CHƯƠNG 49: THẮP NẾN ĐI ĐÊM
Chúng tôi thấy trong bức
Bỉnh chúc dạ hành đồ có dị tượng xuất hiện, người nào người nấy đều vừa kinh
hãi vừa nghi hoặc. Giáo sư Tôn nói quả không sai, nhưng nghĩ xa hơn một chút,
tuy rằng trong núi Quan Tài có lệ cấm lửa, nhưng những năm cuối triều Minh, chủ
yếu vẫn phải nhờ vào đèn đuốc để lấy ánh sáng. Phong Soái Cổ đích thân vẽ mấy
bức tranh này, treo trong lầu các tối tăm dưói lòng đắt, người ngoài không hiểu
cấm kỵ, tự nhiên sẽ thắp đèn lên quan sát, từ đây có thể thấy rõ là ông ta cố ý
đế lại cho người nào có cơ duyên tiến vào núi Quan Tài này trông thấy.
Trộm mộ xưa nay rất hiếm
khi dùng đến nguổn sáng bằng khoáng vật, tuy rằng tương truyền thời xưa cũng có
người từng dùng dạ minh châu trộm mộ, nhưng dạ minh châu cực kỳ trân quý, hạng
bình thưòng sợ rằng cả đời không được thấy qua một lần, vả lại còn không thể
thăm dò chất lượng không khí dưới lòng đất và phòng thân, vì vậy, đó chỉ là
ngoại lệ trong giới trộm mộ, chứa bao giờ được lưu truyền phổ biến, đã chui
xuống lòng đất đào mổ quật mả thì không thể rời xa ngọn đuốc được.
Phong Soái Cổ truyền lại
cho hậu nhân nhà họ Phong bài “Quan Sơn chỉ mê phú”, chừa lại con đường bí mật
mười hai năm xuất hiện một lần, để bọn họ sau này có cơ hội tiến vào mộ cổ, đây
cũng là hành vi trái với lẽ thường, có lẽ người này hiểu đạo lý trong thiên hạ
không có ngôi mộ nào là không bị đào bới trên thế gian chẳng có lăng mộ nào
vĩnh viễn kiên cố, bí mật dù không bị bọn đổ đấu đào lên thì sớm muộn cũng bị
phá hoại bởi sự thay đổi của núi non sông ngòi, bãi bể nương dâu.
Phong Soái Cồ bố trí như
vậy, tâm cơ sâu dày thực khiến người ta ớn lạnh từ tận đáy lòng, huyền cơ của
mộ có Địa Tiên không phải ở chứ “giấu”, mà nằm trong một chữ “rời”, khi người
ngoài tiến vào núi Quan Tài, cũng chính là lúc địa tiên rời núi. Không chỉ hậu
nhân nhà họ Phong là giáo sư Tôn, mà thậm chí cả mấy tên Mô Kim hiệu úy chúng
tôi, đều chỉ là “quân cờ” bị ông ta điều khiển lợi dụng. Liều mạng tiến vào mộ
cổ, chẳng qua là giúp Phong Soái Cổ tiếp tuyên dẫn thánh mà thôi. Biết rõ tiến
vào minh điện ở phần bụng thi mạch ắt sẽ gặp phải điều bất trắc, nhưng tình thế
bức ép, chúng tôi đành bước lên con đường của những người tuẫn táng thuở trước,
từng bước từng bước đi xuống vực sâu, điểm khác biệt duy nhất chỉ là, chúng tôi
biết rõ đây rất có thể là con đường chết, có đi mà chẳng có về.
Lúc này trong mộ đạo
phía xa vẳng lại tiếng gặm nhấm gỗ mục, âm thanh mỗi lúc một gần, vô số sâu
quan tài sau khi vào thôn Địa Tiên liền chui khắp mọi nơi, nhằm vào những chỗ
có âm khí mà tiến, trong các mộ cổ có nhiểu quan đồng quách sắt, kín bưng không
kẽ hở, nhưng cũng có một số quan quách gỗ không tránh khỏi bị chúng cắn xé cả
quan lẫn xác bên trong.
Bọn chúng tôi lúc ở
trong địa cung mộ cổ Ô Dương vương đã bị nhiễm phải không ít thi khí âm khí,
tình trạng của giáo sư Tôn còn nghiêm trọng hơn, đến giờ tôi cũng chẳng rõ ông
ta là người sống hay người chết nữa, thậm chí còn nghi ngờ lão có thể “thi
biến” bất cứ lúc nào, vì vậy, lúc này cả bọn đều đã trở thành mục tiêu di động
thư hút đám sâu quan tài ấy.
Kỳ thực, thi trùng và
sâu quan tài tuy rất đáng sợ, song cũng không đến nỗi không có cách ngăn chặn,
trước mắt thứ khiến người ta đau đầu nhất vẫn là Cửu Tử Kinh Lăng giáp một khi
nó xuyên qua được vách núi Quan Tài, ắt hẳn sẽ nghiền nát cả thôn Địa Tiên và
địa mạch hình xác chết không đầu này. Dưới cái tổ vỡ làm gì có quả trứng lành?
Đến lúc ấy, dù là cổ thi trong âm trạch hay người sống trong mộ cổ, cũng đều
ngọc đá cùng tan.
Tôi nhìn chằm chằm vào
bức Quan Sơn tướng trạch đồ một hồi, trong đầu liên tiếp nảy ra mấy ý nghĩ,
nhưng vẫn không có cách nào thoát thân, giờ thì không thể đổ cho tình thế đấu
tranh giai cấp quá phức tạp, mà chỉ có thể trách đầu óc mình đã quá trì trệ mà
thôi.
Shirley Dương nhắc nhở:
“Đuốc của chúng ta sắp dùng hết rồi, không thể nán lại trong khu vực âm trạch
khắp nơi đều có khe hở này quá lâu được.”
Tôi nghiến răng, thầm nhủ
lần này không xông ra không xong, cùng lắm thì liều mạng chết chung. Đã có
chuẩn bị tinh thần, tâm lý cũng vững chải hơn nhiều, tôi bèn nói với cả bọn:
Thôn Địa Tiên và quần thể mộ cổ bên dưới đều nối liền với nhau, duy chỉ có mộ
Địa Tiên ở phần bụng dãy núi hình xác người là tương đối độc lập. Nhìn bản đồ
thì chúng ta đã ở cách mộ Địa Tiên không còn xa nữa, cứ làm theo kế hoạch ban
đầu, mặc xác bên trong có thứ gì, chúng ta cũng phải mạo hiểm xông vào mộ thất,
nghĩ cách tìm bằng được cái xác của Phong Soái Cổ, đem hỏa thiêu để tiệt trừ
hậu hoạn.”
Tôn Cửu gia đờ đẫn cả
người, bài “Quan Sơn chỉ mê phú” của phong Soái Có truyền lại, tựa như ma chú
câu dẫn hồn phách,lừa gạt Phong Soái Kỳ và con cháu ông ta suốt mấy trăm năm
đến giờ mới có người lờ mờ dự cảm được đây là một âm mưu. Giờ lão không còn chủ
trương vào mộ Địa Tiên nữa, lại hối hận ban đầu không có kế hoạch chu toàn, lẽ
ra nên ở bên ngoài trực tiếp dùng thuốc nổ đánh sập ngọn núi này cho xong.
Tuyền béo ngoác miệng ra
mắng: “Tiên sứ cha nhà ông, đừng có nằm mơ giữa ban ngày, muốn đánh sập bao
nhiêu núi cao ở khu hẻm núi Quan Tài này phải cần đến bao nhiêu thuốc nổ quân
dụng ông biết không? Một lão phân tử trí thức thối thây như ông thì đi đâu kiếm
được?” Dứt lòi liền đưa tay xóc Tôn Cửu gia đang ngổi xổm dưới đất dậy, vừa kéo
lão ta đi về phía trước, vừa nói: “Tăng cường tính kỷ luật, đổ đấu đâu cũng
được, có hiểu chưa hả? Tôn Cửu gia nhà ông cứ nghe theo chỉ thị tối cao của đại
gia Tuyền béo với cậu Nhất đây là chắc chắn không sai, mau đi cho tôi.”
Tôi cũng vẫy tay gọi
Shirley Dương và Út, cả bọn cầm đuốc đi dọc theo mộ đạo thẳng về phía trước,
tham chiếu phương vị trong bản đồ, vòng qua một ngôi mộ Bắc Tống có quan tài
treo bằng xích sắt là đến khu vực rìa ngoài âm trạch thôn Địa Tiên. Tới đây,
trong tay chúng tôi chỉ còn lại đúng ba cây đuốc chưa tắt.
Trong túi đồ của chúng
tôi vẫn còn một hộp chất đốt, thừa sức tăng mạnh thế lửa xua đuổi lũ sâu quan
tài đang từ bốn phía ùn ùn đổ tới, nhưng tôi nghi ngờ khả năng trấn áp địa tiên
Phong Soái Cổ của gương cổ Quy Khư, vẫn hy vọng để lại hộp chất đốt này làm
chiêu sát thủ cuối cùng, vì vậy quyết không tùy tiện sử dụng, đành nghiến, răng
liều mạng xông thẳng tới.
Nghĩ đoạn, tôi liền dẫn
theo mấy người bọn Tuyền béo, Shirley Dương, cùng đẩy cánh cửa đá cũ nát chặn
lỗ ra của đường ngắm, dùng mấy cây đuốc mở đường, bổ nhào ra ngoài. Không ngờ,
tình huống ở phía sau thôn Địa Tiên lại hoàn toàn nằm ngoài những gì chúng tôi
tiên liệu, hàng nghìn hàng vạn con sâu quan tài bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp làm
kinh động không hề bò đến phần bụng của rặng đồi núi hình xác người, nơi này
vẫn còn nguyên bầu không khí tĩnh mịch lạ thưòng.
Tôi định thần lại, thấy
triền núi bên ngoài thôn Địa Tiên có một bia đá lớn, bên trên khắc sáu chữ “Địa
Tiên mộ Linh Tinh điện”, đồng thời còn chạm trổ hoa văn trang trí tinh cung hết
sức tinh tế đẹp đẽ, tấm bia được đặt trên lưng linh thú bằng đá. Tôi muốn nhìn
rõ tình hình phía trước, bèn leo lên đỉnh bia, từ trên cao phóng tầm mắt ra nhìn
bốn phía xung quanh.
Chỉ thấy phần bụng của
rặng núi hình xác người này có mấy khe nông hình cung, cứ cách tầm mười mấy
bước lại có một tượng đồng một chân cao lớn khôi vĩ. Tượng đồng này đế mình
trần, hình dạng bảy phần giống quỷ, ba phần giống người. Mặt mũi thảy đều dữ
tợn đáng sợ, hai mắt trợn trừng, miệng không ngừng phun ra dương toại, chảy vào
rãnh đá trong khe, tựa như những dòng sông máu màu đỏ sậm quanh co tuần hoàn,
chặn hết lũ sâu quan tài tứ phía đổ về ở bên ngoài. Dương toại tuy thuộc loại khoáng
chất lạnh, bản thân không có nhiệt lượng, song cũng đủ khiến lũ sâu quan tài
vốn sợ ánh sáng không dám vượt qua ranh giới dù chỉ nửa bưóc.
Nằm giữa mấy dòng sông
máu uốn khúc ấy, có một khe sâu hình thành do núi đá đứt gãy, trên vách đá có
sạn đạo, hai bên có xây mấy cổng chào vắt vẻo giữa tầng không, mái cong uốn
lượn nhấp nhô trập trùng, thoạt nhìn đã thấy khí tượng bất phàm. Mộ Địa Tiên vẽ
trong Bỉnh chúc dạ hành đồ hẳn là nằm ở dưới đáy khe sâu này.
Tôi leo xuống dưới, gọi
mọi người nhảy qua rãnh đá có dòng dương toại chảy qua. Cả bọn tạm thời thoát
khỏi lũ sâu quan tài truy đuổi gắt gao phía sau, trong lòng cũng yên tâm phần
nào, nhưng đi tới trước cổng chào, ngó mắt nhìn xuống khe sâu, chỉ thấy bên
dưới tối tăm mù mịt, tĩnh lặng lạ thường, ai nấy đều có cảm giác chẳng lành,
tựa như vừa thoát khỏi hang hổ lại rơi vào huyệt sói.
Út tuy rằng gan lớn hơn
người, nhưng những chuyện cô gặp phải mấy ngày nay thảy đều hết sức kinh dị,
nằm giữa lằn ranh sống chết, cũng khó tránh khỏi có chút ngơ ngẩn thất thần. Vả
lại, truyền thuyết địa tiên Phong Soái Cổ lừa người sống vào mộ tuẫn táng sớm
đã lưu truyền ở trấn Thanh Khê từ lâu, cô nhìn tuyến đường sạn đạo bằng đá xanh
như con mãng xà khổng lổ ngoằn ngoèo uốn lượn chui vào sâu trong huyệt động,
trong lòng càng thêm hoảng hốt.
Tôi đành cho cô một liều
thuốc an thần, vừa dụi tắt ngọn đuốc, thay cục pin dự phòng cuối cùng cho đèn
chiếu chiến thuật gắn trên mũ, vừa bảo cô rằng cái truyền thuyết địa tiên Phong
Soái Cổ muốn rời núi độ người thành tiên ấy hoàn toàn không đáng tin cậy. Người
này chết đã nhiều năm, thi thể không hóa thành cương thi thì củng mục rữa rồi,
cùng lắm chỉ là cái xác ướp, làm gì có chuyện thành tiên được chứ? Cả đời tôi
đây xông pha Nam Bắc, đã vào không ít mộ cổ, cũng chứa từng thấy lăng mộ nào có
thi tiên; mà kể cả có rơi vào tình huống xấu nhất, lão địa chủ Phong Soái Cổ
này thật sự bị thi biến, muốn rời núi hại người thì cũng khỏng thể thành công
được, tôi tin rẳng lịch sử và nhân dân chắc chắn sẽ không cho phép sự việc thế
này xảy ra.
Út khẽ gật đầu, tuy vẻ
mặt cô căng thẳng quá độ song vẫn có thể đi theo đội ngũ. Tuyền béo nói: “Các
đồng chí cứ yên tâm đi, tôi thấy nếu có chết thì cũng phải là bậc hiếu tử hiền
tôn nhà họ Phong Tôn Cửu gia đây ngỏm trước, đến lúc đó còn phải kéo theo cả bọn
Quan Sơn thái bảo trong mộ này xuống làm nệm đỡ lưng cho chúng ta, không quậy
tung chúng lên thì quyết không thôi.”
Tôn Cửu gia lắc đầu đầy
bất lực: “Đến nước này rồi, sao các cậu vẫn chỉ lo nói cho sướng cái miệng
nhỉ?” Nói đoạn, lão ta lại quay sang tôi: “Cậu cũng đừng bốc phét quá đà, có
phải vẫn còn giữ lại một ít chất đốt chuẩn bị thiêu xác cổ trong mộ không? Đến
lúc ấy ngàn vạn lần chớ thấy minh khí đầy trong mộ mà không nỡ động thủ, cậu
nhất định không được chùn tay do dự, nếu thi tiên trong mộ thoát ra khỏi núi
Quan Tài thật thì phiền phức to đấy.”
Tôi đang định bảo:
“Chuyện này chẳng cần ông phải dặn dò, tôi tự biết cân nhắc nặng nhẹ.” Bỗng
nghe tầng nham thạch trên đỉnh đầu phát ra vô số âm thanh như xé vải, âm thanh
kéo dài liên tục không dứt, làm chúng tôi đau cả màng nhĩ.
Mọi người bất giác ngẩng
đầu nhìn lên, nhưng một là dưới lòng đất tối tăm, hai là trên không vẫn mù mịt
sương đỏ, hoàn toàn không thể nhìn thấy tình hình trong tầng nham thạch, Út
kinh hãi kêu lên: “Núi này sắp sập à?” Shirley Dương lắc đầu: “Không phải, núi
Quan Tài hình dạng như chiếc quan tài đá không nắp, hình như Cửu Tử Kinh Lăng
giáp trong vỏ núi bên trên sắp chui ra thì phải.”
Mặc dù gần nghìn năm nay
chưa kẻ trộm mộ nào gặp phải Cửu Tử Kinh Lăng giáp, nhưng những lời đồn về sự
lợi hại của vật này không phải không có. Loại thực vật hỗn hợp giữa gỉ đồng
xanh và máu thịt sinh trưởng dưới lòng đất này tuyệt đối không phải thứ mà dăm
ba người có thể ứng phó nổi. âm thanh Cửu Tử Kinh Lăng giáp nhu động dịch
chuyến bên trong tầng nham thạch lọt vào tai chúng tôi, tựa như tiếng rít gào
của Tử Thần, mỗi khi nghe thấy một tràng những tiếng xé vải chói tai ấy, cả bọn
đều như bị dội một chậu nước lạnh, bất giác đều rùng mình sợ hãi, cả người lạnh
toát.
Bọn tôi lo Cửu Tử Kinh
Lăng giáp có thể xuất hiện trong đám sương mù bất cứ lúc nào, không dám nấn ná
quá lâu trên bể mặt rặng núi hình xác chết nữa, vội vàng bao trước bọc sau Tôn
Cửu gia và Út đi giữa, men theo bậc thang khảm trên vách đá đi xuống dưới.
Phía trên Linh Tinh điện
là khe sâu với hai vách đá sừng sững, vừa dốc vừa chật hẹp, bé mặt phẳng lì
thẳng thớm như được đục đẽo, dưới ánh đèn chiếu, có thể thấy rõ ràng từng mạch
nham thạch chạy trong địa tầng. Ở đó có chôn rất nhiều ngọc bích hình thù quái
dị, màu sắc cổ xưa, có đỏ thẳm, có xanh lục, đều không phải vật của thời cận
đại, nhưng đa phần đã chẳng còn nguyên vẹn. Theo như ghi chép trong Quan Sơn
quật tàng lục, những đồ ngọc này đều là vật hiến tế trong núi Quan Tài từ thời
kỳ văn hóa Vu Sở.
Tôi nhớ lại cảnh tượng
trong bức họa, những người tuẫn táng chính là men theo con đường này vào mộ.
Trong bức vách có chôn đồ ngọc kia, ẩn nấp rất nhiều bóng ma, nhưng khi tới đây
rồi, vẫn chưa thấy được tình cảnh vẽ trong Bỉnh chúc dạ hành đồ. Những người
còn lại hẳn cũng có ý nghĩ này, ai nấy đều cảm thấy sống lưng lành lạnh, tựa hồ
phía sau có ác quỷ lẳng lặng bám theo, chốc chốc lại ngoảnh đâu nghiêng ngó,
càng đi xuống sâu, cảm giác bất an lại càng thêm mãnh liệt.
Shirley Dương sực nhớ ra
điều gì đó, liền nói với tôi: “Trong bức Bỉnh chúc dạ hành đồ ấy, tất cả mọi
người đều cầm đèn lồng hoặc đuốc, vả lại chúng ta cũng phải thắp lửa lên mới
nhìn thấy những bóng đen ẩn tàng trong bức họa, có lẽ điều này muốn ám chỉ ở
trước Linh Tinh điện phải dựa vào ánh lửa mới có thể trông thấy một số thứ bình
thường không nhìn thấy được.”
Trực giác cho tôi biết,
trong tầng nham thạch ở Bàn Cổ thân mạch này, đích thực có chôn giấu thứ gì đó,
rất có khả năng chính là những “bóng ma” được vẽ bên trong bức tranh kia. Vì
không biết diện mạo chân thực của chúng là gì, nên khó lòng phán đoán lành dữ,
nếu chúng tôi cứ tiếp tục đi sâu xuống nữa, bất cứ lúc nào cũng có thể gặp phải
điều bất trắc. Bởi vậy, khi nghe Shirley Dương nhắc nhở, tôi dự định đốt một
cây nén lên xem cho rõ ràng.
Dẫu sao thì thắp đèn
chính là việc Mô Kim hiệu úy hay làm nhất, giờ cả bọn đã ở trong bụng núi, càng
không phải e ngại điều gì nữa, tôi liền lấy ra nửa cây nến thắp lên, khum khum
lòng bàn tay che ngọn lửa, vừa chậm rãi bước xuống bậc thang, vừa giơ nến lên
soi vào vách đá bên cạnh.
Ánh lửa hắt lên vách đá,
làm những mảnh đồ ngọc tàn khuyết ánh lên sắc màu mượt mà, nom thần bí đẹp đẽ
hơn lúc ánh sáng nhàn nhạt của đèn chiéu chiến thuật rọi vào nhiéu. Tuyền béo
trông thấy, lập tức nói lòng tham, không kìm được thò tay ra rờ mó, định nạy
mấy miếng ngọc mang về làm kỷ niệm.
Tôn Cửu gia lo Tuyền béo
lại rước lấy phiền toái, khốn nỗi lúc trước lão ta đã nhiều lần khuyên bảo
nhưng đều bị Tuyền béo cưỡng từ đoạt lý làm cho tắc tị, nên đành đổi kiểu, thò
tay ra ngăn cậu ta lại, nói: “Những đồ ngọc dùng làm tế phẩm này hết sức tà dị,
Tuyền béo cậu đừng vì nhất thời nổi lòng tham mà lớ xớ chạm bừa vào chúng, phải
đấu tranh phê bình và tự phê bình chứ!” Tuyền béo làm bộ vô tội nói: “Trên đời
này chỉ sợ hai chữ nghiêm túc mà thôi, đại gia đây nạy mấy cục về nhà nghiêm
túc nghiên cứu, để xem máy cái đồ ngọc này tà quái ở chỗ nào, chẳng lẽ như vậy
cũng coi là có tư tâm hay sao?”
Tôn Cửu gia gặp phải
loại người mồm mép tép nhảy như Tuyền béo, dù có lý lẽ cũng khó mà nói cho
thông được. Tôi thấy lão ta có ý để tôi ra mặt nhấn mạnh nguyên tắc quan trọng
“tăng cường kỷ luật”, bèn ngoảnh đầu đi vờ như không thấy, chỉ tập trung chú ý
quan sát vách đá dưới ánh lửa, nhưng cũng chưa phát hiện ra hiện tượng gì dị
thường.
Tôi lại đi xuống thêm
mấy bước nữa, chợt nghe Tuyền béo và Tôn Cửu gia đang cãi nhau búa xua phía sau
đột nhiên im bặt, ba người đi trước là tôi, Shirley Dương và Út vội vàng dừng
bước, quay đầu lại xem tình hình phía sau. Chỉ thấy Tuyền béo và Tôn Cửu gia
đang đờ người ra tại chỗ, sững sờ nhìn chằm chằm vào tầng nham thạch.
Tôi quay lại chỗ bậc
thang cao hơn, đưa mắt nhìn theo ánh mắt hai ngưòi họ, thì ra Tuyền béo đã dùng
xẻng công binh gõ vào miếng ngọc bích khảm trong vách, đất đá chỗ cái xẻng đập
vào tróc ra rơi xuống, làm thứ bên trong lộ hẳn ra. Bên trong lớp đất đá là cả
khối ngọc cổ chồng chất lên nhau thành tường, bên trong tường ngọc hình như có
một đường nét mơ hồ trông như bóng quỷ. Tôi giơ nến lại gần xem thử, liền thấy
cái bóng quỷ mơ hồ ấy bỗng trở nên rõ nét. Càng khiến người ta kinh hãi hơn là.
nó dường như hữu hình mà vô chất, lại có thể di động trong bức vách, dưới ánh
lửa bập bùng, bóng đen đột nhiên giơ tay giơ chân bò vé phía trước, nhìn bộ
dạng như muốn từ trong bức tường bổ nhào ra. Chỉ thấy một luồng gió âm thổi xộc
tới trước mặt cây nến tôi cầm trên tay lập lòe như sắp tắt đến nơi.
Tôi phát giác có âm
phong thổi tới, vội vàng khum tay lại bảo vệ ngọn lửa sắp tắt. Ánh nến tuy bị
che, nhưng đèn chiến thuật gắn trên mũ vẫn sáng. Dưới ánh sáng loang loáng, tôi
và Tuyền béo đều nhìn thấy rất rõ ràng. Chỉ một thoáng ấy thôi, người nào người
nấy đều dựng hết tóc gáy, mười vạn tám nghìn lỗ chân lông khắp toàn thân, không
cái nào là không rịn mồ hôi.
CHƯƠNG 50: LINH TINH MÔN
Ở ngay trên bức vách do
ngọc vỡ ép lại ấy, có một thứ đen sì như bóng ma đang bò ra ngoài, chợt thấy
trước mắt lại hoa lên, chúng tôi còn chưa kịp chớp mắt, bóng ma trong tường
ngọc đã ở ngay phía trước. Chỉ thấy một gương mặt đen đúa dữ tợn ngũ quan vặn
vẹo vùng vãy thoát ra, gồ hẳn lên trước mặt ba người.
Tôi biết sự tình không
ổn, đành mặc kệ ngọn nến trên tay, vội vàng nghiêng đầu né tránh. Sạn đạo khảm
vào vách đá dựng đứng này vừa dốc vừa chật hẹp, khiến biên độ động tác của
người ở bên trên không thể quá lớn, bằng không sẽ cắm đầu lao xuống khe sâu,
hoặc va huých đẩy đồng bọn bên cạnh ngã xuống, vì vậy tuy tôi lách người né
sang một bên, song cũng chi vừa khéo tránh được bóng ma đột nhiên từ trong
tường ngọc bổ nhào tới.
Chùm sáng của đèn chiến
thuật gắn trên mũ di chuyến loang loáng theo chuyển động của cơ thể tôi, trong
khoảnh khắc đã mất đi tác dụng chiếu sáng. Tôi chỉ cảm giác như có một thứ đầy
lông lướt sát qua mặt, làm má tôi nóng rát lên.
Lúc này Tuyền béo đã gầm
lớn một tiếng, vung xẻng công binh đập tới. Mặt xẻng cuốn lên một cơn gió mạnh
lướt qua đỉnh đầu tôi, đập thẳng vào bóng đen trong tường ngọc, một tiếng
“choeng” đanh đúa vang lên, làm cổ tay cậu ta tê rần.
Tuyền béo ra tay tuy rất
nhanh, song xẻng công binh lại không đánh trúng mục tiêu, bóng đen tựa hồ hữu
hình mà vô chất ấy nhanh như một làn khói đen, “vèo” một cái đã chui vào khe hở
giữa tầng đất và phiến ngọc.
Sạn đạo phía trên Linh
Tinh môn của mộ Địa Tiên khôi phục sự tĩnh lặng chết chóc, chỉ còn lại hơi thở
nặng nề và tiếng tim đập thình thịch của chúng tôi. Vết thương bị cào xước trên
mặt tôi bây giờ mới rỉ máu.
Trải qua lần tiếp xúc
ngắn ngủi này, tôi đã có thể xác định đây tuyệt đối không phải là ảo giác kiểu
Đỗ tiên chỉ mê giống lúc trước. Trong vách đá vùi đầy ngọc cổ này, đích thực có
thứ gì đó rất đáng sợ đang ấn trốn. Nó đã bị bùn đất phong kín mấy trăm năm,
lại vẫn có thể di chuyển trong vách đá, cả đời này tôi chứa từng gặp qua chuyện
nào như thế, lẽ nào đây chính là “bóng ma” được vẽ trong Bỉnh chúc dạ hành đồ
hay sao ?
Shirley Dương và Út đứng
khá xa, không nhìn rõ tình hình, nhưng Tôn Cửu gia thì thấy rõ mồn một. Lão ta
thấp giọng nói: “Chắc chắn không phải bóng ma đâu. Đại đa số trường hợp vong
hồn hay u linh đều là hiện tượng điện từ trường, không thể để lại vét thương
như vậy trên mặt cậu được, thứ này nói không chừng chính là thi tiên trong núi
Quan Tài mà năm xưa Phong Soái Cổ muốn tìm đó!”
Tôi vốn không tin có thi
tiên gì cả, nhưng nếu loại trừ giả thiết này thì không có cách nào giải thích
bóng ma trong tường ngọc kia rốt cuộc là thứ gì, ít nhất cũng có thể khẳng định
nó không phải vật sống. Bất cứ thứ gì có sinh mệnh, cũng không thể nào bị phong
kín trong bùn đất suốt mấy trăm năm mà vẫn hoạt động. Dẫu là cương thi thì cũng
không thể biến hóa thế để chui vào khe đá được.
Shirey Dương nói với
chúng tôi: “Trong sách và các bức họa địa tiên Phong Soái Cổ để lại đều tránh
né không nói tới những chuyện ở Linh Tinh điện, Bỉnh chúc dạ hành đồ cũng chỉ
vẽ con đường mộ đạo này, đến giờ chúng ta vẫn chưa biết bên trong mộ Địa Tiên
rốt cuộc có thứ gì. Theo tôi, muốn biết rõ chân tướng, chỉ có cách vào trong
huyệt mộ của Quan Sơn thái bảo mà tiến hành điều tra thôi.”
Giáo sư Tôn gật đầu nói:
“Đằng nào chúng ta cũng không thoát khỏi núi Quan Tài được rổi, khu vực sạn đạo
gắn tường ngọc này lại có thi tiên xuất hiện, càng không phải chỗ yên ổn. Không
làm thì thôi, đã làm thì làm cho trót, phải vào trong phá hủy hết quan quách
minh khí của Phong Soái Cổ đi mới được. Nhưng tôi vẫn lo hành động của chúng ta
sớm đã nằm trong dự liệu của địa tiên, nhỡ đâu chúng ta tiến vào Linh Tinh điện
chính là mở lối cho nó thoát ra thì sao?”
Tôi e ngại thi tiên ẩn
trốn trong tường ngọc có thể sẽ thình lình từ chỗ nào đó chui ra tấn công, bèn
khuyên Tôn Cửu gia chớ nên do dự nữa, tuy rằng trang bị của chúng ta có hạn,
nhưng đừng quên, trên đời này vẫn còn một thứ trang bị quan trọng nhất... chính
là tinh thần, chỉ cần mang theo niềm tin tất thắng, thì không khó khăn gì là
không thể khắc phục. Nói đoạn, tôi liền kéo lão ta tiếp tục đi xuống sạn đạo
dưới lòng đất. Vì pháo sáng đã dùng hết, không thể thăm dò được độ nông sâu của
hang động trong lòng núi này, chúng tôi đành cứ thế lần mò đi xuống.
Lần này cả bọn đều tăng
cường cảnh giác, không dám tùy tiện chạm vào lớp bùn đất chôn ngọc bích ở hai
bên. Đi sâu xuống thêm chút nữa, chúng tôi phát hiện ngọc cổ ở bên cạnh và dưới
chân càng nhiều hơn, giữa hai vách đá toàn những hang hốc ngọc thạch nông sâu
khác nhau, bên trong chất đầy quan tài nhỏ, đa số đều bị hủy hoại, không có cái
nào hoàn chỉnh cả. Có vẻ như, lòng núi Bàn Cổ thần mạch này là một khối ngọc
nguyên liệu khổng lồ, tất cả tường ngọc, vách ngọc đều khai thác ở đây. Sau đó,
khối ngọc này lại được con người đục đẽo đào khoét thành một hang động bằng
ngọc.
Nếu nhìn từ góc độ hình
thế phong thủy, dải núi Bàn Cổ thần mạch nằm ngửa trong núi Quan Tài này có
hoài thai ngọc tủy, lại giống như dùng kim thủy ngưng luyện thành ngọc đơn
trong bụng, có thể nói chính là kết tinh của khí ngũ hành trong trời đất. Đây
là kỳ quan của thiên địa tạo hóa, không thể xét đoán theo lẽ thường, vì yậy
trong núi có thứ gì cũng không nên coi là lạ.
Tôi thầm kinh ngạc,
trong lòng nghĩ đến chuyện địa tiên Phong Soái Cổ đang ở ngay cuối sạn đạo, cũng
không biết kẻ này còn sống hay đã chết? Ông ta thật sự đã siêu thoát thành tiên
trong Bàn Cổ thần mạch này ư? Chỉ bằng vào mấy người chúng tôi, liệu có thể đối
phó được không ? Nghĩ tới đây, tôi bất giác đưa tay rờ rờ tấm gương cổ Quy Khư
giấu trong ngực áo, thầm tính toán không thể hoàn toàn tin vào thuyết gương có
bằng đồng xanh có thể trấn áp cương thi mà dồn hết hy vọng vào gương đồng được,
đến lúc ấy vẫn dùng chất đốt thì hơn.
Lúc này, chúng tôi đã có
thể cảm nhận thấy mình sắp đi tới cuối sạn đạo, phạm vi chiếu sáng của đèn
chiếu và đèn pin mắt sói đã vươn tới mặt đất phía bên dưới. Hang động này nhìn
tư mé bên trông giống như một cái bình cổ dài, bên trên tuy chật hẹp, nhưng
xuổng đáy lại phát hiện ra nó hết sức rộng rãi, là một không gian hoàn toàn
khác.
Hang động ối om như mực,
đến nỗi giơ tay không thấy ngón, không khí chứa nhiều tạp chất, đèn chiếu gắn
trên mũ cùng lắm chỉ chiếu được tầm bốn năm mét, căn bản không thể trông thấy
Linh Tinh điện nằm ở vị trí nào, khổ nỗi, chúng tôi lại không còn pháo sáng
chiếu sáng phạm vi rộng, đành lần dò đi bừa như thầy bói xem voi vậy. Tôi bỗng
nhớ ra Út từng nói có mang theo Chim Ngói Lửa của Phong Oa sơn, bèn hỏi cô xem
có thể ném ra mấy cái để mọi người nhìn rõ địa hình xung quanh đây không.
Út vội lục tìm trong ba
lô, cuối cùng móc ra một ống tre, nói: "Chỉ có một cái này thôi, nhiều hơn
thì không có đâu." Tôi liền bảo, đừng tiếc làm gì, thép tốt dùng làm lưỡi
đao, rượu ngon bày lên quốc yến, giờ trước mắt tối như hũ nút, chính là lúc nó
phát huy tác dụng tốt nhất, cứ đốt lên đi.
Chim Ngói Lửa là một loại hỏa tiễn bắn ra bằng lò xo, có rẫt nhiểu tác dụng, không chỉ dùng để tấn
công kẻ địch, mà còn có thế sử dụng như tín hiệu liên lạc, vả lại độ sáng cũng
rất cao, có thể coi như một loại đạn chiếu sáng thời xưa. Đây là ám khí được các
bậc tiền bối của Phong Oa sơn sáng tạo ra từ những năm cuối thời Nam Tống.
Út cầm Chim Ngói Lửa
trên tay, món đồ này do đích thân ông Lý làm ra, nghe nói uy lực rất lớn, trước
đây cô chưa sử dụng bao giờ, cũng không biết có tác dụng hay không, chỉ mong các
vị tổ sư của Phong Oa sơn hiển linh, đừng để xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn. Cô
hỏi mượn tôi cái bật lửa, rồi châm ngòi.
Tôi thấy Út chuẩn bị bắn
Chim Ngói Lửa, liền bảo những người còn lại tránh sang bên cạnh. Cả bọn đang
định hành động, chợt nghe vách đá bên trên vẳng xuống tiếng rầm rầm như núi lở,
vài khối đá lớn lăn xuống, từng mảng bụi đất cũng ao ào rơi theo.
Út bị tiếng đá rơi bên
trên làm giật mình, dẫu sao cũng là lần đầu cô tham gia đổ đấu, áp lực tâm lý
khá lớn, lúc ngẩng đầu lên nhìn liền quên mất Chim Ngói Lửa trong tay đã châm
ngòi, đến khi nghe dây dẫn cháy xèo xèo mới sực nhớ ra. Cô chỉ kịp kêu lên một
tiếng kinh hãi, cuống cuồng giơ cao ống tre trong tay. Chim Ngói Lửa sử dụng
ngòi cháy nhanh, lúc này lò xo đã bật ra, trong tiếng rít gió rợn người, ám khí
bị nén trong ống tre lập tức lao vút lên không trung trong quầng lửa chói sáng.
Chim Ngói Lửa xòe rộng
đôi cánh dài hơn nửa mét lao vút lên không trung, phát ra tiếng rít kéo dài,
ánh lửa hình quạt lập tức rạch toang bóng đêm tăm tối dưới lòng đất, ghim vào
một bậc đá sạn đạo bốc cháy phừng phừng.
Con Chim Ngói Lửa này
mới được chế tạo gần đây, nhưng kỹ thuật của Phong Oa sơn sớm đã lạc hậu, vẫn
giữ nguyên phương thức chế tạo thủ công từ nghìn năm trước, phối chế hỏa dược
và nguyên liệu theo phương pháp dân gian, không thể sánh với pháo sáng hiện đại
được. Thứ này không thể phát sáng lâu, ngọn lửa chói mắt kia chỉ trong thoáng
chốc đã bắt đầu ảm đạm đi.
Nhưng nhờ chút ánh sáng
đó, tôi vẫn lờ mờ trông thấy cảnh tượng đáng sợ trên cao. Sơn thể bên trên núi
Quan Tài bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp xâm thực nghiêm trọng, từng khối nham thạch
vỡ ra rơi xuống. Trong đó, vài khối rơi vào phần bụng của Bàn Cổ thần mạch, lăn
xuống khe sâu. Vì khối đá quá lớn, khe nứt lại chật hẹp, nên chúng đều bị kẹt ở
giữa tường ngọc và sạn đạo, không rơi thẳng xuống hang động bên dưới. Nhưng đất
đá không ngừng rơi xuống đã làm lớp đất ở hai bên vách chấn động bong tróc ra
không ít, từng mảng tường ngọc và quan tài đá đều lộ cả ra ngoài, những bóng ma
mơ hồ thoắt ẩn thoắt hiện giữa bức tường, cơ hồ muổn tiến về phía hang động bên
dưới. Thi tiên trong mộ cổ quả nhiên không chi một mà có nhiều vô kể, nhất thời
khiến chúng tôi trợn mắt há hốc mồm ra nhìn.
Lúc này, ánh sáng từ
Chim Ngói Lửa đang dần lụi tắt, đá vụn và bùn đắt rơi xuống che phủ, lập tức
nuốt chửng nó trong bóng tối mênh mông. Bụi cát rơi rào rào xuống đầu cả bọn,
chúng tôi không kịp né tránh, bị khói bụi làm cho ho sặc sụa, chỉ sợ có khối đá
lớn nào đập trúng, đành vội cuống cuồng chui vào sâu trong hang động.
Tôi đưa tay gạt lớp bụi
cát rơi xuống mũ bảo hộ leo núi, thấy những người còn lại cũng lấm lem đầy mặt
trông nhếch nhác vô cùng. Mới rồi, mọi người đều đã trông thấy tình huóng bên
trên, trong lòng ai nấy đều như có tảng đá nghìn cân đè nặng, mộ Địa Tiên này
chỉ sợ không có chỗ nào an toàn cả, đã tới đây rồi, phải giải quyết thế nào đây?
Lúc bắn Chim Ngói Lửa
ra, Út bị lực phản chấn của thuốc nổ đẩy cho ngã ngồi dưới đất, thấy sâu trong
hang có mấy con quái thú đen sì, khi ánh lửa lóe lên cũng nhìn không rõ lắm,
chỉ thấy từa tựa thú đá trấn lăng ở trước cửa mộ, tìm được chúng là có thể phán
đoán ra phương vị của cửa mộ. Vậy là, cô liền dẫn chúng tôi lần mò trong bóng
tối, quả nhiên trong một góc cách đó không xa, chúng tôi trông thấy một con thú
bằng sắt màu đen, mình có vảy, đầu có sừng.
Tôn Cửu gia nói, đây
chắc là Thiết kỳ lân được ghi chép trong sách sử, là một loại thiết bị chiếu
sáng trong địa cung hoàng nhưng không biết trong bụng Thiết kỳ lân có còn nhiên
liệu hay không, cũng không biết cách sử dụng nó như thế nào.
Tôi cũng biết con Thiết
kỳ lân này còn gọi là Kỳ lân tỏa long đăng, các loại đèn thắp trong mộ có đa
phần đều có nét tương đồng, đều là các kiểu nến trường sinh, đèn vạn niên cõi u
minh. Việc thắp sáng loại đèn kỳ lân này không làm khó được đám Mô Kim hiệu úy
chuyên nghề đổ đấu như bọn tôi. Nghĩ đoạn, tôi bèn lần mò tới trước mặt con
Thiết kỳ lân, tìm vòng mũi của nó, dùng sức kéo mạnh ra phía ngoài. Chỉ nghe
trong bụng con thú sắt phát ra mấy tiếng “cách cách”, ngọn lửa hừng hực bắt đắu
bốc lên từ những khe hở trên vảy giáp của Thiết kỳ lân.
Bốn chân của Kỳ lân tỏa
long đăng chôn chặt dưới đất, có rãnh đổ dầu thông nhau, ngọn lửa vừa bốc lên,
xung quanh liên liên tiếp có những con Thiết kỳ lân khác cháy bùng. Không ngờ
có tới mấy chục con nằm rải rác trong hang động, làm cả không gian sáng bừng.
Nhưng những chiếc Kỳ lân tỏa long đăng ở trước cửa Linh Tinh điện này không
phải tầm thường, ngọn lửa bùng lên không phải do dầu mỡ, mà là lân hỏa xanh lét
lạnh lẽo, ánh sáng hắt lên khiến hang động ngầm dưới đất tựa như một ổ quỷ.
Dưới ánh sáng của ngọn
lửa, chỉ thấy sâu bên trong hang động có một khung cửa lớn, hai cánh cửa mộ
đóng chặt, bên trên gắn rất nhiều đinh đồng, hàng dọc chín hàng ngang mười, xếp
thành số linh tinh diệu tú của minh điện, mà chỉ có các bậc ẩn sĩ phương ngoại
mới biết sử dụng. Trước cửa có hai hàng tượng đất, đều là tượng Hoàng Cân lực
sĩ, tượng nào tượng nấy mặt mũi dữ tợn, im lìm bảo vệ bí mật ẩn giấu ở nơi sâu
kín nhất trong thôn Địa Tiên này.
Tôi thấy Tôn Cửu gia
đứng bên cạnh sắc mặt tái nhợt, nhìn chằm chằm Linh Tinh môn lẩm bẩm một mình,
cũng không biết lão ta đang nói gì, thầm nhủ “họa hổ họa bì nan họa cốt, tri
nhân tri diện bất tri tâm”, không thể không đề phòng ông ta có hành động dị
thường gì, dẫu sao lão già này cũng ấn giấu quá nhiều bí mật, có trời mới biết
lão nói ra câu nào là thật, câu nào là giả.
Tuyền béo cất tiếng thúc
giục: “Nhất à, đi mau lên, chúng ta bị bám đuôi rồi.” Tồi nghe lời này, biết
ngay có chuyện chẳng lành, vội ngẩng đâu nhìn lên, chỉ thấy trong ánh lửa ma
lập lòc, có vô số thi tiên thấp thoáng đang vùng vẫy bò ra khỏi vách đá, tràn
xuống Linh Tinh điện ở dưới đáy khe sâu. Ánh sáng lân tinh chiếu lên người
chúng, cơ hổ hoàn toàn bị những bóng ma đen tựa như sương mù ấy nuốt chửng, ánh
sáng trong hang động phía trước địa cung lại ảm đạm đi lần nữa.
Tôi thấy phen này đã
không còn đường chạy, thậm chí cả thời gian dừng lại thở lấy hơi cũng không có,
bất giác rủa thầm trong bụng, sư cha nhà nó, bọn thi tiên ẩn tàng trong lòng
đất này rốt cuộc là gì vậy? Trên đời sao lại tồn tại những thứ thế này? Tình
cảnh trước mắt đáng sợ tới mức ngay cả trong cơn ác mộng cũng chưa ai từng
thấy, vậy mà bọn tôi lại đụng phải trong mộ cổ Địa Tiên.
Tôi tự nhủ, hảo hán
không chịu thiệt trước mắt, câu này không phải chân lý mà là thường thức căn
bản nhất, bèn nói với mọi người: “Vào mộ tìm địa tiên Phong Soái Cổ quan trọng
hơn, đừng ở ngoài này dây dưa với bọn chúng làm gì.” Dứt lời bèn gọi bốn người
kia chạy về phía Linh Tinh môn.
Năm người chúng tôi biết
rõ chuyện này liên quan đến tính mạng, không ai dám lơ là sơ sẩy, vội chạy đén
trước cửa dốc hết sức đẩy cánh cửa đá kia ra. Linh Tinh môn được điêu khắc từ
hóa thạch của thiết thụ nghìn năm, vô cùng kiên cố nặng nề, nhưng không đổ thêm
đồng hoặc chì gia cố, cả bọn dồn hết sức lực, rốt cuộc cũng khiến cánh cửa đá
hé ra một khe hẹp, bên trong âm khí trùng trùng, tuy rằng tối om như mực nhưng
cũng may không kích hoạt cơ quan mai phục gì.
Tôi thấy khe cửa tuy
hẹp, nhưng cũng có thể lách người chui vào, bèn cùng với Tuyển béo đẩy Út và
hai người còn lại vào trong, sau đó mới nín thở hóp bụng chen vào. Tuyền béo
vừa vào trong lập tức đẩy ngược cửa đá đóng lại, vừa đẩy vừa kêu lên: “Tôi bảo
này các đông chí, các đông chí mau phát huy tinh thần hữu ái giai cấp, cả bọn
đến đây giúp một tay đi chứ!”
Tôi ngăn cậu ta lại, lắc
đắu nói: “Đừng tốn sức làm gì, cửa đá này không thể ngăn được bọn khốn ngoài
kia đâu, mau rút vào bên trong đi!”
CHƯƠNG 51: BIA CÁO TẾ
Tôi bảo cả bọn: “Chúng
ta cứ vào trong mộ trước đã, dọcđường tùy cơ ứng biến.” Nói đoạn, liền lia đèn
một vòng, định xem cho rõ quy mô bố cục của mộ Địa Tiên trước, sau đó mới đưa
ra biện pháp xử lý.
Chỉ thấy mộ đạo phía sau
Linh Tinh môn được xây từ gạch thời Minh, bên trên là trần kiểu vòm. Trong núi
Quan Tài có hai loại mộ cổ, một loại thuộc về thời kỳ văn hóa Vu Sở, loại kia
là kiến trúc thôn Địa Tiên vào cuối thời Minh. Linh Tinh điện là địa cung được
xây vào giai đoạn Minh mạt, quy mô không thể hùng vĩ to lớn như mộ Ô Dương
vương, người ở trong mộ đạo chật hẹp chỉ giơ tay lên là chạm vào trần vòm phía
trên.
Trên hai bên tường gạch
của mộ đạo gắn một hàng dài những đế đèn đã khô kiệt dầu, trong góc tường phía
sau cửa mộ có vài mảnh ngói nằm rải rác. Tôi thấy, trước mắt cũng chỉ còn một
con đường này để đi, trong mộ đạo không có chỗ nào có thể dựa dẫm, khó mà quần
đảo với kẻ địch, lòng lại càng thêm nôn nóng, bèn quyết định liều mình tiến vào
trong.
Đang định gọi mọi người
xuất phát, tôi chợt thấy Tôn Cửu gia đứng trước bức tường, đưa tay lên nhổ đế
đèn, cử chỉ hết sức kỳ dị. Tim tôi lập tức trầm xuống, lão già này cả đời nhẫn
nhục chịu khổ, tâm cơ sâu hiểm khôn lường, tuyệt đối không phải hạng tử tế gì.
Lão ta nhổ đế đèn ra khỏi tường, đương nhiên không phải định học theo anh hùng
Lôi Phong làm chuyện tốt rồi, chẳng lẽ muốn khởi động cơ quan, cất một mẻ lưới
bắt gọn tất cả chúng tôi hay sao?
Nghĩ tới đây, trong tôi
bất giác dâng lên một ngọn lửa không tên, lập tức bước tới tóm cổ áo lão ta
gặng hỏi: “Ông lại muốn giở trò gì nữa đây?” Tuyền béo đứng phía sau nói, lão
già này chắc chắn định nhân lúc chúng ta không phòng bị, lén lút chuyển động cơ
quan để di dời minh khí đi chỗ khác đấy. Mau khai ra, minh khí trong thôn đâu
hết cả rồi ?”
Shirley Dương ấn cánh
tay đang tóm cổ Tôn Cửu gia của tôi xuống, cất tiếng hỏi: “Giáo sư, ông muốn
làm gì vậy?” Gương mặt Tôn Cửu gia đầy vẻ lo lắng, lãot nói: “Trong đĩa đèn
toàn là chất cao còn lại sau khi dương toại bay hơi, thứ này cũng giống máu chó
mực hay thiên quy, đều là vật bất tường, bôi len khe cửa nói không chừng có thể
ngăn chặn được lũ thi tiên." Vừa nói, lão ta vừa lấy mỡ cao màu đen trong
đĩa đèn ra bôi lên cửa đá.
Út ngạc nhiên nói: “Giáo
sư ơi, thứ này không chạm vào được đâu, nghe nói đàn ông mà dụng vào thiên quy,
hay đàn bà chạm phải máu chó mực, đều phải nhảy qua chậu lửa mới hết vận xúi
quẩy đấy”
Tôn Cửu gia nói: “Lửa
cháy đến tận lông mày rồi, còn lo sao được những chuyện ấy, mau giúp tôi một
tay đi "
Tôi không tin luận điệu
mê tín của cô bé nhà quê sống trong núi sâu như Út, nhưng đối với lời giáo sư
Tôn cũng bán tín bán nghi. Mặc dù có nghe nói thiên quy là máu kinh của phụ nữ,
cùng với máu chó mực đều là vật để phá yêu pháp nhưng chưa bao giờ nghe nói
chất cao còn sót lại sau khi dương toại bay hơi lại có tác dụng trừ cả cả.
Dân đổ đấu mò vàng xưa
nay vẫn kính quỷ thần nhi viễn chi, chuyện trong cõi u minh không ai có thể nói
cho rõ ràng được, ở chốn quỷ quái gặp phải ma quỷ lại càng không có gì lạ nhưng
thực tình xưa nay chưa từng có chuyện kẻ trộm mộ lại gặp tiên. Cái thứ bùn nhão
mốc meo này có tác dụng thật không? Đã có mấy bài học trước đó, tôi không thể
không đề phòng lão già này được.
Lúc này, trong lòng tôi
chợt nảy ra ý định giết người, có ý muốn làm thịt giáosư Tôn ở đây luôn. Bên
trong mộ Địa Tiên chỗ nào củng đầy rẫy hung hiểm, người này lại có yêu thuật,
cứ dẫn theo bên mình thực quá nguy hiểm. Phán đoán theo kinh nghiệm của tôi,
những chuyện Tôn Cửu gia nói lúc trước hẳn có thể tin được mấy phần, nhưng còn
chuyện lão ta bảo mình đã chết từ trước khi vào trong khu mộ cổ này, giờ lại
nói muội than trong đĩa đèn có thể ngăn cản thi tiên tiến vào, thực khiến người
ta không biết đâu mà lần. Tôi không đoán nổi lão ta rốt cuộc muốn giở trò gì,
nếu như uy hiếp tới tính mạng của những người còn lại, tôi đây sẽ tuyệt đối
không chùn tay với lão.
Nhưng tôi lại lập tức đè
nén ý nghĩ này xuống, dẫu sao thì đầu người cũng không phải rau cải, rau cải
cắt đi rồi vẫn có thể mọc lên nữa, nhưng đầu người đã rơi xuống thì không thể
lắp lại được. Đời này Tôn Cửu gia sống đã chẳng dễ dàng gì, tôi không thể chỉ
dựa vào một ý niệm nhất thời mà quyết định sự sống chết của người khác như thế.
Trong thời điểm này, cần nhất là lý trí và trấn tĩnh. Kế đó, tôi lại nghĩ Tôn
Cửu gia cũng là người xuất thân thế gia, được truyền thụ cho một vài bản lĩnh
của tổ tiên, nói không chừng tôi lại là ếch ngồi đáy giếng, ít gặp nên cho là
lạ cũng nên.
Tôn Cửu gia không biết
trong một cái chớp mắt áy, trong đầu tôi đã diễn ra một trận đấu tranh tư tưởng
dữ dội, chỉ rối rít thúc giục mọi người giúp một tay. Shirley Dương và Út đều
lấy Nga My thích ra, cạo cặn dầu hôi trong đế đèn gắn trên tường vào cửa mộ.
Tôn Cửu gia bận rộn một
phen, thấy khe cửa mộ đã bít xong xuôi, tường gạch lại có khắc phù chú trấn tà,
không lo bọn thi tiên kia xuyên tường chui vào, bấy giờ mới thở phào nhẹ nhòm,
lại móc thêm một ít cặn dầu trông như đất khô ấy bỏ vào binh nước chuẩn bị đối
phó vói Phong Soái Cổ. Lão ta thấy tôi và Tuyền béo từ đầu chí cuối vẫn xuôi
tay đứng nhìn, liền bất mãn nói: “Hai người các cậu có phải vẫn không tin tưởng
tôi không? Trong Quan Sơn quật tàng lục có ghi lại thuật này, không tin thì tự
đi mà xem.”
Tôi thấy bên ngoài mộ
quả nhiên không còn động tĩnh gì nữa, bấy giờ mói hơi tin tưởng, nhưng ngoài
miệng vẫn nói: “Tín nhiệm giống như một món tiền vậy, có điều, Tôn Cửu gia nhà
ông đã bội chi từ đời nào rồi, còn nợ thêm một khoản lớn nữa.”
Tôn Cửu gia hừ lạnh một
tiếng: “Tuy nói là tôi kéo các cậu xuống vũng nước đục này, nhưng đám Mô Kim
hiệu úy các cậu có dám nói mình không có chút tư tâm tạp niệm nào hay không?”
Câu này của lão ta đúng
là đã khiến tôi tắc tị, ít nhất tôi và Tuyền béo ngoài ý định tìm kim đan cứu
ngưòi, cũng có ý đồ với những món minh khí quý báu trong thôn Địa Tiên. Tôi
không muốn lẳng nhằng dằng dai chuyện này nữa, có lấy cớ gì cúng vô nghĩa, bèn
nói với lão ta: “Giờ cả bọn đã ngồi chung một con thuyền, nói nhiều cũng vô
ích, những mắc míu giữa chúng ta khi nào thu phục xong địa tiên Phong Soái Cổ
hãy giải quyết cũng chưa muộn.” Giáo sư Tôn nghe vậy liền gật đầu: “Coi như cậu
cũng hiểu đại cuộc, dùng người thì không nghi ngờ, đã nghi ngờ thì đừng dùng
người, toàn bộ bí mật của tôi đều đã thổ lộ hết rồi, các cậu còn không tin
tưởng tôi tức là các cậu sai. Hành vi của địa tiên Phong Soái Cổ đến quỷ thần
cũng khó đoán, muốn đổ đấu mộ ông ta, cần phải hết sức đề phòng mới được”
Tôi cũng biết nói thì
nói vậy, nhưng đám người bọn tôi thế đơn lực mỏng, làm sao mà đề phòng đây? Mộ
Địa Tiên trong núi Quan Tài này quả tình hết sức khó nhằn, nào là Cửu Tử Kinh
Lăng giáp tầng tầng lớp lớp bủa vây bên ngoài, lũ sâu quan tài lúc nhúc hàng
vạn con, cùng bọn thi tiên thoắt ẩn thoắt hiện trong hang động, chỉ một thứ
thôi cũng đủ khiến người ta lo nghĩ đến nát óc ra rồi. Trước mắt, bọn chúng tôi
mốn giữ mình còn khó, chuyện lớn tiếng đòi thu phục địa tiên Phong Soái Cổ, sợ
rằng chỉ là cách nghĩ một chiều của chúng tôi mà thôi.
Có điều, tình cảnh chúng
tôi đang phải đối mặt, chính là đi thuyền ngược dòng nước, không tiến ắt phải
lùi, các nhân tố nội tại lẫn ngoại tại đều bức bách chúng tôi không thể không
đi vào nơi sâu nhất bên trong Linh Tinh điện, chẳng những vậy, gần như còn
không cho chúng tôi cơ hội nghỉ ngơi dọc đường nữa. Cả bọn đành cổ nén cảm giác
băn khoăn trong lòng xuống, đi qua mộ đạo chật hẹp, tận cùng là một cánh cửa
hình vòm, mở ra một hang động thiên nhiên, hết sức ấm thấp, mùi máu tanh thoang
thoảng ùa vào mũi. Có một cầu thang bằng gỗ sam hóa thạch vừa dài vừa rộng sừng
sững ngay sau cánh cửa, thoạt trông như thang trời, tuy trong bóng tối không
nhìn tháy điện đường bên trên, nhưng chỉ nhìn kích cỡ của cầu thang này cũng
biết quy mô ắt hẳn không thể nào nhỏ được.
Tôi bảo cả bọn, nom tình
hình chắc hẳn Linh Tinh điện ở cuối cầu thang đá này rồi, hãy chuẩn bị hàng họ
trước cả đi nhưng không ai được manh động, tất cả phải nghe theo hiệu lệnh của
tôi. Nói đoạn, tôi liền lấy tấm gương cổ Quy Khư trong bọc ra, thắt một cái nút
chữ thập, buộc tấm gương trước ngực như kính hộ tâm, gỡ bỏ niêm phong hộp dầu
duy nhất còn lại nhét vào trong túi.
Trên người Tuyền béo có
nỏ liên châu và xẻng công binh, ngoài ra còn một sợi dây thừng leo núi tạm dùng
làm dây trói xác, ba người còn lại cũng lần lượt lấy vũ khí cầm sẵn trên tay,
sau đó nhấc chân bước lên cầu thang. Dưới ánh sáng đèn pha, có thể trông thấy
gỗ sam cổ hóa thạch trông như ngọc, óng ánh bóng sáng, đường vân đẹp đẽ lạ
thường, khi ánh sáng chiếu vào, liền hiện lên sóng bạc cuồn cuộn tựa như ánh
trăng chiếu xuống mặt nước.
Tuyền béo nhìn mà xuýt
xoa mãi, còn quay sang hỏi chúng tôi: “Nhiều năm nay chúng ta cũng coi như đi
nhiều biết nhiều, chui vào không ít mộ cổ sơn lăng, không ngờ đến đây mới biết
thế nào gọi là mở rộng tầm mắt. Lão địa chủ Phong Soái Cổ này liệu được mấy cân
mấy lạng mà xây nên cái Linh Tinh bảo điện hùng vĩ tráng lệ nhường này nhỉ? Chỉ
riêng bậc thang này thôi, tùy tiện cậy một mẩu đem đi đổi, cũng được cái tivi
màu rồi.”
Tôi cũng hết sức kinh
ngạc, quay sang đáp lời Tuyền béo: wHóa thạch gỗ sam thì ở núi Côn Luân cũng
có, nhưng mảnh lớn nhất tôi trông thấy chỉ to bằng bàn tay thôi. Lạ một điều
là, Linh Tinh môn không lớn lắm, trông như cái miếu Thổ Địa, so với mộ phần của
vương công quý tộc bình thường thời Minh thì cũng không khác nhiều, sao trong
nội điện lại tráng lệ chừng này nhỉ?”
Shirley Dương nói: “Trên
bề mặt hóa thạch có khắc rất nhiều chữ triện cổ, có thể đây là di tích từ thời
Ô Dương vương, chứ không phải do Quan Sơn thái bảo xây dựng.”
Lúc này, Tôn Cửu gia
cũng phát hiện ra những ký hiệu cổ xưa trên bậc thang đá, bèn dừng lại xem xét,
cơ hồ đã nhìn ra được sự ảo diệu bên trong, cứ gật đầu lia lịa, rồi lại leo
thêm một bước, quan sát những chữ triện cổ khắc trên bề mặt bậc thang khác.
Tôi hỏi lão ta những ký
hiệu quái quỷ này có nghĩa gì, chẳng lẽ là Long cốt thiên thư chắc? Tôn Cửu gia
đáp: “Cả ngày cậu chỉ nghĩ đến quẻ đồ Chu Thiên, thực là bỏ gốc tìm ngọn. Văn
tự cổ so với quẻ số còn thâm ảo hơn nhiều, lịch sử văn minh của chúng ta được
tiếp nối đời đời, há chẳng phải đều nhờ vào mấy con chữ các vị lão tổ tông tạo
ra hay sao? Bất luận cậu truyền kinh giảng đạo, hay tề gia trị quốc bình thiên
hạ, có thứ nào mà không dùng đến nó đâu? Trước đây, cứ có lãnh đạo nói công tác
nghiên cứu văn tự cổ của tôi không có ý nghĩa, thật đúng là nhãn quang thiển
cận.”
Tôi nghe mà phát ngấy cả
lên, lão này khỏng xem giờ là thời điểm nào, mà còn nói những thứ dở dở ương
ương này? Đang định giục lão ta mau chóng vào trong đào mộ, thì Tôn Cửu gia lại
nói: “Đừng gấp, những ký hiệu cổ trên hóa thạch gỗ sam có đại này không phải
tầm thường, đích thực là di tích từ thời kỳ Ô Dương vương, sự thật về Di Sơn Vu
Lăng vương đều được ghi lại ở đây cả đấy.”
Tôn Cửu gia nói, bậc
thang làm từ gỗ sam hóa thạch này hẳn đã có từ rất lâu rồi, theo nội dung ghi
lại bằng chữ triện cổ, thì dường như đây là một bia cáo tế chôn bên trong Bàn
Cổ thần mạch. Ô Dương vương, Di Sơn Vu Lăng vương, và cả chuyện núi khơi sông,
đều là truyền thuyết cổ xưa được hậu thế lưu truyền trong dân gian, không thể
tin hoàn toàn. Kỳ thật thân phận thực sự của vị vương không đầu kia, là một Vu
vương thời kỳ văn hóa Vu Sở. Đất Ba Thục chịu ảnh hưởng rất sâu của văn hóa Vu
Sở, lại tự thành một hệ thống riêng, không có danh xưng quân vương, những bậc
đại vu cũng tương đương với quốc chủ nắm trong tay chính quyền và quân đội,
Thục vương Khai Minh thị cuối thời nhà Chu chính là hậu duệ của họ.
Hang ngọc trong Bàn Cổ
thi mạch chính là đất phát nguyên của văn hóa Vu Tà, Chiêm Tinh..., nơi này thế
núi như xác chết, suối ngầm như máu tuôn, là mạch báu phong thủy độc nhất vô
nhị trên đời. Tiếc rằng, sinh khí của địa mạch trong núi Quan Tài sớm đã khô
kiệt từ thời Vu Lăng vương, chỉ còn lại quan tài treo và ngọc bích rải khắp núi
đồi thung lũng, cùng những di tích nghìn năm như bia cáo tế, điện mai táng trong
hang động này.
Vì bia cáo tế bằng gỗ
sam hóa thạch này quá lớn, số chứ triện khắc bên trên nhiéu không đếm xiết,
giáo sư Tôn cũng không có cách nào nhận mặt hết từng chữ một, đành xem một phần
rất nhỏ, rồi kết hợp với những gì đã biết để suy đoán ra một số thông tin. Có
khả năng Quan Sơn thái bảo Phong Soái Cổ dốc hết tâm tư tạo ra thôn Địa Tiên
với cả âm trạch dương trạch, chính là đế thần mạch Bàn Cổ này phục sinh. Di
tích cổ trong hang động cũng được ông ta cải tạo thành Linh Tinh điện hòng giúp
mình thoát thai hoán cốt. Tôn Cửu gia khẳng định, nếu thu thập thêm manh mối,
rất có thể chúng tôi sẽ tìm được bí mật hóa tiên của Phong Soái Cổ, bởi ông ta
phát hiện văn tự khắc trên bia cáo tế, cứ nhắc đi nhắc lại rằng trong Bàn Cổ
mạch có “linh vật” xuất hiện trong chốn u minh, rất khả năng chính là thi tiên
mà Phong Soái Cổ phát hiện năm xưa.
Nhưng nguồn sáng của
chúng tôi có hạn, không thế duy trì quá lâu, mộ cổ lại chẳng phải ể tản bộ, làm
gì có chuyện chậm rãi tìm kiếm, cả bọn đành bỏ qua những bia văn bảng chữ triện
cổ khiến người ta mắt hoa đầu váng ấy, tiếp tục đi hết các bậc thang dài tìm
kiếm quan quách của địa tiên. Chẳng ngờ, khi lên tới chỗ cao, ngước mắt nhìn
lên trên, ai nấy đều giật mình sửng sốt, lửa lòng nguội đi quá nửa, không ai có
thể ngờ Linh Tinh điện lại như vậy, thế này thì thần tiên cũng không tìm được
Phong Soái Cổ ở nơi nào.
Ở cuối cầu thang bằng gỗ
sam hóa thạch, không phải minh điện vói mái cong đấu củng, mà là bốn bức vách
ngọc hình thành trong tự nhiên, sừng sững như một cung điện lớn, giữa vách
cường có một khung cửa, bên trong là từng mảng từng mảng mộ thất quần táng hình
thành bởi nham thạch màu nâu xám, quy mô hẳn cũng tương đương với thôn Địa Tiên.
Quần thể trụ nham thạch
tựa như những căn phòng này là kỳ quan thiên nhiên dưới lòng đất ở núi Quan
Tài, hình thế cao thấp trập trùng, chằng chịt rối rắm, giống như một khu dân cư
đổ nát bị bốn bức tường thành bằng ngọc thạch ngăn trở, hoàn toàn cách biệt với
thế giới bên ngoài, chỉ có một khung cửa duy nhất nối liền với bia cáo tế. Có
lẽ, tên Linh Tinh điện cũng bắt nguồn từ đây.
Địa cung Linh Tinh điện
nằm trong tầng ngọc tủy ở phần bụng của rặng núi hình xác người, giữa một hang
ngọc khổng lồ trong Bàn Cổ mạch, tựa như một cái hộp ngọc giấu trong xác người
bị khoét rỗng ruột. Loại địa mạo này thường gặp ở chốn thâm sơn cùng cốc, có
chút tương tự đá bazan trên hải đảo, vùng núi Trụ Tử ở huyện Lục Hợp tỉnh Giang
Tô cũng có địa hình rất giống nơi này. Có lẽ, hẻm núi Quan Tài này từ hàng trăm
triệu năm trước đã trải qua nhiều biến hóa, sau nhiều phen bãi bể nương dâu,
mới xuất hiện tầng nham thạch kỳ dị như vậy bên trong lòng núi.
Nhưng theo tôi được
biết, loại nham thạch dưới lòng đất này có thể hình thành do nước biển xâm
thực, lại càng có thể do địa khí phong thủy bào mòn mà nên. Trong tròi đất vốn
có hai khí âm dương, từ trong hỗn độn hóa thành ngũ hành, khí ngũ hành “ở trên
trời là tượng, ở dưới đất là hình”, sự kỳ diệu của tạo hóa thực khiến người
thường khó mà tưởng tượng nổi.
CHƯƠNG 52:MỘT PHẦN VẠN
Chúng tôi tiến vào cửa,
thoáng nhìn qua ở phạm vi gần, chỉ thấy bên trong có đầy đủ phòng ốc đường sá,
giữa các trụ nham thạch có vô số khe hở, được coi như những mộ thất thiên
nhiên, cơ hồ mỗi huyệt động ấy đều có một cái xác ngồi xếp bằng, toàn bộ đều mặc
áo mũ thời Minh, già trẻ gái trai đều có, trên tay ai cũng nâng một ngọn đèn đã
tắt lụi từ lâu.
Bọn tôi đứng ở chố cao
nhất của bia cáo tế, phạm vi chiếu sáng của đèn pha và đèn pin mang theo nhiều
lắm cũng chỉ khoảng hai ba chục mét, tính riêng khu vực tầm mắt có thể vươn tới
này, đã có mấy chục mộ thất trong huyệt động rồi. Xa xa, là những ánh lửa ma
trơi lập lòe bất định tựa sao trời, dựa trên số lượng và quy mô của những đốm
lửa này mà suy thì trong thi mạch Bàn Cổ này thực không biết còn bao nhiêu huyệt
động tương tự như vậy nữa.
Tôn Cửu gia liên tiếp
xem qua máy chỗ mộ thất, gương mặt lộ vẻ khó xử, nói vói chúng tôi: “Khu mộ cổ
này tuy nằm dưới lòng đất, nhưng mộ thất lại nằm trong khe đá, hơn nữa thi cốt
bên trong đều không có quan quách khâm liệm, không hợp lẽ thường chút nào. Các
cô các cậu xem, trong lòng người chết đều ôm một ngọn đèn, chắc là để dẫn đường
cho vong linh ở chốn âm tào Địa phủ, hẳn những người này dù bị chôn sống ở đây,
vẫn mong ngóng địa tiên đắc đạo rồi sẽ gọi linh hồn bọn họ ở âm phủ lên, mượn
hình hài vẫn chưa mục rữa trong núi Quan Tài này đế thành tiên đấy”
Shirley Dương nói: “Địa
tiên Phong Soái Cổ mê hoặc hàng vạn người vào núi bồi táng, khu vực này lại
giống như một rừng huyệt mộ, chí ít cũng phải có mấy vạn mộ thất sắp xếp không
theo quy luật nào cả, phỏng chừng đều không có khác biệt gì lớn, nếu Phong Soái
Cổ ẩn nấp trong này, thử hỏi ai mà tìm được ông ta chứ?"
Tôn Cửu gia lắc đầu:
“Không tìm được cũng phải tìm thôi. Khi màn sương máu chạm đất, Phong Soái Cổ
sẽ dẫn quần tiên rời núi, chuyện này thoạt nghe có vẻ hoang đường khó tin,
nhưng Phong Soái Cổ là bậc kỳ nhân mưu lược hơn người, hiểu được lẽ âm dương,
thấu được cơ quỷ thần, nếu ông ta đã tính toán sau khi chết rồi vẫn nhập thế độ
người, vậy ắt hẳn sẽ gây ra tai họa lớn cho thế gian.”
Tôi vặn hỏi Tôn Cửu gia:
“Phong Soái Cổ tốt xấu gì cũng là tổ tiên nhà họ Phong của ông, sao ông cứ
trước một câu tai vạ, sau một câu họa hại, một mực nhận định ông ta thành tiên
rồi sẽ đi hại người ? Ngộ nhớ ông ta có lòng bác ái như chúa Jesus kia thì sao,
thể chẳng phải chuyến này chúng ta công toi à?”
Tôn Cửu gia nói: “Thằng
trẻ ranh nhà cậu đừng nói bậy, có ai muốn làm chuyện khi sư diệt tổ đâu chứ?
chi vì trong các truyền thuyết tu luyện thành tiên của Trung Quốc cổ đại chỉ có
thi tiên là đáng sợ nhất. Những kẻ ngu ngốc tầm thường uống đan dược đa phần
đều bị ma xui quỷ khiến, một lòng cầu mong sau khi chết được vũ hóa thành tiên,
nhưng những kẻ ấy chết rồi chẳng qua cũng chỉ tự mình hại mình mà thôi. Có điều
thi tiên chỉ những người sau khi chết đi, âm hồn không tan, thi thể không rữa,
trải qua vô số kiếp nạn trong cõi u linh âm hồn lại một lần nữa nhập xác thành
tiên, tạo nên sát kiếp, người chết trong tay càng nhiều thì đạo hạnh càng cao.
Những tà pháp luyện thi thành tiên này tuyệt đối không phải chính đạo, vì vậy
năm xưa Phong Soái Kỳ mới vì chuyện này mà trở mặt thành thù với Phong Soái Cổ,
để lại mối oán hận tích tụ suốt mấy trăm năm.”
Trừ Út vẫn hết sức tin
phục lời của Tôn Cửu gia, ba người còn lại chúng tôi đều chẳng coi vào đâu,
nhưng nói đi cũng phải nói lại, tình hình bên ngoài Linh Tinh điện thế nào cả bọn
đều tận mắt chứng kiến rổi, còn vể thứ sinh vật có thể di chuyển trong vách
tường ấy là gì thì không ai trong chúng tôi có thể nói rõ được. Có trời mới
biết có phải Phong Soái Cổ thật sự nắm giữ được bí mật gì, có thể khiến ông ta
mượn xác hoàn hồn hay không? Ngộ nhỡ thật sự ứng với lời tiên đoán của người
này, để thi tiên rời núi, ắt hẳn sẽ có nhiều sinh linh vô tội bị hại.
Hồi tưởng lại tâm cơ
Phong Soái Cổ lợi hại nhường nào, cả bọn đều cảm thấy dù thật hay giả, cũng
phải nghĩ cách tìm ra thây cốt ông ta để tuyệt trừ hậu họa, nhưng muốn trong
thời gian ngắn tìm được thi thể Phong Soái Cổ giữa hàng nghìn hàng vạn huyệt mộ
thế này, há phải chuyện dễ dàng hay sao?
Tôn Cửu gia giục tôi:
“Hồ Bát Nhất, cậu có bí thuật Mô Kim, có thể nói là tuyệt học hàng đầu trong
giới đổ đấu, cậu mau nghĩ cách gì đó đi chứ.” Nhưng nói xong lão ta lại lộ vẻ
lo âu, địa tiên Phong Soái Cổ không chỉ tinh thông kỳ môn dị thuật, mà còn mưu
tính sâu xa, tâm cơ sâu không thể lường, mấy trăm năm sau vẫn còn khiến người
ta kinh sợ tự đáy lòng. Ông ta để lại “Quan Sơn chỉ mê phú”, chính là muốn lợi
dụng ý diệt trừ thi tiên của hậu nhân, dụ dỗ họ vào núi Quan Tài, lợi dụng
dương khí của người sống kích hoạt màn sương máu giáng xuống. Con cháu của chi
mạch Phong Soái Kỳ suốt trăm năm nay đã bỏ ra không biết bao nhiêu tâm huyết và
tính mạng, kỳ thực đều bị địa tiên lợi dụng, cũng không dám chắc khi chúng tôi
tìm thấy di hài của Phong Soái Cổ, ngược lại giúp ông ta thành sự hay không?
Vạn nhất khéo quá hóa vụng thì hậu quả thực khó mà tưởng tượng nổi.
Tôi bảo Tôn Cửu gia:
“Hai mặt lý lẽ ông đều nói cả rồi, tôi chẳng có gì để nói nữa, đằng nào đã vào
trong mộ Địa Tiên giờ có hối hận cũng muộn rồi. Theo tôi thấy, chúng ta cứ tận
hết sức mình rồi nghe mệnh trời thôi, nghĩ cách tìm ra mộ thất của Phong Soái
Cổ trước rồi tính toán tiếp, lúc này cần phải phấn chấn tinh thần, quyết tâm đi
đến cùng mới được, đừng nghĩ ngợi nhiều quá làm gì.”
Mấy người còn lại đều
cảm thấy tôi nói có lý, giờ đây núi Quan Tài đã bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp vây
khốn, dù muốn trốn có mọc cánh cũng khó thoát, trước mắt chỉ còn cách hành sự
theo trực giác mà thôi. Còn chuyện quần tiên ở thôn Địa Tiên cuối cùng có thể
thấy lại ánh mặt trời như dự tính của Phong Soái Cổ hay không, thì đành để lại
cho ông trời già kia quyết định vậy.
Tuy rằng chúng tôi đã
quyết bất chấp tất cả tìm kiếm Địa tiên Phong Soái Cổ, hủy hoại thi thể ông ta
để diệt trừ hậu họa nhưng nơi đây vô số mộ thất cao thấp lô nhô thế này, muốn
tìm được mộ địa tiên thực sự còn khó hơn lên trời, hoàn toàn không biét bắt tay
từ đâu. Cả bọn vô kế khả thi, đành tiến vào khu huyệt động, lần dò từng bước,
chầm chậm tìm kiếm vào bên trong.
Tuyền béo ra vẻ ta đây,
nói với tôi: “Nhất à, tôi có tuyệt chiêu này, chúng ta đã làm thì làm cho trót,
châm một mói lửa thiêu rụi hết đống huyệt mộ này đi, lão địa chủ Phong Soái Cổ
ấy có ẩn trốn sâu đến mấy cũng không thoát được kế hỏa công của chúng ta, kế
này gọi là hỏa thiêu doanh trại.”
Tôi lắc đầu: “Tư lệnh
Tuyền béo này, tôi thấy hồi trước cậu thông minh, giờ lại hóa ra hồ đồ rồi. Nơi
này hơi ẩm nặng nề, nhiều khe nứt còn có nước đỏ như máu rỉ ra, không thể cháy
thành ngọn lửa lớn được đâu, dẫu dùng dầu hỏa thì mỗi lần cũng chỉ hủy diệt
được một thi thể trong một mộ thất thôi, muốn thiêu đốt cả nghìn vạn huyệt mộ ở
đây trừ phi ném bom Napal vào. Bom Napal có thể đốt được cả đá tảng, muốn thiêu
rụi núi Quan Tài này cũng chẳng khó khăn gì, nhưng hiện giờ trang bị của chúng
ta còn kém cả đám dân phòng, tiên sư nhà cậu đừng có nghĩ ngợi lung tung nữa.”
Lúc này, mặt đất dưới
chân chợt truyền lên một đợt chấn động, tựa như núi lay đất lở. Cả bọn kêu lên
một tiếng, cuống cuồng nhảy vào huyệt động bên cạnh, chỉ thấy các thi thể bên
trong mộ thất cũng đung đưa lắc lư theo. Khu mộ này có lẽ nằm ngay bên dưới
thôn Địa Tiên, tầng ngọc thạch bên trên phát ra âm thanh vỡ vụn, nếu đợt rung
động vừa rồi tạo ra khe nứt giữa hang động ngọc thạch và thôn Địa Tiên, ắt sẽ
có hàng đàn sâu quan tài tràn vào trong này ngay lập tức.
Tôi ngẩng đầu lên quan
sát, nhưng chỉ thấy tối như hũ nút, hoàn toàn không nhìn thấy gì, nhưng nghe
động tĩnh cũng đủ biết đã xảy ra chuyện lớn. Đợt chấn động vừa rồi không phải
địa chấn, mà là Cửu Tử Kinh Lăng giáp càng lúc càng siết chặt lấy núi Quan Tài,
chỉ thêm một hai lần chấn động nữa, Bàn Cổ thi mạch sợ rằng sẽ bị nó nghiần nát.
Mắt thấy đợt sóng này chưa qua, đợt sóng khác lại tới, cả bọn càng thêm nôn
nóng bất an, dù tìm được xác Địa tiên Phong Soái Cổ, chỉ e cũng khó thoát khỏi
sự truy đuổi của tử thần, nếu không phải bị chôn sống dưới ngọn núi cao nghìn
mét, thì cũng bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp kia hút sạch máu tủy mà chết.
Sau khi cơn rung dộng
qua đi, Shirley Dương đến bên cạnh tôi nói: “Cứ tìm như vậy cũng không phải
cách, một là ngồn sáng còn lại có hạn,sau khi hết pin thì phải đốt nến thắp
sang. Hai là Cửu Tử Kinh Lăng giáp xung quanh bất cứ lúc nào cũng có thể xuyên
phá tầng nham thạch chui vào trong núi, thời gian dành cho chúng ta có lẽ không
còn nhiều nữa. Anh xem trên những khối nham thạch này đều có ký hiệu tinh tú
thời cổ, nói không chừng lại có liên quan đến sự sắp xếp của sao trời, anh hiểu
bí thuật phong thủy thiên tinh, sao không bắt tay từ đây, thử nghĩ xem có cách
gì đột phá không.”
Tôi bảo, không phải anh
không nóng lòng, ký hiệu tinh tú trong mộ thất anh cũng nhìn thấy rồi, nhưng
phạm vi chiếu sáng của chúng ta có hạn, mà việc quan sát sao trời không như tìm
kiếm địa mạch, không nhìn được toàn thể thì đừng nói gì đến chuyện sử dụng bí
thuật phong thủy thiên tinh để phân kim định huyệt, dẫu biết rõ Phong Soái Cổ
rất có thể ẩn náu ở vị trí Tư Đẩu trong tinh đồ, song anh cũng chẳng thể làm gì
được.
Kỳ thực, vẫn còn một nỗi
khó tôi không nói rõ cùng cô, bí thuật phong thủy thiên tinh là nội dung thâm
ảo nhất trong thuật Phân kim định huyệt, tôi mới biết được một chút kiến thức
nửa vời, còn xa mới đạt đến trình độ thông hiểu vận dụng, lần đó đi sa mạc Tân
Cương tìm kiếm thành cổ Tinh Tuyệt chẳng qua chỉ là mèo mù vớ chuột chết, chứ
chẳng phải nhờ tôi tinh thông bí thuật phong thủy thiên tinh gì cả. Chuyện này
bấy lâu nay tôi vẫn ngại không dám nói với Shirley Dương.
Tôn Cửu gia đưa ra ý
kiến: “Đằng nào cũng phải mò kim đáy biển, chi bằng chia ra hành sự, cả bọn
chia nhau ra tìm, có khi lại nhanh hơn cũng không chừng.”
Tôi trầm ngâm giây lát,
nhủ thầm trong bụng: “Trên người Tôn Cửu gia có dấu hiệu thi biến, tuyệt đối không
thể để lão ta rời khỏi tầm quan sát dược, Tử trạng của những người bồi tángt
Phong Soái Cổ này đều cực kỳ quái dị, nói không chừng bất cứ lúc nào cũng có
thể xuất hiện tình huống bất ngờ; vả lại Út không có kinh nghiệm đổ đấu, cũng
không thể để cô bé đi một mình, mọi người mà phân tán ra, trong bóng tối rất
khó tiếp ứng cho nhau, dẫu tìm được mộ thất của Phong Soái Cổ, e rằng cũng
chẳng có cách nào ứng phó, nhưng cứ tụ tập lại thì không thể mở rộng phạm vi
tìm kiếm, phải làm sao mới ổn đây?”
Lúc này, cũng ko biết là
do cơn nghiện thuốc nói lên hay thần kinh căng thẳng quá lâu, đầu óc tôi tựa
như một đống tương nhão, chỉ muốn châm điếu thuốc lá cho tinh thần tỉnh táo,
vừa cho tay vào túi liền chạm phải tấm gương cổ Quy Khư buộc trước ngực, một ý
nghĩ chợt lóe lên: “Sao lại quên mất vật này chứ?” Tôi quên cả lấy thuốc lá,
vội tháo tấm gương xuống, nếu muốn tìm ra mộ thất của Phong Soái Cổ giữa hàng
vạn ngôi mộ ở nơi đây thì không thể không nhờ vào tấm gương cổ này được. Đây là phép cổ, gọi là Quan bàn biện cục.
Lúc
này tôi không kịp giải thích cho những người kia, chỉ bảo bọn họ theo sát sau
lưng tôi, rồi thắp luôn một cây nến bằng mỡ giao nhân đặt lên mặt gương. Bên
trong mộ có âm khí nặng nề, ánh nền cũng u ám ảm đạm. Mặt sau của gương cổ Quy
Khư có mấy trăm mấu đổng, vừa hợp với số Chu Thiên, ánh nến ảm đậm chiếu lên
mặt sau gương, liền thấy long khí còn sót lại bên trong ẩn hiện chập chờn, sinh
khí trong chất đồng mờ mịt tựa có tựa không, hồ như một vệt băng vụn dưới ánh
tà dương, bất cứ lúc nào cũng có thể tan biến.
Thuật
thắp nến hỏi gương này là một phép cổ đến độ gần như trở thành truyền thuyết
trong Thập lục tự âm dương Phong thủy bí thuật, bởi lẽ đồng dưới đáy biển rất
hiếm hoi nên cừ xưa đã cực ít người thực sự dùng qua biện pháp này. Cách này
không phải bốc quẻ bói toán, mà là vận dụng lý thuyết phong thủy để phân kim
định huyệt trong địa mạch. Một long mạch không phải chỗ nào cũng là đất đại cát
đại lợi, mà kim huyệt tàng phong tụ thủy có thể chỉ nhỏ như đồng tiền vậy thôi,
song toàn bộ hình thế của địa mạch đều khởi phát từ đó mà ra, tìm kiếm nơi
giếng vàng huyệt ngọc này chính là tinh túy của thuật Phân kim định huyệt. Néu
như địa mạch mà Tầm long quyết tìm được là một đường hay một mặt phẳng, thì
thuật Phân kim định huyệt lại chuyên dùng để xác định một điểm cụ thể nào đó
trên đường hoặc mặt phẳng ấy.
Long
khí trong gương cổ Quy Khư sắp sửa tiêu tán hết, thời gian vô cùng quý giá, tôi
vừa quan sát sự thay đổi của chất đồng trên mặt sau tấm gương, vừa rảo nhanh
bước chân. Nhìn khắp đâu đâu củng có ký hiệu tinh tú, chứng tỏ nơi này được bố
trí dựa theo vị trí của sao trời, với bản lĩnh của Phong Soái Cổ, chắc chắn ông
ta sẽ chiếm lấy vị trí tinh chủ trong khu vực lăng mộ này làm chốn táng thân
sau khi chết.
Tôi
lấy tấm gương cổ Quy Khư ra làm la bàn dò khí, dựa theo sự thay đổi của bóng
nến trong gương mà vòng vèo trên đường phố tạo thành bởi những đống nham thạch,
cuối cùng cũng khóa được mục tiêu vào một triền dốc cheo leo. Lúc này chút hải
khí cuối cùng còn sót lại bên trong gương đồng rốt cuộc cũng tiêu hao hết, tấm
gương được long hỏa ở Nam Hải tôi luyện chỉ trong chớp mắt đã mất đi linh hồn,
trở thành một món cổ vật tầm thường.
Tim
tôi đập thình thịch, thầm nhủ mình may mắn. Trên dải nham thạch trước mắt có
bốn gian mộ thất, một trong số đó là nơi phát nguyên của thi khí vô cùng vô tận
trong địa mạch Bàn Cổ, thảng như địa tiên Phong Soái Cổ đúng là bậc cao nhân có
thế nhìn thấu cơ trời, ông ta nhất định sẽ náu mình ở đây đợi độ hóa thành
tiên. Nghĩ đoạn, tôi bèn bảo cả bọn cầm sẵn vũ khí trên tay, toan tiến vào
trong tìm kiếm.
Tôn
Cửu gia thấy hải khí trong gương đồng đã cạn, sắc mặt lại càng thêm khó coi, lo
lắng nói: “Phen này toi rồi, lúc trước còn trông chờ vào gương cổ trấn thi trừ
tà, giờ thì hay ho rồi, gương đồng Quy Khư đã hoàn toàn mất đi hồn phách, không
biết còn trấn áp cương thi được nữa hay không.”
Tôi không để tâm chuyện
này cho lắm, thầm nghĩ xưa có câu không bỏ con săn sắt thì làm sao bắt được cá
rô, từ lúc tiến vào khu vực hẻm núi Quan Tài, ngoài cái “xác sống” Tôn Cửu gia
này ra, chưa thấy hiện tượng thi biến nào cả, vả lại nếu đúng như lời của chính
lão ta, rằng lão ta đã chết từ lâu rồi, vậy thì tại sao lại hoàn toàn không có
phản ứng gì trước tấm gương? Nếu Tôn Cửu gia không nói dối, vậy e rằng thuyết
nói gương cổ Quy Khư có thế trấn áp cương thi chỉ là bịa tạc mà thôi, giữ nó
lại đến phút cuối cũng chẳng ý nghĩa gì, dù sao trên người tôi vẫn còn một hộp
chất đốt dự phòng, chỉ cần Phong Soái Cổ vẫn còn hình hài xác thịt trong mộ
thất thì chẳng lo không đốt được lão ra tro.
Tuyền béo cũng nói: “Tôn
Lão Cửu này đúng là một kẻ đáng thương, chắc bị thù hận và tư tưởng mê tín tích
lũy mấy thế kỷ nay làm cho phát điên rồi, đợi lát nữa phải cho ông mở mang tầm
mắt, xưa có Trương Thiết Sinh nộp giấy trắng mà đô đại học, nay có Tuyền béo và
Hổ Bát Nhất tay không đấu địa tiên. Đừng tưởng có khoa học kỹ thuật với học hàm
học vị là đảm trách được tất nhé, một thân đảm lược của chúng anh đây không
phải cứ đọc sách là học được đâu.” Nói đoạn, cậu ta vẫy tay với cả bọn: “Đồng
chí nào có đầu óc và lòng can đảm thì đừng bần thần ở đó nữa, theo tôi xông lên
đi.” Tôn Cửu gia đưa tay cản Tuyền béo lại, bảo chúng tôi: “Đừng nóng, vẫn còn
một pháp bảo có thể dùng cứu mạng trong thời khắc mấu chốt. Có nghe nói đến
thừng trói tiên bao giờ chưa?”
CHƯƠNG 53: THỪNG TRÓI TIÊN
Giáo sư Tôn nói, muốn
đào quan quách của địa tiên lên cần phải tính toán vẹn toàn, một khi gương cổ
Quy Khư không có tác dụng, thì phải trông vào dầu hỏa thiêu đốt, nhưng ngộ nhỡ
thi thể Phong Soái Cổ bị thi tiên ám vào thật, mấy người chúng ta e khó mà đối
phó nổi, vì vậy cần chuẩn bị cho tình huống xấu nhất, nếu mang theo thừng trói
tiên thì sẽ nắm chắc thêm mấy phần.
Tôi biết Mô Kim hiệu úy
khi đổ đấu thường dùng thừng trói xác, ấy là một sợi dây thừng, hai đầu thắt
nút có thể nới ra nới vào được, một đầu buộc trước ngực kẻ trộm mộ, đầu kia
ngoắc vào cổ xác chết, sau đó dựng xác chết ngồi dậy, dùng hai tay mò minh khí
bới áo liệm, đổ đấu nhanh nhẹn gọn gàng.
Nhưng thừng trói tiên là
loại dùng để trói xác sống, cương thi, cũng chỉ là một sợi dây thừng, nhưng lại
có đến mười sáu nút thắt, nới thắt dễ dàng, khi tung ra thì như thiên la địa
võng, dẫu Đại La kim tiên cũng không tránh nổi. Có điều, không có bí quyết thì
không thể nào thắt nổi chừng ấy nút thắt, Mô Kim hiệu úy truyền đến đời chúng
tôi đã có rất nhiều môn tuyệt học bị thất truyền, vì vậy, tôi cũng chỉ mới nghe
danh mà thôi.
Tôn Cửu gia nói: “Vốn
tôi cũng chẳng trông mong gì ở cậu, lúc trước tôi thấy cái túi da dê bách bảo
đeo ở thắt lưng cô bé Út này có chín nút thắt bảy nút móc, người bình thường tuyệt
đối không thể kết ra được, mới đem chuyện thừng trói thây ra hỏi thử, hóa ra ở
Phong Oa sơn quả nhiên có ngón nghề này, nhưng không gọi là thừng trói tiên, mà
là thừng buộc ám khí.”
Từ xưa đã có cách nói,
“bảy mươi hai nghề một trăm linh tám núi”, trong những ngành nghề truyền thống
này, dường như nghệ nhân của mỗi ngành mỗi nghề đều có tuyệt học, giữa nghề nọ
với nghề kia cũng có sự dung hợp suốt thông, chẳng hạn như thú đoạn dùng cơ
quan di hình hoán vật trong phép ảo thuật của Nguyệt Lượng môn, đa phần là bắt
nguồn từ Phong Oa sơn. Vì vậy, việc dây thừng trói tiên trong ngành đổ đấu được
diễn hóa từ thừng buộc ám khí cũng chẳng có gì lạ.
Từ lúc vào núi đến giờ,
trải qua vô số gian nan nguy hiểm, tôi đã dần dần tin phục tay nghề của Út, lập
tức tập hợp tất cả dây thừng leo núi còn lại của mọi người, giao cho Út thắt
nút. Tôn Cửu gia đem thứ cao đặc đen ngòm tanh tưởi trong bình nước ra phết lên
trên, bất luận Phong Soái Cổ trong mộ kia có thi biến hay đã hóa thành tiên,
chỉ cần nhắm đúng cơ hội trói chặt lão ta lại, dẫu lão có mọc cánh cũng khó mà
thoát được.
Tôi tuy không mê tín đến
mức nghiêm trọng như Tôn Cửu gia, nhưng trong lòng cũng hiểu rất rõ, chọi nhau
với địa tiên Phong Soái Cổ trong núi Quan Tài là hành vi vô cùng hung hiểm, có
thêm một thủ đoạn phòng thân, cũng bằng như thêm cho mình một con đường sống,
đương nhiên không thể thờ ơ. Thấy mọi người chuẩn bị xong xuôi đâu đấy, tôi bèn
lách người đi xem xét mấy mộ thất trong mảng nham thạch phía trước.
Chỉ thấy trên mảng nham
thạch này có khắc ký hiệu của các sao tà Hối, Huyết, Huyền, Vong. Kỳ thực, trên
trời vốn không có những tinh tú yêu dị này, chúng chỉ tồn tại trong truyền
thuyết của thuật phong thủy thiên tinh cổ xưa mà thôi. Tương truyền, tà tinh
phủ xuống, vệt mờ che lu ánh trăng, là điềm xác chất thành núi máu chảy thành
sông. Những hình khắc tinh tú bất tường cổ xưa này, khiến khu huyệt mộ vốn đã
lạnh lẽo âm u càng thêm rợn người, ai nấy đều lờ mờ cảm giác sự việc trước mắt
hẳn sẽ cực kỳ khó đối phó.
Nhờ giải đọc bia cáo tế
và lật xem ghi chép của Phong Soái Cổ để lại, chúng tôi có thể đoán định, thời
xưa, khu vực hẻm núi Quan Tài này rất thịnh hành những thuật phù thủy chiêm
tinh, Bàn Cổ mạch trong núi Quan Tài vốn là đất tế tử của các thầy mo, đồng
thời cũng là nơi cất giấu đổ tế. Phong Soái Cổ đã xây âm trạch trong núi, lợi
dụng bí thuật phong thủy hòng khôi phục linh khí địa mạch, khiến thi tiên đã
biến mất máấy nghìn năm xuất hiện trở lại, độ hóa toàn bộ người chết ở thôn Địa
Tiên thành tiên. Trong Linh Tinh điện, ít nhất cũng phải có hơn vạn huyệt mộ,
nếu suy tính của ông ta thành sự thật, lũ cương thi bên trong cùng ùa ra thì
thử hỏi ai ngăn cản nổi? Tôi suy trước tính sau, giờ chỉ đành gác chuyện sinh
tử sang một bên, tìm được xác Phong Soái Cổ đem hủy đi, rồi triệt phá hoàn toàn
sinh khí của địa mạch Bàn Cổ, may ra mới có cơ vãn ồi đại cục.
Năm người chúng tôi đảo
qua mấy mộ thất xung quanh tìm kiếm một vòng, phát hiện hầu hết đều là một mộ
một người, cũng không có quan quách minh khí gì cả, người chết tay nâng đế đèn
đã cạn, mặt đeo một chiếc mặt nạ, bên trên vẽ phác mũi, mắt, miệng đều mở to.
Trong bóng tối, ánh đèn pin chiếu vào khiến những tấm mặt nạ ấy thoạt trông đều
hết sức cổ quái. Có điều, những mộ thất này đều thấp nhỏ chật hẹp, không giống
như nơi chôn thân của địa tiên Phong Soái Cổ.
Shirley Dương phát hiện
phía sau xác chết trong mộ thất không lấy gì làm nổi bật lắm có một khe hở hình
tam giác,soi đèn vào thấy sâu bên trong dường như còn có không gian khác. Tôi
bèn khom người chui vào trong ấy, đi qua một đoạn đường hẹp khoảng vài mét,
liền gặp một thạch thất, rộng chừng hơn hai chục mét vuông, tường vách chỉnh
tề, trên vách có bích họa, chính giữa là một cái quách bằng vàng ròng khảm lam
ngọc, ánh vàng rực rỡ, hình dạng kỳ dị, có phần giống với vật ở vùng Tây Vực.
Tôi thầm nhủ, đây quá
nửa là mộ thất chính rồi, bèn quay đầu lại gọi mấy người kia chui vào bên
trong. Tuyền béo vừa vào liền quét đèn chiếu quanh một lượt, ánh mắt dừng lại
trên cỗ quách vàng, thốt lên một tiếng kinh ngạc, không kìm được định bước tới
động thủ. Tôn Cửu gia vội ngăn cậu ta lại, bảo đừng nóng vội, phải biết tiếp
thu bài học kinh nghiệm chứ, cứ xem xét cho kỹ càng đã, tránh để lại rơi vào
cạm bẫy của địa tiên bố trí.
Cả bọn ngổi xổm trong
góc mộ thất, cẩn thận quan sát tình hình xung quanh. Tôi đi một vòng quanh căn
phòng đi xem xét kỹ hơn, nhưng càng xem càng thấy kỳ lạ, chỉ thấy bức bích họa
trên tường kia vẽ một khu rừng đào, cành lá sum suê, quả sai trĩu trịt, sương
mù bảng lảng giăng giữa đào đỏ lá xanh. Bức bích họa này màu sắc đậm đà tươi tắn,
nhìn gần tưởng như mình đang ở bên trong, xung quanh trước sau đều là rừng bát
ngát.
Còn quan quách đúc bằng
vàng ròng kia, nằm giữa vòng bao bọc của rừng đào kéo dài liên miên trên bốn
vách, ngoài phần đáy không nhìn thấy ra, mấy mặt còn lại đều đúc rất nhiều nhân
vật và chim cá hình dạng kỳ lạ, hai mắt khảm lam ngọc, trong bầu không khí lạnh
lẽo tĩnh mịch tháp thoáng vẻ yêu dị lạ thường.
Phía sau thạch thất còn
hai gian mộ thất nhỏ hơn, một trong hai gian này nối liền với lối vào nhập
táng, bên trong có thuyền ngọc, chạm trổ hình long ly quy phượng, hàng chữ bên
trên chính là “Linh Tinh điện Địa Tiên mộ”; gian còn lại thì bị cửa đá chắn
mất, phỏng chừng bên trong là một hang chứa đồ bồi táng, có điều từ bên ngoài
cũng không thể phán đoán trong ấy rốt cuộc cất giấu những món minh khí gì.
Tôi thấy bố cục bên
trong mộ thất này quá đỗi kỳ dị, trước đây chưa thấy bao giờ, cũng hoàn toàn
khác hẳn với mộ Địa Tiên trong tưởng tượng, không khỏi sinh lòng ngờ vực liệu
bên trong cỗ quách bằng vàng kia có giấu xác Phong Soái Cổ thật hay không?
Tuyền béo cũng lấy làm thắc mắc: “Sao tôi cứ có cảm giác như đến nông trường
trồng đào vậy? Chẳng lẽ tổ tiên lão địa chủ này khởi nghiệp bằng nghề bán đào
chắc? Cũng chỉ có cỗ quan quách này là đồ thật, còn dùng được chút.”
Shirley Dương nói, rừng
đào trong bức bích họa này có mây lành bảng lảng bên trên, đằng xa còn có đình
đài lầu các, giống như cảnh tượng trên Thiên giới, cũng có khả năng là một chốn
thế ngoại đào viên.
Giáo sư Tôn nói với cô:
“Cô nói trúng rồi đấy, bức bích họa này đích thực không phải vẽ cảnh ở nhân
gian. Nghe nói, thuở sinh tiền Phong Soái Cổ nằm mơ cũng muốn làm thần tiên,
trong mộ thất vẽ nguyên một rừng đào, là có ý ngầm ám chỉ mình năm xưa cũng
từng là người đi dự hội. Nom cách bố trí ở đây, có thể khẳng định Địa Tiên nằm
bên trong cỗ quách bằng vàng này rồi”.
Út thắc mắc với Tôn Cửu
gia: “Năm xưa cũng từng là người đi dự hội là sao? Địa tiên mở hội gì à?” Giáo
sư Tôn chưa kịp trả lời, Tuyền béo đã ra vẻ ta đây hiểu biết đáp: “Chắc chắn
không phải đại hội đại biểu nhân dân rồi, tôi đoán chắc là đại hội của các đại
biểu địa chủ, chương trình hội nghị toàn là cách thức bóc lột quần chúng nhân
dân lao khổ thôi.”
Tôi vừa nghe Tôn Cửu gia
nói, liền hiểu ngay ý lão ta. Thời xưa, những người mê tín cầu tiên đạo đều tự
cho rằng kiếp trước mình từng tham dự hội Bàn Đào của Tây Vương Mẫu, người có
thể tham dự hội này đều là thần tiên, vì vậy rất nhiều thuật sĩ giang hồ và
người luyện đan đều tự xưng mình từng là tiên nhân năm đó dự hội Bàn Đào. Phong
Soái Cổ bố trí mộ thất như vậy là ngầm có ý tự xứng mình là bậc chân tiên.
Tôn Cửu gia chẳng buồn
nhìn Tuyền béo, hỏi tôi: “Đã tìm được quan quách của Phong Soái Cổ, nên bắt tay
thế nào thì cậu sắp xếp đi thôi.”
Tôi nhìn thần sắc bốn
người họ, biết cả bọn một là đang mệt mỏi ức chế, hai là căng thẳng quá độ, chỉ
có tôi và Tuyền béo ít nhiều còn chút cảm giác hưng phấn của kẻ chỉ sợ thiên hạ
không đủ loạn, nhưng đã đến thời khắc mấu chốt cuối cùng, nhất thiết phải phấn
chấn tinh thần mà cầm cự. Nghĩ đoạn, tôi bèn nói: “Các đồng chí, tình trạng núi
Quan Tài lúc này thế nào mọi người đều rất rõ cả rồi, tôi cũng không nói nhiều
nữa, còn về việc mở cái quách bằng vàng này ra xong có bình an vô sự hay không,
đây là một ý niệm thảm thương, tôi thấy nên sớm quăng nó vào Thái Bình Dương
cho rồi. Đừng quên, phải đặt mình vào chỗ chết mới mong có đường sống, chỉ cần
chúng ta giữ bình tĩnh, dốc hết ngón nghề của Mô Kim hiệu úy mà thăng quan phát
tài, trên đời này chẳng có cái đấu nào ta không đổ được cả.
Chấn động dưới lòng đất
núi Quan Tài lúc có lúc không, nhưng trận sau mạnh hơn trận trước, để tránh đêm
dài lắm mộng, chúng tôi lập tức bắt tay chuẩn bị mở nắp quan. Tôi lấy ra một
ngọn nến, đưa Tôn Cửu gia thắp ở góc Đông Nam của mộ thất.
Sở dĩ tôi bảo Tôn Cửu
gia làm chuyện này, là vì tôi vẫn luôn có cảm giác trên người lão ta có hiện
tượng thi biến, nhưng kỳ lạ là, ngọn nến Mô Kim hiệu úy dùng để suy đoán hung
cát hoàn toàn không có phản ứng gì với Tôn Cửu gia, điều này chứng tỏ lão ta là
người chứ không phải ma. Nhưng cơ thể người sống tuyệt không thể nào xuất hiện
hiện tượng bị thi trùng cắn xé như thế được. Từ lúc vào địa cung của Ô Dương
vương, tôi dường như cũng không cảm nhận được hơi người sống trên mình lão ta
nữa. Chân tướng và hậu quả của việc này tuy rằng vẫn chưa hiển lộ ra, nhưng khả
nảng uy hiếp tiềm tàng thì còn vượt xa địa tiên nằm trong cỗ quan quách bằng
vàng ròng kia, không thể không phòng bị trước được.
Tôn Cửu gia theo lời
thắp nén lên, ánh nến hắt lên mặt lão ta, sắc mặt xám xịt như xác chết, tròng
mắt đục ngầu, khiến tôi nhìn mà lạnh hết cả người. Nhưng lúc trước lão ta đã
thề độc, một mực khẳng định chính mình cũng không biết trên người rốt cuộc đã
xảy ra chuyện gì. May mà từ lúc vào miếu Pháo thần đến giờ, mọi hành vi của lão
ta đều ở mức chấp nhận được, phỏng chừng những chuyện có thể khai cũng đã khai
cả rồi. Nói theo cách của lão ta, mạng của năm người chúng tôi đều buộc chung
một chỗ, không có lão ta, những người còn lại cũng chưa chắc có cơ hội thoát
khỏi thôn Địa Tiên này. Mọi người tuy rằng phát giác con người này càng lúc
càng trở nên đáng sợ, nhưng vẫn ráng nhẫn nhịn.
Mộ Địa Tiên là đất phát
nguyên sinh khí của mạch Bàn Cổ, ngọn nến cháy lên không thấy có hiện tượng gì
khác thường, tôi đưa mắt ra hiệu cho Shirley Dương, bảo cô dắt Út lùi về sau
chốt giữ lối ra mộ thất, quan trọng nhất là ở phía sau chúng tôi cẩn thận quan
sát nhất cử nhất động của Tôn Cửu gia, đừng để ôi và Tuyền béo đang mở quan tài
thì dính phải độc thủ của lão ta.
Sau đó, tôi và Tuyền
béo, Tôn Cửu gia cùng chụm đầu trước cỗ quan quách bằng vàng, cẩn thận tìm kiếm
chỗ để động thủ. Trong quá trình trộm mộ, khai quan mò vàng vẫn luôn là mắt
xích hung hiểm nhất, vì vậy cả Tuyền béo cũng hết sức dè dặt. Ban đầu, chúng
tôi định tìm khe hở trên quách vàng, rồi dùng xẻng công binh bậy nắp quách lên,
không ngờ ba người tìm khắp một vòng, phát hiện bốn phía cỗ quách hoàng kim
chẳng có khe hở nào, mà mặt trên quách có hai cánh cửa chạm rồng, không khóa
không đinh, chỉ vươn tay ra là mở được, không tốn chút công sức nào cả.
Tuy rằng đã lường trước
khả năng huyệt mộ của địa tiên Phong Soái Cổ sẽ hoàn toàn khác biệt với các
loại lăng mộ trứ danh khác, nhưng thấy quan quách mộ chủ theo kiểu có cũng như
không này, chúng tôi vẫn không khỏi bất ngờ. Tôi không dám manh động trực tiếp
mở nắp quách ra, bèn bò lên mặt quách, rọi đèn vào trong xem xét, phát hiện bên
trong có ánh phản quang yếu ớt màu xanh nhạt, nhưng cách một lớp nắp bằng vàng
dày nặng, căn bản không thể nhìn ra trong đó là một tầng quách nữa hay còn có
gì, chỉ ngửi thấy mùi xác thối rữa lâu ngày bốc ra.
Tuyền béo thấy cả một cỗ
quách bằng vàng ròng to tướng như thế, trong lòng hết sức cảm khái, chỉ hận
không thể bê ngay lên máy bay mang về, đứng bên cạnh cứ không ngừng sờ mó cỗ
quách. Cậu ta nôn nóng hỏi tôi: “Nhất à, bên trong quan tài có gì vậy?” Tôn Cửu
gia cũng hỏi: “Địa Tiên có trong quan tài không?”
Tôi khinh khỉnh đáp:
"Địa tiên cái mẹ gì, mùi như phô mai thối ấy, chắc đã rữa gần hết rồi. Xem
ra chúng ta lo quá thôi, cái bánh tông Phong Soái Cổ đã rữa nát tới chừng này,
chắc cũng chẳng thi biến được đâu.”
Tôn Cửu gia nói: “Nếu
xác ông ta đã thối rữa ra rồi thì chắc chắn không thể luyện thành thi tiên được
nữa, nhưng cũng chớ nên lơ là, mau lấy dầu ra đi.”
Tôi vẫn trông mong trong
bụng cương thi bên trong có kim đơn, tuy rằng các dấu hiệu đều cho thấy, hy
vọng này đã trở nên hết sức mong manh, nhưng tôi vẫn không muốn trực tiếp phóng
hỏa, chỉ lấy hộp dầu đưa cho Tuyền béo, bảo cậu ta đợi tôi phát tín hiệu rõ
ràng rồi hãy động thủ thiêu cháy thi thể địa tiên.
Tuyền béo ra vẻ ôm đồm
nói: “Chuyện phóng hỏa này cậu cứ yên con nhà bà tâm đi, mau mau mở nắp quách ra,
xem bên trong có thứ gì hiếm lạ hay không đã...”
Cậu ta mới nói được nửa
câu, chợt nghe trong quan quách vẳng ra một tràng tiếng động cổ quái, tựa như
có một thân thể nặng nề đang ở bên trong vùng vẫy cựa quậy, tôi vội trở mình
lăn xuống khỏi nắp quách, Tôn Cửu gia và Tuyền béo cũng lùi về sau hai bước.
Tôi đưa mắt nhìn về phía sau, Shirley Dương và Út cũng đều nghe thấy động tĩnh,
Shirley Dương sợ tôi có chuyện gì, liền vung tay ném ô Kim Cang về phía này.
Tôi bắt lấy ô, thầm nhủ
chẳng lẽ cái xác mục bên trong đang động đậy? Lại thấy cây nến ở góc mộ thất
vẫn cháy, dường như mùi hôi thối nồng nặc trong không khí không hề ảnh hưởng gì
đến nó. Có ngọn lửa chứng tỏ có dưỡng khí, vả lại trong mộ tạm thời không có
nguy hiểm gì, thấy vậy, tôi liền ra hiệu cho Tuyền béo và Tôn Cửu gia, ba người
đeo găng tay vào, lại một lần nữa tiến tới phía trước cỗ quách, dùng xẻng công
binh khe khẽ khều cửa quách hé ra một khe hở.
Nguồn e-thuvienonline.blogspot.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét