Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

16 thg 1, 2014

Các mĩ nhân Trung Hoa thời xưa (4)

Vạn quý phi

Vạn thị vào cung từ năm 4 tuổi là một cung nữ phục vụ trong hậu cung. Ban đầu, Vạn thị là người hầu của Tôn thái hậu - mẹ đẻ của Anh Tông, tức là bà nội của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. 
Bước vào tuổi trưởng thành, Vạn thị trở thành một cô gái hết sức xinh đẹp, lại thông minh và khéo léo lấy lòng người khác. Vì vậy, Vạn thị rất được Tôn thái hậu sủng ái, trở thành một người tâm phúc của thái hậu. Hiến Tông Chu Kiến Thâm là con trai trưởng của vua Minh Anh Tông, sinh vào năm Chính Thống thứ 12.
Hai năm sau đó, vua Anh Tông bị bắt làm tù binh, thái hậu họ Tôn ra lệnh phong Chu Kiến Thâm làm thái tử. Tuy nhiên, tới năm Cảnh Thái thứ 3, sau khi Đại Tông Chu Kỳ Ngọc tức vị, đã phế Chu Kiến Thâm thành Nghi Vương. Anh Tông trở lại ngôi vua, lại lập Kiến Thâm làm thái tử. Trở lại ngôi thái tử lần thứ hai này, Chu Kiến Thâm mới chỉ vừa tròn 18 tuổi.

Tám năm sau đó, Anh Tông qua đời, Kiến Thâm tức vị, trở thành Hoàng đế, sử gọi là Minh Hiến Tông. Ủng hộ Kiến Thâm từ những ngày đầu tiên nên từ khi Chu Kiến Thâm còn là thái tử, Tôn thái hậu đã phái tâm phúc của mình là cung nữ họ Vạn tới hầu hạ Thâm. Vạn thị hơn thái tử triều Minh đúng 18 tuổi. Dưới sự chăm sóc của một cung nữ tương đương với tuổi mẹ mình, thái tử Chu Kiến Thâm dần dần trưởng thành, trở thành một thiếu niên tuấn tú, khôi ngô. Cũng chẳng biết từ lúc nào và làm cách nào, cô cung nữ họ Vạn đã quyến rũ được vị thái tử mới lớn, giữa hai người đã xảy ra chuyện chăn gối nam nữ. Nhưng cũng kể từ đó, ông vua tương lai của triều đại nhà Minh bị trói chặt vào người cung nữ hơn mình tới gần 20 tuổi.

Thái tử Chu Kiến Thâm vừa yêu, vừa dựa dẫm vào Vạn thị, giống như một vật ký sinh, không thể tách rời khỏi Vạn thị được. Người ta nói rằng, vị thái tử trẻ tuổi họ Chu, ngoài tình cảm và nhu cầu về tình dục, còn có sự tuân phục và nể sợ đối với Vạn thị. Bởi lẽ, Vạn thị là người chăm sóc và bảo vệ Chu Kiến Thâm từ nhỏ nên rất hiểu tính cách cũng như những nhược điểm của Chu Kiến Thâm. Và với trí thông minh sẵn có của mình, Vạn thị thừa sức để trói chặt chàng thái tử chỉ bằng tuổi con mình.
 Chu Kiến Thâm tức vị năm 18 tuổi, năm đó, tính ra Vạn thị đã 36 tuổi. Người phụ nữ vào độ tuổi này đương nhiên không thể so sánh với những mỹ nữ tuổi 16-18 mơn mởn trong hậu cung triều Minh. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là, Chu Kiến Thâm vẫn hết sức sủng ái Vạn thị, thậm chí, càng ngày càng tỏ ra chiều chuộng, phong cho Vạn thị làm Quý phi, cùng với rất nhiều bổng lộc và quyền lợi. 
Được Hiến Tông sủng ái, lâu ngày Vạn thị sinh ra kiêu ngạo, hống hách. Không muốn những người phụ nữ khác tranh giành sự sủng ái của Hoàng đế với mình, Vạn thị nghĩ ra đủ mọi biện pháp tàn độc làm những người phụ nữ mang thai với Hoàng đế đều phải sẩy thai, khiến không ai không căm giận. Khi Vạn thị đã về già, Hiến Tông vẫn rất mực yêu chiều.

Năm Vạn thị 58 tuổi, một lần tức giận đánh một cung nữ, nhưng do thân thể quá béo nên chưa đánh được mấy đòn thì đã lăn đùng ra đất, từ đó không tỉnh lại nữa. Đến vậy mà ông vua si tình Hiến Tông còn khóc lóc than rằng: “Vạn Quý phi đi rồi thì ta còn sống được bao lâu nữa đây”. Quả nhiên, vài tháng sau đó, vì quá sầu não và phiền muộn về cái chết của Vạn thị, vua Hiến Tông cũng qua đời. Năm đó, Hiến Tông mới 40 tuổi.


 Hoàng Nga

Hoàng Nga là nữ văn học gia thời nhà Minh, tự Tú Mi, người tỉnh Tứ Xuyên. Hoàng Nga, Hoa Nhị Phu Nhân, Tiết Đào, Trác Văn Quân còn được gọi chung là Thục trung Tứ Đại Tài Nữ. Hoàng Nga làu thông kinh sử, nhiều phen khiến chồng là Trạng nguyên Dương Thận cũng phải bái phục mà khen nàng rằng “Nữ Khổng Tử”.
Hoàng Nga (1498 – 1569) tự là Hoàng Tú Mi. Nàng cùng chồng – Trạng nguyên Dương Thận được biết đến như một trong những cặp vợ chồng nổi tiếng nhất của giới thi ca trong lịch sử Trung Hoa.
Nàng được sinh ra trong gia đình quan lớn, vì vậy nàng cũng được học hành bài bản dưới chuẩn mực đạo đức, kiến thức đương thời, bởi nàng rất thông minh, sáng dạ và được cha mẹ rất yêu thương, cưng chiều. Chính cha mẹ nàng đã nuôi dạy nàng trở thành một người con gái giỏi giang, tư chất hơn người bằng cách giáo dục đó.
Nàng vốn sinh ra ở Toại Ninh, Tứ Xuyên, nhưng khi tuổi còn nhỏ nàng đã sống ở phủ của cha tại kinh đô. Năm 20 tuổi, lúc mà nàng chưa hứa hôn với ai, cha nàng đã đến tuổi nghỉ hưu và gia đình nàng lại chuyển về Tứ Xuyên. Ngay trong năm đó – năm 1519, nàng đã kết hôn với Dương Thận, cũng là con cháu của một gia đình xuất chúng ở Tứ Xuyên. Cha của Dương Thận – Dương Đình Hòa đã được nhận một chức quan quan trọng vào năm 1509, rồi lại thăng tiến hơn nữa vào năm 1513. Dương Thận cũng đã đỗ Trạng nguyên sau kỳ thi Đình năm 1511. Hôn lễ cũng đã được định một cách chắc chắn với sự ưng thuận của cả hai gia đình. Lúc đó, Dương Thận được biết đến như một tấm gương sáng về học tập; Hoàng Tú Mi cũng không hề thua kém Dương Thận, đã cùng chàng sẻ chia bao nhiệt huyết thơ ca. Họ được xem là một cặp đôi lý tưởng, rất môn đăng hộ đối, rõ là trai tài gái sắc.
Nhưng cuộc sống của họ đã bị thay đổi trong một thời gian rất nhanh chóng do cuộc xâm lược của triều đại Gia Tĩnh (Miếu hiệu Minh Thế Tông) vào năm 1521. Dương Đình Hoà, với vai trò là thủ lĩnh của quân đội đất nước đã sắp xếp cho đứa cháu trai mới 14 tuổi của vua Chính Đức – người không có con trai – lên nối ngôi, không hề nghĩ rằng vị thái tử này sẽ từ chối các cách học lễ nghi và không tham gia điều hành đất nước. Từ đó bắt đầu một cuộc đấu tranh dài và đầy khó khăn trên trường chính trị đất nước, khi Dương Đình Hòa và con trai là Duơng Thận đã phản đối chính sách cai trị mới rất độc đoán của nhà vua. Vào năm 1524, Dương Đình Hoà rời quan trường do không thể chấp nhận thêm những cuộc chiến kéo dài với ông vua đầy thù địch, và cuối năm ấy thì Dương Thận cùng với hơn 100 người cùng chí hướng đã kéo nhau diễu hành tại kinh đô phản đối chính sách độc đoán của nhà vua. Cuộc diễu hành đã gây nên nhiều thương tổn, một số người tham gia đã bị giết chết. Dương Thận được cứu thoát, cùng với Hoàng Tú Mi (chính là Hoàng Nga) rời khỏi kinh đô và đi thuyền đến miền trung Trung Quốc, tại đó họ chia tay nhau. Dương Thận tiếp tục đi về Vân Nam còn Hoàng Nga ở lại cùng với những người hầu và trở lại gia đình họ Dương ở Tân Đô, phía bắc Thành Đô. Dương Thận không được ân xá, sống một mình suốt cuộc đời còn lại và từ trần vào khoảng 35 năm sau đó tại Vân Nam.
Cặp vợ chồng trẻ trong hoàn cảnh có vẻ như tài giỏi, bây giờ như có một cuộc sống tối tăm và đầy buồn thảm của sự ngăn cách. Hoàng Nga trở thành một hình tượng trong Dương gia của gia quyến và tất cả các người hầu trong nhà, chịu trách nhiệm trong cách dạy dỗ của mình. Cách nuôi dạy các con và rất quan trọng với bọn trẻ, và chuẩn bị một cách đầy đủ sự thoát ra của chúng và chung hạnh phúc (hoặc tình trạng hạnh phúc). Phút chốc Dương Thận cũng đã đưa một quyển văn học khổng lồ trong Vân Nam, đã có một cuộc sống đầy tự do nếu cuộc sống không có hiện diện của sự nản lòng, nản chí ở bên cạnh một đám sự viễn vông không thực tế với nhiều va chạm, nàng đã sống trong sự sung sướng và đầy gượng ép, cuộc sống của một bậc phu nhân trong một tầng lớp cao quí hơn, bởi vì hướng tài chính của phu quân nàng đã đi đúng cách và Dương Thận trong gia tộc với sự cứng rắn cương quyết trong việc làm và sự tận tụy hết lòng. Họ đã cưới nhau được 3 năm khi Dương gia đã bị đuổi đi, sau những năm 1520, nàng đã mất 3 năm chung sống với chồng ấy ở Tứ Xuyên, nhưng sau đó họ hiếm khi gắn bó với nhau, và chỉ cho một vài ngày hay một vài tháng để có một thời gian.
Dương Thận đã sống lâu rồi (Hoàng Nga đã sống với chàng được 10 năm). Họ liên lạc với nhau qua những lá thư và những bài thơ tình. Một trong những lá thơ vẫn còn, nhưng những có những thay đổi là chúng đã trở lên nổi tiếng. Một vài người nghĩ rằng Hoàng Nga người được xem như là người phụ nữ đầu tiên viết lá thư này vì nhà Minh. Rồi bài thơ này bị truyền bá qua các bản in và các văn kiện ở trong suốt cuộc đời, vì vậy hiển nhiên Dương Thận đã sẻ chia chúng cùng với những người bạn trong giới văn học của chàng; Hoàng Nga đã nói sẽ không bao giờ tìm kiếm để giữ gìn những tác phẩm của nàng, lại càng không để chúng được truyền ra ngoài. Cuối thời Minh, tuyển tập thơ mới được xuất bản bao gồm một vài bài thơ của nàng bên cạnh những bài thơ của Dương Thận
Thơ của Hoàng Nga phần lớn được viết ở thể “tam khúc”, nhưng có một vài bài được viết theo thể “từ”, hoặc thậm chí được viết bằng những thể thơ mà nàng đã có điều chỉnh. Nhiều bài ở thể “tam khúc” nàng viết thẳng thắn đến nỗi ai cũng phải sửng sốt. Trong một vài bài, nàng đã trách cứ Dương Thận một cách cay đắng bởi cuộc sống buông thả và vô trách nhiệm của chàng tại Vân Nam trong khi nàng đang sống ẩn dật ở Dương gia, tận tuỵ phụng dưỡng họ mà không hề có một đòi hỏi gì. Nàng hồi tưởng lại những tháng ngày hạnh phúc nhất khi họ còn trẻ tuổi với một tình yêu say đắm đầy nhiệt huyết. Chuyện tình của họ, khi thì vui vẻ; khi thì bị dằn vặt, dày vò; khi thì phải đau khổ chịu nhẫn nhục. Họ thường có một phong thái nổi bật xuất chúng với giọng điệu phóng khoáng, mang tính khiêu khích. Tâm hồn nhạy cảm, dễ xúc động mạnh của họ đã tạo cho họ một phong cách sống rất thẳng thắn.
Có nhiều ý kiến cho rằng Hoàng Nga đã không viết tất cả các bài thơ thậm chí cả những bài thơ vốn được coi là của nàng từ lâu.
Có rất nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề này từ nhiều thế kỉ qua rằng những bài thơ của Hoàng Nga có thực sự là thơ của nàng. Có người nói chồng của Hoàng Nga được coi như một người sao chép thơ đã tìm kiếm những tác phẩm văn thơ, sửa lại cho giống với giọng thơ của Hoàng Nga và để chúng quay vòng như thể đó là những vần thơ của Hoàng Nga. Bằng cách đó, Dương Thận đã thể hiện tình yêu và sự tôn thờ to lớn mà ông dành cho vợ mình. Hoặc cũng có thể ông làm thế để đưa hình ảnh của vợ mình và chính mình đến với công chúng. Nhưng rõ ràng đây cũng chỉ là những suy đoán và tranh cãi thôi.
Là một người con gái với nền tảng vững chắc và cuộc sống khá bình lặng nhưng những bài thơ của Hoàng Nga dường như giúp cô hé lộ tư chất vượt trội của một nhà thơ tài năng. Trong những vần thơ ấy, Hoàng Nga đã trực tiếp thể hiện mình với những vấn đề mà nàng vốn không thể cởi mở bày tỏ vào thời đại bấy giờ.
Mặt khác, thoát ra khỏi câu chữ, thơ của Hoàng Nga gần gũi với hiện thực hơn có lẽ là nhờ chồng cô, hoặc thậm chí đó là những tác phẩm văn thơ lâu đời khác đã được những nhà buôn sách quy là của nàng. Có lẽ trong tương lai vấn đề này sẽ được giải quyết.
Để có thể dễ dàng hiểu được lời bài thơ cổ của nàng, chúng tôi (người dịch) đã dịch hai bài thơ dưới đây do Dương Thận gửi cho nàng:
“Cành hoa tươi như mô tả về một gương mặt, gương mặt xinh đẹp như hoa
Khuôn mặt đáng yêu của nàng không một tì vết dù ngọc bích cũng không hoàn hảo
Tiền vàng thì đáng giá, nhưng mùa xuân thì vô giá
Sự quyến rũ đầy tao nhã ấy, thứ gì có thể sánh được đây?”
“Một thứ để nuối tiếc: Cơn bệnh hay rất nhiều tài năng
Nàng hái một cành hoa sen, và buồn bã rót chén rượu
Đối mặt với bông hoa cúc, nàng cảm nhận nỗi buồn phân ly trong lặng lẽ
Nhìn thấy cánh hoa đào, nàng sẽ lập tức viết thư cho tôi”
Trong bài thơ đầu tiên, ám chỉ đến nhà thơ đời Tống – Tô Thức (Tô Đông Pha) rằng “Chỉ nửa giờ của đêm mùa xuân đáng giá nghìn vạn tiền vàng” (“Xuân dạ”, trong Tô Thức, Tô Thức thi ký, tr.2592). Cụm từ “đêm mùa xuân” cũng đồng thời ám chỉ đến tác phẩm của Bạch Cư Dị là “Trường hận ca”, diễn tả tình cảm nồng nàn của vị vua đời Đường là Đường Huyền Tông với ái cơ là Dương Quý Phi: “Trong làn sương ấm áp trùm kín lên chiếc giường ngự, hai người cùng nhau đi qua đêm mùa xuân; nhưng đêm mùa xuân thì vô tình lướt qua nhanh chóng, và mặt trời đã mọc”. Trong bài thơ thứ hai, những chuỗi các loài hoa phản ánh sự trôi đi quá nhanh của thời gian: Từ mùa hạ sang thu, từ thu sang đông và cho thấy một sự hy vọng rằng khi nhìn thấy bông hoa đào trong mùa đông – bông hoa đầu tiên của mùa xuân, nó sẽ mang lại cho người tài nữ họ Hoàng cảm hứng để nàng tiếp tục gửi thư cho chồng”.




Khách thị

Vua Minh Hi Tông hiệu Thiên Khải với nhũ mẫu Khách thị được coi là mối tình điên loạn trong lịch sử Trung Quốc. Lịch sử chép lại: Khách thị và Thiên Khải Đế Châu Do Hiệu đã có quan hệ tình dục với nhau. khi Hy Tông lên ngôi năm 15 tuổi, phong Khách thị làm Phụng thánh phu nhân Trong cung triều Minh, Khách thị là người dâm loạn nổi tiếng, làm sao có thể bỏ qua vị hoàng đế trẻ trung? Quan hệ giữa Khách thị và Thiên Khải Đế khác hẳn mối quan hệ giữa nhũ mẫu và con nuôi.
Thường thì khi thái tử đã trưởng thành, chức trách của nhũ mẫu cũng hết, không nhất thiết phải sớm tối gặp gỡ tiếp xúc. Nhưng đối với Khách thị, mọi chuyện lại không diễn ra như thế. Lịch sử ghi chép rằng: Sáng sớm mỗi ngày Khách thị bước vào gian lò sưởi cung Càn Thanh, nơi tẩm cung của Thiên Khải Đế, hầu hạ Thiên Khải Đế cho tới nửa đêm mới về cung. Nếu giải thích chuyện này vì Khách thị xuất phát tình yêu thương với Thiên Khải Đế như mẹ yêu con, thì trong mối tình bất chính sau này của Khách thị với Ngụy Trung Hiền, vì cớ gì mà Khách thị đã không còn quan tâm tới Thiên Khải Đế. Thậm chí, trong lần ăn uống vui vẻ ở hồ Thái Dịch, Khách thị và Ngụy Trung Hiền quyến luyến không rời, Thiên Khải Đế trèo cây bắt chim ngã lộn cổ, quần áo rách toạc, máu chảy đầy mặt, Khách thị không hề xót thương, vẫn cười đùa vui vẻ với tình lang, Khách thị còn cấu kết với Ngụy Trung Hiền khống chế các thế lực trong triều
Khách thị xinh đẹp lẳng lơ, đứng trước mặt Thiên Khải Đế chưa bao giờ tự coi mình là nhũ mẫu, mà chỉ là người đàn bà và giống hệt như kẻ cầu xin sủng ái. Lịch sử ghi chép: Khách thị khi đã trên 40 tuổi, sắc mặt vẫn đẹp như mỹ nhân 28. Sắc đẹp và vẻ lẳng lơ của Khách thị đã làm cho mọi người sửng sốt, ngay đến các cung tần, tần phi trẻ cũng không thể sánh kịp. Để bảo vệ vẻ đẹp, đương thời Khách thị luôn dùng nước bọt các cung nữ trẻ để chải tóc, đảm bảo sự đen bóng của mái tóc. Mái tóc đẹp như mây đã tôn thêm vẻ xinh đẹp tha thướt của thiếu nữ.
Làm nhũ mẫu của Thiên Khải Đế, Khách thị tranh giành ghen tuông bóng gió, hại chết mấy tần phi từng được Thiên Khải Đế gần gũi.Minh Quang Tôn tuyển được một người phi là Triệu Thị. Người này có chút xích mích với Khách Thị, bà ta bèn giả thánh chỉ buộc Triệu Thị phải thắt cổ tự vẫn. Nhưng,đáng thương nhất là Trương Dụ phi. Trương Dụ phi có thai với Thiên Khải Đế, khi sắp đẻ, Khách thị hạ lệnh không cấp thức ăn đồ uống cho Trương Dụ phi, không cho người đến đỡ đẻ. Trong đêm mưa bão điên cuồng, Trương Dụ phi đói khát không chịu nổi, lê thân thể nặng nề khó nhọc trèo lên mái nhà hứng nước mưa uống cho đỡ khát, tủi thân gào khóc và qua đời trong cơn đói hành hạ. Ngoài Trương Dụ, còn có ba hoàng tử, hai hoàng nữ vì sự bức hại của Khách thị mà chết yểu vô tội. Tổng số cung nữ được hoàng đế sủng hạnh hoặc mang thai bị Khách thị giết hại không thể đếm được chính xác.
Trương Hoàng hậu rất ghét Khách Thị nên lựa lời khuyên Hy Tôn đừng nghe lời bà ta trừng phạt người ngay, nhưng ông ta không nghe. Khách Thị mua chuộc được một cung nữ trong cung Càn Ninh để ra tay hại Hoàng hậu. Khi đó Trương Hoàng hậu đang có mang, thường mỏi lưng nên sai cung nữ bóp lưng. Cung nữ đã ra tay khiến bà bị sảy thai. Chỉ vì dung túng cho Khách Thị làm hại những phụ nữ trong cung mà Minh Hy Tôn đã chịu họa tuyệt tự.

Đỗ Thập Nương.

Về đời Vạn Lịch, có nàng danh kỹ họ Đỗ tên Ty, đứng hàng thứ mười trong kỹ viện, mọi người gọi là Đỗ Thập Nương. Đỗ Thập Nương tuy tuổi mới lên 19 mà cặp má đào phơi phới hương xuân ấy đã làm tan nhà nát cửa không biết bao nhiêu vương tôn, công tử nơi chốn Đế đô.
Lý Giáp cũng là tay phong lưu công tử, mặt mũi khôi ngô, tác phong nho nhã, ra mặt con nhà thế phiệt đoan trang.
Từ khi vàng đá gặp nhau, hai bên trao tình ân ái, càng ngày mối tình của chàng thư sinh với nàng ca kỹ càng thắm đượm sâu xa.
Mà con người lúc đã yêu nhau thì ai còn có thể sống mãi trong cảnh hỗn độn như thế được, nàng Thập Nương bắt đầu chán với cuộc sống nơi kỹ viện, muốn trở lại cuộc sống thanh bạch của ngày nào. Hơn nữa, thấy Lý Giáp là người trung thực, đáng mặt trượng phu, có thể sống gởi nạc, thác gởi xương được.
Thập Nương nguyện theo Lý Giáp đi hưởng hạnh phúc, từ bỏ trốn lầu xanh. Khi đi nàng còn được các chị em để lại cho bao nhiều vàng bạc châu báu nhưng Lý Giáp không biết. Nhưng trên đuờng đi Lý Giáp vì nghe theo lời của Tôn Phúc đã nhận 100 lượng vàng của hắn và để Thạp Nương tạm ở lại với hắn. Quá đau lòng Thập Nương cùng số của cải các chị em cho nhảy xuống sông tự vẫn.

Mã Tương Lan


Mã Tương Lan (1548-1604) có thể coi là nữ thi nhân, nữ hoạ gia thời nhà Minh. Theo Tần Hoài nghiễm kí, nàng tên Chân, tự Tương Lan, tiểu tự Huyền Nhân, lại có tự là Nguyệt Kiều, vì con thứ 4 trong nhà tên còn được gọi là Tứ nương.
Nàng bản tính linh lợi, lại xinh xắn, thơ hay vẽ đẹp, sở trường vẽ lan trúc, bởi thế còn gọi là Tương Lan.
Tướng mạo của nàng tuy không xuất chúng, dáng dấp như người thường nhưng đầu óc thông minh, sáng sủa như xuân liễu tảo oanh, từ ngữ nói ra toàn lời hay ý đẹp, khéo vừa lòng người.


 Liễu Như

Là kỹ nữ nổi tiếng cuối đời Minh, tên thật là Dương Ái
Sau Liễu Như Thị gả cho Tiền Khiêm Ích, là 1 danh sĩ đương thời. Nếu so với tuổi tác Trần Tử Long và Liễu Như Thị thì Tiền Khiêm Ích đáng làm bậc trưởng bối, nhưng xét về học vấn cao thâm uyên bác thì Tiền Khiêm Ích lại hơn hẳn Trần Tử Long. Liễu Như Thị tuy đôi lúc có nhung nhớ Trần Tử Long nhưng nghĩ đến sự ân ái yêu thương của chồng thì nàng lại trấn tĩnh. Tuy ẩn cư nhưng đôi vợ chồng này lại rất quan tâm đến thế sự. Bấy giờ Lý Tự Thành trong làm phản, lãnh đạo nghĩa quân chống lại triều đình, ngoài thì quân Thanh lâm le xâm lược. Trần Tử Long chẳng những không hiềm khích với Tiền Khiêm Ích mà còn hăng hái tiến cử Ích ra làm quan cứu đời. Khi Lý Tự Thành chiếm lấy Bắc Kinh, lật đổ nhà Minh thì tấm lòng chống phản quân của đội vợ chồng Tiền Khiêm Ích và Liễu Như Thị lại hóa thành lòng yêu nước chống quân Thanh xâm lược. Cuộc đời Liễu Như Thị từng tiếp xúc với 2 thi nhân nổi tiếng đương thời là Trần Tử Long, Tiền Khiêm Ích, thật là làm rạng danh quần thư, không nhượng phe tu mi.

Khi quân Thanh xâm lược, Liễu Như Thị hết sức khuyên chồng giúp vua Minh chống trả. Nhà Minh mất, nàng lại cố thuyết phục Tiền Khiêm Ích cùng mình tự tử để tận trung báo quốc. Hai vợ chồng ra hồ trẫm mình, nhưng họ Tiền lấy cớ nước lạnh, lại tuổi cao sức yếu nên năm lần bảy lượt không chịu xuống. Liễu Như Thị phẫn uất nhảy xuống nước một mình, nhưng họ Tiền hô mọi người cứu lên. Sau đó, ông ta đầu hàng nhà Thanh, đi Bắc Kinh nhận chức, Liễu thị không theo. Và với ảnh hưởng của vợ, sau nửa năm, Tiền Khiêm Ích lại bỏ về quê. Liễu Như Thị hết sức cổ vũ, ủng hộ chồng tham gia các phong trào kháng Thanh phục Minh. Vì thế, mặc dù xuất thân là kỹ nữ nhưng Liễu Như Thị được các danh sĩ, trí thức vô cùng kính trọng. Khi Tiền Khiêm Ích chết, nàng tự vẫn bằng một dải lụa trắng.


Trần Viên Viên 

Khởi đầu của Trần Viên Viên khá giống mỹ nhân Trương Lệ Hoa đời Nam Bắc triều, Trần Viên Viên cũng xuất thân từ một gia đình lao động nghèo hèn tại thôn Thái Nguyên. Viên Viên lẽ ra mang họ Hình, nhưng là con nuôi của gia đình họ Trần nên lấy họ cha mẹ nuôi và trở thành dưỡng nữ của họ, rồi sau đó đến Tô Châu làm ca kỹ. Viên Viên vốn có sắc đẹp hơn người, xinh đẹp hơn cả hai cô công chúa Trường Bình và công chúa Chiêu Ân con vua Sùng Trinh lúc bấy giờ, thông thạo đàn hát nên có rất nhiều nam nhân đến xem nàng biểu diễn. Trong số đó có Điền Văn là một phú hộ có thế lực rất lớn do con của ông ta là quý phi được Sùng Trinh sủng ái. Điền Văn trong một dịp tình cờ thưởng thức tài nghệ của Viên Viên và bỏ ra một số tiền lớn để mua nàng về.

Trần Viên Viên từ khi gặp được Ngô Tam Quế, một danh tướng của Sùng Trinh tại phủ của Điền Văn thì cả hai đã phải lòng nhau. Có thể nói nguyên nhân khiến Ngô Tam Quế phản quốc khiến cho sụp đổ cả một vương triều Đại Minh phần lớn đều do Trần Viên Viên mà ra. Sự chuyển biến quan trọng đó là việc Trần Viên Viên bị Lý Tự Thành bắt giữ khiến Ngô Tam Quế sau nhiều lần suy tính, cuối cùng thỏa hiệp với Đa Nhĩ Cổn mở đường cho quân Thanh vào Sơn Hải quan thẳng tiến đến Bắc Kinh. Toàn bộ sự việc như sau:
Ngô Tam Quế vốn yêu thích Trần Viên Viên khi nàng đang là ái thiếp của Điền Văn, nhân cơ hội Điền Văn lo sợ nghĩa quân Lý Tự Thành vây đánh cướp bóc gia trang của mình nên ông hứa sẽ bảo vệ Điền Văn, của cải và gia quyến được an toàn, đổi lại ông muốn Viên Viên thuộc về mình.
Khi đã có Trần Viên Viên, Ngô Tam Quế lại phải tiếp nhận thánh chỉ dẫn quân ra quan ải chặn đường quân Thanh. Lý Tự Thành thừa cơ hội bắt giữ gia quyến của Ngô Tam Quế và luôn cả nàng Viên Viên mang đi. Trong khi đó vua Sùng Trinh chỉ còn biết cách dối gạt ông và bịa chuyện Viên Viên đang dưỡng bệnh tại hậu viên tránh tiếp xúc người ngoài.
Lý Tự Thành khi ấy đã tự phong mình là Đại Thuận Đế, tiến quân đến Sơn Hải quan và dùng gia quyến của Ngô Tam Quế làm điều kiện buộc ông quy hàng. Tuy nhiên, sau khi lật đổ nhà Minh, Lý Tự Thành sau đó lại cố chấp không thả người còn giết hết cả nhà Ngô Tam Quế gồm cha mẹ và anh chị em hơn ba mươi người (nhưng trong đó không có Trần Viên Viên). Việc làm này khiến Ngô Tam Quế căm giận và về quy hàng nhà Thanh.
Liên minh Ngô Tam Quế - Đa Nhĩ Cổn nhà Thanh tổ chức nhiều đợt tấn công, đẩy lùi nghĩa quân Lý Tự Thành về Cửu Cung Sơn, Lý Tự Thành trúng tên bị thương nặng và qua đời.
Khi nhà Thanh chiếm được Trung Nguyên thì Trần Viên Viên gửi mật thư cho Ngô Tam Quế để ông đến đón nàng tại một thôn làng xa xôi nơi nàng lánh nạn. Tiếc thay hạnh phúc không được bao lâu thì Ngô Tam Quế rắp tâm làm phản mặc cho Viên Viên hết lời can ngăn. Ông lui quân về Hồ Nam, nơi mình được phong vương rồi chiêu binh mãi mã, tự đế lấy hiệu Chiêu Võ. Viên Viên quá bất mãn xuất gia đi tu và chết trong lúc Ngô Tam Quế lập quốc xưng vua. Lúc bấy giờ Khang Hi đã lên ngôi, thông minh sáng suốt, nhờ nhiều mưu thần người Mãn và các quan người Hán đã qui thuận tiếp sức, một mặt vừa lo đối phó với gian thần Ngao Bái, mặt khác tăng cường nhiều trận đánh khiến quân Ngô Tam Quế kinh hoàng. Quân Thanh vây kín thành Nhạc Châu, Ngô Tam Quế khi ấy thất thế chỉ biết rượu chè say sưa rồi một hôm trúng gió qua đời, nhà Thanh đại thắng.


Khấu Bạch Môn

Nhan sắc mặn mòi, lại thêm tinh thông cả thơ, nhạc, họa, Khấu Bạch Môn là cái tên nổi tiếng trong làng ca kỹ ở Kim Lăng thời cuối nhà Minh. Năm nàng 17 tuổi, nàng lọt mắt xanh một vị đại thần là Chu Quốc Bật, được cưới về phủ. Theo tục lệ thời đó, các cô gái thuộc giới ca kỹ nếu may mắn lấy chồng đều không được đưa dâu vào ban ngày. Vì thế, Chu Quốc Bật đã sai 5.000 quân lính cầm đèn hoa suốt từ “nhà gái” đến phủ của mình, còn người đẹp Khấu Bạch Môn trang điểm lộng lẫy, bước lên kiệu hoa, chấm dứt cuộc đời lênh đênh của kỹ nữ. Nhưng chỉ sau vài tháng, vị quan hiếu sắc đã chán nàng, bỏ đi tìm “hương vị” mới. Đến khi nhà Thanh chiếm trung nguyên, Chu Quốc bật bị giam lỏng, túng bấn bèn nghĩ đến chuyện bán bớt tỳ nữ. Nàng Khấu Bạch Môn từng được rầm rộ rước về cũng nằm trong số đó. Nén cay đắng, nàng nói với Chu: “Chàng bán thiếp đi may lắm chỉ được trăm lạng bạc. Chi bằng chàng để thiếp trở về Nam, chỉ trong một tháng sẽ kiếm vạn lạng đền ơn chàng”. Chu đồng ý, thế là nàng Khấu một mình quay lại chốn yên hoa, kiếm đủ hai vạn lạng gửi cho chồng.
Chu Quốc Bật có tiền lại muốn sum vầy với người đẹp, nhưng nàng kiên quyết dứt tình: “Xưa chàng dùng bạc chuộc thiếp ra, nay thiếp lại dùng bạc trả ơn, ân tình giữa chúng ta coi như đã hết”. Sau này, Khấu Bạch Môn có gắn bó với một người khác, nhưng chẳng được bao lâu đã quay lại kiếp cầm ca, rồi chết vì bệnh, khiến nhiều người thương tiếc.


Biện Ngọc Kinh


Nàng là một người bạn thân của Lý Hương Quân, tài sắc chẳng thua là bao mà sự bất hạnh về tình duyên lại càng không kém cạnh.
Biện Ngọc Kinh vốn con nhà quan, do cha mất sớm nên mới lưu lạc làm ca kỹ, nổi tiếng là tinh thông văn sử, vẽ đẹp, thơ hay, khiến ai gặp cũng thần hồn điên đảo. Với tài thơ và tâm hồn lãng mạn đó, khi gặp Ngô Mai Thôn, một thi sĩ lừng danh thời bấy giờ, nàng lập tức phải lòng và cũng được đáp lại. Tình cảm hai bên ngày càng thắm thiết. Ai cũng cho họ là một cặp trời sinh, còn nàng Biện thì chỉ chờ về làm vợ Mai. 
Thế nhưng chàng thi sĩ tài hoa lại là kẻ bạc tình. Biết nàng bị “ngắm” vào danh sách tuyển mỹ nữ cho hoàng đế, chàng không muốn liên lụy nên chỉ đứng đằng xa thổi vài khúc nhạc rồi bỏ đi. Biện Ngọc Kinh không phải nhập cung, sau đó được một vị quan lấy làm vợ lẽ, nhưng cuộc sống chẳng an vui nên chỉ một thời gian đã bỏ đi. Nàng xuống tóc, làm một nữ đạo sĩ ở Tô Châu, từ bỏ ái tình, ăn chay trường, giữ giới luật, suốt ba năm dùng máu viết xong cuốn Pháp Hoa kinh. Một ngày, nàng tình cờ gặp lại Ngô Mai Thôn và biết chàng cuộc đời cũng nhiều u uất và vẫn tơ tưởng đến mình. Nàng chơi lại khúc nhạc của chàng khi trước, chàng viết một bài thơ thê lương tặng lại, và họ lại mỗi người mỗi ngả. Biện Ngọc Kinh ẩn cư trên núi, rồi qua đời lặng lẽ, kết thúc một cuộc đời hồng nhan đa truân.


Lý Hương Quân

Danh kỹ trên sông Tần Hoài là Lý Hương Quân, bên mình lúc nào cũng mang một chiếc quạt lụa, mặt quạt làm bằng tơ lụa trắng tinh, trên mặt vẽ một bức vẽ hoa đào, sắc thái đậm đà đẹp đẽ, do đó gọi là "quạt hoa đào" (Đào hoa phiến). Bức vẽ trên chiếc quạt ấy tuyệt nhiên không phải do tay danh gia nào vẽ, vậy vì sao Lý Hương Quân lại xem đó như một vật quý giá vô cùng? Vốn là hoa đào vẽ trên mặt quạt ấy, không phải vẽ bằng chất liệu vẽ bình thường, mà là máu tươi của Lý Hương Quân đổ ra vẽ thành, ngưng kết trên mặt quạt ấy là câu chuyện tình ai diễm triền miên giữa nàng và tình lang Hầu Phương Vực,và cũng là toàn bộ ước nguyện của nàng ở kiếp này.
Lý Hương Quân là kỹ nữ trong Mỵ Hương Lâu bên bờ sông Tần Hoài, Mỵ Hương Lâu được xây dựng cực kỳ tinh xảo, đứng soi bóng xuống dòng nước, đứng trên lầu tựa lan can nhìn ngắm, thấy khói nước xanh biếc, thâu vào tầm mắt bao nhiêu là họa thuyền rực rỡ như dệt lụa trên sông Tần Hoài. Chủ nhân của Mỵ Hương Lâu là Lý Đại Nương, thuở còn trẻ bà cũng là kỹ nữ bên sông Tần Hoài, sau khi lớn tuổi, liền dùng tài sản tích góp được xây dựng nên tòa Mỵ Hương Lâu này, thu nhận và nuôi dưỡng bao nhiêu là con gái, dùng thơ rượu ca múa để tiếp khách, trong thành Nam Kinh cũng có một chút danh tiếng. Gương mặt đáng kể nhất chống giữ cho Mỵ Hương Lâu chính là Lý Hương Quân. Cô nương này từ nhỏ đã lớn lên bên cạnh Lý Đại Nương, làm thơ, đọc sách, gảy đàn, vẽ tranh, ca múa, đều được Lý Đại Nương dạy bảo kỹ lưỡng rành rẽ, về tính tình cũng học được nét hào sảng hiệp nghĩa của Lý Đại Nương, thật là khiến cho mọi người đều thương mến. Nhưng nói khi Lý Hương Quân lớn lên rồi, lại có nét riêng của nàng, dáng người nàng xinh tươi nhỏ nhắn, mềm mại lung linh, đầu mày cuối mắt đều xinh đẹp diễm lệ, miệng nhỏ môi nhạt, vẻ bề ngoài biết bao xinh đẹp, từng ly từng tí đều đáng là kiểu mẫu. Nhân nàng yêu kiều nhỏ nhắn mà xinh đẹp thơm tho, nên trong tên mới mang một chữ "hương", do đó các khách khứa đều gọi đùa nàng là "hương phiến trụy" (tua quạt thơm), lại đúng hợp với phong thái và mùi thơm của nàng.
Mỵ Hương Lâu tiếp liền với các kỹ lâu cao cấp cùng hạng khác bên bờ sông Tần Hoài, trong các kỹ lâu loại này kỹ nữ đa phần là bán nghề để mua vui chứ không bán thân, Lý Hương Quân cũng là điển hình của loại này. Nhân vì Lý Đại Nương trượng nghĩa hào sảng lại hiểu biết phong nhã, do đó khách đến Mỵ Hương Lâu quá nửa là kẻ văn nhân tao nhã cùng với các quan lại chính trực trung trinh, chịu ảnh hưởng từ đó, Lý Hương Quân từ khi tuổi còn nhỏ đã hiểu biết phân biệt được tốt xấu trung gian. Lần thứ nhất gặp Hầu Phương Vực, một ánh mắt đã xiêu lòng, khi ấy Lý Hương Quân mới vừa mười sáu tuổi.
Hầu Phương Vực, tự Triều Tông, người ở Thương Khâu, Hà Nam, tổ phụ Hầu Chấp Bồ là quan thái thường khanh triều Minh, phụ thân là Hầu Tuân, từng làm qua chức Hộ bộ thượng thư, đều là bậc trung thần cương trực thẳng thắn. Hầu Phương Vực từ nhỏ theo học thi thư với bậc danh sĩ ở quê là Nghê Nguyên Lộ, tỏ ra mẫn tuệ đa tài, tiến bộ rất nhanh. Năm Sùng Trinh thứ mười sáu, Hầu Phương Vực hai mươi hai tuổi liền đến Nam Kinh tham gia kỳ thi Hội về Lễ. Tự cậy mình tài học giỏi giang, Hầu Phương Vực trẻ tuổi bồng bột tuyệt không coi việc ứng thí khi đó là chuyện quan trọng, lại đến đất cũ Lục triều phồn hoa, đèn hồng rượu lục, lưu thắm tràn hương, chàng không khỏi có ý muốn bước chân vào chốn gió trăng. Hôm ấy, có lời giới thiệu của bạn là Dương Long Hữu, chàng hâm mộ danh tiếng đến chơi Mỵ Hương Lâu, để nhìn xem phong thái của "tua quạt thơm" Lý Hương Quân. Vừa bước vào phòng Lý Hương Quân, chỉ thấy trong nhà trưng bày đầy các thứ thư họa cổ ngoạn, không hề có một chút ý tứ thanh tân nào, thật khác xa với những hạng lầu xanh khác. Lý Hương Quân mỉm cười yểu điệu, thi lễ mời khách ngồi, lập tức có thị tỳ đưa đến trà thanh và các thức trái cây, khi đó Hầu Phương Vực lại bị một bức tranh treo trên vách tường ngay trước mặt hấp dẫn, đó là một bức "Hàn sơn hiểu phiếm đồ" (buổi sớm chèo thuyền qua núi Hàn), trên dòng sông xanh phủ tràn tuyết lạnh, một chiếc thuyền côi lơ lửng giữa dòng, trời xanh xanh, đất mênh mang, thật là một cảnh ý xa vời đạm bạc, trên tranh có đề một bài thơ:

Sắt sắt tây phong tịnh viễn thiên
Giang sơn như họa kính trung huyền.
Bất tri hà xứ hạc ba tẩu
Nhật xuất hô nhi phiếm điếu thuyền.

Gió tây thổi san sát, trời xa trong trẻo
Sông núi như vẽ còn lại trong gương
Chẳng biết sóng nhỏ chạy về nơi nào
Mặt trời mọc, gọi nhà thuyền chèo chiếc thuyền câu

Trên tranh chưa có lạc khoản, có lẽ không phải là của tay danh gia nào, Hầu Phương Vực hỏi rằng: "Bức tranh này là ai vẽ thế?" Lý Hương Quân thấy chàng ngắm bức tranh chăm chú như thế, hơi có vẻ xấu hổ khẽ nói: "Là do tiểu nữ vẽ chơi thôi, không đáng nhắc đến." "Là do nàng vẽ?" Hầu Phương Vực không dám tin ngay cô gái lầu xanh xinh đẹp nhỏ nhắn non nớt bẽn lẽn đó lại có thể sáng tác được những thư họa thần tình đến vậy, thật khiến người ta phải lau mắt xem lại. Bắt đầu là chuyện về bức họa đó, tiếp theo hai người càng nói chuyện càng hợp ý, đôi bên cảm thấy như đã quen biết từ trước. Trước khi rời đi, Hầu Phương Vực cũng cầm bút làm một bài thơ, đưa cho Lý Hương Quân làm lễ vật nhân lần đầu gặp nhau, thơ rằng:

Xước ước tiểu thiên tiên
Sinh lại thập lục niên
Ngọc sơn bán phong tuyết
Dao trì nhất chi liên
Vãn viện hương lưu khách
Xuân tiêu nguyệt bạn miên
Lâm hành kiều vô ngữ
A mẫu tại bàng biên.

Vị tiên nhỏ trên trời ẻo lả, sinh ra đã mười sáu năm
Núi ngọc nửa ngọn phủ tuyết, Dao trì một cành sen
Viện buổi chiều mùi thơm lưu giữ khách, đêm xuân trăng kề trong giấc ngủ
Lúc ra đi (nàng) nũng nịu mà không dám nói (vì) có mẹ ở bên cạnh.




Một mối tình hoài mừng vui kính mến đều đã biểu lộ ra trong thơ, một người là thiếu niên văn nhã, phong lưu lỗi lạc, một người là ngọc nữ lầu xanh yểu điệu đa tình, huệ chất lan tâm, sau mấy lần gặp nhau, đã cùng chung đôi rơi vào biển tình, triền miên khôn gỡ.
Dù được các nhà đại phú theo đuổi, nàng lại yêu Hầu Phương Vực, một thư sinh. Theo lệ, khách muốn kỹ nữ nào chỉ phục vụ riêng mình thì phải đóng một số tiền lớn. Với một kỹ nữ nổi danh như Hương Quân, món tiền này không phải là thứ mà chàng thư sinh có thể lo được, vì thế cả hai bắt được vàng khi Hầu lang được một người bạn giúp trang trải khoản đó. Một thời gian sau, biết người cho tiền mình thực chất là Nguyễn Đại Việt, một tên quan vô lại bị thất sủng đang tìm cách lấy lòng kẻ sĩ, Hầu Phương Vực tìm mọi cách trả lại, Hương Quân đã phải bán hết nữ trang, vay mượn để giúp chàng. Trả lại tiền là gây oán với Nguyễn Đại Việt, vì vậy khi tên này đắc thế và ra tay trả thù, Hầu lang phải ra đi lánh nạn. Kể từ đó, dù hàng trăm công hầu, khanh tướng ngày ngày đem tiền nghìn bạc vạn đến cầu, Hương Quân một mực đóng cửa chờ tình lang.Để trả thù, Nguyễn Đại Việt xúi một vị đại quan lấy Hương Quân về làm thiếp. Thấy quân lính đến “rước” mình, biết không cưỡng lại được, nàng nhảy lầu tự tử. Thấy giai nhân nằm trên mặt đất, đầu đầy máu, đám rước dâu tan. Không từ bỏ mối thù, Nguyễn Đại Việt chờ Hương Quân lành vết thương để lấy danh nghĩa hoàng đế bắt nàng vào cung hầu hạ. Đến khi quân Thanh đánh vào, nàng mới chạy thoát khỏi cung điện, may được thầy dạy nhạc ngày xưa che chở.
Cảm động trước sự trung trinh của cô gái đang chết dần vì bệnh lao vẫn một lòng nhớ tình lang, người thầy cất công đi tìm Hầu Phương Vực, người cũng đang đi khắp nơi tìm nàng. Nhưng khi Hầu lang đến nơi thì người con gái tài sắc, tiết liệt đã trút hơi thở cuối, chỉ để lại cho chàng món tóc đặt trên chiếc quạt chàng tặng ngày xưa. Chiếc quạt này vương máu Hương Quân khi nàng nhảy lầu tự sát, bạn của Hầu Phương Vực đã cảm động lựa theo vết máu vẽ hình hoa đào, rồi vẽ thêm cành lá thành bức tranh tuyệt đẹp. Kể từ đó, chiếc quạt càng được Hương Quân coi như báu vật, không lúc nào rời cho đến lúc tàn hơi.


Trường Bình công chúa

Trường Bình công chúa (1629 hoặc 1630 – 26/9/1646) tên thật là Chu Mỹ Xúc, là con gái thứ hai của Sùng Trinh đế Chu Do Kiểm nhà Minh, mẹ là Thuận Phi. Nàng là một nhân vật nổi tiếng thời Minh mạt. Thuận Phi không lâu sau khi sinh Trường Bình công chúa đã bị bệnh mà qua đời, công chúa được Chu hoàng hậu chăm sóc, nuôi nấng. Trường Bình công chúa vốn được phong là Khôn Hưng công chúa, về sau nhà Thanh đã cải phong cho nàng thành Trường Bình công chúa. Nàng thân là công chúa, tuy nhiên không được sống sung túc hơn người, lại gặp phải cảnh nước mất nhà tan, số phận bi thảm, không có mấy ai đoái hoài đến. Sau khi Lý Tự Thành tiến vào Bắc Kinh, vua Sùng Trinh chán nản, nhìn Trường Bình công chúa mà than rằng: "Chỉ trách số phận ngươi bất hạnh sinh ra trong hoàng tộc!" rồi cầm kiếm chặt đứt cánh tay trái của nàng. Nhà thơ Ngô Vĩ Nghiệp đã vì nàng mà viết Tư lăng Trường công chúa vãn thi:
Quý chủ mỹ âm mỹ
Tiền triều điển mạng quang
Hồng văn thùy viễn cận
Ai tru trước hưng vong
Năm Thuận Trị thứ hai, công chúa viết thư yêu cầu hoàng đế nhà Thanh để nàng được xuất gia làm ni cô. Thuận Trị không đồng ý, lại tuyển cho công chúa một vị phò mã là Chu Thế Hiển. Bởi công chúa không phải là nam nhi, không có người kế vị thì sẽ phải lập nàng làm hoàng đế, điều này là một mối đe dọa đối với nhà Thanh, vì vậy Thanh triều đã ban thưởng cho nàng rất hậu. Nhưng trong thâm tâm công chúa đã phải hứng chịu một nỗi đau quá lớn, chỉ một năm sau khi thành thân, nàng qua đời, lúc đó nàng đang mang thai tháng thứ năm. Nếu như là tại thái bình thịnh thế, nàng có thể sẽ giống phần lớn các nàng công chúa Minh triều khác, được sống bình yên đến hết đời, hưởng thụ biết bao vinh hoa phú quý. Tiếc rằng thời vận không thuận, nàng sinh ra trong buổi biến loạn cuối triều Minh, ngoài việc đành phải chấp nhận số mệnh, nàng còn có thể làm sao được nữa? Thật đáng thương thay, nàng đã không thể tự cứu được vận mạng của mình. Số phận nàng và Xảo Thư trong Hồng lâu mộng có nhiều nét tương đồng, song Xảo Thư vẫn còn may mắn hơn, đến cuối đã được già Lưu cứu giúp. Còn Trường Bình, liệu có ai cứu được nàng đây?


A Ba Hợi

A Ba Hợi sinh ra ở núi Trường Bạch, là con gái của Mãn Thái - vua Ô La Quốc, một trong 4 nước lớn mạnh nhất của bộ tộc Nữ Chân những năm cuối thời nhà Minh. Tới năm 1601, khi mới chỉ 14 tuổi, A Ba Hợi đã được gả cho Nỗ Nhĩ Cáp Xích, trở thành người vợ chính thức thứ 4 của ông vua triều Hậu Kim.
A Ba Hợi không chỉ xinh đẹp hơn người mà còn thông minh lanh lợi, giỏi đoán ý người khác, vì thế, ngay sau khi vào cung đã được Nỗ Nhĩ Cáp Xích yêu chiều hết mực. 2năm sau, khi Đại phi Diệp Hách Na La thị mắc bệnh qua đời, A Ba Hợi đã được Nỗ Nhĩ Cáp Xích lập làm Đại phi (tương đương với hoàng hậu).
Sự sủng ái mà Nỗ Nhĩ Cáp Xích dành cho A Ba Hợi thể hiện rất rõ qua việc A Ba Hợi liên tục sinh cho Nỗ Nhĩ Cáp Xích 3người con trai mặc dù khi đó, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã ở độ tuổi ngoài 50. 4năm sau khi vào cung, A Ba Hợi sinh cho Nỗ Nhĩ Cáp Xích đứa con trai đầu tiên, chính là hoàng tử thứ 12 A Tề Cách. Tiếp đó, A Ba Hợi lại sinh cho Nỗ Nhĩ Cáp Xích thêm hai người con trai khác là hoàng tử thứ 14 Đa Nhĩ Cổn và hoàng tử thứ 15 Đa Đạt.
Nỗ Nhĩ Cáp Xích cũng rất cưng chiều 3 đứa con do A Ba Hợi sinh ra, quyết tâm bồi dưỡng chúng thành những kỳ chủ của Bát kỳ. Dưới chế độ nhà Thanh, quân đội được phân làm 8 đơn vị khác nhau, gọi là Bát kỳ. Mỗi đơn vị này sẽ do một thân vương, thường là các hoàng tử nắm giữ, gọi là kỳ chủ. Sau khi ba anh em A Tề Cách, Đa Nhĩ Cổn và Đa Đạt lớn lên, Nỗ Nhĩ Cáp Xích giao cho họ mỗi người làm kỳ chủ một kỳ. Điều này cũng đủ thấy, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã ưu ái A Ba Hợi đến mức nào.
Mặc dù cuộc sống trong hậu cung của A Ba Hợi rất thuận lợi, song điều A Ba Hợi lo lắng nhất chính là việc sau này, khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích chết đi. Khi đó, Nỗ Nhĩ Cáp Xích tuổi đã gần 60, cũng không thể sống bao lâu được nữa. Trong lúc đó, A Ba Hợi lại còn rất trẻ, chỉ mới ngoài đôi mươi. Vì thế, A Ba Hợi quyết định tìm một chỗ dựa mới, làm đường rút lui cho mình phòng khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích nằm xuống.
A Ba Hợi quan sát thấy rằng, trong số các người con của Nỗ Nhĩ Cáp Xích thì hoàng tử cả Đại Thiện và hoàng tử thứ 8 Hoàng Thái Cực là hai người có triển vọng nối ngôi hoàng đế của Nỗ Nhĩ Cáp Xích nhất. Tuy rằng cả hai người đều là bậc con cháu nhưng về tuổi tác chỉnhỉnh hơn A Ba Hợi một chút. Hơn nữa, theo tập tục của người Nữ Chân, cha chết, con lấy mẹ cũng là chuyện thường.
Đại Thiện và Hoàng Thái Cực, mỗi người đều có ưu thế riêng. Đại Thiện là con cả, theo cả lý lẫn tình thì phải là người kế thừa ngôi Đại Hãn. Tuy nhiên, Hoàng Thái Cực lại là kẻ tinh ranh và cũng đang được Nỗ Nhĩ Cáp Xích rất mực sủng ái. Băn khoăn không biết chọn ai và cũng không biết người nào sẽ chấp nhận mình, A Ba Hợi bèn nghĩ ra một kế. Hôm đó, A Ba Hợi đích thân vào bếp, nấu hai bàn ăn, rồi sai người mang tới cho cả Đại Thiện và Hoàng Thái Cực.
Cả Hoàng Thái Cực lẫn Đại Thiện đều nhận món ăn của mẹ kế,không nhận sao được khi A Ba Hợi đang là người phụ nữ được Nỗ Nhĩ Cáp Xích sủng ái nhất trong hậu cung, chỉ một câu nói là có thể giết hàng ngàn mạng người. Tuy nhiên, thái độ của hai người lại hoàn toàn khác nhau. Hoàng Thái Cực nhận đồ ăn nhưng không hề động vào,trong khi đó, Đại Thiện thì vui vẻ ăn ngay.
Qua đó, A Ba Hợi thấyĐại Thiện dễ dàng tiếp nhận mình hơn và đã quyết định chọn Hoàng tử cả Đại Thiện. A Ba Hợi bản thân là một mỹ nữ tuyệt sắc, lại thêm thân phận là Đại phi, một khi chủ động tấn công thì một người ít cơ mưu như Đại Thiện khó mà chống đỡ được. Chẳng bao lâu sau, dẫu Nỗ Nhĩ Cáp Xích vẫn còn sống nhưng A Ba Hợi và Đại Thiện đã quấn lấy nhau không rời.
Người ta thường nói“cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”, quả không sai. Chuyện ngoại tình động trời giữa A Ba Hợi và Đại Thiện nhanh chóng bị phát giác. Năm 1620, một cung nữ trong hậu cung tố cáo A Ba Hợi nói: “Đại phi hai lần làm món ăn ngon mang tới cho Hoàng tử cả Đại Thiện, hoàng tử cả đều nhận và ăn.
Đại phi còn mang cả thức ăn tặng cho hoàng tử thứ 8, hoàng tử nhận nhưng không ăn”. Tiếp đó, cung nữ này còn khẳng định: “Đại phi mỗi ngày đều 2 – 3 lần tới nhà Hoàng tử cả Đại thiện, giống như bàn chuyện gì trọng đại lắm. Có hôm quá nửa đêm mà vẫn ra khỏi cung, tới nhà Đại Thiện”.
Nỗ Nhĩ Cáp Xích nghe cung nữ tố cáo, vô cùng tức giận. Người phụ nữ được ông phong làm Đại phi, được ông rất mực sủng hạnh lại dám ngoại tình với đứa con trai cả mà ông dự định sẽ chọn làm người kế nghiệp ngôi Đại Hãn? Một ông vua cả đời lăn lộn trên chiến trường, đánh chiếm không biết bao nhiêu bộ lạc, bao nhiêu đất đai, đến cuối đời lại bị chính đứa con trai mà mình yêu quý nhất “cắm sừng”, không đau đớn kể cũng lạ.
Đương nhiên, Nỗ Nhĩ Cáp Xích không phải là kẻ hồ đồ để mới chỉ nghe lời tố cáo của một cung nữ đã ra lệnh giết chết A Ba Hợi và Đại Thiện nên ông ra lệnh cho đại thần tâm phúc của mình, bí mật điều tra vụ ngoại tình loạn luân của Đại Thiện và A Ba Hợi.
Điều khiến Nỗ Nhĩ Cáp Xích đau lòng nhất chính là, kết quả điều tra cho thấy, tất cả những gì mà cô cung nữ nọ nói đều là sự thật. Theo điều tra, trong một bữa tiệc gia đình mà chính Nỗ Nhĩ Cáp Xích tổ chức, A Ba Hợi trang điểm cực kỳ lộng lẫy và liên tục đầu mày cuối mắt với Hoàng tử cả Đại Thiện. Những lần A Ba Hợi ra khỏi cung vào ban đêm, đều là tới nhà Đại Thiện và tới tận sáng hôm sau mới về cung.
Nghe xong báo cáo, Nỗ Nhĩ Cáp Xích vô cùng tức giận, tuy nhiên, suy đi tính lại, nếu việc này lộ ra, người xấu mặt nhất không phải là Đại Thiện, cũng chẳng phải là A Ba Hợi mà chính là ông. “Tốt đẹp khoe ra, xấu xa đậy lại”, ông vua nhà Thanh quyết định bí mật xử lý vụ ngoại tình giữa con trai và vợ.
Đầu tiên, Nỗ Nhĩ Cáp Xích thưởng công cho cô cung nữ nọ rồi dặn không được nói cho bất cứ ai khác về việc này. Tiếp đó, Nỗ Nhĩ Cáp Xích cho người kiểm tra tiền của mà A Ba Hợi đang cất giữ làm của riêng, phát hiện hơn 300 cuộn lụa. Theo luật lệ của triều Thanh lúc bấy giờ, giấu trộm lụa cũng là một tội. Do vậy, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã vin vào cớ đó, đuổi A Ba Hợi ra khỏi hậu cung.
Thế là sau gần 20 năm sống trong hậu cung nhà Thanh, A Ba Hợi mang theo 3đứa con trai mới hơn 10 tuổi, sống cuộc sống bình lặng. Tuy nhiên, việc đuổi A Ba Hợi ra khỏi cung chỉ là cơn tức giận nhất thời của Nỗ Nhĩ Cáp Xích chứ thực lòng, mặc dù biết A Ba Hợi có quan hệ bất chính với Đại Thiện, ông vua già vẫn không nỡ nào ra tay giết chết một mỹ nữ tuyệt sắc như A Ba Hợi. Chính vì thế, năm 1621, sau chưa đầy 2 năm rời khỏi hậu cung nhà Thanh, Nỗ Nhĩ Cáp Xích lại cho gọi A Ba Hợi về cung, khôi phục ngôi vị Đại phi.
A Ba Hợi qua được cửa ải của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, song cửa ải của Hoàng Thái Cực thì không. Năm năm sau đó, năm 1926, khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích qua đời, Hoàng Thái Cực mượn cớ thực hiện di nguyện của cha, ép A Ba Hợi phải tuẫn táng theo.
Không chỉ vậy, Hoàng Thái Cực cũng ra lệnh giết chết người cung nữ đã tố cáo A Ba Hợi, chôn vùi câu chuyện ngoại tình của A Ba Hợi và Đại Thiện vào lòng đất. Sau này, khi nhà Thanh đánh bại nhà Minh vào Trung Nguyên, Đa Nhĩ Cổn là người chấp chính đã phong cho mẹ mình thành Hiếu Liệt Hoàng hậu.


Hải Lan Châu

Thần phi tên Bác Nhĩ Tề Cát Đặc Cáp Nhật Châu Lạp, hán danh là Hải Lan Châu (Harjol). Bà là con gái của Trung thân vương Trại Tang- một bối lặc của bộ tộc Khoa Nhĩ Thấm ở Mông Cổ và là hậu duệ đời thứ 18 của Cáp Tát Nhĩ, em trai Thành Cát Tư Hãn. Thần phi còn là cháu gái của Hiếu Đoan Văn hoàng hậu Triết Triết và là chị gái của Hiếu Trang Văn Hoàng Hậu.
Năm Thiên Thông thứ tám (năm 1634), Hải Lan Châu nhập cung do Hiếu Đoan Văn hoàng hậu, Hiếu Trang Văn Hoàng Hậu đều sinh 3 người con gái, không sinh được con trai nối dõi có dòng máu Ái Tân Giác La và Bác Nhĩ Tề Cát Đặc. Năm Sùng Đức thứ nhất (1636) thành lập nhà Thanh, Hoàng Thái Cực lập ra Tứ Phi, Đại Ngọc Nhi thành hôn trước chín năm, nhưng là người có vị trí thấp nhất trong Tứ Phi, Hải Lan Châu đến sau chín năm, người đến sau lại là người có vị trí cao nhất trong Tứ Phi. Bà được phong là Thần phi, ở cung Quan Thưngụ tại Đông Cung. Với Hải Lan Châu,Hoàng Thái Cực có thể nói là rêu rao chỉ sợ thiên hạ không biết mình yêu nàng nhiều đến thế nào. Năm 1637, bà sinh hạ một hoàng tử nhưng đến năm 1638 thì chết yểu.
Năm Sùng Đức thứ sáu (1641), Hải Lan Châu qua đời ở tuổi 32 vì bệnh nặng sinh ra do nỗi đau mất con, được chôn tại Chiêu lăng ở Thẩm Dương. Sau khi chết bà được truy phong làm Mẫn Huệ Cung Hoà Nguyên phi. Bà còn là phi tần có thụy hiệu dài nhất trong suốt lịch sử nhà Thanh.


Đại Ngọc Nhi

Đại Ngọc Nhi là tên thật của Hiếu Trang hoàng hậu, người được mệnh danh là “đệ nhất mĩ nhân của tộc Mãn – Mông”.Cô cô của Ngọc Nhi xuất thân bát kỳ được làm chính phúc tấn của Hoàng thái cực . Ngọc Nhi và một hoàng đệ – thập tứ A Ca Đa Nhĩ Cổn là thanh mai trúc mã đã hẹn ước từ trước nhưng Hoàng thái cực vì si mê Ngọc Nhi đã ép cô làm phi tần.Đa Nhĩ Cổn ôm hận ” cướp ngôi vị,bức mẫu thân chết, đoạt nguời yêu”. Sau này HTC xưng đế mở ra triều đại nhà Thanh , chính phúc tấn Triết Triết đc làm hoàng hậu còn Ngọc Nhi phong làm Trang phi ở tại Vĩnh Phúc cung. Ngọc Nhi thân với Lan Châu như tỷ muội Tình cờ HTC trông thấ yLan Châu phải lòng phong làm Thần phi dành sự sủng ái tột bậc . Cả hai cùng sinh :con Thần phi kém cỏi yếu đuối , Ngọc Nhi sinh ra cửu a ca Phúc Lâm.Thần phi ôm hận trở bệnh nặng . HTC mê đắm thần phi nghe tin bỏ ngay chiến tuyến lập tức hồi kinh . HTC tức giận thổ huyết trút mọi oán giận lên Ngọc Nhi nhưng Ngọc Nhi vẫn lạnh lùng vô cảm, Hai năm sau, Hoàng Thái Cực bổng dưng băng hà, ,triều đình muốn lập mẹ con quý phi nhưng do Thế lực trong tay Đa Nhĩ Cổn quá lớn nên đưa con trai của Ngọc Nhi là Phước Lâm lên ngôi hoàng đế hiệu Thuận Trị để ĐNC làm Nhiếp Chính Vương ……
Ngọc Nhi đã là Hiếu Trang Hoàng Hậu. Hiếu Trang vì con trai và cơ nghiệp Đại Thanh, dùng nhu tình giữ chặt dã tâm xưng đế của Nhỉ Cổn, Hiếu Trang lúc đó tâm lực tiều tụy, trước cái chết của chồng, người yêu, con trai… nhưng vì giang sơn Đại Thanh, Hiếu Trang vẩn cố gắng phấn đấu, lập con trai của Thuận Trị làm vua, niên hiệu Khang Hy.
Xét về bản lĩnh , Hiếu Trang hoàng hậu còn cao hơn Từ Hy một bậc nhưng lại không có dã tâm thôn tính giang sơn của con cháu mình . Việc Hồng Thừa Trù đầu Thanh cũng có công sức không ít của nàng. Sau khi Hoàng Thái Cực băng hà, một mình nàng phải đấu tranh với rất nhiều thế lực chống đối để giữ vững ngai vàng cho con mình, trong đó nguy hiểm nhất là Đa Nhĩ Cổn. Trong 13 triều vua đời Thanh có nói, Hiếu Trang đã chấp nhận làm vợ Đa Nhĩ Cổn để y không làm hại đến vị thái tử còn non nớt


Tiểu Ngọc Nhi

Người em gái Đại Ngọc Nhi tên là Tiểu Ngọc Nhi cũng theo bà vào ở trong cung. Nàng cùng tuổi với Đa Nhĩ Cổn. Bởi vậy hai người có dịp gần nhau, sớm cũng như chiều lúc nào cũng gặp mặt thành thử đâm thân nhau. Đã thế Tiểu Ngọc Nhi cũng có một sắc đẹp nghiêng thành chẳng thua gì chị. Cả hai chị em đều có màu da trắng đẹp như ngọc, cho nên cha mẹ nàng mới dùng chữ Ngọc để đặt tên.
Một hôm, vào buổi trưa hè nhàn nhã, Văn hậu vừa ngủ trưa dậy, không thấy Đa Nhĩ Cổn và Tiểu Ngọc Nhi đâu.
Bà đoán biết cả hai lúc đó hẳn tới vườn hoa du ngoạn nên đem theo vài đứa cung nữ đi vào vườn. Đến một cây hòe cao có bóng rợp che khắp cả một góc, bà nhác thất Tiểu Ngọc Nhi lúc đang ngồi dưới gốc một cây cổ thụ, trên một phiến đá vuông cạnh bờ hồ và không biết vì lý do gì đã làm nàng buồn giận mà Đa Nhĩ Cổn phải chắp tay lạy nàng, trong khi nàng quay mặt đi chỗ khác chẳng thèm để ý đến. Văn hậu thấy thế tức cười, nói một mình:
- Con nhỏ này kỳ thật! Tính khí vẫn trẻ con quá!
Bà tìm một phiến đá vuông bên cạnh hồ ngồi xuống rồi bảo cung nữ gọi hai người lại. Đa Nhĩ Cổn chạy tới trước mặt bà, được bà kéo vào lòng. Cổn vội quỳ xuống đất ngửa mặt nhìn lên. Văn hậu đặt hai bàn tay lên vai Cổn, nhìn thẳng vào mặt chàng.
Mãi lúc đó bà mới khám phá ra Cổn quả lả một trang thiếu niên xinh đẹp, mày chàng xanh, mắt chàng sáng, môi chàng đỏ, răng chàng trắng, cái gì trong con người của chàng cũng đều đẹp, đều đáng yêu đáng quý. Thế rồi bà nhịn chẳng nổi nữa, cúi đầu xuống đặt một cái hôn say sưa lên môi chàng và nói:
- Này thúc thúc! Thúc thúc yêu nó phải không? Ta gả nó cho thúc thúc nhé?
Đa Nhĩ Cổn vốn tính xảo quyệt khôn ngoan, nghe lời bà xong liền dập đầu tạ ơn. Lúc đó, Tiểu Ngọc Nhi cũng đứng bên cạnh bà. Nàng yêu Cổn nên khi thấy chị mình hôn vào miệng người yêu của mình thì lòng nàng bỗng nhiên nổi ngược máu ghen. Sau đó nàng lại thấy chị nàng hứa gả nàng cho Đa Nhĩ Cổn thì má nàng bỗng ửng đỏ, rồi vì mắc cỡ nàng quay người chạy trốn một mạch.
Buổi tối hôm đó, Văn hậu đem ý định của mình nói cho Thái Tông hoàng đế nghe. Ông xiết bao mừng rỡ lập tức truyền lệnh cho Nội vụ đại thần xây cất ngay một toà lâu đài cho Thập tứ thân vương ngay sau Diễn Khánh cung để chuẩn bị cuộc vui mừng.
Qua năm sau, Đa Nhĩ Cổn và Tiểu Ngọc Nhi đều mười sáu tuổi. Hai người làm đại lễ. Thật là một cuộc vui muôn phần náo nhiệt. Vợ chồng Cổn – Ngọc từ ngày cưới quả đã được hưởng hạnh phúc hơn người. Tình ân ái càng sâu như bể cả.
Khi Hoàng Thái Cực băng hà, với tài thu xếp khéo léo tài ba cuả Hiếu Trang thái hậu, moị chuyện trong cung nhà Thanh, không có gì rắc rối và lộn xộn, con ruột cuả bà là hoàng tử thứ chín Phúc Lâm mơí có saú tuổi đăng cơ lên ngôi, niên hiệu là Thuận Trị hoàng đế. Duệ Thân Vương ,tức hoàng thúc Đa Nhĩ Cổn làm Nhiếp chính Vương , moị chuyện đâu vào lại vào đó , và bà Văn thái hậu tha hồ mà ngoại tình với Nhiếp Chính Vương, còn bà Tiểu Ngọc Nhi vì quá ghen , nên vào tận cưả Từ Ninh Cung chửi bới chị ruột mình ngoại tình với chồng mình , cho toàn thể thái giám và thị vệ nghe sau đó thì bà này bị chính Duệ Thân Vương Đa Nhĩ Cổn đầu độc chết tại nhà.

Tô Mạt Nhi

Tô Mạt Nhi là nhân vật mang đầy màu sắc truyền kỳ trong lịch sử Trung Quốc. Bà là người tộc Mông Cổ, sinh ra trong một gia đình du mục nghèo ở thảo nguyên Horqin vào những năm 1612. Tên gọi ban đầu của bà là Tô Mạt Nhi, hay Tô Mặc Nhĩ, cuối thời Thuận Trị hoặc vào thời Khang Hy thì đổi tên thành Tô Ma Lạt. Sau khi bà mất, trong cung đều tôn kính gọi bà là Tô Ma Lạt Cô. Tô Ma Lạt Cô có hai đặc điểm vô cùng khác người. Thứ nhất, bà suốt đời không tắm. Tô Ma Lạt Cô chỉ tắm trong đêm Trừ tịch cuối cùng của năm, nhưng cũng chỉ dùng một lượng nước rất ít để tắm. Thứ hai, bà suốt đời không uống thuốc, mặc cho bệnh tình nặng tới đâu bà vẫn không dùng bất kỳ loại thuốc nào.Tuy vậy sức khỏe của bà rất tốt. Bà sống thọ tới 90 tuổi.
Từ nhỏ Tô Ma Lạt đã thông minh xinh đẹp, nức tiếng gần xa, chính vì thế bà đã lọt vào mắt xanh của Khoa Nhĩ Thấm Bối Lặc Phủ và được lựa chọn làm hầu nữ thân cận cho Nhị tiểu thư của Bối Lặc Trại Tang. Nhị tiểu thư này không ai khác chính là Hiếu Trang Văn hoàng hậu tài sắc sau này. Năm 1625, mặc dù Nhị tiểu thư Bố Thái (tên thật của Hoàng hậu) mới 13 tuổi, nhưng đã mang dáng dấp của thiếu nữ xinh đẹp. Chính trong năm này, Bố Thái được huynh trưởng của mình là Ngô Khắc Thiện hộ tống tới đô thành Thịnh Kinh của Hậu Kim để thành thân với Bát Thái tử 34 tuổi của Hậu Kim, tức Hoàng Thái Cực. Hiếu Trang Văn hoàng hậu chính là mẹ vua Thuận Trị và là bà nội của vua Khang Hy nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Lại nói về Tô Ma Lạt Cô, bà cũng đi theo chủ nhân của mình tới Thịnh Kinh với vai trò là người hầu thân cận. Có thể nói, sau khi vào Bối Lặc Phủ, Tô Ma Lạt Cô đã được mở rộng tầm mắt, trình độ văn hóa cũng nhanh chóng được nâng tầm. Bà không chỉ thành thạo tiếng Mông Cổ mà còn nhanh chóng học được tiếng Hán và tiếng Mãn, hơn nữa bà viết chữ Mãn rất đẹp, vì vậy nhận được sự tán thưởng của mọi người trong cung. Tô Ma Lạt Cô được Hiếu Trang Văn chọn làm thầy dạy tiếng Mãn đầu tiên cho vua Khang Hy khi ông còn nhỏ. Tô Ma Lạt Cô được xem như người bầu bạn tâm giao sớm tối không rời của Hoàng hậu Hiếu Trang Văn. Sự gắn bó giữa họ trải suốt hơn 60 năm. Tình cảm của hai người phụ nữ ấy đã vượt xa thứ tình cảm chủ tớ thông thường. Năm 1687, tức năm Khang Ky thứ 26, Hoàng hậu Hiếu Trang Văn qua đời, để lại nỗi mất mát lớn trong lòng Tô Ma Lạt Cô. Bà rơi vào trạng thái tuyệt vọng, cô độc. Khi đó Tô Ma Lạt Cô đã là một bà lão hơn 70 tuổi. Hoàng đế Khang Hy biết rằng nếu tình trạng này vẫn tiếp diễn, sức khỏe của Tô Ma Lạt Cô sẽ bị đe dọa. Để giải tỏa nỗi buồn và sự cô độc đang chiếm ngự tâm hồn bà, Khang Hy đã giao Thập nhị hoàng tử Dận Đào chưa đầy 3 tuổi do Định Phi hạ sinh cho Tô Ma Lạt Cô chăm sóc. Theo luật lệ thời Thanh, chỉ có những người danh gia vọng tộc mới đủ tư cách chăm sóc Hoàng tử, từ đó có thể thấy sự coi trọng và tín nhiệm của vua Khang Hy dành cho bà. Vì muốn báo đáp hoàng ân của vua Khang Hy, Tô Ma Lạt Cô một lần nữa lấy lại tinh thần, đem hết sự yêu thương của người mẹ dành cho con để nuôi dưỡng Hoàng tử bé nhỏ. Dưới sự dìu dắt của Tô Ma Lạt Cô, hoàng tử đã trưởng thành nhanh chóng, sau này trở thành vị hoàng tử có đầu óc chính trị và vô cùng tài cán.

Bà qua đời vào ngày 24 tháng 10 năm 1705, tức năm Khang Hy thứ 44.

Thạc quý phi


Vua Thuận Trị có một phi tử  là Thạc quý phi, tuổi xuân mơn mởn, dung mạo tuyệt trần. Nhưng Thuận Trị không biết thương hoa tiếc ngọc, có khi vài tháng không sủng hạnh một lần. Thái giám vốn là Yêm nhân (hoạn quan) bị tịnh thân không có bộ phận sinh dục nên khó mà có thể có sự kích thích giới tính. Nhưng trong cung Nhân Hòa có một thái giám tên Vương Nhân không những không bị tịnh thân mà vẫn là một đàn ông đầy đủ khả năng sinh lý, vẫn có thể khiến phụ nữ mang bầu. Một hôm, Thạc quý phi mày chau ủ dột, tâm trạng buồn chán bèn kêu cung nữ đấm lưng, bóp chân. Khi cung nữ có việc phải ra ngoài nàng bèn gọi thái giám Vương Nhân đến thay. Vương nhân trắng trẻo thư sinh, về tướng mạo có thể nói là một anh tài. Hai người lâu dần nảy sinh tình cảm, ba tháng sau, Thạc quý phi có mang. Nàng cho Vương Nhân xuất cung âm thầm mua thuốc phá thai. Sau khi uống thuốc, đau đớn lăn lộn, bọn cung nữ sợ quá vội đi bẩm tấu với Hoàng thượng. Thuận Trị đích thân giá đáo cung Hòa An lệnh cho Thái y bắt mạch khám xét cẩn thận. Thái ý lắp ba lắp bắp nhưng cũng có câu rõ nhất: "Quý phi không có bệnh gì, ngọc thể suy nhược do sảy thai”. Thật nực cười đã mấy tháng, thậm chí cả năm không được sủng hạnh sao lại có mang mà sảy thai. Thuận Trị nổi trận lôi đình, hai ngày sau nàng Thạc quý phi treo cổ chết, Thái giám Vương Nhân cũng chết bất đắc kì tử.


Đổng Ngạc Phi

Người thân yêu nhất của Thuận Trị Đế



Năm 1657, nàng Đổng Tiểu Uyển hạ sinh con trai, chính là tứ hoàng tử Hoà Thạc Vinh Thân Vương. Thuận Trị định lập tứ hoàng tử làm Hoàng thái tử, nhưng không may hoàng tử đã chết yểu khi chưa đầy 1 tuổi. Cái chết của tứ hoàng tử đã khiến cho Đổng Ngạc Phi và Thuận Trị rất đau buồn. Đổng Ngạc Phi trở nên ốm yếu, bệnh tật liên miên. Nàng qua đời năm 1660 tại cung Thừa Càn khi mới chỉ 21 tuổi. Nhà vua đau lòng quá độ, truy phong nàng làm Hiếu Hiến Trang Hòa Chí Đức Tuyên Nhân Ôn Huệ Đoan Kính hoàng hậu, mặc dù vợ chính của ông ta, Hiếu Huệ Chương hoàng hậu, vẫn còn tại vị sờ sờ ra đó. Kể từ cái chết của nàng, Thuận Trị không tha thiết gì nữa, cuối cùng xuất gia đầu Phật. Sau khi diệc thệ,thi thể hỏa thiêu ở núi Cảnh Sơn.


Trinh phi Đổng Trọng Thị

Khi Thuận Đế băng hà, lòng căm ghét, hận thù của thái hậu đối với Đổng Ngạc Phi càng tăng lên gấp bội, bởi bà quả quyết rằng quá thương nhớ Đổng Ngạc Phi là nguyên nhân chính khiến con trai bà chết. Vì vậy tín mệnh của những người trong gia tộc  họ Đổng có nguy cơ bị đe dọa
Trinh phi Đổng Trọng Thị là em họ của Đổng Ngạc phi, khiếp nhược trước sự tức giận của Thái hậu Hiếu Trang và với mong muốn Thái hậu mở lòng từ bi, xóa bỏ hận thù, bảo toàn sinh mạng của toàn gia tộc, Trinh phi đã quyết định hy sinh, xin được tuẫn táng cùng Thuận Trị.
Năm đó, Trinh Phi vừa tròn 20 tuổi, trong vòng chưa đầy nửa năm đã mất cả chồng và người chị họ. Bi kịch hơn, Trinh Phi chưa bao giờ được hưởng sự sủng ái của Thuận Trị như chị họ Đổng Ngạc Phi. Vì vậy, việc tự nguyện tuẫn táng của nàng hoàn toàn không phải vì tình cảm đối với người chồng hoàng đế, mà thực chất là để tránh một cuộc báo thù gia tộc, mà nguồn gốc của nó chính là sự sủng ái quá mức của Thuận Trị đối với Đổng Ngạc phi.
Nhìn từ một khía cạnh khác, cái chết của Trinh Phi là vật hy sinh cho mối tình cảm giữa Hoàng đế Thuận Trị và Đổng Ngạc Phi. Sau này, Hoàng đế Khang Hy truy phong Trinh Phi làm Hoàng Khảo Trinh Phi. Đến Khang Hy năm thứ 20 (năm 1673), tục "tuẫn táng" trong lịch sử Trung Quốc mới biến mất hoàn toàn.


Lữ Tứ Nương

Tương truyền rằng, Lữ Tứ Nương là con gái của Lữ Lưu Lương, cũng có người nói là con gái của tiến sỹ Lữ Bảo - con trai của Lữ Lưu Lương. Trong vụ án Lữ Lưu Lương, bà đã cùng với mẹ mình và một người nô bộc trốn thoát được, vì để báo thù cho cha ông, đã học võ nghệ, sau đó xâm nhập hoàng cung, giết chết Ung Chính. 



Lệnh Hoàng quý phi

Lệnh Hoàng quý phi xuất thân từ Hán tộc Ngụy thị tên thật là Ngụy Tiểu Ngọc . Theo sử sách thì bà rất xinh đẹp, không những cầm kì thi họa, mà còn rất hiểu biết. Bà là một trong những phi tần được Càn Long sủng ái nhất, coi là tri kỉ bên mình. Năm 1745, lúc đó Ngụy thị 18 tuổi thì nhập cung, được phong làm Nguỵ Quý nhân, cùng năm đó được sắc phong làm Ngụy tần.
Năm 1766, hoàng hậu thứ hai của Hoàng đế Càn Long là Kế Hoàng hậu Ô Lạt Nạp Lạt thị qua đời. Hoàng đế Càn Long không sắc phong cho một phi tần nào làm Hoàng hậu nữa, nhưng Nguỵ Giai thị, với vai trò là phi tử có cấp bậc cao nhất, được giao quyền quản lí hậu cung và thực hiện nhiều bổn phận của Hoàng hậu. Bà thường cùng hoàng đế Càn Long đi tuần du phía nam sông Dương Tử, Thái Sơn và Nhiệt Hà.
Sự sủng ái của Càn Long dành cho Lệnh Phi được thể hiện cao nhất ở điểm lập con trai của bà là Thập ngũ A Ca lên làm vua, chính là vua Gia Khánh sau này.


Hương Phi

Hương Phi là một cung phi của hoàng đế Càn Long rất được sủng ái nhưng lại có ý định giết Càn Long để tế chồng. Có thuyết cho rằng Hương Phi chính là Dung Phi mà năm 1979 các nhà khảo cổ Trung Quốc phát hiện bài vị ở khu lăng tẩm Dụ Phi tại Đông Lăng, thành phố Tuân Hóa, tỉnh Hà Bắc. Sự thật như thế nào 
Theo nhà nghiên cứu sử học Trung Quốc Chung Lâm, Hương Phi hoàn toàn khác với Dung Phi mà nhiều người ngộ nhận. Hương Phi ra đời khoảng năm 1745 trong một gia đình nghèo khổ thuộc tộc Hồi, người Duy Ngô Nhĩ ở Khát Thập, khu tự trị Tân Cương. Cô gái có dung mạo tuyệt thế và trên người tỏa ra một mùi hương rất đặc biệt làm say đắm lòng người. Do đó nàng còn có tên là Y Phách Nhĩ Hãn (“Vua của mùi hương” theo phương ngữ Iparxan của người Duy Ngô Nhĩ).
Mới 10 tuổi Hương Phi đã được “hoàng đế” Hoắc Tập Chiếm Đại Hòa Trác đón về làm thiếp. Năm 1758, anh em Hoắc Tập Chiếm làm phản, hoàng đế Càn Long sai Triệu Huệ đem quân trấn áp. Tháng 11 năm sau thì dẹp yên. Hương Phi lúc ấy mới 14 tuổi bị bắt giải về kinh dâng cho Càn Long.
Hậu cung của Càn Long có hơn 40 người nhưng không ai có hương sắc kỳ lạ như Hương Phi nên Càn Long rất đẹp ý. Lúc ấy Hương Phi chưa biết chồng mình đã chết, cứ khóc than đòi gặp, trước hoàng đế vẫn không chịu hành lễ. Càn Long cho rằng nàng ấy sinh trưởng nơi biên ải, không hiểu nghi lễ triều đình, sai người đưa sang Tây Uyển nghỉ ngơi cho nguôi ngoai. Càn Long truyền lệnh chăm sóc Hương Phi thật chu đáo. Cho những thị nữ người Hồi giỏi chuyện đến hầu Hương Phi, khéo dùng lời khuyên bảo. Tất cả nơi ăn chốn ở của Hương Phi đều được làm đúng theo phong cách truyền thống của người Hồi, món ăn kiểu Hồi, trang phục kiểu Hồi, thậm chí xây cả một lễ đường Hồi giáo trong Tây Uyển… Nhưng Hương Phi không chút động lòng, nói rằng “nếu hoàng đế bức ta, ta sẽ dùng dao tự sát”, thậm chí còn nói sẽ không chết một mình mà phải giết “một người” để tế người chồng trước.
Theo Trung Quốc hoàng đế toàn truyện (NXB Giáo dục Sơn Đông, Trung Quốc 1996), phần “Cao Tông Ái Tân Giác La Hoằng Lịch”, mục “Hương Phi tuẫn tiết” có chép: Năm 1760 xảy ra cuộc phản kháng vũ trang lớn của người Hồi ở Ô Thập, Tân Cương, Càn Long hạ lệnh trấn áp thật nghiêm, cuộc chém giết lần này còn ác liệt hơn cuộc chiến trước đó, khiến vô số người Hồi mất mạng. Hương Phi biết tin rất bi thương, nung nấu ý định giết hoàng đế trả thù.
Giữa năm ấy, Càn Long hạ Giang Nam, du ngoạn Tô Châu, Hàng Châu, có đưa Hương Phi đi theo. Tại Hàng Châu, bị Càn Long cố tâm chiếm đoạt, Hương Phi rút dao ngắn trong tay áo đâm Càn Long nhưng không thành. Sự việc lộ ra, hoàng thái hậu Ô Thích Na La biết được, lập tức truyền giết Hương Phi, nhưng Càn Long không nghe. Hoàng thái hậu vô cùng tức giận dùng kéo cắt đi mái tóc của mình (đây là hành động đại kỵ của dân tộc Mãn Châu).
Mùa đông năm ấy, Càn Long đến Thiên đàn cử hành đại lễ tế cáo trời đất ở Viên Khâu, thái hậu sai người đưa Hương Phi vào cung Từ Ninh rồi ra lệnh khóa hết cửa lại, dù hoàng đế cũng không cho vào, hỏi Hương Phi rằng: “Ngươi trước sau không chịu khuất, vậy rốt cục là muốn cái gì?”, Hương Phi đáp: “Chỉ muốn chết mà thôi”, “Vậy hôm nay ta sẽ cho ngươi toại nguyện, thế nào?”, Hương Phi lập tức quỳ xuống dập đầu nói: “Thái hậu cho tôi được tròn chí nguyện, ơn đức lớn như trời đất”, nói rồi nước mắt như mưa, thái hậu sai đưa qua gian phòng đã có sẵn dây, Hương Phi treo cổ tự vẫn. Càn Long hay tin chạy về đến nơi thì Hương Phi đã ra người thiên cổ nhưng sắc diện vẫn tươi, da thịt vẫn thơm như lúc còn sống. Càn Long đau đớn vô cùng, cho táng Hương Phi theo nghi lễ phi tần. Càn Long về sau không lập hoàng hậu.


Các Thê thiếp của Hòa Thân

Phùng Tễ Văn - người vợ kết tóc se tơ với Hòa Thân. Nàng vốn là cháu gái của tể tướng Anh Liêm đương triều. Khi kết hôn, Hòa Thân còn chưa đăng quan đọc sách. Phùng Tễ Văn xuất thân danh giá, là con gái độc nhất của một gia thế Mãn Thanh. Tổ phụ nàng quản lý tài chính quốc gia và phụ trách các sự vụ trong cung đình và rất được Càn Long tín nhiệm. Nàng tính tình hiền dịu đoan trang, sau khi xuất giá an phận một lòng vì chồng, giáo dưỡng con cái. Nàng luôn quan tâm chăm sóc chu đáo cho Hòa Thân. Điều này khiến cho Hòa Thân chưa bao giờ dám làm điều gì ngông cuồng trước mặt nàng. Họ có hai người con, con cả lấy công chúa Hòa Hiếu cháu đời thứ 12 của Càn Long, con thứ không may chết yểu vào năm Gia Khánh nguyên niên. Đau đớn tột cùng nên cơ thể lâm trọng bệnh, đến năm thứ 3 Gia Khánh tức 1798 thì nàng qua đời, thọ 47 tuổi. Đám tang được tổ chức vô cùng long trọng, các vương công đại thần trong triều đều có mặt.

Trường Nhị Cô- là tiểu thiếp trong phủ của Hòa Thân, khi vào phủ được ở cùng khu với Phùng Tễ Văn nên trong phủ được gọi là Mợ Hai. Đây có thể nói là người được Hòa Thân vô cùng tín nhiệm bởi nàng rất giỏi quản lý tài chính và chuyên phụ trách tài chính của Hòa gia. Nàng là người rất thông minh và có chủ kiến, mỗi khi Hòa Thân gặp phải chuyện đau đầu đều tìm nàng bàn bạc vì thế nàng là người có quyền lực nhất trong Hòa phủ. Nàng vốn xuất thân nghèo khổ thấp hèn, năm 11 tuổi đã bị đến phủ của Tào Tư Viên ở Hình bộ làm nô tì. Ở đây nàng không những học được quản lý tài chính mà cầm kỳ thi họa đều tinh thông. Nàng càng lớn càng xinh đẹp lại đa tài nên được Tào Tư Viên lập làm thiếp. Vì cứu thân nên ông ta đã dâng nàng cho Hòa Thân. Hòa Thân gặp nàng thì mê mệt vì sắc đẹp và ngưỡng mộ về tài năng nên sau này nàng đã trở thành cánh tay đắc lực của Hòa Thân.

Ngô Khanh Liên- là một tài nữ nổi tiếng Tô Châu Giang Nam, vốn là ái thiếp của Vương Đản Vọng - quan Bố Chính Cam Túc, hậu nhiệm tuần phủ Chiết Giang. Nàng là người nổi tiếng có phong thái uyển chuyển, ăn nói khôn khéo, cầm kì thi họa đều giỏi nên làm say mê biết bao người, rất được các bậc mày râu yêu chiều, nhất là sau khi nàng đến sống tại Bảo Ngọc lâu các xây bên bờ Tây Hồ, Hàng Châu. Năm thứ 16 Càn Long, Vương Đản Vọng và các quan lại địa phương dính vào vụ án tham ô lớn và bị giết, tài sản bị tịch thu, nàng được Thị lang Tưởng Tích đưa về phủ, sau này vì muốn câu kết với Hòa Thân nên đã dâng nàng cho Hòa Thân. Sau khi về Hòa gia, nàng cùng với Trường Nhị Cô quản lí tài chính cho nội phủ, nàng cũng có tài trong quản lí tài chính và trở thành cánh tay đắc lực không thể thiếu của Hòa Thân.

Đậu Khấu- mĩ nữ Dương Châu, là một trong những “Tiến hiến mĩ nữ” được Uông Như Long thương gia buôn muối Dương Châu dày công nuôi dạy. Nếu so với các mỹ nữ trong phủ Hòa Thân thì nàng còn đa tài hơn nhiều. Năm đó, Hòa Thân cùng Càn Long đi tuần thú Giang Nam, khi Uông Như Long dâng mĩ nữ cho hoàng đế thì cũng dâng Đậu Khấu cho Hòa Thân làm cống phẩm. Bản tính háo sắc của Hòa Thân trỗi dậy, nên chẳng có gì lạ khi đại giai thần mới gặp đã mê mệt nàng. Ngày 18/01 năm thứ tư Gia Khánh, khi nghe tin Hòa Thân bị chết trong ngục, nàng vô cùng đau đớn, sau khi làm một bài thơ liền nhảy lầu tự vẫn.

Nạp Lan-Trên danh nghĩa là con nuôi của Hòa Thân nhưng thực tế là nhân tình của ông ta. Bố của Nạp Lan là Tô Lăng Á. Khi nàng lên 13, 14, Tô Lăng Á đang làm đạo đài ở Nhiêu Quảng Giang Nam. Ông ta ngày đêm nuôi mộng đến Bắc Kinh làm quan lớn nên mới câu kết với Hòa Thân và dâng con gái như hoa như ngọc của mình làm con nuôi cho ông ta. Sau một đêm phong tình với Hòa Thân thì đôi bên đều có lợi của mình. Cha nàng được điều đến Kinh thành làm thị lang ở sử bộ, sau này dần dần lên cao. Hòa Thân và Nạp Lan lúc nào cũng quấn quýt, ông ta cũng rất muốn cưới nàng đưa về phủ nhưng không thể đổi được chữ “con nuôi” đã nhận, sợ người đời dị nghị thế là đành đối đãi với nàng dưới cái danh nghĩa mập mờ "cha - con".

Hắc Mai Khôi-Nàng cũng là một mĩ nữ được thương nhân buôn muối Uông Như Long dâng tặng làm cống phẩm khi Hòa Thân cùng Càn Long xuống Dương Châu Giang Nam. Nàng có nước da bánh mật mịn láng như lụa, cơ thể căng tràn sức sống, dáng người uyển chuyển thướt tha. Hắc Mai Khôi đã hớp hồn Hòa Thân trong suốt thời gian dài. Sau này, vào cuối đời Càn Long có luật cứ đến mùa xuân hậu cung sẽ cho một số cung nữ được xuất cung, Hòa Thân bèn lợi dụng cơ hội này, đút lót thái giám tổng quản. Nhờ vậy, nàng hợp tình hợp lẽ được xuất cung và về sống tại biệt thự Thục xuân viện của Hòa Thân. Hai người thoải mái gặp gỡ. Sau này, Hòa Thân đưa nàng về phủ làm thiếp. Đây chính là mĩ nữ được nhắc đến trong 20 tội trạng mà Gia Khánh xử Hòa Thân có tội “nạp xuất cung nữ tử vi thứ thê”.

Tiểu Oanh và Tử Yến -cũng giống Hắc Mai Khôi đều là cống phẩm của quan lại Giang Nam. Lúc đó Hòa Thân hộ tống Càn Long đi tuần Giang Ninh, khi đến hỏi thăm tình hình ở bên sông Tần Hoài tổng đốc Lưỡng Giang và chủ xưởng dệt Giang Ninh bèn sắp xếp danh kĩ tập trung trên thuyền vô cùng náo nhiệt. Tối hôm đó, bọn họ còn cống cho Càn Long hai nàng giai nhân tuyệt sắc Giang Nam. Nàng Tiểu Oanh đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Còn nàng Tử Yên cũng là trang quốc sắc thiên hương. Điều này làm Hòa Thân thèm nhỏ dãi, cũng khiến ông ta nổi cơn thịnh nộ, cuối cùng bọn họ phải cống cho Hòa Thân mười mấy vạn lượng bạc mới yên thân. Hòa Thân không thôi tơ tưởng hai nàng bao nhiêu năm, mãi về sau cũng giống như nàng Mai Khôi, đợi hai nàng xuất cung ông ta bèn đón vào phủ làm thiếp.



Vương Thông Nhi - diệt trừ tham quan

Thời Hòa Thân nhũng nhiễu, vương triều nhà Thanh vô cùng thối nát, quan lại địa phương tham ô ngang ngược, dân chúng oán thán khắp nơi. Giáo phái Bạch Liên giáo lại rất thịnh hành. Thủ lĩnh Bạch Liên giáo ở Tương Dương là Tề Lâm năm 1796 định khởi nghĩa thì bị lộ, quan phủ vây ráp và rồi bị sát hại.
Tề Lâm có người vợ trẻ là Vương Thông Nhi, giỏi giang võ nghệ, quyết tâm báo thù cho chồng và những người đã tham gia khởi nghĩa. Không đầy năm tháng sau khi tổ chức lại đội ngũ, Vương Thông Nhi và các thủ lĩnh khác chỉ huy đội ngũ tấn công quan tham khắp nơi. Cuộc khởi nghĩa lan rộng thu hút nhiều dân nghèo tham gia.
Vua quan nhà Thanh bấy giờ áp dụng kế sách xây thành đắp lũy, đẩy dân vào bên trong thành lũy khiến nghĩa quân không có sự giúp đỡ. Kết quả là hoạt động của quân khởi nghĩa ngày một khó khăn. Qua nhiều trận đánh, nghĩa quân bị tổn hại lớn. Vương Thông Nhi trong hiểm nguy không hề nao núng, bình tĩnh chỉ huy nghĩa quân rút lui. Tuy nhiên, tại Hồ Bắc, nghĩa quân lọt vào vòng vây trùng điệp của quan quân, dù chống cự ngoan cường nhưng thất bại. Vương Thông Nhi lao mình xuống vực, hy sinh anh dũng.



Trịnh Nhất Tẩu (1785-1844)

Trịnh Nhất Tẩu tên thật là Thạch Hương Cô. Hương Cô sinh năm 1775 tại một đảo nhỏ thuộc vịnh Quảng Châu, Trung Quốc. Cho đến nay, người ta vẫn không rõ gia cảnh và lai lịch của Thạch Hương Cô.Chỉ biết rằng, Hương Cô nổi danh là người con gái có nhan sắc và nhanh chóng trở thành một kỹ nữ nổi tiếng nhất vùng bởi dung mạo xinh đẹp, hấp dẫn của mình.Cũng chính nhan sắc này đã đưa đẩy cuộc đời của Hương Cô đến với người chồng là tên tướng cướp khét tiếng Trịnh Nhất và sau đó trở thành nữ cướp biển nổi danh đất Trung Hoa.
Chuyện là vào những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, Trịnh Nhất là một trong những tên cướp biển “có máu mặt”. Sau một thời gian bôn ba khắp bốn phương, Trịnh Nhất đến sống tại hòn đảo nhỏ - nơi Hương Cô sinh sống. Thường xuyên qua lại chốn lầu xanh, Trịnh Nhất quen và si mê sắc đẹp của Hương Cô.Việc Hương Cô trở thành vợ của Trịnh Nhất có nhiều giai thoại khác nhau. Một số chuyện kể lại rằng, trước tấm chân tình của Trịnh Nhất, Hương Cô cũng đem lòng yêu tên tướng cướp tuy hung bạo nhưng lại rất dịu dàng và thương yêu mình nên đã quyết định trở thành vợ của Trịnh Nhất.Lại có chuyện kể rằng, Hương Cô vì muốn thoát khỏi cuộc sống lầu xanh nên đã bằng lòng theo Trịnh Nhất sống cuộc đời lênh đênh trên sóng nước của một tên cướp biển. Trong khi đó, cũng không ít câu chuyện lại nói là Trịnh Nhất đã bắt cóc Hương Cô vì quá si mê sắc đẹp của kỹ nữ này.Tuy nhiên, dù vì bất cứ lí do nào thì cuối cùng, cô kỹ nữ nổi danh xinh đẹp Thạch Hương Cô cũng trở thành vợ của tên cướp biển Trịnh Nhất. Hôn lễ tổ chức vào năm 1801. Cũng từ đây, cái tên Thạch Hương Cô dần đi vào quên lãng mà thay vào đó là cái tên Trịnh Nhất Tẩu.
Sau khi trở thành vợ cướp biển Trịnh Nhất, Trịnh Nhất Tẩu đã đóng góp rất nhiều công sức cho “sự nghiệp” làm cướp biển của chồng mình.Thành tích quan trọng của Trịnh Nhất Tẩu với chồng trong những năm đầu tiên về làm vợ cướp biển là thống nhất các phe nhóm hải tặc vốn xưa nay chống đối và mâu thuẫn với nhau trở thành một tổ chức thống nhất với những quy định chặt chẽ.Từ năm 1801 đến năm 1806, trong khoảng thời gian 6 năm chung sống, Trịnh Nhất Tẩu đã hỗ trợ cho chồng mình, cùng nhau xây dựng lên một “đế chế” hải tặc hùng mạnh, thao túng toàn bộ vùng biển phía Nam Trung Quốc cho đến lãnh hải của đất nước Malaysia.
Khi “sự nghiệp” cướp biển đang phát triển một cách hùng mạnh thì bất ngờ vào năm 1807, Trịnh Nhất qua đời, Trịnh Nhất Tẩu trở thành góa phụ.Với 6 năm kinh nghiệm gắn bó bên người chồng cướp biển, trở thành “quân sư” cho các chính sách và hoạt động của đoàn quân cướp biển hùng mạnh nên Trịnh Nhất Tẩu đã nhanh chóng thâu tóm quyền lực về tay mình.Để hỗ trợ cho bản thân trong việc lãnh đạo đoàn quân cướp biển quá lớn này, Trịnh Nhất Tẩu trao chức thuyền trưởng hạm đội cho Phó tổng tư lệnh Trương Bảo. Vậy là từ đó, Trịnh Nhất Tẩu chính thức trở thành thủ lĩnh của đội quân cướp biển với số lượng đông đảo bậc nhất đất Trung Hoa lúc bấy giờ.Trịnh Nhất Tẩu và Trương Bảo phối hợp với nhau khá ăn ý trong việc lãnh đạo và kiếm tiền từ đội quân cướp biển của mình. Trong khi Trương Bảo thống lĩnh đội quân cướp thì bà Trịnh tập trung vào việc kinh doanh, thiết lập chiến lược quân sự.
Có dáng vẻ bề ngoài nhỏ bé, xinh xắn song Trịnh Nhất Tẩu thực sự là người đàn bà thép, đầy tham vọng với tư duy hết sức mạch lạc. Có không ít giai thoại kể lại rằng, trong nhiều trận chiến, thay vì cầm kiếm, Trịnh Nhất Tẩu chỉ cầm quạt, song khí thế toát ra từ người phụ nữ này thì không thua kém bất cứ một đấng nam nhi nào.Với những quy định nghiêm ngặt và rất có đầu óc tính toán, đội quân cướp biển của Trịnh Nhất Tẩu đã trở thành lực lượng đầy “thanh thế”. Khi lực lượng mạnh, không chỉ phát triển trên biển, Trịnh Nhất Tẩu còn có tham vọng tiến sâu cả vào đất liền.
Trịnh Nhất Tẩu thiết lập một mạng lưới gián điệp rộng khắp trên đất liền nhằm nắm bắt một cách nhanh nhất những thông tin về các chuyến thuyền ra khơi cũng như hoạt động của chính quyền.Cùng với đó, Trịnh Nhất Tẩu còn liên kết với các địa chủ, chúa đất để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm cho đội quân cướp biển của mình.Bởi các hoạt động cướp bóc, giết hại, thao túng toàn bộ vùng biển lớn mà Trịnh Nhất Tẩu đã bị triều đình nhà Thanh tổ chức vây bắt nhiều lần với sự giúp sức của quân tiếp viện Bồ Đào Nha và Anh.Tuy nhiên, trong hầu hết các trận đánh, Trịnh Nhất Tẩu đều thắng lợi bởi sự tính toán khôn ngoan trong các bước đi của mình.
Phải đến năm 1810, khi một tướng lĩnh người Nhật mà bà vô cùng tin tưởng mang quân đầu hàng triều đình cùng với lời dụ hòa để đổi lấy tự do của quân đội nhà Thanh được đưa ra, Trịnh Nhất Tẩu mới quyết định “gác kiếm”.Nhưng chính trong “canh bạc” cuối cùng này, Trịnh Nhất Tẩu vẫn thể hiện được bản lĩnh ngoại giao của mình khi thương thuyết thành công, đảm bảo cuộc sống và tính mạng cho phần lớn đội quân cướp biển của mình.Trong số hơn 80.000 tên cướp biển, chỉ có 126 người bị xử tội chết, 400 người chịu các tội khác nhẹ hơn.

 Về phía Trịnh Nhất Tẩu, sau khi đầu hàng triều đình, Trịnh Nhất Tẩu trở về sinh sống tại đất liền.Lúc này, thuyền trưởng hạm đội Trương Bảo, người đã sát cánh cùng với Trịnh Nhất Tẩu trong nhiều năm cũng quyết định gắn cuộc đời mình với nữ tướng cướp khét tiếng này.Trịnh Nhất Tẩu và Trương Bảo mở một sòng bạc kiêm nhà chứa để sinh sống. Hai người có với nhau một đứa con trai. Đến năm 1844, Trịnh Nhất Tẩu mất, hưởng thọ 69 tuổi, kết thúc cuộc đời của nữ cướp biển khét tiếng đất Trung Hoa.



Từ An Thái hậu

Từ An Thái hậu sinh ngày 20 tháng 8 năm 1837, vào năm Đạo Quang thứ 17, người bộ tộc Niuhuru (Nữu Hỗ Lộc thị) Mãn Châu, thuộc Tương Hoàng kỳ. Thân phụ của bà là Mục Dương A, được phong tước hiệu Thừa Ân Tam đẳng công.
Bà vào cung ngày 25 tháng 5 năm 1852. Bấy giờ chánh thất của Hàm Phong là Hiếu Đức Hiển Hoàng hậu đã qua đời được 2 năm, vì vậy, khi vừa nhập cung, bà được phong tước hiệu Trinh Tần ,hàm chính tứ phẩm; chỉ 1 tháng sau thăng làm Trinh Quý phi ,chính nhị phẩm; ngày 24 tháng 7 năm 1852, bà được sắc phong làm Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu, quản lý hậu cung.
Xuất thân thế tộc, chịu một sự giáo dục rất tốt, nhan sắc xinh đẹp cùng nhân đức cao cả của mình, mặc dù không sinh được người con nào, bà vẫn được sự sủng ái của vua Hàm Phong cùng sự kính trọng của các cung tần mỹ nữ ở hậu cung dưới sự cai quản của bà, thậm chí của cả hoàng tử Tải Thuần, người mà sau này trở thành hoàng đế Đồng Trị, dù không phải con đẻ của bà.
Vào năm 1861, vua Hàm Phong băng hà, bà cùng với Ý tần được triều thần tôn làm Hoàng thái hậu cùng 8 vị Cố mệnh đại thần cùng nhau xử lý công việc triều chính theo di huấn của Hàm Phong vì vua Đồng Trị mới lên ngôi còn quá nhỏ tuổi. Bà được tôn là Từ An Thái hậu, còn gọi là Đông thái hậu, còn Ý Tần, vì là mẹ ruột của vua, được tôn là Từ Hy Thái hậu, hay Tây Thái hậu.
Thái hậu Từ An là người đại diện cho "đức" và Từ Hy là "tài". Công việc do bà Từ Hy xử lý nhưng những việc trọng đại thì phải thông qua quyết định của Từ An thái hậu. Điều đó cho ta thấy vai trò của bà vô cùng to lớn trong triều và Từ Hy vẫn phải tôn trọng ý kiến của bà. Tuy không phải mẹ ruột của Đồng Trị nhưng tình cảm và sự nể phục của Đồng Trị dành cho bà thâm chí còn lớn lao hơn cả Từ Hy. Bà là đại diện cho lòng nhân đức, xứng đáng là bậc mẫu nghi thiên hạ.
Năm 1861, hai Hoàng Thái hậu cùng với cung thân vương Dịch Hân phát động cuộc đảo chính, bắt giam tám đại thần, đoạt được quyền triều đình, trong lịch sử Trung Quốc gọi là "Đảo chính Tân Dậu". Cuộc đảo chính này thực sự là do dã tâm thâm độc của Từ Hy Thái hậu nhằm làm ngược lại di huấn của Hàm Phong. Nhờ mồm mép khéo léo, bà đã lôi kéo và được sự ủng hộ của Từ An. Đây có thể cho là một sai lầm của Từ An lúc bấy giờ. Nếu bà kiên quyết làm theo di chúc tiên đế thì đã không xảy ra cuộc "Đảo chính Tân Dậu".
Trong suốt thời gian giữ cương vị Thái hậu, Từ An có những thành quả to lớn cho sự ổn định triều đình lúc bấy giờ như trọng dụng nhân tài không phân biệt Mãn Hán như Tăng Quốc Phiên, Tả Tôn Đường, Lý Hồng Chương... Bà xử tử Thái giám lộng quyền An Đắc Hải được Đồng Trị cũng như triều thần ủng hộ. Bà lập Hoàng hậu cho Đồng Trị khi nhà vua đủ tuổi trưởng thành... Có thể thấy địa vị, lòng nhân đức và sức ảnh hưởng của bà đối với triều đình lúc bấy giờ là vô cùng to lớn. Sự tồn tại của bà góp phần kiềm hãm được dục vọng và tham vọng của Từ Hy.
Ngày 8 tháng 4 năm 1881, bà qua đời không rõ lý do ở tuổi 45. Cái chết của bà đặt lên nhiều nghi vấn vì trước đó một ngày bà cảm thấy mệt trong người, hôm sau liền qua đời. Nghi vấn về sự liên quan của Từ Hy trong cái chết của bà là không tránh khỏi. Có lời đồn cho rằng chính Từ Hy đã thủ tiêu bà vì bà có di chiếu bí mật của hoàng đế Hàm Phong để lại trước khi băng hà. Tương truyền rằng trong di chiếu đó hoàng đế Hàm Phong yêu cầu phải giết Từ Hy nếu Từ Hy gây ra bất kỳ vấn đề gì. Sau nhiều năm Từ An cho Từ Hy xem di chiếu, sau đó thì đốt. Tối hôm ấy Từ An chết


Từ Hy Thái hậu

Từ Hy Thái hậu tên thực là Lan Nhi, là một cô gái người Mãn, cha là Huệ Trưng làm hải quan đạo ở Vu Hồ thuộc dòng họ Na Lạp. Trước đây khoảng đầu thế kỷ XVII, dòng họ này đã có một cô gái là Hiến Trang hoàng hậu, vợ của Thanh Thái Tông.
Ít lâu sau, Lan Nhi cùng gia đình về Bắc Kinh. Nhà ở Tây Trì tử (một dinh thự cũ). Càng lớn, Lan Nhi càng xinh đẹp, có duyên, thông minh và cực kỳ nhạy bén trong cách làm cho người khác chú ý đến mình.
Khi chưa vào cung, Lan Nhi đã yêu một chàng trai cùng dòng họ Mãn tên là Vinh Lộc khi đó giữ một chức quan nhỏ.
Mười lăm tuổi được tuyển làm cung phi cho Hàm Phong (khoảng thập niên 50 thế kỷ XIX), không bao lâu sau đã được vua sủng ái. Hoàng hậu là Từ An phát ghen, nhưng không làm gì được, vì bà chưa có con với nhà vua.
Nhất là khi có tin quý phi Lan Nhi có thai, vua Hàm Phong càng thêm chiều chuộng, ở lì vườn Viên Minh mấy tháng không về nội điện…đến nỗi Lan Nhi phải năn nỉ khóc lóc vua mới chịu về.
Khi về tới Bắc Kinh, vua Hàm Phong cho xây riêng một cung điện để Lan Nhi ở, lại cho các thái giám và cung nữ luôn luôn bên cạnh. Vì trong thời gian này, Lan Nhi luôn luôn đau ốm. Còn vua vốn là người ham mê tửu sắc, đã lén ra ngoài thành chơi gái để đến nỗi mắc bệnh lậu.
Có tư liệu chép rằng: Thực ra Lan Nhi không có thai, mà nàng giả dạng để hòng chiếm ngôi hoàng hậu sau này, bởi lẽ nàng biết nhà vua hiếu sắc bệnh tình kia cũng chẳng thọ được bao lâu nữa…
Số là trong vườn Viên Minh, có một cung nữ họ Sở rất đẹp, một hôm ngẫu nhiên gặp vua Hàm Phong dưới rặng hoa, và cuộc mây mưa phút chốc đã xảy ra. Hàm Phong đã lâu chưa được gặp người con gái lạ, nay gặp cô gái Hán sinh đẹp này, nên chỉ một buổi chiều mà giao hoan mấy lần.
Sau đó, vua Hàm Phong quên bẵng đi. Nhưng cung nữ họ Sở lại có mang…Tin đó lan đến tai Lan Nhi. Thế rồi cung nữ họ Sở được bí mật đưa vào nội ở cho đến khi sinh được con trai thì người mẹ họ Sở cũng "qua đời" luôn. Đồng thời, từ đó trong cung nơi Lan Nhi đau ốm thường xuyên gần 8, 9 tháng trời, có tin mừng dâng lên nhà vua, Lan Nhi sinh con trai, và Lan Nhi từ Quý nhân được phong luôn làm Quý phi.
Vau Hàm Phong qua đời (1862), "con trai" của Lan Nhi lên ngôi tức vua Đồng Trị. Vì vua còn ít tuổi cho nên 2 bà thái hậu giải quyết triều chính, một là Từ An (Đông cung), hai là Từ Hy (Tây cung). Do đó, Từ Hy Thái hậu còn được gọi là Tây Thái hậu.
Vua Đồng Trị rốt cuộc cũng chỉ là bù nhìn, và cũng lại lén ra ngoài chơi gái, nên bị bệnh lậu khủng khiếp. Biết không qua khỏi, Đồng Trị định lập một con thân vương khác nối ngôi. Nhưng mưu này đã bị Từ Hy Thái hậu biết trước. Bà cũng tìm cách làm cho Từ An Thái hậu cũng đồng ý lập đứa con trai mới bốn tuổi, con Thuần thân vương lên làm vua nối ngôi…
Đứa con bốn tuổi của Thuần thân vương (vợ Thuần là em gái Từ Hy), theo dã sử, đứa bé này chính là con đẻ của Từ Hy. Đầu đuôi câu chuyện như sau: Tây Thái hậu thích ăn một món ăn do "Kim Hoa phạm điểm" cung cấp. Quán này có một người làm công trẻ tuổi đẹp trai họ Sử. Sử tìm cách thân quen với thái giám Lý Liên Anh, và được Lý cho theo vào nội cung chơi. Có một lần Sử theo Lý Liên Anh tới cửa cung Canh Hòa thì gặp Từ Hy Thái hậu. Bà ta liền cho giữ gã Sử ở lại cung để hầu hạ rồi sinh ra một đứa bé giống Sử như đúc. Kết quả là sau khi sinh, đứa bé được chuyển ngay tới nhà Thuần Vương để nuôi nấng. còn bố nó họ Sử thì cũng bị xử tử ngay khi đứa con chào đời.
Sau khi vua Hàm Phong qua đời, Từ Hy Thái hậu nối lại mối quan hệ với Vinh Lộc (cho lên chức, cho vào cung) và lại gả cho một cung nữ được bà quý mến là Ý Phi (có sách chép là Mai Thư). Một cuộc tình duyên tay 3 diễn ra, Ý phi cũng biết nhưng không dám nói, vì gia đình nàng bị bà ta giết sạch, bà ta chỉ cứu sống một mình nàng.
Ngoài ra, Từ Hy Thái hậu còn lôi cả kép hát vào cung riêng, có lần 5, 6 ngày đêm liền. Một lần bị Từ An bất chợt bắt gặp cả 2 đang lõa lồ trong màn. Gã kép hát họ Kim trần truồng bị lôi cổ ra người chém đầu luôn. Từ Hy rất cay, sau đó ít lâu, Từ An bị ngộ độc thức ăn chết ngay trong bữa.
Tuổi tuy nhiều, nhưng Tây Thái hậu vẫn khỏe mạnh, nhiều đòi hỏi về nhục dục. Cuối đời bà lại mê đạo sĩ Đồng Nguyên. 
Song tội ác lớn nhất của Từ Hy Thái hậu là đã làm mất chủ quyền dân tộc, làm cho Trung Quốc trở thành xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến. Trong suốt 48 năm Từ Hy Thái hậu thâu tóm quyền lực trong tay, triều đình nhà Thanh đã ký với các nước đế quốc một số điều ước, hiệp ước ghi nhận sự mất chủ quyền dân tộc của Trung Quốc.
Lần lượt triều đình đã ký các hòa ước với Nga, Anh, Pháp, Nhật, Đức, ý, áo... Điển hình là Điều ước Mã quan ký với Nhật Bản, Điều ước Tân Sửu ký với liên quân 8 nước đế quốc. Các điều ước này thừa nhận Trung Quốc phải cắt đất và bồi thường chiến phí rất nặng.
Nguồn blog.zing.vn ; thienvuthancung.wordress.com; vietbao.vn; nguoiduatin.vn; vnca.cand.com.vn; maxreading.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved