Tôi đập vỡ cổ chai rưới lên cái xác, rồi lại sợ vẫn chưa đủ, bèn bảo Tuyền béo mang nốt mấy chai còn lại ra, nhưng cu cậu tiếc của vội vàng can ngăn: “Nhất ơi, làm cách mạng phải tiết kiệm chứ, cần kiệm mới làm nên nghiệp lớn, ngần này là đủ lắm rồi.”
Tôi đành chịu cậu ta, cầm ngọn đuốc châm lửa trên xác chết, ngọn lửa bốc lên cao ngang người, cháy lách ta lách tách. Xác chết bị cuốn chặt bên trong ngọn lửa không ngừng co giật, tựa hồ như đột nhiên sống dậy, thật khiến người ta nhìn mà kinh hồn khiếp đảm. Chúng tôi nghiến răng nhăn mặt nhăn mũi đứng đó quan sát, đốt một lúc lâu cũng chỉ đốt cái xác thành một khối than đen kịt, xem ra muốn tiêu hủy hoàn toàn là không thể, trừ phi phải kéo nó lên gian đốt xác trên kia, dùng lửa to thiêu mới được, nhưng đến thế này chắc cũng tàm tạm được rồi.
Lúc chúng tôi trở lại gian phòng của người Nga ấy, Đinh Tư Điềm đã đọc được quá nửa nội dung bức di thư. Để tiết kiệm nguồn sáng, chúng tôi chỉ đốt một ngọn nến, bốn người ngồi quây xung quanh bàn, Tuyền béo rót cho mỗi người một ly rượu. Lúc này trạng thái tinh thần và thể lực của ai nấy cũng đều gần đến cực hạn của sức chịu đựng, tuy căn phòng này cũng tuyệt đối chẳng phải nơi tốt lành gì, nhưng so với gian đốt xác và đường cống ngầm thì đã như thiên đường với địa ngục rồi. Chúng tôi cần nhân cơ hội này để nghỉ ngơi chỉnh đốn lại, tiện thể nắm bắt được một số thông tin quan trọng liên quan đến động Bách Nhãn, sau đó mới có thể vạch ra kế hoạch thoát thân.
Tôi nói với Đinh Tư Điềm: “Ăn nóng phỏng miệng, đi vội ngã đau, trước mắt chúng ta hoàn toàn không có đầu mối gì để hành động, vì vậy làm gì cũng không nên nôn nóng nhất thời. Bạn hãy cho mọi người biết rốt cuộc người Nga này đã viết gì trước lúc chết vậy, nói không chừng những nội dung ấy lại có ích cho chúng ta đấy.”
Đinh Tư Điềm định thần, mượn ánh nến xem lướt qua mấy trang giấy, rồi dịch lại những phần cô đọc hiểu được cho chúng tôi nghe, nhưng có một số đoạn cô không hiểu cho lắm, cũng chỉ đành tạm thời bỏ đấy, nội dung ghi chép bên trong đại khái là thế này:
Một trung đội của quân Quan Đông mất tích một cách thần bí ở khu vực Hulunber tiếp cận với Mạc Bắc, công tác tìm kiếm được triển khai, đội trinh sát phát hiện ở vùng phụ cận động Bách Nhãn có một số hiện tượng thần bí siêu tự nhiên. Động Bách Nhãn là khu vực đồi núi nằm giữa thảo nguyên và đại mạc, vị trí địa lý và môi trường hết sức đặc thù, bên trong không chỉ có rừng rậm, mà chỗ khe núi cũng thường xuyên có người và gia súc bị mất tích, còn có rất nhiêu người nói rằng đã tận mắt trông thấy rồng ở đó.
Lúc bấy giờ Nhật Bản và Đức cùng phe với nhau, đảng Nazi xưa nay luôn tin thờ chủ nghĩa thần bí, nước Đức thông qua một số kênh thông tin biết được ở khu vực Mãn Châu có hiện tượng thần bí này, liền cung cấp cho quân Quan Đông một số hỗ trợ kỹ thuật, hy vọng có thể triệt để điều trị, tìm hiểu căn nguyên của hiện tượng này.
Binh lực của quân Nhật lúc đó đã khó có thể ứng phó được chiến tuyến quá dài, họ đang bắt tay chuẩn bị cho cơ quan nghiên cứu vũ khí vi khuẩn quy mô lớn nhất toàn cầu thời bấy giờ, cũng tức là bộ đội phòng dịch bộ đội cấp nước về sau tiếng thối lưu truyền cả ngàn đời. Người Nga viết bức di thư này là hậu duệ của Sa hoàng, lưu vong sang Đức. Ông ta không chỉ có thành tựu cực cao đối với y học, đồng thời cũng là chuyên gia về vi khuẩn, thường xuyên bị người Đức giam lỏng, về sau lại bị đảng Quốc xã cho quân Quan Đông “mượn”, ép đến vùng động Bách Nhãn này hỗ trợ một hạng mục nghiên cứu bí mật.
Trong quá trình điều tra bí mật về động Bách Nhãn, người Nhật đã đào ra một sơn động cực lớn, đáy động tầng tầng lớp lớp điệp trùng, có rất nhiều xác cổ vẫn còn nguyên vẹn. Xác chết thực sự quá nhiều, dường như đào mãi cũng không hết, ở chỗ cao nhất có một cái xác chết nữ đeo mặt nạ, ăn mặc thướt tha là nổi bật nhất. Sau khi các chuyên gia kiểm tra và đối chiếu thư tịch cổ, đã đưa ra một kết luận kinh người. Đây chính là vu nữ của Đại Tiên Ty thời Hán trong truyền thuyết. Ở thời kỳ nghề bói toán và vu thuật cực kỳ xương thịnh ấy, đây là một nhân vật đã được bán thần hóa, nơi bà ta được chôn cất có long khí xung chiên, cùng với Cát Tiên động trong núi Đại Tiên Ty ở dãy Đại Hưng An Lĩnh, được người Tiên Ty coi là thánh địa, thường hay tổ chức nghi lễ chôn đá tế núi ở đây. Trong truyền thuyết của người Tiên Ty, chồn lông vàng là tử thần ở chốn âm gian, còn sơn động chôn xác này, cũng chính là lối vào của địa ngục.
Cái gọi là “long khí” này chỉ có ở trong khe núi khu vực động Bách Nhãn, vô hình vô ảnh, lúc có lúc không, khiến người ta khó thể nắm bắt, đồng thời có thể nuốt chửng tất cả người và súc vật, chỉ khi nào mây mù bốn phía, sấm giăng sét giật mới trông thấy ở gần khe núi có một cái bóng đen hình rồng cuồn cuộn trong mây. Người Nhật Bản cho rằng, đây chính là “phần phong” ghi chép trong kinh Phật được hòa thượng Giám Chân năm xưa Đông độ truyền bá sang đất Nhật, thứ gió ma quỷ này thổi ra từ chốn địa ngục A Tỳ, tất cả sinh linh nơi nó đi qua đều lập tức biến thành tro bụi. Nếu có thể nắm bắt và sử dụng loại “phần phong” này, ắt hẳn sẽ có một loại vũ khí có sức hủy diệt cực kỳ khủng khiếp.
Trước thiên nhiên vĩ đại, con người quả thực quá nhỏ bé, căn bản không thể nắm bắt được những điều huyền bí hư ảo bên trong. Có điều, với thi thể Tiên Ty dù để ngoài không khí cũng không có hiện tượng hư hoại này, có thể tiến hành nghiên cứu trên lĩnh vực vi khuẩn vi nấm, vì vậy người Nhật bèn xây dựng một cơ quan nghiên cứu bí mật nửa chìm nửa nổi trong khu núi này, nuôi dưỡng ở đây rất nhiều chuột và các loài kịch độc kiểu như du diên... Khi ấy, quân Nhật tác chiến ở chiến trường nhiệt đới Thái Bình Dương, có rất nhiều người bị các loài độc trùng, rắn độc trong rừng làm hại, lợi dụng môi trường tự nhiên đặc biệt ỏ đây, viện đã xây dựng khu thí nghiệm chuyên nuôi dưỡng độc vật nhiệt đới, thử dùng các thành phần thổ nhưỡng đặc biệt trong hang động chôn xác của người Tiên Ty để tiến hành thí nghiệm giải độc.
Viện nghiên cứu xây xong, càng đào sâu xuống họ càng phát hiện ra nhiêu thi thể kỳ hình quái trạng trong hang động. Đồng thời, trong động Bách Nhãn đột nhiên xuất hiện ma, cứ đến tối là bốn bề ma trơi lấp lóe, ban ngày thì sương mù mờ mịt, mây trên sườn núi biến ảo bất định, bên trong ẩn hiện những hình dáng như đình đài lầu các, càng đến gần càng mờ mờ mịt mịt. hoàn toàn chẳng thể nào hiểu nổi.
Đám người Nhật trong viện nghiên cứu bắt đầu hoảng hốt, vì hiện tượng ma quỷ này ở Nhật cũng có. Họ cho rằng bao nhiêu oan hồn trong hang động chôn xác ấy đều đã bị thả ra hết, vậy là bèn mời một vị Âm Dương sư từ bên Nhật sang, theo chỉ thị của ông ta xây một cái lò đốt xác ẩn một nửa dưới lòng đất bên trong một tòa nhà của viện, tất cả các cửa đều nhất loạt bịt kín, mấy lối ra vào và cửa lò cũng phải thiết kế tuân theo yêu cầu đặc biệt. Sau đó, họ đưa một lượng lớn xác chết đào được trong động vào lò thiêu sạch, vì cho rằng như vậy có thể trấn áp được vong linh trong hang, mà cũng đích thực là có một số tác dụng thật.
Người Nga viết bức di thư này, cả ngày đều phải sống trong hầm ngầm dưới đất, chỉ lúc nào cần ông ta đến hiện trường công tác, ông ta mới được rời khỏi đây. Người Nhật biết rằng dù ông ta có chạy trốn về Liên Xô thì cũng xử bắn, nên canh gác không quá nghiêm mật, có điều tự do rất bị hạn chế. Về sau, ông ta quen một bác sĩ quân y Nhật có tư tưởng phản chiến, nhờ vị bác sĩ đó, ông ta tìm hiểu được một số tình hình bên ngoài, biết được quân Nhật đã thất bại, đồng thời lên kế hoạch chạy trốn ra khỏi nơi quỷ quái này. Vị bác sĩ quân y kia đã cho ông bản đồ và mọi thứ cần thiết khi bỏ trốn. Khi mọi việc chuẩn bị xong xuôi, ông lén đào được một đường hầm, định trốn ra theo đường cống ngầm, kết quả là đào nhầm góc độ, không vòng qua được cửa sắt. Ông đang chuẩn bị đào lại lần nữa, thì có mấy tên thổ phỉ Đông Bắc vận chuyển tới một cái rương đồng vừa đào được. Đêm hôm đó, cả viện nghiên cứu vang tiếng còi báo động. Người viết bức di thư này chợt nảy sinh một dự cảm cực kỳ đáng sợ, sau khi tiếng còi báo động đã tắt, bên ngoài liền không còn động tĩnh gì nữa, một mình ông bị giam trong hầm ngầm này không thể ra ngoài, không biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Khi định đào một đường hầm mới để trốn thoát, ông phát hiện sinh mạng mình đã như ngọn đèn cạn dầu, bèn đem hết những gì mình trải qua viết lại, hy vọng có người đọc được lá thư này, cái rương đồng kia là vật cực kỳ nguy hiểm…
Bức di thư viết đến đây thì đột nhiên dừng lại, đến cả ngày tháng cũng không có, rõ ràng người Nga kia viết được đến đây thì qua đời, chúng tôi thậm chí không biết tên ông ta là gì, chỉ có thể suy đoán thời gian áng chừng là khoảng trước khi quân Liên Xô xuất binh tấn công quân Quan Đông, vì vậy khi sự kiện bất ngờ xảy ra, quân Quan Đông đã không kịp thiêu hủy viện nghiên cứu bí mật này.
Cái rương đồng kia chứa thứ gì bên trong? Sự nguy hiểm của nó từ đâu tới? Trước khi chết người Nga này rốt cuộc đã gặp phải chuyện gì? Trước mắt chúng tôi cũng không thể nào biết được, có điều những thứ dùng khi chạy trốn của ông ta để lại, chính là thứ bọn tôi cần nhất lúc này, đặc biệt là bản đồ của viện nghiên cứu được nhắc đến trong thư. Ngoài ra, bức di thư của ông ta cũng giải đáp được rất nhiều nghi vấn trong lòng chúng tôi, tuy nhiên, một là ông người Nga này cũng chỉ biết rất ít, hai là Đinh Tư Điềm dịch không được toàn diện lắm, trong viện nghiên cứu này vẫn còn rất nhiều bí mật mà chúng tôi không sao hiểu nổi.
Bốn người chúng tôi giờ đều đã uống một ít rượu mạnh, cộng với thân thể mệt mỏi rã rời, chẳng ai muốn nhúc nhích nữa, vốn chỉ định nghỉ ngơi cho lại sức một lát rồi dậy đi tìm bản đồ và công cụ của người Nga kia để lại, sau đó nhanh chóng thoát khỏi đây. Nhưng mấy người bọn Đinh Tư Điềm thực sự đã quá mệt, chẳng bao lâu sau đều gục mặt xuống bàn ngủ thiếp đi. Lão Dương Bì và Tuyền béo ngáy to như sấm, tôi vốn định gọi bọn họ dậy, nhưng bản thân cũng cảm thấy đau nhức khắp mình mẩy, hai mí mắt chuẩn bị lao vào xáp lá cà đến nơi, biết rõ giờ không phải lúc để ngủ, nhưng lại tự mình thuyết phục mình, thầm nhủ thôi thì ở lại cái viện nghiên cứu này một đêm vậy. Cho dù vi khuẩn vi rút gì, nếu có bị nhiễm thì cũng nhiễm xừ nó rồi, sợ cũng chẳng ích gì, giờ cơ thể đã sắp đến giới hạn chịu đựng, nếu không nghỉ ngơi, gặp phải chuyện gì chắc chắn khó mà ứng phó kịp. Chủ ý đã quyết, tôi bèn ôm chặt cây bảo đao Khang Hy, gạt phắt mọi chuyện ra khỏi đầu, gục mặt xuống bàn ngủ luôn.
Ngủ một giấc say như chết, cũng không biết đã bao lâu trôi qua, tôi giật mình sực tỉnh, ngọn nến trên bàn đã cháy hết từ lâu, trong phòng tối tăm như hũ nút. Tôi vừa động đậy, liền cảm thấy cánh tay cọ vào thứ gì đó trên bàn, theo bản năng đưa tay sờ thử, dường như cỗ cương thi người Nga đã bị chúng tôi đốt thành than ấy đang nằm trên bàn thì phải...


Chương 29: Túi Đồ Kiểu Nga

Trong bóng tối, tôi rờ lên mặt bàn phía trước, có gì đấy vừa cứng vừa khô, lấy ngón tay miết nhẹ, liền miết ra một ít bột vụn giống như muội than. Phán đoán dựa theo cảm giác nơi đầu ngón tay, bên dưới lớp bột vụn ấy là xương người chết cứng đơ đơ. Sờ thấy xương người chết cũng chẳng có gì lạ, nhưng tôi nhớ rất rõ, mình và lão Dương Bì, Tuyền béo đã kéo cái cương thi người Nga ấy xuống cống ngầm đốt thành than, da thịt lông tóc đều cháy hết, chỉ còn lại mấy khúc xương không đốt được mà thôi. Ai đã mang cái xác thiêu không hết ấy đặt lên bàn thế này?
Trong lòng tôi cực kỳ kinh hãi, nhất thời cũng không kịp nghĩ nhiều, xung quanh tối om như mực, trên bàn chắc vẫn còn diêm và cái giá nến sáu cây chúng tôi tìm thấy trong phòng. Tôi thầm tính, phải rờ được những thứ đó thắp sáng lên trước để nhìn cho rõ ràng đã, bèn đưa tay ra mò thử. Nhưng không mò thấy diêm đâu, mà đụng một vật vừa cứng vừa tròn, bề mặt có nhiều lỗ, sờ kỹ lại thì ra là một cái đầu lâu người chết. Ngón tay cái của tôi vừa khéo thọc vào hốc mắt của cái đầu lâu ấy, bàn tay khẽ run lên liền hất ngay nó xuống bàn.
Lúc này, ở vị trí cái đầu lâu kia rơi xuống mặt bàn phát ra tiếng động, trong bóng tối đột nhiên bùng lên hai đốm lửa ma xanh leo lét. Toàn thân tôi run bắn, cảm thấy thân thể cứng đờ ra như bị bóng đè, tâm thần hoàn toàn bị đốm lửa ma chấn nhiếp, cơ thể như bị hút trống rỗng, chỉ còn lại cái vỏ xác không, chẳng thể suy nghĩ, cũng chẳng thể hô hấp. Tôi vốn không tin vào cái thuyết con người có hồn phách, nhưng lúc này thì đã thực sự được trải nghiệm thế nào gọi là hồn lìa khỏi xác thật rồi.
Đang lúc hồn bất phụ thể ấy, trước ngực đột nhiên thấy rung rung chấn động, lưỡi đao Khang Hy nằm trong vỏ chợt reo lên mấy tiếng, âm thanh “ong ong ong” chấn động bầu không khí. Ánh mắt như hai đốm lửa ma kia tức thì tắt lụi, tôi như thể vừa thoát khỏi cơn bóng đè “a” lên một tiếng, trước mắt sáng bừng, chỉ thấy mình đang ngồi ngay ngắn trên ghế, ngọn nến trên bàn chỉ còn một đoạn ngắn nhưng vẫn chưa tắt, xung quanh giá nến rơi rớt một ít xương cốt bị thiêu cháy còn sót lại.
Khắp người tôi ướt đẫm mồ hôi lạnh, tựa hồ vừa trải qua một cơn ác mộng, nhưng lại hết sức chân thực. Di cốt của cỗ cương thi người Nga kia vẫn còn nằm lù lù trên mặt bàn, tất cả sự việc này rõ ràng không đơn giản chỉ là một giấc mơ. Tôi đưa mắt nhìn quanh, ba người còn lại đang gục xuống bàn nghỉ ngơi đều đã tỉnh lại, kể cả Tuyền béo, người nào người nấy ướt đẫm mồ hôi, sắc mặt tái nhợt. Không cần phải hỏi, vừa nãy họ cũng giống tôi, suýt chút nữa bị hút mất hồn phách trong giấc mộng khủng khiếp ấy.
Đinh Tư Điềm lồng ngực phập phồng dữ dội, nói với chúng tôi: “Có chuyện này nói ra, mọi người không được cho là mình duy tâm chủ nghĩa đâu đấy, trong... trong căn phòng này… căn phòng này cũng có ma, giống như ở gian đốt xác ấy, có lẽ nào trong cái rương đồng ấy giam giữ vong linh gì đó?”
Đinh Tư Điềm hoảng hốt trong lòng, cũng chỉ đoán bừa đoán bậy nhưng chúng tôi không ai phản bác lại. Vừa nãy rõ ràng là chỉ muốn ngồi xuống nghỉ ngơi giây lát, nhưng ma xui quỷ khiến thế nào cả bốn người đều ngủ thiếp đi, rồi cùng gặp một cơn ác mộng giống hệt nhau, xương cốt của cỗ cương thi người Nga cũng không hiểu vì sao lại được mang lên đặt trên bàn, nói chúng tôi không gặp ma quỷ mới là lạ. Có điều, tôi dường như từng gặp cảm giác lạnh lẽo vừa nãy ở đâu đó rồi, đồng thời cũng ý thức rằng, đó rất có thể không phải do người Nga kia tác quái, mà có khả năng là hồn ma trong lò đốt xác vẫn cứ bám theo chúng tôi gây ra. Tôi vuốt nhẹ thanh đao dài trong lòng, thầm nhủ, cũng may là thanh đao này trấn áp được nó, bằng không cả bọn đã toi mạng một cách không minh bạch rồi. Những sự việc khủng khiếp này, liệu có liên quan gì đến cái rương đồng được nhắc đến trong bức di thư kia không nhỉ? Mọi người trong viện nghiên cứu này hình như đã cùng lúc mất mạng hoặc biến mất vào một ngày nào đó của hơn hai chục năm về trước, rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì. Càng không rõ chân tướng, lại càng khiến tâm chúng tôi không được vững, ai nấy đều cho rằng không nên ở đây thêm một phút nào nữa, cần phải nhanh tìm thấy bản đồ rồi mau chóng rời khỏi chốn thị phi này càng sớm càng tốt.
Nhìn mức độ cháy của ngọn nến, chúng tôi đã ngủ một giấc khoảng bốn năm tiếng đồng hồ, tuy là nằm ngoài kế hoạch, nhưng đầu óc so với lúc trước thì tỉnh táo hơn nhiều. Tôi mang hết chỗ tàn cốt chưa thiêu hết của người Nga kia cho vào bọc vải gói lại, rồi tìm một cái tủ trong phòng bỏ vào, nghĩ lại thấy nhà khoa học người Nga này cũng thật tội nghiệp. Bị người Nhật nhốt bao lâu như vậy mà sớm không chạy muộn không chạy, lại nhằm đúng lúc xảy ra chuyện mới nghĩ đến chạy trốn, chắc rằng chết rồi cũng không được cam tâm cho lắm, bèn nói với cái tủ ấy: “Người sinh ra trên đời phải sống cho vĩ đại, chết cho quang vinh. Lúc sinh tiền ông không làm được gì có ích cho nhân dân, lúc chết lại càng phải an phận thủ kỷ. Tuy ông bị người ta uy hiếp bắt phải làm việc, nhưng cũng là giúp kẻ ác làm điều xấu, cuối cùng gặp phải kết cục này cũng là tự ăn quả đắng, không thể oán trách được ai. Biển khổ vô biên, không sớm quay đầu thì nói những lời hối hận phỏng còn ý nghĩa gì? Giờ đây chủ nghía phát xít đã bị hủy diệt hoàn toàn, đồ đạc trong phòng này của ông, chúng tôi cũng không khách khí nữa, nay thay mặt cho nhân dân tịch thu lại hết.”
Lúc này, ba người còn lại đã lục soát cả gian phòng, cuối cùng phát hiện ra trong lò sưởi trên tường có một cái túi. Cái túi này rõ ràng chính là túi hành trang kiểu cũ của người Nga, làm bằng vải buồm, dạng thức như cái bao tải, chẳng có phéc mơ tuya hay khuy nút gì, miệng túi có một sợi dây, kéo một cái là thắt chặt miệng. Từ thời Thế chiến thứ Nhất loại túi này đã thịnh hành ở Nga, khoảng trước sau Thế chiến thứ Hai, ở vùng Đông Bắc, Mãn Châu của Trung Quốc cũng thường hay gặp. Nó là điển hình của phong cách kiểu Nga, đơn giản, thô ráp, nặng nề, chịu lực tốt.
Lão Dương Bì giơ ngọn nến chiếu sáng, Đinh Tư Điềm và Tuyền béo đổ hết các thứ ra, kiểm tra từng món từng món một, phát hiện cái túi của người Nga này chuẩn bị thật chẳng khác nào túi bách bảo, linh ta linh tinh thứ gì cũng có. Trong các vật phẩm ông ta chuẩn bị, ngoài bình nước và hộp cơm dã chiến ra, thậm chí còn có cả tiền bạc, có lẽ là để mưu sinh sau khi trốn thoát khỏi nơi này, còn có diêm, nến chống gió, mấy bình đựng chất hóa học khoảng mấy chục mililit. Những chất hóa học này là vật thiết thân rất cần khi đào tẩu ở vùng hoang dã, có thể giải độc rửa ruột, mồi lửa, rồi làm tín hiệu dạ quang... nhưng chúng tôi chỉ biết tác dụng chứ lại không phân biệt được loại nào với loại nào, cứ lấy rồi tìm hiểu sau vậy. Đinh Tư Điềm lần lượt phân loại, các vật phẩm chúng tôi đang cần nhất xếp sang một bên, thứ nào không cần thì bỏ lên bàn.
Kế đó, bọn họ lại tìm được hai cái đèn công binh kiểu Nhật, khác hẳn với đèn pin chúng tôi vẫn thường thấy, hình vuông vuông dẹt dẹt, đen tuyền, to cỡ hai bao thuốc lá. Cái chụp đèn to bằng nắm tay phía trước hình tròn, gắn phía trên hộp sắt đen ấy, phía sau không có chỗ nào nắm tay, nhưng phía trên có một cái tay xách hình tròn cố định, lúc sử dụng có thể lấy dây đai buộc trước ngạc, chiếu sáng trong cự ly ngắn. Trong túi còn có một số pin dự trữ nữa.
Ngoài ra, còn một ít thức ăn. Năm đó, việc hậu cần cung ứng của quân Nhật còn rất lạc hậu, căn bản không thể cung cấp lương khô dã chiến cho toàn quân. Nhưng một số đơn vị đặc thù thì được đãi ngộ khác với bộ đội bình thường, chẳng hạn như hải quân, không quân và nhiều quân đoàn đặc thù khác. Có lẽ người Nga này được vị bác sĩ quân y người Nhật kia giúp đỡ, nên để dành được một ít cá khô, đường viên, đồ hộp... tôi sợ thực phẩm đều đã biến chất, bèn nếm thử một chút, liền phát hiện ra trong môi trường nhiệt độ không biến đổi dưới hầm này, số thực phẩm ấy đến giờ vẫn sử dụng được. Điều này, có thể cũng do hoàn cảnh đặc thù khiến cái xác của người Nga kia trải qua hơn hai chục năm cũng không thối rữa tạo ra.
Trong túi không ngờ lại có cả một khẩu súng lục Nambu 14 bọc trong vải dầu, loại súng này là do xưởng công binh Nhật Bản chế tạo mô phỏng theo súng lục Luger Parabellum 08 của Đức, tức là súng đeo tiêu chuẩn của sĩ quan Nazi, thân súng có cơ cấu khóa bán tự động, bắn được tám phát đạn. Thời kỳ kháng Nhật, quân dân Trung Quốc gọi loại súng này là “súng poọc hoọc”. Nhà Tuyền béo hồi trước có một đống chiến lợi phẩm súng ống tịch thu được của địch, nhìn thấy khẩu “poọc hoọc” này liền như gặp lại bạn cũ. Cậu ta cầm khẩu súng lên ngắm nghía một hồi, lớp vải dầu bọc bên ngoài rất kín nên không hề có dấu vết gỉ sét, băng đạn cũng còn nguyên chưa bắn phát nào. Có điều loại súng này tồn tại rất nhiều vấn đề về mặt công nghệ thiết kế, các lỗi như kẹt đạn, cướp cò, tịt ngòi rất nhiều, mang nó bên mình cùng lắm cũng chỉ có tác dụng phòng thân mà thôi. Tuyền béo có súng trên tay thì chẳng còn để ý gì nữa, không nói không rằng nhét luôn vào sau lưng, tôi bèn nói với cậu ta: “Súng poọc hoọc bản thân đã không dễ sử dụng rồi, vả lại khẩu súng này hơn hai mươi năm nay chưa được duy tu bảo dưỡng, cậu tốt nhất là nên kiềm chế một chút, không đến lúc vạn bất đắc dĩ thì cố gắng đừng dùng đến nó. Súng poọc hoọc còn được gọi là súng tự sát, bắn không trúng kẻ địch còn đỡ, bắn phải mình thì toi đời luôn đấy.
Tuyền béo đang định phét lác về tài bắn súng của mình với tôi, thì Đinh Tư Điềm đột nhiên hoan hỉ reo lên: “Tờ giấy này rất có thể chính là sơ đồ của viện nghiên cứu.” Vừa nói cô vừa nhặt một tờ giấy trong đống đồ tạp nhạp lên, chúng tôi liền ngừng câu chuyện lại, vội vàng đón lấy tấm bản đồ giơ lên gần ánh nến xem thử, thoáng nhìn liền thấy hơi thất vọng. Có hai tấm bản đồ một lớn một nhỏ, tấm nhỏ là bản đồ bố trí của nơi được gọi là viện nghiên cứu này, có điều chỉ là bản đồ vẽ tay, bên trên có rất nhiều ký hiệu nhìn rối rắm vô cùng. Ngoài ra còn một tấm lớn hơn là bản đồ địa hình của khu vực động Bách Nhãn, phía Bắc nối liền đại mạc, phía Nam nối với thảo nguyên, những điều này lão Dương Bì đã biết rõ cả rồi, vì vậy ý nghĩa của tấm bản đồ lớn này đối với chúng tôi không lớn lắm.
Xem kỹ lại tấm bản đồ kết cấu của viện nghiên cứu mấy lượt, mới phát hiện ra nơi này cực kỳ rộng lớn. Tấm bản đồ ấy tuy sơ sài đơn giản, nhưng hóa ra lại rất trực quan dễ hiểu, cũng rất hoàn thiện, chủ yếu là những đường cống ngầm phân bố chằng chịt dưới lòng đất. Nhìn những ký hiệu đánh dấu trên bản đồ thì thấy tuyến đường đào tẩu của người Nga đó xuất phát từ gian hầm ngầm này, men theo đường cống ngầm đi qua chỗ gian đốt xác, sau đó quành qua khu vực giam cầm bị bịt kín hoàn toàn, vòng một vòng lên phía Bắc, khe núi phía Tây thỉnh thoảng lại có “phần phong” giết người trong vô hình vô ảnh, rõ ràng là ông ta muốn thoát ra từ khe núi phía Bắc.
Chúng tôi vẫn còn chưa hết sợ gian phòng có cỗ cương thi, xem xong bản đồ liền lập tức tìm ra con đường thoát, sau đó quyết định phải nhanh chóng xuất phát. Vậy là cả bọn chia nhau thu thập hết mọi thứ có thể dùng được, cả mấy chai rượu Tây cũng mang theo. Cái đuôi tư bản chủ nghĩa của mấy người đều chưa cắt sạch, trước lúc đi còn nhặt thêm mấy món đồ chơi Tây hiếm gặp, cả quần áo giày dép gì mặc được cũng không bỏ lại. Tôi thấy trong phòng có cái mũ bảo hộ chiến đấu, liền thuận tay đội luôn lên đầu mình. Cái mũ da chó của tôi rơi mất rồi, trên đầu lại có vết thương hở, không đội mũ rất dễ bị uốn ván, cũng khỏi để lũ gián nhảy lung tung dưới nước kia rơi vào tóc. Tôi cứ thế tìm cớ biện minh cho mình, cuối cùng cũng coi như vạch được giới tuyến phân biệt hành vi của mình với hành vi chứng tỏ sự giác ngộ rất thấp của bọn lão Dương Bì và Tuyền béo.
Trở lại đường cống ngầm hôi thối, tính ra thì bên ngoài trời chắc đã sáng rồi, tuyến đường thoát khỏi chốn tuyệt cảnh này đã vạch ra, tuy những việc phải giải quyết sau khi trở về thực sự khiến người ta phải đau đầu, nhưng dù sao cũng tốt hơn là từng giờ từng khắc nơm nớp lo sợ trong cái viện nghiên cứu có ma này. Chúng tôi đều nóng lòng trở về, vừa tham chiếu bản đồ vừa giơ nến tiến lên, dựa theo tuyến đường đã vạch ra, chúng tôi sẽ phải quay ngược trở lại một đoạn.
Nhưng chưa đi được bao lâu, tôi phát hiện ra Đinh Tư Điềm cứ ho mãi, sắc mặt rất không ổn. Ban đầu còn tưởng rằng tại thiếu ánh sáng nên nhìn lầm, nhưng khi dừng lại để kiểm tra cho kỹ, liền thấy thần sắc cô hết sức tiều tụy, giữa hai chân mày phủ một làn khí xanh rất rõ, rờ tay lên trán thấy hơi hâm hấp, tuy không sốt cao, nhưng nhìn sắc mặt thì bệnh tình có vẻ không hề nhẹ chút nào.
Tôi sớm đã lo lắng không biết đường cống ngầm và lò đốt xác này liệu có vi rút vi khuẩn gì không, thấy tình hình đó liền không khỏi lo lắng thay cho Đinh Tư Điềm: “Bệnh dịch hạch? Đậu mùa? Nhưng không giống như nhiễm phải bệnh truyền nhiễm trong cái viện nghiên cứu bí mật này cho lắm, nếu thế thì ai cũng có phần, tại sao mình, Tuyền béo và lão Dương Bì đều không cảm thấy có hiện tượng gì dị thường cả nhỉ?”
Lão Dương Bì và Tuyền béo nghe có động tĩnh cũng đều dừng bước quay lại nhìn cô, lão Dương Bì hiểu biết các loại thảo dược, có thể coi như một nửa ông lang vườn, ông lão quan sát đầu lưỡi Đinh Tư Điềm, rồi lại thử bắt mạch, đoạn kinh hãi kêu lên: “Sợ rằng trúng độc rồi...”
Đinh Tư Điềm là cô gái hết sức kiên cường, về đây tham gia lao động sản xuất, mấy bệnh vặt, hay vết thương nhẹ cô đều nghiến răng chịu đựng, không để người khác phải chăm sóc cho mình, cô vốn định kiên trì đến lúc cả bọn thoát ra ngoài rồi mới nói, nhưng lúc này cũng biết là không thể giấu được nữa, bèn lên tiếng: “Lúc chạy ra khỏi gian thiêu xác, bị hơi độc của con trăn vảy gấm phả ra liền bắt đầu cảm thấy hơi tức ngực khó chịu. Mình thấy mọi người đều không sao, nên cũng không để tâm lắm, lúc vào đến căn phòng của người Nga đó vẫn chưa thấy gì, nhưng giờ thì cảm giác càng lúc càng nặng hơn, toàn thân lạnh run, sợ là đã trúng phải độc của con trăn đó rồi.”
Sương độc mà loài trăn vảy gấm phun vào hai giờ Tý, Ngọ rất nồng, lúc đó chúng tôi đều bị vây khốn trong gian đốt xác, tuy kịp thời đào thoát trước khi hít phải thứ sương độc trí mạng ấy, nhưng chất độc quá mạnh, lúc ấy mỗi người đều không khỏi cảm thấy váng đầu buồn nôn, sợ rằng đã ít nhiều hít phải một chút. Trăn vảy gấm có tính âm hàn, chất độc của nó cũng thuộc loại âm độc, đàn ông dương khí vượng nên không thấy gì mấy, nhưng trong cùng một điều kiện như thế, phụ nữ lại nhạy cảm với chất độc này hơn nhiều, vậy nên chỉ cần hít phải một chút, Đinh Tư Điềm đã không sao chịu đựng nổi. Qua giai đoạn tiềm phục, cuối cùng chất độc đã bắt đầu phát tác.
Nghe nói đàn bà con gái mà trúng phải chất độc của trăn vảy gấm phun ra, mắt miệng sẽ xanh lét, đồng thời có triệu trứng hâm hấp sốt, hai mắt nảy sinh ảo giác, trông thấy những màu sắc rực rỡ nhảy múa. Nếu không có thuốc hoặc biện pháp giải độc, phỏng chừng trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ người sẽ choáng váng, hít thở khó khăn, toàn thân tê cứng, nghiêm trọng thì dẫn đến hôn mê bất tỉnh, cuối cùng tử vong vì hệ thống hô hấp ngưng trệ và toàn bộ cơ bắp đều tê liệt. Một khi chất độc đã phát tác đến thời kỳ cuối thì dù Hoa Đà tái thế cũng chẳng thể làm gì được.
Lão Dương Bì cuống quýt cả lên: “Hết cứu rồi, hết cứu rồi, trên thảo nguyên rất khó tìm được loại thảo được giải chất độc này, chúng ta về được khu chăn nuôi rồi chạy đến bệnh viện tiểu khu, nhanh nhất cũng phải mất đến hai ngày, thế chẳng phải Tư Điềm đã mất mạng rồi sao?” Tuyền béo cũng lo lắng vò đầu bứt tóc, nói với tôi: “Nhất ơi, cậu có cách gì không? Mau nghĩ cách gì cứu Tư Điềm đi, không thể để cô ấy chết thế này được!”
Tôi thấy tuy Đinh Tư Điềm chỉ hít phải một ít hơi độc, đến giờ tình hình tạm coi như ổn định, vẫn còn đi lại được, thần trí cũng khá tỉnh táo, nhưng triệu chứng trúng độc giai đoạn đầu dù sao cũng đã xuất hiện. Nếu thoát ra bên ngoài từ khe núi mé phía Bắc, vậy tức là sẽ đến vùng giáp ranh với hoang mạc không người sinh sống, càng cách xa khu chăn nuôi hơn. Mà dẫu không đi đường vòng ấy, không có ngựa, chúng tôi căn bản cũng không thể kịp thời đưa cô đến bệnh viện. Vả lại, ngộ nhỡ chất độc cô trúng phải lại phát tác trong thời gian ngắn hơn thì sao? Thêm nữa, ai có thể đảm bảo dọc đường sẽ bình an thuận lợi, không xảy ra bất cứ chuyện gì ngoài ý muốn nữa chứ?
Tôi nhíu chặt mày, cầm bản đồ lên xem thử, rồi lập tức quyết định: “Con trăn vảy gấm đó là do cái viện nghiên cứu này đặc biệt nuôi dưỡng. Bọn họ nghiên cứu nó là để trị liệu cho các binh sĩ bị trúng phải chất độc của loài trăn này trên chiến trường Thái Bình Dương, nói không chừng ở đây lại có huyết thanh giải độc cũng nên. Khả năng này rất lớn! Không vào hang cọp sao bắt được cọp con, tôi thấy muốn xoay chuyển tình thế này thì chỉ còn cách đánh liều một phen, đến tòa nhà chính của viện nghiên cứu mà tìm thuốc giải độc thôi.”
Để không gây áp lực tâm lý cho Đinh Tư Điềm, tôi tỏ vẻ không gấp gáp gì cho lắm, sau khi xác định tuyến đường, cả bọn vẫn tiến lên với tốc độ bình thường. Đằng nào thì xem trên bản đồ, khoảng cách từ chỗ chúng tôi đến tòa nhà chính cũng không xa lắm, có đi chậm hơn nữa cũng vẫn kịp. Nếu trong tòa nhà chính không có thuốc giải độc hay huyết thanh gì đó, vậy thì mọi chuyện cũng coi như xong. Tôi không khỏi ngấm ngầm lo sợ, trong đầu cứ vẩn vơ ý nghĩ ngộ nhỡ không có thuốc giải độc thì sao? Vả lại trong đám bọn tôi, có ai nhận ra được thuốc giải độc nó trông như thế nào đâu? Nghĩ mãi nghĩ mãi, cuối cùng dứt khoát mặc kệ hết, chẳng cần nghĩ ngợi gì nhiều nữa. Tiên sư cha nhà nó, đằng nào thì cứ làm cho đến cùng trước đã, ông đây không thấy quan tài không rơi lệ, không đến Hoàng Hà dạ không cam.
Đi được một lúc, chúng tôi đã tiến vào một đường cống ngầm rất rộng, nơi này có rất nhiều đường ống xi măng cùng đổ về. Tuyền béo đi trước mở đường đột nhiên giẫm phải thứ gì đó, làu bàu chửi đổng rồi nhấc chân hất lên một cú, trong làn nước bẩn liền lộ ra mấy khúc xương người chết, có nửa khúc xương chân vẫn còn đeo dính một cái giày, tôi đang định xem cho kỹ, thì bỗng phát giác, trong bóng tối, đường cống xi măng nơi chúng tôi đứng đột nhiên xoay chuyển.


Chương 30: Cốc Tai Motolov

Xem trên tấm bản đồ viện nghiên cứu mà người Nga đó vẽ, hệ thống thoát nước ngầm này thực tế là một dòng sông ngầm được đổi dòng bằng phương pháp nhân tạo. Chính vì trong khe núi ở động Bách Nhãn có rất nhiều mạch nước ngầm, mà hoàn cảnh địa chất không cho phép làm kênh dẫn nước trên mặt đất, người ta đành phải sử dụng hệ thống thoát nước chằng chịt như lưới nhện ngầm bên dưới để dẫn nước ra ngoài, bằng không nước ngầm sẽ nhấn chìm cả khu vực phía trên đầu chúng tôi, không thể xây dựng viện nghiên cứu bí mật ở vị trí đó được. Nhưng giờ các đường cống của hệ thống thoát nước ngầm đã gần như khô kiệt, chỉ còn lại một ít bùn nhão, có lẽ nguồn nước trong lòng núi kia cũng cạn rồi. Hệ thống thoát nước ngầm chia làm hai phần, một phần hoàn toàn bịt kín, một phần ở trạng thái nửa đóng nửa mở, trong lúc khẩn cấp có thể dùng làm thông đạo sơ tán, nếu muốn tiếp cận tòa nhà chính, tuyến đường gần nhất chính là thông qua khu vực đường ống không bị hoàn toàn phong bế này. Nơi này địa hình phức tạp, các đường ống chằng chịt như mê cung, nếu không có tấm bản đồ, thực sự khó có thể tìm được lối ra.
Chúng tôi cầm nến lần dò tìm đến được một khu vực khá rộng có nhiều đường ống giao nhau. Ở đây, bốn vách đen như mực, bùn nhão và nước bẩn ngập ngụa, dưới nước toàn sinh vật phù du. Chỗ này chính là trung tâm của hệ thống cống ngầm. Mắt thấy đã sắp đến được điểm đích đầu tiên, bỗng chúng tôi phát hiện ra trong làn nước đen ngòm dưới chân có rất nhiều xương cốt, nhìn mấy bộ quần áo chưa rữa nát hết, rất có thể đây là các cảnh vệ của viện nghiên cứu bí mật phía trên. Tuyền béo bịt mũi đưa chân đá đá mấy khúc xương đã bị ngâm nước nhừ cả ra ấy lên. Chúng tôi thấy thế đều không khỏi nghĩ: “Trong đường ống sao lại có xác của quân Nhật nhỉ?” Cả bọn đang định xem cho rõ ràng, bỗng phát hiện đường ống chợt rung lên, như thể trời xoay đất chuyển.
Nhưng đó chỉ là ảo giác của mắt, dưới chân chúng tôi không hề có cảm giác rung động. Bọn tôi giơ nến và đuốc, ngẩng đầu lên nhìn, cảnh tượng trước mắt làm cả bốn người đần thối mặt ra. Trên bức vách phía trước, chỉ cách người khoảng một mét toàn gián là gián. Gián đen gián nâu đủ cả, trên lưng mọc cánh, con nào con nấy to phát khiếp, chiều dài ít nhất cũng phải ba đến bốn xăng ti mét, đè lên cả nhau bám chi chít phủ kín bức vách. Bọn gián này sợ rằng đã bị một thành phần nào đó trong nước thải kích thích, không chỉ thể hình to gấp đôi gián bình thường, mà còn có thể ăn xác đồng loại, cùng với xác chuột, xác giòi bọ trong đường cống ngầm để duy trì sinh mệnh.
Lũ gián vốn tiềm phục bất động, chầm chậm cắn xé lẫn nhau, giờ có một bộ phận nhỏ bị ánh lửa và tiếng bước chân làm kinh động, lập tức nhảy bật lên, trong chớp mắt đã nảy sinh phản ứng dây chuyền, tất cả gián trong đường ống tựa như sôi sùng sục, bay loạn xạ, vách tường biến thành một cái hố đen xoay chuyển cuồn cuộn. Rất nhiều gián rơi xuống, trên đầu trên vai chúng tôi lập tức lúc nhúc gián là gián.
Tôi định gọi cả bọn chạy ngược lại, nhưng lúc này thì chẳng ai lo được cho ai nữa rồi, vả lại cũng không người nào dám mở mồm ra nói chuyện. Lũ gián lớn gián nhỏ rơi xuống làm mấy ngọn đuốc suýt tắt, vừa rơi xuống người là bò loạn xạ, mở miệng ra nói không chừng liền có mấy con chui ngay vào thì toi đời. Hơn thế, những con gián nhỏ một chút cứ thấy chỗ nào có khe là chui vào, để chúng chui vào tai vào mũi thì chết, bọn này có thể thông qua màng nhĩ bò thẳng một mạch vào trong não người, chúng tôi đành phải ra sức hất những con gián rơi trên người mình xuống.
Lũ gián bò rất nhanh, muốn chạy cũng không kịp, đành phải vung đuốc lên xua bọn chúng ra xa, chỉ mong cái lũ khốn kiếp này mau chóng chạy đi hết. Bốn người hơi định thần lại, dốc hết toàn lực, dùng hết những thứ có thể dùng, cuối cùng đã lợi dụng mấy ngọn đuốc xua hết lũ gián như dòng nước lũ ấy ra xa khỏi mình.
Một lúc sau, lũ gián trong đường cống ngầm đã dần dần ít đi, tôi vươn tay giúp Đinh Tư Điềm và lão Dương Bì hất mấy con gián còn sót lại trên người xuống, sắc mặt ai nấy tái nhợt, thà để ác quỷ bắt linh hồn đi, còn hơn là bị lũ gián chôn sống rồi từ từ cắn chết. Tuyền béo nói với chúng tôi: “Nhân lúc lũ gián tản đi rồi, chúng ta mau xông ra thôi…”
Tuyền béo còn chưa dứt lời, bỗng nghe lão Dương Bì kêu lên một tiếng, cả người đột nhiên trầm xuống như bị thứ gì dưới nước kéo ngã lăn. Tôi và Đinh Tư Điềm phát giác có điều không ổn, vội vươn tay ra kéo ông lại, nhưng thứ đang kéo chặt lão Dương Bì kia rất khỏe, tuy tôi đã chụp được cánh tay ông, nhưng cũng bị luồng sức mạnh khủng khiếp ấy dẫn động, hai chân loạng choạng, suýt chút nữa thì ngã lăn vào giữa đám bùn đất.
Đinh Tư Điềm thì không may mắn như thế, cô chụp được vạt áo của lão Dương Bì, định ngăn thứ gì đó kia kéo ngược ông già về phía sau, nhưng sức tay có hạn, lại thêm dưới chân trơn tuột đứng không vững, vậy là liền ngã oạch. Nhưng cô vẫn không buông tay, liền bị kéo theo ông già vào sâu bên trong đường cống ngầm tối om. Lúc này, Tuyền béo đã rút ra khẩu Nambu 14, tôi thấy trong bóng tối không nhìn rõ mục tiêu, rất dễ ngộ thương người khác, hơn nữa với sức như vậy thì cái thứ đang lôi kéo lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm cũng không thể nhỏ được. Cùng lúc ấy, trong lòng tôi cũng chợt hiểu ra lai lịch của những bộ xương này, rất có khả năng là khi xảy ra sự cố, vài người muốn chạy thoát qua đường này nhưng lại gặp phải cái thứ chết người kia, kết quả đều mất mạng trong đường cống tối om. Muốn cứu người thì không thể do dự, bằng không thì chỉ có thể thu xác cho hai người ấy mà thôi, nghĩ đoạn, tôi lập tức rút cây bảo đao Khang Hy, hô lên một tiếng với Tuyền béo: “Đừng nổ súng, ném đuốc về phía trước.” Vừa dứt lời, cả người tôi đã lao bắn đi như một mũi tên.
Ngọn đuốc của lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm đã tắt lụi từ lúc bị kéo ngã xuống bùn, làm cách mạng phải tiết kiệm, chúng tôi không nỡ dùng đến đèn công binh của người Nga kia, chỉ dùng quần áo và đồ đạc trong phòng ông ta làm thêm mấy cây đuốc thô sơ. Loại đuốc này có lợi cũng có hại, nếu trong đường hầm có trùng độc rắn rết gì đấy, cầm đuốc có thể xua chúng đi từ xa, hơn nữa còn có thể phán đoán được chất lượng không khí có hại với con người hay không, nhưng nhược điểm là phạm vi chiếu sáng rất có hạn, chỉ được mấy bước đằng trước, hơi xa một chút là chẳng thấy gì nữa.
Tôi một tay cầm đao, một tay giơ đuốc đuổi theo, đành phải bảo Tuyền béo ném cây đuốc trong tay cậu ta ra như ném pháo sáng dò đường, tranh thủ thời gian ngắn ngủi trước khi ngọn đuốc rơi xuống tắt lụi để nhìn rõ tình hình khoảng mười mấy mét phía trước mặt. Tôi vừa cất bước, ngọn đuốc phía sau liền bay vù qua vai, vạch một đường parabol thấp trong không gian tăm tối, rồi rơi xuống đống nước bùn phía sau tắt ngấm.
Nhờ ánh lửa lóe lên trong khoảnh khắc ấy, tôi đã kịp nhìn thấy chỉ cách mình khoảng vài bước phía trước mặt, đường ống bị vỡ ra một cái hố lớn, đường kính khoảng gần một mét, bên trong sâu không thấy đáy. Từ trong cái hố ấy vươn ra mấy cái chân đốt to tướng có móc màu đen, bên trên mọc đầy lông cứng cũng màu đen. Chính mấy cái chân này đang kéo Đinh Tư Điềm và lão Dương Bì xuống dưới cái hốc tối tăm đó.
Lão Dương Bì bị mất trọng tâm ngã nhào xuống, không biết có bị thương tích gì không. Ông già vẫn gắng sức vùng vẫy hòng thoát ra, nhưng không thể nào vận sức lên được, súng săn thì bị người đè lên, muốn nổ súng cũng chẳng có cách nào. Đinh Tư Điềm nằm bò ra đất, tay giữ chặt vạt áo lão Dương Bì, nghiến răng nghiến lợi kéo về phía sau, nhưng chẳng ích gì, chính cô cũng bị vật kia kéo nhanh về phía cái hố ấy.
Tôi giẫm lên lũ gián chết nằm đầy dưới đất, mỗi bước chân đều phát ra những tiếng lạo xạo, cả người lao đi như tên bắn. Bấy giờ mới nhìn rõ, thứ đang kéo lão Dương Bì kia là một con xâu tiền rất lớn. Thể hình của con xâu tiền lớn hơn rết và du diên nhiều, ít chân hơn, nhưng móc câu vừa to vừa dài, con lớn nhất có thể dài đến hơn hai mét. Trong đường ống nước vỡ ra một cái hố vừa to vừa sâu, liền bị con xâu tiền cổ đại này coi như sào huyệt, vì nó sợ lửa, nên mới muốn kéo lão Dương Bì xuống sâu bên dưới xử lý.
Tôi đuổi theo đến trước, mượn ánh đuốc trên tay, phát hiện trong cái hố sâu ấy toàn là xương người, sâu bên dưới còn có mấy con gián to đến phát khiếp đang bò qua bò lại. Tôi nóng lòng cứu người, cũng không kịp nhìn cho kỹ, vội vung cây trường đao lên chém xả xuống, ý đồ chặt con xâu tiền đang lấp ló trong hang này ra làm đôi, giải vây cho lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm.
Không ngờ động tác của con xâu tiền cũng cực nhanh, đao của tôi đang ở trên không, nó đã kéo được lão Dương Bì đến sát miệng hố. Một đao này mà chém xuống, chẳng những không chặt trúng nó, mà ngược lại còn làm bị thương lão Dương Bì nữa. Tôi thấy tình thế không ổn, vội vàng ném luôn ngọn đuốc đang cầm xuống dưới hố. Nhưng không khí bên trong quá ẩm ướt, ngọn đuốc vừa rơi xuống liền tắt phụt ngay. Trong bóng tối, tôi bổ nhào xuống, vươn tay ôm chặt lấy lão Dương Bì, định gắng sức chống ở miệng hố, không cho nó kéo xuống nữa. Chẳng ngờ con xâu tiền này sức khỏe vô cùng, cái chân mọc đầy lông đen giật mạnh một cái, cả tôi và lão Dương Bì, Đinh Tư Điềm đều lọt nửa người xuống bên dưới rồi.
Trong lúc hỗn loạn, Đinh Tư Điềm đã bật được cái đèn pin công binh đeo trước ngực lên, trong cột sáng lắc qua lắc lại ấy, lão Dương Bì đang dùng tay chống lên một bộ xương người chết. Bộ xương đó bị kẹt cứng trong khe nứt sát vách tường, ông già gắng hết sức lực, cuối cùng phần nào ngăn được đà lao vào bên trong của ba người chúng tôi. Tôi thấy phía trước mặt toàn là những cái chân côn trùng đang khua động, định vung đao lên chém, khổ nỗi không gian quá hẹp nên khó mà giở trò gì được, chỉ đành nhằm vào trong hố mà đâm bừa, mỗi lần đâm trúng thấy tóe ra một tia nước vàng. Tôi sợ thứ nước ấy có độc, liền úp mặt vào lưng lão Dương Bì, tay vẫn không ngừng đâm. Tuy hầu như phát nào cũng đâm trúng con xâu tiền gớm ghiếc ấy, nhưng đều không đủ sâu để gây nên vết thương chí mạng, vả lại cái giống này sống rất dai, cho dù chặt nó làm mấy khúc, nhất thời nó cũng không chết ngay được. Đinh Tư Điềm bị kéo ở sau cùng, lúc này đã bò dậy được, hai tay tóm chặt lấy tôi và lão Dương Bì vận hết sức lực kéo về phía ngược lại. Bả vai và cánh tay của tôi và lão Dương Bì bị cái móc ở chân con xâu tiền móc chặt, lại kẹt cứng ở miệng hố, tay chân đều không thể vung lên được, tuy nhất thời cũng có thể cầm cự không để bị kéo xuống hố, nhưng tuyệt đối không phải là kế lâu dài. Vả lại, chỉ dựa vào sức mình muốn thoát khỏi hoàn cảnh này là điều không thể, tôi bỗng cảm thấy có một cẳng chân mình được Đinh Tư Điềm ôm chặt, kéo mạnh về phía sau. Nhưng cô là con gái, sức đơn lực bạc chẳng thể xoay chuyển nổi tình thế, tôi không khỏi cuống lên, lớn tiếng mắng chửi Tuyền béo sao mãi vẫn không chạy tới giúp một tay.
Đang lúc tiến thoái lưỡng nan ấy, chợt nghe phía sau có người hô lớn: “Đừng nôn nóng! Giai cấp bần hạ trung nông các vị chớ có nôn nóng, tôi mang rượu cốc tai đến đây!” Tôi và lão Dương Bì một mặt cố sức chống đỡ, một mặt dùng đao ngăn những cái chân móc câu bên trong đang vươn ra, nghe thấy tiếng kêu ấy liền biết ngay là Tuyền béo đang chạy tới, nhưng cậu ta bảo cốc tai cốc tiếc cái gì thì chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu. Đang lúc tính mạng nguy cấp thế này chẳng hiểu cậu ta còn muốn giở trò quỷ gì ra nữa.
Thì ra Tuyền béo cũng biết súng ống đao thương khó mà giết chết con xâu tiền ấy ngay lập tức được, bèn bật cái đèn công binh buộc trước ngực lên, đồng thời móc trong túi ra một chai rượu Tây của người Nga kia để lại, nhét bừa vào mấy viên thuốc, rồi lột cái bít tất ra bịt vào miệng chai, châm lửa vào rồi đưa cho Đinh Tư Điềm. Sau đó, cậu ta xách lưng cả tôi lẫn lão Dương Bì, kéo mạnh giật nửa người bị kéo vào trong hố của hai chúng tôi ra bên ngoài.
Con xâu tiền trong hố cũng bị kéo ra một đoạn, nó thấy miếng ăn đến miệng rồi còn bị giằng đi mất, nào chịu nhả ra, đang định xấn tới kéo hai chúng tôi trở lại. Đúng lúc ấy, khẩu poọc hoọc trong tay Tuyền béo nhả liền hai phát đạn, làm thân nó rụt cả lại. Đinh Tư Điềm nhắm chuẩn cơ hội ấy, liền quăng luôn bình rượu mạnh đang cháy phừng phừng vào trong hố. Thứ rượu của người Nga đó uống vào miệng thấy nóng bỏng như dao cắt, nồng độ cồn cực cao, cộng với bên trong đó một ít chất hóa học lung tung, có thể còn tăng thêm tác dụng cháy, nên vừa ném ra là lập tức bùng lên ngùn ngụt. Cái hố bên dưới đường cống ngầm thành biển lửa, lũ gián và con xâu tiền ở trong bị đốt cho lăn lông lốc, không biết có bao nhiêu con đã vùng vẫy lăn lộn mà chết trong ngọn lửa ấy rồi.


Chai cháy mà Tuyền béo vừa làm, hồi chúng tôi đấu tranh vũ trang chống phản động và Hồng vệ binh cũng từng sử dụng qua mấy lần. Có điều, hồi ấy rượu mạnh khó kiếm, đa số đều dùng xăng xe hoặc cồn công nghiệp, thêm vào một ít chất dẫn cháy, tùy nơi tùy lúc gặp gì dùng nấy. Loại bom cháy do nhiều loại chất đốt hỗn hợp tạo thành này, xuất hiện sớm nhất vào thời chiến tranh Liên Xô - Phần Lan, và được sử dụng rộng rãi trong Thế chiến thứ Hai, còn được gọi là cốc tai Molotov. Tôi thấy trên người mình và lão Dương Bì đều ít nhiều sướt sát, bầm tím mấy chỗ, nhưng cũng không có gì đáng ngại. Lúc này trong đầu chỉ còn một khoảng trống rỗng, cũng chẳng thấy sợ sệt gì nữa.
Tôi đưa mắt nhìn cái hố đang cháy bừng bừng bên dưới, ánh lửa đã yếu dần, lũ gián chưa bị thiêu chết lại bắt đầu bò ra bò vào chỗ khe nứt, nhìn mà rùng hết cả mình, chẳng ai muốn ở lại đây thêm một phút nào nữa. Vậy là bốn người vội dắt díu lẫn nhau tiếp tục tiến lên, bên trong đường cống ngầm bốn bề đều có nguy cơ, chúng tôi lo lại gặp phải nguy hiểm gì khác, bèn xem bản đồ tìm một lối ra gần đó có thể thông lên mặt đất. Chỗ này cũng rất gần tòa nhà chính rồi, vậy là cả bọn đều rảo bước chạy nhanh đến đó, cho dù phải vòng hơi xa một chút, cũng không ai chịu đi đường tắt trong cái ống cống mỗi lúc một nhiều gián với giòi bọ này cả.
Ở chỗ rẽ ngoặt trong ống cống có một cầu thang sắt gắn vào vách tường, Tuyền béo leo lên trước tiên, đẩy cái nắp xi măng cốt thép bên trên ra, bên ngoài trời đã tờ mờ sáng. Sau đó, Đinh Tư Điềm cũng leo thang chui lên, lão Dương Bì thẫn thờ chuẩn bị leo lên sau cô, tôi thấy ông lão thần sắc ảm đạm, nhưng dường như không phải vì một phen kinh hoảng vừa nãy. Ông già này bình thường trầm mặc ít nói bộ dạng lúc nào cũng như tâm sự trùng trùng, kể cả lúc mọi người vui vẻ, ông cũng chỉ không hút thuốc thì hát mấy bài dân ca buồn thảm của quê nhà. Từ sau khi tiến vào động Bách Nhãn, ông lại càng hay thở ngắn than dài, có lúc khó khăn lắm mới lấy lại tinh thần thì chẳng bao lâu sau lại đã thẫn thờ cả người ra. Tôi thầm nghĩ, có lẽ tại ông già biết được chân tướng sự việc năm xưa, thì ra người em của ông bị người Nhật hại chết, còn ông thì do quá mê tín mà không dám xông lên cứu người, trong lòng mới cứ mãi canh cánh không yên. Đặt mình trong hoàn cảnh của lão Dương Bì, tâm trạng này tôi rất hiểu, đặc biệt là cái lò đốt xác ấy rất có thể đã thiêu đốt thi thể của em trai ông, tức cảnh sinh tình, thử hỏi làm sao mà không u uất cho được?
Để biểu thị sự đồng tình, lúc lão Dương Bì bắt đầu leo lên cầu thang sắt, tôi khẽ vỗ nhẹ lên vai ông, an ủi rằng: “Cháu hiểu tâm trạng của ông lắm, nhưng chuyện của người anh em đó ông đừng nghĩ nhiều nữa, dù sao cũng là quá khứ rồi, con người phải nghĩ thoáng ra một chút, phải nhìn về phía trước mới được.”
Lão Dương Bì phỏng chừng thấy tôi còn trẻ mà nói ra được những lời này, nên rất kinh ngạc, ông vừa leo lên vừa hỏi tôi: “Cậu biết lão nghĩ gì à? Cả đời lão chỉ có một người anh em này thôi, thế nhà cậu có mấy anh em?”
Tôi thầm nhủ, nhà cháu không giống các đại gia xã hội chủ nghĩa phổ biến thời bây giờ, chỉ có mỗi một đang đứng trước mặt ông đây thôi, chẳng có anh chị em gì cả. Có điều, những lời này không thể nói ra được, bèn bảo với lão Dương Bì: “Ông phải nghĩ thế này này, những người đang chịu khổ trên toàn thế giới, đều là anh em giai cấp với chúng ta.”
Nói đoạn, tôi cũng leo lên bậc thang sắt, bên ngoài sắc trời đã hửng sáng. Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đều tắt đèn công binh đeo trước ngực đi, nhưng khi hai người họ và lão Dương Bì đưa mắt nhìn xung quanh, thần sắc người nào người nấy đều rất kỳ lạ. Tôi cũng nhìn theo ánh mắt họ, bất giác sững người ra, nơi này sao trông quen quá vậy?
Chú thích
[30] Chai cháy, hay còn gọi là chai xăng chống tăng, bom xăng, bom dầu, và được biết tới với cái tên lóng là cocktail Molotov hay bom Molotov là một loại vũ khí gây cháy đơn gian có thể được sản xuất hàng loạt với chi phí thấp. Vì chi phí thấp và dễ chế tạo, loại vũ khí này thường được những người biểu tình hoặc những lực lượng nổi dậy sử dụng. Cái tên lóng bom Molotov hay cocktail Molotov xuất hiện lần đầu trong chiến tranh Liên Xô-Phần Lan năm 1939 - 1940, được người Phần Lan dùng để chế giễu Dân ủy Ngoại giao Liên Xô thời ấy là Vyacheslav Mikhailovich Molotov.

Chương 31: Tinh biến

Chỗ chui từ dưới đường hầm lên nằm ở bên ngoài khu kiến trúc, điểm này thực hơi bất ngờ với chúng tôi. Theo tấm bản đồ chạy trốn của người Nga kia, ở lối ra này lẽ ra phải có một vườn thực vật quy mô rất lớn, muốn đến tòa nhà chính của viện nghiên cứu cần phải vòng qua đấy trước, ban đầu chúng tôi không muốn đi vòng, nên mới quyết định đi thẳng theo đường cống ngầm, lẽ nào thông tin của ông người Nga kia bị sai lạc?
Lúc này trời đã hửng sáng, sương sớm mông lung che phủ bốn phía, trong màn sương khói mỏng ấy, lờ mờ trông thấy trước khoảng rừng phía đối diện có một ngọn núi thấp. Vách núi hướng về phía chúng tôi bị khoét một nửa, trên mặt cắt của trái núi bị tàn phá lộ ra vô số sơn động lớn nhỏ, tựa như một quả táo đầy lỗ sâu bị xẻ đôi. Thoạt nhìn có vẻ như tất cả đều là hang động thiên nhiên, tôi không đếm kỹ, nhưng áng chừng ít nhất cũng không dưới một trăm cái cửa động ở đó.
Ở lưng chừng quả núi bị khoét ra ấy, có một pho tượng thú đá cực kỳ to lớn lộ ra khỏi lớp đất, bốn người chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, cuối cùng cũng biết tại sao nơi này lại được gọi là động Bách Nhãn rồi. Thì ra là có một ngọn núi đá với hơn trăm cái hang động thiên nhiên trong lòng núi, xem ra những suy đoán trước đây toàn bộ đều sai bét cả. Nhưng điều khiến tôi kinh ngạc không chỉ có thế, bố cục của những hang động núi đá kia, cùng với con thú đá dữ tợn ấy, khiến tôi nhớ lại truyền thuyết về Quỷ nha môn mà Yến Tử mới nhắc đến cách đây không lâu. Tương truyền, đó là cửa lớn thông đến cõi u minh địa phủ, người nào lỡ bước lạc vào thì tuyệt không có hy vọng sống sót trở về. Nhưng cũng chỉ biết có truyền thuyết như thế, và biết trong núi có nơi nào đấy như thế, nhưng lại chưa ai miêu tả tình hình nơi ấy một cách tường tận tỉ mỉ cả.
Trong bức di thư của người Nga kia cũng có nhắc đến, nói rằng quân Nhật đào ra cánh cửa thông xuống địa ngục, ở đây sự thực và truyền thuyết đã ấn chứng cho nhau, rất có thể, cái động Bách Nhãn này chính là Quỷ môn quan thông xuống cõi Âm tào Địa phủ.
Tuyền béo cũng cảm thấy dốc núi phía bên đó rất quen mắt, chăm chú nhìn một hồi lâu rồi mới sực nhớ ra: “Đây chẳng phải là một cái Quỷ nha môn cỡ lớn sao? Cái chúng ta thấy ở núi Đoàn Sơn bé hơn nhiều, chắc đây mới là hàng xịn rồi. Mọi người nói xem, chỗ này liệu có đường thông xuống Âm tào Địa phủ thật không nhỉ? Tôi thấy chuyện này huyền hoặc lắm...”
Hơi độc Đinh Tư Điềm trúng phải thuộc loại chất độc ảnh hưởng đến hệ thần kinh, chứ không phải ảnh hưởng đến hệ tuần hoàn máu, thời gian phát tác không nhanh lắm. Tuy cô đã có triệu chứng hâm hẩm sốt, nhưng tinh thần vẫn còn rất tỉnh táo, chỉ thấy cô ngước nhìn sườn núi chi chít những hang to hố nhỏ ấy nói với tôi và Tuyền béo: “Âm tào Địa phủ? Những hang động chi chít này khiến người ta nhìn mà cảm thấy thật khó chịu, lẽ nào hai bạn từng thấy ở nơi nào khác rồi sao? Chỗ đó là đâu thế?”
Tôi cảm thấy việc đã đến nước này thì cũng không cần phải giấu giếm làm gì nữa, bèn bảo Tuyền béo kể sơ qua chuyện lúc trước cho cô. Đinh Tư Điềm và lão Dương Bì nghe xong, sắc mặt đều lộ vẻ kinh hãi, ngước nhìn ngọn núi với ánh mắt sợ sệt. Hang động chôn xác của vu nữ bộ tộc Tiên Ty ấy, không ngờ lại có cả truyền thuyết về đường vào chốn Âm tào Địa phủ nữa sao? Chắc chắn bọn người Nhật kia đã đào ra quá nhiều ác quỷ, nên mới phải xây một cái lò đốt xác đầy những phù chú để thiêu đốt không ngừng suốt ngày đêm.
Tôi thầm nhủ, lại phải tìm một cái cớ ổn định lòng quân rồi, nghĩ đi nghĩ lại, cách tốt nhất cũng chẳng ngoài chiêu bài đấu tranh giai cấp, vậy là bèn nói với cả bọn: “Những sự việc mà chúng ta gặp phải ở đây, đích thực là rất kinh khủng, khó mà dùng lẽ thường suy đoán được. Có điều, tôi thấy trên thế gian này chưa chắc đã có cái gì gọi là Âm tào Địa phủ đâu. Nếu có đi chăng nữa, thì đó cũng là chốn về của đám đế vương khanh tướng tài tử giai nhân, chẳng quan gì đến giai cấp vô sản chúng ta cả, không cần phải lo lắng quá về mấy cái sơn động ấy. Vả lại, có thanh bảo đao Khang Hy này trấn áp, mấy con ma quỷ nhãi nhép ấy cũng không dám làm bậy gì đâu, chuyện này thì tôi tin chắc lắm. Không phải vì thanh đao này là của lão hoàng đế hoàng điếc gì từng sử dụng đâu, mà bởi đại phàm các binh khí từng dùng để chỉ huy ba quân, hoặc sử dụng trên chiến trường, bản thân đều có mấy phần sát khí, những thứ không sạch sẽ đều rất úy kỵ.”
Lòi tôi nói khiến lão Dương Bì gật đầu lia lịa, ông già có vẻ rất tin tưởng những lý lẽ này, nhưng Đinh Tư Điềm lại đột nhiên hỏi: “Vậy... vậy chúng ta... chúng ta chết rồi sẽ đi đâu? Thiên quốc? Địa ngục? Hay là cõi hư vô vĩnh hằng?” Tôi bị cô hỏi cho một câu liền cứng họng, chuyện này thì đúng là xưa nay chưa bao giờ nghĩ tới cả, cuối cùng chỉ đành đáp bừa rằng: “Cái gì mà hư vô với chẳng vĩnh hằng, chúng ta phải sống cho thật tốt, làm cách mạng đến tận cùng, cho dù có chết cũng không thể chết một cách hoàn toàn vô giá trị ở cái chỗ quái quỷ này được.”
Những lời này đã khiến Đinh Tư Điềm an tâm phần nào, nói xong, tôi bảo mọi người nghỉ ngơi tại chỗ một lát, rồi đối chiếu lại với bản đồ, liền phát hiện không phải tấm bản đồ của ông người Nga kia sai sót, mà là sự khác biệt quá lớn của môi trường đã làm chúng tôi nảy sinh ảo giác. Dù gì thì tấm bản đồ này cũng chủ yếu là vẽ những đường cống ngầm dưới lòng đất, còn các kiến trúc trên mặt đất chỉ được đánh dấu bằng các ký hiệu. Cửa cống chỗ chúng tôi chui lên ấy, chính xác là khu nhà kính trồng thực vật, nhưng mái vòm sớm đã sập xuống từ lâu, xung quanh còn thấy một số mảnh lưới sắt rách nát bị cây cối che khuất. Băng qua vạt rừng rậm phía trước, ở dưới sườn núi đầy những hang động lớn nhỏ kia, có một kiến trúc màu xanh xám, đó có lẽ chính là tòa nhà chính của viện nghiên cứu rồi, bên trong chắc có phòng phát điện, phòng y tế, nhà kho, phòng thông tin..., nhưng thoạt nhìn thì xem chừng quy mô trên mặt đất nhỏ hơn trong tưởng tượng của chúng tôi nhiều.
Tình hình bên trong tòa nhà thế nào còn chưa rõ, muốn tìm được thuốc giải độc trong ấy đâu phải chuyện nói là làm được. Càng đến gần mục tiêu, tôi lại càng không nắm chắc, mắt thấy sắc xanh giữa hai chân mày Đinh Tư Điềm mỗi lúc một đậm hơn, tôi biết giờ cũng chỉ còn cách đánh liều một phen thôi vậy. Lúc này sương mù giữa chốn núi đồi rừng rậm chợt dày đặc hơn, tầm nhìn xa giảm dần xuống, tôi nhắm chuẩn phương hướng, rồi vẫy tay với mọi người, đỡ Đinh Tư Điềm vội vã tiến lên phía trước.
Lá cây khô và cỏ dại chen chúc dày đặc, quần áo cọ vào phát ra những tiếng lạo xạo, khiến lũ chim trong rừng đều giật mình bay vút lên, phát ra vài tiếng kêu thê thiết. Tôi rút thanh đao ra đi trước mở đường, chặt bớt những cành khô, hay bụi cỏ mọc quá rậm rạp, mở ra một con đường mòn. Sương mù mỗi lúc một nhiều, cộng với cỏ dại mọc rất dày, đi vào sâu bên trong, phạm vi nhìn thấy được rút xuống chỉ còn vài bước chân. Tôi buộc lòng phải chậm bước lại, để đề phòng bị lạc với những người khác.
Tôi đang lo vì sương mù mà mất phương hướng, thì bỗng xuất hiện một dây mây lớn chắn phía trước mặt. Mấy người bọn tôi đành phải dừng lại, dây mây này chính là loại quan âm đằng mọc đầy gai nhọn, cũng là nơi nương thân của loài trăn vảy gấm. Lúc chúng tôi thoát ra khỏi gian đốt xác, con trăn vảy gấm ấy vẫn bị nhốt trong bụng lò, không biết giờ thế nào rồi. Chỉ thấy cây quan âm đằng cực lớn, to đến mấy người ôm. Đất đai ở vùng động Bách Nhãn cực kỳ hiếm thấy, có thể khiến vạn vật sinh sôi nảy nở, bằng không loại dây mây khổng lồ ở phương Nam này cũng không thể sinh trưởng được. Đây phỏng chừng cũng là một trong những nguyên nhân mà quân đội Nhật Bản chọn nơi này để xây dựng viện nghiên cứu.
Cây quan âm đằng bị đổ vật xuống đã gãy lìa, nhưng dây mây này thực sự quá lớn, lại mọc đầy gai nhọn, muốn leo qua cũng không phải chuyện dễ dàng. Chúng tôi đưa mắt quan sát mà không khỏi thở dài chán nản, đành phải đi vòng qua chỗ cây cối rậm rạp hơn thôi vậy. Lúc này Tuyền béo chợt nghĩ ra một cách, chỉ cần lấy vài bộ quần áo của người Nga kia, phủ lên thân cây che gai nhọn, vậy là có thể leo qua được rồi.
Chúng tôi vốn không muốn đi vòng qua hai bên, vì khu vực này cây cối rậm rạp, cành lá đan chen chằng chịt, gần như không có chỗ nào đặt chân, kể cả dùng đao chặt cây mở đường cũng; cực kỳ khó khăn mà tốn rất nhiều sức lực. Thấy chủ ý này của Tuyền béo cũng khá hay, hiếm khi cậu ra lại nghĩ ra được sáng kiến hay ho như thế, vậy là cả bọn lập tức tiếp thu ngay. Tôi y phép thi hành, quả nhiên rất dễ dàng bò qua được thân dây mây chắn trước mặt. Vì quần áo không nhiều, chúng tôi phải lần lượt trèo qua, tôi và Tuyền béo bò lên trước, sau đó kéo Đinh Tư Điềm và lão Dương Bì lên theo.
Đang chuẩn bị leo xuống phía bên kia, lão Dương Bì đột nhiên hụt chân một cái, lập tức ngã vồ về phía trước, đầu gối lệch ra khỏi chỗ có phủ quần áo, lập tức bị gai nhọn của quan âm đằng chọc vào toét cả thịt ra. Đầu gối là nơi tập trung nhiều dây thần kinh, cảm giác bị gai đâm vào thế nào chắc hẳn không cần phải nói cũng biết, ông già đau đớn kêu lên “ối chao” một tiếng, hít hà không thôi. Lúc ông già bị trượt chân, tôi đã vươn tay ra định kéo lại, nhưng đúng vào khoảnh khắc đó, tôi dường như không dám tin vào mắt mình nữa.
Trên lưng lão Dương Bì đeo một cái bao, bên trong đựng các thứ linh tinh chúng tôi lấy được trong gian phòng của nhà khoa học người Nga kia. Cái bao này vốn do Tuyền béo phụ trách, nhưng vì cậu ta và tôi phải leo lên thân cây mây trước, nên tạm thời để ông già đeo hộ. Lúc tôi vươn tay ra chụp lấy ông, chợt thấy trong cái bao ấy không ngờ lại thò ra hai cánh tay mọc đầy lông trắng, ánh mắt tôi vừa lướt qua, cánh tay đó liền “soạt” một tiếng rụt vào bên trong.
Lúc bấy giờ, sương mù mờ mờ mịt mịt, ánh sáng ảm đạm, tuyệt đối không phải vì ánh sáng chiếu vào làm mắt tôi bị hoa. Đôi bàn tay trắng ởn mọc đầy lông đó, giống hệt như thứ tôi thấy ở cửa tòa nhà có cái lò đốt xác. Lần đó, chỉ thấy trên ô cửa kính lóa lên một cái bóng trắng, căn bản không dám nhìn kỹ lại, nhưng có thể chắc chắn rằng tôi đã thấy một đôi tay như thế. Hiện giờ, tuy đang có sương mù, nhưng dù sao vẫn là ban ngày ban mặt, hơn nữa trong cái bao đó liệu có bao nhiêu không gian, sao có thể thò ra hai cánh tay được chứ? Lẽ nào thực sự có một bóng ma cứ bám theo chúng tôi đến tận chỗ này?
Từ lúc chúng tôi đặt chân đến đây tới giờ đã xảy ra rất nhiều chuyện khó hiểu, chẳng hạn như đang ở trong tòa nhà có lò đốt xác thì bị khóa trái cửa lại; cửa lò đốt xác đang đóng chặt bỗng mở chốt, thả ra con trăn vảy gấm suýt chút nữa làm cả bọn mất mạng, lại còn khiến Đinh Tư Điềm trúng độc, tính mạng như chỉ mành treo chuông; lúc ở trong đường cống ngầm, tôi rõ ràng trông thấy sau lưng có một cái bóng đen mờ mờ; còn trong gian phòng của người Nga kia, xương cốt còn sót lại của cỗ cương thi bị chúng tôi đốt cháy không hiểu sao lại xuất hiện trên bàn; cả bọn cũng suýt chút nữa bị hút mất hồn trong cùng một giấc mộng; tất cả những chuyện ấy, đều chứng tỏ rằng có một vong hồn đang định dồn chúng tôi vào chỗ chết, từ đầu chí cuối vẫn bám sát sau lưng chúng tôi, nhưng chúng tôi lại không thể nào tìm thấy nó. Ngay từ lúc ban đầu, đã là địch ở trong tối, ta ở ngoài sáng, tình thế cực kỳ bị động.
Tôi có nằm mơ cũng không thể ngờ rằng, cái thứ muốn hại chết chúng tôi ấy, không phải theo sau lưng chúng tôi, mà còn gần hơn, nó ẩn mình nấp trên một người nào đó ở đây. Nếu không phải lão Dương Bì vô ý trượt ngã một cái, sợ rằng tôi không thể nào phát hiện ra được bí mật này.
Nói thì chậm, nhưng sự việc lúc ấy diễn ra rất nhanh, tôi thấy cái bao đeo trên lưng lão Dương Bì có bóng trắng lấp loáng, liền lập tức túm lấy cánh tay ông già, khẽ kêu lên: “Mau ném cái bao đi!” Có lẽ tại đầu gối đau quá, lão Dương Bì không hiểu tôi muốn nói gì, chỉ đau đớn nghiến chặt răng, không thốt được nên lời.
Tôi thầm nghĩ chuyện này một hai câu cũng khó mà nói cho rõ ràng được, vả lại lão Dương Bì đang bị gai đâm vào đầu gối, chẳng rõ thương tích ra sao, đành kéo ông lên trước rồi nói sau. Nhưng một mình tôi thì không thể kéo được ông lên, vừa dồn sức giậm chân một cái, lớp quần áo phủ dưới chân liền trượt đi, thêm nữa, cảnh tượng vừa thấy đã khiến tôi xúc động rất lớn, dùng cách nói thịnh hành thời bấy giờ là: “Đã chạm đến tận linh hồn rồi!”, vậy nên cả tôi cũng trượt luôn xuống khỏi sợi quan âm đằng khổng lồ ấy theo lão Dương Bì.
Bấy giờ, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đều vươn tay ra, định kéo tôi và lão Dương Bì lại. Nhưng bốn người đều tập trung sang một bên, khiến trọng tâm của đám quần áo trải dưới chân bị lệch, rách toạc một cái, cả bốn cùng ngã lăn bổ nhào xuống dưới. Cũng may, dây mây quan âm đằng này cũng không cao lắm, bên dưới lại có một lớp cành cây và cỏ dại khá dày đỡ lấy, nên cũng không đến nỗi sứt đầu chảy máu.
Cả bọn ngã một cú không nhẹ, đà rơi xuống cũng không nhỏ chút nào, vừa khéo dưới đoạn dây mây ấy có một cái cây khô đã đổ vật ra, gốc cây rất lớn, vừa khô vừa mục, bộ rễ chằng chịt đan nhau tạo thành một cái hang cây, bên trong trong không. Tuyền béo lăn tròn trong bãi cỏ, rồi lại đập vào khúc cây mục phía trên hang cây; thân thể chúng tôi cũng theo đó rơi thêm một nấc nữa, ngã bịch xuống dưới đáy hang.
Dưới hang cây đều là gỗ mục, nếu không phải tiếp đất gián tiếp, rất có thể chúng tôi đã gãy sụn lưng rồi. Tôi có cảm giác xương cốt khắp người mình đều như lìa ra vậy. Chỉ nghe Tuyền béo bên cạnh cũng rên rỉ đau đớn, tôi đang định gắng sức bò dậy xem tình hình cả bọn thế nào, lúc này bỗng thấy trên đầu có tiếng ầm ầm nổi lên, thì ra đoạn quan âm đằng khô héo phía bên trên bị chúng tôi giẫm đạp một hồi, cũng gãy lìa luôn xuống, bịt chặt cả cửa hang. Trong thoáng chốc, hang cây đã tối om như mực.
Trong bóng tối, tôi vội gọi tên mấy người đồng hành, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm lần lượt lên tiếng hồi đáp, tuy cú ngã không nhẹ, nhưng thanh niên xương cốt dẻo dai nên cũng không có chuyện gì lớn, chẳng qua cũng chỉ đau đến toát hết cả mồ hôi lạnh ra mà thôi.
Tôi thấy hai người không sao thì cũng yên tâm phần nào, liền bảo họ bật đèn công binh đeo bên mình lên, thử xem lão Dương Bì có bị rơi vào trong cái hang này hay không? Sao mãi chẳng nghe thấy động tĩnh gì của ông lão? Bốn bề quanh cái hang cây không có khe hở nào, bên dưới ước chừng rộng khoảng bảy tám mét vuông, diện tích cũng khá nhỏ, tôi nôn nóng muốn tìm lão Dương Bì, bèn không đợi đèn sáng, đã cố nhịn cảm giác đau đớn khắp toàn thân lần mò tìm kiếm xung quanh mình.
Đột nhiên tay rờ phải thứ gì đó dinh dính, hình như là máu tươi, tôi lại càng cuống cuồng lo lắng, vội giục Tuyền béo và Đinh Tư Điềm mau bật đèn lên. Khổ nỗi hai cái đèn công binh ấy chắc bị va đập nhiều quá, nên tiếp xúc không tốt, vỗ thế nào cũng không chịu sáng lên. Tuyền béo lục trong túi được nửa cây nến, đành lấy ra dùng tạm trước.
Tuyền béo vừa quẹt một que diêm, đột nhiên có trận gió âm lùa qua, tựa hồ như ai đấy thổi ra một làn hơi lạnh, lập tức khiến que diêm tắt ngấm. Chúng tôi vừa nãy đã nhận thấy bên trong hang cây này bốn bề đều bị bít kín mít, không khí không lưu thông, gió ở đâu mà làm tắt diêm chứ? Tuyền béo vội vàng quẹt thêm một que nữa, ánh lửa còn chưa kịp lóe lên, đã lại có một trận âm phong khác thổi nó tắt phụt.
Tuyền béo tức tối ngoác miệng ra chửi đổng: “Tiên sư đứa nào chán sống rồi mà cứ thổi hơi lạnh vào ông mày thế hả?” Đinh Tư Điềm định giúp cậu ta đốt lửa lên, nhưng cũng không thành công. Xung quanh tối như hũ nút, tôi càng lúc càng thấy thấp thỏm không yên, định rút thanh đao sau lưng ra, nhưng vừa vòng tay ra liền thấy trống không, chẳng rõ lúc ngã xuống, thanh đao ấy đã văng đi đâu mất rồi nữa.
Đúng lúc này, phía trước tôi đột nhiên sáng bừng lên một đôi mắt màu xanh lục, tựa như hai đốm lửa ma trơi. Vừa trông thấy đôi mắt ấy, toàn thân tôi lập tức lạnh buốt, run bắn lên, đang ngồi dưới đất vội vàng chống tay giật vài bước, áp lưng sát vào một rễ cây. Đôi mắt như đốm lửa ma ấy cũng lướt tới như hình với bóng, ánh mắt màu bích lục ngập tràn hơi thở chết chóc, toát lên một thứ sức mạnh kỳ dị như thể câu hồn nhiếp phách người ta. Cảm giác này dường như rất quen thuộc, trải qua một lần thì tuyệt đối khó thể nào quên. Hình như tôi đã thấy đôi mắt ấy không chỉ một lần, lần trước là trong gian phòng của người Nga, à không đúng... không chỉ hai lần, trong ngôi miếu Hoàng đại tiên ở Đại Hưng An Lĩnh cũng từng gặp rồi, đây chính là đôi mắt của Hoàng tiên cô, đôi mắt của con Hoàng tiên cô bị Tuyền béo đem đi đổi lấy kẹo hoa quả, rốt cuộc bị người ta lột da mà chết thảm ấy.


Nguồn doc.178vn.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved