Triệu Phi Yến
Triệu Phi Yến tên thật là Triệu Nghi Chủ (do có tài múa rất hay, điệu múa nhẹ nhàng uyển chuyển như bay như lượn tựa chim yến nên gọi là Phi Yến), là một trong hai đại mỹ nhân của triều đại nhà Hán bên cạnh người đẹp Vương Chiêu Quân. Nàng là người có liên quan đến một giả thuyết về xuất xứ của tục bó chân.
Dưới đời Hán Thành Đế, Triệu Phi Yến được phát hiện ra trong một dịp vua do muốn tìm mỹ nhân trong thiên hạ, tình cờ ngự giá sang phủ của công chúa Dương A. Vua sửng sốt trước vẻ đẹp kiều diễm của bà vì lúc ấy Phi Yến chỉ vừa mười tám tuổi, giọng nói thánh thót nhẹ nhàng khiến vua say đắm.
Trái ngược với đại mỹ nhân Vương Chiêu Quân là một cô gái hy sinh vì nước để giữ gìn sự trinh trắng của mình, Phi Yến trước khi về với Hán Thành Đế đã từng là một người phụ nữ lẳng lơ, sau này người ta cho rằng do bà nhiều lần ăn nằm với tình lang của mình rồi mới về với vua, nên trong đêm ân ái đầu tiên với Hán Thành Đế, Triệu Phi Yến đã dùng thủ đoạn "lạc hồng" tức là để nhiều dấu máu tươi trên gối khiến vua ngỡ Phi Yến còn giữ được "ngọc tiết" nên càng sủng ái hơn (thật ra đó chỉ là một loại nước màu đỏ giống như máu). Triệu Phi Yến nhanh chóng chiếm được chiếc ghế quyền lực Hoàng Hậu không lâu sau đó.
Phi Yến do được Dương A công chúa đưa vào cung với mục đích lấy lòng vua và củng cố địa vị của mình. Nhưng qua một thời gian chung sống với vua do không có con nên bà đã cùng với Dương A tìm cách đưa em gái Phi Yến là Hợp Đức vào cung tiến vua, hy vọng Hợp Đức sẽ mang long thai và Phi Yến nhanh chóng có được quyền lực.
Triệu Phi Yến tên thật là Triệu Nghi Chủ (do có tài múa rất hay, điệu múa nhẹ nhàng uyển chuyển như bay như lượn tựa chim yến nên gọi là Phi Yến), là một trong hai đại mỹ nhân của triều đại nhà Hán bên cạnh người đẹp Vương Chiêu Quân. Nàng là người có liên quan đến một giả thuyết về xuất xứ của tục bó chân.
Dưới đời Hán Thành Đế, Triệu Phi Yến được phát hiện ra trong một dịp vua do muốn tìm mỹ nhân trong thiên hạ, tình cờ ngự giá sang phủ của công chúa Dương A. Vua sửng sốt trước vẻ đẹp kiều diễm của bà vì lúc ấy Phi Yến chỉ vừa mười tám tuổi, giọng nói thánh thót nhẹ nhàng khiến vua say đắm.
Trái ngược với đại mỹ nhân Vương Chiêu Quân là một cô gái hy sinh vì nước để giữ gìn sự trinh trắng của mình, Phi Yến trước khi về với Hán Thành Đế đã từng là một người phụ nữ lẳng lơ, sau này người ta cho rằng do bà nhiều lần ăn nằm với tình lang của mình rồi mới về với vua, nên trong đêm ân ái đầu tiên với Hán Thành Đế, Triệu Phi Yến đã dùng thủ đoạn "lạc hồng" tức là để nhiều dấu máu tươi trên gối khiến vua ngỡ Phi Yến còn giữ được "ngọc tiết" nên càng sủng ái hơn (thật ra đó chỉ là một loại nước màu đỏ giống như máu). Triệu Phi Yến nhanh chóng chiếm được chiếc ghế quyền lực Hoàng Hậu không lâu sau đó.
Phi Yến do được Dương A công chúa đưa vào cung với mục đích lấy lòng vua và củng cố địa vị của mình. Nhưng qua một thời gian chung sống với vua do không có con nên bà đã cùng với Dương A tìm cách đưa em gái Phi Yến là Hợp Đức vào cung tiến vua, hy vọng Hợp Đức sẽ mang long thai và Phi Yến nhanh chóng có được quyền lực.
Hậu cung dưới đời vua Hán Thành Đế từ khi có mặt của chị em họ Triệu thì trở nên rối ren, sóng gió, tranh giành đẫm máu. Triệu Phi Yến đơn thuần chỉ là một cô gái đẹp, muốn lấy lòng vua và ham mê quyền lực trong khi người em gái Triệu Hợp Đức về nhan sắc không hề thua chị, nhưng cực kỳ mưu mô và độc ác. Hai chị em họ đã:
Tìm mọi cách thuyết phục vua để thăng chức cho Phi Yến làm Triệu Chiêu Nghi, còn Hợp Đức làm Triệu Tiệp Dư.
Thừa lúc Hứa Hoàng Hậu bí
mật cúng vái để đổ tội cho Hoàng Hậu dùng tà thuật hại vua và kết quả là Hoàng
Hậu bị phế ngôi, giam lỏng ở lãnh cung.
Giở trò hù dọa khiến Ban Tiệp Dư, cũng là một tuyệt sắc mỹ nhân trong cung, sợ bị hại như Hoàng Hậu nên phải trốn đi.
Khi đã lên ngôi hoàng hậu, Phi Yến nghe lời Hợp Đức giết hại luôn một mỹ nhân họ Tào đang mang long thai và giết luôn số cung nữ hầu cận mỹ nhân đó.
Sự việc sau cùng mà Hán Thành Đế phát hiện ra thủ đoạn xấu xa của chị em Phi Yến nhưng cũng đã muộn khi ông lén lút chăn gối với một mỹ nhân khác mang họ Hứa và hạ sinh một hoàng tử trắng trẻo, tuy nhiên do Hợp Đức nài nỉ quá nên vua đã mang thái tử cho Hợp Đức ẵm, rồi hoàng tử nhỏ chết ngay sau khi hồi cung. Người ta cho rằng Hợp Đức đã tẩm độc trong đầu ngón tay và cho hoàng tử bú nút ngón tay ấy.
Hán Thành Đế bản tính nhu nhược, không dám trị tội hai chị em mỹ nhân mà chỉ tìm cách đề phòng để rồi sau đó lâm bệnh và băng hà. Chị em Triệu Phi Yến không còn chỗ đứng, thế lực của Vương Mãn, Vương Thái Hậu ngày càng mạnh. Nếu như Vương Mãn trước kia từng thừa dịp Phi Yến - Hợp Đức tác oai tác quái trong hậu cung khiến cho nhà Hán ngày càng suy yếu thì nay đến lúc ra tay trừ khử hai vị mỹ nhân gieo tai họa này. Trước tiên Triệu Hợp Đức bị Vương Thái Hậu phanh phui nhiều tội trạng như hại hoàng hậu, giết hại người vô tội, giết tiểu hoàng tử. Hợp Đức bị giam lỏng ở lãnh cung một thời gian rồi tự vẫn. Triệu Phi Yến sau đó cũng bị bức phải tự sát như em gái mình
Giở trò hù dọa khiến Ban Tiệp Dư, cũng là một tuyệt sắc mỹ nhân trong cung, sợ bị hại như Hoàng Hậu nên phải trốn đi.
Khi đã lên ngôi hoàng hậu, Phi Yến nghe lời Hợp Đức giết hại luôn một mỹ nhân họ Tào đang mang long thai và giết luôn số cung nữ hầu cận mỹ nhân đó.
Sự việc sau cùng mà Hán Thành Đế phát hiện ra thủ đoạn xấu xa của chị em Phi Yến nhưng cũng đã muộn khi ông lén lút chăn gối với một mỹ nhân khác mang họ Hứa và hạ sinh một hoàng tử trắng trẻo, tuy nhiên do Hợp Đức nài nỉ quá nên vua đã mang thái tử cho Hợp Đức ẵm, rồi hoàng tử nhỏ chết ngay sau khi hồi cung. Người ta cho rằng Hợp Đức đã tẩm độc trong đầu ngón tay và cho hoàng tử bú nút ngón tay ấy.
Hán Thành Đế bản tính nhu nhược, không dám trị tội hai chị em mỹ nhân mà chỉ tìm cách đề phòng để rồi sau đó lâm bệnh và băng hà. Chị em Triệu Phi Yến không còn chỗ đứng, thế lực của Vương Mãn, Vương Thái Hậu ngày càng mạnh. Nếu như Vương Mãn trước kia từng thừa dịp Phi Yến - Hợp Đức tác oai tác quái trong hậu cung khiến cho nhà Hán ngày càng suy yếu thì nay đến lúc ra tay trừ khử hai vị mỹ nhân gieo tai họa này. Trước tiên Triệu Hợp Đức bị Vương Thái Hậu phanh phui nhiều tội trạng như hại hoàng hậu, giết hại người vô tội, giết tiểu hoàng tử. Hợp Đức bị giam lỏng ở lãnh cung một thời gian rồi tự vẫn. Triệu Phi Yến sau đó cũng bị bức phải tự sát như em gái mình
Hứa Bình Quân
Hoàng hậu Hứa Bình Quân ( ?-71 TCN) là vợ vua Hán Tuyên Đế, mẹ vua Hán Nguyên Đế trong lịch sử Trung Quốc.
Cha Hứa Bình Quân là Hứa Quảng Hán, người Xương Ấp (Sơn Đông), làm chức thị tòng cho Xương Ấp vương Lưu Bác – cha của Xương Ấp vương Lưu Hạ.
Do phạm tội, Quảng Hán phải chịu cung hình (thiến) vào cung vua làm hoạn quan. Sau đó vì không hoàn thành nhiệm vụ trong việc điều tra vụ án Thượng Quan Kiệt mưu đồ phản nghịch, Quảng Hán bị Hán Chiêu Đế điều đi làm chức coi ngục trong cung.
Hứa Bình Quân có nhan sắc, vào cung cấm, được Lưu Tuân - một hoàng thân đang thất sủng, là cháu của thái tử Lưu Cứ bị Hán Vũ Đế giết - lấy làm vợ. Năm 76 TCN, bà sinh được Lưu Thích.
Năm 74 TCN, Hán Chiêu Đế mất sớm. Đại thần Hoắc Quang lập Xương Ấp vương Lưu Hạ - chủ cũ của Hứa Quảng Hán – làm thiên tử. Nhưng do Lưu Hạ thiếu tư cách nên chỉ sau hơn 20 ngày thì bị phế truất. Hoắc Quang đón Lưu Tuân lập làm vua, tức là Hán Tuyên Đế. Hứa Bình Quân được phong làm Tiệp dư.
Lúc đó Hoắc Quang và vợ đã đưa người con gái nhỏ là Hoắc Thành Quân vào cung làm vợ Tuyên Đế để gây thêm thế lực. Triều thần bàn nhau lập Hoắc Thành Quân làm hoàng hậu. Nhưng trong lúc triều thần bàn bạc việc này thì Tuyên Đế ra chiếu chỉ yêu cầu tìm lại thanh gươm đã dùng thời kỳ thất thế.
Triều thần hiểu ý Tuyên Đế không quên người vợ đã kết tóc khi còn khó khăn, bèn cùng nhau xin lập Hứa tiệp dư làm hoàng hậu. Cuối cùng Hứa Bình Quân được phong làm hoàng hậu.Việc bà trở thành hoàng hậu khiến cho nhà họ Hoắc thù ghét và dụng tâm trả thù.
Năm 71 TCN, Hứa hoàng hậu đang mang thai đứa con tiếp theo. Vợ Hoắc Quang là Hiển phu nhân tìm cách câu kết với nữ thày thuốc trong cung là Thuần Vu Diễn, xui Diễn dùng thuốc độc hại bà. Thuần Vu Diễn đang muốn cho chồng được Hoắc Quang thăng chức, nên nhận lời với vợ Hoắc Quang và dùng phụ tử cho vào thuốc để Hứa hoàng hậu uống. Vì vậy Hứa Bình Quân bị trúng độc và qua đời, thụy hiệu là Cung Ai hoàng hậu, chôn cất tại ĐỗNam
(tức phía nam vườn Đỗ Lăng).
Sau này Hoắc Thành Quân con gái Hoắc Quang tuy được lập làm hoàng hậu nhưng Tuyên Đế vẫn lập con Hứa hậu là Lưu Thích làm thái tử. Họ Hoắc không bằng lòng việc đó. Không lâu sau Hoắc Quang chết, họ Hoắc định trừ nốt thái tử Thích để làm chuyện phản nghịch. Mưu đồ bại lộ, Tuyên Đế hạ lệnh giết cả nhà họ Hoắc và phế Hoắc hậu (năm 66 TCN), giam vào cung Chiêu Đài. Mười hai năm sau (54 TCN), Tuyên Đế ra lệnh dời Hoắc hoàng hậu tới quán Vân Lâm và bà này tự sát, được chôn cất tại phía đông đình Tôn Ngô.
Năm 49 TCN, Tuyên Đế qua đời, thái tử Lưu Thích con Hứa hậu lên nối ngôi, tức là Hán Nguyên Đế.
Cha Hứa Bình Quân là Hứa Quảng Hán, người Xương Ấp (Sơn Đông), làm chức thị tòng cho Xương Ấp vương Lưu Bác – cha của Xương Ấp vương Lưu Hạ.
Do phạm tội, Quảng Hán phải chịu cung hình (thiến) vào cung vua làm hoạn quan. Sau đó vì không hoàn thành nhiệm vụ trong việc điều tra vụ án Thượng Quan Kiệt mưu đồ phản nghịch, Quảng Hán bị Hán Chiêu Đế điều đi làm chức coi ngục trong cung.
Hứa Bình Quân có nhan sắc, vào cung cấm, được Lưu Tuân - một hoàng thân đang thất sủng, là cháu của thái tử Lưu Cứ bị Hán Vũ Đế giết - lấy làm vợ. Năm 76 TCN, bà sinh được Lưu Thích.
Năm 74 TCN, Hán Chiêu Đế mất sớm. Đại thần Hoắc Quang lập Xương Ấp vương Lưu Hạ - chủ cũ của Hứa Quảng Hán – làm thiên tử. Nhưng do Lưu Hạ thiếu tư cách nên chỉ sau hơn 20 ngày thì bị phế truất. Hoắc Quang đón Lưu Tuân lập làm vua, tức là Hán Tuyên Đế. Hứa Bình Quân được phong làm Tiệp dư.
Lúc đó Hoắc Quang và vợ đã đưa người con gái nhỏ là Hoắc Thành Quân vào cung làm vợ Tuyên Đế để gây thêm thế lực. Triều thần bàn nhau lập Hoắc Thành Quân làm hoàng hậu. Nhưng trong lúc triều thần bàn bạc việc này thì Tuyên Đế ra chiếu chỉ yêu cầu tìm lại thanh gươm đã dùng thời kỳ thất thế.
Triều thần hiểu ý Tuyên Đế không quên người vợ đã kết tóc khi còn khó khăn, bèn cùng nhau xin lập Hứa tiệp dư làm hoàng hậu. Cuối cùng Hứa Bình Quân được phong làm hoàng hậu.Việc bà trở thành hoàng hậu khiến cho nhà họ Hoắc thù ghét và dụng tâm trả thù.
Năm 71 TCN, Hứa hoàng hậu đang mang thai đứa con tiếp theo. Vợ Hoắc Quang là Hiển phu nhân tìm cách câu kết với nữ thày thuốc trong cung là Thuần Vu Diễn, xui Diễn dùng thuốc độc hại bà. Thuần Vu Diễn đang muốn cho chồng được Hoắc Quang thăng chức, nên nhận lời với vợ Hoắc Quang và dùng phụ tử cho vào thuốc để Hứa hoàng hậu uống. Vì vậy Hứa Bình Quân bị trúng độc và qua đời, thụy hiệu là Cung Ai hoàng hậu, chôn cất tại Đỗ
Sau này Hoắc Thành Quân con gái Hoắc Quang tuy được lập làm hoàng hậu nhưng Tuyên Đế vẫn lập con Hứa hậu là Lưu Thích làm thái tử. Họ Hoắc không bằng lòng việc đó. Không lâu sau Hoắc Quang chết, họ Hoắc định trừ nốt thái tử Thích để làm chuyện phản nghịch. Mưu đồ bại lộ, Tuyên Đế hạ lệnh giết cả nhà họ Hoắc và phế Hoắc hậu (năm 66 TCN), giam vào cung Chiêu Đài. Mười hai năm sau (54 TCN), Tuyên Đế ra lệnh dời Hoắc hoàng hậu tới quán Vân Lâm và bà này tự sát, được chôn cất tại phía đông đình Tôn Ngô.
Năm 49 TCN, Tuyên Đế qua đời, thái tử Lưu Thích con Hứa hậu lên nối ngôi, tức là Hán Nguyên Đế.
Hoắc Thành Quân
Hoắc Thành Quân( trước 86 – 53 trước công nguyên)
Hoắc Thành Quân là con gái của Hoắc Quang, do nha đầu Hiển Nhi sinh ra, là hoàng hậu của Hán Tuyên Đế Lưu Trân. Năm 74 trước công nguyên ( năm Nguyên Bình nguyên niên Hán Chiêu Đế), Lưu Trân lên ngôi là Hán Tuyên Đế, chuẩn bị lập hoàng hậu, các quan đại thần cho là con gái nhỏ của đại tướng quân Hoắc Quang là Hoắc Thành Quân rất xứng đáng.
Hán Tuyên Đế không nói gì. Chỉ bảo vị đại thần đem cây kiếm cũ đến cho vua, rồi Hán Tuyên Đế lật qua lật lại, vuốt ve thanh bảo kiếm. Các đại thần hiểu ý đức vua, rằng vua nghĩ đến người vợ kết tóc đã từng cùng chung hoạn nạn là Hứa Bình Nguyên, bèn lập Hứa thị làm hoàng hậu.
Kế thất của Hoắc Quang là Hiển Nhi ( vợ của Hoắc Quang chết, nha đầu Hiển Nhi được sung vào làm kế thất) vẫn quyết tâm tìm cách phế Hứa hoàng hậu, để cho con gái mình là Hoắc Thành Quân được thay ngôi làm hoàng hậu. Năm 71 trước công nguyên ( năm thứ 3 Hán Tuyên Đế Bổn Thủy), Hứa hoàng hậu lâm sản, Hiển Nhi mua chuộc nữ ngự y là Thuần Vu Diễn đánh thuốc độc Hứa hậu, rồi năm 70 trước công nguyên, lập Hoắc Thành Quân làm hoàng hậu. Như thế, quan hệ ngoại thích hoá ra phức tạp. Trong hoàng thất, Hoắc hoàng hậu là cháu dâu của Thượng Quang Thị, phải tôn Thượng Quang Thị làm thái hoàng thái hậu. Nếu theo vai vế của họ Hoắc thì là dì Hoắc hoàng hậu của Thượng Quang Thị. Như thế, thái hoàng thái hậu Thượng Quang Thị phải nhượng mấy phần với Hoắc hoàng hậu.
Sau khi mất Hoắc Quang, con trai Hoắc Vũ, cháu là Hoắc Sơn, Hoắc Vân đều được
phong hầu, nhưng Hiển Nhi, mẹ của Hoắc hoàng hậu vẫn chưa mãn ý, hy vọng con
gái mình sinh hoàng tử tương lai có thể nối ngôi vua. Nhưng Hoắc Thành Quân lâu
không sinh nở được, Hán Tuyên Đế không thể chờ đợi được, bèn lập Lưu Thích –
con của Hứa hoàng hậu lên làm thái tử. Hoắc hoàng hậu mưu toan giết thái tử
nhưng vì Hán Tuyên Đế cẩn thận đề phòng nên không thực hiện được.
Năm 66 trước công nguyên ( năm thứ 4 Hán Tuyên Đế Địa Tiết), vụ án đầu độc Hứa hoàng hậu bị phát giác, Hoắc Vũ mưu phản không thành bị tội chém, mẹ của Hoắc Thành Quân là Hiển Nhi bị ghép vào tử tội, Hoắc Sơn, Hoắc Vân sợ tội, uống thuốc độc tự sát.
Hoắc thị thì bị phế ngôi hoàng hậu, cho ở cung Chiêu Đài. Năm 53 trước công nguyên ( năm Hán Tuyên ĐếCam lộ
nguyên niên) lại bị biếm đến Lâm Vân quán. Người đàn bà độc ác dựa vào mẹ mình
dùng kế giết Hứa hoàng hậu để lên ngôi hoàng hậu và nhiều lần mưu hại thái tử,
cuối cùng tự sát chết năm 33 tuổi.
Trác Văn Quân
Vợ của Tư Mã Tương Như thời Hán. Có thơ số tiêu biểu như sau :
Nhất biệt chi hậu, nhị địa tương huyền,
Chỉ thuyết thị tam tứ nguyệt, hựu thùy tri ngũ lục niên,
Thất huyền cầm vô tâm đàn, bát hành thư vô khả truyền,
Cửu liên hoàn tòng trung chiết đoạn,
Thập lý trường đình vọng nhãn dục xuyên,
Bách tư tưởng, thiên hệ niệm, vạn ban vô nại bả quân oán.
Vạn ngữ thiên ngôn thuyết bất hoàn,
Bách vô liêu lại thập y lan,
Trùng cửu đăng cao khán cô nhạn,
Bát nguyệt trung thu nguyệt viên nhân bất viên,
Thất nguyệt bán thiêu hương bỉnh chúc vấn thương thiên,
Lục nguyệt phục thiên nhân nhân dao phiến ngã tâm hàn.
Ngũ nguyệt thạch lưu như hoả thiên ngộ trận trận lãnh vũ kiêu hoa đoan,
Tứ nguyệt tì bà vị hoàng ngã dục đối cảnh tâm ý loạn.
Hốt thông thông, tam nguyệt đào hoa tùy thủy chuyển.
Phiêu linh linh, nhị nguyệt phong tranh tuyến nhi đoạn,
Ai ! Lang a lang, ba bất đắc hạ thế nhĩ vi nữ lai ngã vi nam.
Họ Trác vốn có một người con gái rất đẹp tên Văn Quân, còn nhỏ tuổi mà sớm góa chồng, lại thích nghe đàn. Tương Như được biết, định ghẹo nàng, nên vừa gảy đàn vừa hát khúc "Phượng cầu hoàng" (Chim phượng trống tìm chim phượng mái).
Năm 66 trước công nguyên ( năm thứ 4 Hán Tuyên Đế Địa Tiết), vụ án đầu độc Hứa hoàng hậu bị phát giác, Hoắc Vũ mưu phản không thành bị tội chém, mẹ của Hoắc Thành Quân là Hiển Nhi bị ghép vào tử tội, Hoắc Sơn, Hoắc Vân sợ tội, uống thuốc độc tự sát.
Hoắc thị thì bị phế ngôi hoàng hậu, cho ở cung Chiêu Đài. Năm 53 trước công nguyên ( năm Hán Tuyên Đế
Trác Văn Quân
Vợ của Tư Mã Tương Như thời Hán. Có thơ số tiêu biểu như sau :
Nhất biệt chi hậu, nhị địa tương huyền,
Chỉ thuyết thị tam tứ nguyệt, hựu thùy tri ngũ lục niên,
Thất huyền cầm vô tâm đàn, bát hành thư vô khả truyền,
Cửu liên hoàn tòng trung chiết đoạn,
Thập lý trường đình vọng nhãn dục xuyên,
Bách tư tưởng, thiên hệ niệm, vạn ban vô nại bả quân oán.
Vạn ngữ thiên ngôn thuyết bất hoàn,
Bách vô liêu lại thập y lan,
Trùng cửu đăng cao khán cô nhạn,
Bát nguyệt trung thu nguyệt viên nhân bất viên,
Thất nguyệt bán thiêu hương bỉnh chúc vấn thương thiên,
Lục nguyệt phục thiên nhân nhân dao phiến ngã tâm hàn.
Ngũ nguyệt thạch lưu như hoả thiên ngộ trận trận lãnh vũ kiêu hoa đoan,
Tứ nguyệt tì bà vị hoàng ngã dục đối cảnh tâm ý loạn.
Hốt thông thông, tam nguyệt đào hoa tùy thủy chuyển.
Phiêu linh linh, nhị nguyệt phong tranh tuyến nhi đoạn,
Ai ! Lang a lang, ba bất đắc hạ thế nhĩ vi nữ lai ngã vi nam.
Họ Trác vốn có một người con gái rất đẹp tên Văn Quân, còn nhỏ tuổi mà sớm góa chồng, lại thích nghe đàn. Tương Như được biết, định ghẹo nàng, nên vừa gảy đàn vừa hát khúc "Phượng cầu hoàng" (Chim phượng trống tìm chim phượng mái).
Chim phượng, chim phượng về
cố hương,
Ngao du bốn bể tìm chim
hoàng
Thời chưa gặp chừ, luống lỡ làng.
Hôm nay bước đến chốn thênh thang.
Có cô gái đẹp ở đài trang,
Thời chưa gặp chừ, luống lỡ làng.
Hôm nay bước đến chốn thênh thang.
Có cô gái đẹp ở đài trang,
Nhà gần người xa não tâm
tràng.
Ước gì giao kết đôi uyên ương,
Bay liệng cùng nhau thỏa mọi đường.
Ước gì giao kết đôi uyên ương,
Bay liệng cùng nhau thỏa mọi đường.
Nguyên văn:
Phượng hề, phượng hề quy cố hương,
Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng,
Thời vị ngộ hề vô sở tương,
Hà ngộ kim tịch đăng tư đường.
Hữu diệm thục nữ tại khuê phường,
Thất nhĩ nhân hà sầu ngã trường.
Hà duyên giao cảnh vi uyên ương
Tương hiệt cương hề cộng cao tường.
Trác Văn Quân nghe được tiếng đàn, lấy làm say mê, đương đêm bỏ nhà đi theo chàng. Trác ông tức giận, quyết định từ con.
Đôi trai gái đó mở một quán nấu rượu. Vợ chồng cùng cặm cụi làm ăn.
Ban Chiêu
Ban Chiêu (đời Đông Hán - 25~196) tự là Huệ Cơ, sinh ra trong một gia đình Nho giáo. Là con gái của Ban Bưu và là em gái của Ban Cố, Ban Siêu. Cha anh nàng có học thức cao nên bản thân nàng cũng không hề thua kém.
Năm nàng được 13 tuổi đã giỏi thi phú. Đến tuổi dựng vợ gả chồng, nàng đã sánh duyên cùng Tào Thế Thức - cũng là một nhà nho lỗi lạc. Duyên vợ chồng giữa nàng và Thế Thức chỉ được 10 năm thì Thế Thức chết, nàng thủ tiết thờ chồng (nếu tính theo lệ 18 tuổi lấy chồng thì lúc này nàng chỉ khoảng 28 tuổi).
Nàng được vua mời vào cung làm thầy dạy học cho các hoàng tử, cung phi. Được nhiều người kính trọng.
Ban Bưu lúc này đang làm quan tại triều, được vua cử soạn bộ Hán Thư nhưng chưa làm xong thì đã chết. Anh nàng được lệnh kế tục công việc. Tuy nhiên, chẳng được bao lâu sau thì bị cầm tù và chết (do có mối quan hệ với gia đình Chương Đức hoàng hậu). Thấy cha và anh dở dang công việc nên nàng đã tâu vua cho mình được tiếp tục việc hoàn chỉnh bộ Hán Thư. Vua Hoà Đế bằng lòng. Nàng được vào Đông Quan tàng thư để tiếp tục công việc biên soạn bộ Hán Thư. Trong thời gian này, Ban Chiêu còn sáng tác tập "Nữ giới" gồm có 7 thiên. Danh tiếng của nàng càng lẫy lừng.
Chương Đức Đậu ( Hán Hoàng Hậu)
Đậu Thị là hoàng hậu của Hán Chương Đế, hoàng đế thứ ba thời Đông Hán. Sau khi Chương Đế mất, Đậu Thị với tư cách Hoàng thái hậu, lâm triều xưng chế năm năm, tạo nên nhiều công tích: phía tây đánh bại Nguyệt Chi, buộc triều cống và lập lại Tây Vực đô hộ phủ; phía tây bắc đánh bại Hung Nô – mối họa hàng trăm năm nay đối với Trung Hoa. Thời gian nàng trị vì là một giai đoạn cực thịnh của triều Đông Hán.
Đậu Thị xuất thân từ danh gia vọng tộc, ông tổ Đậu Dung là khai quốc công thần của nhà Đông Hán, được Hán Vũ Đế phong tước An Phong Hầu. Cháu nội Đậu Dung là Đậu Huân lấy Tỷ Dương công chúa, sinh ra Đậu Thị. Sau đó, Đậu gia phạm trọng tội, bị bắt và xử tử, riêng Tỷ Dương công chúa và con gái được gia ân, cho phép ở lại kinh đô Lạc Dương.
Đậu Thị vô cùng thông minh và xinh đẹp, nổi tiếng khắp thành Lạc Dương. Sau khi nhập cung, nàng nhanh chóng chiếm được cảm tình của Chương Đế và chuyên sủng hậu cung. Chương Đế muốn lập nàng làm Hoàng Hậu, nhưng vướng phải điều kiện của Mã Thái Hậu là phải lập con trai của Tống Quí Nhân Lưu Khánh làm Thái tử. Bất đắc dĩ, Chương Đế phải nhận lời.
Đậu Thị tất nhiên không hài lòng. Nàng
bèn nhận con của Lương Quí Nhân là Lưu Khải làm con nuôi, nhất quyết phải đưa
được Lưu Khải lên ngôi Thái tử. Sau khi Mã Thái Hậu qua đời, Đậu Thị vu oan hại
chết Tống Quí Nhân, phế truất Lưu Khánh, lập Lưu Khải làm Thái tử. Lương Quí
Nhân lấy đó làm vui mừng, nhưng cuối cùng cũng bị Đậu Thị hại chết. Đây là sai
lầm to lớn nhất trong cuộc đời Đậu Hoàng Hậu, khi nàng đã hại chết hai mạng
người chỉ vì lợi ích cá nhân, muốn bản thân trở thành bậc chí tôn.
Sau khi Chương Đế mất, Lưu Khải kế vị trở thành Hán Hòa Đế, Đậu Thị bước
lên ngôi Thái hậu khi mới hai mươi bảy tuổi. Bằng tài năng của mình, nàng đã
trị vì đất nước yên ổn, lập nhiều kỳ công. Đặc biệt, nàng thể hiện tài nhìn
người khi cho anh trai Đậu Hiến đem quân đi đánh Hung Nô, được ca ngợi như
sau: “Đời Tây Hán, Vệ Thanh (em trai Vệ Tử Phu, hoàng hậu của Hán Vũ
Đế), Hoắc Khứ Bệnh lĩnh quân tinh nhuệ của triều đình, liên tục nhiều năm tấn
công Hung Nô, quốc lực hao tổn quá nửa vẫn không khuất phục được. Thế mà đời ca
ngợi họ là tướng giỏi. Nay Đậu Hiến cầm quân hỗn tạp Hồ, Khương, đánh một
trận quét sạch Bắc phương, đuổi người Hung Nô đi, công lao đó vượt xa Vệ
Thanh, Hoắc Khứ Bệnh.”
Nhưng, ác giả ác báo, việc Đậu thái hậu hại chết hai quí nhân đã gây nên
mối thù trong lòng Hòa Đế và Lưu Khánh. Hòa Đế lập mưu, hại chết cả gia tộc họ
Đậu, bắt giam và xét xử những ai có quan hệ với Đậu gia, ép Đậu thái hậu trao
trả triều chính.
Năm 92 TCN, Ban Cố, anh trai Ban Chiêu, bị tống
giam và chết, do có can hệ với Đậu Hiến, gia đình Chương Đức hoàng hậu. Hán Hòa
Đế cho phép Ban Chiêu được vào Đông Quan tàng thư để tiếp tục công việc biên
soạn bộ Hán Thư.
Sau đó không lâu, Chương Đức hoàng hậu ưu uất mà chết. Cùng với cái chết của Đậu thái hậu, nhà Đông Hán cũng kết
thúc giai đoạn cực thịnh của nó.
Đặng Tuy (Hán Hòa Hy hoàng hậu)
Đặng Tuy – hoàng hậu của Đông Hán Hòa
đế - xuất thân từ 1 đại gia tộc, là cháu gái của công thần khai quốc Đặng Vũ,
con gái Đặng Huấn (danh tướng trấn giữ biên giới của triều Đông Hán). Mẹ nàng
họ Âm, là cháu họ xa của hoàng hậu Hán Vũ đế Âm Lệ Hoa. Nói chung, Đặng gia là
danh gia vọng tộc, thế lực rải khắp triều đình, trên dưới đều nắm giữ chức vụ
quan trọng và lập nhiều công tích nên được tin yêu và ban thưởng bổng lộc trọng
hậu. Đặng Tuy xuất thân từ 1 gia đình như thế, quyết không phải là người
bình thường.
Đặng Tuy từ nhỏ thông minh khác thường, giỏi đoán ý người, được cả nhà yêu quý và coi trọng. Năm 12 tuổi, Đặng Tuy đã thuộc làu các sách “Kinh thi”, “Luận ngữ”,… hay đưa ra câu hỏi và bày tỏ quan điểm của mình nhưng ít chú tâm vào thêu thùa, may vá. Tuy mẹ nàng ko hài lòng nhưng cha lại rất để tâm, thg` hay hỏi ý kiến của con gái về tất cả mọi việc. Đặng Huấn cho rằng: con trai của ông, ko ai có thể bằng đứa con gái này được, sau này chính nó sẽ làm vẻ vang gia tộc.
Có 2 việc xảy ra trong thời thơ ấu chứng tỏ Đặng Tuy có cốt cách khác thường:
Năm 5 tuổi, có lần Đặng Tuy được bà nội cắt tóc. Vì đã cao tuổi nên bà có những lúc sơ ý làm rách da đầu của cô cháu gái, thế nhưng Đặng Tuy tuyệt nhiên không kêu lên 1 tiếng. Sau mẹ hỏi, Đặng Tuy trả lời rằng: “Bà đã vui vẻ tự cắt tóc cho con, chỉ lỡ tay một chút, lẽ nào lại để bà buồn?”
Một đêm, Đặng Tuy nằm mơ thấy mình bay lên, phía trên là bầu trời xanh biếc và phẳng lỳ như miếng ngọc bích, có những thạch nhũ rủ xuống, tiết ra các giọt ngọc, Đặng Tuy vô tình nuốt phải thì thấy sảng khoái lạ thường - nhìn xuống trần gian thì thấy mọi vật hiện rất rõ trước mắt, tất cả như một bức tranh sơn thủy cực lớn… Tỉnh dậy, nàng đem kể cho mẹ nghe, người mẹ liền mời về 1 thuật sĩ. Nhà thuật sĩ ấy nhìn Đặng Tuy rồi nói: “Long nhi phượng sồ, đáng mừng, đáng mừng! Ngày xưa, Nghiêu, Thang cũng đều mơ được bay lên trời, dùng lưỡi mà liếm trời xanh – đó là điềm đại cát, không thể tả hết!”. Rồi ông quỳ xuống hành lễ vói Đặng Tuy – khi ấy mới chỉ là 1 cô bé – “Đại quí nhân, xin nhận 1 lạy của tiểu nhân.”, không dám nhận hậu lễ mà bỏ đi.
Năm 15 tuổi, Đặng Tuy dự tuyển vào cung. Với dung mạo thanh tú, vóc dáng yểu điệu thướt tha, tính nết lại đoan trang, hiền hậu, Đặng Tuy nổi bật trong đám tú nữ và nhanh chóng nhận được sự sủng ái, ngay năm sau nàng được phong là Quí nhân (triều Đông Hán: dưới Hoàng hậu là Quí nhân).
Khi vào cung, Đặng Tuy rất khiêm nhường, cung kính, đối xử với mọi người đầy khéo léo và tình cảm. Nàng hầu hạ chu đáo bề trên, đối với hạ nhân cũng rất yêu thương, thông cảm. Quần áo nàng không nhiều nhặn và rực rỡ như các phi tần khác, khi yến tiệc cũng chỉ điểm chút son phấn, ko bao giờ muốn nổi bật giữa chốn hậu cung. Nàng cũng ko nghĩ đến việc tranh công hay khoe tài, mỗi lần có chính sự Đặng Tuy đều nhường Âm hoàng hậu trả lời trước, chỉ khi được Hòa đế hỏi đến thì nàng mới cất lời… Nàng làm vậy, đơn giản là do ý thức bản thân - vốn đã được tu dưỡng trong lễ giáo từ nhỏ - nhưng đã vô tình làm Hòa đế càng thêm yêu mến, sủng ái, mở đường lên ngôi Hoàng hậu sau này.
Đặng Tuy từ nhỏ thông minh khác thường, giỏi đoán ý người, được cả nhà yêu quý và coi trọng. Năm 12 tuổi, Đặng Tuy đã thuộc làu các sách “Kinh thi”, “Luận ngữ”,… hay đưa ra câu hỏi và bày tỏ quan điểm của mình nhưng ít chú tâm vào thêu thùa, may vá. Tuy mẹ nàng ko hài lòng nhưng cha lại rất để tâm, thg` hay hỏi ý kiến của con gái về tất cả mọi việc. Đặng Huấn cho rằng: con trai của ông, ko ai có thể bằng đứa con gái này được, sau này chính nó sẽ làm vẻ vang gia tộc.
Có 2 việc xảy ra trong thời thơ ấu chứng tỏ Đặng Tuy có cốt cách khác thường:
Năm 5 tuổi, có lần Đặng Tuy được bà nội cắt tóc. Vì đã cao tuổi nên bà có những lúc sơ ý làm rách da đầu của cô cháu gái, thế nhưng Đặng Tuy tuyệt nhiên không kêu lên 1 tiếng. Sau mẹ hỏi, Đặng Tuy trả lời rằng: “Bà đã vui vẻ tự cắt tóc cho con, chỉ lỡ tay một chút, lẽ nào lại để bà buồn?”
Một đêm, Đặng Tuy nằm mơ thấy mình bay lên, phía trên là bầu trời xanh biếc và phẳng lỳ như miếng ngọc bích, có những thạch nhũ rủ xuống, tiết ra các giọt ngọc, Đặng Tuy vô tình nuốt phải thì thấy sảng khoái lạ thường - nhìn xuống trần gian thì thấy mọi vật hiện rất rõ trước mắt, tất cả như một bức tranh sơn thủy cực lớn… Tỉnh dậy, nàng đem kể cho mẹ nghe, người mẹ liền mời về 1 thuật sĩ. Nhà thuật sĩ ấy nhìn Đặng Tuy rồi nói: “Long nhi phượng sồ, đáng mừng, đáng mừng! Ngày xưa, Nghiêu, Thang cũng đều mơ được bay lên trời, dùng lưỡi mà liếm trời xanh – đó là điềm đại cát, không thể tả hết!”. Rồi ông quỳ xuống hành lễ vói Đặng Tuy – khi ấy mới chỉ là 1 cô bé – “Đại quí nhân, xin nhận 1 lạy của tiểu nhân.”, không dám nhận hậu lễ mà bỏ đi.
Năm 15 tuổi, Đặng Tuy dự tuyển vào cung. Với dung mạo thanh tú, vóc dáng yểu điệu thướt tha, tính nết lại đoan trang, hiền hậu, Đặng Tuy nổi bật trong đám tú nữ và nhanh chóng nhận được sự sủng ái, ngay năm sau nàng được phong là Quí nhân (triều Đông Hán: dưới Hoàng hậu là Quí nhân).
Khi vào cung, Đặng Tuy rất khiêm nhường, cung kính, đối xử với mọi người đầy khéo léo và tình cảm. Nàng hầu hạ chu đáo bề trên, đối với hạ nhân cũng rất yêu thương, thông cảm. Quần áo nàng không nhiều nhặn và rực rỡ như các phi tần khác, khi yến tiệc cũng chỉ điểm chút son phấn, ko bao giờ muốn nổi bật giữa chốn hậu cung. Nàng cũng ko nghĩ đến việc tranh công hay khoe tài, mỗi lần có chính sự Đặng Tuy đều nhường Âm hoàng hậu trả lời trước, chỉ khi được Hòa đế hỏi đến thì nàng mới cất lời… Nàng làm vậy, đơn giản là do ý thức bản thân - vốn đã được tu dưỡng trong lễ giáo từ nhỏ - nhưng đã vô tình làm Hòa đế càng thêm yêu mến, sủng ái, mở đường lên ngôi Hoàng hậu sau này.
Âm
hoàng hâu bị Hòa đế thất sủng, trong lòng rất ganh ghét, đố kị với Đặng Tuy. Điều đó
khiến Đặng Tuy cảm thấy mệt mỏi và sợ hãi, nhiều lần nghĩ đến câu chuyện thê lương
của Thích phu nhân mà muốn quyên sinh… Thế nhưng, “gieo gió gặt bão”, Âm thị
dùng vu thuật hãm hại Đặng Tuy, bị phát hiện và phế truất, cuối cùng lo lắng mà chết…
Năm Vĩnh Nguyên 14, Đặng Tuyđược phong làm Hoàng hậu, trở thành mẫu nghi thiên hạ.
3 năm sau, Hòa đế băng hà. Lưu Long mới 100 ngày tuổi lên ngôi, trở thành Hán Thương đế, Đặng Tuy trở thành Thái hậu nắm quyền nhiếp chính. Thương đế yểu mệnh, Đặng thái hậu chọn Lưu Hỗ mới 13 tuổi lên ngôi – đó là Hán An đế. Việc lập đế này có nhiều dị nghị, người đời cho rằng Đặng thái hậu đã vì lợi ích cá nhân mà lập 1 hoàng đế trẻ con để có thể tiếp tục nắm quyền triều chính, trong khi Bình Nguyên vương Lưu Thắng có tài lại không được chọn lên ngôi… Dù sao thì Đặng Tuy cũng chỉ là con người, mà con người đôi lúc có những tham vọng khó kiềm chế, thế nên cũng đừng nên chú trọng nhiều vào tiểu tiết này.
Đặng Tuy thực sự là người có tài. Thời bà trị vì, đất nước xảy ra nhiều thiên tai và chiến tranh, rất không yên ổn. Bằng tài năng và nhiệt tâm của mình, Đăng thái hậu thực hiện nhiều chủ trương có lợi cho quốc gia: củng cố chính quyền, chống giặc ngoại xâm, hòa giải mâu thuẫn giai cấp, cấm 1 số hoạt động tế lễ và mê tín dị đoan, miễn thả phạm nhân, giảm bớt chi phí về đồ dùng hoàng gia và mức cống nạp, mở trường dạy học,…
Đồng thời, bà còn rất nghiêm khắc, ko thiên vị cho gia tộc mình. Đặng Tuy thẳng tay trừng trị người thân nếu họ phạm pháp, nhiều lần ngăn cản việc Hòa đế thăng tiến cho họ hàng của mình. Đó là điều hiếm thấy trong xã hội xưa, chứng tỏ Đặng Tuy là người hiền thục, phân minh.
Đặng thái hậu trị vì gần 20 năm, trở thành 1 nữ hoàng thực sự trong lịch sử Trung Quốc.
Năm 41 tuổi, Đặng thái hậu băng hà, và cái chết của bà đã dẫn đến một chính biến cung đình nghiêm trọng.
Khi An đế lớn lên, Đặng thái hậu nhận thấy An đế là người bất tài, thiếu đức, đã có ý định phế truất. An đế biết tin, lập mưu hãm hại gia tộc họ Đặng. Sau cái chết của Đặng thái hậu, có thể nói Đặng gia không còn vết tích gì nơi triều đình. Đến năm 126, Thuận đế nhận thấy nỗi oan, mới khôi phục lại danh dự và tước vị cho họ Đặng.
Thái Diễm
Thái Diễm cũng gọi là Thái Văn Cơ, một nữ sĩ tài hoa đời Tam Quốc (220-264). Cha nàng là Thái Ung, có tài thẩm âm vào bực nhứt cổ kim. Tương truyền, thấy một người chụm củi, ông bảo: “Tôi nghe tiếng củi đó nổ, biết là củi tốt, sao đem chụm cho uổng”. Ông xin khúc củi về, làm một cây đàn, tiếng rất trong.
Nàng Thái Diễm lên 8 đã giỏi đàn. Có chồng là Vệ Đạo Giới nhưng lại góa chồng sớm, không con. Đương lúc Đổng Trác nổi loạn, nàng bị rợ phương bắc bắt về đất Phiên, phải sống tủi nhục ở đất Hung Nô. Nàng nhớ quê hương, mới làm ra 18 khúc kèn rợ Hồ. Những bản nhạc này truyền vào Trung Nguyên. Tào Tháo là chúa nước Ngụy, trước vốn là bạn thân của cha nàng, nay lại thưởng thức bản nhạc, động lòng thương xót, mới sai người đem ngàn lượng vàng lên phương bắc chuộc nàng về.Vua đất Hồ là Tả Hiền vương vốn sợ uy thế của Tào Tháo phải cho người đưa nàng về Hán. Tháo lại đứng làm chủ gả nàng cho Đổng Kỷ.
3 năm sau, Hòa đế băng hà. Lưu Long mới 100 ngày tuổi lên ngôi, trở thành Hán Thương đế, Đặng Tuy trở thành Thái hậu nắm quyền nhiếp chính. Thương đế yểu mệnh, Đặng thái hậu chọn Lưu Hỗ mới 13 tuổi lên ngôi – đó là Hán An đế. Việc lập đế này có nhiều dị nghị, người đời cho rằng Đặng thái hậu đã vì lợi ích cá nhân mà lập 1 hoàng đế trẻ con để có thể tiếp tục nắm quyền triều chính, trong khi Bình Nguyên vương Lưu Thắng có tài lại không được chọn lên ngôi… Dù sao thì Đặng Tuy cũng chỉ là con người, mà con người đôi lúc có những tham vọng khó kiềm chế, thế nên cũng đừng nên chú trọng nhiều vào tiểu tiết này.
Đặng Tuy thực sự là người có tài. Thời bà trị vì, đất nước xảy ra nhiều thiên tai và chiến tranh, rất không yên ổn. Bằng tài năng và nhiệt tâm của mình, Đăng thái hậu thực hiện nhiều chủ trương có lợi cho quốc gia: củng cố chính quyền, chống giặc ngoại xâm, hòa giải mâu thuẫn giai cấp, cấm 1 số hoạt động tế lễ và mê tín dị đoan, miễn thả phạm nhân, giảm bớt chi phí về đồ dùng hoàng gia và mức cống nạp, mở trường dạy học,…
Đồng thời, bà còn rất nghiêm khắc, ko thiên vị cho gia tộc mình. Đặng Tuy thẳng tay trừng trị người thân nếu họ phạm pháp, nhiều lần ngăn cản việc Hòa đế thăng tiến cho họ hàng của mình. Đó là điều hiếm thấy trong xã hội xưa, chứng tỏ Đặng Tuy là người hiền thục, phân minh.
Đặng thái hậu trị vì gần 20 năm, trở thành 1 nữ hoàng thực sự trong lịch sử Trung Quốc.
Năm 41 tuổi, Đặng thái hậu băng hà, và cái chết của bà đã dẫn đến một chính biến cung đình nghiêm trọng.
Khi An đế lớn lên, Đặng thái hậu nhận thấy An đế là người bất tài, thiếu đức, đã có ý định phế truất. An đế biết tin, lập mưu hãm hại gia tộc họ Đặng. Sau cái chết của Đặng thái hậu, có thể nói Đặng gia không còn vết tích gì nơi triều đình. Đến năm 126, Thuận đế nhận thấy nỗi oan, mới khôi phục lại danh dự và tước vị cho họ Đặng.
Thái Diễm
Thái Diễm cũng gọi là Thái Văn Cơ, một nữ sĩ tài hoa đời Tam Quốc (220-264). Cha nàng là Thái Ung, có tài thẩm âm vào bực nhứt cổ kim. Tương truyền, thấy một người chụm củi, ông bảo: “Tôi nghe tiếng củi đó nổ, biết là củi tốt, sao đem chụm cho uổng”. Ông xin khúc củi về, làm một cây đàn, tiếng rất trong.
Nàng Thái Diễm lên 8 đã giỏi đàn. Có chồng là Vệ Đạo Giới nhưng lại góa chồng sớm, không con. Đương lúc Đổng Trác nổi loạn, nàng bị rợ phương bắc bắt về đất Phiên, phải sống tủi nhục ở đất Hung Nô. Nàng nhớ quê hương, mới làm ra 18 khúc kèn rợ Hồ. Những bản nhạc này truyền vào Trung Nguyên. Tào Tháo là chúa nước Ngụy, trước vốn là bạn thân của cha nàng, nay lại thưởng thức bản nhạc, động lòng thương xót, mới sai người đem ngàn lượng vàng lên phương bắc chuộc nàng về.Vua đất Hồ là Tả Hiền vương vốn sợ uy thế của Tào Tháo phải cho người đưa nàng về Hán. Tháo lại đứng làm chủ gả nàng cho Đổng Kỷ.
Khi về nước, nàng Thái Diễm có làm bài “Bi phẫn thi” dài 540 chữ, tả nỗi long đong của nàng, lời cực kỳ thống thiết, mỗi chữ như một giọt lệ.
Dục tử bất năng đắc,
Dục sinh vô nhứt khả.
Bỉ sương giả ha cô?
Nãi lao thử ách họa!
Nghĩa:
Muốn chết mà không được,
Muốn sống thêm vất vả.
Hỡi trời xanh tội gì?
Bắt ta gặp tai họa!
Hồ phong xuân hạ khởi,
Phiên phiên suy ngã y,
Túc túc nhập ngã nhĩ.
Cảm thời niệm phụ mẫu,
Ai thán vô cùng dĩ!
Nghĩa:
Xuân hạ, gió Hồ nổi,
Phất phất tà áo ta.
Ào ào bên tai thổi,
Cảm xúc sinh nhớ nhà,
Cùng khổ thay nông nỗi.
(Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê)
Một hôm, Tào Tháo đem quân đánh Lưu Bị, tiện đường ghé thăm. Đổng Kỷ làm quan xa chỉ có nàng ở nhà. Nghe tin Tháo đến, nàng vội ra rước vào. Tháo ngồi trên sập, nàng thi lễ xong chắp tay đứng hầu bên. Tháo nhìn lên vách, chợt thấy một tấm bìa treo, có ghi bài văn bia, bèn đứng dậy bước đến xem và hỏi nguồn gốc. Thái Diễm thưa:
- Đây là bài văn bia đề một nàng Tào Nga. Xưa đời Hòa Đế, ở vùng Thượng Ngu có một người đồng bóng tên Tào Vu, hay lên đồng nhảy múa. Một hôm vào ngày mồng 5 tháng 5, Vu say rượu, đứng múa may trên thuyền, sẩy chân té xuống sông chết. Cô con gái của Vu vừa lên 14 tuổi, quá thương cha, cứ đi dọc bờ sông kêu khóc suốt 7 ngày đêm, rồi nhảy xuống nước mất tích. Qua 5 ngày sau, bỗng thấy nàng đội xác cha nổi lên mặt sông. Người trong làng vớt xác cả hai chôn cất. Quan huyện Thượng Ngu là Đỗ Thượng tâu việc ấy về triều. Triều đình khen nàng Tào Nga là gái hiếu, truyền cho lập bia. Đỗ Thượng lại sai Hàn Đan Thuần làm bài văn khắc vào bia để ghi lại việc ấy. Hàn Đan Thuần bấy giờ mới 13 tuổi, cầm bút viếc ngay một hơi thành bài văn, chẳng phải sửa chữa một chữ. Đỗ Thượng chịu là hay, cho khắc vào bia dựng bên mộ nàng Tào Nga. Thời bấy giờ, ai đọc cũng lấy làm lạ. Tiếng văn hay đồn dậy xa gần… Phụ thân thiếp nghe tiếng cũng tìm đến xem, gặp lúc trời tối, không nhìn thấy chữ, phải sờ vào bia, lần từ nét mà đọc. Đọc xong, người lấy bút viết 8 chữ lớn vào sau lưng bia. Về sau, có người khắc cả 8 chữ vào đấy.
Tào Tháo thấy 8 chữ ấy cũng ghi trên bức bia, bên cạnh bài văn như sau: “Hoàng quyến, ấu phụ, ngoại tôn, tê cửu”.
Tháo hỏi Diễm:
- Nhà ngươi có hiểu ý nghĩa 8 chữ này không?
Nàng thưa:
- Tuy là di bút của cha, nhưng thú thật thiếp cũng không hiểu ý nghĩa ra sao.
Tháo quay lại hỏi các mưu sĩ, mọi người đều chịu không biết. Bấy giờ có quan Chủ bạ là Dương Tu lên tiếng:
- Tôi hiểu ra rồi.
Tu giải:
- Tám chữ đó là ẩn ngữ của Thái Ung. “Hoàng quyến” là lụa màu vàng, tức là màu sắc của tơ (ti sắc), chữ “ti” với chữ “sắc” hợp lại thành chữ “tuyệt”. “Ấu phụ” nghĩa là con gái còn nhỏ, tức là “thiếu nữ”. Chữ “thiếu” đứng bên chữ “nữ” hợp thành chữ “diệu”. “Ngoại tôn” là cháu ngoại. Cháu ngoại tức là đứa con của con gái mình (nữ nhi tử). Chữ “nữ” chắp với chữ “tử” thành chữ “hảo”. “Tê cửu” là cái cối giã hành tỏi. Cái cối là vật chịu cay (thụ tân). Chữ “thụ” đặt bên chữ “tân” thành chữ “từ”. Tóm lại, đó là ẩn chữ “Tuyệt diệu hảo từ”, tức Thái Ung đã hết lời khen tặng văn chương của Hàn Đan Thuần vậy.
Mọi người đều khen Dương Tu tài thức mẫn tiệp.
Đinh phu nhân
Đinh phu nhân chính là vợ cả của Tào Tháo, nhưng không có nổi mụn con. Trước khi chung sống cùng người vợ họ Đinh, Tào Tháo đã từng chung chăn đụng gối với cô gái họ Lưu, rồi hạ sinh được một quý tử, đặt tên là Tào Ngang. Sinh nở khó khăn, Lưu thị lâm bệnh qua đời. Trước khi nhắm mắt, nàng ta đã đem con gửi gắm cho Đinh phu nhân, thỉnh cầu vị chính thất nuôi dưỡng con mình nên người. Chấp thuận lời cầu xin của họ Lưu, Đinh thị coi Tào Ngang như đứa con ruột thịt của mình, một lòng chăm bẵm, săn sóc. Tào Ngang lớn lên trở thành chàng trai khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn; 19 tuổi đã được tiến cử làm Hiếu liêm rồi trở thành vị tướng lĩnh thiếu niên oai phong, dũng mãnh nơi trận mạc.
Tới năm 197, tức năm Kiến An thứ hai, Tào Tháo đem quân thảo phạt Trương Tú. Trương Tú run sợ trước thế lực hùng mạnh của quân Tào, vội đầu hàng thua trận. Nhưng chính thói phong lưu, đa tình đã làm hại kẻ gian hùng đa mưu nhiều kế. Vì mê mẩn nhan sắc của thím dâu Trương Tú, Tào Tháo ngang nhiên tư thông với ả rồi nạp làm thiếp yêu, khiến Trương Tú nổi cơn tam bành, giữa đêm dẫn quân đánh trả, khiến Tào Tháo trở tay không kịp, vội vàng tháo chạy.
Trong cuộc chiến giữa họ Tào và họ Trương, trưởng nam của Tháo, tức Tào Ngang, đã mất mạng. Cháu của Tào Tháo là Tào An Dân cũng hy sinh. Đến vị tướng yêu Điển Vi cũng vì mắc mưu họ Trương mà bỏ mạng.
Thói phong lưu của phu quân, Đinh phu nhân có thể nhẫn nhịn cho qua, nhưng khi hay tin con trai chết trận, bà ta như hóa điên hóa dại. Lại hay, Tào Tháo sau khi đại bại, đã sai lập đền thờ cúng tế rồi than vãn với các tướng lĩnh của mình: “Ta mất con trưởng và đứa cháu yêu, không thương tiếc là mấy, chỉ khóc thương Điển Vi mà thôi”. Đinh phu nhân vì xót con mà thốt ra những lời căm phẫn, uất hận: “Ông hại chết con trai tôi Tào Ngang mà một chút hối hận, xót thương cũng không có”.
Lời giải thích của họ Tào, bất luận đúng sai, với Đinh phu nhân cũng không còn ý nghĩa. Một Tào Tháo uy phong lẫm liệt, luôn khiến đám thuộc hạ phải cung cung kính kính trước mình lại chịu sự quở mắng thậm tệ của vợ, thật quá mất mặt. Tới nước không nhịn nổi, Tào Tháo bèn ra lệnh đuổi Đinh phu nhân về nhà mẹ đẻ.
Tháo vốn nghĩ Đinh phu nhân khi nguôi cơn giận sẽ hồi tâm chuyển ý mà quay lại vương phủ. Thật chẳng ngờ, bà an bần lạc đạo, tĩnh tâm tận hưởng cuộc sống chốn quê nhà và chuyên tâm dệt vải. Tào Tháo nhiều lần sai người tới đón đều bị Đinh phu nhân thẳng thắn khước từ. Vì sợ tai tiếng, Tào Tháo đành đích thân đánh xe về quê đón đinh phu nhân nhưng bà vẫn không thèm quay nhìn , cũng không đáp lại lời thỉnh cầu của ông.
Về tới dinh phủ, Tào Tháo bèn sai người truyền lời tới nhà họ Đinh, rằng bản thân đã không thể níu giữ được trái tim phu nhân, nên can tâm tình nguyện để nàng cải giá. Sự thỏa hiệp ấy tựa hồ như dấu chấm hết cho mối lương duyên giữa Tháo và người vợ tào khang của mình. Sau khi đoạn tuyệt nghĩa tình, họ Tào nhanh chóng lập chính thất cho mình, ấy là Biện phu nhân. Riêng Đinh phu nhân, từ sau buổi gặp gỡ với Tào, bà sống lặng lẽ tới phút cuối đời tại nhà cha mẹ.
Biện Phu Nhân
Không rõ tên thật của bà là gì, chỉ biết bà họ Biện, xuất thân kỹ nữ, lưu lạc tới huyện Tiêu nước Bái nơi Tào Tháo ở. Năm 20 tuổi, bà trở thành vợ thứ hai của Tào Tháo, lúc đó là huyện lệnh huyện Đốn Khâu. Tào Phi, Tào Chương, Tào Thực và Tào Hùng, những người con nổi bật nhất của Tào Tháo, đều do bà sinh ra.
Tuy là vợ thứ nhưng Biện phu nhân được chồng khâm phục vì bản lĩnh rất lớn. Khi Tào Tháo chạy trốn khỏi sự truy nã của Đổng Trác, do có tin đồn ông ta đã chết nên cả nhà hoảng sợ cuống cuồng. Riêng bà vẫn bình thản khuyên mọi người đừng vội tin khi chưa có bằng chứng. Quả nhiên sau đó, Tào Tháo bình an quay về. Biện thị cũng được khen là người ăn ở độ lượng, có trước có sau. Vợ cả của Tào Tháo là Đinh thị, sau khi con trai chết thường bất hòa với chồng, cuối cùng bỏ về nhà cha mẹ, Tháo năn nỉ thế nào cũng không về. Biện phu nhân nhiều lần làm người hòa giải cũng không xong nên những khi chồng vắng nhà thường đón Đinh thị về chơi, phụng thị rất tử tế. Con gái của Đinh thị cũng được bà nuôi dạy chu đáo. Sau này khi cháu nội là Tào Tuấn lên làm vua, bà còn bảo cháu phong vương cho con trai một vợ lẽ của chồng mình, vốn bị bỏ quên. Tuy không phải vợ cả, xuất thân hèn kém nhưng Biện phu nhân lại là người vợ có danh vọng nhất của Tào Tháo. Khi Tháo được phong vương, bà trở thành Ngụy vương hậu. Con cả là Tào Phi kế nghiệp, bà được tôn là vương thái hậu, rồi thành hoàng thái hậu khi Tào Phi xưng đế, và là thái hoàng thái hậu khi cháu nội lên nối ngôi.
Cam Phu Nhân ( 188 – 209?)
Hoàng hậu của Chiêu Liệt Đế nhà Thục Hán.
Cam phu nhân, người đất Bái ( nay là huyện Bái tỉnh Giang Tô), Hoàng hậu của Chiêu Liệt Đế Lưu Bị nhà Thục Hán, được phong là “ Ngọc chất nhu cơ, thái mỵ dung dã”, khen về vẻ đẹp của bà, là một trong những người đẹp nổi tiếng thời Tam Quốc
Cuối đời Đông Hán, Lưu Bị dấy binh trấn áp quaan khởi nghĩa Hoàng Cần, được phong An hỷ Ý. Sau đến nương nhờ Công Tôn Toản, đựoc thay thế làm chức quan cai trị 2 châu Dự Châu và Từ Châu. Nhân người vợ trước đã chết, mến sắc đẹp của Cam thị, cưới Cam thị ở đất Bái làm phu nhân.
Năm 206, sinh Lưu Thiện ( sau là Hậu chủ nước Thục), lúc dó chừng 20 tuổi
Năm 208 ( năm tứ 13 Kiến An Hiến Đế Đông Hán) Tào Tháo mang tinh binh, ngày đi đêm đi 300 dặm, đuổi kịp tại Đương Dương Trường bản ( nay là đông bắc huyện Đương Dương tỉnh Hồ Bắc). Trong lúc nguy cấp Lưu Bị bỏ chạy, Cam phu nhân và Lưu Thiện nhờ Triệu Vân bảo hộ mới an toàn.
Dục tử bất năng đắc,
Dục sinh vô nhứt khả.
Bỉ sương giả ha cô?
Nãi lao thử ách họa!
Nghĩa:
Muốn chết mà không được,
Muốn sống thêm vất vả.
Hỡi trời xanh tội gì?
Bắt ta gặp tai họa!
Hồ phong xuân hạ khởi,
Phiên phiên suy ngã y,
Túc túc nhập ngã nhĩ.
Cảm thời niệm phụ mẫu,
Ai thán vô cùng dĩ!
Nghĩa:
Xuân hạ, gió Hồ nổi,
Phất phất tà áo ta.
Ào ào bên tai thổi,
Cảm xúc sinh nhớ nhà,
Cùng khổ thay nông nỗi.
(Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê)
Một hôm, Tào Tháo đem quân đánh Lưu Bị, tiện đường ghé thăm. Đổng Kỷ làm quan xa chỉ có nàng ở nhà. Nghe tin Tháo đến, nàng vội ra rước vào. Tháo ngồi trên sập, nàng thi lễ xong chắp tay đứng hầu bên. Tháo nhìn lên vách, chợt thấy một tấm bìa treo, có ghi bài văn bia, bèn đứng dậy bước đến xem và hỏi nguồn gốc. Thái Diễm thưa:
- Đây là bài văn bia đề một nàng Tào Nga. Xưa đời Hòa Đế, ở vùng Thượng Ngu có một người đồng bóng tên Tào Vu, hay lên đồng nhảy múa. Một hôm vào ngày mồng 5 tháng 5, Vu say rượu, đứng múa may trên thuyền, sẩy chân té xuống sông chết. Cô con gái của Vu vừa lên 14 tuổi, quá thương cha, cứ đi dọc bờ sông kêu khóc suốt 7 ngày đêm, rồi nhảy xuống nước mất tích. Qua 5 ngày sau, bỗng thấy nàng đội xác cha nổi lên mặt sông. Người trong làng vớt xác cả hai chôn cất. Quan huyện Thượng Ngu là Đỗ Thượng tâu việc ấy về triều. Triều đình khen nàng Tào Nga là gái hiếu, truyền cho lập bia. Đỗ Thượng lại sai Hàn Đan Thuần làm bài văn khắc vào bia để ghi lại việc ấy. Hàn Đan Thuần bấy giờ mới 13 tuổi, cầm bút viếc ngay một hơi thành bài văn, chẳng phải sửa chữa một chữ. Đỗ Thượng chịu là hay, cho khắc vào bia dựng bên mộ nàng Tào Nga. Thời bấy giờ, ai đọc cũng lấy làm lạ. Tiếng văn hay đồn dậy xa gần… Phụ thân thiếp nghe tiếng cũng tìm đến xem, gặp lúc trời tối, không nhìn thấy chữ, phải sờ vào bia, lần từ nét mà đọc. Đọc xong, người lấy bút viết 8 chữ lớn vào sau lưng bia. Về sau, có người khắc cả 8 chữ vào đấy.
Tào Tháo thấy 8 chữ ấy cũng ghi trên bức bia, bên cạnh bài văn như sau: “Hoàng quyến, ấu phụ, ngoại tôn, tê cửu”.
Tháo hỏi Diễm:
- Nhà ngươi có hiểu ý nghĩa 8 chữ này không?
Nàng thưa:
- Tuy là di bút của cha, nhưng thú thật thiếp cũng không hiểu ý nghĩa ra sao.
Tháo quay lại hỏi các mưu sĩ, mọi người đều chịu không biết. Bấy giờ có quan Chủ bạ là Dương Tu lên tiếng:
- Tôi hiểu ra rồi.
Tu giải:
- Tám chữ đó là ẩn ngữ của Thái Ung. “Hoàng quyến” là lụa màu vàng, tức là màu sắc của tơ (ti sắc), chữ “ti” với chữ “sắc” hợp lại thành chữ “tuyệt”. “Ấu phụ” nghĩa là con gái còn nhỏ, tức là “thiếu nữ”. Chữ “thiếu” đứng bên chữ “nữ” hợp thành chữ “diệu”. “Ngoại tôn” là cháu ngoại. Cháu ngoại tức là đứa con của con gái mình (nữ nhi tử). Chữ “nữ” chắp với chữ “tử” thành chữ “hảo”. “Tê cửu” là cái cối giã hành tỏi. Cái cối là vật chịu cay (thụ tân). Chữ “thụ” đặt bên chữ “tân” thành chữ “từ”. Tóm lại, đó là ẩn chữ “Tuyệt diệu hảo từ”, tức Thái Ung đã hết lời khen tặng văn chương của Hàn Đan Thuần vậy.
Mọi người đều khen Dương Tu tài thức mẫn tiệp.
Đinh phu nhân
Đinh phu nhân chính là vợ cả của Tào Tháo, nhưng không có nổi mụn con. Trước khi chung sống cùng người vợ họ Đinh, Tào Tháo đã từng chung chăn đụng gối với cô gái họ Lưu, rồi hạ sinh được một quý tử, đặt tên là Tào Ngang. Sinh nở khó khăn, Lưu thị lâm bệnh qua đời. Trước khi nhắm mắt, nàng ta đã đem con gửi gắm cho Đinh phu nhân, thỉnh cầu vị chính thất nuôi dưỡng con mình nên người. Chấp thuận lời cầu xin của họ Lưu, Đinh thị coi Tào Ngang như đứa con ruột thịt của mình, một lòng chăm bẵm, săn sóc. Tào Ngang lớn lên trở thành chàng trai khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn; 19 tuổi đã được tiến cử làm Hiếu liêm rồi trở thành vị tướng lĩnh thiếu niên oai phong, dũng mãnh nơi trận mạc.
Tới năm 197, tức năm Kiến An thứ hai, Tào Tháo đem quân thảo phạt Trương Tú. Trương Tú run sợ trước thế lực hùng mạnh của quân Tào, vội đầu hàng thua trận. Nhưng chính thói phong lưu, đa tình đã làm hại kẻ gian hùng đa mưu nhiều kế. Vì mê mẩn nhan sắc của thím dâu Trương Tú, Tào Tháo ngang nhiên tư thông với ả rồi nạp làm thiếp yêu, khiến Trương Tú nổi cơn tam bành, giữa đêm dẫn quân đánh trả, khiến Tào Tháo trở tay không kịp, vội vàng tháo chạy.
Trong cuộc chiến giữa họ Tào và họ Trương, trưởng nam của Tháo, tức Tào Ngang, đã mất mạng. Cháu của Tào Tháo là Tào An Dân cũng hy sinh. Đến vị tướng yêu Điển Vi cũng vì mắc mưu họ Trương mà bỏ mạng.
Thói phong lưu của phu quân, Đinh phu nhân có thể nhẫn nhịn cho qua, nhưng khi hay tin con trai chết trận, bà ta như hóa điên hóa dại. Lại hay, Tào Tháo sau khi đại bại, đã sai lập đền thờ cúng tế rồi than vãn với các tướng lĩnh của mình: “Ta mất con trưởng và đứa cháu yêu, không thương tiếc là mấy, chỉ khóc thương Điển Vi mà thôi”. Đinh phu nhân vì xót con mà thốt ra những lời căm phẫn, uất hận: “Ông hại chết con trai tôi Tào Ngang mà một chút hối hận, xót thương cũng không có”.
Lời giải thích của họ Tào, bất luận đúng sai, với Đinh phu nhân cũng không còn ý nghĩa. Một Tào Tháo uy phong lẫm liệt, luôn khiến đám thuộc hạ phải cung cung kính kính trước mình lại chịu sự quở mắng thậm tệ của vợ, thật quá mất mặt. Tới nước không nhịn nổi, Tào Tháo bèn ra lệnh đuổi Đinh phu nhân về nhà mẹ đẻ.
Tháo vốn nghĩ Đinh phu nhân khi nguôi cơn giận sẽ hồi tâm chuyển ý mà quay lại vương phủ. Thật chẳng ngờ, bà an bần lạc đạo, tĩnh tâm tận hưởng cuộc sống chốn quê nhà và chuyên tâm dệt vải. Tào Tháo nhiều lần sai người tới đón đều bị Đinh phu nhân thẳng thắn khước từ. Vì sợ tai tiếng, Tào Tháo đành đích thân đánh xe về quê đón đinh phu nhân nhưng bà vẫn không thèm quay nhìn , cũng không đáp lại lời thỉnh cầu của ông.
Về tới dinh phủ, Tào Tháo bèn sai người truyền lời tới nhà họ Đinh, rằng bản thân đã không thể níu giữ được trái tim phu nhân, nên can tâm tình nguyện để nàng cải giá. Sự thỏa hiệp ấy tựa hồ như dấu chấm hết cho mối lương duyên giữa Tháo và người vợ tào khang của mình. Sau khi đoạn tuyệt nghĩa tình, họ Tào nhanh chóng lập chính thất cho mình, ấy là Biện phu nhân. Riêng Đinh phu nhân, từ sau buổi gặp gỡ với Tào, bà sống lặng lẽ tới phút cuối đời tại nhà cha mẹ.
Biện Phu Nhân
Không rõ tên thật của bà là gì, chỉ biết bà họ Biện, xuất thân kỹ nữ, lưu lạc tới huyện Tiêu nước Bái nơi Tào Tháo ở. Năm 20 tuổi, bà trở thành vợ thứ hai của Tào Tháo, lúc đó là huyện lệnh huyện Đốn Khâu. Tào Phi, Tào Chương, Tào Thực và Tào Hùng, những người con nổi bật nhất của Tào Tháo, đều do bà sinh ra.
Tuy là vợ thứ nhưng Biện phu nhân được chồng khâm phục vì bản lĩnh rất lớn. Khi Tào Tháo chạy trốn khỏi sự truy nã của Đổng Trác, do có tin đồn ông ta đã chết nên cả nhà hoảng sợ cuống cuồng. Riêng bà vẫn bình thản khuyên mọi người đừng vội tin khi chưa có bằng chứng. Quả nhiên sau đó, Tào Tháo bình an quay về. Biện thị cũng được khen là người ăn ở độ lượng, có trước có sau. Vợ cả của Tào Tháo là Đinh thị, sau khi con trai chết thường bất hòa với chồng, cuối cùng bỏ về nhà cha mẹ, Tháo năn nỉ thế nào cũng không về. Biện phu nhân nhiều lần làm người hòa giải cũng không xong nên những khi chồng vắng nhà thường đón Đinh thị về chơi, phụng thị rất tử tế. Con gái của Đinh thị cũng được bà nuôi dạy chu đáo. Sau này khi cháu nội là Tào Tuấn lên làm vua, bà còn bảo cháu phong vương cho con trai một vợ lẽ của chồng mình, vốn bị bỏ quên. Tuy không phải vợ cả, xuất thân hèn kém nhưng Biện phu nhân lại là người vợ có danh vọng nhất của Tào Tháo. Khi Tháo được phong vương, bà trở thành Ngụy vương hậu. Con cả là Tào Phi kế nghiệp, bà được tôn là vương thái hậu, rồi thành hoàng thái hậu khi Tào Phi xưng đế, và là thái hoàng thái hậu khi cháu nội lên nối ngôi.
Cam Phu Nhân ( 188 – 209?)
Hoàng hậu của Chiêu Liệt Đế nhà Thục Hán.
Cam phu nhân, người đất Bái ( nay là huyện Bái tỉnh Giang Tô), Hoàng hậu của Chiêu Liệt Đế Lưu Bị nhà Thục Hán, được phong là “ Ngọc chất nhu cơ, thái mỵ dung dã”, khen về vẻ đẹp của bà, là một trong những người đẹp nổi tiếng thời Tam Quốc
Cuối đời Đông Hán, Lưu Bị dấy binh trấn áp quaan khởi nghĩa Hoàng Cần, được phong An hỷ Ý. Sau đến nương nhờ Công Tôn Toản, đựoc thay thế làm chức quan cai trị 2 châu Dự Châu và Từ Châu. Nhân người vợ trước đã chết, mến sắc đẹp của Cam thị, cưới Cam thị ở đất Bái làm phu nhân.
Năm 206, sinh Lưu Thiện ( sau là Hậu chủ nước Thục), lúc dó chừng 20 tuổi
Năm 208 ( năm tứ 13 Kiến An Hiến Đế Đông Hán) Tào Tháo mang tinh binh, ngày đi đêm đi 300 dặm, đuổi kịp tại Đương Dương Trường bản ( nay là đông bắc huyện Đương Dương tỉnh Hồ Bắc). Trong lúc nguy cấp Lưu Bị bỏ chạy, Cam phu nhân và Lưu Thiện nhờ Triệu Vân bảo hộ mới an toàn.
Cam phu nhân rất được Lưu Bị sủng ái, có người ở Hà Nam tặng Lưu Bị một pho người ngọc cao 3 thước, đặt người ngọc trên ngự sàng lấy người ngọc so sánh với màu da trắng nõn của
Khỏang năm 209, Cam phu nhân
chết, táng ở Nam quận (nay là phía Bắc huyện Giang Lăng
tỉnh Hồ Bắc). Năm 222 ( năm thứ 2 Hán Chiêu Liệt Đế Chương Vũ nước Thục – Tam
Quốc) được truy thụy là “ Hoàng tư phu nhân”, thiên về táng tại đất Thục, năm
sau truy phong “ Chiêu Liệt hoàng hậu”.
Điêu Thuyền ( Bế Nguyệt)
Ðiêu Thuyền bị loạn Ðổng Trác nên gia cảnh tan tành, cha mẹ bị giết hết, phiêu bạt lênh đênh, xin vào làm người ở cho quan Tư đồ Vương Doãn. Thấy nàng đẹp, có tài hát hay, đàn giỏi nên Vương Doãn nhận làm con nuôi.
Ðổng Trác vốn làm chức quan nhỏ nhưng nhờ khéo léo dùng lễ vật làm nhân tình, lo lót nên thăng đến chức quan cao, thống lãnh hơn 200,000 quân ở Hiệp Tâỵ Lòng tham không đáy, Ðổng Trác nuôi mộng chiếm luôn ngôi vua.
Nhân dịp triều đình bị loạn Thập thường thị (10 tên hoạn quan), Ðổng Trác lấy cớ bảo giá kéo quân về triều. Ðổng Trác chuyên quyền, khống chế các quan, giết vua Thiếu đế, Hà hậu, và Ðường phi. Ðổng Trác vào cung gian dâm cùng cung nữ và ngủ luôn trên long sàng, làm nhiều điều ngang ngược.
Ðổng Trác có đứa con nuôi tên Lữ Bố, sức đánh trăm người nên Ðổng Trác càng kiêu ngạo, hống hách. Ai chống đối thì bị giết ngay. Trước sự tàn bạo của Ðổng Trác, lòng dân căm phẩn, tất cả 18 chư hầu nổi lên nhưng đều bị Lã Bố dẹp yên. Ðại thắng, hắn càng kiêu căng. Và càng thẳng tay giết chóc.
Vương Doãn nghĩ đến hành vi lộng quyền, sát nhân của Ðổng Trác mà xốn xang, phiền muộn và muốn tìm cách giết đi . Mãi suy nghĩ mà chưa ra một kế nào thì một hôm, Ðiêu Thuyền nói với Vương Doãn rằng nàng tình nguyện làm bất cứ điều gì để báo ơn nuôi dưỡng của Vương Doãn. Vương Doãn cả mừng nói:
"Cha tin lòng của con nhưng ngại con không thực hiện được. Nguyên cha con thằng Ðổng Trác là phường hiếu sắc, bây giờ cha muốn dùng "liên hoàn kế", trước đem con hứa gả cho Lữ Bố rồi sau lại hiến con cho Ðổng Trác. Con ở giữa tùy cơ ứng biến làm cho hai cha con nó trở lại giết hại lẫn nhau.
Nếu làm được như vậy là con liều thân giúp nước, công nghiệp vô cùng to lớn."
Ðiêu Thuyền vâng lời. Vương Doãn bày tiệc tại nhà, mời Lữ Bố đến dự Trong bữa tiệc, Vương Doãn không ngớt lời ca tụng sức mạnh oai dũng của Lữ Bố làm cho Lữ Bố hừng chí, uống rượu hết bát này đến bát khác. Ðộ một lát, Vương Doãn truyền quân hầu đi nghỉ, chỉ để vài thị nữ ở lại châm rượu. Khi thấy Lữ Bố đã thấm hơi men, Vương Doãn truyền thị nữ phò Ðiêu Thuyền ra Mặt hoa mơn mởn, lại trang điểm vô cùng diễm lệ, mình liễu uyển chuyển, Lữ Bố vừa trông thấy giựt nẩy mình, tưởng là tiên nữ hạ phàm, nhìn không chớp mắt! Vương Doãn bảo Ðiêu Thuyền mời rượu Lữ Bố. Nàng uốn hai bàn tay ngà ngọc nâng ly rượu mời, anh mắt long lanh như sóng nước hồ thu đưa tình, bốn mắt nhìn nhau, rồi lại nhìn nhau nữa khiến cho kẻ ngẩn ngơ, người ngơ ngẩn. Vương Doãn giả say. Lữ Bố mời Ðiêu Thuyền ngồi. Có phải là "Tình trong như đã, mặt ngoài còn e" không? (!) Lữ Bố rõ ràng là "chết ngắc", cứ ngồi ngây người ra như tượng gỗ! Sau đó, Vương Doãn bảo Lữ Bố:
"Lão muốn đưa con gái lão qua làm tiểu thiếp tướng quân để hầu hạ trang anh hùng duy nhất thời nay. Chẳng hay tướng quân có lòng thương yêu dung nạp không?"
Tất nhiên là Lữ Bố còn gì sung sướng cho bằng. Vương Doãn lại bảo là để chọn ngày lành rồi nay mai sẽ đưa Ðiêu Thuyền sang làm vợ Lữ Bố.
Điêu Thuyền ( Bế Nguyệt)
Ðiêu Thuyền bị loạn Ðổng Trác nên gia cảnh tan tành, cha mẹ bị giết hết, phiêu bạt lênh đênh, xin vào làm người ở cho quan Tư đồ Vương Doãn. Thấy nàng đẹp, có tài hát hay, đàn giỏi nên Vương Doãn nhận làm con nuôi.
Ðổng Trác vốn làm chức quan nhỏ nhưng nhờ khéo léo dùng lễ vật làm nhân tình, lo lót nên thăng đến chức quan cao, thống lãnh hơn 200,000 quân ở Hiệp Tâỵ Lòng tham không đáy, Ðổng Trác nuôi mộng chiếm luôn ngôi vua.
Nhân dịp triều đình bị loạn Thập thường thị (10 tên hoạn quan), Ðổng Trác lấy cớ bảo giá kéo quân về triều. Ðổng Trác chuyên quyền, khống chế các quan, giết vua Thiếu đế, Hà hậu, và Ðường phi. Ðổng Trác vào cung gian dâm cùng cung nữ và ngủ luôn trên long sàng, làm nhiều điều ngang ngược.
Ðổng Trác có đứa con nuôi tên Lữ Bố, sức đánh trăm người nên Ðổng Trác càng kiêu ngạo, hống hách. Ai chống đối thì bị giết ngay. Trước sự tàn bạo của Ðổng Trác, lòng dân căm phẩn, tất cả 18 chư hầu nổi lên nhưng đều bị Lã Bố dẹp yên. Ðại thắng, hắn càng kiêu căng. Và càng thẳng tay giết chóc.
Vương Doãn nghĩ đến hành vi lộng quyền, sát nhân của Ðổng Trác mà xốn xang, phiền muộn và muốn tìm cách giết đi . Mãi suy nghĩ mà chưa ra một kế nào thì một hôm, Ðiêu Thuyền nói với Vương Doãn rằng nàng tình nguyện làm bất cứ điều gì để báo ơn nuôi dưỡng của Vương Doãn. Vương Doãn cả mừng nói:
"Cha tin lòng của con nhưng ngại con không thực hiện được. Nguyên cha con thằng Ðổng Trác là phường hiếu sắc, bây giờ cha muốn dùng "liên hoàn kế", trước đem con hứa gả cho Lữ Bố rồi sau lại hiến con cho Ðổng Trác. Con ở giữa tùy cơ ứng biến làm cho hai cha con nó trở lại giết hại lẫn nhau.
Nếu làm được như vậy là con liều thân giúp nước, công nghiệp vô cùng to lớn."
Ðiêu Thuyền vâng lời. Vương Doãn bày tiệc tại nhà, mời Lữ Bố đến dự Trong bữa tiệc, Vương Doãn không ngớt lời ca tụng sức mạnh oai dũng của Lữ Bố làm cho Lữ Bố hừng chí, uống rượu hết bát này đến bát khác. Ðộ một lát, Vương Doãn truyền quân hầu đi nghỉ, chỉ để vài thị nữ ở lại châm rượu. Khi thấy Lữ Bố đã thấm hơi men, Vương Doãn truyền thị nữ phò Ðiêu Thuyền ra Mặt hoa mơn mởn, lại trang điểm vô cùng diễm lệ, mình liễu uyển chuyển, Lữ Bố vừa trông thấy giựt nẩy mình, tưởng là tiên nữ hạ phàm, nhìn không chớp mắt! Vương Doãn bảo Ðiêu Thuyền mời rượu Lữ Bố. Nàng uốn hai bàn tay ngà ngọc nâng ly rượu mời, anh mắt long lanh như sóng nước hồ thu đưa tình, bốn mắt nhìn nhau, rồi lại nhìn nhau nữa khiến cho kẻ ngẩn ngơ, người ngơ ngẩn. Vương Doãn giả say. Lữ Bố mời Ðiêu Thuyền ngồi. Có phải là "Tình trong như đã, mặt ngoài còn e" không? (!) Lữ Bố rõ ràng là "chết ngắc", cứ ngồi ngây người ra như tượng gỗ! Sau đó, Vương Doãn bảo Lữ Bố:
"Lão muốn đưa con gái lão qua làm tiểu thiếp tướng quân để hầu hạ trang anh hùng duy nhất thời nay. Chẳng hay tướng quân có lòng thương yêu dung nạp không?"
Tất nhiên là Lữ Bố còn gì sung sướng cho bằng. Vương Doãn lại bảo là để chọn ngày lành rồi nay mai sẽ đưa Ðiêu Thuyền sang làm vợ Lữ Bố.
Ngày hôm sau, Vương Doãn lại mời Ðổng Trác đến nhà ăn tiệc. Vương Doãn ra lệnh tấu nhạc, rồi mời Ðổng Trác uống rượu. Khi trời về chiều, rượu đã ngà say Vương Doãn mời Ðổng Trác vào hậu đường. Bấy giờ, đuốc hoa đốt lên ráng rực cả nhà. Vương Doãn chỉ giữ lại mấy cô hầu dâng rượu, rồi thưa với Ðổng Trác:
"Nhà cũng có phường giáo nhạc nhưng sợ kém cỏi vụng về, sợ không đẹp ý Thái sư nên không cho ra diễn tấu. Duy còn một kỳ nữ tài hoa khá lắm, xin cho phép gọi ra hầu."
Một lần khác, Lữ Bố lén gặp Ðiêu Thuyền. Ðiêu Thuyền tỏ vẻ tươi cười bảo Lữ Bố:
-Lang quân ra sau vườn đến Phụng nghi đình mà chờ thiếp.
Ðiêu Thuyền trang điểm xong, vội vàng bước ra Phụng nghi đình gặp Lữ Bố, rưng rưng nước mắt nói:
-Thiếp tuy là con nuôi của quan Tư đồ song người coi như con đẻ. Người gả thiếp cho lang quân là chọn chỗ xứng đáng cho thiếp trao thân, gởi phận. Mừng chưa kịp no, không dè Thái sư (tức Ðổng Trác) lòng trâu dạ chó, bắt thiếp cưỡng bức như thế này. Sở dĩ thiếp chưa chịu chết vì chưa gặp mặt chồng. Nghĩ lại thiếp ngày nay chẳng khác hoa tàn, nhụy rữa còn phụng sự anh hùng sao đặng. Vậy thiếp xin tự tử trước mặt lang quân để lang quân hiểu rõ nỗi lòng của thiếp.
Nói xong Ðiêu Thuyền nhắm ngay ao sen toan nhảy xuống. Lữ Bố lật đật ôm lại, cảm động nói:
-Ta biết rõ lòng nàng lắm rồi
Gặp đã lâu, Lữ Bố sợ Ðổng Trác về bắt gặp nên xách kích muốn đi. Ðiêu Thuyền nói:
-Thiếp ở chốn khuê phòng nghe danh tiếng lang quân anh hùng trên đời có một, không ngờ lại bị có người kiềm chế như thế!
Nói rồi lại khóc òa lên như mưa như gió một cách bi thảm. Bố lấy làm thẹn thùa, xấu hổ để kích xuống, ôm lấy Ðiêu Thuyền, rút khăn chậm nước mắt cho nàng, tìm lời vỗ về an ủi. Hai người đang bịn rịn, âu yếm, không nỡ buông nhau thì thấy Ðổng Trác! Trác nổi máu ghen sùng sục, Lữ Bố hoảng hồn bỏ chạy, quên cả cây kích dựa lan can. Trác cúi xuống, cầm kích phóng ngay vào người Lữ Bố nhưng không trúng.
Sau đó, do lời khuyên của Lý Nhu, Ðổng Trác muốn gả Ðiêu Thuyền cho Lữ Bố nên gọi Ðiêu Thuyền vào và nói:
-Sao mi dám tư thông với thằng Lữ Bố?
Ðiêu Thuyền khóc nấc lên rồi kể:
-Thiếp đương xem hoa nơi sau vườn, thình lình Lữ Bố bước vào, thiếp hoảng sợ toan chạy trốn. Hắn nói hắn là con của Thái sư, không hề chi, rồi cầm kích rượt thiếp đến Phụng nghi đình. Thấy nó sinh tâm xấu xa như vậy, thiếp định liều mình nhảy xuống ao sen. Nó lại ôm cứng lấy thiếp.
Ðương cơn bối rối thì vừa may ngài vào kịp nên thiếp mới toàn tính mạng. Vậy mà Thái sư không thương lại còn nói oan, nói xấu cho thiếp.
Trác nói:
-Ý ta muốn gả mi cho Lữ Bố, vậy mi có bằng lòng không?
Ðiêu Thuyền thất sắc, nức nở:
-Thiếp đã thất thân với Thái sư, bây giờ Thái sư lại nỡ lòng đem đưa thiếp cho con là một thằng thất phu như thế thì trái đạo quá. Vậy thiếp thà chết còn hơn sống mà chịu nhơ danh.
Nói xong Ðiêu Thuyền bước lại rút lấy gươm treo trên vách toan đâm vào cổ. Trác hốt hoảng, vội giựt gươm, ôm Ðiêu Thuyền vào lòng, v.v....
Cuối cùng, trong âm mưu với Vương Doãn và Lý Túc, chính Lữ Bố là người cầm kích đâm ngay yết hầu của Ðổng Trác.
Tây Thi với Ðiêu Thuyền cùng lấy sắc khuynh thành. Nhưng việc làm của Tây Thi còn dễ, việc của Ðiêu Thuyền khó hơn. Tây Thi chỉ phải đánh ngã một mình Ngô Phù Sai. Ðiêu Thuyền phải đồng thời đánh ngã cả Lữ Bố và Ðổng Trác. Phải luôn luôn nghĩ mưu kế trong lòng, thay đổi bộ mặt để đối phó với cả hai bên. Ta nghĩ rằng cái công của Ðiêu Thuyền đáng ghi vào sử xanh.
Nếu như, khi Ðổng Trác bị giết rồi, Vương Doãn không vụng về mà gây ra cái loạn Lý Thôi, Quách Dĩ thì cơ đồ nhà Hán đã phục hưng ngay từ đó. Và như thế thì một cô gái như Ðiêu Thuyền há lại không đáng ghi tên vào nơi Phượng các, không được tô tượng ở chỗ Lân đài hay sao ?
Cái tuyệt diệu của kế "liên hoàn" không phải là làm cho Lữ Bố giết Ðổng Trác đâu. Ngược lại, nhằm làm cho Ðổng Trác giết Lữ Bố. Nếu Trác cầm kích, phóng trúng Lữ Bố tức là Trác đã tự chặt một cánh tay và Trác sẽ bị tiêu diệt dễ dàng. Ðó mới là chủ ý.
Riêng ta, ta yêu nàng Tây Thi thật lòng trở về với Phạm Lãi; và yêu nàng Ðiêu Thuyền giả vờ sống chết với Lữ Bố. Bởi vì tuy thân đứng trước Lữ Bố, nhưng lòng Ðiêu Thuyền bao giờ cũng chỉ nghĩ đến báo công nuôi dưỡng cho Vương Doãn mà thôi.
Đại Kiều
Trung Quốc xưa có hai nàng Kiều,
đó là hai người con gái đẹp nổi tiếng thời Tam quốc được nhà văn La Quán Trung
và nhiều sách sử nhắc đến. Tương truyền rằng, họ Kiều, chủ nhân một gia trang
lớn, đẹp đẽ, gần vùng núi của quận Cối Kê xứ Giang Đông, có hai người con gái
xinh đẹp tuyệt trần. Người chị tên là Đại Kiều (sinh khoảng năm 178 sau CN,
cuối thời Hán, có sách chép hiệu là Kiều Ngọc Hồng, còn người em tên là Tiểu
Kiều, sinh khoảng năm 180 sau CN hiệu là Kiều Hồng Liên).
Đại Kiều là một mỹ nhân trong thời Tam Quốc, cùng với mỹ nhân Tiểu Kiều- cả 2 được gọi là Nhị Kiều, được Gia Các Lượng hiến kế với Chu Du dâng Tào Tháo, ... dẫn đến trận Xích Bích. Tào Tháo vì mộng chiếm Nhị Kiều nên đạ thua tan tác.
Một trong những câu chuyện hay nhất trong Tam Quốc là câu chuyện về Nhị Kiều và trận Xích Bích đã đưa đến việc chia thiên hạ thành thế chân vạc giữa ba nhà Lưu, Tôn, Tào.
Khởi đầu câu chuyện này là việc Lưu Bị thất trận và để chín quận Tương Dương, đất vuông nghìn dặm của Lưu Biểu, trước khi thác đã muốn giao lại cho Lưu Bị trấn giữ rơi vào tay Tào Tháo. Nên trong lúc tàn quân không có đất cắm dùi, chúa tôi nhìn nhau trong thảm cảnh ,Gia Cát đành một mình mạo hiểm sang Đông Ngô làm thuyết khách mong liên kết Tôn - Lưu thực hiện kế chống Tào.
Truyện kể rằng, vào lúc ấy toàn cõi Giang Đông rúng động bởi Tào mới lấy được Tương Dương uy thế quá lớn, lại đem đại quân đóng ở Giang Hán có ý nhòm ngó đông Ngô. Trước tình thế này, chúa tôi Đông Ngô không đồng thuận, phía văn quan đề xuất xin hàng cũng lắm, mà kẻ võ tướng có ý định quy giáp cũng nhiều, duy chỉ còn lại vài ba người như Lỗ Túc là quyết một lòng tỏ trung can cùng tuế nguyệt. Tuy thế, Tôn Quyền mỗi lúc một thêm nghi hoặc không quyết, bởi vì: Hàng thì yên, giữ thì khó.
Đúng lúc ấy, Gia Cát xuất hiện. Nhưng ông đã không mang tài hùng biện, trí thao luợc, cũng như quân hùng, tướng mạnh của Lưu Bị ra để làm trục tiếp vận cho cuộc liên minh với Ngô. Trái lại, ông đã làm cho triều thần Đông Ngô thêm bối rồi vì bản tin thổi phồng thêm sức mạnh cho đoàn quân của Tào. Từ đó phe chủ hàng thêm đông. Riêng Tôn Quyền chi còn trông cậy vào ý kiến của Chu Du lúc ấy đang ở ngoài biên.
Đến khi gặp Gia Cát, Du bảo hàng, Lỗ Túc bảo không. Riêng Gia Cát ngồi mìm cười và chê Lỗ Túc không thức thời vụ. Đến khi đuợc hỏi ý, Gia Cát khuyên Chu Du nên hiến hai nàng kiều ở Giang Nam cho Tào Tháo vui tuổi già mà làm kế nghị xin hoà:
- Ông xem, Giang Nam mất hai nàng Kiều thì như rừng già mất hai cái lá và kho Thái Thượng mất hai hột thóc… đáng kể gì. Vậy tướng quân còn chần chờ gì nữa mà không sai sửa thuyền kết hoa, đưa người sang sông làm kế rút quân cho Tào?
Nghe thế, Chu Du nóng mặt hỏi lại:
- Ông có bằng cớ gì chứng minh là… Tào có ý ấy không?
Đại Kiều là một mỹ nhân trong thời Tam Quốc, cùng với mỹ nhân Tiểu Kiều- cả 2 được gọi là Nhị Kiều, được Gia Các Lượng hiến kế với Chu Du dâng Tào Tháo, ... dẫn đến trận Xích Bích. Tào Tháo vì mộng chiếm Nhị Kiều nên đạ thua tan tác.
Một trong những câu chuyện hay nhất trong Tam Quốc là câu chuyện về Nhị Kiều và trận Xích Bích đã đưa đến việc chia thiên hạ thành thế chân vạc giữa ba nhà Lưu, Tôn, Tào.
Khởi đầu câu chuyện này là việc Lưu Bị thất trận và để chín quận Tương Dương, đất vuông nghìn dặm của Lưu Biểu, trước khi thác đã muốn giao lại cho Lưu Bị trấn giữ rơi vào tay Tào Tháo. Nên trong lúc tàn quân không có đất cắm dùi, chúa tôi nhìn nhau trong thảm cảnh ,Gia Cát đành một mình mạo hiểm sang Đông Ngô làm thuyết khách mong liên kết Tôn - Lưu thực hiện kế chống Tào.
Truyện kể rằng, vào lúc ấy toàn cõi Giang Đông rúng động bởi Tào mới lấy được Tương Dương uy thế quá lớn, lại đem đại quân đóng ở Giang Hán có ý nhòm ngó đông Ngô. Trước tình thế này, chúa tôi Đông Ngô không đồng thuận, phía văn quan đề xuất xin hàng cũng lắm, mà kẻ võ tướng có ý định quy giáp cũng nhiều, duy chỉ còn lại vài ba người như Lỗ Túc là quyết một lòng tỏ trung can cùng tuế nguyệt. Tuy thế, Tôn Quyền mỗi lúc một thêm nghi hoặc không quyết, bởi vì: Hàng thì yên, giữ thì khó.
Đúng lúc ấy, Gia Cát xuất hiện. Nhưng ông đã không mang tài hùng biện, trí thao luợc, cũng như quân hùng, tướng mạnh của Lưu Bị ra để làm trục tiếp vận cho cuộc liên minh với Ngô. Trái lại, ông đã làm cho triều thần Đông Ngô thêm bối rồi vì bản tin thổi phồng thêm sức mạnh cho đoàn quân của Tào. Từ đó phe chủ hàng thêm đông. Riêng Tôn Quyền chi còn trông cậy vào ý kiến của Chu Du lúc ấy đang ở ngoài biên.
Đến khi gặp Gia Cát, Du bảo hàng, Lỗ Túc bảo không. Riêng Gia Cát ngồi mìm cười và chê Lỗ Túc không thức thời vụ. Đến khi đuợc hỏi ý, Gia Cát khuyên Chu Du nên hiến hai nàng kiều ở Giang Nam cho Tào Tháo vui tuổi già mà làm kế nghị xin hoà:
- Ông xem, Giang Nam mất hai nàng Kiều thì như rừng già mất hai cái lá và kho Thái Thượng mất hai hột thóc… đáng kể gì. Vậy tướng quân còn chần chờ gì nữa mà không sai sửa thuyền kết hoa, đưa người sang sông làm kế rút quân cho Tào?
Nghe thế, Chu Du nóng mặt hỏi lại:
- Ông có bằng cớ gì chứng minh là… Tào có ý ấy không?
Nghe hỏi, Gia Cát liền đọc ngay bài Đổng Tước Đài Phú. Khi đọc đến câu 7
và tám, Gia Cát đổi đi vài chữ:
Tìm hai Kiều phương Nam về sống,
Vui cùng nhau giấc mộng hồi xuân.
Thay vì nguyên văn là:
Bắc hai cầu Đông Tây nối lại,
Như cầu vồng sáng chói không gian.
Vừa nghe xong, Chu Du đứng vụt dậy, trỏ tay về hướng bắc, nghiến rằng trợn mắt mà thề rằng:
- Thằng giặc gìa họ Tào kia dám khinh ta thế à? Ta thề sẽ giết nó.
Lời nghiến răng của Chu Du kêu ken két mà Gia Cát lại bảo:
- Này ông, khẽ chứ! kẻo Tào nó nghe thấy thì nguy. Vả lại có đáng gì hai nàng dân giả ấy?
Chu Du muốn thổ huyết, cắn răng bảo Gia Cát Rằng: “Thằng giặc già kia dám khinh ta thế à? Ta thề sẽ giết nó!" Kết quả, lời thề của Chu Du đánh tan mọi mối nghi hoặc trong lòng Tôn Quyền, nên trong ngày hội, Quyền đã rút bảo kiếm ra chém đứt một góc bàn rồi trao kiếm cho Chu lang, hạ lệnh. Kẻ nào nói hàng là chém.
......
Sau Đông Ngô liên minh cùng Tây Thục, nhờ Khổng Minh cầu đông phong, nên Chu Du dùng hỏa công đốt phá binh Tào tại trận Xích Bích. Tháo thua to, mộng chiếm đất Giang Nam để đoạt lấy hai nàng Kiều đẹp hoàn toàn tan vỡ.Đại Kiều là 1 mỹ nhân có nét hài hòa, gương mặt thanh tú, đôi mắt ướt lệ, mang nét đẹp không quá kiều diễm nhưng đủ sức mê hoặc người khác ...
Tìm hai Kiều phương Nam về sống,
Vui cùng nhau giấc mộng hồi xuân.
Thay vì nguyên văn là:
Bắc hai cầu Đông Tây nối lại,
Như cầu vồng sáng chói không gian.
Vừa nghe xong, Chu Du đứng vụt dậy, trỏ tay về hướng bắc, nghiến rằng trợn mắt mà thề rằng:
- Thằng giặc gìa họ Tào kia dám khinh ta thế à? Ta thề sẽ giết nó.
Lời nghiến răng của Chu Du kêu ken két mà Gia Cát lại bảo:
- Này ông, khẽ chứ! kẻo Tào nó nghe thấy thì nguy. Vả lại có đáng gì hai nàng dân giả ấy?
Chu Du muốn thổ huyết, cắn răng bảo Gia Cát Rằng: “Thằng giặc già kia dám khinh ta thế à? Ta thề sẽ giết nó!" Kết quả, lời thề của Chu Du đánh tan mọi mối nghi hoặc trong lòng Tôn Quyền, nên trong ngày hội, Quyền đã rút bảo kiếm ra chém đứt một góc bàn rồi trao kiếm cho Chu lang, hạ lệnh. Kẻ nào nói hàng là chém.
......
Sau Đông Ngô liên minh cùng Tây Thục, nhờ Khổng Minh cầu đông phong, nên Chu Du dùng hỏa công đốt phá binh Tào tại trận Xích Bích. Tháo thua to, mộng chiếm đất Giang Nam để đoạt lấy hai nàng Kiều đẹp hoàn toàn tan vỡ.Đại Kiều là 1 mỹ nhân có nét hài hòa, gương mặt thanh tú, đôi mắt ướt lệ, mang nét đẹp không quá kiều diễm nhưng đủ sức mê hoặc người khác ...
Tiểu Kiều
Chu Du tự là Công Cẩn, sinh năm 178 sau CN,
nổi tiếng là người đa mưu túc trí, học rộng, giỏi cả âm nhạc, thơ ca, là người
sớm giúp anh em Tôn Sách, Tôn Quyền, đặt nền móng cơ bản về chính trị, quân sự
trong buổi đầu dựng nước Ngô, làm cho nước Ngô hùng mạnh trong thời Tam quốc.
Ông là người thành đạt sớm trên cả đường công danh và đường tình duyên. Vợ ông
là Tiểu Kiều - một trong những phụ nữ xinh đẹp, danh giá nhất thời đại mình.
Nàng Tiểu Kiều dáng người vừa phải, thông minh, thích đọc sách, chơi đàn giỏi,
biết làm thơ và giống chị ở chỗ rất thích ngắm hoa, chăm sóc trong vườn nhà,
ngắm xem phong cảnh cả vùng có đầy đủ sơn thủy hữu tình, chim chóc vui hót, cá
lội tung tăng dưới những con suối trong vắt...
Chu Du luôn nhớ kỷ niệm cùng Tôn Sách lần đầu tiên gặp gỡ hai nàng Kiều. Lần ấy, khi thấy 2 nàng trong vườn hoa, ông đã xuất khẩu thành bài thơ sau:
"Hai đoá hoa Kiều gia
Lấp lánh trong mùa xuân
Có hai cành trúc cứng
Muốn sống mãi bên hoa"
Thế rồi, gia đình Kiều lão đón tiếp hai vị khách quý rất chân tình, ấm áp. Nàng Đại Kiều mang bánh bao do chính nàng làm để đãi khách và nghe Tôn Sách nói về các trận đánh đầy ngưỡng mộ. Còn nàng Tiểu Kiều thì bàn luận cùng Chu Du về âm nhạc và tấu một bản đàn ứng tác. Vừa nghe tiếng đàn, Chu Du đã hiểu tình cảm của nàng và chàng thầm ước bao điều mơ mộng... Mấy ngày sau hai viên tướng trẻ đã phái ngay Trương Chiêu và các cận tướng khác mang sính lễ đến hỏi nàng Đại Kiều cho Tôn Sách, Tiểu Kiều cho Chu Du. Mãi nghĩ về kỷ niệm cũ, Chu thấy câu chuyện dường như chỉ mới xảy ra, thế mà nay Tôn Sách đã không còn nữa... Nghĩ đến đấy, bất giác hai dòng nước mắt chảy lặng lẽ trên má của Đại Đô đốc nước Ngô.
Sau khi Tôn Sách bị ám sát, Tôn Quyền kế nghiệp người anh tài ba của mình. Tôn Quyền cùng những bề tôi xuất sắc đã mở mang cơ nghiệp làm cho Giang Đông giàu mạnh, quân dội quy củ. Chu Du được bổ làm Đại Đô đốc thống lĩnh ba quân. Tuy chỉ ở dưới một người, đứng trên muôn người, công việc nặng nề nhưng Chu Du vẫn tổ chức cuộc sống của mình rất ý vị. Mỗi khi chồng về, Tiểu Kiều lại dịu dàng chăm sóc, chuyện trò tâm tình để chồng vơi nỗi lo lắng, mệt nhọc. Tiểu Kiều đánh đàn, làm thơ gần như thành nhật ký viết về sự nhớ nhung khắc khoải của nàng đối với chồng. Chu Du rất cảm động, tâm sự với Lỗ Túc: "Tướng soái có vợ hiền mới yên lòng ra trận được". Nàng Tiểu Kiều rất mến khách, thường giúp chồng tổ chức các buổi yến tiệc đãi khách quý, làm cho họ có dịp gần gũi hiểu nhau để phò vua, giúp nước.
Năm 208 sau CN, Tào Tháo soái lĩnh 83 vạn quân đánh Giang Đông, cả triều đình Tôn Quyền run sợ, Trương Chiêu và nhiều người muốn hàng, chỉ có Lỗ Túc chủ chiến, mời Khổng Minh quân sư của Lưu Bị sang phối hợp. Chu Du đang luyện tập thuỷ quân ở Phố Châu vội trở về triều. Là người quyết đoán, dũng cảm, Chu Du đã có chủ trương, cộng thêm Khổng Minh nói khích rằng Tào Tháo đánh Giang Đông chính là muốn bắt hai nàng Kiều về để sống ở đài Đồng Tước (Khổng Minh khéo léo chữa vài chữ trong bài thơ của Tào Tháo cho phù hợp với thông tin này) làm cho Chu Du thêm quyết tâm chống Tào. Chỉ một trận hoả công, Chu Du đã đốt cháy các chiến thuyền của Tào Tháo cùng hơn 80 vạn quân Tào, làm nên chiến thắng Xích Bích lừng lẫy. Sau này trong trận đọ trí với Khổng Minh để đòi Kinh Châu, Chu Du bị thất bại nên bệnh loét dạ dày thêm trầm trọng. Do làm việc quá sức lại hay uống rượu nên ông bị thủng dạ dày, thổ huyết và chết khi 36 tuổi để lại người vợ trẻ đẹp cùng 3 đứa con thơ dại. Nàng Tiểu Kiều vô cùng buồn bã tấu bản đàn:
"Chu lang ở trận tiền
Thiếp ở nhà mong đợi
Gẩy lên một khúc đàn
Tiếng đàn mang nỗi nhớ
Chàng có nghe thấu chăng"
Rồi nàng thả chiếc đàn xuống sông. Dòng sông tung lên những đợt sóng réo ầm vang như hát khúc trường ca về sự nghiệp của Chu Du cùng mối tình của nàng. Sau này khi được Tào Tháo hỏi lý do tại sao hai đôi trai tài, gái sắc Giang Đông lại không thể bên nhau trọn đời, các mưu sĩ giỏi nhân tướng học của Tháo trả lời rằng: Hai nàng Kiều đều có mắt buồn, thần sắc hơi thảng thốt. Riêng Tiểu Kiều nếu nhìn kỹ thì trên mũi có gân xanh là tướng khắc phu. Chu Du mặt mũi khôi ngô nhưng vùng tai có chỗ hơi xạm đen, thùy châu tai nhỏ, lỗ tai bé không cho lọt ngón tay trỏ, nên mạng yểu.
Chu Du luôn nhớ kỷ niệm cùng Tôn Sách lần đầu tiên gặp gỡ hai nàng Kiều. Lần ấy, khi thấy 2 nàng trong vườn hoa, ông đã xuất khẩu thành bài thơ sau:
"Hai đoá hoa Kiều gia
Lấp lánh trong mùa xuân
Có hai cành trúc cứng
Muốn sống mãi bên hoa"
Thế rồi, gia đình Kiều lão đón tiếp hai vị khách quý rất chân tình, ấm áp. Nàng Đại Kiều mang bánh bao do chính nàng làm để đãi khách và nghe Tôn Sách nói về các trận đánh đầy ngưỡng mộ. Còn nàng Tiểu Kiều thì bàn luận cùng Chu Du về âm nhạc và tấu một bản đàn ứng tác. Vừa nghe tiếng đàn, Chu Du đã hiểu tình cảm của nàng và chàng thầm ước bao điều mơ mộng... Mấy ngày sau hai viên tướng trẻ đã phái ngay Trương Chiêu và các cận tướng khác mang sính lễ đến hỏi nàng Đại Kiều cho Tôn Sách, Tiểu Kiều cho Chu Du. Mãi nghĩ về kỷ niệm cũ, Chu thấy câu chuyện dường như chỉ mới xảy ra, thế mà nay Tôn Sách đã không còn nữa... Nghĩ đến đấy, bất giác hai dòng nước mắt chảy lặng lẽ trên má của Đại Đô đốc nước Ngô.
Sau khi Tôn Sách bị ám sát, Tôn Quyền kế nghiệp người anh tài ba của mình. Tôn Quyền cùng những bề tôi xuất sắc đã mở mang cơ nghiệp làm cho Giang Đông giàu mạnh, quân dội quy củ. Chu Du được bổ làm Đại Đô đốc thống lĩnh ba quân. Tuy chỉ ở dưới một người, đứng trên muôn người, công việc nặng nề nhưng Chu Du vẫn tổ chức cuộc sống của mình rất ý vị. Mỗi khi chồng về, Tiểu Kiều lại dịu dàng chăm sóc, chuyện trò tâm tình để chồng vơi nỗi lo lắng, mệt nhọc. Tiểu Kiều đánh đàn, làm thơ gần như thành nhật ký viết về sự nhớ nhung khắc khoải của nàng đối với chồng. Chu Du rất cảm động, tâm sự với Lỗ Túc: "Tướng soái có vợ hiền mới yên lòng ra trận được". Nàng Tiểu Kiều rất mến khách, thường giúp chồng tổ chức các buổi yến tiệc đãi khách quý, làm cho họ có dịp gần gũi hiểu nhau để phò vua, giúp nước.
Năm 208 sau CN, Tào Tháo soái lĩnh 83 vạn quân đánh Giang Đông, cả triều đình Tôn Quyền run sợ, Trương Chiêu và nhiều người muốn hàng, chỉ có Lỗ Túc chủ chiến, mời Khổng Minh quân sư của Lưu Bị sang phối hợp. Chu Du đang luyện tập thuỷ quân ở Phố Châu vội trở về triều. Là người quyết đoán, dũng cảm, Chu Du đã có chủ trương, cộng thêm Khổng Minh nói khích rằng Tào Tháo đánh Giang Đông chính là muốn bắt hai nàng Kiều về để sống ở đài Đồng Tước (Khổng Minh khéo léo chữa vài chữ trong bài thơ của Tào Tháo cho phù hợp với thông tin này) làm cho Chu Du thêm quyết tâm chống Tào. Chỉ một trận hoả công, Chu Du đã đốt cháy các chiến thuyền của Tào Tháo cùng hơn 80 vạn quân Tào, làm nên chiến thắng Xích Bích lừng lẫy. Sau này trong trận đọ trí với Khổng Minh để đòi Kinh Châu, Chu Du bị thất bại nên bệnh loét dạ dày thêm trầm trọng. Do làm việc quá sức lại hay uống rượu nên ông bị thủng dạ dày, thổ huyết và chết khi 36 tuổi để lại người vợ trẻ đẹp cùng 3 đứa con thơ dại. Nàng Tiểu Kiều vô cùng buồn bã tấu bản đàn:
"
Thiếp ở nhà mong đợi
Gẩy lên một khúc đàn
Tiếng đàn mang nỗi nhớ
Chàng có nghe thấu chăng"
Rồi nàng thả chiếc đàn xuống sông. Dòng sông tung lên những đợt sóng réo ầm vang như hát khúc trường ca về sự nghiệp của Chu Du cùng mối tình của nàng. Sau này khi được Tào Tháo hỏi lý do tại sao hai đôi trai tài, gái sắc Giang Đông lại không thể bên nhau trọn đời, các mưu sĩ giỏi nhân tướng học của Tháo trả lời rằng: Hai nàng Kiều đều có mắt buồn, thần sắc hơi thảng thốt. Riêng Tiểu Kiều nếu nhìn kỹ thì trên mũi có gân xanh là tướng khắc phu. Chu Du mặt mũi khôi ngô nhưng vùng tai có chỗ hơi xạm đen, thùy châu tai nhỏ, lỗ tai bé không cho lọt ngón tay trỏ, nên mạng yểu.
Cha của nàng là Từ Côn, là danh gia vọng tộc quận Ngô, từng cùng Tôn Kiên, Tôn Sách Nam chinh Bắc phạt, sau này chết trận trong khi chinh phạt Hoàng Tổ. Khi Tôn Quyền quyết định lập người con gái này làm phu nhân đã gặp rất nhiều trắc trở, bởi vì vấp phải sự phản đối của hầu hết các đại thần trong triều. Đầu tiên, thân phận của hai người không phải, nàng là cháu gái của cô mẫu Tôn Quyền cũng có nghĩa Tôn Quyền là biểu thúc (chú họ) của nàng vì thế là họ hàng cận huyết. Nhưng đây không phải là trở ngại lớn nhất mà nếu lấy nàng thì khi họ hàng thân thích gặp nhau phải xưng hô thế nào. Hơn nữa nàng là quả phụ, chồng của nàng vốn là Lục Thượng, chính là cháu trai của Lục Khang bị Tôn Sách bức tức mà chết. Sau khi Lục Thượng mất, Tôn Quyền từng nghe đến sắc đẹp của nàng từ lâu nên vội vàng phái người đón nàng về cung. Đám quần thần trong triều đã nổ ra vụ tranh cãi nảy lửa vì sao lại lấy một quả phụ. Nhưng Tôn Quyền cũng không vừa, để có thể chiến thắng "trận chiến" này, trong triều có đại thần tên Trương Chiêu phản đối mạnh mẽ nhất nên bèn nghĩ cách điều ông ta ra ngoài lo việc, khi ông ta trở về thì Tôn Quyền đã cưới xong Từ phu nhân. Lúc này gạo đã nấu thành cơm Trương Chiêu chỉ còn cách ấm ức trong lòng. Vượt qua rất nhiều trở ngại mới cưới được người trong mộng nhưng tiếc rằng cuộc hôn nhân này lại không hạnh phúc. Từ phu nhân là người ghen tuông đố kỵ, đầu tiên là bức chết Tạ phu nhân, rồi không cho Tôn Quyền được gần gũi ai. Dần dần Tôn Quyền cũng không chịu nổi tính ghen tuông của nàng, không lâu sau Bộ phu nhân tiến cung, Từ phu nhân bị lạnh nhạt Tôn Quyền cho nàng đến Ngô quận (này là Tô Châu) sống ở đó mấy chục năm và không muốn gặp mặt nàng. Vì nàng đã từng nuôi dưỡng thái tử Tôn Đăng cho nên thái tử luôn thỉnh cầu Tôn Quyền đưa nàng quay trở về Kiến Khang. Các đại thần cũng thỉnh cầu Tôn Quyền lập Từ phu nhân làm hoàng hậu.Nhưng Tôn Quyền không đồng ý vì người ông đang sủng ái chính là Bộ phu nhân.
Bộ phu nhân
Trái ngược hẳn với Từ phu nhân, Bộ phu nhân vừa đẹp lại không ghen tuông ích kỉ, ưu điểm lớn nhất của nàng là thường xuyên tiến cử gái đẹp cho Tôn Quyền. Tôn Quyền thấy nàng là người độ lượng, tấm lòng bao dung không hẹp hòi thì lại càng yêu quý nàng. Tuy chỉ sinh cho Tôn Quyền hai nàng công chúa là Tôn Lỗ Ban, Tôn Lỗ Dục nhưng ông coi như minh châu, bảo bối và yêu thương hết mực. Tôn Quyền luôn luôn tìm cách lập nàng làm hoàng hậu nhưng việc này vô cùng khó khăn bởi vì không chỉ vấp phải sự phản đối của tất cả các đại thần mà còn có cả thái tử. Hơn nữa nàng lại không có con trai nên không có lý do để lập hoàng hậu. Nàng tiến cung sau, theo quy định phải lập Từ phu nhân làm hoàng hậu. Vì muốn thể hiện tấm chân tình mà mình dành cho Bộ phu nhân ông ta cũng cương quyết từ chối yêu cầu của đám quần thần, việc lập hậu cứ thế mà kéo dài đến 10 mấy năm cho đến khi Bộ phu nhân qua đời. Tôn Quyền vô cùng đau lòng nên đã truy phong cho nàng làm hoàng hậu. Tấm chân tình của Tôn Quyền đã lay động được tất cả các đại thần nên tất cả đều thông qua.
Triệu phu nhân
Triệu phu nhân là em của
Triệu Đạt, là một cô gái không chỉ xinh đẹp mà còn có giỏi hội họa. Những bức
tranh của Triệu thị, từ nét bút cho tới cấu tứ đều tuyệt mỹ, khó ai có thể so
kịp.
Người ta nói rằng, chỉ bằng tay không, Triệu thị có thể dùng những dải lụa màu sắc kết thành những bức gấm có hình long ly quy phượng rất đẹp lớn hơn một trượng. Vì thế, những phi tần sống trong hậu cung của Tôn Quyền đều nhất loạt gọi “cơ tuyệt” (người nhanh nhẹn khéo léo vô cùng).
Trong thời gian những cuộc chiến giữa Ngụy – Thục – Ngô liên tiếp xảy ra, trong thơi gian hành quân đánh trận, Tôn Quyền rất muốn có một người biết vẽ để có thể vẽ lại những tấm bản đồ địa hình, sống núi phục vụ cho việc hành quân cũng như bài binh bố trận đối phó kẻ địch.
Chính vì vậy, Trần Đạt đã giới thiệu em gái của mình cho Tôn Quyền để làm người hầu hạ. Khi Triệu thị mới tiến cung, Tôn Quyền nói Triệu thị vẽ cho mình một bức tranh địa hình sông hồ của cả 9 châu.
Triệu thị nói: “Màu mực rất dễ bị phai mờ, không thể giữ được lâu, thiếp có thể thêu trực tiếp lên vải để giữ được lâu hơn”.
Sau đó, Triệu thị đã đem bản đồ của tất cả các nước thêu lên một tấm lụa thật lớn, với đầy đủ tất cả sông, hồ núi non, thanh ấp cũng như các bản đồ bài binh bố trận của quân Ngô rồi đưa cho Tôn Quyền. Lúc bấy giờ có người gọi Triệu thị là “châm tuyệt” (người có khả năng khâu vá thêu thùa tuyệt vời).
Tôn Quyền khi còn sống ở Cung Thiệu Dương. Vào mùa hè, vùng Giang Đông rất nóng nực, Tôn Quyền vì thế luôn cảm thấy bức bối, khó ở nên ra lệnh cuốn những tấm màn tía lên. Triệu thị nhìn thấy thế bèn nói với Tôn Quyền: “Những bức màn tía chẳng phải là thứ quý giá gì”. Tôn Quyền hỏi Triệu thị nói như vậy có ý gì.
Triệu thị nói: “Thiếp tự mình làm một bức màn, dù vẫn để màn che mà gió mát vẫn vào phòng, nhìn bề ngoài lại như không hề có màn. Những kẻ hầu hạ ở xung quanh cũng cảm thấy mát mẻ giống như đang được đi trong làn gió mát”.
Tôn Quyền nghe thấy có một bức màn kỳ diệu như vậy thì thấy sửng sốt vô cùng. Vì dù là Hoàng đế nhưng trước nay Tôn Quyền chưa từng nghe thấy có bức màn nào lại kỳ lạ đến thế.
Theo sử sách ghi chép, Triệu thị cắt những sợ tóc của mình rồi dùng một thứ keo thần kỳ có nguồn gốc từ nước Uất Di, thứ keo thường dùng để dính những sợi dây của cung nỏ kết thành những sợi dài. Cuối cùng đem những sợi này dệt thành một bức màn. Sau nhiều tháng làm việc cật lực Triệu thị đã làm xong một bức màn kỳ lạ.
Bức màn này nhìn từ phía nào cũng giống như phía nào, hoàn toàn trong suốt. Nó lại còn rất nhẹ, gió chỉ lay khẽ cũng khiến bức màn bay phất phơ.
Vì thế, khi treo bức màn này vào phòng, cả căn phòng trở nên mát mẻ hẳn so với những màn làm từ lụa hay gấm vóc. Vào thời gian đó, Tôn Quyền thường xuyên phải hành quân đi đánh trận, do vậy đã mang theo bức màn thần diệu này để sử dụng.
Ngoài công dụng thần diệu, bức màn này còn có đặc điểm là mở ra thì rộng hàng mấy trượng nhưng gấp lại thì có thể để gọn trong một chiếc gối. Nhờ bức màn đặc biệt này, người thời đó gọi Triệu thị là “tơ tuyệt” (người có khả năng dệt tuyệt vời).
Nhờ có Triệu thị, Đông Ngô của Tôn Quyền đã có “tam tuyệt” vì thế khắp bốn biển không có nơi nào có thể so sánh với họ về những sản phẩm thủ công quý giá và kỳ lạ.
Tuy nhiên, sau này, trong cuộc tranh giành sủng ái trong hậu cung, có người đã vu khống, nói xấu Triệu thị trước mặt Tôn Quyền vì thế Triệu thị ngày càng bị Tôn Quyền lạnh nhạt và xa lánh. Dù bị Tôn Quyền ruồng rẫy, song sự khéo léo và khả năng tuyệt vời của Triệu thị thì vẫn được các sử gia ghi lại và nhắc tới.
Người ta nói rằng, chỉ bằng tay không, Triệu thị có thể dùng những dải lụa màu sắc kết thành những bức gấm có hình long ly quy phượng rất đẹp lớn hơn một trượng. Vì thế, những phi tần sống trong hậu cung của Tôn Quyền đều nhất loạt gọi “cơ tuyệt” (người nhanh nhẹn khéo léo vô cùng).
Trong thời gian những cuộc chiến giữa Ngụy – Thục – Ngô liên tiếp xảy ra, trong thơi gian hành quân đánh trận, Tôn Quyền rất muốn có một người biết vẽ để có thể vẽ lại những tấm bản đồ địa hình, sống núi phục vụ cho việc hành quân cũng như bài binh bố trận đối phó kẻ địch.
Chính vì vậy, Trần Đạt đã giới thiệu em gái của mình cho Tôn Quyền để làm người hầu hạ. Khi Triệu thị mới tiến cung, Tôn Quyền nói Triệu thị vẽ cho mình một bức tranh địa hình sông hồ của cả 9 châu.
Triệu thị nói: “Màu mực rất dễ bị phai mờ, không thể giữ được lâu, thiếp có thể thêu trực tiếp lên vải để giữ được lâu hơn”.
Sau đó, Triệu thị đã đem bản đồ của tất cả các nước thêu lên một tấm lụa thật lớn, với đầy đủ tất cả sông, hồ núi non, thanh ấp cũng như các bản đồ bài binh bố trận của quân Ngô rồi đưa cho Tôn Quyền. Lúc bấy giờ có người gọi Triệu thị là “châm tuyệt” (người có khả năng khâu vá thêu thùa tuyệt vời).
Tôn Quyền khi còn sống ở Cung Thiệu Dương. Vào mùa hè, vùng Giang Đông rất nóng nực, Tôn Quyền vì thế luôn cảm thấy bức bối, khó ở nên ra lệnh cuốn những tấm màn tía lên. Triệu thị nhìn thấy thế bèn nói với Tôn Quyền: “Những bức màn tía chẳng phải là thứ quý giá gì”. Tôn Quyền hỏi Triệu thị nói như vậy có ý gì.
Triệu thị nói: “Thiếp tự mình làm một bức màn, dù vẫn để màn che mà gió mát vẫn vào phòng, nhìn bề ngoài lại như không hề có màn. Những kẻ hầu hạ ở xung quanh cũng cảm thấy mát mẻ giống như đang được đi trong làn gió mát”.
Tôn Quyền nghe thấy có một bức màn kỳ diệu như vậy thì thấy sửng sốt vô cùng. Vì dù là Hoàng đế nhưng trước nay Tôn Quyền chưa từng nghe thấy có bức màn nào lại kỳ lạ đến thế.
Theo sử sách ghi chép, Triệu thị cắt những sợ tóc của mình rồi dùng một thứ keo thần kỳ có nguồn gốc từ nước Uất Di, thứ keo thường dùng để dính những sợi dây của cung nỏ kết thành những sợi dài. Cuối cùng đem những sợi này dệt thành một bức màn. Sau nhiều tháng làm việc cật lực Triệu thị đã làm xong một bức màn kỳ lạ.
Bức màn này nhìn từ phía nào cũng giống như phía nào, hoàn toàn trong suốt. Nó lại còn rất nhẹ, gió chỉ lay khẽ cũng khiến bức màn bay phất phơ.
Vì thế, khi treo bức màn này vào phòng, cả căn phòng trở nên mát mẻ hẳn so với những màn làm từ lụa hay gấm vóc. Vào thời gian đó, Tôn Quyền thường xuyên phải hành quân đi đánh trận, do vậy đã mang theo bức màn thần diệu này để sử dụng.
Ngoài công dụng thần diệu, bức màn này còn có đặc điểm là mở ra thì rộng hàng mấy trượng nhưng gấp lại thì có thể để gọn trong một chiếc gối. Nhờ bức màn đặc biệt này, người thời đó gọi Triệu thị là “tơ tuyệt” (người có khả năng dệt tuyệt vời).
Nhờ có Triệu thị, Đông Ngô của Tôn Quyền đã có “tam tuyệt” vì thế khắp bốn biển không có nơi nào có thể so sánh với họ về những sản phẩm thủ công quý giá và kỳ lạ.
Tuy nhiên, sau này, trong cuộc tranh giành sủng ái trong hậu cung, có người đã vu khống, nói xấu Triệu thị trước mặt Tôn Quyền vì thế Triệu thị ngày càng bị Tôn Quyền lạnh nhạt và xa lánh. Dù bị Tôn Quyền ruồng rẫy, song sự khéo léo và khả năng tuyệt vời của Triệu thị thì vẫn được các sử gia ghi lại và nhắc tới.
Phan thị
Phan thị là người Câu
Chương, Cối Kê, cha Phan thị từng là quan lại nhưng mắc tội bị xử tử hình còn
Phan thị và chị của mình bị đưa vào cung làm người hầu.
Vào cung, Phan thị được đưa đến làm công việc lao dịch tại bộ phận thêu dệt. Dù là người hầu nhưng Phan thị lại là một trang tuyệt sắc. Hàng trăm người hầu trong cung đều nói rằng, Phan thị là tiên nữ giáng trần bởi lẽ người phàm không thể xinh đẹp như vậy.
Cũng vì thế, những người hầu cùng làm với Phan thị trong hậu cung cũng có phần nào kính nể Phan thị. Tiếng tăm về nhan sắc của Phan thị nhanh chóng tới tai Tôn Quyền. Ban đầu Tôn Quyền cảm thấy vô cùng hiếu kỳ nên sai người vẽ một bức hình của Phan thị lên vải đưa cho mình xem.
Lúc bấy giờ, Phan thị vì buồn bã, lo lắng không ăn uống nên người rất gầy. Người họa sĩ cứ như đời thực vẽ lại chân dung của Phan thị rồi đưa cho Tôn Quyền xem.
Vào cung, Phan thị được đưa đến làm công việc lao dịch tại bộ phận thêu dệt. Dù là người hầu nhưng Phan thị lại là một trang tuyệt sắc. Hàng trăm người hầu trong cung đều nói rằng, Phan thị là tiên nữ giáng trần bởi lẽ người phàm không thể xinh đẹp như vậy.
Cũng vì thế, những người hầu cùng làm với Phan thị trong hậu cung cũng có phần nào kính nể Phan thị. Tiếng tăm về nhan sắc của Phan thị nhanh chóng tới tai Tôn Quyền. Ban đầu Tôn Quyền cảm thấy vô cùng hiếu kỳ nên sai người vẽ một bức hình của Phan thị lên vải đưa cho mình xem.
Lúc bấy giờ, Phan thị vì buồn bã, lo lắng không ăn uống nên người rất gầy. Người họa sĩ cứ như đời thực vẽ lại chân dung của Phan thị rồi đưa cho Tôn Quyền xem.
Tôn Quyền xem tranh rất sửng
sốt bởi hình dáng lẫn dung mạo của Phan thị. Người ta kể rằng, lúc bấy giờ, Tôn
Quyền dùng hổ phách đè lên trên bức tranh để gió khỏi bay mất không ngờ miếng
hổ phách vừa đặt lên thì đã gãy làm đôi.
Tôn Quyền thấy vậy than rằng: “Đây thật là một nữ thần! Khuôn mặt buồn bã có thể khiến người ta lay động đến như vậy huống hồ là khi vui vẻ!”.
Vì thế, Tôn Quyền hạ lệnh đưa Phan thị từ thân phận người hầu lên làm thiếp của mình. Phan thị được đưa vào hậu cung, quả nhiên xinh đẹp hơn hẳn những phi tần khác. Vì vậy, những người trong hậu cung đều nhất loạt gọi Phan thị là Phan phu nhân.
Phan thị liên tục được Tôn Quyền sủng hạnh, chẳng bao lâu sau thì mang thai, sinh ra một người con trai đặt tên là Tôn Lượng.
Thấy Tôn Hòa và Tôn Bá đều không còn được Tôn Quyền yêu thương như trước, Phan thị bèn nhân cơ hội tìm cách để đưa con trai mình là Tôn Lượng lên ngôi thái tử.
Tôn Quyền thấy vậy than rằng: “Đây thật là một nữ thần! Khuôn mặt buồn bã có thể khiến người ta lay động đến như vậy huống hồ là khi vui vẻ!”.
Vì thế, Tôn Quyền hạ lệnh đưa Phan thị từ thân phận người hầu lên làm thiếp của mình. Phan thị được đưa vào hậu cung, quả nhiên xinh đẹp hơn hẳn những phi tần khác. Vì vậy, những người trong hậu cung đều nhất loạt gọi Phan thị là Phan phu nhân.
Phan thị liên tục được Tôn Quyền sủng hạnh, chẳng bao lâu sau thì mang thai, sinh ra một người con trai đặt tên là Tôn Lượng.
Thấy Tôn Hòa và Tôn Bá đều không còn được Tôn Quyền yêu thương như trước, Phan thị bèn nhân cơ hội tìm cách để đưa con trai mình là Tôn Lượng lên ngôi thái tử.
Ban đầu, Phan thị tìm cách
kết thân với Toàn Công chúa, lấy cháu gái của Toàn Công chúa cho con trai mình.
Vì thế, Toàn công chúa mỗi khi có cơ hội lại ca ngợi Tôn Lượng với Tôn Quyền,
đồng thời nói xấu Tôn Bá, khuyên cha mình nên lập Tôn Lượng lên ngôi Thái tử.
Tôn Quyền một phần sủng ái Phan thị, một phần cũng tin yêu Toàn Công chúa nên hạ quyết tâm phế ngôi thái tử của Tôn Hòa, lập Tôn Lượng lên thay.
Tôn Quyền một phần sủng ái Phan thị, một phần cũng tin yêu Toàn Công chúa nên hạ quyết tâm phế ngôi thái tử của Tôn Hòa, lập Tôn Lượng lên thay.
Phan phu nhân được phong làm
Hoàng hậu.Phan Hoàng hậu do được Tôn Quyền sủng ái đâm ra kiêu ngạo. Sự
hiền thục, dịu dàng khi xưa giờ đây hoàn toàn biến mất. Lúc này, Tôn Quyền mới
bắt đầu nhận ra sự bất hạnh của hai đứa con trai Tôn Hòa và Tôn Bá của mình.
Vào một ngày tháng tám, gió
nổi rất to, nước sông dâng lên hàng trăm dặm tràn vào bờ, khiến khắp nơi ngập
lụt. Những cây tùng được trồng xung quanh mộ tổ của Tôn Quyền do trận lũ lụt
cũng bị xới bật hết gốc trôi ra tới ngoại thành phía Nam của Kiến Nghiệp.
Tôn Quyền do quá sợ hãi nên mắc bệnh nặng, nằm liệt giường suốt một tháng trời không thể thiết triều được. Đến mùa đông năm đó, bệnh của Tôn Quyền càng nặng hơn. Đúng lúc đó thì Phan thị bị chết mà không hiểu nguyên nhân vì sao.
Tôn Quyền thấy trên cổ Phan thị có vết dây thừng, lưỡi lè ra bên ngoài, tin chắc rằng có người đã mưu sát Phan thị. Vì thế, truyền lệnh cho thuộc hạ bí mật điều tra sự việc.
Cuối cùng phát hiện ra rằng, do Phan thị lấy uy Hoàng hậu đối xử với những người hầu trong cung rất hà khắc. Do đó, các cung nhân trong hậu cung nhân cơ hội Phan thị ngủ tìm cách giết chết thị để trả thù.
Tôn Quyền nghe chuyện, biết rằng đó là hậu quả do Phan thị tự mình chuốc lấy, tuy nhiên, do cái chết của Phan thị rất thảm nên không khỏi tức giận.Vì thế, Tôn Quyền ra lệnh đem giết toàn bộ các cung nhân hầu hạ Phan thị. Sau cái chết của Phan thị, bệnh tình của Tôn Quyền ngày một năng hơn. Ba tháng sau đó, Tôn Quyền qua đời ở Kiến Nghiệp. Năm đó, Tôn Quyền 71 tuổi.
Tôn Quyền do quá sợ hãi nên mắc bệnh nặng, nằm liệt giường suốt một tháng trời không thể thiết triều được. Đến mùa đông năm đó, bệnh của Tôn Quyền càng nặng hơn. Đúng lúc đó thì Phan thị bị chết mà không hiểu nguyên nhân vì sao.
Tôn Quyền thấy trên cổ Phan thị có vết dây thừng, lưỡi lè ra bên ngoài, tin chắc rằng có người đã mưu sát Phan thị. Vì thế, truyền lệnh cho thuộc hạ bí mật điều tra sự việc.
Cuối cùng phát hiện ra rằng, do Phan thị lấy uy Hoàng hậu đối xử với những người hầu trong cung rất hà khắc. Do đó, các cung nhân trong hậu cung nhân cơ hội Phan thị ngủ tìm cách giết chết thị để trả thù.
Tôn Quyền nghe chuyện, biết rằng đó là hậu quả do Phan thị tự mình chuốc lấy, tuy nhiên, do cái chết của Phan thị rất thảm nên không khỏi tức giận.Vì thế, Tôn Quyền ra lệnh đem giết toàn bộ các cung nhân hầu hạ Phan thị. Sau cái chết của Phan thị, bệnh tình của Tôn Quyền ngày một năng hơn. Ba tháng sau đó, Tôn Quyền qua đời ở Kiến Nghiệp. Năm đó, Tôn Quyền 71 tuổi.
Tôn Thượng Hương
Tôn Thượng Hương hay Tôn phu nhân là con gái duy nhất của Tôn Kiên. Bà có 5 người anh trai trong đó anh cả là Tôn Sách và anh hai là Tôn Quyền. Bà từng được gả làm vợ Lưu Bị. ( theo 1 số nguồn khác, tên là Tôn Nhân, Tôn Nhân Hiến, Tôn Giang Tả)
Tôn Thượng Hương lần đầu tiên ra mắt trong “Tam Quốc diễn nghĩa” đã bị Lỗ Túc mượn cớ. Lỗ Túc đã hiến kế với chúa công Tôn Quyền cho Lưu Bị kết hôn với công chúa “cực kỳ hữu dụng, có hàng tá người hầu luôn mang theo đao bên mình, trong phòng binh khí để khắp nơi, mặc cho nam tử không đề phòng”. Trong miệng Lỗ Túc thì Tôn Thượng Hương là một cô gái ngổ ngáo bướng bỉnh, tính khí nóng nảy, đến miệng bà mai mối đã trở thành một cô gái “ngoan hiền”. Năm 209, Tôn Thượng Hương được gả cho Lưu Bị nhằm giữ vững mối hòa hiệp trong liên minh Ngô-Thục. Vào lúc đó, bà mới hơn 20 tuổi. Không ngờ rằng trong đêm động phòng, Lưu Bị đã bị Tôn Thượng Hương đâm bằng dao, đao kiếm khiến người tỳ nữ hoảng sợ. Tôn Thượng Hương thấy tình hình như vậy bèn nói một câu: “Chém giết nửa đời người, sợ gì binh đao!” Do cả hai bà vợ trước đó của Lưu Bị đều đã mất, Tôn Thượng Hương dần dần kiểm soát nhà và con (Lưu Thiện) của Lưu Bị. Tiểu thuyết nói rằng bà hay gây rắc rối và thường các tướng sĩ của Lưu Bị phải để mắt đến Tôn phu nhân.
Hai năm sau, mối quan hệ giữa Ngô và Thục bắt đầu căng thẳng. Tôn Thượng Hương quay trở về với anh trai của mình là Tôn Quyền. Theo những gì Triệu Vân viết thì bà định mang theo con trai của Lưu Bị là Lưu Thiện với mình. Tuy nhiên đã bị Trương Phi và Triệu Vân chặn lại. Sau khi hai bên thương thuyết, Tôn Thượng Hương để lại Lưu Thiện về nước Ngô.
Kể từ đây hôn nhân giữa bà và Lưu Bị chấm dứt. Bà không bao giờ gặp lại Lưu Bị, và sử sách cũng không có nói gì đến chuyện bà tái giá.
Cũng có chuyện kể rằng sau khi Lưu Bị qua đời, bà đã trầm mình xuống sông tự vẫn.
Theo Tam quốc diễn nghĩa, sau trận Di Lăng có kẻ phao tin Lưu Bị chết, bà đã trầm mình xuống sông tự vẫn. Có Miếu thờ bà bên đấy, gọi là miếu Khiêu Cơ.
Tôn Thượng Hương lần đầu tiên ra mắt trong “Tam Quốc diễn nghĩa” đã bị Lỗ Túc mượn cớ. Lỗ Túc đã hiến kế với chúa công Tôn Quyền cho Lưu Bị kết hôn với công chúa “cực kỳ hữu dụng, có hàng tá người hầu luôn mang theo đao bên mình, trong phòng binh khí để khắp nơi, mặc cho nam tử không đề phòng”. Trong miệng Lỗ Túc thì Tôn Thượng Hương là một cô gái ngổ ngáo bướng bỉnh, tính khí nóng nảy, đến miệng bà mai mối đã trở thành một cô gái “ngoan hiền”. Năm 209, Tôn Thượng Hương được gả cho Lưu Bị nhằm giữ vững mối hòa hiệp trong liên minh Ngô-Thục. Vào lúc đó, bà mới hơn 20 tuổi. Không ngờ rằng trong đêm động phòng, Lưu Bị đã bị Tôn Thượng Hương đâm bằng dao, đao kiếm khiến người tỳ nữ hoảng sợ. Tôn Thượng Hương thấy tình hình như vậy bèn nói một câu: “Chém giết nửa đời người, sợ gì binh đao!” Do cả hai bà vợ trước đó của Lưu Bị đều đã mất, Tôn Thượng Hương dần dần kiểm soát nhà và con (Lưu Thiện) của Lưu Bị. Tiểu thuyết nói rằng bà hay gây rắc rối và thường các tướng sĩ của Lưu Bị phải để mắt đến Tôn phu nhân.
Hai năm sau, mối quan hệ giữa Ngô và Thục bắt đầu căng thẳng. Tôn Thượng Hương quay trở về với anh trai của mình là Tôn Quyền. Theo những gì Triệu Vân viết thì bà định mang theo con trai của Lưu Bị là Lưu Thiện với mình. Tuy nhiên đã bị Trương Phi và Triệu Vân chặn lại. Sau khi hai bên thương thuyết, Tôn Thượng Hương để lại Lưu Thiện về nước Ngô.
Kể từ đây hôn nhân giữa bà và Lưu Bị chấm dứt. Bà không bao giờ gặp lại Lưu Bị, và sử sách cũng không có nói gì đến chuyện bà tái giá.
Cũng có chuyện kể rằng sau khi Lưu Bị qua đời, bà đã trầm mình xuống sông tự vẫn.
Theo Tam quốc diễn nghĩa, sau trận Di Lăng có kẻ phao tin Lưu Bị chết, bà đã trầm mình xuống sông tự vẫn. Có Miếu thờ bà bên đấy, gọi là miếu Khiêu Cơ.
Vương
Nguyên cơ
Là Chính thất của Tấn vương Tư Mã Chiêu , sau
này được truy phong là Văn Minh hoàng hậu.
Vương Nguyên cơ xuất thân trong danh môn vọng
tộc, ông nội (Vương Lãng) và cha (Vương Tố) đều là đại thần phò tá cho gia tộc
Tư Mã. Ngay từ nhỏ Vương Nguyên cơ đã được hấp thụ nền giáo dục hoàn mỹ, tám
tuổi đã thấu hiểu Kinh Thi, Luận Ngữ đều là những cuốn sách kinh điển của Nho
gia. Có thể nói Vương Nguyên cơ là viên minh châu của gia tộc.
Đến tuổi trưởng thành, Vương Nguyên cơ được gả
cho Tấn vương Tư Mã Chiêu. Tuy là cuộc hôn nhân chính trị, nhưng tình cảm phu
thê cũng khá thắm thiết. Vương Nguyên cơ sinh được khá nhiều con, trong đó đáng
kể nhất là Tư Mã Viêm – sau này là Tấn Võ đế. Bản thân Vương Nguyên cơ cũng rất
tận tâm với nhà chồng, nhất là luôn hầu hạ mẹ chồng chu đáo, là tấm gương tốt
cho các con dâu và nữ nhi thời đó noi theo. Vương Nguyên cơ được sử gia đánh
giá là một hình tượng hiền thê thục đức điển hình trong xã hội phong kiến.
Trong lúc Tư Mã Chiêu còn tại vị, Vương Nguyên
cơ đã đưa ra lời nhận xét sâu sắc và chính xác về Chung Hội .Với tuệ nhãn nhìn
người, Vương Nguyên cơ đánh giá Chung Hội là kẻ có dã tâm sẽ tạo phản một khi
có dịp. Đúng như dự đoán, vài năm sau khi Chung Hội chinh phạt Tây Thục thành
công thì công khai tạo phản muốn chia sẽ giang sơn với nhà Tư Mã.
Dương Quỳnh Chi
Sau một thời gian thì Tư Mã Viêm đưa Dương Quỳnh Chi lên ngôi
hoàng hậu. Tư Mã Viêm ngoài Dương Quỳnh Chi thì không sủng ái bất cứ một giai
nhân nào khác. Nàng sinh được 2 người con trai. Tưởng chừng cuộc đời 1 mĩ nhân
thế là hết ai ngờ người con trai cả bị bệnh chết người con trai hai thì bị đần
độn. Mã Viêm rất ghét người con trai đần độn này nhưng Dương Quỳnh Chi năn nỉ
nên bèn chiều lòng.
Về sau Dương
Quỳnh Chi về già thì càng xấu xí nhan sắc kém phai nhạt. Tư Mã Viêm kén hàng
trăm mĩ nữ vào cung nhưng không vừa ý ai cả thành không sủng ái riêng ai. Ông nghĩ
ra một kế là ngồi trên xe kéo dê đi quanh nơi các cung nữ sống dừng lại nơi nào
thì ban sủng ái cho người ấy. Dần dần các cung nữ biết được bèn treo cỏ non. Nhưng
khi ai cũng biết thì thành ra vẫn như cũ. Có mĩ nữ họ Hồ thông minh hơn cả lấy
cỏ non ngâm với rượu pha tí muối. Dê quen mùi nên ngày nào xe ngựa cũng vào.
Dương Quỳnh Chi ghen tức nhưng không làm được gì cả phẫn uất ôm bệnh. Trước khi
chết Quỳnh Chi nghĩ ra một kế là đưa em gái mình là Dương Quỳnh Ngọc vào thay vì
sợ con trai mình đần độn mà lỡ Hồ Qúy Nhân sinh con trai . Tư Mã Viêm nể người
cũ một thời mình sủng ái nên vào thăm. Dương Quỳnh Chi bèn rằng:
- Thiếp đây vốn phận mỏng không thể cả đời này theo hầu điện hạ được. Xin mong bệ hạ thứ lỗi. Em gái thần là Quỳnh Ngọc nay xin được vào cung hầu hạ bệ hạ. Mong bệ hạ chiếu cố
Tư Mã Viêm chiều ý cho Quỳnh Ngọc vào thì thấy nhan săc mỹ miều hơn chị hồi trẻ.
Dương Quỳnh Chi lợi dụng em vào thăm chị nên truyền hết phương pháp quyến rũ đàn ông cho Dương Quỳnh Ngọc. Dương Quỳnh Chi mất Dương Quỳnh Ngọc lên thay chị làm hoàng hậu mở ra một con đường cho Giả Nam Phong Hoàng Hậu
- Thiếp đây vốn phận mỏng không thể cả đời này theo hầu điện hạ được. Xin mong bệ hạ thứ lỗi. Em gái thần là Quỳnh Ngọc nay xin được vào cung hầu hạ bệ hạ. Mong bệ hạ chiếu cố
Tư Mã Viêm chiều ý cho Quỳnh Ngọc vào thì thấy nhan săc mỹ miều hơn chị hồi trẻ.
Dương Quỳnh Chi lợi dụng em vào thăm chị nên truyền hết phương pháp quyến rũ đàn ông cho Dương Quỳnh Ngọc. Dương Quỳnh Chi mất Dương Quỳnh Ngọc lên thay chị làm hoàng hậu mở ra một con đường cho Giả Nam Phong Hoàng Hậu
Lục Châu
Lục Châu được ví như bông kì thảo được nuôi dưỡng bởi linh khí của đất trời Quảng Tây. Nàng là một trang tuyệt thế giai nhân thời Tây Tấn, rất giỏi thổi sáo, cầm kỳ thi họa nàng đều biết. Nàng vốn là ái thê của Thạch Sùng - một nhà văn, đại thần, phú hào nổi tiếng thời Tây Tấn. Vì cương quyết từ chối không chịu nhường Lục Châu cho Triệu Vương Tư Mã Luân mà bị ghép tội loạn đảng và bị giết. Lục Châu cũng nhảy lầu tự vẫn chứ không chịu phụ tình. Cuộc đời nàng tuy ngắn ngủi nhưng như tia chớp sáng chói cũng đủ khiến người ta chói mắt.
Lục Châu được ví như bông kì thảo được nuôi dưỡng bởi linh khí của đất trời Quảng Tây. Nàng là một trang tuyệt thế giai nhân thời Tây Tấn, rất giỏi thổi sáo, cầm kỳ thi họa nàng đều biết. Nàng vốn là ái thê của Thạch Sùng - một nhà văn, đại thần, phú hào nổi tiếng thời Tây Tấn. Vì cương quyết từ chối không chịu nhường Lục Châu cho Triệu Vương Tư Mã Luân mà bị ghép tội loạn đảng và bị giết. Lục Châu cũng nhảy lầu tự vẫn chứ không chịu phụ tình. Cuộc đời nàng tuy ngắn ngủi nhưng như tia chớp sáng chói cũng đủ khiến người ta chói mắt.
Tả Phấn
Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm nghe
tiếng em gái thi nhân Tả Tư là Tả Phấn có tài năng hơn người nên lập tức tuyển
vào cung, Tả Phấn vì tài đức siêu quần nên ngày ngày được đế vương cùng quần
thần tán thưởng, được phong làm người coi giữ hậu cung.
Hiềm nổi ngư sắc hoang đường Tư Mã Viêm là một trong số các đế vương vô sỉ vô vi của lịch sử, Tả Phấn được phong là Quý Phi, bất quá là do Tư Mã Viêm vì cái hư danh trọng hiền đãi sĩ, trong “Tấn Thư” gọi Tả Phấn là “Tư lậu thể luy, thường cư bạc thất” (thân thể gầy yếu, ở nhà đạm bạc). “Trác Mộc Thi” là tác phẩm mà trong đó, Tả Phấn tả lại cuộc sống đạm bạc của mình.
Hiềm nổi ngư sắc hoang đường Tư Mã Viêm là một trong số các đế vương vô sỉ vô vi của lịch sử, Tả Phấn được phong là Quý Phi, bất quá là do Tư Mã Viêm vì cái hư danh trọng hiền đãi sĩ, trong “Tấn Thư” gọi Tả Phấn là “Tư lậu thể luy, thường cư bạc thất” (thân thể gầy yếu, ở nhà đạm bạc). “Trác Mộc Thi” là tác phẩm mà trong đó, Tả Phấn tả lại cuộc sống đạm bạc của mình.
Tạ Đạo Uẩn
Cháu gái Tạ An, người xuất hiện trong điển “Vịnh Nhứ Tài”. Tác phẩm tiêu biểu : “Đăng Sơn”
Nga nga đông nhạc cao,
Tú cực xung thanh thiên.
Nham trung gian hư vũ,
Tịch mịch u dĩ huyền.
Phi công phục khí tượng,
Vân cấu thành tự nhiên.
Khí tượng nhĩ hà nhiên ?
Toại lệnh ngã lâu thiên.
Thệ tướng trạch tư vũ,
Khả dĩ tận thiên niên.
Tạ Đạo Uẩn, con nhà thế phiệt đời nhà Tấn (265-419).
Tạ Đạo Uẩn lúc nhỏ đã thông minh, học rộng lại có tài biện luận. Nhân một hôm về mùa đông, tuyết rơi lả tả, chú của Tạ Đạo Uẩn là Tạ An ngồi uống rượu nóng có cả hai cháu là Tạ Lãng và Đạo Uẩn ngồi hầu bên. Tạ An liền chỉ tuyết, hỏi:
- Tuyết rơi giống cái gì nhỉ?
Tạ Lãng đáp:
- Muối trắng ném giữa trời.
Tạ Đạo Uẩn bảo:
- Thế mà chưa bằng "Gió thổi tung tơ liễu".
Tạ An khen Tạ Đạo Uẩn là thông minh, nhiều ý hay, tư tưởng đẹp. Ông lại thường chỉ Đạo Uẩn mà bảo các con cháu rằng:
- Nếu là trai, Tạ Đạo Uẩn sẽ là bực công khanh.
Tạ Đạo Uẩn sau kết duyên vớI Vương Ngưng Chi, một nhà nho lỗi lạc đương thời.
Làm vợ họ Vương, Tạ Đạo Uẩn thường thay chồng tiếp khách văn chương, đàm luận thi phú. Nàng tỏ ra là người hoạt bát, thông suốt nhiều vấn đề, lập luận vững chắc làm nhiều tay danh sĩ đương thời phải phục.
Em chồng của Tạ Đạo Uẩn là Vương Thiếu Chi. Người học giỏi nhưng lập luận kém cỏi, thiếu hoạt bát nên trong khi biện luận thường bị khách áp đảo. Tạ Đạo Uẩn sợ em chồng mất giá trị nên bảo thị tỳ thưa với Thiếu Chi làm một cái màn che lại, nàng sẽ ngồi sau để nhắc Thiếu Chi trong khi biện luận với khách.
Thiếu Chi nhờ đó mà khuất phục được khách và nổi danh, được nhiều người kính phục.
Nàng Ban, ả Tạ là hai người phụ nữ có tài danh về thi phú văn chương. Về sau, các nhà văn học thường dùng tiếng "nàng Ban, ả Tạ" để chỉ người phụ nữ tài giỏi, có danh tiếng về văn chương thi phú.
Cháu gái Tạ An, người xuất hiện trong điển “Vịnh Nhứ Tài”. Tác phẩm tiêu biểu : “Đăng Sơn”
Nga nga đông nhạc cao,
Tú cực xung thanh thiên.
Nham trung gian hư vũ,
Tịch mịch u dĩ huyền.
Phi công phục khí tượng,
Vân cấu thành tự nhiên.
Khí tượng nhĩ hà nhiên ?
Toại lệnh ngã lâu thiên.
Thệ tướng trạch tư vũ,
Khả dĩ tận thiên niên.
Tạ Đạo Uẩn, con nhà thế phiệt đời nhà Tấn (265-419).
Tạ Đạo Uẩn lúc nhỏ đã thông minh, học rộng lại có tài biện luận. Nhân một hôm về mùa đông, tuyết rơi lả tả, chú của Tạ Đạo Uẩn là Tạ An ngồi uống rượu nóng có cả hai cháu là Tạ Lãng và Đạo Uẩn ngồi hầu bên. Tạ An liền chỉ tuyết, hỏi:
- Tuyết rơi giống cái gì nhỉ?
Tạ Lãng đáp:
- Muối trắng ném giữa trời.
Tạ Đạo Uẩn bảo:
- Thế mà chưa bằng "Gió thổi tung tơ liễu".
Tạ An khen Tạ Đạo Uẩn là thông minh, nhiều ý hay, tư tưởng đẹp. Ông lại thường chỉ Đạo Uẩn mà bảo các con cháu rằng:
- Nếu là trai, Tạ Đạo Uẩn sẽ là bực công khanh.
Tạ Đạo Uẩn sau kết duyên vớI Vương Ngưng Chi, một nhà nho lỗi lạc đương thời.
Làm vợ họ Vương, Tạ Đạo Uẩn thường thay chồng tiếp khách văn chương, đàm luận thi phú. Nàng tỏ ra là người hoạt bát, thông suốt nhiều vấn đề, lập luận vững chắc làm nhiều tay danh sĩ đương thời phải phục.
Em chồng của Tạ Đạo Uẩn là Vương Thiếu Chi. Người học giỏi nhưng lập luận kém cỏi, thiếu hoạt bát nên trong khi biện luận thường bị khách áp đảo. Tạ Đạo Uẩn sợ em chồng mất giá trị nên bảo thị tỳ thưa với Thiếu Chi làm một cái màn che lại, nàng sẽ ngồi sau để nhắc Thiếu Chi trong khi biện luận với khách.
Thiếu Chi nhờ đó mà khuất phục được khách và nổi danh, được nhiều người kính phục.
Nàng Ban, ả Tạ là hai người phụ nữ có tài danh về thi phú văn chương. Về sau, các nhà văn học thường dùng tiếng "nàng Ban, ả Tạ" để chỉ người phụ nữ tài giỏi, có danh tiếng về văn chương thi phú.
Tô
Huệ
Tô Huệ tự Nhược Lan, con gái thứ ba của Tô Đạo Chất (có chỗ nói là Tô Đạo Hiền), người đất Thần Châu đời nhà Tấn (265-419).
Nàng dung nhan kiều mị, tài đức song toàn, văn chương xuất chúng. Khi Tô được 20 tuổi cha mẹ đính gả cho hàn sĩ Đậu Thao, người cùng quệ Vợ chồng ăn ở đầm ấm. Nàng Tô rất mực chìu chồng, đảm đương tất cả mọi việc gia đình để cho Đậu Thao có đủ thì giờ theo đuổi trau dồi nghiên bút. Người ở quanh vùng đều cho là hạnh phúc và hết sức ngợi khen nàng.
Sau Đậu Thao đỗ đạt làm quan, may mắn được nhâm chức tại Thần Châu, không phải đi đâu xa cả. Gia đình đã đầm ấm hạnh phúc lại càng đầm ấm hạnh phúc hơn.
Nhưng rồi vì công vụ cần thiết, vua truyền Đậu Thao ra trấn đất Lưu Sa. Vì nơi gian lao hiểm trở nên Đậu Thao đành phải để vợ ở nhà.
Thời gian qua ...
Ba năm chờ đợi, nàng Tô ngày càng sức vóc mỏi mòn, dung nhan tiều tụỵ .Đêm đêm, bên ngọn đèn khuya, nàng ngồi âm thầm đối bóng, tủi phận hờn duyên, lo ngại thân chồng mà giọt châu tầm tã. Lòng đau dằng dặc, nỗi nhớ triền miên nên hồn thơ dâng trào lên ngọc bút làm thành 10 bài tứ tuyệt. Nàng lại lấy gấm vuông độ chừng một thước, dùng chỉ ngũ sắc thêu 10 bài tứ tuyệt lên trên theo hình trôn ốc, từ ngoài xoáy tròn vào trung tâm bức gấm.
Nàng thêu khéo, chữ hay, nên bức gấm trông cực kỳ tuyệt mỹ. Xong nàng tự tay dâng lên nhà vuạ Thấy lạ, vua truyền cho quần thần đọc, nhưng cả triều không ai đọc được. Vua đành gọi nàng.
Đứng giữa triều, Tô cất tiếng ngâm với một giọng não nùng bi thảm bài Chức cẩm hồi văn.
Ngâm xong, nàng Tô nước mắt đầm đìa. Nhà vua quá cảm động không dám nhìn nàng, vội hạ chiếu cho Đậu Thao về ngay.
Mười bài thơ ấy được truyền tụng với bức gấm thêu, ai cũng nước nở khen cho Tô là một bực kỳ tàị .
Trước họ gọi bức gấm thơ ấy là Toàn loa đồ (Bức đồ hình tròn trôn ốc), sau lại cho tên không xứng với giá trị của tác phẩm nên đổi là Hồi văn cách (Bài văn có tác dụng làm cho người đi biên thú được trở về), nhưng cũng vẫn chưa thấy thỏa đáng.
Cuối cùng, họ lại đổi và thêm tên tác giả là "Tô Huệ chức cẩm hồi văn."
Nàng dung nhan kiều mị, tài đức song toàn, văn chương xuất chúng. Khi Tô được 20 tuổi cha mẹ đính gả cho hàn sĩ Đậu Thao, người cùng quệ Vợ chồng ăn ở đầm ấm. Nàng Tô rất mực chìu chồng, đảm đương tất cả mọi việc gia đình để cho Đậu Thao có đủ thì giờ theo đuổi trau dồi nghiên bút. Người ở quanh vùng đều cho là hạnh phúc và hết sức ngợi khen nàng.
Sau Đậu Thao đỗ đạt làm quan, may mắn được nhâm chức tại Thần Châu, không phải đi đâu xa cả. Gia đình đã đầm ấm hạnh phúc lại càng đầm ấm hạnh phúc hơn.
Nhưng rồi vì công vụ cần thiết, vua truyền Đậu Thao ra trấn đất Lưu Sa. Vì nơi gian lao hiểm trở nên Đậu Thao đành phải để vợ ở nhà.
Thời gian qua ...
Ba năm chờ đợi, nàng Tô ngày càng sức vóc mỏi mòn, dung nhan tiều tụỵ .Đêm đêm, bên ngọn đèn khuya, nàng ngồi âm thầm đối bóng, tủi phận hờn duyên, lo ngại thân chồng mà giọt châu tầm tã. Lòng đau dằng dặc, nỗi nhớ triền miên nên hồn thơ dâng trào lên ngọc bút làm thành 10 bài tứ tuyệt. Nàng lại lấy gấm vuông độ chừng một thước, dùng chỉ ngũ sắc thêu 10 bài tứ tuyệt lên trên theo hình trôn ốc, từ ngoài xoáy tròn vào trung tâm bức gấm.
Nàng thêu khéo, chữ hay, nên bức gấm trông cực kỳ tuyệt mỹ. Xong nàng tự tay dâng lên nhà vuạ Thấy lạ, vua truyền cho quần thần đọc, nhưng cả triều không ai đọc được. Vua đành gọi nàng.
Đứng giữa triều, Tô cất tiếng ngâm với một giọng não nùng bi thảm bài Chức cẩm hồi văn.
Ngâm xong, nàng Tô nước mắt đầm đìa. Nhà vua quá cảm động không dám nhìn nàng, vội hạ chiếu cho Đậu Thao về ngay.
Mười bài thơ ấy được truyền tụng với bức gấm thêu, ai cũng nước nở khen cho Tô là một bực kỳ tàị .
Trước họ gọi bức gấm thơ ấy là Toàn loa đồ (Bức đồ hình tròn trôn ốc), sau lại cho tên không xứng với giá trị của tác phẩm nên đổi là Hồi văn cách (Bài văn có tác dụng làm cho người đi biên thú được trở về), nhưng cũng vẫn chưa thấy thỏa đáng.
Cuối cùng, họ lại đổi và thêm tên tác giả là "Tô Huệ chức cẩm hồi văn."
Bích Ngọc
Nhân vật làm phát sinh câu thành ngữ “Tiểu gia bích ngọc” (nhà nhỏ có ngọc bích).
Bích Ngọc vốn họ Lưu, không xinh đẹp lắm , nhưng có dáng vóc dễ nhìn, lại có tài ca xướng múa hát tuyệt vời. Nàng là thiếp của Nhữ Nam Vương Tư Mã Nghĩa đời Tấn .
Tôn Trác, theo lời yêu cầu của Tư Mã Nghĩa, đã sáng tác bài thơ “Bích Ngọc Ca” như sau
Bích Ngọc vốn họ Lưu, không xinh đẹp lắm , nhưng có dáng vóc dễ nhìn, lại có tài ca xướng múa hát tuyệt vời. Nàng là thiếp của Nhữ Nam Vương Tư Mã Nghĩa đời Tấn .
Tôn Trác, theo lời yêu cầu của Tư Mã Nghĩa, đã sáng tác bài thơ “Bích Ngọc Ca” như sau
Bích Ngọc tuổi trăng
tròn,
Chàng si tình điên đảo.
Phù dung sương lóng lánh,
Sắc thu trên diện mạo.
Gái nhà nghèo Bích Ngọc,
Dám đâu nhờ ân đức.
Tạ ơn hảo ý chàng,
Thẹn không khuynh thành sắc.
Gái nhà nghèo Bích Ngọc,
Ân đức dám đâu bàn.
Tạ ơn chàng thương tưởng,
Trọn kiếp vẹn kim lan.
Bích Ngọc tuổi trăng tròn,
Ai nhìn cũng điên đảo.
Cảm ơn sâu tri kỷ,
Trọn kiếp nguyện bên chàng
Chàng si tình điên đảo.
Phù dung sương lóng lánh,
Sắc thu trên diện mạo.
Gái nhà nghèo Bích Ngọc,
Dám đâu nhờ ân đức.
Tạ ơn hảo ý chàng,
Thẹn không khuynh thành sắc.
Gái nhà nghèo Bích Ngọc,
Ân đức dám đâu bàn.
Tạ ơn chàng thương tưởng,
Trọn kiếp vẹn kim lan.
Bích Ngọc tuổi trăng tròn,
Ai nhìn cũng điên đảo.
Cảm ơn sâu tri kỷ,
Trọn kiếp nguyện bên chàng
Hoàng hậu của Lưu Diệu nhà Tiền Triệu
Dương Hiến Dung, người Nam Thành, Thái Sơn ( nay là huyện Ninh Dương, tỉnh Sơn Đông), con gái của Dương Huyền Chi. Hoàng hậu của Lưu Diệu nhà Tiền Triệu.
Dương Hiến Dung nguyên là Hoàng hậu của Tấn Huệ Đế trong cái “ loạn bát vương”. Dương hoàng hậu nhiều lần bị phế lập, thậm chí một lần bị Hà Gian Vương Tư Mã Ngưng bắt tội chết, sau nhờ Tư lệnh hiệu úy Lưu Đôn, Thượng thư bộc xạ Tuân Phiên.... cứu mới khỏi nạn. Tấn Huệ Đế về Lạc Dương, rước Dương hậu trở lại ngôi cũ. Không lâu lại bị quan Lệnh Lạc Dương là Hà Kiều phế bỏ, đến khi Trương lương phủ đến Lạc Dương, mới khôi phục ngôi cho Dương Hiến Dung.
Năm 306 ( năm thứ 3 Tấn Huệ Đế Vĩnh Hưng), Huệ Đế bị Đông hải Vương Tư Mã Việt đánh thuốc độc chết, em là Tư Mã Xí được kế lập là Tấn Hoài Đế, tôn Dương thị làm hoàng thái hậu, ở cung Hoằng Điều.
Năm 311 (năm thứ 5 Tấn Hoài Đế Vĩnh Gia), Lưu Diệu đánh vào, Tấn Hoài Đế bị
bắt, Dương Hiến Dung cũng bị cướpvề làm vợ. Sau khi về với Lưu Diệu, Dương Hiến
Dung sinh con là Lưu Hi.
Năm 318 (Đông Tấn Nguyên Đế Đại Hưng nguyên niên), Lưu Diệu xưng đế hiệu.
Năm thứ 2, Lưu Diệu thiên đô về Trường An, đổi Hán làm Triệu, sử gọi là Tiền Triệu. Sách lập Dương thị làm hoàng hậu, lập Lưu Hi làm hoàng thái tử.
Có một lần, hỏi rằng: “ So sánh ta và Tư Mã Trung (Tấn Hoài Đế), nàng thích ai?”. Đáp:” Hai người không thể so sánh”. Nghĩ rằng Dương Hiến Dung còn nhớ người chồng cũ, tỏ ý không vui. Lại hỏi: “ Vì sao lại không thể so sánh?”. Dương thị đáp: “ Bệ hạ là vị vua khai quốc, ông ta là vị vua vong quốc, đừng nói việc bảo vệ xã tắc, đến cả vợ con và thân mình cũng không bảo vệ nổi. Từ ngày tôi về đây với hoàng thượng, mới biết được có bậc chân chính trượng phu trong thiên hạ”. Lưu Diệu nghe xong rất vui càng thêm sủng ái.
Sau Dương hoàng hậu chết, đựoc truy thụy là “ Hán Văn hoàng hậu”, Lưu Diệu điều động 6 vạn dân phu, hao phí cả ức, mất 100 ngày, lập Hiển Bình lăng rất lớn để an táng. Rồi tu sửa Vĩnh Viên lăng của Dương Huyền Chi, thân phụ Dương hoàng hậu. Việc tạo lập 2 lăng mộ lớn làm nhọc sức dân chúng, hao tổn của cải, bị dân chúng chê trách.
Dương Hiến Dung một người mà làm hoàng hậu cho hai nước, ấy là việc ít thấy trong lịch sử.
Phương Tiểu Tiểu
Phương tiểu tiểu, Tiền Đường danh kỹ, hồng nhan bạc mệnh. Nàng là danh kỹ Tiền Đường triều Nam Tề, sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, hát hay múa đẹp, nhưng tạo hóa khéo trêu ngươi nàng. Khi gặp Nguyễn Úc, nàng đã trúng tiếng sét ái tình, hai người nên đôi trúc mã. Nhưng bất hạnh thay vì loạn lạc Nguyễn Úc đã bỏ rơi nàng. Cuối cùng, mỹ nhân bị quan phủ ức hiếp, một đời hồng nhan bạc mệnh, ôm hận chết yểu.
Năm 318 (Đông Tấn Nguyên Đế Đại Hưng nguyên niên), Lưu Diệu xưng đế hiệu.
Năm thứ 2, Lưu Diệu thiên đô về Trường An, đổi Hán làm Triệu, sử gọi là Tiền Triệu. Sách lập Dương thị làm hoàng hậu, lập Lưu Hi làm hoàng thái tử.
Có một lần, hỏi rằng: “ So sánh ta và Tư Mã Trung (Tấn Hoài Đế), nàng thích ai?”. Đáp:” Hai người không thể so sánh”. Nghĩ rằng Dương Hiến Dung còn nhớ người chồng cũ, tỏ ý không vui. Lại hỏi: “ Vì sao lại không thể so sánh?”. Dương thị đáp: “ Bệ hạ là vị vua khai quốc, ông ta là vị vua vong quốc, đừng nói việc bảo vệ xã tắc, đến cả vợ con và thân mình cũng không bảo vệ nổi. Từ ngày tôi về đây với hoàng thượng, mới biết được có bậc chân chính trượng phu trong thiên hạ”. Lưu Diệu nghe xong rất vui càng thêm sủng ái.
Sau Dương hoàng hậu chết, đựoc truy thụy là “ Hán Văn hoàng hậu”, Lưu Diệu điều động 6 vạn dân phu, hao phí cả ức, mất 100 ngày, lập Hiển Bình lăng rất lớn để an táng. Rồi tu sửa Vĩnh Viên lăng của Dương Huyền Chi, thân phụ Dương hoàng hậu. Việc tạo lập 2 lăng mộ lớn làm nhọc sức dân chúng, hao tổn của cải, bị dân chúng chê trách.
Dương Hiến Dung một người mà làm hoàng hậu cho hai nước, ấy là việc ít thấy trong lịch sử.
Lộ thái hậu
Nhờ nhan sắc hơn hẳn những người đẹp khác, Lộ Huệ Nam
vừa vào cung đã được Tống Văn Đế sủng ái, phong làm Thục Viên. Tuy nhiên, Lộ
Huệ Nam
vốn là người lương thiện, lại không giỏi uốn éo, lươn lẹo thành ra khó có thể
tồn tại lâu dài trong cuộc chiến khốc liệt tranh giành sự sủng hạnh chốn hậu
cung.
Vì thế, sau khi sinh con trai Lưu Tuấn không được bao lâu thì Lộ HuệNam bị
mất đi sự sủng ái của Tống Văn Đế.
Khi Lưu Tuấn lên 5 được Tống Văn Đế phong làm Vũ Lăng Vương và buộc phải rời hoàng cung đến vùng đất được phong là Vũ Lăng để sinh sống.
Do Lưu Tuấn tuổi còn quá nhỏ, cần người chăm sóc, kèm cặp, vì thế, Lộ Huệ Nam đã xin với Tống Văn Đế cho mình đi theo con tới Vũ Lăng để sống. Vào năm đó, tuy đã là một phi tử thất sủng song Lộ HuệNam tuổi mới 24.
Lưu Tuấn rời khỏi hoàng cung, thoát ra khỏi cuộc chiến tranh giành quyền lực “ta sống, người chết” trong hậu cung, hai mẹ con dựa vào nhau sống một cuộc sống bình yên ở Vũ Lăng.
Khi Lưu Tuấn đến tuổi trưởng thành, theo luật lệ của triều đình, Lộ Huệ Nam đã đến lúc phải quay trở về cung.
Tuy nhiên, Lộ thị vốn chán ghét cảnh sống tranh cướp, bon chen trong chốn hậu cung, lại đã quen với cuộc sống bình yên, tự do ở Vũ Lăng nên có ý không muốn quay về cung. Lưu Tuấn thì càng không muốn để Lộ HuệNam về cung.
Lưu Tuấn quyến luyến Lộ HuệNam tới mức một ngày không nhìn
thấy thì ăn không ngon, ngủ không yên. Năm Lưu Tuấn 16 tuổi, Lộ Huệ Nam bắt đầu
tuyển chọn cho con trai mình những cô gái xinh đẹp để làm vợ.
Tuy nhiên, những người con gái này không làm Lưu Tuấn quên đi sự quyến luyến dành cho Lộ HuệNam .
Vì thế, sau khi sinh con trai Lưu Tuấn không được bao lâu thì Lộ Huệ
Khi Lưu Tuấn lên 5 được Tống Văn Đế phong làm Vũ Lăng Vương và buộc phải rời hoàng cung đến vùng đất được phong là Vũ Lăng để sinh sống.
Do Lưu Tuấn tuổi còn quá nhỏ, cần người chăm sóc, kèm cặp, vì thế, Lộ Huệ Nam đã xin với Tống Văn Đế cho mình đi theo con tới Vũ Lăng để sống. Vào năm đó, tuy đã là một phi tử thất sủng song Lộ Huệ
Lưu Tuấn rời khỏi hoàng cung, thoát ra khỏi cuộc chiến tranh giành quyền lực “ta sống, người chết” trong hậu cung, hai mẹ con dựa vào nhau sống một cuộc sống bình yên ở Vũ Lăng.
Khi Lưu Tuấn đến tuổi trưởng thành, theo luật lệ của triều đình, Lộ Huệ Nam đã đến lúc phải quay trở về cung.
Tuy nhiên, Lộ thị vốn chán ghét cảnh sống tranh cướp, bon chen trong chốn hậu cung, lại đã quen với cuộc sống bình yên, tự do ở Vũ Lăng nên có ý không muốn quay về cung. Lưu Tuấn thì càng không muốn để Lộ Huệ
Lưu Tuấn quyến luyến Lộ Huệ
Tuy nhiên, những người con gái này không làm Lưu Tuấn quên đi sự quyến luyến dành cho Lộ Huệ
Năm Lưu Tuấn 23 tuổi, được phong làm
Trung lang tướng kiêm Thái thú Giang Châu. Cũng trong năm đó, kinh thành Kiến
Khang xảy ra bạo loạn.
Thái tử Lưu Thiệu cấu kết với với em trai là Hưng Vương Lưu Huân giết chết cha là Tống Văn Đế, tự lên ngôi hoàng đế.
Do Lộ HuệNam
khuyến khích cộng thêm sự hỗ trợ đại tướng Thẩm Khánh, người đang nắm giữ binh
quyền, Lưu Tuấn quyết định khởi binh thảo phạt Lưu Thiệu. Sau khi tiêu diệt Lưu
Thiệu, Lưu Tuấn lên ngôi hoàng đế, phong cho Lộ Huệ Nam làm hoàng thái hậu, lập
phi tử là Vương thị lên làm hoàng hậu.
Trong suốt thời gian thảo phạt quân phản loạn, Lưu Tuấn phải rời xa mẹ mình. Mặc dù đã trở thành một vị tướng cầm quân nhưng cho tới lúc đó, Lưu Tuấn chưa bao giờ phải rời xa mẹ mình lâu như vậy.Vì thế, ngay sau khi lên ngôi hoàng đế, Lưu Tuấn đã nhanh chóng để đoàn tụ cùng Lộ Huệ Nam, cùng mẹ mình hưởng thụ cuộc sống vinh hoa, phú quý.
Lưu Tuấn quyết định tổ chức buổi lễ sắc phong thật hoành tráng để đề bù cho những năm tháng hai mẹ con phải chịu cảnh sống buồn tẻ ở Vũ Lăng.
Sau khi buổi lễ sắc phong kết thúc là bắt đầu tổ chức yến tiệc ăn mừng. Trên bàn tiệc trong hậu cung, các hoàng thân, quốc thích, các vương công, đại thần luân phiên nhau chúc rượu Lộ thái hậu.
Từ khi rời khỏi hoàng cung tới Vũ Lăng, Lộ HuệNam có nằm mơ cũng không bao giờ
nghĩ được rằng con trai của mình lại có ngày lên làm hoàng đế còn bản thân thì
được lên ngôi thái hậu.
Thái tử Lưu Thiệu cấu kết với với em trai là Hưng Vương Lưu Huân giết chết cha là Tống Văn Đế, tự lên ngôi hoàng đế.
Do Lộ Huệ
Trong suốt thời gian thảo phạt quân phản loạn, Lưu Tuấn phải rời xa mẹ mình. Mặc dù đã trở thành một vị tướng cầm quân nhưng cho tới lúc đó, Lưu Tuấn chưa bao giờ phải rời xa mẹ mình lâu như vậy.Vì thế, ngay sau khi lên ngôi hoàng đế, Lưu Tuấn đã nhanh chóng để đoàn tụ cùng Lộ Huệ Nam, cùng mẹ mình hưởng thụ cuộc sống vinh hoa, phú quý.
Lưu Tuấn quyết định tổ chức buổi lễ sắc phong thật hoành tráng để đề bù cho những năm tháng hai mẹ con phải chịu cảnh sống buồn tẻ ở Vũ Lăng.
Sau khi buổi lễ sắc phong kết thúc là bắt đầu tổ chức yến tiệc ăn mừng. Trên bàn tiệc trong hậu cung, các hoàng thân, quốc thích, các vương công, đại thần luân phiên nhau chúc rượu Lộ thái hậu.
Từ khi rời khỏi hoàng cung tới Vũ Lăng, Lộ Huệ
Lộ Huệ Nam cảm thấy mọi thứ đang diễn ra
giống như một giấc mộng. Trong tâm trạng lâng lâng vì sung sướng, Lộ thái hậu
dường như quên mất việc từ chối, cứ có người đến chúc rượu là cạn ly. Vì thế,
chẳng mấy chốc, Lộ thái hậu bắt đầu chuếnh choáng say. Cảm thấy khó có thể uống
tiếp, Lộ thái hậu vội sai cung nữ dìu về cung. Vừa về đến điện Hiển Dương, cởi
bỏ quần áo là ngủ ngay.
Trong ngày hôm đó, Lưu Tuấn cũng uống không ít rượu. Một lúc sau, không nhìn thấy Lộ thái hậu đâu, Lưu Tuấn mới hỏi thái giám thì được được bẩm báo thái hậu say rượu nên đã về cung ngủ trước.Lưu Tuấn nghe nói mẹ mình đã về cung ngủ, trong lúc hơi men chuếnh choáng, đã nghĩ tới việc ngày xưa dù đã lớn nhưng vẫn nằm ngủ cùng mẹ. Vì vậy, chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào, Lưu Tuấn mang theo hai thái giám đi về phía điện Hiển Dương.
Tới nơi, thấy Lộ thái hậu đã ngủ say, Lưu Tuấn lệnh cho hai thái giám trở về cung rồi tự cởi bỏ quần áo trèo lên giường nằm ngủ. Trong cơn say rượu, Lưu Tuấn đã không biết rằng mình đã phạm phải tội loạn luân với chính mẹ của mình.
Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy vào gặp thái hậu, Lưu Tuấn thấy sắc mặt Lộ thái hậu vẫn bình thường thì mới bắt đầu yên tâm trở về cung. Người ta nói “ngựa quen đường cũ” chẳng sai chút nào.
Lưu Tuấn biết rằng mình đã làm nên chuyện tày đình nhưng không chịu dừng lại. Ít lâu sau đó, sau một bữa tiệc rượu no say, Lưu Tuấn lại tìm tới điện Hiển Dương gặp Lộ thái hậu.
Từ đó về sau, Lưu Tuấn thường tìm tới điện Hiển Dương để mây mưa với chính mẹ ruột của mình. Lộ thái hậu ban đầu vì thương yêu mà chiều theo ý của Lưu Tuấn nhưng sau đó lâu dần thì hai người sống với nhau như vợ chồng chứ không còn là mẹ con nữa.
Mặc dù trong suốt thời gian trên ngồi trên ngai vàng, Lưu Tuấn có không ít sủng phi tuy nhiên, ông vua dâm loạn này vẫn duy trì mối quan hệ loạn luân với mẹ ruột của mình.
Điều này khiến Lưu Tuấn trở thành ông vua duy nhất trong lịch sử Trung Quốc mắc tội loạn luân với chính mẹ ruột của mình. Lưu Tuấn chết năm 464 khi mới 36 tuổi.
Trong ngày hôm đó, Lưu Tuấn cũng uống không ít rượu. Một lúc sau, không nhìn thấy Lộ thái hậu đâu, Lưu Tuấn mới hỏi thái giám thì được được bẩm báo thái hậu say rượu nên đã về cung ngủ trước.Lưu Tuấn nghe nói mẹ mình đã về cung ngủ, trong lúc hơi men chuếnh choáng, đã nghĩ tới việc ngày xưa dù đã lớn nhưng vẫn nằm ngủ cùng mẹ. Vì vậy, chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào, Lưu Tuấn mang theo hai thái giám đi về phía điện Hiển Dương.
Tới nơi, thấy Lộ thái hậu đã ngủ say, Lưu Tuấn lệnh cho hai thái giám trở về cung rồi tự cởi bỏ quần áo trèo lên giường nằm ngủ. Trong cơn say rượu, Lưu Tuấn đã không biết rằng mình đã phạm phải tội loạn luân với chính mẹ của mình.
Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy vào gặp thái hậu, Lưu Tuấn thấy sắc mặt Lộ thái hậu vẫn bình thường thì mới bắt đầu yên tâm trở về cung. Người ta nói “ngựa quen đường cũ” chẳng sai chút nào.
Lưu Tuấn biết rằng mình đã làm nên chuyện tày đình nhưng không chịu dừng lại. Ít lâu sau đó, sau một bữa tiệc rượu no say, Lưu Tuấn lại tìm tới điện Hiển Dương gặp Lộ thái hậu.
Từ đó về sau, Lưu Tuấn thường tìm tới điện Hiển Dương để mây mưa với chính mẹ ruột của mình. Lộ thái hậu ban đầu vì thương yêu mà chiều theo ý của Lưu Tuấn nhưng sau đó lâu dần thì hai người sống với nhau như vợ chồng chứ không còn là mẹ con nữa.
Mặc dù trong suốt thời gian trên ngồi trên ngai vàng, Lưu Tuấn có không ít sủng phi tuy nhiên, ông vua dâm loạn này vẫn duy trì mối quan hệ loạn luân với mẹ ruột của mình.
Điều này khiến Lưu Tuấn trở thành ông vua duy nhất trong lịch sử Trung Quốc mắc tội loạn luân với chính mẹ ruột của mình. Lưu Tuấn chết năm 464 khi mới 36 tuổi.
Phùng Thái Hậu
Phùng Thái Hậu tên thật là Phùng Thục Nghi,
cháu gái Phùng Hoằng, gia tộc Bắc Yên. Họ Phùng lần lượt giữ những vị trí quan
trọng trong triều: cha của bà là Phùng Lãng và chú là Phùng Mạc làm thích sử
hai châu Tận, Ung, cô cô là Tả Chiêu Nghi nương nương của Thái Võ Đế. Do gian
thần hãm hại, gia tộc họ Phùng bị chu di cửu tộc, chỉ còn lại Phùng Thục Nghi
được giữ lại nhờ cô cô Tả Chiêu Nghi của mình. Ngoài ra, người anh Phùng Hy của
bà may mắn chạy thoát được, sau này trở thành một tướng tài, khôi phục lại danh
dự họ Phùng. Ở trong cung, nhờ thông minh nhanh nhẹn, bà được Thường nhũ mẫu và
cô cô đưa vào cung làm cung nữ, trở thành bạn học của hoàng tôn Thác Bạc Tuấn -
tức là Ngụy Văn Thành Đế sau này.
Năm 450, Thái Võ Đế Thác Bạc Đào và Tả Chiêu Nghi - cô cô của bà, bị hoạn quan Tống Ái sát hại trong một trận binh biến, lập Nam An Dương Thác Bạc Dư làm đế, rồi năm sau lại giết chết. Triều đình hỗn loạn, lòng dân hốt hoảng, Thường nhũ mẫu cùng các đại thần Hà Lạc Bạc, Nguyên Hạ, Lục Lệ tiêu diệt tông đảng Tống Ái.
Năm 452, Thác Bạc Tuấn xưng đế, tức Ngụy Văn Thành Đế. Sử sách gọi sự kiện này là Thái An Nguyên Niên. Cùng năm, Thường Nhũ Mẫu được tôn làm Thường Thái Hậu, Phùng Thục Nghi được phong làm Phùng Quý Nhân - lúc mà bà chỉ mới 11 tuổi.
Công nguyên năm 456, nhờ đúc tượng vàng người thành công, bà được phong làm Hoàng hậu.
Phùng Hoàng Hậu tích cực khuyến khích anh trai mình là Phùng tướng quân ra trận, lập nhiều kì công, dần dần khôi phục lại danh dự họ Phùng. Từ từ Phùng Hy dần lên chức Thái sư.
Vài năm sau, Lý Quý Nhân - một trong các phi tần của Văn Thành Đế - có thai. Vài tháng sau, Phùng Hoàng Hậu cũng có thai, nhưng do sợ điều luật Tử quý mẫu tử (nếu một phi tần trong cung sinh hạ hoàng tử mà được phong làm thái tử thì phải xử tử phi tần đó, thái tử giao do người khác đỡ dưỡng) của Đạo Võ Đế lập ra, bà đã uống thuốc phá thai giết đi đứa con của mình. Lý Quý Nhân sinh được thái tử Thác Bạc Hoằng - tức là Ngụy Hiến Văn Đế, theo điều luật Tử quý mẫu tử, Lý Thị bị ban chết.
Không lâu sau, Thường Thái Hậu mất. Sử sách truy tặng là Triệu Hoàng Hậu.
Năm 465, Văn Thành Đế chết khi mới 25 tuổi, Thái tử Thác Bạc Hoằng lên ngôi tức Ngụy Hiến Văn Đế. Ông ngoại của ông - nghĩa phụ của Lý Quý Nhân - Ất Phất Bộ Hồn - điều khiển chính sự, giam lỏng Phùng Thái Hậu. Nhờ sự giúp đỡ của các quan cận thần, Phùng Thái Hậu dẹp yên triệt để âm mưu cướp ngôi của Ất Phất Bộ Hồn. Không lâu sau, bà chính thức lâm triều nhiếp chính - cũng từ đây, một trang sử mới mở ra cho vương triều Bắc Ngụy.
Mấy năm sau, dù vua đã lớn nhưng Thái hậu vẫn muốn nắm quyền không trao lại cho con, đồng thời không từ bỏ chuyện tư tình trong cung cấm. Hiến Văn đế buồn bực, muốn nhường ngôi cho chú là Tử Thôi nhưng Tử Thôi không nhận, vì thế năm 471, ông truyền ngôi cho con là Nguyên Hoàng mới 4 tuổi (Ngụy Hiếu Văn Đế) để lên làm Thái thượng hoàng. Khi đó Thượng hoàng mới 17 tuổi.
Năm 472, quân Nhu Nhiên phương Bắc sang quấy phá biên giới. Thượng hoàng thay con cầm quân đi đánh bại được Nhu Nhiên. Phùng Thái hậu ở nhà lại cùng anh em Lý Phu, Lý Dịch tư thông. Năm 476, Thác Bạc Hoằng trở về triều, nghe chuyện không hay của mẹ, bèn bắt chém anh em Phu, Dịch. Phùng Thái hậu tức giận về chuyện đó, bèn sai cận thần bày tiệc hạ độc giết chết Thái thượng hoàng. Năm đó Thượng hoàng mới 22 tuổi.
Sau đó, Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoàng cùng sự chấp chính của bà nội mình là Phùng Thái Hoàng Thái Hậu - tiếp tục cai trị đất nước ổn định, dân chúng ấm no. Ngoài ra, bà còn đưa hai đứa cháu gái con của anh trai mình Phùng Hy là Phùng Diệu Vân và Phùng Diệu Liên vào cung hầu hạ Hiếu Văn Đế. Hiếu Văn Đế rất sủng ái hai người, đặc biệt là Phùng Diệu Vân - phong làm Tả Chiêu Nghi, Phùng Diệu Liên phong làm Hữu Chiêu Nghi.
Vài năm sau, Phùng Thái Hậu quyết chí cải cách, ban hành Bổng lộc chế để hạn chế vấn đề tham nhũng rất trầm trọng của vương triều Bắc Ngụy lúc bấy giờ. Nhưng bà gặp phải nhiều sự chống đối của các lão thần Tiên Ti. Lúc này Phùng Diệu Vân đã có thai và sinh thái tử, các lão thần muốn ép chết Diệu Vân theo điều luật Tử quý mẫu tử để đổi lại thông qua chính sách Bổng lộc chế. Vì xã tắc, Phùng Thái Hậu đành ban chết đứa cháu gái yêu của mình, lúc đó Tả Chiêu Nghi Phùng Diệu Vân còn chưa đến 20 tuổi. Đây là một trong những vết thương lòng đau đớn nhất của bà.
Bổng lộc chế được ban bố, bà còn muốn ban hành tiếp Quân điền chế và Tam trưởng chế, tiếp tục trấn hưng Bắc Ngụy. Ngoài ra lúc này, Bắc Ngụy tiếp tục gặp thiên tai, để cùng nhân dân vượt qua hoạn nạn, bà yêu cầu quan lại và cung đình tiết kiệm, mỗi ngày chỉ 1 tô cháo và một dĩa bánh. Lúc này, Ngụy Hiếu Văn Đế muốn dấy binh thống nhất vùng Hoa Hạ theo ý nguyện của tiên đế. Ý kiến này lập tức bị bà phản đối. Ngụy Hiếu Văn Đế buồn bực, rất muốn thân chinh, nên nhân lúc Phùng Thái Hậu đi Nhũ Châu Sơn thỉnh Phật, ông đã bí mật tập luyện binh mã. Phùng Thái Hậu biết tin, vô cùng tức giận, lệnh đánh ông 30 roi và giam vào cung ba ngày, không cho ăn uống để trừng phạt.
Trong cung, Phùng Diệu Liên lén lút tư thông với Cao Bồ Tát - một tên dâm tặc giả dạng đại phu để lừa các cô gái trẻ. Chuyện bị Hiếu Văn Đế biết, ông cảnh cáo Phùng Diệu Liên và cố giấu không cho Phùng Thái Hậu biết. Nhưng cây kim trong bọc cũng sẽ lòi ra, Phùng Thái Hậu biết được, bà rất thất vọng và suy sụp. Để giữ gìn trật tự kỉ cương, bà đành phải bức tử chết đứa cháu gái còn lại này của mình. Một lần nữa bà không phụ tình riêng, mà thẳng tay giết chết người thân của mình.
Phùng Thái Hậu trải qua bao triều, phò trợ minh chủ, vượt qua bao sóng gió, không nệ tình riêng. Sau khi ngự chết Phùng Diệu Liên, trong lòng đau đớn cùng cực. Chỉ trong một đêm, tóc bạc trắng xóa.
Những năm sau đó, các lão thần Tiên Ti đã đồng lòng và chấp thuận 3 chính sách cải cách này của bà, nhà nước Bắc Ngụy trở nên cực thịnh, chư hầu thán phục, quốc khố dồi dào. Vương triều Bắc Ngụy trở nên hùng mạnh.
Năm 490, Phùng Thái Hậu Bắc Ngụy - nhà cải cách gia đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc - qua đời, hưởng dương 49 tuổi. Trong suốt cuộc đời, bà đã đi qua bao sóng gió hậu cung, không nệ tình riêng để trấn hưng đất nước. Bà là vị nữ hoàng và cũng là nữ cải cách gia đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Việc cải cách của bà đã làm cho xã hội Bắc Ngụy cực thịnh, bước qua giai đoạn mới. Và 3 chính sách của bà đã là nên tảng vững chắc cho xã hội thịnh thế nhà Đường sau này.
Hiếu Văn Đế để tang bà 3 năm, truy tặng Văn Minh Phùng Thái Hậu. Lăng bà được đặt tên là Vĩnh Cố Lăng.
Năm 450, Thái Võ Đế Thác Bạc Đào và Tả Chiêu Nghi - cô cô của bà, bị hoạn quan Tống Ái sát hại trong một trận binh biến, lập Nam An Dương Thác Bạc Dư làm đế, rồi năm sau lại giết chết. Triều đình hỗn loạn, lòng dân hốt hoảng, Thường nhũ mẫu cùng các đại thần Hà Lạc Bạc, Nguyên Hạ, Lục Lệ tiêu diệt tông đảng Tống Ái.
Năm 452, Thác Bạc Tuấn xưng đế, tức Ngụy Văn Thành Đế. Sử sách gọi sự kiện này là Thái An Nguyên Niên. Cùng năm, Thường Nhũ Mẫu được tôn làm Thường Thái Hậu, Phùng Thục Nghi được phong làm Phùng Quý Nhân - lúc mà bà chỉ mới 11 tuổi.
Công nguyên năm 456, nhờ đúc tượng vàng người thành công, bà được phong làm Hoàng hậu.
Phùng Hoàng Hậu tích cực khuyến khích anh trai mình là Phùng tướng quân ra trận, lập nhiều kì công, dần dần khôi phục lại danh dự họ Phùng. Từ từ Phùng Hy dần lên chức Thái sư.
Vài năm sau, Lý Quý Nhân - một trong các phi tần của Văn Thành Đế - có thai. Vài tháng sau, Phùng Hoàng Hậu cũng có thai, nhưng do sợ điều luật Tử quý mẫu tử (nếu một phi tần trong cung sinh hạ hoàng tử mà được phong làm thái tử thì phải xử tử phi tần đó, thái tử giao do người khác đỡ dưỡng) của Đạo Võ Đế lập ra, bà đã uống thuốc phá thai giết đi đứa con của mình. Lý Quý Nhân sinh được thái tử Thác Bạc Hoằng - tức là Ngụy Hiến Văn Đế, theo điều luật Tử quý mẫu tử, Lý Thị bị ban chết.
Không lâu sau, Thường Thái Hậu mất. Sử sách truy tặng là Triệu Hoàng Hậu.
Năm 465, Văn Thành Đế chết khi mới 25 tuổi, Thái tử Thác Bạc Hoằng lên ngôi tức Ngụy Hiến Văn Đế. Ông ngoại của ông - nghĩa phụ của Lý Quý Nhân - Ất Phất Bộ Hồn - điều khiển chính sự, giam lỏng Phùng Thái Hậu. Nhờ sự giúp đỡ của các quan cận thần, Phùng Thái Hậu dẹp yên triệt để âm mưu cướp ngôi của Ất Phất Bộ Hồn. Không lâu sau, bà chính thức lâm triều nhiếp chính - cũng từ đây, một trang sử mới mở ra cho vương triều Bắc Ngụy.
Mấy năm sau, dù vua đã lớn nhưng Thái hậu vẫn muốn nắm quyền không trao lại cho con, đồng thời không từ bỏ chuyện tư tình trong cung cấm. Hiến Văn đế buồn bực, muốn nhường ngôi cho chú là Tử Thôi nhưng Tử Thôi không nhận, vì thế năm 471, ông truyền ngôi cho con là Nguyên Hoàng mới 4 tuổi (Ngụy Hiếu Văn Đế) để lên làm Thái thượng hoàng. Khi đó Thượng hoàng mới 17 tuổi.
Năm 472, quân Nhu Nhiên phương Bắc sang quấy phá biên giới. Thượng hoàng thay con cầm quân đi đánh bại được Nhu Nhiên. Phùng Thái hậu ở nhà lại cùng anh em Lý Phu, Lý Dịch tư thông. Năm 476, Thác Bạc Hoằng trở về triều, nghe chuyện không hay của mẹ, bèn bắt chém anh em Phu, Dịch. Phùng Thái hậu tức giận về chuyện đó, bèn sai cận thần bày tiệc hạ độc giết chết Thái thượng hoàng. Năm đó Thượng hoàng mới 22 tuổi.
Sau đó, Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoàng cùng sự chấp chính của bà nội mình là Phùng Thái Hoàng Thái Hậu - tiếp tục cai trị đất nước ổn định, dân chúng ấm no. Ngoài ra, bà còn đưa hai đứa cháu gái con của anh trai mình Phùng Hy là Phùng Diệu Vân và Phùng Diệu Liên vào cung hầu hạ Hiếu Văn Đế. Hiếu Văn Đế rất sủng ái hai người, đặc biệt là Phùng Diệu Vân - phong làm Tả Chiêu Nghi, Phùng Diệu Liên phong làm Hữu Chiêu Nghi.
Vài năm sau, Phùng Thái Hậu quyết chí cải cách, ban hành Bổng lộc chế để hạn chế vấn đề tham nhũng rất trầm trọng của vương triều Bắc Ngụy lúc bấy giờ. Nhưng bà gặp phải nhiều sự chống đối của các lão thần Tiên Ti. Lúc này Phùng Diệu Vân đã có thai và sinh thái tử, các lão thần muốn ép chết Diệu Vân theo điều luật Tử quý mẫu tử để đổi lại thông qua chính sách Bổng lộc chế. Vì xã tắc, Phùng Thái Hậu đành ban chết đứa cháu gái yêu của mình, lúc đó Tả Chiêu Nghi Phùng Diệu Vân còn chưa đến 20 tuổi. Đây là một trong những vết thương lòng đau đớn nhất của bà.
Bổng lộc chế được ban bố, bà còn muốn ban hành tiếp Quân điền chế và Tam trưởng chế, tiếp tục trấn hưng Bắc Ngụy. Ngoài ra lúc này, Bắc Ngụy tiếp tục gặp thiên tai, để cùng nhân dân vượt qua hoạn nạn, bà yêu cầu quan lại và cung đình tiết kiệm, mỗi ngày chỉ 1 tô cháo và một dĩa bánh. Lúc này, Ngụy Hiếu Văn Đế muốn dấy binh thống nhất vùng Hoa Hạ theo ý nguyện của tiên đế. Ý kiến này lập tức bị bà phản đối. Ngụy Hiếu Văn Đế buồn bực, rất muốn thân chinh, nên nhân lúc Phùng Thái Hậu đi Nhũ Châu Sơn thỉnh Phật, ông đã bí mật tập luyện binh mã. Phùng Thái Hậu biết tin, vô cùng tức giận, lệnh đánh ông 30 roi và giam vào cung ba ngày, không cho ăn uống để trừng phạt.
Trong cung, Phùng Diệu Liên lén lút tư thông với Cao Bồ Tát - một tên dâm tặc giả dạng đại phu để lừa các cô gái trẻ. Chuyện bị Hiếu Văn Đế biết, ông cảnh cáo Phùng Diệu Liên và cố giấu không cho Phùng Thái Hậu biết. Nhưng cây kim trong bọc cũng sẽ lòi ra, Phùng Thái Hậu biết được, bà rất thất vọng và suy sụp. Để giữ gìn trật tự kỉ cương, bà đành phải bức tử chết đứa cháu gái còn lại này của mình. Một lần nữa bà không phụ tình riêng, mà thẳng tay giết chết người thân của mình.
Phùng Thái Hậu trải qua bao triều, phò trợ minh chủ, vượt qua bao sóng gió, không nệ tình riêng. Sau khi ngự chết Phùng Diệu Liên, trong lòng đau đớn cùng cực. Chỉ trong một đêm, tóc bạc trắng xóa.
Những năm sau đó, các lão thần Tiên Ti đã đồng lòng và chấp thuận 3 chính sách cải cách này của bà, nhà nước Bắc Ngụy trở nên cực thịnh, chư hầu thán phục, quốc khố dồi dào. Vương triều Bắc Ngụy trở nên hùng mạnh.
Năm 490, Phùng Thái Hậu Bắc Ngụy - nhà cải cách gia đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc - qua đời, hưởng dương 49 tuổi. Trong suốt cuộc đời, bà đã đi qua bao sóng gió hậu cung, không nệ tình riêng để trấn hưng đất nước. Bà là vị nữ hoàng và cũng là nữ cải cách gia đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Việc cải cách của bà đã làm cho xã hội Bắc Ngụy cực thịnh, bước qua giai đoạn mới. Và 3 chính sách của bà đã là nên tảng vững chắc cho xã hội thịnh thế nhà Đường sau này.
Hiếu Văn Đế để tang bà 3 năm, truy tặng Văn Minh Phùng Thái Hậu. Lăng bà được đặt tên là Vĩnh Cố Lăng.
Phan Ngọc Nhi
Phan Ngọc Nhi sinh ra trong
một gia đình nghèo, cha Phan thị là một người buôn bán nhỏ trong kinh thành.
Do gia đình nghèo khó, từ nhỏ, Phan Ngọc Nhi đã phải trở thành một ca nữ, sống cuộc đời xô bồ, hỗn tạp tại những chốn ăn chơi trong kinh thành.
Cũng vì thế, từ nhỏ, Phan Ngọc Nhi đã luyện cho mình một bản lĩnh đặc biệt đó là sự quyến rũ đối với bất cứ người đàn ông đứng trước mặt mình. Phan Ngọc Nhi có thể nói là một trang tuyệt sắc ngàn năm khó tìm, mặt hoa da phấn, lại giỏi đàn ca, thi phú.
Tuy nhiên, điều quyến rũ nhất ở Phan Ngọc Nhi khiến Tiêu Bảo Quyển ((483–501) mê đắm lại không phải là sắc đẹp mà chính là đôi chân của Phan thị.
Do gia đình nghèo khó, từ nhỏ, Phan Ngọc Nhi đã phải trở thành một ca nữ, sống cuộc đời xô bồ, hỗn tạp tại những chốn ăn chơi trong kinh thành.
Cũng vì thế, từ nhỏ, Phan Ngọc Nhi đã luyện cho mình một bản lĩnh đặc biệt đó là sự quyến rũ đối với bất cứ người đàn ông đứng trước mặt mình. Phan Ngọc Nhi có thể nói là một trang tuyệt sắc ngàn năm khó tìm, mặt hoa da phấn, lại giỏi đàn ca, thi phú.
Tuy nhiên, điều quyến rũ nhất ở Phan Ngọc Nhi khiến Tiêu Bảo Quyển ((483–501) mê đắm lại không phải là sắc đẹp mà chính là đôi chân của Phan thị.
Ngoài làn da trắng
muốt như ngọc, Phan Ngọc Nhi còn sở có một đôi chân cực nhỏ, giống như là không
hề có xương bàn chân, một mẫu hình tiêu chuẩn của cái đẹp của người phụ nữ thời
bấy giờ.
Chính đôi chân này của Phan Ngọc Nhi đã trói chặt trái tim của ông vua tàn bạo họ Tiêu.
Công việc hàng ngày yêu thích nhất và cũng là “cao quý” nhất của Tiêu Bảo Quyển chính là được hôn đôi chân nhỏ nhắn của Phan Ngọc Nhi.
Mỗi lần Tiêu Bảo Quyển vuốt ve rồi hôn hít đôi chân của mỹ nhân là nàng lại đỏ mặt, rồi vì ngứa quá mà cười phá lên. Vị Hoàng đế không hề vì thế mà phật lòng, mỗi một nụ cười của người đẹp là một ân huệ đối với bản thân y.
Trái với vẻ ngoài xinh đẹp, tính cách Phan Ngọc Nhi lại rất cay nghiệt và cực kỳ xa hoa. Kể từ khi được Tiêu Bảo Quyển để ý tới và đưa vào cung phong cho làm Quý phi thì Phan Ngọc Nhi lại càng được dịp õng ẹo đòi Tiêu Bảo Quyển làm thứ này, xây thứ kia.
Chính đôi chân này của Phan Ngọc Nhi đã trói chặt trái tim của ông vua tàn bạo họ Tiêu.
Công việc hàng ngày yêu thích nhất và cũng là “cao quý” nhất của Tiêu Bảo Quyển chính là được hôn đôi chân nhỏ nhắn của Phan Ngọc Nhi.
Mỗi lần Tiêu Bảo Quyển vuốt ve rồi hôn hít đôi chân của mỹ nhân là nàng lại đỏ mặt, rồi vì ngứa quá mà cười phá lên. Vị Hoàng đế không hề vì thế mà phật lòng, mỗi một nụ cười của người đẹp là một ân huệ đối với bản thân y.
Trái với vẻ ngoài xinh đẹp, tính cách Phan Ngọc Nhi lại rất cay nghiệt và cực kỳ xa hoa. Kể từ khi được Tiêu Bảo Quyển để ý tới và đưa vào cung phong cho làm Quý phi thì Phan Ngọc Nhi lại càng được dịp õng ẹo đòi Tiêu Bảo Quyển làm thứ này, xây thứ kia.
Quần áo và đồ trang sức của
Phan Ngọc Nhi đều là những loại đắt tiền nhất. Nếu như trong kho của hoàng cung
không có sẵn thì ngay lập tức, bọn thái giám được lệnh tìm mua bằng được, bất
kể là phải bỏ ra bao nhiêu tiền.
Một chiếc vòng tay hổ phách của Phan thị cũng có giá trị tới 17 triệu quan tiền. Không chỉ một mình Phan Ngọc Nhi sống xa hoa mà kể từ khi Phan thị trở thành Quý phi thì ngay cả gia đình cô ta cũng nhanh chóng trở thành một gia đình giàu có và thế lực.
Cha của Phan Ngọc Nhi là Du Đại Khánh vốn chỉ là một tiểu thương, nay dựa vào đứa con gái được sủng ái, bèn câu kết với những bọn tiểu nhân tìm cách hãm hại những nhà giàu có để vơ vét chiếm đoạt tài sản của họ.
Một nhà phạm tội, đến cả hàng xóm cũng bị liên lụy. Bọn Du Đại Khánh còn sợ con cháu những người bị hại trả thù nên tìm mọi cách giết sạch những người đàn ông trong gia đình họ để trừ hậu hoạn.
Họ Du vô lối và coi thưởng pháp luật triều đình đến vậy nhưng cả triều đình chẳng ai dám mở miệng nói lấy nửa câu bởi lẽ lúc bấy giờ, Phan Ngọc Nhi đang là sủng phi của Tiêu Bảo Quyển, dù có nói gì đi nữa cũng bằng thừa, thậm chí còn mất mạng như chơi.
Vào lúc Du Đại Khánh và vây cánh của y đang càn quấy khắp nơi trong kinh thành, gây ra bao cảnh tang tóc thì vị tiểu Hoàng đế trong hậu cung đang lo lắng không biết làm cách nào để thể hiện cho hết sự si mê mà mình dành cho người đẹp họ Phan.
Thành ra, ngoài công việc hôn chân Phan Ngọc Nhi, thời gian còn lại, Tiêu Bảo Quyển tự cho mình sống kiếp của một kẻ nô bộc trung thành.
Y ra lệnh cho Mỹ nhân họ Phan luôn ở sát bên mình, vì vậy, dù chỉ là quý phi nhưng Phan Ngọc Nhi ăn thì ngồi cùng bàn, ra khỏi cung thì ngồi cung xe với hoàng đế.
Thậm chí, mỗi khi ra ngoài du hý, Phan Ngọc Nhi được Tiêu Bảo Quyển sắp xếp cho ngồi xe có giường nằm vô cùng xa hoa và đi ở phía trước còn mình thì cưỡi ngựa theo sau làm công tác “hậu cần”.
Để người đẹp vui lòng, vị thiên tử sở hữu cả thiên hạ sẵn lòng trở thành một tên nô bộc cần mẫn và chịu thương chịu khó.
Thậm chí, có những lần mưa tuyết giá rét nhưng Tiêu Bảo Quyển vẫn nhất định đòi cưỡi ngựa một mình đi phía sau “hầu hạ” Quý phi họ Phan chứ không chịu ngồi kiệu dành cho Hoàng đế.
Những hôm mùa hè, trời nóng như lửa đốt, cưỡi ngựa đi phía sau quá mệt và khát nhưng do đang vào vai một người hầu, sợ ra lệnh cho thái giám sẽ làm Phan Ngọc Nhi phật ý nên Tiêu Bảo Quyển buộc phải dừng ngựa tự đi lấy nước suối uống sau đó lại lên ngựa đuổi theo đoàn hộ tống Phan Quý phi.
Tiêu Bảo Quyển rất thích đến ngôi nhà cũ của Phan Ngọc Nhi. Mỗi khi tới đây, bất kể đang ở cương vị một Hoàng đế, Tiêu Bảo Quyển lại quẩy quang gánh đi lấy nước rồi vào bếp làm phụ cho đầu bếp nhà họ Phan.
Sau khi thỏa mãn thú vui làm hầu cận và đầu bếp, Tiêu Bảo Quyển lại thích thú với trò mua bán. Phan Ngọc Nhi xuất thân ở nơi phố chợ vì vậy sau khi vào sống trong cung cảm thấy rất nhớ cuộc sống đã từng gắn bó với mình.
Để chiều lòng người đẹp, giúp nàng phần nào quên đi nỗi nhớ cuộc sống thời thơ ấu, Tiêu Bảo Quyển đã sai người xây dựng hẳn một khu chợ sầm uất trong hoàng cung.
Rồi cũng giống như những khu chợ dân gian, người ta bán thịt, bán rượu, bán hàng tạp hóa rất sôi nổi ồn ã.
Chưa hết, Tiêu Bảo Quyển còn để Phan Ngọc Nhi làm chức Thị lệnh, xử lý những vụ tranh chấp xảy ra trong chợ, còn bản thân mình thì làm chức thư lại phụ việc.
Mỗi khi Phan Ngọc Nhi xử án thì Tiêu Bảo Quyển lại đứng ở dưới ghi chép lại như một thư lại thực thụ. Để chiều lòng người đẹp, Tiêu Bảo Quyền mỗi khi rảnh rỗi lại bắt một vài “tiểu thương” đang cãi nhau tranh chấp đến trước mặt Ngọc Nhi để người đẹp phân xử.
Mỗi lần nhìn thấy bộ dạng run lẩy bẩy của của bọn “con buôn” là Phan Ngọc Nhi lại cười tươi như hoa còn Tiêu Bảo Quyển thì sung sướng, dương dương tự đắc cho mình đã làm vừa lòng người đẹp.
Tuy nhiên, do cam phận làm chân thư lại, nghĩa là thuộc cấp của quan Thị lệnh Phan Ngọc Nhi nên Tiêu Bảo Quyển cũng thường xuyên bị Phan Ngọc Nhi phạt đòn.
Ngoài việc làm quan tòa tại khu chợ trong hoàng cung, Phan Ngọc Nhi còn được Tiêu Bảo Quyển ưu ái dành riêng cho một nhà hàng sang trọng nhất khu chợ để mở quán rượu.
Trong khi Phan Ngọc Nhi làm bà chủ thì Tiêu Bảo Quyển nhận chức hầu bàn, đứng sau quầy thịt, bưng bê thức ăn cho khách. Tiêu Bảo Quyển còn bắt hàng ngàn cung nữ trong hoàng cung đóng giả làm những người dân thường đi chợ và đến ăn tại cửa hàng của Phan Ngọc Nhi để làm người đẹp vừa lòng.
2. Sau một thời gian cung phục người đẹp, cuối cùng, Tiêu Bảo Quyển cũng được Phan Ngọc Nhi sinh cho một cô con gái.
Tuy nhiên, không may mắn là cô công chúa nhỏ chỉ sống được đúng 100 ngày thì qua đời. Khi xưa, khi cha Tiêu Bảo Quyển chết, y coi như không, thậm chí còn cười đùa, ăn tiệc như không hề có chuyện gì xảy ra.
Thế nhưng, khi đứa con do Phan Ngọc Nhi sinh ra chết đi, Tiêu Bảo Quyển lại tỏ ra đau xót vô cùng. Y bỏ hết lụa là châu báu trên người, chỉ mặc quần áo gai và ăn cơm rau, hơn một tháng không hề bày tiệc, nghe ca múa.
Một chiếc vòng tay hổ phách của Phan thị cũng có giá trị tới 17 triệu quan tiền. Không chỉ một mình Phan Ngọc Nhi sống xa hoa mà kể từ khi Phan thị trở thành Quý phi thì ngay cả gia đình cô ta cũng nhanh chóng trở thành một gia đình giàu có và thế lực.
Cha của Phan Ngọc Nhi là Du Đại Khánh vốn chỉ là một tiểu thương, nay dựa vào đứa con gái được sủng ái, bèn câu kết với những bọn tiểu nhân tìm cách hãm hại những nhà giàu có để vơ vét chiếm đoạt tài sản của họ.
Một nhà phạm tội, đến cả hàng xóm cũng bị liên lụy. Bọn Du Đại Khánh còn sợ con cháu những người bị hại trả thù nên tìm mọi cách giết sạch những người đàn ông trong gia đình họ để trừ hậu hoạn.
Họ Du vô lối và coi thưởng pháp luật triều đình đến vậy nhưng cả triều đình chẳng ai dám mở miệng nói lấy nửa câu bởi lẽ lúc bấy giờ, Phan Ngọc Nhi đang là sủng phi của Tiêu Bảo Quyển, dù có nói gì đi nữa cũng bằng thừa, thậm chí còn mất mạng như chơi.
Vào lúc Du Đại Khánh và vây cánh của y đang càn quấy khắp nơi trong kinh thành, gây ra bao cảnh tang tóc thì vị tiểu Hoàng đế trong hậu cung đang lo lắng không biết làm cách nào để thể hiện cho hết sự si mê mà mình dành cho người đẹp họ Phan.
Thành ra, ngoài công việc hôn chân Phan Ngọc Nhi, thời gian còn lại, Tiêu Bảo Quyển tự cho mình sống kiếp của một kẻ nô bộc trung thành.
Y ra lệnh cho Mỹ nhân họ Phan luôn ở sát bên mình, vì vậy, dù chỉ là quý phi nhưng Phan Ngọc Nhi ăn thì ngồi cùng bàn, ra khỏi cung thì ngồi cung xe với hoàng đế.
Thậm chí, mỗi khi ra ngoài du hý, Phan Ngọc Nhi được Tiêu Bảo Quyển sắp xếp cho ngồi xe có giường nằm vô cùng xa hoa và đi ở phía trước còn mình thì cưỡi ngựa theo sau làm công tác “hậu cần”.
Để người đẹp vui lòng, vị thiên tử sở hữu cả thiên hạ sẵn lòng trở thành một tên nô bộc cần mẫn và chịu thương chịu khó.
Thậm chí, có những lần mưa tuyết giá rét nhưng Tiêu Bảo Quyển vẫn nhất định đòi cưỡi ngựa một mình đi phía sau “hầu hạ” Quý phi họ Phan chứ không chịu ngồi kiệu dành cho Hoàng đế.
Những hôm mùa hè, trời nóng như lửa đốt, cưỡi ngựa đi phía sau quá mệt và khát nhưng do đang vào vai một người hầu, sợ ra lệnh cho thái giám sẽ làm Phan Ngọc Nhi phật ý nên Tiêu Bảo Quyển buộc phải dừng ngựa tự đi lấy nước suối uống sau đó lại lên ngựa đuổi theo đoàn hộ tống Phan Quý phi.
Tiêu Bảo Quyển rất thích đến ngôi nhà cũ của Phan Ngọc Nhi. Mỗi khi tới đây, bất kể đang ở cương vị một Hoàng đế, Tiêu Bảo Quyển lại quẩy quang gánh đi lấy nước rồi vào bếp làm phụ cho đầu bếp nhà họ Phan.
Sau khi thỏa mãn thú vui làm hầu cận và đầu bếp, Tiêu Bảo Quyển lại thích thú với trò mua bán. Phan Ngọc Nhi xuất thân ở nơi phố chợ vì vậy sau khi vào sống trong cung cảm thấy rất nhớ cuộc sống đã từng gắn bó với mình.
Để chiều lòng người đẹp, giúp nàng phần nào quên đi nỗi nhớ cuộc sống thời thơ ấu, Tiêu Bảo Quyển đã sai người xây dựng hẳn một khu chợ sầm uất trong hoàng cung.
Rồi cũng giống như những khu chợ dân gian, người ta bán thịt, bán rượu, bán hàng tạp hóa rất sôi nổi ồn ã.
Chưa hết, Tiêu Bảo Quyển còn để Phan Ngọc Nhi làm chức Thị lệnh, xử lý những vụ tranh chấp xảy ra trong chợ, còn bản thân mình thì làm chức thư lại phụ việc.
Mỗi khi Phan Ngọc Nhi xử án thì Tiêu Bảo Quyển lại đứng ở dưới ghi chép lại như một thư lại thực thụ. Để chiều lòng người đẹp, Tiêu Bảo Quyền mỗi khi rảnh rỗi lại bắt một vài “tiểu thương” đang cãi nhau tranh chấp đến trước mặt Ngọc Nhi để người đẹp phân xử.
Mỗi lần nhìn thấy bộ dạng run lẩy bẩy của của bọn “con buôn” là Phan Ngọc Nhi lại cười tươi như hoa còn Tiêu Bảo Quyển thì sung sướng, dương dương tự đắc cho mình đã làm vừa lòng người đẹp.
Tuy nhiên, do cam phận làm chân thư lại, nghĩa là thuộc cấp của quan Thị lệnh Phan Ngọc Nhi nên Tiêu Bảo Quyển cũng thường xuyên bị Phan Ngọc Nhi phạt đòn.
Ngoài việc làm quan tòa tại khu chợ trong hoàng cung, Phan Ngọc Nhi còn được Tiêu Bảo Quyển ưu ái dành riêng cho một nhà hàng sang trọng nhất khu chợ để mở quán rượu.
Trong khi Phan Ngọc Nhi làm bà chủ thì Tiêu Bảo Quyển nhận chức hầu bàn, đứng sau quầy thịt, bưng bê thức ăn cho khách. Tiêu Bảo Quyển còn bắt hàng ngàn cung nữ trong hoàng cung đóng giả làm những người dân thường đi chợ và đến ăn tại cửa hàng của Phan Ngọc Nhi để làm người đẹp vừa lòng.
2. Sau một thời gian cung phục người đẹp, cuối cùng, Tiêu Bảo Quyển cũng được Phan Ngọc Nhi sinh cho một cô con gái.
Tuy nhiên, không may mắn là cô công chúa nhỏ chỉ sống được đúng 100 ngày thì qua đời. Khi xưa, khi cha Tiêu Bảo Quyển chết, y coi như không, thậm chí còn cười đùa, ăn tiệc như không hề có chuyện gì xảy ra.
Thế nhưng, khi đứa con do Phan Ngọc Nhi sinh ra chết đi, Tiêu Bảo Quyển lại tỏ ra đau xót vô cùng. Y bỏ hết lụa là châu báu trên người, chỉ mặc quần áo gai và ăn cơm rau, hơn một tháng không hề bày tiệc, nghe ca múa.
Những kẻ hầu cận Tiêu Bảo Quyển xưa nay
lần đầu thấy y đau khổ và thương xót người khác tới như vậy thì không khỏi cảm
động, làm rất nhiều rượu thịt cố sức khuyên Tiêu Bảo Quyển ăn uống để không ảnh
hưởng tới long thể.
Và thế là để giải tỏa nỗi xót xa trong lòng, cũng là để an ủi người đẹp họ Phan, Tiêu Bảo Quyển quyết định tổ chức xây dựng cung điện.
Thực tế, từ trước khi lên ngôi hoàng đế, Tiêu Bảo Quyển đã không thích cung điện sẵn có. Khi xưa, Tề Vũ Đế Tiêu Trách xây dựng tòa lầu Hưng Quang đã dùng nước sơn màu xanh quét lên nóc nên tòa lầu này bị gọi là “thanh lâu” (lầu xanh).
Và thế là để giải tỏa nỗi xót xa trong lòng, cũng là để an ủi người đẹp họ Phan, Tiêu Bảo Quyển quyết định tổ chức xây dựng cung điện.
Thực tế, từ trước khi lên ngôi hoàng đế, Tiêu Bảo Quyển đã không thích cung điện sẵn có. Khi xưa, Tề Vũ Đế Tiêu Trách xây dựng tòa lầu Hưng Quang đã dùng nước sơn màu xanh quét lên nóc nên tòa lầu này bị gọi là “thanh lâu” (lầu xanh).
Trong cách nhìn của Tiêu Bảo Quyển, cách làm của Tề Vũ Đế quá là bần
tiện.
Tiêu Bảo Quyển nói với những kẻ hầu cận của mình rằng: “Tề Vũ Đế thật là ngốc nghếch, vì sao không dùng ngọc lưu ly để lợp mái lầu?”
Vào năm Vĩnh Nguyên thứ 3, tức năm 501, trong cung xảy ra một trận hỏa hoạn lớn. Khi đó Tiêu Bảo Quyển và Phan Ngọc Nhi đang ra khỏi cung du hý nên không hề biết chuyện, tuy nhiên, theo mệnh lệnh của Hoàng đế những người ở bên ngoài cung không được phép mở cửa hoàng cung vì thế không ít cung nữ, thái giám và những người hàng ngày phục dịch cho Tiêu Bảo Quyển và Phan Ngọc Nhi đã bị thiêu chết, cả hoàng cung nguy nga tráng lệ cũng bị thiêu rụi thành đống tro tàn.
Vốn sẵn đã chán ghét tòa cung điện cũ, nay vừa may cung điện bị cháy nên Tiêu Bảo Quyển nhân cơ hội quyết định xây dựng một loạt cung điện mới.
Lúc đó, có kẻ nói rằng, theo sách vở thì sau khi cung điện thành quách bị cháy mà xây dựng lại cung điện thì ngôi đế sẽ được giữ vững vì vậy, Tiêu Bảo Quyển càng thêm quyết tâm, không ngại ngần vung phí tiền bạc lần lượt xây dựng Phương Lạc, Phương Đức, Tiên Hoa, Đại Hưng, Hàm Đức, Thanh Diệu, An Thọ cung.
Riêng Phan Ngọc Nhi, Tiêu Bảo Quyển không quên dành riêng cho mỹ nhân có đôi chân tuyệt mỹ này tới ba cung điện là Thần Tiên, Vĩnh Thọ và Ngọc Thọ. Cả ba tòa cung điện này đều được thiết kế và xây dựng một cách xa hoa và tráng lệ với những những thứ đồ trang trí bằng vàng và ngọc.
Trong đó, xa hoa nhất chính là tòa cung điện Ngọc Thọ cung, tòa cung điện dành cho Phan Ngọc Nhi ở.
Để tăng thêm sự xa hoa cho cung điện của Phan Ngọc Nhi, Tiêu Bảo Quyển không tiếc công sức sai người tìm kiếm thu thập tất cả những thứ ngọc quý giá nhất trong thiên hạ về để làm đồ trang trí. Ngay cả những đồ bằng ngọc được thờ cúng trong các chùa cũng bị tay sai của Tiêu Bảo Quyển trưng thu bằng được.
Ngoài việc xây dựng cung điện, Tiêu Bảo Quyển còn thích thú với cảnh trí hoa viên, vì vậy đã đổi Duyệt Vũ Đường thành Phương Lạc Uyển.
Khi đó, trời đang vào giữa mùa hạ, nóng như thiêu đốt nhưng để làm đẹp lòng Phan Ngọc Nhi, Tiêu Bảo Quyển hạ lệnh buộc mọi người phải trồng cây. Chính vì thế, cây vừa trồng buổi sáng thì buổi tối đã chết. Tuy nhiên điều đó không khiến vị Hoàng đế họ Tiêu thối chí.
Cây chết tới đâu, Tiêu Bảo Quyển sai người trồng tới đó. Vì vậy, tại khu Phương Lạc Uyển, người đưa cây sống vào trồng lẫn người đưa cây chết ra ngoài tấp nập như trẩy hội nhưng cuối cùng vẫn chẳng có cây nào sống được.
Sau cùng, khi không còn cách nào khác, Tiêu Bảo Quyển quyết định sai người tìm khắp trong và ngoài thành, thấy cây cổ thụ nào là bứng sạch rồi tổ chức người chuyển vào Phương Lạc Uyển để trồng.
Tuy nhiên, những cây đại thụ hàng chục, hàng trăm năm tuổi phải mất công sức của hàng trăm người mới đưa được vào cung chẳng bao lâu cũng rụng sạch lá mà chết.
Vì vậy, thay vì trồng cây và nuôi lớn, Phương Lạc Uyển chỉ được phủ xanh mỗi khi Hoàng đế và Quý phi có nhã hứng dạo bước tới khu vườn thượng uyển. Tuy nhiên, cây xanh chưa phải là tất cả sự dụng công của Hoàng đế họ Tiêu.
Theo lệnh của Tiêu Bảo Quyển, toàn bộ khu vườn đều được trải một lớp cỏ non để tạo màu xanh tươi mát mà đi lại êm chân. Tuy nhiên, do cỏ không được trồng nên chỉ cần có ánh sáng mặt trời ngay lập tức bị héo và chết.
Mỗi lần như vậy, các quan lại nhận được lệnh của Tiêu Bảo Quyển cho thay mới toàn bộ cỏ trong vườn.
Tiêu Bảo Quyển nói với những kẻ hầu cận của mình rằng: “Tề Vũ Đế thật là ngốc nghếch, vì sao không dùng ngọc lưu ly để lợp mái lầu?”
Vào năm Vĩnh Nguyên thứ 3, tức năm 501, trong cung xảy ra một trận hỏa hoạn lớn. Khi đó Tiêu Bảo Quyển và Phan Ngọc Nhi đang ra khỏi cung du hý nên không hề biết chuyện, tuy nhiên, theo mệnh lệnh của Hoàng đế những người ở bên ngoài cung không được phép mở cửa hoàng cung vì thế không ít cung nữ, thái giám và những người hàng ngày phục dịch cho Tiêu Bảo Quyển và Phan Ngọc Nhi đã bị thiêu chết, cả hoàng cung nguy nga tráng lệ cũng bị thiêu rụi thành đống tro tàn.
Vốn sẵn đã chán ghét tòa cung điện cũ, nay vừa may cung điện bị cháy nên Tiêu Bảo Quyển nhân cơ hội quyết định xây dựng một loạt cung điện mới.
Lúc đó, có kẻ nói rằng, theo sách vở thì sau khi cung điện thành quách bị cháy mà xây dựng lại cung điện thì ngôi đế sẽ được giữ vững vì vậy, Tiêu Bảo Quyển càng thêm quyết tâm, không ngại ngần vung phí tiền bạc lần lượt xây dựng Phương Lạc, Phương Đức, Tiên Hoa, Đại Hưng, Hàm Đức, Thanh Diệu, An Thọ cung.
Riêng Phan Ngọc Nhi, Tiêu Bảo Quyển không quên dành riêng cho mỹ nhân có đôi chân tuyệt mỹ này tới ba cung điện là Thần Tiên, Vĩnh Thọ và Ngọc Thọ. Cả ba tòa cung điện này đều được thiết kế và xây dựng một cách xa hoa và tráng lệ với những những thứ đồ trang trí bằng vàng và ngọc.
Trong đó, xa hoa nhất chính là tòa cung điện Ngọc Thọ cung, tòa cung điện dành cho Phan Ngọc Nhi ở.
Để tăng thêm sự xa hoa cho cung điện của Phan Ngọc Nhi, Tiêu Bảo Quyển không tiếc công sức sai người tìm kiếm thu thập tất cả những thứ ngọc quý giá nhất trong thiên hạ về để làm đồ trang trí. Ngay cả những đồ bằng ngọc được thờ cúng trong các chùa cũng bị tay sai của Tiêu Bảo Quyển trưng thu bằng được.
Ngoài việc xây dựng cung điện, Tiêu Bảo Quyển còn thích thú với cảnh trí hoa viên, vì vậy đã đổi Duyệt Vũ Đường thành Phương Lạc Uyển.
Khi đó, trời đang vào giữa mùa hạ, nóng như thiêu đốt nhưng để làm đẹp lòng Phan Ngọc Nhi, Tiêu Bảo Quyển hạ lệnh buộc mọi người phải trồng cây. Chính vì thế, cây vừa trồng buổi sáng thì buổi tối đã chết. Tuy nhiên điều đó không khiến vị Hoàng đế họ Tiêu thối chí.
Cây chết tới đâu, Tiêu Bảo Quyển sai người trồng tới đó. Vì vậy, tại khu Phương Lạc Uyển, người đưa cây sống vào trồng lẫn người đưa cây chết ra ngoài tấp nập như trẩy hội nhưng cuối cùng vẫn chẳng có cây nào sống được.
Sau cùng, khi không còn cách nào khác, Tiêu Bảo Quyển quyết định sai người tìm khắp trong và ngoài thành, thấy cây cổ thụ nào là bứng sạch rồi tổ chức người chuyển vào Phương Lạc Uyển để trồng.
Tuy nhiên, những cây đại thụ hàng chục, hàng trăm năm tuổi phải mất công sức của hàng trăm người mới đưa được vào cung chẳng bao lâu cũng rụng sạch lá mà chết.
Vì vậy, thay vì trồng cây và nuôi lớn, Phương Lạc Uyển chỉ được phủ xanh mỗi khi Hoàng đế và Quý phi có nhã hứng dạo bước tới khu vườn thượng uyển. Tuy nhiên, cây xanh chưa phải là tất cả sự dụng công của Hoàng đế họ Tiêu.
Theo lệnh của Tiêu Bảo Quyển, toàn bộ khu vườn đều được trải một lớp cỏ non để tạo màu xanh tươi mát mà đi lại êm chân. Tuy nhiên, do cỏ không được trồng nên chỉ cần có ánh sáng mặt trời ngay lập tức bị héo và chết.
Mỗi lần như vậy, các quan lại nhận được lệnh của Tiêu Bảo Quyển cho thay mới toàn bộ cỏ trong vườn.
Ngoài ra, Tiêu Bảo
Quyển là một người ưa màu mè, vì vậy, y ra lệnh cho bọn thái giám đem sơn quét
màu lên tất cả những núi đá, non bộ được đặt trong Phương Lạc Uyển để khu vườn
trở nên thật nhiều màu sắc, làm vui mắt Phan Ngọc Nhi.
Hoàng đế liên tục xây dựng lâu đài cung điện đương phải dùng không ít tiền. Vì vậy, quốc khố nhanh chóng bị Tiêu Bảo Quyển làm cho rỗng không. Bao nhiêu vàng bạc châu báu từ đời cha làm được, Tiêu Bảo Quyển đều dùng vào những chuyến ăn chơi hưởng lạc và xây dựng cùng điện.
Tới lúc bấy giờ, Tiêu Bảo Quyển mới bắt đầu tìm cách kiếm tiền. Các khoản thuế ngày một gia tăng, quan tước được đem ra rao bán công khai nhằm bổ sung kịp thời cho quốc khố đang ngày một cạn dần.
Dân trong nước đã đói khổ vì bị cướp bóc tài nguyên phục vụ cho những cuộc du hý và xây dựng của Hoàng đế, nay lại bị quan binh bức ép đòi phải nộp thuế nên nhiều gia đình rơi vào khốn khổ phải bỏ nhà cửa mà trốn đi.
Ngay cả những đại thần trong triều cũng không khỏi than rằng: “Xưa kia triều Tần chỉ xây dựng cung A Phòng dẫn tới họa mất nước. Nay triều đình ta chỉ bằng một quận của nước Tần khi xưa mà xây hàng chục tòa cung điện xa hoa, lộng lẫy không kém cung A Phòng thì không biết tương lai sẽ ra sao đây?”
Tuy nhiên, vị tiểu Hoàng đế thì nào quản gì việc tốn kém. Dù có phải vét sạch cả quốc khó, thậm chí là cởi bỏ chiếc long bào trên cơ thể mình để đổi lấy nụ cười của mỹ nhân Phan Ngọc Nhi thì ông ta cũng sẵn lòng đồng ý.
Một lần, để chiều lòng Phan Ngọc Nhi, Tiêu Bảo Quyển cao hứng đã hạ độc giết chết quan Thượng Thư Lệnh Tiêu Ý.
Tiêu Ý là một trung thần, cho tới phút lâm chung, vẫn lo cho Hoàng đế nói: “Em trai thần là Tiêu Diễn hiện đang ở Tương Dương, thần rất lo nó sẽ làm loạn, tấn công triều đình”.
Hoàng đế liên tục xây dựng lâu đài cung điện đương phải dùng không ít tiền. Vì vậy, quốc khố nhanh chóng bị Tiêu Bảo Quyển làm cho rỗng không. Bao nhiêu vàng bạc châu báu từ đời cha làm được, Tiêu Bảo Quyển đều dùng vào những chuyến ăn chơi hưởng lạc và xây dựng cùng điện.
Tới lúc bấy giờ, Tiêu Bảo Quyển mới bắt đầu tìm cách kiếm tiền. Các khoản thuế ngày một gia tăng, quan tước được đem ra rao bán công khai nhằm bổ sung kịp thời cho quốc khố đang ngày một cạn dần.
Dân trong nước đã đói khổ vì bị cướp bóc tài nguyên phục vụ cho những cuộc du hý và xây dựng của Hoàng đế, nay lại bị quan binh bức ép đòi phải nộp thuế nên nhiều gia đình rơi vào khốn khổ phải bỏ nhà cửa mà trốn đi.
Ngay cả những đại thần trong triều cũng không khỏi than rằng: “Xưa kia triều Tần chỉ xây dựng cung A Phòng dẫn tới họa mất nước. Nay triều đình ta chỉ bằng một quận của nước Tần khi xưa mà xây hàng chục tòa cung điện xa hoa, lộng lẫy không kém cung A Phòng thì không biết tương lai sẽ ra sao đây?”
Tuy nhiên, vị tiểu Hoàng đế thì nào quản gì việc tốn kém. Dù có phải vét sạch cả quốc khó, thậm chí là cởi bỏ chiếc long bào trên cơ thể mình để đổi lấy nụ cười của mỹ nhân Phan Ngọc Nhi thì ông ta cũng sẵn lòng đồng ý.
Một lần, để chiều lòng Phan Ngọc Nhi, Tiêu Bảo Quyển cao hứng đã hạ độc giết chết quan Thượng Thư Lệnh Tiêu Ý.
Tiêu Ý là một trung thần, cho tới phút lâm chung, vẫn lo cho Hoàng đế nói: “Em trai thần là Tiêu Diễn hiện đang ở Tương Dương, thần rất lo nó sẽ làm loạn, tấn công triều đình”.
Hoàng đế tin
vào lời của vị trung thần trước lúc lâm chung, vì vậy, sau khi hạ độc giết chết
Tiêu Ý, Tiêu Bảo Quyển hạ lệnh truy bắt Tiêu Diễn. Bị bức ép, Tiêu Diễn tập hợp
quân ở Tương Dương nổi loạn chống lại triều đình.
Năm Vĩnh Nguyên thứ 2 nhà Nam Tề, Tiêu Diễn dẫn đại quân tấn công vào kinh đô Kiến Khang đòi giết Phan Ngọc Nhi, phế bỏ Tiêu Bảo Quyển trừ họa cho dân.
Tiêu Bảo Quyển cũng chẳng phải tay vừa, vì bảo vệ ngai báu và người đẹp, y tự mình dẫn hơn 10 vạn quân cố thủ thành Kiến Khang. Tiêu Diễn cho quân bao vây thành, quyết không tha cho Tiêu Bảo Quyển.
Giữa lúc chiến trận diễn ra căng thẳng thì tướng quân Nam Tề là Vương Trân Quốc lo sợ một khi quân của Tiêu Diễn vào được kinh thành thì khó mà thoát khỏi tội chết.
Do vậy, quyết định mở cửa thành ra đầu hàng mong được Tiêu Diễn tha cho tội chết. Vì vậy, thành Kiến Khang chưa bị tấn công đã đại bại.
Tiêu Diễn đem quân vào thành, Tiêu Bảo Quyển bị phế làm Đông Hôn Hầu. Ít lâu sau đó, y bị loạn binh trong thành giết chết.
Còn người đẹp lừng danh đã một thời làm “bà chủ” của vị hôn quân Tiêu Bảo Quyển thì như thông lệ, trở thành chiến lợi phẩm của Tiêu Diễn.
Tuy nhiên, vừa mới chiếm được ngai báu, Tiêu Diễn cũng chẳng dại gì mà giữ Phan Ngọc Nhi ở lại hậu cung của mình để nhận lấy lời đàm tiếu của thiên hạ.
Vì vậy, Tiêu Diễn đã ban “chiến lợi phẩm” Phan Ngọc Nhi cho vị tướng công lập được nhiều công trạng nhất trong cuộc khởi nghĩa lật đổ Tiêu Bảo Quyển của mình là Điền An Khởi.
Tuy nhiên, đúng vào đêm tân hôn với tướng quân họ Điền, có lẽ vì nhớ tiếc cuộc sống xa hoa của một bà chủ cung cấm khi xưa nên người đẹp Phan Ngọc Nhi đã quyết định treo cổ tự sát.
Năm Vĩnh Nguyên thứ 2 nhà Nam Tề, Tiêu Diễn dẫn đại quân tấn công vào kinh đô Kiến Khang đòi giết Phan Ngọc Nhi, phế bỏ Tiêu Bảo Quyển trừ họa cho dân.
Tiêu Bảo Quyển cũng chẳng phải tay vừa, vì bảo vệ ngai báu và người đẹp, y tự mình dẫn hơn 10 vạn quân cố thủ thành Kiến Khang. Tiêu Diễn cho quân bao vây thành, quyết không tha cho Tiêu Bảo Quyển.
Giữa lúc chiến trận diễn ra căng thẳng thì tướng quân Nam Tề là Vương Trân Quốc lo sợ một khi quân của Tiêu Diễn vào được kinh thành thì khó mà thoát khỏi tội chết.
Do vậy, quyết định mở cửa thành ra đầu hàng mong được Tiêu Diễn tha cho tội chết. Vì vậy, thành Kiến Khang chưa bị tấn công đã đại bại.
Tiêu Diễn đem quân vào thành, Tiêu Bảo Quyển bị phế làm Đông Hôn Hầu. Ít lâu sau đó, y bị loạn binh trong thành giết chết.
Còn người đẹp lừng danh đã một thời làm “bà chủ” của vị hôn quân Tiêu Bảo Quyển thì như thông lệ, trở thành chiến lợi phẩm của Tiêu Diễn.
Tuy nhiên, vừa mới chiếm được ngai báu, Tiêu Diễn cũng chẳng dại gì mà giữ Phan Ngọc Nhi ở lại hậu cung của mình để nhận lấy lời đàm tiếu của thiên hạ.
Vì vậy, Tiêu Diễn đã ban “chiến lợi phẩm” Phan Ngọc Nhi cho vị tướng công lập được nhiều công trạng nhất trong cuộc khởi nghĩa lật đổ Tiêu Bảo Quyển của mình là Điền An Khởi.
Tuy nhiên, đúng vào đêm tân hôn với tướng quân họ Điền, có lẽ vì nhớ tiếc cuộc sống xa hoa của một bà chủ cung cấm khi xưa nên người đẹp Phan Ngọc Nhi đã quyết định treo cổ tự sát.
Từ Chiêu Bội
Từ Chiêu Bội, vợ cả của Lương
Nguyên đế Tiêu Dịch, vốn
là cháu gái của quan thái úy nước Tề, con gái của tướng quân nước Lương là Từ
Côn. Từ Chiêu Bội được gả cho Tiêu Dịch từ khi ông còn là Tương Đông vương. Tuy
nhiên, cuộc sống hôn nhân giữa Tiêu Dịch và Từ Chiêu Bội hoàn toàn không hòa
hợp, đặc biệt là trong tình dục. Sự bất hòa này thể hiện rất rõ trong câu
chuyện "trang điểm nửa mặt" nổi tiếng trong lịch sử.
Tiêu Dịch vốn bị mù một mắt nên dung mạo không được tuấn tú, hoàn hảo như những người đàn ông khác. Trong khi đó, Từ Chiêu Bội là một người phụ nữ sắc nước hương trời mà rất nhiều người đàn ông thèm muốn. Vì sự chênh lệch này, Từ Chiêu Bội rất lấy làm đau khổ. Để thể hiện thái độ của mình, mỗi lần Tiêu Dịch tới phòng mình, Từ Chiêu Bội lại cố ý chỉ trang điểm nửa mặt, nửa mặt còn lại thì để nguyên, không thèm trang điểm gì cả.
Thực chất, Từ Chiêu Bội muốn mỉa mai Tiêu Dịch chỉ có một con mắt, nên chỉ trang điểm nửa mặt, còn nửa mặt kia thì không cần. Tiêu Dịch biết vợ có ý giễu cợt mình, trong lòng oán ghét. Cũng từ đó, Tiêu Dịch bắt đầu xa lánh người vợ xinh đẹp nhưng kiêu ngạo.
Khi bị Tiêu Dịch xa lánh, không chịu nổi cảnh cô độc, Từ Chiêu Bội bắt đầu tìm kiếm tình nhân để khỏa lấp nỗi buồn. Ban đầu, Từ Chiêu Bội quyến rũ một hòa thượng phong lưu có tên là Trí Viễn ở chùa Dao Quang tại Kinh Châu. Từ Chiêu Bội thường xuyên tìm cách tới chùa Dao Quang để thông gian với Trí Viễn.
Tuy nhiên, sau một thời gian, thấy việc cứ phải ra khỏi cung để đến với tình nhân quá bất tiện, Từ Chiêu Bội nghĩ cách tìm một người nào đó có thể thoải mái ra vào cung cấm phục vụ mình mà không cần phải lo sợ. Một lần, nhân dịp Tiêu Dịch tổ chức yến tiệc, Từ Chiêu Bội thấy một đại thần tên là Ký Quý Giang, dáng vẻ khôi ngô tuấn tú nên rất thích. Sau khi trở về cung, Từ Chiêu Bội sai người hầu bí mật tới gặp Quý Giang rồi dẫn vào cung thông gian với mình.
Ký Quý Giang sau này phải than rằng: "Từ nương tuy đã già nhưng vẫn còn đa tình lắm!". Chính vì câu nói này mà người Trung Quốc có câu thành ngữ "Từ nương bán lão", ý chỉ những người phụ nữ đã nhiều tuổi nhưng vẫn còn xinh đẹp và lẳng lơ.
Chưa dừng lại ở đó, Từ Chiêu Bội còn hẹn hò với một thi nhân nổi tiếng đương thời tên là Hạ Huy. Ban đầu, hai người chỉ hẹn hò ở am ni cô, cùng nhau viết thơ, làm văn xướng họa. Tuy nhiên sau đó, chuyện tình cảm giữa vị nương nương đa tình và anh chàng nhà thơ đã nhanh chóng vượt quá giới hạn. Từ Chiêu Bội bị ghẻ lạnh từ lâu nên cũng chẳng màng gì tới chuyện danh tiếng, gần như công khai đi lại với Hạ Huy. Chính điều này sau đó đã đẩy Từ Chiêu Bội tới kết cục bi kịch.
Tiêu Dịch vốn bị mù một mắt nên dung mạo không được tuấn tú, hoàn hảo như những người đàn ông khác. Trong khi đó, Từ Chiêu Bội là một người phụ nữ sắc nước hương trời mà rất nhiều người đàn ông thèm muốn. Vì sự chênh lệch này, Từ Chiêu Bội rất lấy làm đau khổ. Để thể hiện thái độ của mình, mỗi lần Tiêu Dịch tới phòng mình, Từ Chiêu Bội lại cố ý chỉ trang điểm nửa mặt, nửa mặt còn lại thì để nguyên, không thèm trang điểm gì cả.
Thực chất, Từ Chiêu Bội muốn mỉa mai Tiêu Dịch chỉ có một con mắt, nên chỉ trang điểm nửa mặt, còn nửa mặt kia thì không cần. Tiêu Dịch biết vợ có ý giễu cợt mình, trong lòng oán ghét. Cũng từ đó, Tiêu Dịch bắt đầu xa lánh người vợ xinh đẹp nhưng kiêu ngạo.
Khi bị Tiêu Dịch xa lánh, không chịu nổi cảnh cô độc, Từ Chiêu Bội bắt đầu tìm kiếm tình nhân để khỏa lấp nỗi buồn. Ban đầu, Từ Chiêu Bội quyến rũ một hòa thượng phong lưu có tên là Trí Viễn ở chùa Dao Quang tại Kinh Châu. Từ Chiêu Bội thường xuyên tìm cách tới chùa Dao Quang để thông gian với Trí Viễn.
Tuy nhiên, sau một thời gian, thấy việc cứ phải ra khỏi cung để đến với tình nhân quá bất tiện, Từ Chiêu Bội nghĩ cách tìm một người nào đó có thể thoải mái ra vào cung cấm phục vụ mình mà không cần phải lo sợ. Một lần, nhân dịp Tiêu Dịch tổ chức yến tiệc, Từ Chiêu Bội thấy một đại thần tên là Ký Quý Giang, dáng vẻ khôi ngô tuấn tú nên rất thích. Sau khi trở về cung, Từ Chiêu Bội sai người hầu bí mật tới gặp Quý Giang rồi dẫn vào cung thông gian với mình.
Ký Quý Giang sau này phải than rằng: "Từ nương tuy đã già nhưng vẫn còn đa tình lắm!". Chính vì câu nói này mà người Trung Quốc có câu thành ngữ "Từ nương bán lão", ý chỉ những người phụ nữ đã nhiều tuổi nhưng vẫn còn xinh đẹp và lẳng lơ.
Chưa dừng lại ở đó, Từ Chiêu Bội còn hẹn hò với một thi nhân nổi tiếng đương thời tên là Hạ Huy. Ban đầu, hai người chỉ hẹn hò ở am ni cô, cùng nhau viết thơ, làm văn xướng họa. Tuy nhiên sau đó, chuyện tình cảm giữa vị nương nương đa tình và anh chàng nhà thơ đã nhanh chóng vượt quá giới hạn. Từ Chiêu Bội bị ghẻ lạnh từ lâu nên cũng chẳng màng gì tới chuyện danh tiếng, gần như công khai đi lại với Hạ Huy. Chính điều này sau đó đã đẩy Từ Chiêu Bội tới kết cục bi kịch.
Đường đường là ông vua
đứng đầu một cõi lại không bằng một hòa thượng chẳng chút tiếng tăm, đương
nhiên đó là điều Tiêu Dịch không thể chấp nhận được. Chính vì vậy, ngay khi
biết chuyện Từ Chiêu Bội tư thông với hòa thượng Trí Viễn, Tiêu Dịch đã nổi
giận đùng đùng, sai người đốt chùa Dao Quang, giết chết tình địch.
Nhìn thấy người tình bị thiêu chết ngay trước mặt mình, Từ Chiêu Bội như phát điên. Kể từ đó, tâm lý của Từ bắt đầu trở nên biến thái. Khi chứng kiến những phi tần trong hậu cung bị Tiêu Dịch ruồng bỏ, Từ thị rất vui vì những người phụ nữ kia cũng có số phận như mình, nhưng đồng thời cũng tỏ ra rất độ lượng, giúp đỡ họ, coi họ như tri kỷ của mình. Tuy nhiên, một khi phát hiện ra trong cung có người phụ nữ nào có mang, lập tức Từ thị sẽ dùng dao giết chết.
Việc ngoại tình của Từ Chiêu Bội đã khiến sự oán hận của Tiêu Dịch đối với người vợ cả của mình ngày càng lớn, lại thêm sự biến thái và tàn bạo này càng khiến Tiêu Dịch thêm chán ghét. Vì thế, Tiêu Dịch đã quyết tâm giết chết Từ Chiêu Bội để trả thù. Nhân cơ hội trong cung có một cung nữ bị chết vì bệnh, Tiêu Dịch đã vu cho Từ Chiêu Bội tội giết người rồi bức Từ thị phải tự vẫn.
Từ Chiêu Bội biết rằng lần này mình không thoát khỏi cái chết, đành phải nhảy xuống giếng tự vẫn. Tuy nhiên, đòn thù của ông vua triều Lương vẫn chưa dừng lại ở đó.
Sau khi Từ Chiêu Bội chết, Tiêu Dịch còn giận dữ sai người cho vớt xác Từ thị lên rồi đem trả về nhà mẹ đẻ, công bố với thiên hạ là mình "xuất thê" (trả vợ về nhà mẹ đẻ ). Để nguôi ngoai cơn giận của mình, Tiêu Dịch còn tự tay viết lại những câu chuyện trăng hoa của Từ Chiêu Bội, sai người đi dán khắp nơi để thiên hạ được biết.
Vì thế, người đời sau mới có câu nói rằng, việc một phi tần ngoại tình thì không hiếm nhưng đòn thù tàn nhẫn và cay nghiệt như của Lương Nguyên Đế Tiêu Dịch thì có lẽ là vô tiền khoáng hậu vậy.
Nhìn thấy người tình bị thiêu chết ngay trước mặt mình, Từ Chiêu Bội như phát điên. Kể từ đó, tâm lý của Từ bắt đầu trở nên biến thái. Khi chứng kiến những phi tần trong hậu cung bị Tiêu Dịch ruồng bỏ, Từ thị rất vui vì những người phụ nữ kia cũng có số phận như mình, nhưng đồng thời cũng tỏ ra rất độ lượng, giúp đỡ họ, coi họ như tri kỷ của mình. Tuy nhiên, một khi phát hiện ra trong cung có người phụ nữ nào có mang, lập tức Từ thị sẽ dùng dao giết chết.
Việc ngoại tình của Từ Chiêu Bội đã khiến sự oán hận của Tiêu Dịch đối với người vợ cả của mình ngày càng lớn, lại thêm sự biến thái và tàn bạo này càng khiến Tiêu Dịch thêm chán ghét. Vì thế, Tiêu Dịch đã quyết tâm giết chết Từ Chiêu Bội để trả thù. Nhân cơ hội trong cung có một cung nữ bị chết vì bệnh, Tiêu Dịch đã vu cho Từ Chiêu Bội tội giết người rồi bức Từ thị phải tự vẫn.
Từ Chiêu Bội biết rằng lần này mình không thoát khỏi cái chết, đành phải nhảy xuống giếng tự vẫn. Tuy nhiên, đòn thù của ông vua triều Lương vẫn chưa dừng lại ở đó.
Sau khi Từ Chiêu Bội chết, Tiêu Dịch còn giận dữ sai người cho vớt xác Từ thị lên rồi đem trả về nhà mẹ đẻ, công bố với thiên hạ là mình "xuất thê" (trả vợ về nhà mẹ đẻ ). Để nguôi ngoai cơn giận của mình, Tiêu Dịch còn tự tay viết lại những câu chuyện trăng hoa của Từ Chiêu Bội, sai người đi dán khắp nơi để thiên hạ được biết.
Vì thế, người đời sau mới có câu nói rằng, việc một phi tần ngoại tình thì không hiếm nhưng đòn thù tàn nhẫn và cay nghiệt như của Lương Nguyên Đế Tiêu Dịch thì có lẽ là vô tiền khoáng hậu vậy.
Phương tiểu tiểu, Tiền Đường danh kỹ, hồng nhan bạc mệnh. Nàng là danh kỹ Tiền Đường triều Nam Tề, sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, hát hay múa đẹp, nhưng tạo hóa khéo trêu ngươi nàng. Khi gặp Nguyễn Úc, nàng đã trúng tiếng sét ái tình, hai người nên đôi trúc mã. Nhưng bất hạnh thay vì loạn lạc Nguyễn Úc đã bỏ rơi nàng. Cuối cùng, mỹ nhân bị quan phủ ức hiếp, một đời hồng nhan bạc mệnh, ôm hận chết yểu.
Nguồn yume.vn; blogzing.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét