Trương Lệ Hoa
Trương Lệ Hoa xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo khó ở Giang Nam. Tuy là con nhà nông, phải phụ cha mẹ làm những công việc đồng áng nặng nhọc nhưng Lệ Hoa đang ở độ tuổi đôi mươi có nét đẹp khác lạ: "da trắng như tuyết, mắt đen láy, thân hình toát lên vẻ thanh tú", những vẻ đẹp theo nàng từ lúc mới sinh nên tên Lệ Hoa cũng do cha mẹ đặt từ các đặc điểm trên.
Người con trai của Trần Văn Đế là Trần Thúc Bảo cũng mới gần hai mươi tuổi khi ấy được phong là Trần Nhu Tuyên đế. Trần Nhu trong một dịp ra ngoài cung dạo chơi đã gặp và phải lòng Trương Lệ Hoa khi thấy nàng đang bán hoa sen ngoài phố.
Trần Nhu đã đưa một số tiền lớn cho cha mẹ Lệ Hoa để mua nàng về làm thiếp.
Khi vua Trần Văn Đế băng hà thì Trần Nhu lên làm hoàng đế, hiệu là Chí Đức, nhưng gọi là Trần Hậu Chủ. Ngay khi nắm một quyền lực lớn nhất trong tay, Hậu Chủ đã cho rước Trương Lệ Hoa về cung và suốt ngày đắm đuối bên nàng, bỏ mặc Thẩm Hoàng Hậu và những lời can ngăn của quần thần "Lệ Hoa chỉ là con của tầng lớp dân dã".
Vì xuất thân từ tầng lớp nghèo khó trong xã hội nên khi vào cung, Lệ Hoa hết sức choáng ngợp trước cảnh vàng son nhung lụa. Mặc dù được vua chu cấp đầy đủ nhưng ở ngôi vị quý phi, nàng vẫn chưa thỏa mãn. Lệ Hoa sai tâm phúc bí mật liên lạc với các tầng lớp quý tộc bên ngoài để thực hiện việc "mua quan bán chức", hễ ai muốn có chức tước gì trong triều chỉ cần đưa cho nàng một số vàng bạc nào đó tương xứng với giá trị của chức ấy thì sẽ toại nguyện nhờ tài nâng đỡ và mồm miệng của Lệ Hoa thuyết phục nhà vua.
Thái tử Trần Dân bất mãn trước việc hoàng hậu Thẩm mẹ mình không được sủng ái cùng với việc Trương Quý Phi công khai ăn hối lộ nên tỏ ý chống đối, Lệ Hoa cầu cứu với Hậu Chủ và từ đó vua càng phớt lờ những lời can gián của Thái Tử cũng như quần thần rồi ngày càng ăn chơi sa đọa cùng Trương mỹ nhân.
Năm 588, nhà Tùy dẫn quân tấn công Nam triều, Tấn Vương Dương Quảng bao vây kinh đô Nam Trần. Hậu Chủ bước đường cùng phải dẫn Trương Lệ Hoa và Khổng Quý Tân nhảy xuống một cái giếng cạn ở vườn Ngự Uyển để trốn quân Tùy. Cuối cùng bị bắt gọn, Dương Quảng cũng suýt bị mỹ nhân hớp hồn, toan đưa nàng về nhưng sau khi nghe quan quân can ngăn đã hạ lệnh xử tử Trương Lệ Hoa, còn Hậu Chủ và hoàng tử Thâm bị bắt làm tù nhân. Trương Lệ Hoa chết rất trẻ, chỉ vừa sắp bước qua tuổi 30
Hầu Phu Nhân
Tùy Dạng Ðế Dương Quảng tại vị, quảng cáo cao lâu, bắt hàng ngàn thiên hạ mỹ nữ nhốt vào trong đó, Hầu Phu Nhân chính là 1 trong số hàng ngàn cung nữ đó mà suốt cả cuộc đời cũng chưa hề gặp được Tùy Dạng Ðế, cuối cùng tự ải mà chết.
Hồng Phất Nữ
Nàng vốn họ Trương, người Giang Nam. Do Nam triều chiến loạn, nàng theo cha mẹ lưu lạc đến Trường An. Vì cuộc sống quá khó khăn nên phải bán mình nuôi cha mẹ, làm hầu nữ trong phủ quan Tư không Dương Tố. Nàng thích cầm cây phất trần màu đỏ nên mọi người gọi là Hồng Phất Nữ. Nàng có một con mắt tinh tường, là người phát hiện ra 2 nhân vật anh hùng trong biển người- 1 là Lý Tịnh chồng nàng, 1 là đại ca kết nghĩa Từ Nhiệm Khắc. Ba người cùng nhau thi thố tài năng chốn phong trần loạn thế, người đời kính trọng gọi là "Phong trần tam hiệp"
Lý Tịnh là một tài tử vùng Tam Nguyên, khôi ngô tuần tú, đường hoàng phong độ, thuộc làu kinh sử, thông hiểu đạo trị loạn hưng quốc trong thiên hạ, võ công thâm hậu, thong thiên địa lý và binh pháp thao lượt, là một người văn võ song toàn. Từ nhỏ có hoài bão lớn nhưng vẫn mãi trong vòng luẩn quẩn, như anh hùng không đất dụng võ. Sau khi nhà Tùy ổn định, chàng đến Trường An thi thố tài năng. Trân đường chàng gặp Lưu Văn Tĩnh- người tài cao, đang chuẩn bị đến Thái Nguyên phò cha con Lý Uyên. Hai người anh hùng hợp ý nhau kết nghĩa huynh đệ. Chia tay xong, người về Thái Nguyên, người đến Trường An.
Lý Tịnh đến Trường An, xin làm môn hạ của Dương Tố ( vì mọi quyền hành trong triều đều nằm trong tay hắn ). Dương Tố nửa nằm nửa ngồi trên ghế, nhắm mắt hờ hững, Lý Tịnh thấy thế nói thẳng: "Hiện thiên hạ đại loạn, anh hùng không có đất dụng võ, Minh công là trọng thần mà không biết thu nạp hào kiệt, phò tế nguy nan, nay chỉ ngạo nghễ, coi khinh kẽ sĩ, khiến người ta phải phẫn nộ". Dương Tố nghe xong tức giận định quát lớn nhưng nghĩ lại thân phận mình, sao lại so đo với tên nhãi ranh, liền đổi giận thành vui, trò chuyện với Lý Tịnh. Chàng nói rất hồ hởi, DT ngồi nghe, gật đầu khen phải nhưng đến cuối cùng lại kết một câu: "Ngày con lại của lão phu ko nhiều, những lời chỉ giáo bây giờ không dành cho lão phu, cớ gì phải cố như vậy?"
Những lời ấy như gáo nước lạnh vào mặt LT. Chàng thất vọng ra về. Hôm đó, Hồng Phất Nữ đứng hầu sau lưng DT, bằng tuệ nhãn của mình tận mắt nhìn thấy khí chất anh hùng của LT in dấu trên hàng lông mày, ăn nói đường hoàng, tài năng xuất chúng, hơn hẳn kể tầm thường, lòng nàng thầm ngường mộ, đôi mắt cứ nhìn mãi chàng.
Đêm hôm đó, Lý Tịnh về nhà không ngũ được, bèn nghe tiếng gõ cửa, chàng ngồi dậy khoác áo ra mở. Thấy đứng bên ngoài là một người trẻ tuổi đầu đội mũ vành, khoác áo tía, lưng đeo túi vải thơm. Không đợi hỏi, vị khách ấy liền nói:
- Thiếp là Hồng Phất Nữ của phủ Tư không Dương Tố, đến đây xin được đi cùng công tử.
Trong ánh đèn mờ đó, Hồng Phất Nữ tháo túi vải xuống, cởi mũ và áo choàng tía. Trở thành một cô gái tóc đen mượt vương dài, mắt sáng răng trắng, tươi tắn như quả đào chín mùa xuân. LT vẫn ngỡ ngàng nhưng qua đôi mắt sáng ấy thì nhận ra đó là nàng hầu đứng sau Dương Tố. HPN chắp tay thi lễ, nói tiếp:
- Thiếp theo hầu Dương Tư không đã nhiều năm, gặp được nhiều người nhưng chưa thấy người nào anh dũng tuyệt thế như Lý công tử. Thiếp là thân bồ liễu, chẳng thể sống một mình, chỉ muốn một lòng gửi gắm, nhờ cậy câu cao bóng cả thỏa nguyện bình sinh. Vì thế đành đến xin theo công tử, mong công tử đừng chối từ.
Nghe xong, Lý Tịnh cảm thấy vừa mưng vừa sợ. Chàng mừng vì gặp được một hầu nữ nhưng lại có đôi mắt thật tinh tế, chàng sợ ... và chợt hỏi:
- Dương Tố quyền nghiêng triều chính, nàng tự ý bỏ trốn, ông ta nhất định truy tìm, làm sao thoát khỏi ông ta?
HPN cười như đã có chủ ý:
- Dương Tư không hiện nay chỉ còn thoi thóp hơi tàn, chàng đừng lo sợ. Các thê thiếp trong phủ thường xuyên bỏ trốn, ông ta cũng không truy cứu. Thiếp đây thân phận nữ tỳ có đang là chi.
Lý Tịnh nghe qua, chăm chú nhìn lại Hống Phất Nữ lần nữa, làn da mịn màng, mặt hơi đỏ, dáng điệu ung dung tự tại, hơi thở thoảng mùi hoa lan, tuy có phần xấu hổ nhưng không mất đi sự quả cảm. Lý Tịnh mừng thầm nhưng nghĩ đến thân mình phiêu bạc, chẳng thể đem lại ngôi nhà cho nàng, Tự cảm thấy xấu hổ trước chân tình của hồng nhan.
HPN thấy LT định nói gì, hiểu ngay được sự do dự, bèn bộc bạch chân thành:
- Thiếp đã quyết định xin theo cũng đã suy nghĩ kỹ. Từ nay trở đi, dù chốn chân trời góc bể, thiếp sẵn sàng chia sẽ hoạn nạn, một tấm long thành trời xanh minh chứng.
Lời nói đó làm cho Lý Tịnh không còn gì lo lắng.Trời còn chưa sáng, cả 2 đã rời khỏi Trường An. Họ đến Linh Thạch, người ngựa đều mỏi, bèn nghĩ chân tại trọ quán. Sáng hôm sau, LT ra chợ mua một tảng thịt dê rồi về quán trọ đích thân xào nấu định bụng chiêu đãi vợ. HPN đang ngồi trong phòng xõa bộ tóc dài óng mượt chải chuốt thật kỹ. Chợt có gã trung niên, ăn mặt lôi thôi, dáng vẻ kì ngoặc đến quán trọ. Một làn gió thổi nhẹ mùi thịt dê thoang thoảng đến mũi hắn ta, hắn lần theo đó đến trước cửa phỏng HPN. Không thèm lên tiếng gõ cửa, gã đấy mạnh cửa, xộc thẳng vào trong. Vứt cái túi da lên bàn, bỗng thấy HPN đang ngồi chãi đầu, gã quên mùi thịt thơm đến luôn bên giường, mắt xéo đôi mắt chầm chầm vào nàng như muốn ăn tươi nuốt sống, không thêm nói 1 tiếng. Lý Tịnh đứng ngoài cửa số nhìn thấy hết, bèn nổi giận định nhảy vào cho hắn một trận. nhưng HPN nhanh trí nháy mắt, ra hiệu cho chàng kìm nén cơn giận dữ. Lại với tuệ nhãn của mình nàng thấy hắn có phong độ không hề phàm tục, cách ăn mặt, cử chỉ hẳn khác người thường. Nàng đoán gã nhất định là một hiệp sỹ hoặc cao nhân lánh đời. HPN vấn lại tóc, vừa tươi cười quay sang chào hỏi gã:
- Quan khách quý tính đại danh là gì?
Gã quái khách dựa đầu vào tường, đáp:
- Ta họ Trương, người ta vẫn gọi là Từ Nhiệm Khắc.
HPN cười nói:
- Sao lại khéo thế, thiếp cũng họ Trương, đang định gọi khách quan là huynh trưởng đó.
Dứt lời nàng bèn đứng dậy hành lễ huynh muội. Từ Nhiệm Khắc thấy cô gái ko những ko trách hành động lỗ mãn, mà còn tôn trọng khách nên lòng kính phục, ôm đồm đáp lễ. HPN vọng ra ngoài gọi Lý Tịnh vào bái kiến TNK. Thấy Lý Tịnh, anh bảo:
- Ta trong đệ có khí chất anh hùng, không hổ đấng anh tài. Nhất Muội có chồng như đệ chắc hẳn vừa ý lắm. ( TNK là con thứ 3 nên HPN gọi anh là "Tam Ca", HPN con trưởng nên gọi là "Nhất Muội" )
Ba người ngồi quây quần nói chuyện, dự tính tương lại. Lý Tịnh nói muốn đến Thái Nguyên trùng phùng Lưu Vân Tịnh, theo cha con Lý Uyên, Lý Thế Dân.
Cả 3 cùng đến Thái Nguyên, vào thành gặp được Lưu Vân Tĩnh, được anh tiến cử gặp Lý Uyên. Gặp được Lý Uyên thài thái uy phong khắc hẳn người thường, cả 3 vô cùng kính phục và càng mong thấy cốt cách của con trai ông- Lý Thế Dân. LVT lại tiếp tục sắp xếp cho 3 người gặp Lý Thế Dân. Cả 3 lại thấy Lý Thế Dân mặt mài sáng sủa, phong độ đường hoàng, dáng dấp anh hùng hảo hán khí phách khiến người ta nể sợ. Từ Nhiệm Khắc đấu 1 ván cờ với LTD nhưng không địch nổi, trước lúc chia tay, TNK nói với LTD:
- Lý Tịnh có thể giúp được công tử hoàn thành đại nghiệp.
LTD giữ 3 người ở lại Thái Nguyên, nhiề lần mời 3 người vào phủ đàm đạo, nhưng TNK luôn chối từ và để 2 vợ chồng LT đến.
Ít lâu sau, có tin từ Trường An báo rằng Dương Tố đã mất. Cha con Lý Uyên bèn gấp rút chờ thờ cơ. Từ NHiệm Khắc đề nghị trở về Trường An, Lý Thế Dan cũng có ý định để vợ chồng Hồng Phất Nữ về lại Trường An để thám thính tình tình. Vì Lý Thế Dân còn chuyện muốn dặn dò Lý Tịnh nên Từ Nhiệm Khắc đã ra đi trước.
Không lâu sau, 2 vơ chồng HPN đến Trường An hội ngộ cùng Từ Nhiệm Khắc. Sau khi dùng tiệc trò chuyện, TNK đưa cho 2 vợ chồng HPN 20 cái gương, rồi nói:
- Hiện nay thiên hạ đại loạn, bốn bề quần hùng nổi lên, ta vốn có ý định đánh chiếm Trung Nguyên. Nhưng ở Thái Nguyên, nhìn thấy khí thái hơn người, khí độ oai phong, ta tự cảm thấy không bằng, đành rút về đứng sau một bậc.Tất cả những thứ trong gương là của cả ta tích lũy được bấy lâu, định làm vốn mưu đồ đại sự, nay đã không cần dùng nữa. Ta muốn tặng toàn bộ nó cho vợ chồng muội để giúp lập công dựng nghiệp sau này.
Không đợi Lý Tịnh và Hồng Phất Nữ trả lời, TNK tiếp tục dăn dò:
- Lý đệ là bậc anh hùng kì tài trong thiên hạ, tương lai nhất định làm quan to. Nhất Muội tư chất thông minh, xinh đẹp cũng sẽ được vinh hoa phú quý. Nếu Nhất Muội không có tuệ nhãn thì sẽ không nhìn ra Lý đệ trong biển người. Nếu Lý Đệ không trí tài kì dũng cũng sẽ không có được trái tim Nhất Muội. Hổ gầm ra gió, rồng cuốn mây bay, đây không phải là sự gặp gỡ tình cờ. Nay thiên tử suy vong, mây gió nổi loạn, chính là lúc đại trượng phụ lập công dựng nghiệp, mong rằng hai người sẽ đồng tâm hiệp lực, cùng mưu trí lớn.
Lý Tịnh và HPN vẫn chưa hết ngỡ ngàng, HPN bèn hỏi:
- Vậy tam ca định đi đâu, làm gì ?
TNK cười điềm nhiêm, mắt nhìn xa xăm, đáp:
- Chân trời góc bể, bào mây vô định. Đợi sau 10 năm nữa, nếu cách mấy ngàn dặm về phía động nam, có ting ì lạ đó chính là huynh đắc chí thành công. Khi đó, Nhất muội và Lý đệ có thể rót rượu hướng về phía đông nam chúc mừng huynh.
Từ Nhiệm Khắc nói vài lời giữ gìn rồi lấy cái túi da ngày trước, lên ngựa quất roi, phóng nhanh ngàn dặm. HPN kéo tay Lý Tịnh mở 20 cái rương, trong ấy toàn ngọc ngà, châu báu, hơn nữa còn có 1 hòm chứa đựng những binh thư ghi chép các phương pháp dụng binh thần kì và cả một số thuật bói toán thất truyền.
Có tài sản, Lý Tịnh bèn mua chức quan nhưng thực chất là làm nội gián cho cha con Lý Uyên, ngày đêm học binh pháp, rèn mưu trí. Cuối cùng cha con Lý Uyên cũng phất cờ. Tùy Dạng đế bị giết chết, Lý Uyên lập Tuy Cung đế lên ngôi không bao lâu thì cũng phế truất, lập mình lên làm thiên tử, lấy quốc hiệu Đại Đường, thông nhất đất nước, vỗ về dân tộc biên giới giành sự ủng hộ. Lý Thế Dân sau đó thống nhất lưu vực sông Hoàng Hà dưới sự giúp đỡ của Lý Tịnh.
Lý Tịnh sử dụng chiến thuật "lấy ít làm nhiều" đánh bại quân Nhiễm Triệu. Với binh pháp "binh quý thần tốc, Lý Tịnh tấn công thắng lợi đánh bại quân Tiêu Cáo, chiếm giữ vùng đất Giang Nam rộng lớn, từ đó thống nhất các vùng Hồ Nam, Hồ Bắc và Quảng Tây.
Người Đột Quyết từng dùng sức mạnh thiện chiến bắt Đường Cao Tổ Lý Uyên phải cúi đầu xưng thần. Lý Tịnh dẫn binh chinh phạt, đánh bại quân Đột Quyết bắt sống vua Thạc Lợi Khả, giành đại thắng chua7 từng có trong lịch sử và rửa nhục cho quốc gia. Lý Tịnh được lập làm Vệ Quốc Công, Hồng Phất Nữ được phong Nhất phẩm phu nhân, năm ấy Lý Tịnh 47 tuổi.
Một thời gian sau, đất nước đã thịnh hành, lúc ấy một số bịnh thần dân số kể tội Lý Tịnh. Lý Tịnh bực tức, bèn nghĩ giả bệnh, cùng Hồng Phất Nữ sống ẩn dật ở núi Tiểu Pha.
Không được bao lâu, dân Thổ Cốc Hỗn xâm phạm biên giới Đại Đường, Đường Thái Tông cử quân chinh phạt, bèn nhớ đến Lý Tịnh.
Lúc này Lý Tịnh đã 65 tuổi, còn HPN thì đang mắc bệnh. Ông không nỡ xa vợ nên đành thoái thoát. Hồng Phất Nữ giờ đã thế sự nên gắng chống đỡ với căn bệnh mà khuyên chồng chinh chiến, việc nước làm trọng. Lý Tịnh đảm nhiệm, nanh chóng đánh bại và bắt sống vua Thổ Cốc Hỗn. Trên dường Khải Hoàn, Lý Tịnh không còn muốn công danh, chỉ mong nhanh chóng về lại núi Tiễn Pha cùng vợ.
Bệnh tình Hồng Phất Nữ không hề tiến triển, Lý Tịnh ngày đêm tận tình chăm sóc. Thời gian ấy, cả hai nghe nói có người dẫn binh chiếm đành nước Phù Tang ngoài biển, giết chết quốc vương, lập quốc mới và xưng đế, giờ đã xây dựng chính quyền vẫn chắc, yên bình. Hồng Phất Nữ lập tức hiểu rõ đó là Từ Nhiệm Khác. Hai vợ chồng bèn kính rượu về phương đông nam cầu mong trời xanh phù hộ Tam ca.
Sức khỏe Hồng Phất Nữ lúc được lúc xấu, kéo dài đến năm Trinh Quán thứ 14, nàng buông tay ra đi, để lại cho Lý Tịnh nỗi đâu khôn cùng.
Để tưởng nhớ Hồng Phất Nữ có công phụ tá chồng, Đường Thái Tông hạ lệnh cho dựng mô hình Thiết Sơn trong đất Đột Quyết và núi Thạch Tín của đất Thổ Cốc Hỗn trước mộ nàng. Đồng thời ông cho người lập bia, đích thân hạ bút viết ' Bia Trương thị - phu nhân của Lý Vệ Quốc công Khai phủ nghi đồng tam ty trung thử môn hạ Thương thư bộ Binh đặc tiến Đại Đường '
Hồng Phất Nữ xuất thân dân dã, nhưng tư chất tinh anh, có đôi tuệ nhãn, nhận ra Lý Tịnh và Từ Nhiệm Khắc là anh hùng cái thế, đáng được hưởng tiếng thơm muôn đời.
Nguyệt Dung công chúa
Là con gái cưng của vua Tùy Vương và được Lý Thế Dân cảm mến. Tùy triều diệt vong, Lý Thế Dân lên ngôi Đường Thái Tông và đó chính là bi kịch của Nguyệt Dung. Ấn tượng với vai Nguyệt Dung có thể nhắc tới Cao Viên Viên trong Tần Vương Lý Thế Dân, Tôn Phi Phi trong Khai Sáng Thế Kỷ.
Trưởng Tôn Hoàng hậu
Người ta thường nói rằng “đằng sau người đàn ông thành công là một người phụ nữ tuyệt vời”. Hoàng đế Đường Thái Tông đã có công lập nên một triều đại nhà Đường thịnh vượng nhất trong lịch sử xưa nay. Bên cạnh nhiều nhà hoạch định chính sách và các nhà lãnh đạo quân sự tài ba, Đường Thái Tông còn có thêm sự hậu thuẫn của người vợ yêu quý của mình, là Trưởng Tôn Hoàng hậu còn được gọi là Hoàng hậu Đại Đường. Phẩm hạnh cao cả và trái tim đầy nhân từ của bà đã tạo được sự tôn kính nơi thiên hạ và tất cả mọi người trong cung, gồm cả Hoàng đế Đường Thái Tông. Do đó, lịch sử xưa nay vẫn luôn xem bà như một Hoàng hậu đức hạnh nhân từ nhất và là người vợ tuyệt vời nhất.
Thái Tông xưa kia có một con ngựa mà ngài rất yêu qúy được lưu giữ trong cung. Một hôm, con ngựa ấy chết mà không có lý do cụ thể. Đường Thái Tông rất tức giận và ông muốn giết người giữ ngựa. Trưởng Tôn Hoàng hậu lúc đó nói: "Bệ hạ còn nhớ câu chuyện về Tề Cảnh Công - vua nước Tề , người muốn giết chết người chăn ngựa khi để ngựa của ông qua đời không? Viên cận thần đã kể tội tên giữ ngựa trước mặt ông. Cận thần nói: "Nhà ngươi đã phạm vào 3 tội đáng phải chết. Tội thứ nhất – nhiệm vụ của ngươi là phải giữ cho con ngựa còn sống và khỏe mạnh, nhưng nó đã chết. Tội thứ hai – vì để ngựa chết nên vua phải giết ngươi mà chính điều này làm cho thiên hạ trong nước thù ghét vua. Tội thứ ba - khi quan quân trong triều đình nghe câu chuyện, họ sẽ xem thường và không còn tôn kính vua nữa ". Bệ hạ biết rất rõ lịch sử xưa nay, làm sao ngài có thể quên biết điều này?”. Vua Thái Tông sau khi nghe những lời này đã thông hiểu ra, cơn giận dữ của cũng ông tang biến. Sau đó, Thái Tông đã nói với cận thần Phòng Huyền Linh: "Trưởng Tôn Hoàng hậu đã dùng một câu chuyện hết sức bình thường để thức tỉnh trẫm. Nó thực sự giúp trẫm rất nhiều.”
Một lần khác, sau khi bãi triều và trở về cung, trông ông có vẻ rất giận dữ. Trong lúc thay quần áo, ông nói: "Ta phải giết tên ngu đần này mới được!" Hoàng hậu hỏi: "Không biết ai đã làm cho bệ hạ nổi giận như vậy?" Thái Tông trả lời: "Là Ngụy Trưng chứ ai! Hắn đã làm xấu mặt ta trước bá quan văn võ ". Sau khi biết rõ chuyện xảy ra, bà lặng lẽ rút lui… Ngay sau đó, bà trở lại với bộ y phục trang trọng như thể là sắp có một nghi lễ triều bái trịnh trọng. Thái Tông rất ngạc nhiên hỏi: "Tại sao nàng ăn mặc như thế". Với một phong thái bình tĩnh và trang nghiêm, Trưởng Tôn Hoàng hậu nói: "Xin chúc mừng Bệ hạ! Thiếp nghe rằng chỉ khi nào Hoàng đế là một minh quân thì mới xứng đáng được quần thần dùng lời thẳng thắn mà can gián”. Sau khi nghe xong, Thái Tông rất hài lòng…Sự hiền đức và thông minh của bà không chỉ giữ được sự tôn nghiêm cho chồng, mà còn khéo léo hóa giải được nguy cơ mất mạng của cần thận bị để ý. Qua câu chuyện này, chúng ta có thể thấy rằng Hoàng hậu Đại Đường là người có một trái tim quảng đại nhân từ và một trí tuệ hơn người.
Thái Tông đương thời rất xem trọng ý kiến của Hoàng hậu về vấn đề dụng binh, cũng như việc thưởng phạt. Hoàng hậu luôn tỏ ra là một người thấu suốt sâu sắc, bà nghĩ rằng bà không nên tham gia vào các vấn đề triều chính vì cương vị đặc biệt của mình. Bà đặt ra nguyên tắc là, người đàn ông và đàn bà nên phải giữ đúng vai trò và nhiệm vụ của mình. Bà nói với Thái Tông: "Khi một con gà mái gáy, là không bình thường; khi một người đàn bà liên quan đến việc triều chính, thì đó là một dấu hiệu không tốt". Tuy nhiên, Thái Tông vẫn một mực muốn lắng nghe ý kiến của bà, và không bao giờ trả lời là “không”. Sau khi suy nghĩ cẩn thận, Trưởng Tôn Hoàng hậu bèn nói với Thái Tông: "Khi thiên hạ đang thái bình, thì bệ hạ nên chuẩn bị tinh thần cho những đại loạn có thể nổi lên, trọng dụng người tài và xem trọng những lời can gián của thần dân". Những gì bà đưa ra cũng chỉ có tính nguyên tắc chung, bà không muốn đi sâu vào những chi tiết cụ thể, bà sợ rằng chính điều này sẽ làm hạn chế vai trò của một vị Hoàng đế. Bà rất luôn tin tưởng những cận thần và khả năng của họ.
Vào năm Trinh Quán thứ 8, Hoàng hậu Đại Đường mắc cảm mạo cộng thêm các bệnh cũ tái phát nên làm cho tình trạng bệnh tình của bà càng trầm trọng hơn. Thái tử Trình Tiềm nhân dịp này muốn ân xá cho tù nhân và để cầu nguyện cho mẹ mình mau chóng hồi phục. Mọi người trong cung đều hưởng ứng theo, nhưng riêng bà phản đối kịch liệt. Bà nói: "Sự sống chết của một đời người là do ông Trời định sẵn và mọi nỗ lực của con người không thể thay đổi bất cứ điều gì. Nếu làm việc tốt có thể tích lũy đức, ta chưa bao giờ làm điều gì xấu ác. Nếu làm việc tốt mà để mong cầu một điều gì đó thì không phải là việc thiện, cho nên mong cầu để được khỏi bệnh sẽ là điều vô ích. Ân xá tù nhân là chuyện của quốc gia và nó không nên được thực hiện chỉ vì ta". Tấm lòng vô vị kỷ của bà đã làm cho những người đứng bên chứng kiến phải rơi nước mắt. Vua Đường Thái Tông đã làm theo nguyện vọng của bà. Hoàng hậu lâm bệnh nặng và chết hai năm sau đó – khi đó bà mới 36 tuổi. Trước khi chết, bà vẫn còn nghĩ đến lợi ích của thiên hạ và nước nhà. Sau khi suy nghĩ kỹ, bà đã đề xuất nguyện vọng của mình với Thái Tông:
1. Trọng dụng hiền tài, đẩy lùi những kẻ hèn hạ. Chấp nhận những lời can gián, nhưng tránh xa nịnh thần.
2. Đối với tất cả người thân của thiếp, trừ khi họ có tài đức lớn, nếu không thì không đặt họ ở vị trí cao.
3. Thiếp đã không có công lao gì nên không cần chôn cất tốn kém; vì vậy, không nên lãng phí nguồn tài lực của đất nước vào một ngôi mộ hay quan tài đắt tiền. Trong lịch sử xưa nay, những nhân cách được kính trọng cao tất cả đều chỉ mong ước được an táng đơn giản, vì vậy hãy chôn cất thiếp một cách đơn giản nhất mà bệ hạ thật sự cho rằng thiếp xứng đáng!
Đường Thái Tông vì quá thương tiếc nên đã không thực hiện đầy đủ các nguyện ước tang lễ của bà. Ông ra lệnh cho xây dựng một lăng mộ quy mô thật lớn. Ngoài ra, ông còn cho xây một sảnh đường ghi khắc nhiều câu chuyện về bà trong một nghĩa trang lớn để linh hồn bà bay cao và nhìn xa. Đây là cách Đường Thái Tông bày tỏ tình cảm và lòng tôn kính của mình đối với vị Hoàng hậu nổi tiếng đương thời.
Hoàng hậu Đại Đường đã thể hiện sâu sắc sự uy quyền đầy nữ tính trong thời đại đầy uy quyền của đàn ông và đóng một vai trò độc nhất vô nhị trong việc tạo ra một triều đại nhà Đường thịnh vượng nhất trong lịch sử của Trung Quốc, một triều đại hoàng đế anh minh, các quần thần năng lực tài giỏi và quân đội hùng mạnh. Các nhà sử học cũng đã ghi chép và công nhận những đóng góp to lớn của bà và tin rằng sự thịnh vượng của những năm Trịnh Quán và Hoàng hậu Đại Đường không thể tách rời nhau. Vì vai trò lịch sử độc đáo của mình mà bà đã được các thế hệ sau phong tặng danh hiệu "Hoàng hậu của thiên niên kỷ" vậy.
Cao Dương công chúa
Cao Dương công chúa là con gái thứ 17 của vua Đường Thái Tông. Lúc trưởng thành được vua gả cho con trai thứ hai của Phòng Huyền Linh là Phòng Di Ái.
Cao Dương công chúa được Thái Tông yêu chiều, Di Ái sau khi lấy được công chúa, cũng được sủng ái hơn các chàng rể khác. Không như những người con gái bình thường, công chúa luôn được sủng ái mà dần dần kiêu ngạo quá đáng, làm những việc không còn phép tắc gì. Con cả Phong Huyền Linh là Di Trực, sớm được phong là Quang Lộc đại phu, lấy việc Di Ái đã lấy được công chúa, xin nhường quan chức cho Di Ái.
Thái Tông không nghe, sau khi Huyền Linh mất, công chúa xui Di Ái tranh phần với Di Trực, lại gièm pha với Thái Tông. Di Trực tự đến bào chữa, Thái Tông không vào hùa với công chúa, gọi nàng vào cung mắng cho một hồi, công chúa từ đấy vẫn hậm hực. Sau đó công chúa cùng Di Ái đi săn vào nghỉ ở một ngôi chùa. Thầy chùa là Biện Cơ có dáng vẻ khôi ngô ra nghênh đón, mời công chúa ở lại đấy qua đêm. Công chúa trong lòng bố thí, với Biện Cơ kết thành duyên phận. Đã có hai người con gái hầu hạ Di Ái, Di Ái được thêm hai người thiếp, ôm ấp ở bên trái bên phải, vui vẻ nào bằng, còn đoái hoài gì đến công chúa nữa. Công chúa thông dâm với Biện Cơ, ra vào không kiêng kỵ, công nhiên như vợ chồng, lại tặng cho Biện Cơ chiếc gối Kim Bảo. Biện Cơ sớm tối điên đảo, không biết cất giữ của báu, rồi bị ăn trộm mất. Sau này phá được vụ án ấy, tìm ra được chiếc gối Kim Bảo. Quan nha tra xét kẻ trộm, hắn khai là ăn trộm ở chỗ Biện Cơ. Biện Cơ thực tình khai là do công chúa tặng. Việc này được Ngự sử xét đến, Thái Tông tự thấy hỗ thẹn, cũng không hỏi rõ thêm, lệnh đem Biện Cơ xử tử. lại gọi những nô tài ở bên công chúa, đến trách tội đồng lõa với chủ, giết đến hơn 10 người mà không giết con gái mình. Công chúa không tự biết tội, oán trách Thái Tông để ý những chuyện không đâu, chia rẽ uyên ương đôi đường. Đến khi Thái Tông băng hà, công chúa tuy đến đưa tang nhưng dáng vẻ chẳng hề buồn bả gì. Từ đó công chúa không biết kiêng kỵ gì nữa, sớm tối hoan lạc, dập dìu với bọn thuật sĩ. Lý Hoảng, Huệ Hoằng, thường mượn những chuyện thần tiên ma quỷ mà ra vào nơi công chúa ở, hoặc mượn cớ chẩn mạch bốc thuốc để được thân gần với người đẹp, che mắt thế gian. Tiếng xấu lan tỏa, cả triều đình đều biết cả.
Di Trực sợ sự việc xảy ra sẽ bị họa, ngầm dặn Dịch Đình lệnh Trần Nguyên Viễn dò xét tình hình trong cung ra sao để còn liệu định, một mặt khuyên Di Ái liên kết với bọn Tiết Vạn Triệt, Sài Linh Vũ, định đưa Kinh Vương Nguyên Cảnh làm vua phế bỏ Cao Tông. Vạn Triệt đã lấy công chúa Đan Dương, con gái Cao Tổ, Lệnh Vũ tức là con Sài Thiệu, cũng lấy công chúa Ba Lăng, con gái của Thái Tông. Hai người đều là Phò mã Đô úy, bởi Cao Tông không hòa hợp với họ, cho nên muốn đồng mưu với Di Ái. Kinh Vương Nguyên Cảnh là con thứ 7 của Cao Tổ, nghe có thể được làm vua cũng phụ họa theo. Riêng Di Trực sợ liên lụy lại ngầm thông báo với Vô Kỵ, Vô Kỵ mật báo với Cao Tông, Cao Tông lệnh cho Vô Kỵ thẩm tra việc ấy. Công chúa Cao Dương nghe vội vội sai người vu cáo Di Trực, nói ông ta mưu phản, đợi đến khi Vô Kỵ tra xét rõ ràng, nước cạn đá nổi lên, Di Trực chưa từng bàn mưu làm phản. Di Ái cùng công chúa rõ ràng có bằng chứng mưu phản, Trưởng Tôn Vô Kỵ thông báo lên Cao Tông, vua chẳng thể bởi tình nghĩa ruột thịt mà nương nhẹ, tức thì bắt Di Ái hạ ngục.
Vô Kỵ hoàn thành văn bản vụ án để trình lên trên, Phòng Di Ái, Tiết Vạn Triệt, Sại Lệnh Vũ, cùng Kinh Vương Nguyên Cảnh, Ngô Vương Khác đều tội đáng chém. Cao Dương công chúa, Ba Lăng công chúa cũng có tội phải đánh chết. Bản án được trình lên, Cao Tông thở dài mấy tiếng tức thời theo như bản án mà hạ chiếu. Bọn Di Ái, Lệnh Vũ, Vạn Triệt đều bị chém bêu đầu. Nguyên Cảnh, Ngô Vương Khác cùng hai công chúa Cao Dương, Ba Lăng đều cho tự vẫn.
An Khang công chúa
An Khang công chúa là con gái của vua Đường Thái Tông Lý Thế Dân và Thục Phi nương nương. Thục Phi lúc bấy giờ được Thái Tông sủng ái nhất nên sau khi bà mất, Thái Tông hết mực yêu thương nàng. An Khang công chúa có làn da trắng như tuyết, tính tình tinh nghịch , lại thông minh và khéo ăn khéo nói. Dung nhan nàng toát nên một vẻ thánh thiện, đáng yêu. Ai gặp lần đầu đều cảm thấy mến nàng. Mẹ nàng mất năm nàng 14 tuổi nên được Trưởng Tôn Hoàng Hậu nhận làm con nuôi. Hoàng hậu rất yêu thương nàng còn hơn cả con ruột bà.
Công chúa An Khang có mối tình đầu với Mộ Nhất Khoan – con nuôi của một thương gia lớn tên là Đậu Nghệ. Nhưng bị Trưởng Tôn hoàng hậu ngăn cấm vì hoàng hậu muốn nàng có chỗ dựa vững chắc khi bà và Thái Tông mất. …..
Phàn Lê Huê
Nàng là người Tây Lương, tương truyền là tiên nữ trên trời bị đày xuống hạ giới, kết mối lương duyên với Tiết Đinh San. Nàng là đệ tử của Lê Sơn thánh mẫu, mỹ lệ vô song, văn võ song toàn, trí mưu hơn người, có pháp lực thần thông quảng đại. Nàng là người dám yêu dám hận, lấy đức báo oán, có thể nói là một nhân vật phi thường.
Phàn Lê Huê là con gái của viên tướng tài nước Tây Lương: Phàn Hồng.Theo lời thầy tướng số, nếu Phàn Hồng sinh ra con gái thì sẽ mang mệnh giết cha giết huynh diệt tộc, nên khi Lê Huê vừa mới chào đời, Phàn Hồng đã gạt nước mắt thả con trôi sông để trừ hậu hoạn. May nhờ Lê Sơn Lão Mẫu giúp hóa giải kiếp nạn, Lê Huê mới được bảo toàn tính mạng.
Cô đã đính ước với Đại tướng quân Dương Phiên, nhưng trước ngày cưới Phàn Lê Huê đã bỏ trốn để đi tìm vị tướng mặc chiến bào trắng, vì theo lời sư phụ Lê Sơn Thánh Mẫu thì vị tướng này mới chính là phu quân của cô. Tiết Nhân Quý, dũng tướng nhà Đường tiến đánh Tây Lương. Phàn Lê Huê vội quay về phò trợ cha, trên đường cô đã gặp vị tướng mặc chiến bào trắng. Trớ trêu thay, đó lại là Tiết Đinh San, con trai của Tiết Nhân Quý. Tiết Đinh San từ chối kết hôn với Phàn Lê Huê và bỏ trốn về Đại Đường. Vua Đường ban chỉ buộc Tiết Đinh San phải thành hôn với Phàn Lê Huê. Lễ cưới đang được cử hành thì Dương Phiên dẫn quân tiến đánh Đại Đường.
Dương Phiên khiến hắn vô cùng căm phẫn. Mang tham vọng làm chủ ải Hàn giang và chiếm đoạt Lê Huê, Dương Phiên đã cố công chinh phục Tây Lương, thúc giục Phàn Hồng nghênh chiến với quân Đại Đường do cha con Tiết Nhân Quý dẫn đầu.
Dù làm mọi cách, Lê Huê vẫn nhất quyết cự tuyệt, Dương Phiên quyết làm cho Lê Huê không còn đường sống bằng cách vu cho nàng tội giết cha và huynh trưởng khiến cho Lê Huê khi xuất giá vào Tiết gia, mang theo tội danh không thể gột rửa, làm cho Đinh San từ yêu thương chuyển sang oán ghét, cộng với sự ghen tức của Táo Tiên Đồng – là người vợ đã dùng kế ép Đinh San cưới về, và sự ghẻ lạnh của mẹ chồng, Lê Huê đã phải sống những tháng ngày đầy tủi nhục tại Tiết gia.
Mặc dù hết lần này đến lần khác lập công lớn cho Đại Đường, và cứu mạng Đinh San, nhưng Lê Huê vẫn bị kỳ thị. Thêm vào đó, Dương Phiên phối hợp cùng Tiên Đồng bày kế phá hoại danh tiết của Lê Huê làm cho cuộc hôn nhân giữa Lê Huê và Đinh San gần như sụp đổ. Mãi đến khi Tiết Nhân Quý trúng kế của Dương Phiên mà chết, Dương Phiên lộ diện là kẻ hai mặt hiểm độc, Đinh San và Lê Huê mới hóa giải được khúc mắc, hợp sức tiêu diệt Dương Phiên và cùng nhau hoàn thành đại nghiệp chinh tây.
Trần Thạc Trinh
Người phụ nữ họ Trần vốn sống cùng thời với Võ Tắc Thiên này là người đầu tiên trong lịch sử dám tự xưng mình là nữ hoàng. Vào năm 653 theo Tây lịch, ở huyện Thanh Khê, Mục Châu, nay là Chiết Giang nổ ra một cuộc khởi nghĩa của nông dân. Người đứng đầu cuộc khởi nghĩa này là một người phụ nữ tên gọi là Trần Thạc Trinh. Trần Thạc Trinh tự xưng là tiên nhân, dân gian cũng rất tin sùng Trần thị, xưng bà là thần. Sau đó, để tổ chức lực lượng chống lại triều đình, Trần Thạc Trinh đã tự xưng là hoàng đế, lập nên triều đình riêng của mình, chấn động cả một cõi.Cuộc khởi nghĩa của Trần Thạc Trinh hoàn toàn không phải là một cuộc khởi nghĩa tự phát mà được lên kế hoạch từ trước đó rất lâu. Một ngày, Trần Thạc Trinh nói với người hàng xóm của mình rằng cô muốn rời khỏi quê nhà, lên đường tu tiên vì vậy cố muốn nói lời từ biệt với những người trong làng. Không lâu sau đó, quả nhiên người ta thấy Trần Thạc Trinh dường như biến mất. Những người hàng xóm có người tin lời của Trần Thạc Trinh là thật, có người bán tín bán nghi có người lại cho rằng nó là những lời giả dối.
Trần Thạc Trinh có một người thân tên là Chương Thúc Dận, người này rất tích cực ủng hộ kế hoạch khởi nghĩa của Trần Thạc Trinh đồng thời giúp đỡ Trần Thạc Trinh rất nhiều trong việc chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa. Chương Thúc Dận nói với bên ngoài rằng, Trần Thạc Trinh đã thành thần tiên nay từ trên trời quay trở về Thanh Khê, giờ đây pháp lực của Trần Thạc Trinh là vô biên không thể lường hết được, thậm chí cô ta có thể sai khiến được cả quỷ thần. Câu chuyện Trần Thạc Trinh thành tiên quay trở về Thanh Khê cứ như vậy một đồn mười, mười đồn trăm, người dân Thanh Khê và khắp các vùng lân cận không ai không biết tiếng và nể sợ Trần Thạc Trinh. Mỗi một lời Trần Thạc Trinh nói đối với họ đều là mệnh lệnh của thần tiên, vì vậy, họ sẵn sàng vào sinh ra tử khi Trần Thạc Trinh ra lệnh.
Năm 653, Trần Thạc Trinh tuyên bố khởi nghĩa, bắt đầu chống lại quan phủ. Trần Thạc Trinh mô phỏng thể chế nhà Đường lập nên một bộ máy chính quyền riêng, phong cho Chương Thúc Dận làm chức Bốc Xạ (Tể tướng), quản lý tất cả các sự việc trong triều đình. Bản thân Trần Thạc Trinh tự xưng làm hoàng đế, gọi là Văn Khuê Hoàng đế.
Cuộc khởi nghĩa của Trần Thạc Trinh mặc dù ngắn ngủi, từ ngày bắt đầu cho tới khi thất bại chỉ hơn 1 tháng, tuy nhiên, nó đã tạo nên một cơn chấn động toàn bộ khu vực Đông Nam của nhà Đại Đường.
Trong lịch sử Trung Quốc, những người phụ nữ tham gia các cuộc khởi nghĩa nông dân không ít, tuy nhiên, người phụ nữ đứng ra phát động khởi nghĩa nông dân rồi tự đứng ra lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ấy thì chỉ có một mình Trần Thạc Trinh.
Từ Huệ
Từ Huệ (627-650) nguyên quán ở Trường Thành, Hồ Châu (nay là Chiết Giang). Bà được sử sách khắc họa như một thần đồng, sinh ra được 5 ngày đã biết nói, bốn tuổi đã đọc hiểu "Luận Ngữ" và "Kinh Thư", 8 tuổi có thể viết những áng văn tuyệt tác. Trong cuốn "Toàn Đường Thư" còn ghi lại 5 bài thơ của Từ Huệ. Sau khi vào cung, Từ Huệ được Đường Thái Tông Lý Thế Dân vô cùng yêu mến bởi tài năng thơ phú thiên bẩm. Vì thế, Từ Huệ nhanh chóng được cất nhắc từ vị trí Tài nhân lên làm Tiệp dư. Một hôm, Thái Tông cho triệu các phi tần, Từ Huệ vì phải trang điểm nên đến muộn, làm hoàng đế vô cùng tức giận. Nhưng ngay lập tức, Từ Huệ dâng lên hoàng đế bài thơ Tiến Thái Tông thi đầy tình tứ khiến cơn giận của Lý Thế Dân nhanh chóng tiêu tan, tình cảm của hoàng đế dành cho Từ Huệ càng thêm sâu đậm. Không lâu sau, Từ Huệ lại được phong làm Sung dung. Lý Thế Dân có tham vọng lớn và nhiều lần đưa quân chinh phục Cao Ly, dân chúng oán thán khắp nơi. Từ Huệ dâng tấu khuyên Thái Tông từ bỏ tham vọng đang gây tổn hại tới người dân. Sau khi đọc xong bản tấu khẩn thiết, chân thành của Từ Huệ, Thế Dân tỉnh ngộ và ban thưởng cho Từ Huệ rất hậu hĩnh. Năm 694, Đường Thái Tông băng hà. Từ Huệ đau đớn tột cùng đến mức lâm bệnh, nhưng bà từ chối chữa chạy. Đến năm thứ hai sau khi Thái Tông mất thì bà cũng qua đời, khi đó Từ Huệ mới 24 tuổi. Đường Cao Tông Lý Trị cảm động trước tình cảm của Từ Huệ dành cho cha, đã truy phong bà làm Hiền phi và thực hiện mong muốn của bà khi qua đời, là được chôn cùng Đường Thái Tông.
Võ Tắc Thiên
Võ Tắc Thiên (625 - 16/12/705), tên riêng Võ Chiếu ,là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc đã lập ra triều đại của riêng mình, nhà Võ Chu ,và cai trị dưới cái tên Thánh Thần Hoàng Đế (từ 690 đến 705). Việc bà nổi lên nắm quyền cai trị bị các nhà sử học Khổng giáo chỉ trích mạnh mẽ nhưng các nhà sử học từ sau thập kỷ 1950 đã có cái nhìn khác về bà.
Gia đình bà có nguồn gốc ở huyện Văn Thuỷ ,thuộc quận Tinh Châu (hiện nay là thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây). Văn Thủy hiện là một huyện thuộc Lữ Lương Địa Khu nằm cách Thái Nguyên 80km về phía tây nam. Cha bà là Võ Sĩ Hoạch (577-635), một thành viên thuộc một gia đình quý tộc danh tiếng ở Sơn Tây, và là một thành viên liên minh của Lý Uyên, người sáng lập ra nhà Đường, khi ông tiến hành chiến tranh giành quyền Lực (chính Lý Uyên cũng thuộc một gia đình quý tộc nổi tiếng ở Sơn Tây). Mẹ bà là Dương Thị (579-670), một phụ nữ thuộc gia đình quý tộc hoàng gia nhà Tuỳ. Võ Tắc Thiên không phải sinh ở Văn Thuỷ, bởi cha bà đảm nhận nhiều chức trách ở nhiều nơi trong suốt cuộc đời. Bà được cho là sinh ở Lợi Châu hiện là thành phố Quảng Nguyên ,phía bắc tỉnh Tứ Xuyên, cách Văn Thủy khoảng 800km về phía tây nam, nhưng một số nơi khác cũng được cho là nơi sinh của bà gồm cả thủ đô Trường An.
Bà được đưa vào hậu cung vua Thái Tông nhà Đường vào khoảng năm 638 (một thời điểm khác có thể là: 636) và là một Tài Nhân ,tức là một trong chín người thiếp cấp thứ năm. Vua Thái Tông đặt tên cho bà là Mị ,có nghĩa là "duyên dáng, xinh đẹp", và vị nữ hoàng trẻ thường được người Trung Quốc gọi là Võ Mị Nương.
Năm 649, Thái Tông chết, và theo thói thường đối với những người thiếp, Võ Mị Nương phải rời cung đình và để vào chùa Phật giáo, nơi bà sẽ phải xuống tóc. Không lâu sau, có lẽ là vào năm 651, bà lại được vua Cao Tông, con của Thái Tông, đưa trở lại hoàng cung bởi vì ông đã sửng sốt trước sắc đẹp của bà khi đi cúng tế cho cha. Vợ vua Cao Tông, người họ Vương ,đóng vai trò quan trọng trong việc đưa Võ Mị Nương hòa nhập lại vào cung đình. Nhà vua lúc ấy đang rất sủng ái một người thiếp họ Tiêu và hoàng hậu hy vọng rằng khi có một người thiếp đẹp mới nhà vua sẽ thôi chú ý tới người thiếp kia. Các nhà sử học hiện nay đang tranh cãi về câu chuyện lịch sử này, và một số nghĩ rằng Võ Tắc Thiên trên thực tế chưa hề rời khỏi hoàng cung, và rằng có thể bà đã có tình ái với vị thế tử (người sau này là vua Cao Tông) từ trước, khi vua Thái Tông còn đang sống. Dù sự thực thế nào chăng nữa, vẫn chắc chắn rằng tới đầu những năm 650 Võ Tắc Thiên đã là thiếp của vua Cao Tông và bà được gọi là Chiêu Nghi ,mức cao nhất trong chín cấp bậc của những người thiếp thuộc hàng thứ hai. Việc vị hoàng đế lấy một trong những người thiếp của cha mình, và lại từng là một bà sư như các nhà sử học truyền thống tin tưởng là một cú sốc đối với những nhà đạo đức Khổng giáo.
Võ Tắc Thiên nhanh chóng bộc lộ tài năng của mình trong việc vận động và lập mưu mẹo. Đầu tiên bà tống người thiếp họ Tiêu khỏi ngáng đường, mục tiêu tiếp sau chính là hoàng hậu. Năm 654, con gái của Võ Tắc Thiên bị giết. Hoàng hậu họ Vương bị nghi ngờ là ở gần phòng của đứa trẻ. Bà bị nghi là đã giết nó vì ghen tuông và sau đó bị hành hình. Truyền thuyết kể rằng Võ Tắc Thiên đã giết chính con của mình, nhưng có lẽ điều này là do các đối thủ của bà và các nhà sử học Khổng giáo bịa ra. Ngay sau đó, bà được hoàng đế phong làm Thần Phi , ở thứ bậc cao hơn bốn người thiếp cao nhất và chỉ kém hoàng hậu. Cuối cùng, tháng Mười Một năm 655, hoàng hậu họ Vương bị giáng phong và Võ Tắc Thiên được đưa lên làm hoàng hậu. Sau đó Võ hậu giết Vương hậu cùng người thiếp họ Tiêu một cách tàn bạo - họ bị đập nát chân tay và sau đó tống vào những thùng rượu to để họ còn sống khổ cực thêm ít ngày nữa.
Sau khi Cao Tông bắt đầu bị giảm sút sức khỏe vì đột quỵ, từ tháng 11, 660, bà bắt đầu cai trị Trung Quốc từ phía sau. Thậm chí sau này bà còn có được quyền lực tuyệt đối khi hành quyết Thượng Quan Nghi và Lý Trung vào tháng 1 năm 665, và từ đó bà ngồi sau vị hoàng đế lúc ấy đã câm lặng để coi chầu (có lẽ bà ngồi sau một bức màn phía sau ngai vàng) và đưa ra các quyết định. Bà cai trị dưới tên chồng và sau khi ông chết thì dưới tên của các vị vua bù nhìn tiếp theo (con bà Hoàng đế Trung Tông và sau đó là đứa con khác Hoàng đế Duệ Tông), chỉ thực sự chiếm hẳn quyền lực vào tháng 10 năm 690, khi bà tuyên bố lập ra nhà Chu, lấy tên theo tên thái ấp của Cha bà và muốn sánh ngang với triều đại rực rỡ nhà Chu trước đó thời cổ Trung Quốc mà bà coi gia đình họ Võ có nguồn gốc từ đó. Tháng 12 năm 689, mười tháng trước khi bà chính thức lên ngôi, bà bắt triều đình đưa ra chữ mới Chiếu , cùng với 11 chữ khác để trưng ra quyền lực tuyệt đối của bà và chọn chữ mới này làm tên thánh của mình, sau đó nó thành chữ húy khi bà lên ngôi mười tháng sau. Chữ này được tạo ra từ hai chữ có từ trước là chữ "minh" ở bên trên có nghĩa là "ánh sáng" hay "sự sáng suốt"; chữ "không" ở dưới có nghĩa là "bầu trời". Ý nghĩa của nó ám chỉ rằng bà giống như ánh sáng chiếu xuống từ bầu trời. Thậm chí cách đánh vần của chữ mới này cũng giống hệt như chữ "chiếu" trong tiếng Trung Quốc. Khi lên ngôi, bà tuyên bố mình là Hoàng đế Thánh Thần, người phụ nữ đầu tiên nắm chức "hoàng đế" vốn đã được phát minh ra từ 900 năm trước bởi hoàng đế đầu tiên là Tần Thủy Hoàng. Thêm nữa, bà là người phụ nữ duy nhất trong lịch sử 2100 năm của triều đình Trung Quốc được ngồi lên ngôi rồng, và điều này một lần nữa lại gây sốc cho những nhà nho đạo Khổng.
Lý thuyết chính trị Trung Quốc truyền thống không cho phép một phụ nữ được lên ngôi, Vũ hậu quyết định dẹp yên chống đối và đưa các quan lại trung thành vào triều. Thời cai trị của bà để dấu ấn về sự xảo quyệt tài tình và chuyên quyền hung bạo. Dưới thời cai trị, bà lập ra Cảnh sát mật để đối phó với bất kỳ chống đối nào có thể nổi lên. Bà được hai người sủng thần là anh em Trương Dịch Chi, và Trương Xương Tông ủng hộ. Bà lấy lòng dân bằng cách tán thành Phật giáo nhưng trừng trị nghiêm khắc các đối thủ bên trong gia đình hoàng gia và quý tộc. Tháng 10 năm 695, sau nhiều lần thêm chữ, tên của bà được đổi thành Thiên Sách Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế , một cái tên đã không bị thay đổi cho tới tận cuối thời cai trị của bà.
Ngày 20 tháng 2 năm 705, lúc này bà đã hơn tám mươi tuổi và ốm yếu, Võ hậu không thể ngăn chặn một cuộc đảo chính giết hại hai anh em họ Trương. Quyền lực của bà cũng kết thúc ngày hôm đó, bà buộc phải lùi bước, hoàng đế Trung Tông được tái lập, nhà Đường lại tiếp tục từ ngày 3 tháng 3 năm 705. Võ hậu chết chín tháng sau đó, có lẽ bà cũng được an ủi rằng cháu trai của mình Võ Tam Tư, con người em họ và cũng tham vọng và hấp dẫn như bà, đã gắng sức nhằm trở thành người chủ thực sự của triều đình, kiểm soát vị hoàng đế vừa được tái lập thông qua hoàng hậu của ông ta, người mà ông đã có tình ý từ trước.
Mặc dù chỉ tồn tại một thời gian ngắn, theo một số nhà sử học, nhà hậu Chu đã có được một hệ thống bình đẳng xã hội về giới tốt hơn so với nhà Đường tiếp sau nó.
Thượng Quan Uyển Nhi
Thượng Quan Uyển Nhi là cháu gái Thượng Quan Nghi, hiệu xưng Cân Quốc Thủ Tướng, là một trong những phụ nữ tài năng nhất của lịch sử Trung Quốc, cũng là một trong những mỹ nữ hứng chịu nhiều điều bi thảm.
Ông của Uyển Nhi là Thượng Quan Nghi phò Đường Cao Tông, đã thất bại trong nỗ lực phế truất Võ Tắc Thiên và bị hành hình. Cha của Uyển Nhi cũng bị ép phải tự vẫn. Uyển Nhi và mẹ là Trịnh phu nhân trở thành nô lệ trong cung điện hoàng đế.
Thượng Quan Uyển Nhi xinh đẹp, thông minh mẫn tiệp lạ thường, nàng thông thuộc thi thư, ngâm thơ, viết văn, thấu hiểu chuyện xưa nay. Hoàng đế Võ Tắc Thiên rất ấn tượng với nàng, sau khi lên ngôi liền phong cho Uyển Nhi một chức quan văn chuyên thảo những chỉ dụ, sắc lệnh. Uyển Nhi đem lòng thương yêu một trong những người tình của Võ Tắc Thiên, và khi nữ hoàng họ Võ phát hiện sự việc, bà đã trừng phạt nàng bằng cách khắc hình bông hoa lên trán Uyển Nhi. Tuy nhiên, điều này lại càng làm cho Uyển Nhi thêm quyến rũ hơn.
Uyển Nhi cũng bắt đầu quan hệ tình cảm với Võ Tam Tư, cháu trai Võ Tắc Thiên - sau này trở thành người có quyền lực và ảnh hưởng lớn. Sau khi Võ Tắc Thiên buộc phải thoái vị vì tuổi đã cao, con trai thứ ba của bà là Đường Trung Tông trở thành hoàng đế, khôi phục lại triều Đường, chấm dứt triều đại nhà Chu ngắn ngủi.
Vợ của Đường Trung Tông là Vi Hậu cũng dan díu với Võ Tam Tư. Để tránh những rắc rối, Võ Tam Tư đã quyết định tiến cử Thượng Quan Uyển Nhi với Trung Tông.
Trung Tông đã có thời gian dài tiếp xúc với Uyển Nhi, hiểu rõ sắc đẹp và tài năng của nàng, và rất sủng ái Uyển Nhi, nàng trở thành một trong những ái phi của Trung Tông. Quyền lực của Uyển Nhi ngày một lớn ở chốn hậu cung, nhưng vẫn duy trì chức quan văn trong hoàng cung - một sự nghiệp chưa từng có với một phi tần. Thượng Quan Uyển Nhi và Vi Hậu vẫn duy trì cuộc tình tay ba cùng Võ Tam Tư.
Trung Tông là một người đàn ông bạc nhược, không dám đối mặt với vợ và chỉ im lặng trước mọi lời đồn đại. Vi Hậu ngày càng khao khát được tiếp bước Võ Tắc Thiên. Mong muốn của Vi Hậu được con gái là công chúa An Lạc và Thượng Quan Uyển Nhi khuyến khích. Trở ngại chính của họ lúc này là Thái tử Lý Trùng Tuấn. Cả ba người bấy giờ đều khẳng định quyết tâm loại bỏ Trùng Tuấn, thành lập triều đại riêng dưới sự trị vì của Vi Hậu.
Công chúa An Lạc rất được Trung Tông cưng chiều vì xinh đẹp và khéo ăn nói. An Lạc bắt đầu dèm pha Lý Trùng Tuấn và muốn trở thành người nối ngôi vua cha. Trung Tông lưỡng lự nhưng rồi rốt cuộc đã từ chối An Lạc vì nghe theo lời khuyên của Tể tướng đầu triều. An Lạc sau đó bắt đầu thù ghét cha. Lý Trùng Tuấn nhận thấy rõ tình thế nguy hiểm của mình, đã thực hiện cuộc binh biến năm 707 với sự giúp đỡ của tể tướng và một số đại thần.
Lí Trùng Tuấn tuyên bố nhận được mật lệnh của vua Trung Tông rằng, Võ Tam Tư và Thượng Quan Uyển Nhi âm mưu giết vua, đem theo 300 lính ngự lâm quân tới nơi ở của Võ Tam Tư, giết chết Võ Tam Tư và hơn 10 kẻ hầu người hạ khác. Công chúa An Lạc may mắn thoát thân vì đang ở cung hoàng đế. Nhưng Trùng Tuấn đã tự mình dẫn theo lính tới cung vua, tìm Vi hậu và An Lạc. Công chúa An Lạc được Trung Tông che chở an toàn ở Cửa Huyền Vũ, khi Trùng Tuấn đến nơi thấy Trung Tông ngồi ở trên thành cùng Thượng Quan Uyển Nhi. Uyển Nhi sợ vua nghe theo lời con bèn nói: "Thiếp tin là đầu tiên hắn muốn bắt thiếp, sau đó là hoàng hậu và cuối cùng là cả hoàng đế’’.
Trung Tông tin theo, bèn ra lệnh ngăn chặn cuộc binh biến của Lý Trùng Tuấn. Một hoạn quan khá nổi tiếng về lòng dũng cảm đã dẫn đầu đội ngự lâm quan tấn công Trùng Tuấn, giết chết tướng chỉ huy. Lính tham gia binh biến bắt đầu nao núng. Vua Trung Tông bấy giờ ban chỉ dụ thu phục quân lính tham gia đội binh biến. Bấy giờ, ngự lâm mới biết không phải Trung Tông ra lệnh giết Võ Tam Tư cùng bè đảng, bèn quay giáo giết các tướng chỉ huy. Trùng Tuấn trốn khỏi Trường An với vài trăm người thân tín, nhưng rồi bị một kẻ dưới quyền giết chết khi đang ngủ.
Vi Hậu bấy giờ quyết định gia tăng thanh thế của mình, phong tước vị cho rất nhiều con cháu thân thuộc với âm mưu thay thế triều Đường bằng một triều đại của riêng mình. Công chúa An Lạc, sau cái chết của chồng ở vụ binh biến, đã tái hôn, và dan díu với con chồng cùng nhiều người khác như một nhà sư, một thái y, một đầu bếp hoàng gia...
Trung Tông bắt đầu không thể chịu nổi cuộc sống phóng đãng của vợ và con gái, năm 710 quyết định phế truất Vi Hậu. Khi biết điều này, Vi Hậu và công chúa An Lạc âm mưu giết vua. Thái y chuẩn bị thuốc độc, đầu bếp trộn thuốc vào những chiếc bánh bao chế biến hấp dẫn, công chúa tự mình dâng vua món ăn. Hoàng đế Trung Tông sau khi ăn bánh bao đã qua đời.
Thượng Quan Uyển Nhi đã ép Trung Tông lập chiếu nhường ngôi cho con thứ tư của một phi tần là Lý Trọng Mậu (Thiếu Đế) tuổi còn nhỏ. Vi Hậu trở thành người nắm giữ triều chính với tư cách Hoàng Thái Hậu nhiếp chính.
Sau này, Lý Đán lên ngôi, phế truất Lý Trọng Mậu. Vi Hậu, công chúa An Lạc và Thượng Quan Uyển Nhi bị giết chết.
Cuộc đời của Thượng Quan Uyển Nhi, theo những sử gia Nho giáo, là ví dụ nổi trội cho một hình mẫu phụ nữ tài năng nhưng phóng đãng. Mối quan hệ phức tạp của Thượng Quan Nhân với Võ Tam Tư (người tình), Vi Hậu (đồng minh và tình địch), Trung Tông (hoàng đế và chồng) có lẽ luôn bị coi là trái luân thường đạo lý, là đầy rẫy âm mưu. Nhưng cũng cần đề cập tới một thực tế là, mọi điều có thể sẽ tồi tệ hơn nhiều nếu Vi Hậu và công chúa An Lạc bắt đầu một triều đại mới kiểu ’’gia đình trị’’ họ Vi mà không có sự can thiệp của nhiều thế lực khác, trong đó có Thượng Quan Uyển Nhi.
Công chúa Thái Bình
Công chúa Thái Bình (khoảng 665-713) là danh hiệu của một công chúa thời nhà Đường ở Trung Quốc, con gái của Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên, có lẽ có tên thật là Lý Lệnh Nguyệt .
Thái Bình công chúa là vị công chúa nhiều tham vọng, quyền thế nhất trong triều nhà Đường, nhưng có kết cục bi thảm.
Năm 681 bà lấy Tiết Thiệu, con trai của cuộc hôn nhân lần thứ hai của người chị hoàng đế Cao Tông là công chúa Thành Dương với Tiết Quán (hay Tiết Diệu). Với Tiết Thiệu bà sinh ra ba người con trai là Tiết Sùng Giản, Tiết Sùng Mẫn và Tiết Sùng Hành. Năm 688, Việt Kính vương Lý Trinh cùng con trai của ông là Lang Nha vương Lý Xung nổi dậy chống lại Võ Tắc Thiên và thất bại. Cả ba anh em Tiết Di, Tiết Thiệu, Tiết Tự bị nghi là có liên quan tới Lý Xung và đều bị bắt. Tiết Di, Tiết Tự bị chặt đầu còn Tiết Thiệu bị đánh 100 roi và bỏ chết đói trong ngục.
Năm 690, Võ Tắc Thiên định gả công chúa Thái Bình cho Ngụy Tuyên vương Võ Thừa Tự, nhưng do Võ Thừa Tự có bệnh nên cuộc hôn nhân này phải hủy (có thuyết cho rằng công chúa không thích Võ Thừa Tự). Vì thế Võ Tắc Thiên gả công chúa cho Võ Du Kị, một người cháu khác cũng gọi Võ Tắc Thiên bằng cô. Do Võ Du Kị đã có vợ nên Võ Tắc Thiên đã buộc người vợ này của Du Kị phải tự sát.
Võ Tắc Thiên ở khi tuổi già lập Phụng Thần Phủ để tuyển chọn nhiều thanh niên tuấn tú đưa vào đó để phục vụ và thỏa mãn dục vọng của mình, trong số đó có Trương Xương Tông vốn được công chúa Thái Bình giới thiệu để hầu hạ cho nữ hoàng vào khoảng năm 697. Xương Tông lại giới thiệu tiếp người anh của mình là Trương Dịch Chi.
Nữ hoàng vô cùng sủng ái Trương Dịch Chi và Trương Xương Tông, phong Tông làm Vân Huy tướng quân, còn Dịch Chi làm Tư Vệ thiếu khanh. Rồi ngày càng say đắm cưng chiều khiến hai tên ngày càng lộng quyền, thậm chí Trương Dịch Chi ngoại tình với nữ quan thân cận nhất của Võ Tắc Thiên là Thượng Quan Uyển Nhi. Thế lực của hai anh em ngày càng lớn mà Võ Tắc Thiên thì không ra khỏi cung nữa.
Tháng 2 năm 705, tể tướng Trương Giản Chi dẫn 500 quân tiến đánh vào hoàng cung, giết hai anh em họ Trương, ép buộc nữ hoàng Võ Tắc Thiên truyền ngôi cho thái tử Lý Hiển. Võ Tắc Thiên lúc đầu không chịu, nhưng Thái Bình công chúa đã thuyết phục mẹ thoái vị về làm thái thượng hoàng, Lý Hiển lên ngôi lần thứ hai khôi phục lại nhà Đường sau 15 năm gián đoạn, tức là Đường Trung Tông (lần trước chính Võ Tắc Thiên lập lên và phế bỏ). Chín tháng sau, Võ Tắc Thiên qua đời. Với công lao của mình, bà được tôn là Trấn Quốc Thái Bình công chúa, được lập phủ riêng, ăn lộc năm nghìn hộ.
Đường Trung Tông lên ngôi lần thứ hai, Thái Bình công chúa dần tham gia vào chính sự. Lúc đó vợ con của Trung Tông là Vi hoàng hậu và An Lạc công chúa lộng hành trong ngoài cung, duy chỉ e ngại có Thái Bình công chúa mà thôi. Năm 709, thái tử Lý Trọng Tuấn làm phản bị giết, nhân đó An Lạc vu cáo Thái Bình và Tương vương Lý Đán đồng mưu với thái tử, nhưng xét ra không đúng, do đó Thái Bình và An Lạc đối địch công khai.
Tháng 6 năm 710, Đường Trung Tông băng hà, do Vi hoàng hậu và An Lạc công chúa hạ độc. Vi hoàng hậu muốn nhân đó chiếm ngôi vị, làm một Võ Tắc Thiên tiếp theo, nhưng Thượng Quan Uyển Nhi đã cùng Thái Bình công chúa đưa di chiếu lập Ôn vương Lý Trọng Mậu làm vua, tức Đường Thương Đế, Vi hoàng hậu thành Hoàng thái hậu, cùng nhiếp chính, Tương vương Lý Đán cũng tham chính.
Tháng 7 năm đó, Thái Bình công chúa hiệp sức với con của Lý Đán là Lý Long Cơ tiến hành chính biến, tiêu diệt Vi thái hậu và bè đảng, Thượng Quan Uyển Nhi cũng bị giết chết, phế bỏ Đường Thương Đế.Tương vương Lý Đán được lập lên làm vua, tức là Đường Duệ Tông (lên ngôi lần thứ hai), phong Lý Long Cơ làm thái tử. Thái Bình công chúa có công lớn, được phong Vạn hộ, trở thành vị công chúa quyền thế nhất trong triều đại nhà Đường.
Tuy nhiên, sau đó Thái Bình và Lý Long Cơ lại tranh giành quyền lực, bà từng khuyên Duệ Tông phế thái tử nhưng không được, nên tích cực gây dựng phe cánh của mình. Có lúc trong bảy vị đại thần đầu triều thì năm người theo Thái Bình công chúa, chỉ có Diêu Sủng, Tống Cảnh không theo. Duệ Tông cũng muốn hòa giải nhưng không được, dần dần không quan tâm đến triều chính.
Năm 712, Đường Duệ Tông lui về làm thái thượng hoàng, truyền ngôi cho Lý Long Cơ (tức Đường Huyền Tông). Cùng năm đó chồng của Thái Bình công chúa là Võ Du Kị qua đời.
Năm 713, Thái Bình công chúa chuẩn bị khởi loạn, tìm cách nắm giữ ngự lâm quân. Lý Long Cơ quyết định ra tay trước, giết tướng của ngự lâm quân. Thái Bình công chúa thấy việc đã hỏng, bỏ chạy đến trốn ở chùa Nam Sơn trong ba ngày. Thái thượng hoàng Duệ Tông đành phải ra mặt xin Lý Long Cơ tha chết cho em gái, nhưng Lý Long Cơ từ chối. Cùng đường, Thái Bình công chúa đành phải tự tử. Mộ của chồng bà là Võ Du Kị cũng bị san bằng.
Triệu Lệ Phi
Triệu Lệ Phi vốn là một kỹ nữ có tiếng ở đất Lộ Châu. Chuyện kể rằng từ năm Cảnh Long thứ 2 tới năm Cảnh Long thứ 4, tức từ năm 708 – 710, Đường Huyền Tông, khi đó vẫn còn là Lâm Tri Vương được phái đến Lộ Châu làm chức Biệt giá.
Trong thời gian làm quan tại đây, Huyền Tông đã gặp cô kỹ nữ họ Triệu, vừa xinh đẹp lại giỏi ca múa vì vậy quyết định lấy Triệu thị về làm vợ bé. Trong suốt thơi gian này, Huyền Tông vô cùng sủng ái Triệu thị.
Sau khi Đường Trung Tông bị vợ là Vĩ Hoàng hậu cùng An Lạc Công chúa hạ độc giết chết, triều đình nhà Đường đại loạn. Đường Huyền Tông tự phong là Bình Vương liên kết với Thái Bình Công chúa phát động binh biến, tấn công vào kinh thành Trường An, giết chết Vĩ Hoàng hậu.
Sau khi bình định phản loạn, Huyền Tông đưa cha mình là Lý Đán lên ngôi vua, sử gọi là Đường Duệ Tông còn bản thân được phong làm hoàng thái tử.
Lúc bấy giờ, với thân phận là sủng thiếp của thái tử, cha và anh của Triệu thị được Huyền Tông cất nhắc, đều làm những chức quan to trong triều đình.
Sau khi Huyền Tông lên ngôi, năm Khai Nguyên thứ 3, tức năm 715, con trai do Triệu thị sinh ra Lý Tự được phong làm thái tử. Điều đó đủ thấy Huyền Tông sủng ái người vợ xuất thân kỹ nữ này tới mức nào.
Chưa dừng lại ở đó, sau khi Vương Hoàng hậu bị phế truất, Huyền Tông còn đặc cách phong cho Triệu thị trở thành Lệ Phi, một trong ba quý phi có tước vị chỉ dưới hoàng hậu. Tuy nhiên, sau đó, do Huyền Tông sủng ái Võ Huệ Phi nên dần lạnh nhạt với Triệu Lệ Phi.
Tới năm 737, do âm mưu của Huệ Phi, ngôi vị thái tử của con trai Triệu Lệ Phi là Lý Tự cũng bị phế truất. Gia tộc họ Triệu một thời nổi đình nổi đám vì người con kỹ nữ được Hoàng đế sủng ái nay nhanh chóng lụi tàn.
Dương Quí Phi
Tên là Dương Ngọc Hoàng, nguyên là vợ của Thọ Vương Mạo . Thọ Vương Mạo là con của vua Ðường Huyền Tông (tên thật là Lý Long Cơ, còn gọi là Ðường Minh Hoàng. Triều Ðường: 618 - 907), nhưng vì quá say mê sắc đẹp của Dương Quý Phi nên Ðường Huyền Tông chiếm đoạt và phong làm Quý Phi, gọi là Dương Quý Phi.
Dương Quý Phi vừa đẹp, vừa thông minh nên vua Ðường đắm đuối yêu thương, bỏ mặc việc triều chính cho gian thần Lý Lâm Phủ trông coi. Lúc bấy giờ An Lộc Sơn, người Hồ, là tướng dũng mãnh, được nhà vua trọng dụng. Nhất là đối với Dương Quý Phi, nhờ khéo léo nịnh nọt nên họ An rất được yêu thương. An Lộc Sơn xin làm "con nuôi" của Dương Quý Phi để tiện ra vào làm chuyện gian dâm với Dương Quý Phi!
Năm 755, An Lộc Sơn cử đại binh làm phản, đem 150,000 binh lính Khiết Ðan từ Phạm Dương kéo về chiếm Hà Bắc, Hà Nam, công hãm thành Lạc Dương, tự xưng là Yên Ðế rồi tấn công thẳng vào kinh đô Trường An. Binh triều đại bại, vua cùng một số quần thần phải bỏ kinh thành chạy vào Ba Thục.
Ðến Mã Ngôi, tướng sĩ không chịu chạy nữa, đồng lòng giết chết gian thần Dương Quốc Trung (anh họ của Dương Quý Phi) và bức bách vua Ðường phải thắt cổ Dương Quý Phi thì họ mới chịu phò vua. Lương thực hết, quân sĩ bất mãn, gặp bước đường cùng, vua Ðường đành dấu mặt, đứt ruột mà hy sinh "người đẹp khuynh nước, khuynh thành." Mối tình vương giả này sẽ bị chìm vào quên lãng nếu không có ngòi bút tài hoa của Bạch Cư Dị tô điểm cho thêm phần lâm ly bi đát.
Bạch Cư Dị tự Lạc Thiên, quê ở Thái Nguyên, Sơn Tây, đậu Tiến sĩ năm 27 tuổi, nhậm chức Hàn lâm học sĩ. Chứng kiến cảnh thảm khốc của một bi tình lụy của Ðường Minh Hoàng, họ Bạch cảm xúc làm bài "Trường hận ca" nổi tiếng, được dịch qua tiếng Pháp bởi Georges Soulié de Morant và tiếng Việt bởi Yã Hạc và Trinh Nghiên. Vì bài "Trường hận ca" dài quá nên chỉ liệt kê 4 câu cuối như sau:
(Tại thiên nguyện tác tị dực điểu,
Tại địa nguyện vi tiên lý chị
Thiên trường địa cửu hữu thời tận,
Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ)
Trên trời nguyện hóa chim liền cánh,
Dưới đất làm cây nhánh dính liền.
Trời Ðất lâu bền rồi sẽ tận,
Hận này muôn thuở vẫn miên miên...
Tập "Tây Bắc thảm kỳ" của Ðào Ngọc Sơn đời nhà Minh (1368 - 1628) có chép truyện "Quái nham Quý Phi toàn dục bích họa", nghĩa là bức họa trên vách tả cảnh Dương Quý Phi tắm suối ở Quái Nham.
Quái Nham là một hòn núi hiểm hóc ở Thiểm Tây, không có dấu chân người Ðường Minh Hoàng đã hạ chỉ bắt xây dựng cầu mây để đưa Dương Quý Phi vào đó vui chơi, tốn kém không biết bao nhiêu là tiền của, chưa kể nhiều người chết do làm cầu. Cửa hang nơi Dương Quý Phi vào tắm thì càng vào trong càng rộng. Tới mãi trong cùng thì có một bãi đất lộ thiên rộng tới vài chục mẫu, cỏ mọc xanh rờn như một tấm nệm trải phẳng phiu. Có nhiều thứ cây lạ. Chung quanh bãi ấy, thân núi dựng đứng như bức tường dài. Vách núi nhiều chỗ lại phẳng trơn như mài, bóng loáng rất đẹp. Dưới những vách đá là một con suối chảy lượn theo triền núi. Cách khoảng có những giọt nước từ trên khe đá tí tách rơi xuống hay những tia nước từ trong các mạch đất cuồn cuộn tuông ra, hợp với tiếng nước suối chảy tạo nên những tiếng nhạc êm tai. Dòng suối lại có những khúc rất sâu, nước trong vắt thấy tới đáy! Thật là một cảnh thần tiên.
Ngày nay, di tích Dương Quý Phi vẫn còn. Trên vách đá phía Ðông thấy có hàng chữ "Dương Quý Phi toàn dục diễm tích" (dấu vết xinh đẹp khi Dương Quý Phi tắm suối). Các nét vẽ đều chạm khắc sâu vào thân vách nên dù có hơi phai nhạt màu nhưng trông như mới. Tất cả chừng 10 bức vẽ: lúc Dương Quý Phi cổi áo, lúc nàng nghịch nước, lúc lội suối với ngấn nước trong veo dần dần mờ in trên thân hình tha thướt, uyển chuyển, da trắng như tuyết, .... Dưới các bức vẽ có đề ngày 25 tháng 5 năm Thiên Bảo thứ 10 (tức năm 752). Cuốn "Dị Văn Lục" chép khúc vũ Nghê Thường là do Ðường Minh Hoàng lên chơi cung trăng mà ra. Lúc ấy, trăng sáng Ðường Minh Hoàng mơ được lên chơi cung trăng. Ðạo sĩ La Công Viễn dùng phép tiên biến giải lụa trắng thành chiếc cầu đưa Ðường Minh Hoàng lên nguyệt điện. Trong điện có tiếng nhạc du dương, các nàng tiên xiêm y lộng lẫy, mùi nước hoa quyến rũ đâu đây, uyển chuyển múa hát như đàn bướm muôn màu tha thướt bay lượn bên hoa. Ðường Minh Hoàng càng nhìn càng say mê, quên cả trời gần sáng, nếu không có La Công Viễn nhắc thì đã ...quên trở về hạ giới. Khi trở về, Ðường Minh Hoàng nhớ lại và ghi thành khúc "Nghê thường vũ y" để rồi cứ đến rằm tháng Tám, Ðường Minh Hoàng cùng Dương Quý Phi uống rượu dưới trăng, ngắm đoàn cung nữ múa khúc Nghê Thường mà tưởng chừng như đang ở Nguyệt điện.
Tài liệu trên có tính cách thần thoại. Còn cuốn "Ðường Thư" ghi có phần thực tế hơn như sau:
Ðường Minh Hoàng mơ lên chơi Nguyệt điện, thấy các tiên nữ mặc áo cánh chim, xiêm y ngũ sắc, hát bài "Tây thiên điệu khúc"; đến khi trở về hạ giới thì còn nhớ mang máng. Nhằm lúc đó, có Tiết độ sứ là Trương Kính Thuật từ Tây Lương (Cam Túc ngày nay), đem khúc hát Bà La Môn đến hiến nên Ðường Minh Hoàng truyền đem san định lại và đổi tên là khúc "Nghê thường vũ y". (Nghê: cầu vồng. Thường: xiêm ỵ Nghê thường nghĩa là xiêm y may bằng vải năm màu của cầu vồng. Vũ y: áo dệt bằng lông chim). Ðúng ra, căn cứ vào các tài liệu sử học và khoa khảo cổ, người ta cho rằng khúc "Nghê thường vũ y" là một vũ khúc Ấn Ðộ truyền sang Trung quốc qua "con đường tơ lụa" (route de la soie), khi đến Trung quốc thì được cải biến cho hoàn chỉnh hơn.
Trong "Cung Oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều có câu:
Dẫu mà tay múa, miệng xang,
Thiên tiên cũng ngảnh Nghê thường trông trăng
Trong "Bích câu kỳ ngộ" có câu:
Ðong đưa khoe thắm, đưa vàng,
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha
Quắc Quốc Phu nhân
Tên thật chưa rõ, nhiều sách ghi là Dương Ngọc Dao, lại có sách ghi là Dương Lan Lan – con gái thứ 3 của Tư mã Tham quân Thục Châu Dương Huyền Diễm. Từ nhỏ đã thông minh lanh lợi, lại rất thân thiết với em gái Dương Ngọc Hoàn nên khi Ngọc Hoàn được phong làm Quý Phi, nàng cũng được Huyền Tông phong là Quắc Quốc Phu nhân.
Lúc nàng còn khá trẻ đã trở thành quả phụ, bản tính lại lẳng lơ thiếu giữ gìn, nàng vừa là nhân tình của Dương Quốc Trung vừa dụ dỗ biết bao hoàng thân quốc thích, thậm chí mồi chài cả hoàng thượng khiến Quý phi ghen tuông như bão táp gây ra trận phong ba rất lớn.
Giai thoại về Quắc Quốc Phu nhân: Một lần, vào sinh nhật của Huyền Tông, nàng đã chuẩn bị một tiết mục đặc biệt mừng sinh nhật hoàng thượng. Nhưng do luyện tập mệt mỏi nên đã thức dậy muộn, chưa trang điểm đã vội vàng vào cung. Huyền Tông thấy Quắc Quốc phu nhân tuy chưa trang điểm nhưng lại có vẻ đẹp khác thường, đôi má ửng hồng, những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, sức sống rào rạt như đóa phù dung sau cơn mưa. Có người đã viết bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của nàng:
Khước hiềm chi phấn ô nhan sắc
Đạm tảo ma mi triều chí tôn
———————-
Chỉ hiềm son phấn ô nhan sắc
Tô nhẹ mày ngài hầu quốc vương
1 đoạn khác:
Nói đến Quắc Quốc phu nhân, người ta sẽ liên tưởng ngay đến người con gái loạn lung, thiên kim tiểu thư tiêu xài phung phí, nhưng là bậc giai nhân sắc nước hương trời, vô cùng sắc sảo và phong lưu đa tình. Sau khi cô em Dương Ngọc Hoàn được sủng ái, là chị của Quý phi, Quắc Quắc phu nhân cũng nhận được ân điển, có xe ngựa đưa rước, lụa là châu báu chất đầy, trở nên vô cùng rực rỡ. Nàng một mặt dựa vào thế của đứa em, nhận tiền hối lộ, can thiệp triều chính, tạo mối quan hệ với quan thần và chiêu mộ thuộc hạ dưới trướng, mặt khác lại liếc mắt đưa tình với Đường Huyền Tông, không hề có chút tránh kỵ mà ở cùng phòng với người anh họ Dương Quốc Trung. Nàng từ nhỏ được giáo dục tốt, có thể nói là một mỹ nhân tài sắc vẹn toàn. Nhưng vốn tính cao ngạo, Quắc Quốc phu nhân tự thấy mình xinh đẹp phong lưu hơn người, không hề thích trang điểm. Mỗi lần vào cung, ai ai cũng trang điểm thật lộng lẫy, riêng chỉ nàng là trang điểm tùy ý mờ nhạt diện thánh. Quắc Quốc phu nhân cực kỳ xinh đẹp lại cá tính, không chỉ nhận được sủng ái của Huyền Tông mà còn được đặc quyền tự do ra vào cung gặp hoàng thượng bất cứ lúc nào.
Công chúa Văn Thành
Trên lịch sử Trung Quốc, có rất nhiều công chúa hoặc con gái giòng họ nhà vua gả cho quốc vương nước ngoài, trường hợp này chia làm hai loại: Một là vì quốc lực suy yếu, làm thông gia với hoàng tộc nước ngoài có thể chiếu cố tới toàn cục; hai là quốc lực hùng mạnh, làm thông gia với những nước láng giềng để giữ gìn an ninh cho khu vực biên giới. Vào thời kỳ Đường Thái tông Lý Thế Dân, công chúa Văn Thành gả đi xa cho Thổ Phan, nàng là mẫu mực của trường hợp thứ hai.
Thổ Phan chính là khu vực Tây Tạng ngày nay. Người Thổ Phan sống bằng nghề chăn nuôi là chính. Thế kỷ thứ 7 công nguyên, Chi-tông-nông-chan nối ngôi là vua Thổ Phan, mọi người gọi ông là Sông-chan-can-pu. Ông là một vị lãnh tụ dũng cảm oai phong, dẫn quân đi thống nhất nhiều bộ lạc trên cao nguyên Thanh Hải Tây Tạng, thết lập vương quốc hưng thịnh, đóng đô tại La Sa ngày nay.
Năm 639 công nguyên, Song- chan- can- pu đưa quân tấn công Tùng Châu, một thành phố biên giới thời nhà Đường, bị quân nhà Đường đánh bại, Sông-chan-can-pu đành cúi đầu xưng thần, lại còn cầu hôn với triều đình nhà Đường. Đường Thái Tông bèn nhận lời, ông tuyển chọn cô con gái giòng họ nhà vua giỏi làm thơ viết sách, và phong nàng là công chúa Văn Thành rồi đem gả nàng cho Sông-chan-can-pu.
Trải qua hơn một tháng lặn lội gian khổ, gió thổi tuyết bay, công chúa Văn Thành mới tới được Hà Nguyên—nơi bắt nguồn của sông Hoàng Hà, Sông-chan-can-pu đích thân dẫn rất nhiều người và ngựa ra đây đứng đợi nghênh tiếp. Gái thì xinh đẹp thùy mị, trai thì khôi ngô tuấn tú, thế là hai người đều phải lòng nhau. Sông-chan-can-pu liền tổ chức lễ cưới linh đình, ngoài ra còn cho xây riêng một cung điện nguy nga hoành tráng tặng công chúa Văn Thành, ao nước cỏ cây, đình đài lầu các trong cung đình đều được thiết kế theo phong cách kiến trúc cung điện triều đình nhà Đường. Để có càng nhiều điểm chung với công chúa Văn Thành, Sông-chan-can-pu liền thay trang bộ phục nhà Đường do chính Công chúa cắt khâu cho, ngoài ra còn nhờ công chúa dạy tiếng Hán cho mình, hai vợ chồng tôn trọng lẫn nhau, thương yêu nhau nhất mực.
Sau khi đời sống đã được ổn định, các tùy tùng cùng công chúa đến Thổ Phan bắt đầu triển khai nhiệm vụ của mình. Các nhạc công dân tộc Hán diễn tấu nhạc dân tộc Hán, khiến cho loại âm nhạc này càng trở nên chính quy. Sông-chan-can-pu ra lệnh cho con cháu các đại thần và quý tộc học văn hoá dân tộc Hán. Ngoài ra ông còn tuyển chọn một số thanh niên nam nữ dân tộc Tạng đến thành đô Tràng An nhà Đường để học tập.
Các thợ kỹ thuật nông nghiệp dạy kỹ thuật canh tác cây lương thực cho học viên Thổ Phan, đặc biệt dạy họ phương pháp trồng dâu nuôi tằm, khiến cho người Thổ Phan cũng có hàng dệt tơ lụa của mình. Tất cả những việc này, đã nâng cao rất nhiều đời sống của bà con Thổ Phan, nhân dân Thổ Phan hết sức cảm kích công lao của công chúa Văn Thành.
Năm 650, Đường Thái Tông Lý Thế Dân băng hà, thái tử lên nối ngôi, hoàng đế mới phong Sông-chan-can-pu là Tây Hải Quận vương, rồi cử người mang theo nhiều vàng bạc châu báu, tơ lụa, thơ tập và các loại hạt giống đi Thổ Phan tăng cho Sông-chan-can-pu, ngoài ra còn mang tặng cho công chúa Văn Thành đồ trang sức và mỹ phẩm, để khen ngợi công đức hòa thân của công chúa Văn Thành.
Trong thời kỳ này, các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa v v ... của Thổ Phan đã có sự phát triển vượt bậc, do vậy mà làm bá chủ vùng Tây vực, Thổ Phan đã trở thành tấm bình phong của triều đình nhà Đường tại phía Tây. Về sau, do nhiều nguyên nhân, Đường Cao Tông cử đại tướng Tiết Nhân Thọ dẫn quân đi đánh Thổ Phan, từ đó quan hệ của hai bên dần dần xa lánh nhau.
Kể từ ngày công chúa Văn Thành gả cho Sông-chan-can-pu, cho đến khi triều đình nhà Đường đưa quân đi đánh Thổ Phan, trong suốt 30 năm, do công chúa đa tài lắm nghệ, đã có sự ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của Thổ Phan và ổn định của triều đình nhà Đường. Đáng tiếc là Đường Cao Tông không biết nâng niu quý trọng, nông nổi gieo rắc chiến tranh, khiến cục diện hòa mục giữa nhà Đường và Thổ Phan do công chúa Văn Thành khổ tâm kinh doanh, thật khiến mọi người người phải đau lòng. Năm 680, công chúa Văn Thành lâm bệnh rồi qua đời, nhân dân thổ Phan hết sức đau lòng, họ xây rất nhiều chùa ở khắp nơi để thờ công chúa Văn Thành. Đến nay, công chúa Văn Thành và các sứ giả hữu nghị cùng đi với công chúa năm xưa vẫn được nhân dân Tây Tạng coi là thần linh.
Tiết Đào
Nữ thi nhân thời Đường, người gọi là Nữ Hiệu Thư, từng xướng họa cùng thi nhân nổi tiếng đương thời Nguyên Trẩn, thực lực không thua kém. Tác phẩm tiêu biểu : Ngô Đồng Thi (làm khi mới 8 tuổi)
Đình trừ nhất cổ đồng,
Tủng cán nhập vân trung,
Chi nghênh nam bắc điểu,
Diệp tống vãng lai phong.
Tiết Đào (770-832), tự Hồng Độ. Cha Tiết Vân là một viên tiểu lại ở kinh đô, sau loạn An Sử dời đến ở Thành Đô, Tiết Đào sinh vào năm thứ 3 Đại Lịch thời Đường Đại Tông. Lúc còn nhỏ đã thể hiện rõ thiên phú hơn người, 8 tuổi đã có thể làm thơ, cha từng ra đề “Vịnh Ngô Đồng”, ngâm được 2 câu “Đình trừ nhất cổ đồng, tủng cán nhập vân trung”; Tiết Đào ứng thanh đối ngay : “Chi nghênh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong”. Câu đối của Tiết Đào như dự đoán trước mệnh vận cả đời của nàng. Lúc 14 tuổi, Tiết Vân qua đời, Tiết Đào cùng mẹ là Bùi Thị nương tựa nhau mà sống. Vì sinh kế, Tiết Đào bằng dung mạo và tài năng hơn người tinh thi văn, thông âm luật của mình bắt đầu đến các nơi ăn chơi hoan lạc, rót rượu, phú thi, đàn xướng hầu khách nên bị gọi là “Thi Kỹ”.
Thời Đường Đức Tông, triều đình mời Trung thư lệnh Vĩ Cao làm Tiết độ sứ Kiếm Nam, thống lược Tây Nam, Vĩ Cao là một quan viên nho nhã cũng có tài thơ văn, ông nghe nói về tài năng xuất chúng của Tiết Đào mà còn là hậu nhân của quan chức triều đình, liền phá lệ mời nàng dùng thân phận nhạc kỹ đến Soái Phủ đãi yến phú thi, Tiết Đào trở thành Doanh Kỹ nổi tiếng ở Thành Đô (Nhạc kỹ chính thường được mời đến các cuộc vui chơi của võ quan trấn thủ các nơi). Sau 1 năm, Vĩ Cao mến tài Tiết Đào, chuẩn bị tấu xin triều đình để Tiết Đào đảm nhiệm quan chức Hiệu Thư Lang, tuy chưa kịp thực hiện nhưng danh hiệu “Nữ Hiệu Thư” đã không kính mà đến, đồng thời Tiết Đào cũng được gọi là “Phụ Mi Tài Tử”. Về sau, Vĩ Cao vì trấn thủ biên cương có công nên được phong làm Nam Khang Quận Vương, rời khỏi Thành Đô. Lý Đức Dụ tiếp nhiệm Kiếm Nam Tiết Độ Sứ cũng rất ngưỡng mộ tài năng của Tiết Đào. Trong suốt cuộc đời của Tiết Đào, Kiếm Nam Tiết Độ Sứ tổng cộng có 11 người thay phiên đảm nhiệm, người nào cũng vô cùng thanh lãi và kính trọng nàng, địa vị của nàng đã vượt xa một tuyệt sắc hồng kỹ tầm thường.
Hoắc Tiểu Ngọc
Nàng là "Người đẹp có tài làm thơ", đã chung sống hai năm với Lý Ích, một trong “Thập tài tử Đại Lịch”.
Nàng là nhân vật chủ yếu phát sinh các câu thành ngữ “Lang tài nữ mạo” (mặt gái tài trai) nói về tài năng của người nữ, “Thủy loạn chung khí” (trước yêu sau bỏ) nói về hoàn cảnh bị bức hại và “Si tâm nữ tử phụ tâm Hán” (gái chung thủy trai phụ bạc)
Lý Ích (748-829) tự Quân Ngu, người Cổ Tang , Lũng Tây (nay thuộc huyện Vũ Uy tỉnh Cam Túc , Trung Quốc), thi nhân đời Trung Đường.
Khi Lý Ích có danh tiếng lớn ở kinh đô, cố gắng đi tìm “người vừa đẹp vừa làm thơ hay” nên đã gặp Hoắc Tiểu Ngọc. Hai người không cưới hỏi mà chung sống với nhau suốt hai năm, thề nguyện câu “hải thệ sơn minh” (chỉ non mà thề, chỉ biển mà hẹn = thề non hẹn biển)
Sau, Lý Ích bị gia đình bức ép phải cưới vợ là Lư Thị, nàng Hoắc Tiểu Ngọc quá đau xót, nuốt hận mà chết. (Xem chuyện nầy ở “Truyện Hoắc Tiểu Ngọc” của Tưởng Phòng, đời Đường).
Lý Ích sau nầy trở thành “nhà thơ bậc nhất” vùng biên tái. Đường hoạn lộ thuận lợi, cấp chức cao nhất sau cùng lên đến “Lễ Bộ Thượng Thư” . Nguyên từ lúc trẻ, Lý Ích mắc một chứng bệnh gọi là “Đố si”, mọi người đặt cho cái tên là “Lý Ích tật” (tật của Lý Ích) [ Theo sách Tân—Cựu Đường Thư].
Các tiểu thuyết về sau khai thác chuyện nầy, thổi phồng lên nhiều hư cấu khác, nói rằng chàng ta bị oan hồn của Hoắc Tiểu Ngọc theo báo thù nên mới bị chứng bệnh kỳ lạ, gọi là “Nghi tâm chứng” (chứng bệnh đa nghi, ganh ghét, ngược đãi … người khác). Cũng theo tình tiết diễn tả trong tiểu thuyết, sau nầy Lý Ích đã sát hại một thị tì và ly hôn với vợ là Lư Thị.
Theo “Truyện Hoắc Tiểu Ngọc” thì sau khi nàng chết, có người thương tiếc nàng viết bài thơ :
Nhất đại danh hoa phó lạc nhân ,
Si tâm uổng tự luyến thi nhân ;
Hà như giá dữ hoàng sam khách ,
Bạch mã phương giao cộng đạp xuân .
Uổng một đời hoa chọn lộn người,
Tâm tình trao hết một nhà thơ.
Giá như nàng chỉ tìm ai khác,
Có lẽ cùng nhau sống trọn đời !
Nàng Phi Yên
Nàng Phi Yên là người đẹp khoảng niên hiệu Hàm Thông đời nhà Đường.
Nàng tinh thông thi văn, giỏi nghề đàn hát.
Phi Yên là đại biểu cho quan điểm “chống đối cuộc hôn nhân ép buộc”. (Đây quả là quan điểm mạnh mẽ ở thời kỳ phong kiến đang thịnh hành ngày xưa)
Khi lâm vào hoàn cảnh “đau khổ kéo dài ” ấy, người con gái có quyền chọn một người yêu đúng nghĩa khác.
Theo quyển “Tam thủy tiểu độc” của Hoàng Phủ Mai đời Đường , phần “Truyện Phi Yên” như sau:-
Nàng Phi Yên bị ép buộc làm thiếp của Vũ Công Nghiệp ở Lâm Hoài. Niên hiệu Hàm Thông, Vũ Công Nghiệp được bổ nhiệm chức Công Tào Tham Quân ở phủ Hà Nam (Lạc Dương). Bận công vụ nên Công Nghiệp không về nhà được.
Cạnh nhà có chàng Triệu Tượng, thấy nhan sắc Phi Yên kiều diễm, lại biết chuyện bị bắt ép của nàng, nên tìm cách gởi một bài thơ để ướm thử. Nàng làm thơ phúc đáp họa lại, lời lẽ văn hoa bay bướm. Sau đó hai người tư thông với nhau, thời gian suốt một năm.
Nàng Phi Yên trước kia có lần nhân một tì nữ phạm lỗi, nàng có đánh nó mấy roi, nó đem lòng oán hận. Khi biết chuyện dan díu của hai người, tì nữ liền báo cho Vũ Công Nghiệp. Họ Vũ nổi giận, tra hỏi đánh đập rất nhiều mà Phi Yên nhất quyết không chịu khai sự thật. Cuối cùng bị họ Vũ giận quá đánh đến chết.
Câu nói nổi tiếng của nàng trước khi chết là :
“Sanh ký tương ái,
Tử diệc hà hận !”
*Dịch:-
“Sống mà được yêu,
Chết có hận gì !”
Quan Miến Miến
Là một danh kỹ đất Từ Châu đời nhà Đường,khoảng niên hiệu Trinh Nguyên và Nguyên Hòa (785—820).
Năm Trinh Nguyên thứ 15 , quan Thượng Thư Trương Kiến Phong làm Tiết Độ Sứ ở Vũ Ninh, Trấn Thủ Từ Châu. Trong dinh quan họ Trương, có nuôi rất nhiều ca kỹ, múa hay hát giỏi. Trong số đo có nàng Quan Miến Miến (cũng đọc là Quan Phán Phán) được Thượng Thư Trương Kiến Phong nạp làm thiếp.
Đại thi hào Bạch Cư Dị đã kể lại chuyện gặp nàng Quan Miến Miến , làm thơ tặng nàng. Sau, họ Trương mất, nàng Miến Miến đã thủ tiết thờ chồng và cuối cùng là tự tử như sau:-
Trương Thượng thư ở Từ Châu (tức Trương Kiến Phong) có người con hát yêu tên Miến Miến, giỏi ca múa, phong tư trang nhã xinh đẹp. Tôi làm Hiệu thư lang, tới vùng Hoài Tứ, được Trương thượng thư mời ăn tiệc, lúc rượu say, ông gọi Miến Miến ra ca múa giúp vui. Tôi nhân đó làm bài thơ tặng:
Tặng Quan Miến Miến
Phụng bát kim linh thế,
Đàn tào hậu đới thuỳ.
Tuý kiều vô khí lực,
Phong niểu mẫu đơn chi.Tặng Quan Miến Miến
Dịch:
Lông vàng xếp cánh phượng,
Đàn dứt dây tơ chùng.
Say lả càng kiều diễm,
Mẫu đơn cành gió rung
Một lần vui rồi chia tay, từ đó về sau tuyệt không biết gì về nàng cả. Đến nay đã mười hai năm, hôm trước quan Tư huân Viên ngoại lang Trương Trọng Tố tự Hội Chi (con Trương Kiến Phong) thăm tôi, nhân ngâm ba bài thơ Yến Tử lâu, lời lẽ dịu dàng đẹp đẽ, hỏi ra thì là thơ của Miến Miến. Hội Chi làm Tùng sự ở Vũ Ninh nhiều năm, biết rõ chuyện Miến Miến, kể rằng Trương thương thư đã chết, phủ đệ cũ ở Bành Thành có một ngôi lầu nhỏ gọi là Yến Tử lâu. Miến Miến nhớ lòng yêu dấu của ông ngày trước nên không lấy chồng, về ở lầu ấy hơn mười năm, nay vẫn còn sống. Thơ Miến Miến như sau
Lầu thượng tàn đăng, bạn hiểu sương
Độc miên nhân khởi hợp hoan sàng
Tương tư nhất dạ tình đa thiểu
Địa giác thiên giai bất thị trường
2.-
Bắc khâu tùng bách tỏa sầu yên
Yến Tử lâu nhân tứ tiêu nhiên
Tự mai kiếm lý ca trần tán
Hồng tụ hương tiêu thập nhất niên
3.-
Thích khan hồng nhạn Lạc Dương hồi
Hựu đổ huyền cầm bức xã lai
Dao sắt ngọc tiêu vô ý tự
Nhiệm tòng thù võng nhiệm tòng khôi
Dịch nghĩa
Trên lầu ngọn đèn tàn làm bạn với làn sương sớm
Người ngủ một mình vừa rời chiếc giường hợp hoan
Một đêm nhung nhớ biết là nhiều hay ít
Chân trời góc đất cũng chẳng phải dài lâu...
2.-
Tùng bách nơi núi Bắc Mang tỏa khói sầu
Trong lầu Yến Tử có người xao xác nhớ
Từ khi chôn vỏ kiếm, bụi trần của khúc ca xưa theo đó mà tan đi
Mùi hương tiêu biến khỏi tay áo hồng cũng đã mười năm rồi
3.-
Mong được nhìn cánh hồng nhạn bay về Lạc Dương
Lại thấy cánh chim đen đến từ Bức Xã
Đàn dao cầm và cây ngọc tiêu không nỗi niềm chi
Cũng đành vương đầy mạng nhện và tro bụi...
Bài tựa (lời kể) của Bạch Cư Dị tới đây là hết. Nhưng theo Trường Khánh tập, sau khi được thơ của họ Bạch, Miến Miến bắt đầu nhịn ăn, mười ngày sau thì chết. Nhưng lại ngâm thơ rằng:
Nhi đồng bất thức xung thiên vật,
Mạn bả thanh nê ô tuyết mao.
Trẻ con chẳng biết “én xung thiên”,
Nở trét bùn xanh lên cánh trắng
Như vậy, phải chăng vì hai bài thơ của Bạch Cư Dị đã giết Miến Miến ? Nhưng trên thực tế, đây cũng không phải là một vụ án mạng Đường thi. Phải đâu họ Bạch không hiểu tâm sự Miến Miến ? Câu cuối trong bài Yến Tử lâu thi cho thấy ông biết nàng không có cớ chết theo Trương Kiến Phong và bài thơ tặng đóng vai một người thương xót họ Trương mà kết án đám con hát bạc tình kia chính là nhằm tạo lý do cho nàng hoàn thành sở nguyện. Và dĩ nhiên Miến Miến cũng hiểu cái ý tứ sâu xa ấy, nên trong bài Họa Bạch công, nàng đã tỏ lòng biết ơn ông bằng cách nhắc lại lời thơ "mẫu đơn" mười hai năm trước. Và chính là nhờ biết Bạch Cư Dị hiểu được tâm sự của mình, nên nàng mới ngạo nghễ nói với người đời rằng vì bị họ Bạch bôi nhọ nên nàng phải chết bằng hai câu thơ trước khi nhắm mắt. Tự ví mình bằng loài én "xung thiên" bị trẻ con trát bùn lên cánh trắng - Bạch Cư Dị có hiệu là Lạc Thiên. Nàng quy trách nhiệm cái chết của mình về ông, nghĩa là cho người sống chứ không phải về Trương Kiến Phong, để dập hết những đàm tiếu của người sau đối với người chồng mà nàng yêu thương kính trọng.
Ngư Huyền Cơ
Dịch cầu vô giá bảo, nan đắc hữu tình lang.
(Bảo vật vô giá dễ tìm, khó kiếm được người xứng đôi)
Ngư Huyền Cơ sanh trong thời Đường Võ Tông . Sinh năm 844, mất khoảng 871. Tên tự Ấu Vi, hoặc Huệ Lan, người Trường An. Ngư Huyền Cơ rất thích đọc sách và rất thông minh , 5 tuổi đã biết ngâm thơ , 7 tuổi đã biết làm văn.
Sinh thời nàng được quan Bổ khuyết là Lý Ức nạp làm thiếp, sau đó tình yêu phai nhạt, xuất gia làm đạo cô ở Hàm Nghi quán. Sau này không hiểu vì lý do gì nàng bị Kinh triệu doãn là Ôn Chương ám hại khi chưa đầy ba mươi tuổi. Thơ Ngư Huyền Cơ là những khúc ca ai oán, thấm đẫm hương vị đắm say của tình yêu đôi lứa, rất mạnh dạn trong cách biểu hiện. Có những dòng thơ khó ai ngờ một người phụ nữ giữa thời phong kiến lại dám viết ra: Hoạ kha xuân miên triêu vị túc, mộng vi hồ điệp dã tầm hoa (Giấc ngủ sớm xuân trong thuyền chưa đủ, lại mộng làm hồ điệp lướt tìm hoa). Ngư Huyền Cơ tuy tài năng và danh vọng không so được với Lý Thanh Chiếu, Chu Thục Chân thời Tống, nhưng một chữ tình trong thơ ấy, cổ kim nào có khác chi nhau...
Vương Ngọc Xuyến
Ngọc Xuyến sống vào thời nhà Đường còn hưng thịnh, là thiên kim tiểu thư của thừa tướng đương triều, sắc nước hương trời, cầm kỳ thi họa cái nào cũng tinh thông. Cô được cha nhắm gả cho hoàng thượng nhưng vì không muốn chịu cảnh ép duyên, cô đã quyết định gieo tú cầu nhờ trời định đoạt chuyện nhân duyên. Tiếc là sau đó tú cầu lại rơi vào tay một người khất thực (Tiết Bình Quý), cô phải chịu cảnh sống bần hàn một thời gian dài.
Sau này chồng cô lập được công trạng trên chiến trận nơi biên cương và được phong tước bá, cô mới trở lại với cuộc sống sung sướng như trước đây.
Cô, dù xuất thân danh giá nhưng nổi tiếng là người chịu thương chịu khó, không quản ngại vất vả phụng dưỡng mẹ già và nuôi dạy con nhỏ khi chồng xa nhà lâu ngày không phụ giúp gì được
Công Tôn Đại Nương
Công Tôn Đại Nương được xem như một bậc thầy về múa kiếm thời nhà Đường. Trong bộ võ phục, nàng chinh phục người xem bằng điệu múa khéo léo với trình độ nghệ thuật xuất chúng. Người hâm mộ nàng là các bậc uyên bác, những người được trọng vọng. Ngay cả nhà thơ Đỗ Phủ cũng đã từng làm một bài thơ để ca ngợi tài múa kiếm điêu luyện của nàng (bài Công Tôn Đại Nương đệ tử vũ kiếm khí hành).
Cá tính của Công Tôn đại nương : chỉ một đao đã vang dội tứ phương, sáng đẹp như Hậu Nghệ bắn mặt trời, kiêu hãnh như rồng bay công lượn, đến như tiếng sấm vang trời, dừng lại nhẹ nhàng như mặt biển lặng yên
Vương Ấu Ngọc
Vào cuối đời Đường , các tay thương nhân với giới quan lại đi qua vùng Tương Giang , tất cả đều biết và say mê một ca kỹ nổi danh tài sắc : Vương Ấu Ngọc . Họ bảo nhau , ai đã đến thành Hoành Dương mà chưa được nhìn Vương Ấu Ngọc , tên đó là con lừa .
Đám sĩ đại phu lại càng say mê Vương Ấu Ngọc hơn nữa vì nàng rất tinh thông văn mặc , giỏi làm thi từ . Nhiều thi sĩ tiếng tăm đương thời khuyên nàng bỏ Hoành Dương , kinh đô của thương mại để về Trường An , kinh đô của văn học và chính trị , nhưng Vương Ấu Ngọc không nghe vì thâm tâm nàng không muốn làm khôi thủ chốn phong trần mà mong kiếm một người chồng để có thể sống hạnh phúc dưới mái gia đình , chỉ hiềm nỗi chưa gặp người tri kỷ.
Vương Ấu Ngọc vừa đẹp vừa tài hoa lại vừa giàu có nên nàng rất kiêu kỳ .
Một ngày kia có kẻ phiêu lãng hào hoa tên Liễu Phú theo đám thương nhân đi từ Lạc Dương tới Lĩnh Nam , neo thuyền nghỉ tại Hoành Dương đã gặp Vương Ấu Ngọc . Chỉ một đêm thơ hoa và rượu , cả hai người bỗng yêu đến nỗi không muốn rời nhau . Vương Ấu Ngọc đề nghị nguyện làm vợ của chàng . Liễu Phú lặng thinh . Sáng hôm sau , họ chia tay . Liễu Phú nhớ Ngọc không theo thương thuyền đi Lĩnh Nam nữa , chàng ở lại Hoành Dương nhưng không tới thăm nàng , vì Liễu Phú chỉ còn tiền đủ ăn cơm trong mấy ngày thôi .
Ba bốn hôm sau , Vương Ấu Ngọc mới biết tin người yêu vẫn ở Hoành Dương nàng tức tốc đi tìm , họ gặp nhau trong niềm cảnh vừa hân hoan vừa sầu tủi . Ngồi trên thuyền thả trôi trên dòng Tương Giang , Liễu Phú giải thích lý do tại sao chàng lại lặng thinh trước lời đề nghị kết giải đồng tâm của Ngọc . Trước đây , do một chuyện bất bình , chàng đã phạm tội sát nhân , có người đàn bà chứng kiến ép buộc chàng phải lấy bà ta , nếu không sẽ đi tố giác với quan phủ . Vương Ấu Ngọc nghe xong , nàng rất vui vẻ nói có thể giải quyết chuyện đó dễ dàng bằng tiền bạc .
Ngay tối hôm ấy , Liễu Phú về Trường Sa gặp vợ con thương lượng . Vợ Liễu Phú bằng lòng bán chồng cho Vương Ấu Ngọc với giá 200 vạn tiền ( một vạn tiền giá trị một lạng vàng ) , Phú quay lại Hoành Dương cho Ngọc hay , Ngọc bán hết tư trang cộng với số tiền dành dụm đem đến đưa vợ Phú .
Hạnh phúc hai người tràn ngập thế gian . Nhưng số mệnh Vương Ấu Ngọc mỏng manh quá . Chưa được bao lâu thì cha Liễu Phú mất , Phú phải về Lạc Dương cư tang .
Lúc chia tay , Vương Ấu Ngọc bảo Liễu Phú : ” Em sẽ chờ anh , dù bao nhiêu lâu chăng nữa em vẫn chờ “. Khi Liễu Phú đi rồi , Ấu Ngọc đem châu báu đổi thành tiền , từ bỏ hẳn kỹ viện , mướn một căn nhà nhỏ vùng phụ cận Hoành Dương sống âm thầm chờ Liễu Phú .
Liễu Phú đi tới nữa năm rồi mà chẳng có một tin tức nào cả , khiến Vương Ấu Ngọc nóng ruột vô cùng . Các bạn của Ngọc cho rằng Liễu Phú là kẻ bạc tình , khuyên Ngọc nên phục xuất thi thố cái tài ca vũ thi từ . Ngọc cho rằng Liễu Phú nhất định không phải là con người phụ bạc .
Một năm trôi qua , vẫn biệt âm vô tín . Vương Ấu Ngọc cắt một lọn tóc bỏ vào phong thư , thuê người đi tìm Liễu Phú . Ưu uất tương tư đã bắt đầu làm cho Ngọc trở nên tiều tụy .
Phần Liễu Phú , chàng đâu có phải là kẻ vong tình . Khi vừa đặt chân tới Lạc Dương thì bị quan quân bắt bỏ ngục , hoàn toàn bị cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài .
Người của Ngọc cho biết chẳng tìm ra tung tích Liễu ở đâu . Chuyện tình đau khổ của Ngọc lan truyền khắp vùng Tương Giang . Ai cũng cười Vương Ấu Ngọc là ngu dại .
Đau khổ , Ngọc thành bệnh , tiền thì tiêu hết , bệnh không thuyên giảm . Có nhiều phú thương nhờ mối lái muốn kết hôn với nàng nhưng nàng vẫn một mực cự tuyệt với ý nguyện chờ Liễu Phú đến hơi thở cuối cùng .
Hết tiền , Vương Ấu Ngọc đành phải ôm đàn ra đầu đường đầu chợ đứng ca để kiếm ăn độ nhật . Giữa lúc ấy thì tin tức Liễu Phú đến với nàng , đó là một bài thơ từ phú viết từ trong ngục gửi ra như sau :
“ Nhân gian tối khổ , tối khổ thị phân ly
Quân ái ngã , ngã ái quân , thanh thảo ngạn đầu nhân độc lập
Họa thuyền đông khứ lỗ thanh trì
Sở thiên đê , hồi vọng xứ lưỡng y y
Hậu hội dã tri câu hữ nguyện , vị trí hà nhật thị giai kỳ , tâm hạ sự , loạn như tì , hảo thiên long dạ hoàn hư quá
Cô phụ ngã , lưỡng tâm tri nguyện quân gia , ai trường tại , nhất song phi “
nghĩa là :
“ Điều khổ nhất nhân gian là cảnh phân ly
Tôi yêu em , em yêu tôi , ngọn cỏ xanh mướt đầu sông một mình đứng
Ngóng trông con thuyền lặng lẽ xuôi về bên đông , tiếng bơi chèo chầm chậm .
Trời nước Sở nặng u buồn , người đứng vọng phía xa lòng cô tịch .
Ngày gặp nhau chúng ta sẽ hiểu , nhưng bao giờ chúng ta mới được hội ngộ , tâm sự rối bòng bong , hôm nay đêm mai trôi mãi .
Dù em có phụ tôi thì tâm hồn tôi vẫn nguyện được cùng em như chim liền cánh “.
Vương Ấu Ngọc đọc thuộc bài từ , biết người yêu còn nhớ đến mình , sung sướng hôm ấy nàng cất tiếng ca âm thanh thống thiết , ai nghe cũng rơi lệ . Nửa tháng sau , Vương Ấu Ngọc chết , trong cây đàn người ta tìm thất bài từ ai oán kia .
Tin Vương Ấu Ngọc chết làm cả thành Hoành Dương xôn xao , bạn bè cùng những người ái mộ nàng mỗi người quyên góp ít tiền xây cho Ấu Ngọc một ngôi mộ tuyệt đẹp với tấm bia đề : “ Liễu thị phu nhân chi mộ “
Nghi Thành Công chúa
Cô công chúa này tính tình rất nóng nảy cũng rất gan lì, việc gì cũng rất quyết đoán, không hề chần chừ.
Khi Nghi Thành Công chúa tới tuổi gả chồng, Lý Hiển vẫn chưa lên ngôi hoàng đế.
Vì thế, khi xuất giá về nhà chồng, phong hiệu của Nghi Thành Công chúa vẫn là Nghĩa An Quận chúa. Ngoài ra, do Nghi Thành Công chúa không phải là do Vỹ Hoàng hậu sinh ra, thuộc nhành thứ, vì thế so với các công chúa nhành chính, chế độ đãi ngộ của Nghĩa An Quận chúa luôn bị kém hơn một bậc.
Tuy nhiên, dù tước phong chỉ là quận chúa, không được uy phong như công chúa, tuy nhiên, Nghĩa An Quận chúa không hề vị vậy mà cảm thấy thân phận mình thấp kém hơn kẻ khác.
Sau khi kết hôn, Nghĩa An Quận chúa cũng tuân theo lễ pháp, khi phải đến chào bố mẹ chồng thì đến chào, còn không có việc gì thì lo việc của mình.
Trong một khoảng thời gian dài tưởng như là cuộc sống trôi qua yên ả không có việc gì trọng đại.
Chẳng bao lâu sau đó, Lý Hiển lên ngôi hoàng đế. Nghĩa An được phong làm Nghi Thành Công chúa. Chồng của Nghĩa An Quận chúa tên là Bùi Tốn.
Chức vị của Bùi Tốn không phải cao, chỉ làm một chức gọi là Ti thương Tham quân ở Quân Châu. Sau khi kết hôn không bao lâu, Nghi Thành Công chúa cảm thấy chồng mình có điều gì đó không bình thường.
Cô cảm thấy chồng có điều gì đó bất mãn với mình, trong lời nói luôn bóng gió xa xôi có ý mỉa mai. Nghĩ tới nghĩ lui, Nghi Thành Công chúa bắt đầu cảm thấy nghi ngờ, cho rằng chồng mình có người phụ nữ khác ở bên ngoài.
Bởi lẽ, nếu không làm sao lại có thái độ như vậy với mình được. Nghĩ vậy, Nghi Thành Công chúa thầm mắng rằng: “Người giỏi lắm Bùi Tốn.
Ngươi dám làm việc có lỗi với ta sao? Ta dù là công chúa nhưng vẫn giữ trọn nghĩa vụ 1 người vợ còn ngươi thì lại ở bên ngoài tìm người đàn bà khác. Chuyện lăng nhăng của ngươi mà để ta bắt được tận mặt thì ta sẽ cho người biết mặt ”.
Sau khi đã đinh ninh như vậy, Nghi Thành Công chúa bắt đầu để ý dò xét chồng. Mọi việc sau đó diễn ra thuận lợi hơn dự tính của Nghi Thành Công chúa.
Bởi lẽ, người phụ nữ mà Bùi Tốn “phải lòng” chẳng phải ai khác mà chính là 1 cô người hầu xinh đẹp ở ngay trong nhà của họ.
Vì thế, chẳng phải tốn nhiều công sức, Nghi Thành Công chúa đã bắt tại trận đôi gian phu, dâm phụ ở ngay trên giường nhà mình.
Chỉ nghe 2 tiếng “rầm rầm”, cửa phòng bị đạp tung, Bùi Tốn nhìn lên thì thấy Nghi Thành Công chúa đang “nộ khí xung thiên” xông vào.
Bùi Tốn vội vàng bật người dậy vớ lấy quần áo, trong lòng run sợ không biết nên nói thế nào với vợ. Năn nỉ vợ xin tha thứ rồi đuổi quách cô người tình xinh đẹp đi hay là cương quyết bất chấp thái độ của vợ, cưới cô người hầu làm thiếp.
Tuy nhiên, Bùi Tốn nhanh chóng nhận ra rằng, dù cưới nhau đã lâu song ông ta vẫn không hề hiểu người vợ xuất thân cao quý của mình.
Trong lúc Bùi Tốn vẫn còn đang lần khần không biết nên mở lời thế nào với vợ thì Nghi Thành Công chúa tay đã sẵn dao nhọn xông vào xẻo luôn tai và mũi của “tình địch”.
Vừa động thủ, Nghi Thành vừa nghiến răng nói: “Ta xem ngươi sau này làm sao còn làm hồ li tinh được nữa”.
2. Sau khi giải quyết xong “hồ li tinh”, Nghi Thành Công chúa cầm con dao còn dính đầy máu tươi xông thẳng lại phía Bùi Tốn. Bùi Tốn sợ quá, vội vàng nhảy sang một bên để tránh.
Tuy nhiên, con dao nhọn trên tay Nghi Thành Công chúa vẫn kịp cắt đứt một đám tóc trên đầu của Bùi Tốn.
Trong lúc chạy quanh lẩn trốn, Bùi Tốn vẫn nhìn thấy vật mà Nghi Thành Công chúa cầm trên tay trái. Hóa ra, đó chính là một mảng da người mà cô công chúa bạo liệt Nghi Thành xẻo ra từ trên người của cô “tình địch”.
Bùi Tốn sợ quá, không biết Nghi Thành Công chúa còn dám làm gì với mình, đành đánh liều xông ra cửa, gọi lớn: “Người đâu! Người đâu! Mau đến đây!”
Những người hầu nghe thấy có tiếng gọi của chủ lập tức chạy tới. Bùi Tốn ngay lập tức trốn sau lưng những người hầu rồi run rẩy chỉ Nghi Thành Công chúa lẩm bẩm: “Cô ta… cô ta… định giết ta”.
Những người hầu vẫn chưa hiểu chuyện gì, chỉ thấy bà chủ đang vô cùng giận dữ, nộ khí xung thiên, tay lăm lăm con dao nhọn đầy máu thì thấy rằng có lẽ ông chủ nói đúng, vì vậy chúng tìm mọi cách để bảo vệ cho ông chủ, ngăn cản Nghi Thành Công chúa lại.
Nghe Bùi Tốn nói mình định giết chồng, Nghi Thành Công chúa cười nói: “Ta giết chàng làm gì? Yên tâm, ta sẽ không giết chàng.
Tuy nhiên, ta nhất định sẽ cho cả thiên hạ biết chuyện tốt đẹp mà chàng đã làm”. Nói xong, Nghi Thành Công chúa bước ra ngoài, chẳng thèm nhìn Bùi Tốn lấy nửa con mắt.
Bùi Tốn nhìn sau lưng thấy Nghi Thành Công chúa bỏ đi, cảm thấy bản thân mình hoàn toàn không hiểu nổi cô vợ này. Rốt cuộc, Nghi Thành Công chúa muốn làm gì? Nghĩ tới đây, Bùi Tốn không khỏi cảm thấy rùng mình. Đáp án rất nhanh chóng được làm sáng tỏ.
Chẳng tới 10 phút sau, Đường Trung Tông Lý Hiển biết tin vội vàng tìm tới nhà của Nghi Thành Công chúa.
Nghi Thành kéo Bùi Tốn tới trước mặt cha mình, kể lại mọi chuyện đã xảy ra, ngôn ngữ rất nhẹ nhàng, không hề có chút giận dữ nào, dường như mọi chuyện không phải là chuyện của mình.
Sau khi kể xong, Nghi Thành Công chúa mới đưa tay ra phía trước nói: “À, còn đây chính là người phụ nữ mà anh ta đã dan díu”. Nói xong, Nghi Thành Công chúa lấy miếng da cắt ở người tình địch đặt lên mặt của Bùi Tốn.
Trung Tông Lý Hiển nhìn thấy cảnh đó cũng toát mồ hôi, sau đó giận dữ vô cùng, lập tức hạ lệnh giáng Nghi Thành Công chúa xuống làm huyện chúa, Bùi Tốn cũng bị giáng chức.
Tuy nhiên, có lẽ, sau đó, Đường Trung Tông cảm thấy người sai nhiều hơn là Nghi Thành Công chúa vì thế đã thăng quan cho Bùi Tốn. Sau khi mọi chuyện đã qua đi trong một thời gian khá dài, Trung Tông mới khôi phục tước hiệu công chúa cho Nghi Thành.
Cuộc sống giữa 2 vợ chồng Nghi Thành và Bùi Tốn sau đó ra sao thì không thấy sử sách ghi chép cụ thể. Tuy nhiên, có thể đoán định rằng, sau chuyện đánh ghen này, nhất định Bùi Tốn sẽ hiểu rõ tính cách của vợ mình hơn vì thế mà bớt trăng hoa hơn.
Trước khi Nghi Thành Công chúa qua đời, dường như không có nhiều chuyện trăng hóa của Bùi Tốn được truyền ra ngoài. Nếu như có, với tính cách của mình, có lẽ Nghi Thành Công chúa cũng chẳng thể để cho Bùi Tốn được yên.
Đỗ Thu Nương
Đỗ Thu Nương thực chất là 1 ca nữ chốn lầu xanh ở Kim Lăng (tức Nam Kinh ngày nay).
Nàng có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, dù không hề trang điểm cũng xinh đẹp hơn hẳn người thường. Thêm vào đó, Đỗ Thu Nương lại có tài nói năng, thơ ca, đàn hát đều xuất sắc.
Vì thế, dù là con hát chốn lầu xanh nhưng Đỗ Thu Nương là đối tượng mà nhiều công tử quý tộc trong vùng theo đuổi. Lý Kỳ khi đó đang là Trấn Hải Tiết độ sứ nghe nói đến sắc đẹp của Đỗ Thu Nương thì tìm đến tận nơi để gặp mặt.
Vừa nhìn thấy Đỗ Thu Nương lần đầu tiên, Lý Kỳ đã say mê người ca nữ này vì thế không tiếc tiền của bỏ ra mua Đỗ Thu Nương về phủ làm thiếp.
Lúc bấy giờ, Tiết độ sứ thực tế là một phiên Vương, là người đứng đầu một vùng, vì vậy, Đỗ Thu Nương vui vẻ chấp nhận trở thành tỳ thiếp của Lý Kỳ.
Khi Lý Kỳ lấy Đỗ Thu Nương về làm thiếp, ông ta mới chỉ 27 tuổi, trong khi Đỗ Thu Nương mới chỉ 15. Trong phủ của Lý Kỳ, người đẹp không thiếu, song không ai có thể so sánh với Đỗ Thu Nương.
Sau khi Lý Kỳ chết, Đỗ Thu Nương cùng với những người phụ nữ khác trong nhà họ Lý bị đưa vào cung. Tuy nhiên, nhờ có nhan sắc hơn người, Đỗ Thu Nương 1 lần nữa lại lọt vào mắt xanh của Hiến Tông Lý Thuần.
Lý Thuần rất mực sủng hạnh Đỗ Thu Nương, ban tặng Đỗ Thu Nương tên mới gọi là Đỗ Trọng Dương, phong cho làm chức nữ quan trong hậu cung.
Năm Nguyên Hòa thứ 15, hoạn quan Trần Hoằng Chí đã dùng độc giết chết Hiến Tông. Lý Hằng, con của Quách thị lên ngôi vua, sử gọi là Mục Tông
Lúc bấy giờ Đỗ Thu Nương đã ngoài 30 tuổi, tuy nhiên, nhan sắc không hề giảm sút, ngược lại có phần đằm thắm hơn xưa, vì thế, Đỗ Thu Nương lại được Mục Tông sủng hạnh.
Để che đậy chuyện này, Mục Tông sắc phong cho Đỗ Thu Nương làm bảo mẫu kiêm gia sư cho Hoàng tử Chương Vương.
Tuy nhiên, Mục Tông cũng giống như cha mình, chẳng sống được bao lâu đã về gặp tổ tiên. Đỗ Thu Nương sau đó lại tiếp tục trải qua hai đời vua nữa là Kính Tông và Văn Tông.
Năm Thái Hòa đời vua Văn Tông, Chương Vương bị vu cáo nên bị phế, Đường Văn Tông hạ chiếu cho Đỗ Thu Nương trở về quê sinh sống. Những năm cuối đời, Đỗ Thu Nương phải sống trong cảnh nghèo đói và thiếu thốn. Mỹ nhân từng làm điêu đứng cả 2 ông vua triều Đường rốt cuộc phải nhận lấy một số phận đầy bi kịch.
Hoa Nhị Phu Nhân
Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn từng ngưỡng mộ tài danh của Hoa Nhị Phu Nhân. Hoa Nhị Phu Nhân là Phí Quý Phi của Hậu Thục Hậu Chủ - Mạnh Xưởng, xuất thân là 1 ca kỹ ở Thanh Thành (nay ở phía Đông Nam thành phố Giang Yển).
Tương truyền “Hoa Nhị Phu Nhân Cung Từ” có hơn 100 biến, trong đó thật ra chỉ có hơn 90 biến. Khi Tống diệt Hậu Thục, chỉ dùng có 1 vạn quân, 14 vạn quân Hậu Thục không chiến mà hàng, Hoa Nhị Phu Nhân theo Mạnh Xưởng lưu vong về phương bắc, đêm nghỉ ở Gia Minh dịch trạm, cảm hoài nỗi buồn nước mất nhà tan, đề lên vách quán bài “Thái Tang Tử”. Nhưng vì quân kỵ thôi thúc nên bị mất hết một nửa, cứ viết được 1 chữ lại rơi lệ.
Lý Sư Sư
Theo giai thoại dân gian thì Lý Sư Sư là người Biện Kinh, cha là một thợ nhuộm tên là Vương Dần. Mẹ mất ngay khi mới sinh, cha nàng chỉ dùng sữa đậu nành để nuôi lớn. Đến 4 tuổi thì cha cũng qua đời, vì vậy Lý Sư Sư lưu lạc từ nhỏ, được một gia đình họ Lý nhận nuôi nên mới cải danh là Lý Sư Sư.
Với nhan sắc trời phú và tài hoa, Lý Sư Sư nhanh chóng trở thành một danh kĩ thời Bắc Tống, nổi tiếng dịu dàng, phong nhã. Nhiều danh sĩ cũng từng giao thiệp với nàng như Chu Bang Ngạn và Triều Xung Chi đến nhà đàm luận văn chương, trao đổi thi từ. Tống Huy Tông nghe danh nàng, cũng tìm đến: "Danh kĩ Lý Sư Sư ở ngõ Kim Tuyến trong thành Đông Kinh, tài nghệ và dung mạo đều tuyệt trần. Huy Tông từ những năm Chính Hòa về sau, thường vi hành ngồi kiệu nhỏ, với vài nội thần dẫn đường đến chơi nhà Lý Sư Sư.
Năm Tuyên Hòa thứ 7 (1125), khiếp sợ trước áp lực của quân Kim, Tống Huy Tông từ ngôi, truyền vị lại cho Thái tử Triệu Hoàn. Lý Sư Sư vì thế cũng bị thất sủng. Có giai thoại cho rằng Lý Sư Sư từng được Tống Huy Tông phong làm Doanh Quốc Phu nhân, Lý Minh phi; nay mất chỗ dựa, bị phế làm thứ dân, và đuổi khỏi cung, nhà cửa, gia sản đều bị tịch biên. Một giai thoại khác cho rằng nàng đã "đem hết của cải được ban tặng khi xưa, giao nộp cho phủ doãn Khai Phong, xung vào của công để giúp quân lương ở Hà Bắc".
Năm Tĩnh Khang thứ 2 (1127), quân Kim công phá Biện Kinh. Từ đó, không còn ai nghe tung tích của nàng nữa.
Những câu chuyện về Lý Sư Sư tuy không thấy trong chính sử, nhưng trong dã sử hay các thoại bản dân gian thì có thể thấy rất đầy đủ và sinh động. Trong "Thuỷ Hử Truyện", tác giả sách này đã viết về Lý Sư Sư với quan hệ mật thiết tới việc chiêu an các anh hùng Lương Sơn Bạc, và nhờ vậy mà cô đã trở thành một nhân vật phong lưu tột bực trong những năm Chính Hoà thời Tống Huy Tông. Về sau, cô lại trở thành một hình mẫu đặc thù cho các văn nhân mượn để châm biếm những ông vua hoang dâm vô độ. Sử Mộng Lan đời Thanh có bài thơ: "Vi Tống diễm đề từ" (Đề từ cho bức tranh người đẹp đời Tống) như sau:
Tống sử cao tiêu đạo học danh,
Phong lưu thiên tử khước đa tình.
An An Đường dữ Sư Sư Lý,
Tận đắc thừa ân nhập cấm thành.
(Tạm dịch:
Tống sử nêu cao người học đạo,
Phong lưu thiên tử cũng đa tình.
An An Đường với Sư Sư Lý,
Đều được ơn vua đến Cấm thành.)
Chu Thục Chân
Nữ từ nhân nổi tiếng thời Đường, hiệu xưng U Thê Cư Sĩ, được biết là một tài nữ người ở Tiền Đường thời Tống, thi từ đều giỏi, đương thời chỉ có nàng mới xứng tề danh với Lý Thanh Chiếu. Tác phẩm tiêu biểu có “Đoạn Trường Tập” và “Đoạn Trường Từ” được lưu truyền, nổi tiếng nhất là “Điệp Luyến Hoa”.
Chu Thục Chân có cuộc đời khá u sầu. Nguyên nàng có một ý trung nhân lý tưởng, cũng là người tài hoa mà nàng tự quen biết. Nhưng phụ mẫu không cho phép nàng kết hôn với ý trung nhân của mình, mà gả nàng cho 1 thương nhân. Chồng nàng là người chỉ biết kiếm tiền, đối với thi từ và tranh vẽ của nàng đều không có hứng thú, vì vậy mà cuộc sống của nàng lúc nào cũng đầy u sầu và tẻ nhạt
Lý Phượng Nương
Vợ của Tống Quang Tông tên gọi là Lý Phượng Nương, vốn là con nhà võ, vì thế tính cách vô cùng chua ngoa và đanh đá. Một người phụ nữ như vậy, vì sao lại được đưa vào hoàng cung? Nguyên nhân chỉ là một câu nói của vị đạo sĩ có tên là Hoàng Phủ Thản.
Khi lần đầu tiên nhìn thấy Lý Phượng Nương, Hoàng Phủ Thản giật mình nói: "Cô gái này có tướng đại quý, ngày sau nhất định sẽ trở thành bậc mẫu nghi thiên hạ".
Cha của Lý thị nghe thấy vậy, gật gù nói, chẳng trách, khi Lý thị sinh ra đời, có một con phượng hoàng màu đen bay tới nhà (có lẽ là một đám mây màu đen?). Hai người đàn ông có tuổi nhàn rỗi đã ngồi bàn với nhau tới nửa ngày về chuyện này.
Những tưởng chuyện chỉ nói vậy cho vui, nào ngờ, mọi chuyện lại xảy ra đúng như những gì Hoàng Phủ Thản dự đoán. Vào những năm cuối thời kỳ trị vì của vua Cao Tông nhà Tống, Hoàng Phủ Thản được triệu vào cung để xem bệnh cho thái hậu.
Nhờ chữa được bệnh cho thái hậu, Hoàng Phủ Thản rất được Cao Tông tin sủng. Lúc bấy giờ, vua Cao Tông đang tìm vợ cho đứa cháu thừa tự của mình. Hoàng Phủ Thản biết chuyện liền tiến cử Lý Phượng Nương.
Hoàng Phủ Thản ba hoa một hồi về những điềm lạ khi Lý thị sinh ra đời, tán tụng đủ thứ từ nhan sắc tới tính cách của cô con gái nhà họ Lý. Cao Tông nghe lời Hoàng Phủ Thản, cho là thật, cảm giác như lấy được Lý thị là hoàng thất họ Triệu đã lấy được một con phượng hoàng. Lý Phượng Nương đúng là một con phượng hoàng, chỉ đáng tiếc, đó là một con phượng hoàng đen.
Thông thường, một "cô gái lọ lem" khi bước chân vào nhà giàu có sẽ ngại ngùng, không dám ăn, không dám nói, huống hồ đó là hoàng cung. Tuy nhiên, Lý Phượng Nương dường như chẳng biết sợ là gì. Vào cũng chưa được bao lâu, Lý thị mang thai rồi sinh con trai.
Vợ sang nhờ chồng, mẹ quý vì con, đến khi chồng được phong làm thái tử, Lý Phượng Nương càng thêm đắc chí. Tương lai, ta đã là đệ nhất phu nhân, vậy việc gì ta lại phải khiêm nhường nữa? Vì thế, trước mặt Cao Tông, Lý Phượng Nương quát mắng cả Hiếu Tông.
Trước mặt Hiếu Tông, Lý thị nũng nịu vạch tội cả thái tử, tức chồng mình. Trước mặt thái tử thì Lý Phượng Nương càng chẳng nể nang gì. Cứ như vậy, ba người đàn ông họ Triệu, một người là hoàng đế đã nghỉ hưu, một người là đương kim hoàng đế và một người là hoàng đế tương lai, bị một cô con gái nhà võ xoay như chong chóng.
Tới lúc này, Cao Tông mới như thức tỉnh: Lý Phượng Nương vốn là con gái nhà võ tướng, thiếu hẳn sự nền nếp gia giáo, Hoàng Phủ Thản làm hại ta rồi. Tuy nhiên, Cao Tông là phận ông, mà lại chẳng phải là ruột thịt vì Hiếu Tông chỉ là con nhận làm thừa tự của Cao Tông mà thôi, vì thế, vào lúc này nói điều gì cũng không thích hợp.
Cao Tông không thể nói nhưng ông bố chồng là Hiếu Tông thì nhịn không nổi nữa. Cô con dâu hoành hành bá đạo trong hậu cung, gây ra đủ chuyện thị phi, chẳng con 3 đời hoàng đế ra gì, làm sao có thể nhịn được?
Vì thế, một hôm, Hiếu Tông cho gọi con dâu tới dạy dỗ, nói: Con phải chịu khó học theo sự hiền đức của thái hậu đừng làm chuyện bậy bạ, khiến hậu cung thêm loạn nữa. Nếu không, ta sẽ phế tước vị thái tử phi của con.
Đáng tiếc, những lời của Hiếu Tông Hoàng đế không dọa được cô con dâu Lý Phượng Nương. Đợi tới lúc Hiếu Tông thoái vị, Lý Phượng Nương càng tác oai tác quái hơn. Cũng đúng, lúc ông tại vị, quyền sinh quyền sát trong tay ông, tôi còn không sợ, giờ ông đã về hưu, việc gì tôi phải sợ?
Một lần, Lý Phượng Nương nổi giận đánh một cung nữ. Thái hậu nhìn thấy, nhịn không nổi mới muốn khuyên Lý thị dừng lại. Lý Phượng Nương không những không dừng lại mà còn quay lại quát cả thái hậu: Ta và hoàng thượng kết làm vợ chồng, danh chính ngôn thuận. Nay ta thay hoàng thượng dạy dỗ nô tì trong nhà lại có gì sai hay sao?
Ẩn ý trong câu nói của Lý Phượng Nương là thái hậu vốn không phải là vợ cả của Hiếu Tông, vì thế, một người vợ bé thì không nên quản việc của nhà con dâu làm gì. Hiếu Tông Hoàng đế lúc đó đang đứng ở bên, nghe Lý Phượng Nương nói vậy thì giận lắm, nghiêm mặt cảnh cáo Lý thị:
Nếu tiếp tục làm càn như vậy thì ta sẽ phế bỏ ngươi! Thực tế, lúc đó, Hiếu Tông định làm thật chứ không phải là đùa giỡn. Bởi lẽ, ngay sau đó, Hiếu Tông cho gọi thái sư tới để thương lượng việc này.
Tuy nhiên, các đại thần trong triều đều khuyên rằng, việc trong nhà nên giải hòa chứ không nên phá bỏ như vậy, hơn nữa, vua Quang Tông chỉ vừa mới lên ngôi chưa được bao lâu, nay lại có chuyện phế bỏ hoàng hậu, sẽ không có lợi cho việc ổn định triều đình. Cũng vì thế, việc phế hậu tạm thời bị gác lại.
Chồng đã làm hoàng đế, tiếp theo, con trai phải trở thành thái tử. Bởi lẽ, chỉ có như vậy thì Lý Phượng Nương mới có thể yên vị với vị trí mẫu nghi thiên hạ của mình. Vì thế, Lý thị thúc giục chồng mình nhanh chóng quyết định việc lập thái tử.
Quang Tông đem chuyện này bàn với Hiếu Tông, có điều, Hiếu Tông nhất định không đồng ý. Lý Phượng Nương biết chuyện, giận tới tím mày tím mặt, chạy tới chất vấn Hiếu Tông: Tôi được họ Triệu các người mai mối rước về đàng hoàng, con trai tôi cũng là do hoàng đế sinh ra, lại là con trưởng vì sao không thể lập làm thái tử?
Bị con dâu trở mặt, mắng như tát nước, Hiếu Tông Hoàng đế giận tới mức không nói được câu nào. Phế bỏ cũng không được, trị tội cũng không được, không thể làm gì cô con dâu ngang ngược, Hiếu Tông rất buồn. Thế rồi uất ức, buồn tủi tích tụ lâu ngày không được giải tỏa, tới mức Hiếu Tông phát điên.
Cô con dâu ngang ngược tới như vậy, nguyên nhân chủ yếu là do con trai mình. Thông thường, đã là một vị hoàng đế, chúa tể cả thiên hạ thì việc gì phải sợ vợ, quá đáng quá thì phế bỏ, cưới một cô vợ mới là xong.
Tuy nhiên, Quang Tông trong suốt nhiều năm đã bị vợ "tẩy não", coi chuyện "sợ vợ" như một phẩm chất tốt, không hề có ý phản kháng chứ đừng nói tới chuyện phản kích.
Một lần, khi đang rửa tay, Quang Tông phát hiện đôi tay của một cung nữ hầu mình vừa trắng lại vừa nõn nà, không kìm được lòng mới nhìn vài lần, khen ngợi vài câu và có lẽ cũng hôn một cái. Nào ngờ, mấy ngày sau, Lý Phượng Nương sai người mang tặng cho Quang Tông một cái hộp. Quang Tông vừa mở hộp ra xem thì suýt ngã ngửa vì bên trong hộp là một bàn tay còn bê bết máu tươi.
Quang Tông từ nhỏ đã được cưng chiều, có lẽ đến việc giết gà cũng không biết làm như thế nào, giờ nhìn thấy một bàn tay người đầy máu tươi như thế, làm sao không kinh hoàng cho được.
Quang Tông sau đó bị ốm một trận nặng, nằm liệt trên giường suốt nhiều ngày liền không dậy nổi. Một ông vua sợ vợ tới mức như vậy thì liệu còn có thuốc chữa hay không?
Tuy nhiên, chuyện đôi tay của cô cung nữ cũng chỉ là chuyện nhỏ, vì dẫu sao một cung nữ cũng chẳng có thân phận gì lớn lắm. Tuy nhiên, Quang Tông thì tới cả người thiếp yêu của mình cũng không bảo vệ nổi.
Một ngày nọ, Quang Tông chủ trì việc tế trời đất nên không thể về cung. Lý Phượng Nượng nhân lúc Quang Tông ở ngoài, mượn cớ giết chết Hoàng Quý phi, một người thiếp rất được Quang Tông sủng ái và còn kịp thời báo cáo với Quang Tông rằng:
Hoàng Quý phi đột tử! Quang Tông biết rõ, Hoàng Quý phi vì sao mà chết nhưng không dám nói, chỉ biết buồn buồn tủi tủi, khóc thầm một mình.
Có lẽ vì có một đứa cháu nhu nhược như vậy, liệt tổ liệt tông của họ Triệu cũng cảm thấy phần nào xấu hổ. Trong lần tế lễ hôm ấy, một loạt sự cố nảy sinh: Đầu tiên đài tế lễ bỗng nhiên phát hỏa, xém chút nữa thiêu chết cả Quang Tông.
Ngay sau đó, trời lại nổi giông bão, rồi lại mưa đá khiến buổi tế lễ của Quang Tông tan hoang, tơi tả như đi đánh trận thất bại trở về. Quang Tông trải qua những việc khủng khiếp do Lý Phượng Nương gây ra, bản thân đã khiếp hãi lắm rồi, nay lại bị thần linh trách mắng, càng nghĩ càng thấy sợ hơn.
Tinh thần ngày một suy sụp, chẳng bao lâu sau, Quang Tông cũng theo cha mình, mắc phải chứng bệnh thần kinh, cả ngày cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ.
Sơn Âm công chúa
Sơn Âm công chúa Lưu Sở Ngọc là con gái của Nam Tống Hiếu Vũ đế Lưu Tuấn. Mẹ nàng là Văn Mục hoàng hậu Vương Hiến Nguyên – người đã hạ sinh cho Hiếu Vũ đế hai trai, bốn gái, gồm: Phế đế Lưu Tử Nghiệp, Dự Chương vương Lưu Tử Thượng, Sơn Âm công chúa Lưu Sở Ngọc, Lâm Hoài Khang Ai công chúa Lưu Sở Bội, Hoàng nữ Lưu Sở Tú và Khang Lạc công chúa Lưu Tu Minh. Những người con của Văn Mục hoàng hậu đều sở hữu dung mạo anh tú hoặc xinh đẹp mỹ miều. Trong số bốn nàng công chúa cùng mẹ sinh ra, Lưu Sở Ngọc tức Sơn Âm công chúa chính là người nổi trội hơn cả. Tuy nhiên, điểm khiến ít ai quên được nàng công chúa này chính là sự "háo dâm" vô độ. Một trong những điển tích nhắc tới nàng công chúa này chính là mối tình loạn luân với hoàng đế Lưu Tử Nghiệp, cũng chính là em trai của Sơn Âm công chúa. Sau khi Lưu Tử Nghiệp lên ngôi vua lúc 16 tuổi, mặc dù Sơn Âm công chúa đã lấy chồng vẫn thường xuyên vào cung để hưởng thụ thú vui xác thịt với em trai mình. Chồng của Sơn Âm công chúa bị nàng công chúa hoang dâm và vị vua dâm loạn bày kế hại chết để thoải mái quay cuồng trong dục vọng. Sau này để thỏa mãn cho thú vui của mình, Sơn Âm còn tuyển thêm 30 mỹ nam hằng ngày phục vụ. Trong lịch sử kể lại, Sơn Âm còn say đắm Trử Uyên vốn là chú dượng, chồng của cô ruột Sơn Âm công chúa. Tuy nhiên, người chú ruột chính trực đã thể hiện sự kiên định của mình không mảy may xiêu lòng trước mọi chiêu trò gạ gẫm của Sơn Âm.
Đường Uyển
Đường Uyển, người Âm Sơn (Việt Châu) thời Nam Tống là biểu muội của Lục Du.
2 người là thanh mai trúc mã, sau đấy kết thành vợ chồng. Về sau do sự phản đối của Lục mẫu nên 2 người đành chia tay. Sau đó, Lục Du kết duyên cùng 1 cô gái họ Vương. Còn Đường Uyển thì gả cho Triệu Sĩ Trình.
Trong 1 lần tình cờ, 2 người lại gặp nhau, tình ý ngày xưa lại chứa chan. 2 người bèn cùng nhau làm bài “Thoa đầu phượng” để tỏ tình ý của mình:
Hồng tô thủ, hoàng đằng tửu, mãn thành xuân sắc cung tường liễu
Đông phong ác, hoan tình bạc, nhất bôi sầu tự, kỷ niên ly tố
Thác! Thác! Thác
Xuân như cựu, nhân không sấu, lệ ngân hồng ấp giao tiêu thấu
Đào hoa lạc, nhàn trì các, sơn minh tuy tại, cẩm thư nang thác
Mạc, mạc, mạc
(Lục Du)
Thế tình bạc, nhân tình ác, vũ tống hoàng hôn hoa dịch lạc.
Hiểu phong can, lệ ngân tàn, ý giam tâm sự, độc ngữ tà nan.
Nan, nan, nan !
Nhân thành các, kim phi tạc, bệnh hồn thường tự thu thiên tác.
Giác thanh hàn, dạ lan san, phạ nhân tuân vấn, yết lệ trang hoan.
Mãn, mãn, mãn !
(Đường Uyển)
Vì nỗi nhớ nhung da diết ấy mà không lâu sau nàng sinh bệnh rồi mất. Lục Du hay tin như sét đánh ngang tai, mấy phen khóc đến chết đi sống lại. Từ đó về sau, cái tên Đường Uyển đã trở thành 1 đề tài quen thuộc trong sáng tác văn chương của Lục Du. Mãi đến khi 84 tuổi ông vẫn không quên người vợ, người tri kỷ lúc đầu của mình. Người đời đánh giá đây chính là 1 mối tình “thiên cổ hận”.
Lương Hồng Ngọc
Lương Hồng Ngọc là vợ của tướng quân Hàn Thế Trung đời Nam Tống, không rõ năm sinh. Bà sinh ra trong một gia đình nghèo khó, phải bán mình làm kỹ nữ. Nói đến Lương Hồng Ngọc, bà không những nổi tiếng vì là mẹ hiền vợ thảo, mà còn là một chiến lược gia tài năng. Không ít lần, bà đã giúp Hàn Thế Trung đánh trận giành thắng lợi.
Tương truyền vào đời hoàng đế Tống Cao Tông. Quân Kim thường xuyên đem quân xâm chiếm, năm 1129, hoàng tử nước Kim là Ngột Truật mang đại quân 10 vạn binh lính đánh Giang Nam, thế lực vô cùng mạnh, Tống Cao Tông sợ hãi bỏ chạy về Ôn Châu. Lúc đó, Thế Trung được lệnh đóng quân ở sông Trường Giang để đón đánh địch. Mặc dù ở thế chủ động, nhưng chỉ có vẻn vẹn 8000 quân, làm sao để đánh bại được 10 vạn quân Kim. Lương Hồng Ngọc bèn nghĩ ra cao kế, bà bàn với Thế Trung cố ý giăng đèn kết hoa mở hội ở Tú Châu để đánh lạc hướng quân Kim, một mặt, bà bảo chồng mang quân bí mật phục ở sông Trường Giang. Đúng như Hồng Ngọc dự tính, khi quân của Ngột Truật rút về tả ngạn sông Trường Giang, mải mê hướng về hội đèn hoa, không mảy may chuẩn bị. Lúc ấy, Thế Trung tung 8000 quân ra chặn đánh, quân Kim không kịp trở tay, thảm bại trong tay số quân lính ít ỏi của Thế Trung. Quân Tống đại thắng, Hàn Thế Trung từ đó ngày càng khâm phục vợ hơn, càng hay hỏi han bà về binh thư sách lược. Bà được suy tôn là 1 trong 3 nữ tướng quân vĩ đại trong lịch sử Trung Hoa.
Mạnh Lệ Quân
Mạnh Lệ Quân con gái của đại phu Mạnh Sĩ Nguyên trấn Thúy Trúc. Mạnh Lệ Quân rất thông minh, tuy là con gái nhưng kinh thi, bách gia chư tử đều thuộc, tinh thông y thuật, cầm, kì, thi, hoạ. Nàng không thích chuyện thêu thùa mà chỉ thích cải nam trang ra ngoài chơi. Tình cờ, nàng kết giao bằng hữu với Thiết Mộc Nhĩ và Hoàng Phủ Thiếu Hoa. Thiết Mộc Nhĩ vốn là đại hãn tương lai của nhà Nguyên. Trong lần đi xuống Giang Nam để tìm thuốc cho cha, anh đã gặp gỡ và yêu thương Mạnh Lệ Quân. Còn Hoàng Phủ Thiếu Hoa là một anh chàng ngốc nhưng rất giỏi võ nghệ cũng là người có đính ước với Mạnh Lệ Quân từ khi còn nhỏ. Do sự hiểu nhầm, Mạnh Lệ Quân đã lầm tưởng người cô yêu là Thiết Mộc Nhĩ. Cùng lúc đó, cha mẹ Mạnh Lệ Quân và Hoàng Phủ Thiếu Hoa lại chuẩn bị tác hợp cho hai người thực hiện lời giao ước trước đây. Trong vùng có tên ác bá là Lương Khuê Bích nghe đồn về Mạnh Lệ Quân cậy thế cha là thừa tướng đương triều đã đem sính lễ đến đòi cưới nàng. Mạnh Sĩ Nguyên rất khó xử đành mở cuộc thi bắn cung kén rể. Cuối cùng Hoàng Phủ Thiếu Hoa thắng cuộc. Lương Khuê Bích uất ức bày mưu hại Thiếu Hoa nhưng may mắn chàng được Lương Yến Ngọc, em gái cùng cha khác mẹ của Lương Khuê Bích cứu. Từ đó Lương Yến Ngọc đem lòng yêu Thiếu Hoa.
Về phần Mạnh Lệ Quân, nàng không đồng ý với cuộc hôn nhân do cha mẹ xắp xếp nên đã bỏ lên kinh thành tìm Thiết Mộc Nhĩ. Lương Khuê Bích đã vu oan cho cha của Hoàng Phủ Thiếu Hoa nhằm đạt được mục đích lấy được vợ đẹp. Cuối cùng nhà họ Mạnh đành phải gả nàng Tô Ánh Tuyết thay thế. Trong ngày tân hôn Ánh Tuyết đã nhảy sông tự tử và trôi dạt vào thuyền của một vương gia, họ đã nhận nàng là con nuôi. Thiết Mộc Nhĩ nghe danh Mạnh Sĩ Nguyên nên đã mời ông về cung làm thái y, khiến cho Lệ Quân và Thiếu Hoa tưởng họ bị tội. Lương Yến Ngọc bị anh gả cho người bán thịt lợn, cô đã trốn lên kinh thành để tìm cha. Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Lệ Quân cũng tới kinh thành để cứu Mạnh Sĩ Nguyên. Ba người Mạnh Lệ Quân, Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Lương Yến Ngọc cùng đi. Trên đường đi Mạnh Lệ Quân mới biết người mình thực sự yêu thương là Hoàng Phủ, đồng thời Thiếu Hoa cũng phát hiện Mạnh Lệ Quân là con gái và đã đem lòng yêu thương nàng.
Tại kinh thành, Thiết Mộc Nhĩ đã lên ngôi và lấy vợ nhưng lúc nào chàng cũng nhớ tới Lệ Quân. Để cứu cha Lệ Quân đã tham gia kì thi trạng nguyên và trở thành tể tướng nhà Nguyên do sự thiên vị dặc biệt của Thiết Mộc Nhĩ. Mạnh Lệ Quân đã đồng ý lấy con gái của vương gia cũng chính là Tô Ánh Tuyết. Hoàng Phủ Thiếu Hoa trở thành vị tướng quân. Lúc này cha con Lương Khuê Bích bị Mạnh Lệ Quân tố cáo nên bị đày vào ngục chuẩn bị xử chém. Lương Yến Ngọc cầu xin Thiếu Hoa giúp đỡ, chàng đành làm lễ kết hôn với Lương Yến Ngọc. Điều này làm Lệ Quân buồn bã quyết chí cùng gia đình trở về quê cũ. Đúng lúc này vương gia làm phản đã bắt Lệ Quân. Cuối cùng thân phận nữ của nàng bại lộ, Thiết Mộc Nhĩ viện cớ này ép nàng làm cung phi. Nhờ có thái hậu giúp đỡ Lệ Quân trở về với gia đình. Lúc này Yến Ngọc đã ra đi. Lệ Quân cùng Thiếu Hoa kết làm vợ chồng chu du thiên hạ.
Hoàng Phủ Phi Giao
Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Mạnh Lệ Quân có bốn người con : Triệu Câu, Triệu Lân, Triệu Phượng và Mạnh Phi Giao, từ khi còn ở phủ Hoàng Phủ Phi Giao đã bộc lộ bản tính muốn cai trị cả thiên hạ, nàng thường mơ ước mình có thể giống như Võ Tắc Thiên nên thạo bức chân dung của Võ Mỹ Nương mà ngắm nhìn và tôn vinh. Thái Thượng Hoàng của Minh triều muốn ẩn dật tu hành nên truyền ngôi lại cho con trai của ông là Anh Tôn lập hữu hậu là Hùng Ngọc Dung con gái của Hùng Hữu Hạo cũng là chỗ thâm tình của Hoàng Phủ Thiếu Hoa, Thái Thượng Hoàng còn truyền thánh chỉ lập Phi Giao làm hữu hậu điều này càng làm cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa lo sợ vì bản tính của Phi Giao nhưng cũng đành chấp nhận vì ko thể nào kháng chỉ.
Từ khi Phi Giao nhập cung, Anh Tôn đã mê mẩn tâm hồn trước sắc đẹp của Phi Giao, Phi Giao vì muốn loại bỏ Hùng Ngọc Dung nên đã lập mưu sai Đồ Mang Hưng Phục và Thái giám Mã Thuận vu khống cho Hùng Hữu Hạo tội mưu phản. Anh Tôn nghe theo lời Phi Giao xử tội chết cả nhà Hùng Hữu Hạo, còn phần Ngọc Dung vì đang mang thai nên bị xử giam vào lãnh cung chờ ngày sanh nở và truyền lệnh cho Bình Bộ Thượng Thơ hạ sắc chỉ phong cho Phi Giao làm Chiêu Vương Hoàng Hậu được quyền nhiếp chính giữa triều đình.
Ngay lúc đem Hùng Hữu Hạo ra pháp trường thì cả nhà Hoàng Phủ đến giải cứu, Hoàng Phủ Thiếu Hoa quyết định lên thâm sơn tìm Thái Thượng Hoàng mời Ngài về trừng trị Phi Giao, Hùng Hữu Hạo cùng lên đường với Thiếu Hoa. Về phần Ngọc Dung sinh được Hoàng tử, Triệu Lân không ngại khó khăn đến lãnh cung mang Hoàng tử về gởi cho chị dâu của mình nuôi dưỡng, Phi Giao thấy mẹ cứ chống lại ý nàng nên dựa vào chức quyền đã truyền thánh chỉ phong toả cung Nam Thanh giam Mẹ và Hoàng Thái Hậu. Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Hùng Hữu Hạo sau 1 thời gian dài đã tìm được Thái Thượng Hoàng, ngài đồng ý trở về triều để xử tội. Triệu Lân sau 1 đêm trằn trọc tìm mưu kế truất phế Phi Giao thì từ tóc xanh trở nên đầu bạc, và đã tìm được kế vẹn toàn đưa Đồ Mang Hưng Phục lên làm vua nhằm tạo sự bất hòa sau đó thỉnh Thái Thượng Hoàng đăng điện để xử án. Hùng Ngọc Dung gặp lại Hoàng Tử sau nhiều năm xa cách mẫu tử tương phùng, Đồ Mang Hưng Phục và Mã Thuận bị xử tội chết, Anh Tôn đau khổ khi Thái Thượng Hoàng bắt buộc chính Anh Tôn phải hạ chỉ xử Phi Giao tội chết, Phi Giao bị xử bá đao trảm quyết nhưng vì bá quan văn võ quỳ xin tội nên Thái Thượng Hoàng giảm án xử Phi Giao tam ban triều điển, nhà Hoàng Phủ khóc tiễn con nhưng cũng đành phải chịu vì luật nước không thể nào chống lại.
Mộc Quế Anh
Lưỡi kiếm của nàng vung lên huy hoàng như Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời. Nàng tung hoành giữa trận như rồng giữa trời xanh, nàng tấn công như sấm sét, và khi bình yên, nàng như mặt nước phẳng lặng huyền ảo cùng ánh trăng lung linh’’, một học giả viết về Mộc Quế Anh như vậy.
Hai nước Tống – Miêu chinh chiến liên miên. Tương Miêu bày Thiên Môn Trận – trận đồ bất khả chiến bại và thách thức quân đội Tống phá trận trong một trăm ngày). Nếu không, họ phải giao nộp đất đai cho Miêu. Trong quân đội Tống, có một gia đình võ tướng họ Dương đã chiến thắng trong nhiều trận chiến. Tuy nhiên, họ bị kẻ xấu dèm pha, vua Tống nghi ngờ. Cuối cùng, cánh quân nhà họ Dương bị Miêu đánh bại và chịu tổn thất lớn lao: người bị giết chết, người từ bỏ chiến trường đi tu, người bị bắt giữ… Ngoại trừ một người duy nhất còn sống sót, giờ đây, các vị trí chỉ huy thay thế người đã mất đều do nữ giới trong gia đình đảm nhận. Lịch sử Trung Quốc gọi là “các nữ tướng Dương gia’’.
Họ chiến đấu can trường và dũng cảm nhưng bị thất bại trước Thiên Môn trận. Thời hạn 100 ngày sắp tới gần, một vị quân sư nhớ tới và tiến cử Mộc Quế Anh – một nữ tù trưởng trẻ tuổi, xinh đẹp ở gần đó – cũng là người duy nhất biết cách phá trận đồ. Tài năng của nàng sớm gây ấn tượng với quân đội hai nước Tống – Miêu ngay trong trận chiến đầu tiên. Quân đội Tống phá được Thiên Môn trận, tướng chỉ huy giao quyền thống lĩnh cho Quế Anh.
Như một võ tướng kỳ cựu, Mộc Quế Anh sắp xếp lại quân đội, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng người, tìm cách thiêu trụi toàn bộ lương thực và cỏ dự trữ của kẻ thù. Thiếu cỏ, kỵ binh Miêu – cánh quân chủ chốt trở nên vô dụng. Thiếu lương thực, hàng nghìn quân hùng mạnh không còn sức chiến đấu. Quân đội Tống đánh từng trận thắng lợi và thu lại đất bị xâm chiếm.
Mộc Quế Anh với tài năng và sự dũng cảm đã khiến võ tướng họ Dương ngưỡng mộ. Ca khúc khải hoàn, cặp trai anh hùng – gái thuyền quyên được vua Tống ban thưởng xứng đáng, và còn tổ chức hôn lễ long trọng cho hai người.
Lý Thần Phi
Lý thị là người Hàng Châu, tổ phụ là Lý Diên Tự , làm chức Chủ bộ của huyện Kim Hoa. Cha Lý thị là Lý Nhân Đức , sau phong chức Tả ban điện trực . Lúc đó, khi cha Lý thị mất, mẹ kế của bà tái giá với người khác, Lý thị bèn xuất gia vào chùa tu hành. Nhưng không lâu sau, Lưu mỹ nhân vào chùa cầu an, gặp được Lý thị. Lưu mỹ nhân thấy bà có nhan sắc xuất chúng, bèn đưa về cung làm thị nữ hầu cận.
Vào trong cung, Tống Chân Tông đang sủng ái Lưu mỹ nhân, muốn lập bà làm Hoàng hậu, nhưng quần thần nhận thấy Lưu mỹ nhân xuất thân hàn vi, cật lực phản đối. Chân Tông lo lắng, ngày đem không yên. Lúc đó, Lý thị gặp được mộng tiên nhân, báo rằng sẽ sinh long thai kỳ tử. Chân Tông cùng Lưu mỹ nhân bèn nghĩ ra kế sách Tá phúc sinh tử. Chân Tông vời Lý thị vào hầu, sau 1 đêm quả nhiên có thai, ông ban cho Lý thị một cây trâm bằng ngọc, nhưng kiêng dè thị tẩm lần nữa.Ngày 12 tháng 5, năm 1010, Lý thị sinh ra 1 hoàng tử, đặt tên Triệu Thụ Ích, và Chân Tông tuyên bố là do Lưu mỹ nhân sinh ra, Lý thị được phong Sùng Dương huyện quân. Sau, Lý thị mang thai được 1 công chúa, tiến phong lên Tài nhân , nhưng công chúa mau chóng chết yểu.
Về sau, Lưu phi được phong làm Hoàng hậu, Lý tài nhân được nâng lên hàng Chính nhị phẩm, tước Uyển nghi . Địa vị của Lý thị lúc đó hơn Thẩm tiệp dư , ngang với Tào sung viên và dưới Dương Thục phi. Năm 1022, Thái tử Triệu Trinh kế vị, tức Tống Nhân Tông. Lưu hoàng hậu được tôn làm Hoàng thái hậu. Lý uyển nghi được phong làm Thuận Dung , đưa đến trông nom lăng mộ Tiên đế là Vĩnh Định lăng để chăm sóc. Lưu thái hậu còn sai Lưu Mỹ, Trương Hoài Đức tra tìm thân tộc của Lý thuận dung và ban tiền bạc cho họ, phong em trai là Lý Dụng Hòa làm Tam ban phụng chức , với lý do Thuận dung đến trông coi lăng mộ Tiên đế, nên ban ơn trọng thưởng.Nhân Tông Triệu Trinh, lúc trước tên Triệu Thụ Ích, được Tống Chân Tông chỉ định Lưu thái hậu là mẹ ruột sinh ra, nên hiếu thảo với Lưu thái hậu, và không biết rằng Lý Thuận dung mới chính là mẹ ruột của ông. Nhưng Lý Thuận dung vẫn không trách cứu nửa lời, lặng lẽ sống trong cung và cuối cùng đi đến Vĩnh Định lăng để chăm nom mộ phần Tiên đế.Năm 1032, Minh Đạo nguyên niên, Lý Thuận dung bệnh nặng, Lưu thái hậu sách phong bà làm Thần phi , đưa Thái y đến tận tình cứu chữa. Ngay khi vừa sách phong thì Lý Thần phi qua đời, hưởng thọ 46 tuổi. Năm 1033, Lưu thái hậu qua đời. Lúc này, Yên vương Triệu Nguyên Nghiễm tiết lộ sự thật về thân thế của Lý Thần phi, nói rằng Lưu Thái hậu đã cướp Nhân Tông về làm con mình, bỏ rơi Thần phi ở trong cung thất sủng. yên vương còn dèm pha rằng Lưu thái hậu đã hạ độc chết Thần phi. Tống Nhân Tông khi biết sự thật, trong lòng xúc động quá độ, di đến mộ phần của Thần phi mà khóc lóc thảm thiết
Sau, Nhân Tông truy phong Thần phi làm Trang Ý hoàng thái hậu . Do Lưu thái hậu chưa từng bạc đãi Lý thái hậu, Nhân Tông không truy cứu bất kỳ điều gì về chuyện xảy ra năm sưa nữa, chỉ chú tâm an táng tử tế cho Lý thái hậu và Lưu thái hậu, hợp táng cùng Tống Chân Tông.Những năm Khánh Lịch (1041 - 1048), thụy hiệu của bà được cải thành Chương Ý hoàng hậu, cùng Chương Hiến Minh Túc hoàng hậu đặt bài vị ở Thái miếu.
Nhân Tông còn trọng dụng em trai bà là Lý Dụng Hòa, phong làm Chương Tín quân Tiết độ sứ , muôn phần thiện đãi. Ông còn gả Phúc Khang công chúa hạ giá lấy con trai của Lý Dụng Hòa.
---------
Theo câu chuyện dân gian thì Lý Thần Phi vốn chỉ là một cung nữ hèn mọn hầu hạ thái hậu. Một lần, Tống Chân Tông Triệu Hằng ngẫu nhiên tạt qua và muốn rửa tay. Lý Thần Phi vội vàng tranh thủ cơ hội này bê đồ rửa lên để phục vụ thánh thượng. Hoàng thượng thấy nàng da dẻ mượt mà mềm mại liền tán gẫu với nàng vài câu. Nàng liền tranh thủ cơ hội nói với Tống Chân Tông rằng: Đêm qua nô tỳ đột nhiên nằm mơ thấy một đạo sĩ mặc áo lông vũ phát ánh hào quang giáng phàm nói rằng nô tỳ sẽ sinh được hoàng nhi cho Hoàng thượng. Đang lúc Chân Tông buồn rầu vì chưa có con trai, nghe Lý Thần Phi nói vậy thì vui mừng và lập tức triệu hạnh và sủng ái nàng.
Năm 1004, quân Khiết Đan xâm lấn biên cương, Chơn Tông phải thân chinh đánh dẹp. Khi nhà vua đã xuất chinh, cả Lưu hoàng hậu và Lý thần phi đều lâm bồn. Lưu hoàng hậu chỉ sinh con gái, còn Lý thần phi lại sanh hạ được hoàng tử. Do ganh ghét, sợ sau này con trai của Lý thần phi sẽ được kế vị ngai vàng, nên Lưu hoàng hậu âm mưu cùng thái giám Quách Hòe, đem một con mèo chết đánh tráo hoàng tử, ám hại Lý thần phi để trừ hậu hoạn.
Nhờ cung nữ Khấu Thừa Ngự ở Chiêu Dương cung mật báo là Lưu hoàng hậu sẽ cho đốt Bích Vân cung, mà Lý thần phi trốn thoát, lưu lạc ra ngoài dân gian. Khi Lưu hoàng hậu và Quách Hòe sai Khấu Thừa Ngự bồng hoàng tử ném xuống ao Kim Thủy, do lòng trung hậu, cung nữ họ Khấu lén giao hoàng tử cho thái giám Trần Lâm, là người trung nghĩa, đưa về Nam Thanh cung cho Địch phi nuôi dưỡng, còn nàng thì nhảy xuống Kim Thủy trì tự tử. Hoàng tử được Bát vương đặt tên là Triệu Thọ Ích.
Khi Triệu Thọ Ích được 9 tuổi, Bát vương từ trần. Hai năm sau, vua Chơn Tông dẹp yên Khiết Đan, hồi trào. Nghe thuật lại việc Bích Vân cung bị cháy, mẹ con Lý thần phi và các cung nữ đều chết, vua vô cùng thương tiếc. Vì nghĩ mình không có con trai, Chơn Tông mới lập con của anh (Bát vương) làm Đông cung Thái tử, cải tên là Triệu Trinh. Năm thái tử 14 tuổi, Chơn Tông băng hà, triều thần phò Triệu Trinh lên ngôi, lấy hiệu là Nhân Tông, niên hiệu là Thiên Thành nguyên niên. Ngay đến lúc ấy, Nhân Tông cũng không hề hay biết về thân thế của mình.
Về sau, nhân lúc xứ Thần Châu mất mùa, dân tình đói khổ, vua sai Bao Công đi phát gạo cứu tế. Trên đường về, bỗng có một cơn gió lạ thổi bay mão của Bao Công, quân hầu bảo đó là “lạc mạo phong”. Bao Công sai đi bắt. Hai tướng cận vệ thân tín ở phủ Khai Phong là Trương Long, Triệu Hổ cầm tờ trát ra đi, lại bị một luồng gió mạnh thổi bay tờ trát vào người một thiếu niên bán rau. Người này liền bị bắt. Nhờ đó, Bao Công dò hỏi và tìm tới được một lò gạch cũ bỏ hoang, gặp một phụ nữ mù lòa, chính là Lý thần phi, mẹ nuôi của chàng bán rau Quách Hải Thọ, và là mẹ ruột của đương kim hoàng đế Nhân Tông. Bao công minh oan cho Lý thị, bà được đón vào cung tôn làm Hoàng thái hậu.
Lý Thanh Chiếu
Lý Thanh Chiếu, người Tế Nam, tỉnh Sơn Đông. Bà là con gái của học giả kiêm nhà viết tản văn Lý Cách Phi, mẹ bà cũng là người thông thạo văn chương. Năm 18 tuổi, bà kết hôn với thái học sinh Triệu Minh Thành (1081 - 1129), là một nhà khảo chứng kim thạch học nổi tiếng và là con trai Tể tướng Triệu Đĩnh. Cưới xong, chồng bà đi làm thái thú ở Lai Châu, Truy Châu, bà được đi theo.
Trong cảnh giàu sang quyền quí, mỗi khi rảnh việc quan, hai vợ chồng cùng nhau xướng họa thơ văn, thu thập chỉnh lý sách vở, họa phẩm, các áng văn trên đá, trên đồng...
Năm 1127 quân nhà Kim chiếm Khai Phong, bắt giữ cả hai vua nhà Tống là Thượng hoàng Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông, nam bắc Hoàng Hà lần lượt rơi vào tay quân Kim, nhiều quan lại trong triều đình nhà Tống phải chạy xuống phía nam, vợ chồng bà cũng chạy xuống phía nam Hoài Hà.
Trong lúc loạn lạc, Triệu Minh Thành được lệnh làm thái thú Hồ Nam, nhưng trên đường đi nhậm chức thì bị cảm và chết ở Kiến Khang (nay là Nam Kinh). Chồng bà ốm chết mà quân Kim cứ tràn xuống tấn công, khiến bà cũng như triều đình nhà Tống cứ phải nay đây mai đó. Hàng châu, Việt Châu, Đài Châu, Kim Hoa...là những vùng miền bà đã lần lượt trải qua, sống một mình trong cảnh cô tịch, khốn đốn cho đến khi già yếu rồi qua đời.
Đường Quát Định Ca
Trước khi trở thành Quý phi, Đường Quát Định Ca đã yên bề gia thất. Phu quân của nàng ta là Sùng nghĩa quân tiết độ sứ Hoàn Nhan Ô Đới. Hoàn Nhan Lượng và Đường Quát Định Ca thường giấu Ô Đới, thậm thụt ong bướm, làm những chuyện “điên loan đảo phượng”.
Tại thời điểm mới “đầu mày cuối mắt” cùng ả Định Ca, Hoàn Nhan Lượng vẫn chưa lên ngôi báu. Tới khi tức vị, Kim Phế đế không muốn vụng trộm như trước, bèn cho triệu tỳ nữ Quý Ca của người tình vào cung để nhắn nhủ một điều: “Giờ ta đã làm nên nghiệp lớn, không bận gì phải vụng trộm. Nàng hãy vào cung, nhưng không được luyến tiếc gã chồng ấy nữa, cho hắn về cõi âm ti là vừa”. Tiếc nuối cho nghĩa phu thê bấy lâu cùng Ô Đới, Đường Quát Định Ca không nỡ ra tay. Nàng lại sai Quý Ca vào cung chuyển lời tới hoàng đế, đại ý rằng: “Trước đây, chúng ta lén lút, thiếp luôn cảm thấy có lỗi với Ô Đới. Huống hồ con cái đã lớn cả rồi, bệ hạ sao nỡ ép thần thiếp ra tay với chồng?”.
Nghe truyền đạt lại, Hoàn Nhan Lượng bỗng nổi giận đùng đùng, trừng mắt nhìn Quý Ca mà ra lệnh: “Người hãy về nói lại với nàng, rằng ta rất tức giận. Nếu nàng không chịu giết Ô Đới, ta quyết tru di cửu tộc nhà nàng”. Mười mươi hiểu rõ, Hoàn Nhan Lượng đã nói là làm, Đường Quát Định Ca bèn tìm thời cơ thuận lợi, chuốc say Ô Đới tội nghiệp rồi sai mấy kẻ tâm phúc bóp chết chồng.
Hoàn Nhan Lượng nghe tin, vui mừng khôn xiết. Dẹp sạch lối đi, Hoàn Nhan Lượng đường đường chính chính triệu Đường Quát Định Ca vào cung, phong làm quý phi.
Khi mới vào cung, Đường Quát Định Ca được Hoàn Nhan Lượng hết mực sủng ái. Thậm chí, Hoàn Nhan Lượng còn vỗ ngực tuyên bố, sẽ sắc phong cho Đường Quát Định Ca làm hoàng hậu. Nhưng dần dần, Đường Quát Định Ca bị thất sủng. Nhà vua thường bỏ mặc nàng quạnh quẽ trong cung rồi tung tăng ra ngoài thưởng hoa thưởng rượu với đám mỹ nữ. Vốn nhiều dục vọng, Định Ca sao có thể chịu đựng cô đơn mãi như vậy. Trong lúc tâm trí cùng quẫn, nàng bèn nghĩ tới chuyện tìm kiếm cho mình một người đàn ông khác, để thỏa cơn khát ái tình. Thực chất, lúc còn vụng trộm với Hoàn Nhan Lượng, Đường Quát Định Ca cũng đồng thời vụng trộm với một gia nô có tên Diêm Khất Nhi. Sau khi vào cung, nàng không còn cơ hội gần gũi với y. Tới lúc bị hoàng đế vứt bỏ, xem như thứ thừa thãi trong cung, Đường Quát Định Ca lại bồn chồn nghĩ tới Diêm Khất Nhi.
Định Ca sai ngườilục tìm vài bộ đồ ngủ trước kia của nàng trong phủ rồi lấy một cái giỏ lớn, cho Diêm Khất Nhi ngồi gọn trong ấy, bên trên lại phủ kín xiêm y để che mắt thiên hạ, đường đường chính chính tiến thẳng vào cung.
Nhưng Đường Quát Định Ca cũng hiểu rằng, việc ngoại tình một khi bại lộ, hậu quả sẽ khôn lường. Để che mắt thiên hạ, dâm phụ cho Diêm Khất Nhi trang điểm và ăn mặc như một cung nữ, ban ngày thì đội lốt kẻ hầu, đợi lúc sơ hở thì thỏa thuê giường chiếu, ban đêm lại nghĩ trăm phương ngàn kế để nhân tình được ra ngoài. Cứ thế, Diêm Khất Nhi hưởng đời an nhàn, sung sướng trong cung.
Thế nhưng, cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra. Chuyện quý phi ngoại tình cuối cùng cũng đến tai Hoàn Nhan Lượng. Chính Quý Ca – hầu gái thân cận của Đường Quát Định Ca - đã tiết lộ chuyện này
Nghe xong, Hoàn Nhan Lượng chỉ cười lạnh một tiếng mà rằng: “Đồ thối tha, sống làm gì cho phí hoài, dám cắm sừng cả trẫm, ta sẽ không dung tha cho ả”. Ông lập tức hạ lệnh bắt quý phi phải thắt cổ tự vẫn, Diêm Khất Nhi và ba ni cô cũng chịu chung số phận với Định Ca.
Mã Hoàng hậu
Mã Hoàng hậu hay Hiếu Từ Cao Hoàng hậu (1332–1382) là vợ của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, là người rất giản dị, hiền lành, được triều đình trên dưới khen ngợi và bá tánh yêu thương.
Vào tiết nguyên tiêu ( rằm tháng giêng âm lịch) giữa năm Hồng Võ triều Minh, ở kinh thành, khắp nơi đều giăng đèn kết hoa để mừng không khí ngày tiết sung mãn. Minh Thái tổ sau khi nghe đại thần báo cáo về tình hình hội hoa đăng kinh thành xong, cũng có niềm hứng thú muốn đi xem hội. Ông liền dẫn theo mấy người tuỳ tùng, ăn mặc đơn giản ra khỏi cung, đi đến miếu Khổng Tử ở mé Nam Thành là nơi tập trung nhiều đèn nhất.Ở đây xuất hiện nhiều đèn có dán câu đố. Đằng này nhóm ba, đằng kia nhóm năm, vây quanh mê đăng mà chỉ chỉ điểm điểm, nói nói cười cười, chốc chốc truyền ra câu đố để cùng đoán. Bỗng Chu Nguyên Chương nghe rõ mồn một tiếng của một đứa trẻ:" ha ha, tôi đoán trúng rồi, đó là Quốc mẫu Hoàng hậu của chúng ta!"
Ba chữ " Mã Hoàng hậu" đặc biệt khiến cho Chu nguyên Chương chú ý, ông vội đi tới xem, thì ra chiếc mê đăng trước mặt vẽ một phụ nữ bàn chân to ôm trái dưa hấu lớn, đáp án câu đố đúng là Mã Hoàng hậu phu nhân của ông. Chu Nguyên Chương hết sức tức giận quay trở về cung, và lập tức hạ lệnh bắt những người có ý cười chê Mã Hoàng hậu.
Vì sao Chu nguyên Chương với một bức vẽ mê đăng mà nổi giận? Thì ra, đó là do bàn chân to của Mã Hoàng hậu trên bức vẽ. Thời xưa, nam nhân rất coi trọng phụ nữ có đôi bàn chân nhỏ nhắn( tam thốn Kim Liên: bàn bàn chân phụ nữ được bó cho nhỏ). Phụ nữ mà có bàn chân to tượng trưng không người dạy dỗ và không giữ đạo phụ nữ.
Tin này truyền đến tai Mã Hoàng hậu, bà vội vàng tìm đến Chu nguyên Chương mà khuyên:" Bàn chân to thì có soa đâu? Năm ấy ông đánh giặc bị thương, nếu không có đôi bàn chân to này của tôi cõng ông chạy trốn binh giặc rượt tho, thì chúng ta có được ngày hôm nay không? Điều mà bá tánh nói đó là sự thật!" Lời khuyên này đã làm dịu đi con lửa giận của Chu Nguyên Chương.
Lần khác, một cung nữ làm sai trái qui cũ trong cung, Chu Nguyên Chương nổi giận, bắt nàng xử phạt rất nặng. Mã Hoàng hậu biết được, bèn cũng giả vờ nổi nóng, liền bắt cung nữ này giao cho quan phán hình xử tội. Khi Chu Nguyên Chương hỏi bà vì sao làm như vậy, thì Mã Hoàng hậu nói: " Người làm Hoàng đế không nên vì sự vui giận của mình m2 tuỳ ý thưởng phạt. Khi ông nóng giận, sẽ tăng nặng sự phạt. Nếu giao cho quan phán hình xử lý, định tội, như thế mới công bằng hợp lý. Và như vậy cũng có thể tránh xảy ra án oan uổng."
Nhờ đức độ khiêm tốn, nhân từ của Mã Hoàng hậu, cho nê đã trách được rất nhiều sai lầm cho Chu Nguyên Chương trên đường chính trị.
Quách Ái
Vì sự ích kỷ của các đời đế vương, quản thúc mỹ nữ, nhốt trong hậu cung đã làm hại thanh xuân, hạnh phúc và tính mệnh của biết bao thiếu nữ. Nếu có kiếp sau, chắc chắn họ sẽ hy vọng được gả vào một nhà bình thường, trên còn phụ mẫu, dưới có nhi nữ, họ cũng cam tâm tình nguyện đắm chìm trong ngọn lửa yêu thương của thê chức mẫu chức trên nhân gian, tháng năm dần qua cho đến một ngày kia họ lạc hạ hoàng tuyền, tức là kiếp này đã dứt.
Các cung nữ triều nhà Minh đa phần đều xuất thân từ các gia đình thanh bạch trong chốn kinh thành. Một khi được chọn vào cung thì họ như con chim trong lồng, khó lòng mà gặp lại người thân nữa. Hơn nữa những năm đầu triều Minh vẫn còn áp dụng chế độ tuẫn táng tàn bạo của triều Nguyên trước. Khi Minh Tuyên Tông mất, cung nữ Quách Ái được lệnh phải tuẫn táng khi nàng chỉ vào cung mới được 20 ngày. “Tuyệt mệnh từ” là tác phẩm nàng viết trước lúc chết, câu câu đều chứa chan nước mắt thể hiện sự sinh tử biệt ly với cha mẹ
Tuyệt mệnh từ
Tu đoạn hữu số hề, bất túc giảo dã
Sinh nhi như mộng hề, tử giả giác dã
Tiên ngô thân nhi qui hề, tàm dư chi thất hiếu dã.
Tâm thê thê nhi bất năng dĩ hề, thị tắc khả điệu dã.
Vương Kiều Loan
Kiều Loan là một người rất thông minh, lại được cha mẹ nuông chiều cho nên từ nhỏ đã thông kinh bác sử, văn hay chữ tốt. Nếu là con trai thì đã chiếm được bảng vàng, phò vua giúp nước, danh tiếng lưu truyền thiên thu.
Chỉ trách chuyện tình duyên của nàng lại lắm bi ai. Lúc đầu, từ việc viết thư cho nhau, nàng và Chu Đình Chương ngày càng hiểu thêm về nhau rồi tình cảm đôi bên bắt đầu nảy sinh. Trong phủ họ Vương, lại có thêm Tào Di như người “bắc cầu” cho cả hai nên tình duyên ngày càng sâu đậm. Chu Đình Chương lúc đầu là một người phong lưu nho nhã, có tài thi phú, Đình Chương và Kiều Loan quả là một đôi trai tài gái sắc. Nhưng từ sau khi về quê, được Chu tư giáo sắp đặt hôn lể với Ngụy Đồng tiểu thư thì Đình Chương đã quên hẳn lời thề xưa với Kiều Loan. Kiều Loan vẫn đêm ngày mong mỏi, viết thư cho Đình Chương nhưng không bao giờ được hồi âm. Khi biết được sự thực Đình Chương phụ bạc mình, Kiều Loan vô cùng thất vọng và không còn thiết sống nữa. Trước khi tự tử, nàng gom tất cả các thư từ xướng họa với Đình Chương. thêm vào đó những dòng chữ thề nguyền và thiên Trường hận đóng vào một tập, cho vào bao công văn gửi đến vệ quân Ngô Giang nhờ bắt một tên quân tại đào. Trên phong thư đề “Nam Dương vệ chưởng ấn Vương Thiên hộ kính gửi chức lệ Tô Châu phủ, Ngô Giang huyện, huyện lệnh đại nhân”.
Phàm Công đọc tất cả thơ từ và thiên Trường hận, lòng tấm tắc ngợi khen tài năng của Kiều Loan và trách Đình Chương là một tên bạc tình, bèn cho người đi bắt Đình Chương đến. Lúc đầu Đình Chương chối cãi nhưng lúc sau khi thấy những tập thơ ấy thì bèn nhận tội. Phàm Công sa lính đánh Đình Chương đến tan xương nát thịt.
Lý Tích Nhi
Vua Minh Đại Tông, vị Hoàng đế thứ bảy của triều Minh có một câu chuyện tình đình đám với kỹ nữ lừng danh thời đó là Lý Tích Nhi. Thời bấy giờ, kỹ viện là do triều đình và quan lại địa phương mở và bảo trợ, triều đình còn lập hẳn một chức quan chuyên quản các kỹ viện, lầu xanh trong khắp cả nước.
Lúc bấy giờ, quan chủ quan công việc này là Lạc Tấn Vinh, do muốn lấy lòng Hoàng đế nên đã đem Lý Tích Nhi, cô kỹ nữ ăn khách bậc nhất thời bấy giờ dâng lên Minh Đại Tông. Được Minh Đại Tông chấp nhận, Lý Tích Nhi được bí mật đưa vào cung để hầu hạ Hoàng đế. Tuy nhiên, khác với những mỹ nữ khác, cô kỹ nữ họ Lý là người rất thẳng tính.
Dù được phong làm phi, Lý Tích Nhi vẫn không từ bỏ bản tính nóng nảy, thẳng thắn của mình. Khác với lối hành xử nhu mì, nhất nhất phục tùng của các phi tần trong cung, Lý Tích Nhi thường lên tiếng bảo vệ chính kiến của mình. Thậm chí cả hoàng thượng, người hết mực yêu thương, sủng ái nàng, cũng không thể khiến Lý Tích Nhi trở nên mềm tính.
Nhiều lần, vì phiền lòng với cách hành xử của Đại Tông, nàng đã không ngần ngại “khẩu chiến”. Những lời lẽ đanh thép cùng bản tính nóng nảy của Lý Tích Nhi khiến cô kỹ nữ dần bị thất sủng và cuối cùng bị đuổi khỏi hoàng cung.
Lưu mỹ nhân
Lưu mỹ nhân sinh ra trong một gia đình thường dân. Lớn lên, nàng trở thành một kỹ nữ thuộc quyền quản lý của Tấn Vương Phủ. Trong một lần du hý tới vùng Thái Nguyên tìm kiếm người đẹp mua vui, Lưu mỹ nhân đã lọt ngay vào mắt Minh Vũ Tông.
Tiếng đàn, tiếng hát ngọt ngào cộng thêm điệu múa uyển chuyển của Lưu mỹ nhân đã khiến vị Hoàng đế triều Minh mê mẩn. Minh Vũ Tông quyết định đặc cách, giữ Lưu mỹ nhân ở lại bên mình hầu hạ.
Từ đó, Lưu mỹ nhân và hoàng đế gắn với nhau như hình với bóng, nửa bước không rời, ngày càng được sủng ái. Về tới kinh thành, Minh Vũ Tông vẫn rất mực say mê nàng kỹ nữ tỉnh lẻ họ Lưu, ngày đêm cùng mỹ nhân đắm chìm trong hoan lạc. Trong cơn đê mê khoái lạc cùng người đẹp, Minh Vũ Tông ra lệnh xây cho Lưu mỹ nhân một cung điện thật đẹp để nàng tới ở. Lưu mỹ nhân còn có khả năng khống chế cả những quyết định triều chính do vị vua này quá mê mẩn sắc đẹp và "ngụp lặn" trong đời sống tình dục.
Nguồn yume.vn ; phunutoday.vn ; news.zing.vn ; blog.zing.vn ; baohay.vn
Các mĩ nhân Trung Hoa thời xưa (1)
Trương Lệ Hoa xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo khó ở Giang Nam. Tuy là con nhà nông, phải phụ cha mẹ làm những công việc đồng áng nặng nhọc nhưng Lệ Hoa đang ở độ tuổi đôi mươi có nét đẹp khác lạ: "da trắng như tuyết, mắt đen láy, thân hình toát lên vẻ thanh tú", những vẻ đẹp theo nàng từ lúc mới sinh nên tên Lệ Hoa cũng do cha mẹ đặt từ các đặc điểm trên.
Người con trai của Trần Văn Đế là Trần Thúc Bảo cũng mới gần hai mươi tuổi khi ấy được phong là Trần Nhu Tuyên đế. Trần Nhu trong một dịp ra ngoài cung dạo chơi đã gặp và phải lòng Trương Lệ Hoa khi thấy nàng đang bán hoa sen ngoài phố.
Trần Nhu đã đưa một số tiền lớn cho cha mẹ Lệ Hoa để mua nàng về làm thiếp.
Khi vua Trần Văn Đế băng hà thì Trần Nhu lên làm hoàng đế, hiệu là Chí Đức, nhưng gọi là Trần Hậu Chủ. Ngay khi nắm một quyền lực lớn nhất trong tay, Hậu Chủ đã cho rước Trương Lệ Hoa về cung và suốt ngày đắm đuối bên nàng, bỏ mặc Thẩm Hoàng Hậu và những lời can ngăn của quần thần "Lệ Hoa chỉ là con của tầng lớp dân dã".
Vì xuất thân từ tầng lớp nghèo khó trong xã hội nên khi vào cung, Lệ Hoa hết sức choáng ngợp trước cảnh vàng son nhung lụa. Mặc dù được vua chu cấp đầy đủ nhưng ở ngôi vị quý phi, nàng vẫn chưa thỏa mãn. Lệ Hoa sai tâm phúc bí mật liên lạc với các tầng lớp quý tộc bên ngoài để thực hiện việc "mua quan bán chức", hễ ai muốn có chức tước gì trong triều chỉ cần đưa cho nàng một số vàng bạc nào đó tương xứng với giá trị của chức ấy thì sẽ toại nguyện nhờ tài nâng đỡ và mồm miệng của Lệ Hoa thuyết phục nhà vua.
Thái tử Trần Dân bất mãn trước việc hoàng hậu Thẩm mẹ mình không được sủng ái cùng với việc Trương Quý Phi công khai ăn hối lộ nên tỏ ý chống đối, Lệ Hoa cầu cứu với Hậu Chủ và từ đó vua càng phớt lờ những lời can gián của Thái Tử cũng như quần thần rồi ngày càng ăn chơi sa đọa cùng Trương mỹ nhân.
Năm 588, nhà Tùy dẫn quân tấn công Nam triều, Tấn Vương Dương Quảng bao vây kinh đô Nam Trần. Hậu Chủ bước đường cùng phải dẫn Trương Lệ Hoa và Khổng Quý Tân nhảy xuống một cái giếng cạn ở vườn Ngự Uyển để trốn quân Tùy. Cuối cùng bị bắt gọn, Dương Quảng cũng suýt bị mỹ nhân hớp hồn, toan đưa nàng về nhưng sau khi nghe quan quân can ngăn đã hạ lệnh xử tử Trương Lệ Hoa, còn Hậu Chủ và hoàng tử Thâm bị bắt làm tù nhân. Trương Lệ Hoa chết rất trẻ, chỉ vừa sắp bước qua tuổi 30
Hầu Phu Nhân
Tùy Dạng Ðế Dương Quảng tại vị, quảng cáo cao lâu, bắt hàng ngàn thiên hạ mỹ nữ nhốt vào trong đó, Hầu Phu Nhân chính là 1 trong số hàng ngàn cung nữ đó mà suốt cả cuộc đời cũng chưa hề gặp được Tùy Dạng Ðế, cuối cùng tự ải mà chết.
Hồng Phất Nữ
Nàng vốn họ Trương, người Giang Nam. Do Nam triều chiến loạn, nàng theo cha mẹ lưu lạc đến Trường An. Vì cuộc sống quá khó khăn nên phải bán mình nuôi cha mẹ, làm hầu nữ trong phủ quan Tư không Dương Tố. Nàng thích cầm cây phất trần màu đỏ nên mọi người gọi là Hồng Phất Nữ. Nàng có một con mắt tinh tường, là người phát hiện ra 2 nhân vật anh hùng trong biển người- 1 là Lý Tịnh chồng nàng, 1 là đại ca kết nghĩa Từ Nhiệm Khắc. Ba người cùng nhau thi thố tài năng chốn phong trần loạn thế, người đời kính trọng gọi là "Phong trần tam hiệp"
Lý Tịnh là một tài tử vùng Tam Nguyên, khôi ngô tuần tú, đường hoàng phong độ, thuộc làu kinh sử, thông hiểu đạo trị loạn hưng quốc trong thiên hạ, võ công thâm hậu, thong thiên địa lý và binh pháp thao lượt, là một người văn võ song toàn. Từ nhỏ có hoài bão lớn nhưng vẫn mãi trong vòng luẩn quẩn, như anh hùng không đất dụng võ. Sau khi nhà Tùy ổn định, chàng đến Trường An thi thố tài năng. Trân đường chàng gặp Lưu Văn Tĩnh- người tài cao, đang chuẩn bị đến Thái Nguyên phò cha con Lý Uyên. Hai người anh hùng hợp ý nhau kết nghĩa huynh đệ. Chia tay xong, người về Thái Nguyên, người đến Trường An.
Lý Tịnh đến Trường An, xin làm môn hạ của Dương Tố ( vì mọi quyền hành trong triều đều nằm trong tay hắn ). Dương Tố nửa nằm nửa ngồi trên ghế, nhắm mắt hờ hững, Lý Tịnh thấy thế nói thẳng: "Hiện thiên hạ đại loạn, anh hùng không có đất dụng võ, Minh công là trọng thần mà không biết thu nạp hào kiệt, phò tế nguy nan, nay chỉ ngạo nghễ, coi khinh kẽ sĩ, khiến người ta phải phẫn nộ". Dương Tố nghe xong tức giận định quát lớn nhưng nghĩ lại thân phận mình, sao lại so đo với tên nhãi ranh, liền đổi giận thành vui, trò chuyện với Lý Tịnh. Chàng nói rất hồ hởi, DT ngồi nghe, gật đầu khen phải nhưng đến cuối cùng lại kết một câu: "Ngày con lại của lão phu ko nhiều, những lời chỉ giáo bây giờ không dành cho lão phu, cớ gì phải cố như vậy?"
Những lời ấy như gáo nước lạnh vào mặt LT. Chàng thất vọng ra về. Hôm đó, Hồng Phất Nữ đứng hầu sau lưng DT, bằng tuệ nhãn của mình tận mắt nhìn thấy khí chất anh hùng của LT in dấu trên hàng lông mày, ăn nói đường hoàng, tài năng xuất chúng, hơn hẳn kể tầm thường, lòng nàng thầm ngường mộ, đôi mắt cứ nhìn mãi chàng.
Đêm hôm đó, Lý Tịnh về nhà không ngũ được, bèn nghe tiếng gõ cửa, chàng ngồi dậy khoác áo ra mở. Thấy đứng bên ngoài là một người trẻ tuổi đầu đội mũ vành, khoác áo tía, lưng đeo túi vải thơm. Không đợi hỏi, vị khách ấy liền nói:
- Thiếp là Hồng Phất Nữ của phủ Tư không Dương Tố, đến đây xin được đi cùng công tử.
Trong ánh đèn mờ đó, Hồng Phất Nữ tháo túi vải xuống, cởi mũ và áo choàng tía. Trở thành một cô gái tóc đen mượt vương dài, mắt sáng răng trắng, tươi tắn như quả đào chín mùa xuân. LT vẫn ngỡ ngàng nhưng qua đôi mắt sáng ấy thì nhận ra đó là nàng hầu đứng sau Dương Tố. HPN chắp tay thi lễ, nói tiếp:
- Thiếp theo hầu Dương Tư không đã nhiều năm, gặp được nhiều người nhưng chưa thấy người nào anh dũng tuyệt thế như Lý công tử. Thiếp là thân bồ liễu, chẳng thể sống một mình, chỉ muốn một lòng gửi gắm, nhờ cậy câu cao bóng cả thỏa nguyện bình sinh. Vì thế đành đến xin theo công tử, mong công tử đừng chối từ.
Nghe xong, Lý Tịnh cảm thấy vừa mưng vừa sợ. Chàng mừng vì gặp được một hầu nữ nhưng lại có đôi mắt thật tinh tế, chàng sợ ... và chợt hỏi:
- Dương Tố quyền nghiêng triều chính, nàng tự ý bỏ trốn, ông ta nhất định truy tìm, làm sao thoát khỏi ông ta?
HPN cười như đã có chủ ý:
- Dương Tư không hiện nay chỉ còn thoi thóp hơi tàn, chàng đừng lo sợ. Các thê thiếp trong phủ thường xuyên bỏ trốn, ông ta cũng không truy cứu. Thiếp đây thân phận nữ tỳ có đang là chi.
Lý Tịnh nghe qua, chăm chú nhìn lại Hống Phất Nữ lần nữa, làn da mịn màng, mặt hơi đỏ, dáng điệu ung dung tự tại, hơi thở thoảng mùi hoa lan, tuy có phần xấu hổ nhưng không mất đi sự quả cảm. Lý Tịnh mừng thầm nhưng nghĩ đến thân mình phiêu bạc, chẳng thể đem lại ngôi nhà cho nàng, Tự cảm thấy xấu hổ trước chân tình của hồng nhan.
HPN thấy LT định nói gì, hiểu ngay được sự do dự, bèn bộc bạch chân thành:
- Thiếp đã quyết định xin theo cũng đã suy nghĩ kỹ. Từ nay trở đi, dù chốn chân trời góc bể, thiếp sẵn sàng chia sẽ hoạn nạn, một tấm long thành trời xanh minh chứng.
Lời nói đó làm cho Lý Tịnh không còn gì lo lắng.Trời còn chưa sáng, cả 2 đã rời khỏi Trường An. Họ đến Linh Thạch, người ngựa đều mỏi, bèn nghĩ chân tại trọ quán. Sáng hôm sau, LT ra chợ mua một tảng thịt dê rồi về quán trọ đích thân xào nấu định bụng chiêu đãi vợ. HPN đang ngồi trong phòng xõa bộ tóc dài óng mượt chải chuốt thật kỹ. Chợt có gã trung niên, ăn mặt lôi thôi, dáng vẻ kì ngoặc đến quán trọ. Một làn gió thổi nhẹ mùi thịt dê thoang thoảng đến mũi hắn ta, hắn lần theo đó đến trước cửa phỏng HPN. Không thèm lên tiếng gõ cửa, gã đấy mạnh cửa, xộc thẳng vào trong. Vứt cái túi da lên bàn, bỗng thấy HPN đang ngồi chãi đầu, gã quên mùi thịt thơm đến luôn bên giường, mắt xéo đôi mắt chầm chầm vào nàng như muốn ăn tươi nuốt sống, không thêm nói 1 tiếng. Lý Tịnh đứng ngoài cửa số nhìn thấy hết, bèn nổi giận định nhảy vào cho hắn một trận. nhưng HPN nhanh trí nháy mắt, ra hiệu cho chàng kìm nén cơn giận dữ. Lại với tuệ nhãn của mình nàng thấy hắn có phong độ không hề phàm tục, cách ăn mặt, cử chỉ hẳn khác người thường. Nàng đoán gã nhất định là một hiệp sỹ hoặc cao nhân lánh đời. HPN vấn lại tóc, vừa tươi cười quay sang chào hỏi gã:
- Quan khách quý tính đại danh là gì?
Gã quái khách dựa đầu vào tường, đáp:
- Ta họ Trương, người ta vẫn gọi là Từ Nhiệm Khắc.
HPN cười nói:
- Sao lại khéo thế, thiếp cũng họ Trương, đang định gọi khách quan là huynh trưởng đó.
Dứt lời nàng bèn đứng dậy hành lễ huynh muội. Từ Nhiệm Khắc thấy cô gái ko những ko trách hành động lỗ mãn, mà còn tôn trọng khách nên lòng kính phục, ôm đồm đáp lễ. HPN vọng ra ngoài gọi Lý Tịnh vào bái kiến TNK. Thấy Lý Tịnh, anh bảo:
- Ta trong đệ có khí chất anh hùng, không hổ đấng anh tài. Nhất Muội có chồng như đệ chắc hẳn vừa ý lắm. ( TNK là con thứ 3 nên HPN gọi anh là "Tam Ca", HPN con trưởng nên gọi là "Nhất Muội" )
Ba người ngồi quây quần nói chuyện, dự tính tương lại. Lý Tịnh nói muốn đến Thái Nguyên trùng phùng Lưu Vân Tịnh, theo cha con Lý Uyên, Lý Thế Dân.
Cả 3 cùng đến Thái Nguyên, vào thành gặp được Lưu Vân Tĩnh, được anh tiến cử gặp Lý Uyên. Gặp được Lý Uyên thài thái uy phong khắc hẳn người thường, cả 3 vô cùng kính phục và càng mong thấy cốt cách của con trai ông- Lý Thế Dân. LVT lại tiếp tục sắp xếp cho 3 người gặp Lý Thế Dân. Cả 3 lại thấy Lý Thế Dân mặt mài sáng sủa, phong độ đường hoàng, dáng dấp anh hùng hảo hán khí phách khiến người ta nể sợ. Từ Nhiệm Khắc đấu 1 ván cờ với LTD nhưng không địch nổi, trước lúc chia tay, TNK nói với LTD:
- Lý Tịnh có thể giúp được công tử hoàn thành đại nghiệp.
LTD giữ 3 người ở lại Thái Nguyên, nhiề lần mời 3 người vào phủ đàm đạo, nhưng TNK luôn chối từ và để 2 vợ chồng LT đến.
Ít lâu sau, có tin từ Trường An báo rằng Dương Tố đã mất. Cha con Lý Uyên bèn gấp rút chờ thờ cơ. Từ NHiệm Khắc đề nghị trở về Trường An, Lý Thế Dan cũng có ý định để vợ chồng Hồng Phất Nữ về lại Trường An để thám thính tình tình. Vì Lý Thế Dân còn chuyện muốn dặn dò Lý Tịnh nên Từ Nhiệm Khắc đã ra đi trước.
Không lâu sau, 2 vơ chồng HPN đến Trường An hội ngộ cùng Từ Nhiệm Khắc. Sau khi dùng tiệc trò chuyện, TNK đưa cho 2 vợ chồng HPN 20 cái gương, rồi nói:
- Hiện nay thiên hạ đại loạn, bốn bề quần hùng nổi lên, ta vốn có ý định đánh chiếm Trung Nguyên. Nhưng ở Thái Nguyên, nhìn thấy khí thái hơn người, khí độ oai phong, ta tự cảm thấy không bằng, đành rút về đứng sau một bậc.Tất cả những thứ trong gương là của cả ta tích lũy được bấy lâu, định làm vốn mưu đồ đại sự, nay đã không cần dùng nữa. Ta muốn tặng toàn bộ nó cho vợ chồng muội để giúp lập công dựng nghiệp sau này.
Không đợi Lý Tịnh và Hồng Phất Nữ trả lời, TNK tiếp tục dăn dò:
- Lý đệ là bậc anh hùng kì tài trong thiên hạ, tương lai nhất định làm quan to. Nhất Muội tư chất thông minh, xinh đẹp cũng sẽ được vinh hoa phú quý. Nếu Nhất Muội không có tuệ nhãn thì sẽ không nhìn ra Lý đệ trong biển người. Nếu Lý Đệ không trí tài kì dũng cũng sẽ không có được trái tim Nhất Muội. Hổ gầm ra gió, rồng cuốn mây bay, đây không phải là sự gặp gỡ tình cờ. Nay thiên tử suy vong, mây gió nổi loạn, chính là lúc đại trượng phụ lập công dựng nghiệp, mong rằng hai người sẽ đồng tâm hiệp lực, cùng mưu trí lớn.
Lý Tịnh và HPN vẫn chưa hết ngỡ ngàng, HPN bèn hỏi:
- Vậy tam ca định đi đâu, làm gì ?
TNK cười điềm nhiêm, mắt nhìn xa xăm, đáp:
- Chân trời góc bể, bào mây vô định. Đợi sau 10 năm nữa, nếu cách mấy ngàn dặm về phía động nam, có ting ì lạ đó chính là huynh đắc chí thành công. Khi đó, Nhất muội và Lý đệ có thể rót rượu hướng về phía đông nam chúc mừng huynh.
Từ Nhiệm Khắc nói vài lời giữ gìn rồi lấy cái túi da ngày trước, lên ngựa quất roi, phóng nhanh ngàn dặm. HPN kéo tay Lý Tịnh mở 20 cái rương, trong ấy toàn ngọc ngà, châu báu, hơn nữa còn có 1 hòm chứa đựng những binh thư ghi chép các phương pháp dụng binh thần kì và cả một số thuật bói toán thất truyền.
Có tài sản, Lý Tịnh bèn mua chức quan nhưng thực chất là làm nội gián cho cha con Lý Uyên, ngày đêm học binh pháp, rèn mưu trí. Cuối cùng cha con Lý Uyên cũng phất cờ. Tùy Dạng đế bị giết chết, Lý Uyên lập Tuy Cung đế lên ngôi không bao lâu thì cũng phế truất, lập mình lên làm thiên tử, lấy quốc hiệu Đại Đường, thông nhất đất nước, vỗ về dân tộc biên giới giành sự ủng hộ. Lý Thế Dân sau đó thống nhất lưu vực sông Hoàng Hà dưới sự giúp đỡ của Lý Tịnh.
Lý Tịnh sử dụng chiến thuật "lấy ít làm nhiều" đánh bại quân Nhiễm Triệu. Với binh pháp "binh quý thần tốc, Lý Tịnh tấn công thắng lợi đánh bại quân Tiêu Cáo, chiếm giữ vùng đất Giang Nam rộng lớn, từ đó thống nhất các vùng Hồ Nam, Hồ Bắc và Quảng Tây.
Người Đột Quyết từng dùng sức mạnh thiện chiến bắt Đường Cao Tổ Lý Uyên phải cúi đầu xưng thần. Lý Tịnh dẫn binh chinh phạt, đánh bại quân Đột Quyết bắt sống vua Thạc Lợi Khả, giành đại thắng chua7 từng có trong lịch sử và rửa nhục cho quốc gia. Lý Tịnh được lập làm Vệ Quốc Công, Hồng Phất Nữ được phong Nhất phẩm phu nhân, năm ấy Lý Tịnh 47 tuổi.
Một thời gian sau, đất nước đã thịnh hành, lúc ấy một số bịnh thần dân số kể tội Lý Tịnh. Lý Tịnh bực tức, bèn nghĩ giả bệnh, cùng Hồng Phất Nữ sống ẩn dật ở núi Tiểu Pha.
Không được bao lâu, dân Thổ Cốc Hỗn xâm phạm biên giới Đại Đường, Đường Thái Tông cử quân chinh phạt, bèn nhớ đến Lý Tịnh.
Lúc này Lý Tịnh đã 65 tuổi, còn HPN thì đang mắc bệnh. Ông không nỡ xa vợ nên đành thoái thoát. Hồng Phất Nữ giờ đã thế sự nên gắng chống đỡ với căn bệnh mà khuyên chồng chinh chiến, việc nước làm trọng. Lý Tịnh đảm nhiệm, nanh chóng đánh bại và bắt sống vua Thổ Cốc Hỗn. Trên dường Khải Hoàn, Lý Tịnh không còn muốn công danh, chỉ mong nhanh chóng về lại núi Tiễn Pha cùng vợ.
Bệnh tình Hồng Phất Nữ không hề tiến triển, Lý Tịnh ngày đêm tận tình chăm sóc. Thời gian ấy, cả hai nghe nói có người dẫn binh chiếm đành nước Phù Tang ngoài biển, giết chết quốc vương, lập quốc mới và xưng đế, giờ đã xây dựng chính quyền vẫn chắc, yên bình. Hồng Phất Nữ lập tức hiểu rõ đó là Từ Nhiệm Khác. Hai vợ chồng bèn kính rượu về phương đông nam cầu mong trời xanh phù hộ Tam ca.
Sức khỏe Hồng Phất Nữ lúc được lúc xấu, kéo dài đến năm Trinh Quán thứ 14, nàng buông tay ra đi, để lại cho Lý Tịnh nỗi đâu khôn cùng.
Để tưởng nhớ Hồng Phất Nữ có công phụ tá chồng, Đường Thái Tông hạ lệnh cho dựng mô hình Thiết Sơn trong đất Đột Quyết và núi Thạch Tín của đất Thổ Cốc Hỗn trước mộ nàng. Đồng thời ông cho người lập bia, đích thân hạ bút viết ' Bia Trương thị - phu nhân của Lý Vệ Quốc công Khai phủ nghi đồng tam ty trung thử môn hạ Thương thư bộ Binh đặc tiến Đại Đường '
Hồng Phất Nữ xuất thân dân dã, nhưng tư chất tinh anh, có đôi tuệ nhãn, nhận ra Lý Tịnh và Từ Nhiệm Khắc là anh hùng cái thế, đáng được hưởng tiếng thơm muôn đời.
Nguyệt Dung công chúa
Là con gái cưng của vua Tùy Vương và được Lý Thế Dân cảm mến. Tùy triều diệt vong, Lý Thế Dân lên ngôi Đường Thái Tông và đó chính là bi kịch của Nguyệt Dung. Ấn tượng với vai Nguyệt Dung có thể nhắc tới Cao Viên Viên trong Tần Vương Lý Thế Dân, Tôn Phi Phi trong Khai Sáng Thế Kỷ.
Trưởng Tôn Hoàng hậu
Người ta thường nói rằng “đằng sau người đàn ông thành công là một người phụ nữ tuyệt vời”. Hoàng đế Đường Thái Tông đã có công lập nên một triều đại nhà Đường thịnh vượng nhất trong lịch sử xưa nay. Bên cạnh nhiều nhà hoạch định chính sách và các nhà lãnh đạo quân sự tài ba, Đường Thái Tông còn có thêm sự hậu thuẫn của người vợ yêu quý của mình, là Trưởng Tôn Hoàng hậu còn được gọi là Hoàng hậu Đại Đường. Phẩm hạnh cao cả và trái tim đầy nhân từ của bà đã tạo được sự tôn kính nơi thiên hạ và tất cả mọi người trong cung, gồm cả Hoàng đế Đường Thái Tông. Do đó, lịch sử xưa nay vẫn luôn xem bà như một Hoàng hậu đức hạnh nhân từ nhất và là người vợ tuyệt vời nhất.
Thái Tông xưa kia có một con ngựa mà ngài rất yêu qúy được lưu giữ trong cung. Một hôm, con ngựa ấy chết mà không có lý do cụ thể. Đường Thái Tông rất tức giận và ông muốn giết người giữ ngựa. Trưởng Tôn Hoàng hậu lúc đó nói: "Bệ hạ còn nhớ câu chuyện về Tề Cảnh Công - vua nước Tề , người muốn giết chết người chăn ngựa khi để ngựa của ông qua đời không? Viên cận thần đã kể tội tên giữ ngựa trước mặt ông. Cận thần nói: "Nhà ngươi đã phạm vào 3 tội đáng phải chết. Tội thứ nhất – nhiệm vụ của ngươi là phải giữ cho con ngựa còn sống và khỏe mạnh, nhưng nó đã chết. Tội thứ hai – vì để ngựa chết nên vua phải giết ngươi mà chính điều này làm cho thiên hạ trong nước thù ghét vua. Tội thứ ba - khi quan quân trong triều đình nghe câu chuyện, họ sẽ xem thường và không còn tôn kính vua nữa ". Bệ hạ biết rất rõ lịch sử xưa nay, làm sao ngài có thể quên biết điều này?”. Vua Thái Tông sau khi nghe những lời này đã thông hiểu ra, cơn giận dữ của cũng ông tang biến. Sau đó, Thái Tông đã nói với cận thần Phòng Huyền Linh: "Trưởng Tôn Hoàng hậu đã dùng một câu chuyện hết sức bình thường để thức tỉnh trẫm. Nó thực sự giúp trẫm rất nhiều.”
Một lần khác, sau khi bãi triều và trở về cung, trông ông có vẻ rất giận dữ. Trong lúc thay quần áo, ông nói: "Ta phải giết tên ngu đần này mới được!" Hoàng hậu hỏi: "Không biết ai đã làm cho bệ hạ nổi giận như vậy?" Thái Tông trả lời: "Là Ngụy Trưng chứ ai! Hắn đã làm xấu mặt ta trước bá quan văn võ ". Sau khi biết rõ chuyện xảy ra, bà lặng lẽ rút lui… Ngay sau đó, bà trở lại với bộ y phục trang trọng như thể là sắp có một nghi lễ triều bái trịnh trọng. Thái Tông rất ngạc nhiên hỏi: "Tại sao nàng ăn mặc như thế". Với một phong thái bình tĩnh và trang nghiêm, Trưởng Tôn Hoàng hậu nói: "Xin chúc mừng Bệ hạ! Thiếp nghe rằng chỉ khi nào Hoàng đế là một minh quân thì mới xứng đáng được quần thần dùng lời thẳng thắn mà can gián”. Sau khi nghe xong, Thái Tông rất hài lòng…Sự hiền đức và thông minh của bà không chỉ giữ được sự tôn nghiêm cho chồng, mà còn khéo léo hóa giải được nguy cơ mất mạng của cần thận bị để ý. Qua câu chuyện này, chúng ta có thể thấy rằng Hoàng hậu Đại Đường là người có một trái tim quảng đại nhân từ và một trí tuệ hơn người.
Thái Tông đương thời rất xem trọng ý kiến của Hoàng hậu về vấn đề dụng binh, cũng như việc thưởng phạt. Hoàng hậu luôn tỏ ra là một người thấu suốt sâu sắc, bà nghĩ rằng bà không nên tham gia vào các vấn đề triều chính vì cương vị đặc biệt của mình. Bà đặt ra nguyên tắc là, người đàn ông và đàn bà nên phải giữ đúng vai trò và nhiệm vụ của mình. Bà nói với Thái Tông: "Khi một con gà mái gáy, là không bình thường; khi một người đàn bà liên quan đến việc triều chính, thì đó là một dấu hiệu không tốt". Tuy nhiên, Thái Tông vẫn một mực muốn lắng nghe ý kiến của bà, và không bao giờ trả lời là “không”. Sau khi suy nghĩ cẩn thận, Trưởng Tôn Hoàng hậu bèn nói với Thái Tông: "Khi thiên hạ đang thái bình, thì bệ hạ nên chuẩn bị tinh thần cho những đại loạn có thể nổi lên, trọng dụng người tài và xem trọng những lời can gián của thần dân". Những gì bà đưa ra cũng chỉ có tính nguyên tắc chung, bà không muốn đi sâu vào những chi tiết cụ thể, bà sợ rằng chính điều này sẽ làm hạn chế vai trò của một vị Hoàng đế. Bà rất luôn tin tưởng những cận thần và khả năng của họ.
Vào năm Trinh Quán thứ 8, Hoàng hậu Đại Đường mắc cảm mạo cộng thêm các bệnh cũ tái phát nên làm cho tình trạng bệnh tình của bà càng trầm trọng hơn. Thái tử Trình Tiềm nhân dịp này muốn ân xá cho tù nhân và để cầu nguyện cho mẹ mình mau chóng hồi phục. Mọi người trong cung đều hưởng ứng theo, nhưng riêng bà phản đối kịch liệt. Bà nói: "Sự sống chết của một đời người là do ông Trời định sẵn và mọi nỗ lực của con người không thể thay đổi bất cứ điều gì. Nếu làm việc tốt có thể tích lũy đức, ta chưa bao giờ làm điều gì xấu ác. Nếu làm việc tốt mà để mong cầu một điều gì đó thì không phải là việc thiện, cho nên mong cầu để được khỏi bệnh sẽ là điều vô ích. Ân xá tù nhân là chuyện của quốc gia và nó không nên được thực hiện chỉ vì ta". Tấm lòng vô vị kỷ của bà đã làm cho những người đứng bên chứng kiến phải rơi nước mắt. Vua Đường Thái Tông đã làm theo nguyện vọng của bà. Hoàng hậu lâm bệnh nặng và chết hai năm sau đó – khi đó bà mới 36 tuổi. Trước khi chết, bà vẫn còn nghĩ đến lợi ích của thiên hạ và nước nhà. Sau khi suy nghĩ kỹ, bà đã đề xuất nguyện vọng của mình với Thái Tông:
1. Trọng dụng hiền tài, đẩy lùi những kẻ hèn hạ. Chấp nhận những lời can gián, nhưng tránh xa nịnh thần.
2. Đối với tất cả người thân của thiếp, trừ khi họ có tài đức lớn, nếu không thì không đặt họ ở vị trí cao.
3. Thiếp đã không có công lao gì nên không cần chôn cất tốn kém; vì vậy, không nên lãng phí nguồn tài lực của đất nước vào một ngôi mộ hay quan tài đắt tiền. Trong lịch sử xưa nay, những nhân cách được kính trọng cao tất cả đều chỉ mong ước được an táng đơn giản, vì vậy hãy chôn cất thiếp một cách đơn giản nhất mà bệ hạ thật sự cho rằng thiếp xứng đáng!
Đường Thái Tông vì quá thương tiếc nên đã không thực hiện đầy đủ các nguyện ước tang lễ của bà. Ông ra lệnh cho xây dựng một lăng mộ quy mô thật lớn. Ngoài ra, ông còn cho xây một sảnh đường ghi khắc nhiều câu chuyện về bà trong một nghĩa trang lớn để linh hồn bà bay cao và nhìn xa. Đây là cách Đường Thái Tông bày tỏ tình cảm và lòng tôn kính của mình đối với vị Hoàng hậu nổi tiếng đương thời.
Hoàng hậu Đại Đường đã thể hiện sâu sắc sự uy quyền đầy nữ tính trong thời đại đầy uy quyền của đàn ông và đóng một vai trò độc nhất vô nhị trong việc tạo ra một triều đại nhà Đường thịnh vượng nhất trong lịch sử của Trung Quốc, một triều đại hoàng đế anh minh, các quần thần năng lực tài giỏi và quân đội hùng mạnh. Các nhà sử học cũng đã ghi chép và công nhận những đóng góp to lớn của bà và tin rằng sự thịnh vượng của những năm Trịnh Quán và Hoàng hậu Đại Đường không thể tách rời nhau. Vì vai trò lịch sử độc đáo của mình mà bà đã được các thế hệ sau phong tặng danh hiệu "Hoàng hậu của thiên niên kỷ" vậy.
Cao Dương công chúa
Cao Dương công chúa là con gái thứ 17 của vua Đường Thái Tông. Lúc trưởng thành được vua gả cho con trai thứ hai của Phòng Huyền Linh là Phòng Di Ái.
Cao Dương công chúa được Thái Tông yêu chiều, Di Ái sau khi lấy được công chúa, cũng được sủng ái hơn các chàng rể khác. Không như những người con gái bình thường, công chúa luôn được sủng ái mà dần dần kiêu ngạo quá đáng, làm những việc không còn phép tắc gì. Con cả Phong Huyền Linh là Di Trực, sớm được phong là Quang Lộc đại phu, lấy việc Di Ái đã lấy được công chúa, xin nhường quan chức cho Di Ái.
Thái Tông không nghe, sau khi Huyền Linh mất, công chúa xui Di Ái tranh phần với Di Trực, lại gièm pha với Thái Tông. Di Trực tự đến bào chữa, Thái Tông không vào hùa với công chúa, gọi nàng vào cung mắng cho một hồi, công chúa từ đấy vẫn hậm hực. Sau đó công chúa cùng Di Ái đi săn vào nghỉ ở một ngôi chùa. Thầy chùa là Biện Cơ có dáng vẻ khôi ngô ra nghênh đón, mời công chúa ở lại đấy qua đêm. Công chúa trong lòng bố thí, với Biện Cơ kết thành duyên phận. Đã có hai người con gái hầu hạ Di Ái, Di Ái được thêm hai người thiếp, ôm ấp ở bên trái bên phải, vui vẻ nào bằng, còn đoái hoài gì đến công chúa nữa. Công chúa thông dâm với Biện Cơ, ra vào không kiêng kỵ, công nhiên như vợ chồng, lại tặng cho Biện Cơ chiếc gối Kim Bảo. Biện Cơ sớm tối điên đảo, không biết cất giữ của báu, rồi bị ăn trộm mất. Sau này phá được vụ án ấy, tìm ra được chiếc gối Kim Bảo. Quan nha tra xét kẻ trộm, hắn khai là ăn trộm ở chỗ Biện Cơ. Biện Cơ thực tình khai là do công chúa tặng. Việc này được Ngự sử xét đến, Thái Tông tự thấy hỗ thẹn, cũng không hỏi rõ thêm, lệnh đem Biện Cơ xử tử. lại gọi những nô tài ở bên công chúa, đến trách tội đồng lõa với chủ, giết đến hơn 10 người mà không giết con gái mình. Công chúa không tự biết tội, oán trách Thái Tông để ý những chuyện không đâu, chia rẽ uyên ương đôi đường. Đến khi Thái Tông băng hà, công chúa tuy đến đưa tang nhưng dáng vẻ chẳng hề buồn bả gì. Từ đó công chúa không biết kiêng kỵ gì nữa, sớm tối hoan lạc, dập dìu với bọn thuật sĩ. Lý Hoảng, Huệ Hoằng, thường mượn những chuyện thần tiên ma quỷ mà ra vào nơi công chúa ở, hoặc mượn cớ chẩn mạch bốc thuốc để được thân gần với người đẹp, che mắt thế gian. Tiếng xấu lan tỏa, cả triều đình đều biết cả.
Di Trực sợ sự việc xảy ra sẽ bị họa, ngầm dặn Dịch Đình lệnh Trần Nguyên Viễn dò xét tình hình trong cung ra sao để còn liệu định, một mặt khuyên Di Ái liên kết với bọn Tiết Vạn Triệt, Sài Linh Vũ, định đưa Kinh Vương Nguyên Cảnh làm vua phế bỏ Cao Tông. Vạn Triệt đã lấy công chúa Đan Dương, con gái Cao Tổ, Lệnh Vũ tức là con Sài Thiệu, cũng lấy công chúa Ba Lăng, con gái của Thái Tông. Hai người đều là Phò mã Đô úy, bởi Cao Tông không hòa hợp với họ, cho nên muốn đồng mưu với Di Ái. Kinh Vương Nguyên Cảnh là con thứ 7 của Cao Tổ, nghe có thể được làm vua cũng phụ họa theo. Riêng Di Trực sợ liên lụy lại ngầm thông báo với Vô Kỵ, Vô Kỵ mật báo với Cao Tông, Cao Tông lệnh cho Vô Kỵ thẩm tra việc ấy. Công chúa Cao Dương nghe vội vội sai người vu cáo Di Trực, nói ông ta mưu phản, đợi đến khi Vô Kỵ tra xét rõ ràng, nước cạn đá nổi lên, Di Trực chưa từng bàn mưu làm phản. Di Ái cùng công chúa rõ ràng có bằng chứng mưu phản, Trưởng Tôn Vô Kỵ thông báo lên Cao Tông, vua chẳng thể bởi tình nghĩa ruột thịt mà nương nhẹ, tức thì bắt Di Ái hạ ngục.
Vô Kỵ hoàn thành văn bản vụ án để trình lên trên, Phòng Di Ái, Tiết Vạn Triệt, Sại Lệnh Vũ, cùng Kinh Vương Nguyên Cảnh, Ngô Vương Khác đều tội đáng chém. Cao Dương công chúa, Ba Lăng công chúa cũng có tội phải đánh chết. Bản án được trình lên, Cao Tông thở dài mấy tiếng tức thời theo như bản án mà hạ chiếu. Bọn Di Ái, Lệnh Vũ, Vạn Triệt đều bị chém bêu đầu. Nguyên Cảnh, Ngô Vương Khác cùng hai công chúa Cao Dương, Ba Lăng đều cho tự vẫn.
An Khang công chúa
An Khang công chúa là con gái của vua Đường Thái Tông Lý Thế Dân và Thục Phi nương nương. Thục Phi lúc bấy giờ được Thái Tông sủng ái nhất nên sau khi bà mất, Thái Tông hết mực yêu thương nàng. An Khang công chúa có làn da trắng như tuyết, tính tình tinh nghịch , lại thông minh và khéo ăn khéo nói. Dung nhan nàng toát nên một vẻ thánh thiện, đáng yêu. Ai gặp lần đầu đều cảm thấy mến nàng. Mẹ nàng mất năm nàng 14 tuổi nên được Trưởng Tôn Hoàng Hậu nhận làm con nuôi. Hoàng hậu rất yêu thương nàng còn hơn cả con ruột bà.
Công chúa An Khang có mối tình đầu với Mộ Nhất Khoan – con nuôi của một thương gia lớn tên là Đậu Nghệ. Nhưng bị Trưởng Tôn hoàng hậu ngăn cấm vì hoàng hậu muốn nàng có chỗ dựa vững chắc khi bà và Thái Tông mất. …..
Phàn Lê Huê
Nàng là người Tây Lương, tương truyền là tiên nữ trên trời bị đày xuống hạ giới, kết mối lương duyên với Tiết Đinh San. Nàng là đệ tử của Lê Sơn thánh mẫu, mỹ lệ vô song, văn võ song toàn, trí mưu hơn người, có pháp lực thần thông quảng đại. Nàng là người dám yêu dám hận, lấy đức báo oán, có thể nói là một nhân vật phi thường.
Phàn Lê Huê là con gái của viên tướng tài nước Tây Lương: Phàn Hồng.Theo lời thầy tướng số, nếu Phàn Hồng sinh ra con gái thì sẽ mang mệnh giết cha giết huynh diệt tộc, nên khi Lê Huê vừa mới chào đời, Phàn Hồng đã gạt nước mắt thả con trôi sông để trừ hậu hoạn. May nhờ Lê Sơn Lão Mẫu giúp hóa giải kiếp nạn, Lê Huê mới được bảo toàn tính mạng.
Cô đã đính ước với Đại tướng quân Dương Phiên, nhưng trước ngày cưới Phàn Lê Huê đã bỏ trốn để đi tìm vị tướng mặc chiến bào trắng, vì theo lời sư phụ Lê Sơn Thánh Mẫu thì vị tướng này mới chính là phu quân của cô. Tiết Nhân Quý, dũng tướng nhà Đường tiến đánh Tây Lương. Phàn Lê Huê vội quay về phò trợ cha, trên đường cô đã gặp vị tướng mặc chiến bào trắng. Trớ trêu thay, đó lại là Tiết Đinh San, con trai của Tiết Nhân Quý. Tiết Đinh San từ chối kết hôn với Phàn Lê Huê và bỏ trốn về Đại Đường. Vua Đường ban chỉ buộc Tiết Đinh San phải thành hôn với Phàn Lê Huê. Lễ cưới đang được cử hành thì Dương Phiên dẫn quân tiến đánh Đại Đường.
Dương Phiên khiến hắn vô cùng căm phẫn. Mang tham vọng làm chủ ải Hàn giang và chiếm đoạt Lê Huê, Dương Phiên đã cố công chinh phục Tây Lương, thúc giục Phàn Hồng nghênh chiến với quân Đại Đường do cha con Tiết Nhân Quý dẫn đầu.
Dù làm mọi cách, Lê Huê vẫn nhất quyết cự tuyệt, Dương Phiên quyết làm cho Lê Huê không còn đường sống bằng cách vu cho nàng tội giết cha và huynh trưởng khiến cho Lê Huê khi xuất giá vào Tiết gia, mang theo tội danh không thể gột rửa, làm cho Đinh San từ yêu thương chuyển sang oán ghét, cộng với sự ghen tức của Táo Tiên Đồng – là người vợ đã dùng kế ép Đinh San cưới về, và sự ghẻ lạnh của mẹ chồng, Lê Huê đã phải sống những tháng ngày đầy tủi nhục tại Tiết gia.
Mặc dù hết lần này đến lần khác lập công lớn cho Đại Đường, và cứu mạng Đinh San, nhưng Lê Huê vẫn bị kỳ thị. Thêm vào đó, Dương Phiên phối hợp cùng Tiên Đồng bày kế phá hoại danh tiết của Lê Huê làm cho cuộc hôn nhân giữa Lê Huê và Đinh San gần như sụp đổ. Mãi đến khi Tiết Nhân Quý trúng kế của Dương Phiên mà chết, Dương Phiên lộ diện là kẻ hai mặt hiểm độc, Đinh San và Lê Huê mới hóa giải được khúc mắc, hợp sức tiêu diệt Dương Phiên và cùng nhau hoàn thành đại nghiệp chinh tây.
Trần Thạc Trinh
Người phụ nữ họ Trần vốn sống cùng thời với Võ Tắc Thiên này là người đầu tiên trong lịch sử dám tự xưng mình là nữ hoàng. Vào năm 653 theo Tây lịch, ở huyện Thanh Khê, Mục Châu, nay là Chiết Giang nổ ra một cuộc khởi nghĩa của nông dân. Người đứng đầu cuộc khởi nghĩa này là một người phụ nữ tên gọi là Trần Thạc Trinh. Trần Thạc Trinh tự xưng là tiên nhân, dân gian cũng rất tin sùng Trần thị, xưng bà là thần. Sau đó, để tổ chức lực lượng chống lại triều đình, Trần Thạc Trinh đã tự xưng là hoàng đế, lập nên triều đình riêng của mình, chấn động cả một cõi.Cuộc khởi nghĩa của Trần Thạc Trinh hoàn toàn không phải là một cuộc khởi nghĩa tự phát mà được lên kế hoạch từ trước đó rất lâu. Một ngày, Trần Thạc Trinh nói với người hàng xóm của mình rằng cô muốn rời khỏi quê nhà, lên đường tu tiên vì vậy cố muốn nói lời từ biệt với những người trong làng. Không lâu sau đó, quả nhiên người ta thấy Trần Thạc Trinh dường như biến mất. Những người hàng xóm có người tin lời của Trần Thạc Trinh là thật, có người bán tín bán nghi có người lại cho rằng nó là những lời giả dối.
Trần Thạc Trinh có một người thân tên là Chương Thúc Dận, người này rất tích cực ủng hộ kế hoạch khởi nghĩa của Trần Thạc Trinh đồng thời giúp đỡ Trần Thạc Trinh rất nhiều trong việc chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa. Chương Thúc Dận nói với bên ngoài rằng, Trần Thạc Trinh đã thành thần tiên nay từ trên trời quay trở về Thanh Khê, giờ đây pháp lực của Trần Thạc Trinh là vô biên không thể lường hết được, thậm chí cô ta có thể sai khiến được cả quỷ thần. Câu chuyện Trần Thạc Trinh thành tiên quay trở về Thanh Khê cứ như vậy một đồn mười, mười đồn trăm, người dân Thanh Khê và khắp các vùng lân cận không ai không biết tiếng và nể sợ Trần Thạc Trinh. Mỗi một lời Trần Thạc Trinh nói đối với họ đều là mệnh lệnh của thần tiên, vì vậy, họ sẵn sàng vào sinh ra tử khi Trần Thạc Trinh ra lệnh.
Năm 653, Trần Thạc Trinh tuyên bố khởi nghĩa, bắt đầu chống lại quan phủ. Trần Thạc Trinh mô phỏng thể chế nhà Đường lập nên một bộ máy chính quyền riêng, phong cho Chương Thúc Dận làm chức Bốc Xạ (Tể tướng), quản lý tất cả các sự việc trong triều đình. Bản thân Trần Thạc Trinh tự xưng làm hoàng đế, gọi là Văn Khuê Hoàng đế.
Cuộc khởi nghĩa của Trần Thạc Trinh mặc dù ngắn ngủi, từ ngày bắt đầu cho tới khi thất bại chỉ hơn 1 tháng, tuy nhiên, nó đã tạo nên một cơn chấn động toàn bộ khu vực Đông Nam của nhà Đại Đường.
Trong lịch sử Trung Quốc, những người phụ nữ tham gia các cuộc khởi nghĩa nông dân không ít, tuy nhiên, người phụ nữ đứng ra phát động khởi nghĩa nông dân rồi tự đứng ra lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ấy thì chỉ có một mình Trần Thạc Trinh.
Từ Huệ
Từ Huệ (627-650) nguyên quán ở Trường Thành, Hồ Châu (nay là Chiết Giang). Bà được sử sách khắc họa như một thần đồng, sinh ra được 5 ngày đã biết nói, bốn tuổi đã đọc hiểu "Luận Ngữ" và "Kinh Thư", 8 tuổi có thể viết những áng văn tuyệt tác. Trong cuốn "Toàn Đường Thư" còn ghi lại 5 bài thơ của Từ Huệ. Sau khi vào cung, Từ Huệ được Đường Thái Tông Lý Thế Dân vô cùng yêu mến bởi tài năng thơ phú thiên bẩm. Vì thế, Từ Huệ nhanh chóng được cất nhắc từ vị trí Tài nhân lên làm Tiệp dư. Một hôm, Thái Tông cho triệu các phi tần, Từ Huệ vì phải trang điểm nên đến muộn, làm hoàng đế vô cùng tức giận. Nhưng ngay lập tức, Từ Huệ dâng lên hoàng đế bài thơ Tiến Thái Tông thi đầy tình tứ khiến cơn giận của Lý Thế Dân nhanh chóng tiêu tan, tình cảm của hoàng đế dành cho Từ Huệ càng thêm sâu đậm. Không lâu sau, Từ Huệ lại được phong làm Sung dung. Lý Thế Dân có tham vọng lớn và nhiều lần đưa quân chinh phục Cao Ly, dân chúng oán thán khắp nơi. Từ Huệ dâng tấu khuyên Thái Tông từ bỏ tham vọng đang gây tổn hại tới người dân. Sau khi đọc xong bản tấu khẩn thiết, chân thành của Từ Huệ, Thế Dân tỉnh ngộ và ban thưởng cho Từ Huệ rất hậu hĩnh. Năm 694, Đường Thái Tông băng hà. Từ Huệ đau đớn tột cùng đến mức lâm bệnh, nhưng bà từ chối chữa chạy. Đến năm thứ hai sau khi Thái Tông mất thì bà cũng qua đời, khi đó Từ Huệ mới 24 tuổi. Đường Cao Tông Lý Trị cảm động trước tình cảm của Từ Huệ dành cho cha, đã truy phong bà làm Hiền phi và thực hiện mong muốn của bà khi qua đời, là được chôn cùng Đường Thái Tông.
Võ Tắc Thiên
Võ Tắc Thiên (625 - 16/12/705), tên riêng Võ Chiếu ,là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc đã lập ra triều đại của riêng mình, nhà Võ Chu ,và cai trị dưới cái tên Thánh Thần Hoàng Đế (từ 690 đến 705). Việc bà nổi lên nắm quyền cai trị bị các nhà sử học Khổng giáo chỉ trích mạnh mẽ nhưng các nhà sử học từ sau thập kỷ 1950 đã có cái nhìn khác về bà.
Gia đình bà có nguồn gốc ở huyện Văn Thuỷ ,thuộc quận Tinh Châu (hiện nay là thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây). Văn Thủy hiện là một huyện thuộc Lữ Lương Địa Khu nằm cách Thái Nguyên 80km về phía tây nam. Cha bà là Võ Sĩ Hoạch (577-635), một thành viên thuộc một gia đình quý tộc danh tiếng ở Sơn Tây, và là một thành viên liên minh của Lý Uyên, người sáng lập ra nhà Đường, khi ông tiến hành chiến tranh giành quyền Lực (chính Lý Uyên cũng thuộc một gia đình quý tộc nổi tiếng ở Sơn Tây). Mẹ bà là Dương Thị (579-670), một phụ nữ thuộc gia đình quý tộc hoàng gia nhà Tuỳ. Võ Tắc Thiên không phải sinh ở Văn Thuỷ, bởi cha bà đảm nhận nhiều chức trách ở nhiều nơi trong suốt cuộc đời. Bà được cho là sinh ở Lợi Châu hiện là thành phố Quảng Nguyên ,phía bắc tỉnh Tứ Xuyên, cách Văn Thủy khoảng 800km về phía tây nam, nhưng một số nơi khác cũng được cho là nơi sinh của bà gồm cả thủ đô Trường An.
Bà được đưa vào hậu cung vua Thái Tông nhà Đường vào khoảng năm 638 (một thời điểm khác có thể là: 636) và là một Tài Nhân ,tức là một trong chín người thiếp cấp thứ năm. Vua Thái Tông đặt tên cho bà là Mị ,có nghĩa là "duyên dáng, xinh đẹp", và vị nữ hoàng trẻ thường được người Trung Quốc gọi là Võ Mị Nương.
Năm 649, Thái Tông chết, và theo thói thường đối với những người thiếp, Võ Mị Nương phải rời cung đình và để vào chùa Phật giáo, nơi bà sẽ phải xuống tóc. Không lâu sau, có lẽ là vào năm 651, bà lại được vua Cao Tông, con của Thái Tông, đưa trở lại hoàng cung bởi vì ông đã sửng sốt trước sắc đẹp của bà khi đi cúng tế cho cha. Vợ vua Cao Tông, người họ Vương ,đóng vai trò quan trọng trong việc đưa Võ Mị Nương hòa nhập lại vào cung đình. Nhà vua lúc ấy đang rất sủng ái một người thiếp họ Tiêu và hoàng hậu hy vọng rằng khi có một người thiếp đẹp mới nhà vua sẽ thôi chú ý tới người thiếp kia. Các nhà sử học hiện nay đang tranh cãi về câu chuyện lịch sử này, và một số nghĩ rằng Võ Tắc Thiên trên thực tế chưa hề rời khỏi hoàng cung, và rằng có thể bà đã có tình ái với vị thế tử (người sau này là vua Cao Tông) từ trước, khi vua Thái Tông còn đang sống. Dù sự thực thế nào chăng nữa, vẫn chắc chắn rằng tới đầu những năm 650 Võ Tắc Thiên đã là thiếp của vua Cao Tông và bà được gọi là Chiêu Nghi ,mức cao nhất trong chín cấp bậc của những người thiếp thuộc hàng thứ hai. Việc vị hoàng đế lấy một trong những người thiếp của cha mình, và lại từng là một bà sư như các nhà sử học truyền thống tin tưởng là một cú sốc đối với những nhà đạo đức Khổng giáo.
Võ Tắc Thiên nhanh chóng bộc lộ tài năng của mình trong việc vận động và lập mưu mẹo. Đầu tiên bà tống người thiếp họ Tiêu khỏi ngáng đường, mục tiêu tiếp sau chính là hoàng hậu. Năm 654, con gái của Võ Tắc Thiên bị giết. Hoàng hậu họ Vương bị nghi ngờ là ở gần phòng của đứa trẻ. Bà bị nghi là đã giết nó vì ghen tuông và sau đó bị hành hình. Truyền thuyết kể rằng Võ Tắc Thiên đã giết chính con của mình, nhưng có lẽ điều này là do các đối thủ của bà và các nhà sử học Khổng giáo bịa ra. Ngay sau đó, bà được hoàng đế phong làm Thần Phi , ở thứ bậc cao hơn bốn người thiếp cao nhất và chỉ kém hoàng hậu. Cuối cùng, tháng Mười Một năm 655, hoàng hậu họ Vương bị giáng phong và Võ Tắc Thiên được đưa lên làm hoàng hậu. Sau đó Võ hậu giết Vương hậu cùng người thiếp họ Tiêu một cách tàn bạo - họ bị đập nát chân tay và sau đó tống vào những thùng rượu to để họ còn sống khổ cực thêm ít ngày nữa.
Sau khi Cao Tông bắt đầu bị giảm sút sức khỏe vì đột quỵ, từ tháng 11, 660, bà bắt đầu cai trị Trung Quốc từ phía sau. Thậm chí sau này bà còn có được quyền lực tuyệt đối khi hành quyết Thượng Quan Nghi và Lý Trung vào tháng 1 năm 665, và từ đó bà ngồi sau vị hoàng đế lúc ấy đã câm lặng để coi chầu (có lẽ bà ngồi sau một bức màn phía sau ngai vàng) và đưa ra các quyết định. Bà cai trị dưới tên chồng và sau khi ông chết thì dưới tên của các vị vua bù nhìn tiếp theo (con bà Hoàng đế Trung Tông và sau đó là đứa con khác Hoàng đế Duệ Tông), chỉ thực sự chiếm hẳn quyền lực vào tháng 10 năm 690, khi bà tuyên bố lập ra nhà Chu, lấy tên theo tên thái ấp của Cha bà và muốn sánh ngang với triều đại rực rỡ nhà Chu trước đó thời cổ Trung Quốc mà bà coi gia đình họ Võ có nguồn gốc từ đó. Tháng 12 năm 689, mười tháng trước khi bà chính thức lên ngôi, bà bắt triều đình đưa ra chữ mới Chiếu , cùng với 11 chữ khác để trưng ra quyền lực tuyệt đối của bà và chọn chữ mới này làm tên thánh của mình, sau đó nó thành chữ húy khi bà lên ngôi mười tháng sau. Chữ này được tạo ra từ hai chữ có từ trước là chữ "minh" ở bên trên có nghĩa là "ánh sáng" hay "sự sáng suốt"; chữ "không" ở dưới có nghĩa là "bầu trời". Ý nghĩa của nó ám chỉ rằng bà giống như ánh sáng chiếu xuống từ bầu trời. Thậm chí cách đánh vần của chữ mới này cũng giống hệt như chữ "chiếu" trong tiếng Trung Quốc. Khi lên ngôi, bà tuyên bố mình là Hoàng đế Thánh Thần, người phụ nữ đầu tiên nắm chức "hoàng đế" vốn đã được phát minh ra từ 900 năm trước bởi hoàng đế đầu tiên là Tần Thủy Hoàng. Thêm nữa, bà là người phụ nữ duy nhất trong lịch sử 2100 năm của triều đình Trung Quốc được ngồi lên ngôi rồng, và điều này một lần nữa lại gây sốc cho những nhà nho đạo Khổng.
Lý thuyết chính trị Trung Quốc truyền thống không cho phép một phụ nữ được lên ngôi, Vũ hậu quyết định dẹp yên chống đối và đưa các quan lại trung thành vào triều. Thời cai trị của bà để dấu ấn về sự xảo quyệt tài tình và chuyên quyền hung bạo. Dưới thời cai trị, bà lập ra Cảnh sát mật để đối phó với bất kỳ chống đối nào có thể nổi lên. Bà được hai người sủng thần là anh em Trương Dịch Chi, và Trương Xương Tông ủng hộ. Bà lấy lòng dân bằng cách tán thành Phật giáo nhưng trừng trị nghiêm khắc các đối thủ bên trong gia đình hoàng gia và quý tộc. Tháng 10 năm 695, sau nhiều lần thêm chữ, tên của bà được đổi thành Thiên Sách Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế , một cái tên đã không bị thay đổi cho tới tận cuối thời cai trị của bà.
Ngày 20 tháng 2 năm 705, lúc này bà đã hơn tám mươi tuổi và ốm yếu, Võ hậu không thể ngăn chặn một cuộc đảo chính giết hại hai anh em họ Trương. Quyền lực của bà cũng kết thúc ngày hôm đó, bà buộc phải lùi bước, hoàng đế Trung Tông được tái lập, nhà Đường lại tiếp tục từ ngày 3 tháng 3 năm 705. Võ hậu chết chín tháng sau đó, có lẽ bà cũng được an ủi rằng cháu trai của mình Võ Tam Tư, con người em họ và cũng tham vọng và hấp dẫn như bà, đã gắng sức nhằm trở thành người chủ thực sự của triều đình, kiểm soát vị hoàng đế vừa được tái lập thông qua hoàng hậu của ông ta, người mà ông đã có tình ý từ trước.
Mặc dù chỉ tồn tại một thời gian ngắn, theo một số nhà sử học, nhà hậu Chu đã có được một hệ thống bình đẳng xã hội về giới tốt hơn so với nhà Đường tiếp sau nó.
Thượng Quan Uyển Nhi
Thượng Quan Uyển Nhi là cháu gái Thượng Quan Nghi, hiệu xưng Cân Quốc Thủ Tướng, là một trong những phụ nữ tài năng nhất của lịch sử Trung Quốc, cũng là một trong những mỹ nữ hứng chịu nhiều điều bi thảm.
Ông của Uyển Nhi là Thượng Quan Nghi phò Đường Cao Tông, đã thất bại trong nỗ lực phế truất Võ Tắc Thiên và bị hành hình. Cha của Uyển Nhi cũng bị ép phải tự vẫn. Uyển Nhi và mẹ là Trịnh phu nhân trở thành nô lệ trong cung điện hoàng đế.
Thượng Quan Uyển Nhi xinh đẹp, thông minh mẫn tiệp lạ thường, nàng thông thuộc thi thư, ngâm thơ, viết văn, thấu hiểu chuyện xưa nay. Hoàng đế Võ Tắc Thiên rất ấn tượng với nàng, sau khi lên ngôi liền phong cho Uyển Nhi một chức quan văn chuyên thảo những chỉ dụ, sắc lệnh. Uyển Nhi đem lòng thương yêu một trong những người tình của Võ Tắc Thiên, và khi nữ hoàng họ Võ phát hiện sự việc, bà đã trừng phạt nàng bằng cách khắc hình bông hoa lên trán Uyển Nhi. Tuy nhiên, điều này lại càng làm cho Uyển Nhi thêm quyến rũ hơn.
Uyển Nhi cũng bắt đầu quan hệ tình cảm với Võ Tam Tư, cháu trai Võ Tắc Thiên - sau này trở thành người có quyền lực và ảnh hưởng lớn. Sau khi Võ Tắc Thiên buộc phải thoái vị vì tuổi đã cao, con trai thứ ba của bà là Đường Trung Tông trở thành hoàng đế, khôi phục lại triều Đường, chấm dứt triều đại nhà Chu ngắn ngủi.
Vợ của Đường Trung Tông là Vi Hậu cũng dan díu với Võ Tam Tư. Để tránh những rắc rối, Võ Tam Tư đã quyết định tiến cử Thượng Quan Uyển Nhi với Trung Tông.
Trung Tông đã có thời gian dài tiếp xúc với Uyển Nhi, hiểu rõ sắc đẹp và tài năng của nàng, và rất sủng ái Uyển Nhi, nàng trở thành một trong những ái phi của Trung Tông. Quyền lực của Uyển Nhi ngày một lớn ở chốn hậu cung, nhưng vẫn duy trì chức quan văn trong hoàng cung - một sự nghiệp chưa từng có với một phi tần. Thượng Quan Uyển Nhi và Vi Hậu vẫn duy trì cuộc tình tay ba cùng Võ Tam Tư.
Trung Tông là một người đàn ông bạc nhược, không dám đối mặt với vợ và chỉ im lặng trước mọi lời đồn đại. Vi Hậu ngày càng khao khát được tiếp bước Võ Tắc Thiên. Mong muốn của Vi Hậu được con gái là công chúa An Lạc và Thượng Quan Uyển Nhi khuyến khích. Trở ngại chính của họ lúc này là Thái tử Lý Trùng Tuấn. Cả ba người bấy giờ đều khẳng định quyết tâm loại bỏ Trùng Tuấn, thành lập triều đại riêng dưới sự trị vì của Vi Hậu.
Công chúa An Lạc rất được Trung Tông cưng chiều vì xinh đẹp và khéo ăn nói. An Lạc bắt đầu dèm pha Lý Trùng Tuấn và muốn trở thành người nối ngôi vua cha. Trung Tông lưỡng lự nhưng rồi rốt cuộc đã từ chối An Lạc vì nghe theo lời khuyên của Tể tướng đầu triều. An Lạc sau đó bắt đầu thù ghét cha. Lý Trùng Tuấn nhận thấy rõ tình thế nguy hiểm của mình, đã thực hiện cuộc binh biến năm 707 với sự giúp đỡ của tể tướng và một số đại thần.
Lí Trùng Tuấn tuyên bố nhận được mật lệnh của vua Trung Tông rằng, Võ Tam Tư và Thượng Quan Uyển Nhi âm mưu giết vua, đem theo 300 lính ngự lâm quân tới nơi ở của Võ Tam Tư, giết chết Võ Tam Tư và hơn 10 kẻ hầu người hạ khác. Công chúa An Lạc may mắn thoát thân vì đang ở cung hoàng đế. Nhưng Trùng Tuấn đã tự mình dẫn theo lính tới cung vua, tìm Vi hậu và An Lạc. Công chúa An Lạc được Trung Tông che chở an toàn ở Cửa Huyền Vũ, khi Trùng Tuấn đến nơi thấy Trung Tông ngồi ở trên thành cùng Thượng Quan Uyển Nhi. Uyển Nhi sợ vua nghe theo lời con bèn nói: "Thiếp tin là đầu tiên hắn muốn bắt thiếp, sau đó là hoàng hậu và cuối cùng là cả hoàng đế’’.
Trung Tông tin theo, bèn ra lệnh ngăn chặn cuộc binh biến của Lý Trùng Tuấn. Một hoạn quan khá nổi tiếng về lòng dũng cảm đã dẫn đầu đội ngự lâm quan tấn công Trùng Tuấn, giết chết tướng chỉ huy. Lính tham gia binh biến bắt đầu nao núng. Vua Trung Tông bấy giờ ban chỉ dụ thu phục quân lính tham gia đội binh biến. Bấy giờ, ngự lâm mới biết không phải Trung Tông ra lệnh giết Võ Tam Tư cùng bè đảng, bèn quay giáo giết các tướng chỉ huy. Trùng Tuấn trốn khỏi Trường An với vài trăm người thân tín, nhưng rồi bị một kẻ dưới quyền giết chết khi đang ngủ.
Vi Hậu bấy giờ quyết định gia tăng thanh thế của mình, phong tước vị cho rất nhiều con cháu thân thuộc với âm mưu thay thế triều Đường bằng một triều đại của riêng mình. Công chúa An Lạc, sau cái chết của chồng ở vụ binh biến, đã tái hôn, và dan díu với con chồng cùng nhiều người khác như một nhà sư, một thái y, một đầu bếp hoàng gia...
Trung Tông bắt đầu không thể chịu nổi cuộc sống phóng đãng của vợ và con gái, năm 710 quyết định phế truất Vi Hậu. Khi biết điều này, Vi Hậu và công chúa An Lạc âm mưu giết vua. Thái y chuẩn bị thuốc độc, đầu bếp trộn thuốc vào những chiếc bánh bao chế biến hấp dẫn, công chúa tự mình dâng vua món ăn. Hoàng đế Trung Tông sau khi ăn bánh bao đã qua đời.
Thượng Quan Uyển Nhi đã ép Trung Tông lập chiếu nhường ngôi cho con thứ tư của một phi tần là Lý Trọng Mậu (Thiếu Đế) tuổi còn nhỏ. Vi Hậu trở thành người nắm giữ triều chính với tư cách Hoàng Thái Hậu nhiếp chính.
Sau này, Lý Đán lên ngôi, phế truất Lý Trọng Mậu. Vi Hậu, công chúa An Lạc và Thượng Quan Uyển Nhi bị giết chết.
Cuộc đời của Thượng Quan Uyển Nhi, theo những sử gia Nho giáo, là ví dụ nổi trội cho một hình mẫu phụ nữ tài năng nhưng phóng đãng. Mối quan hệ phức tạp của Thượng Quan Nhân với Võ Tam Tư (người tình), Vi Hậu (đồng minh và tình địch), Trung Tông (hoàng đế và chồng) có lẽ luôn bị coi là trái luân thường đạo lý, là đầy rẫy âm mưu. Nhưng cũng cần đề cập tới một thực tế là, mọi điều có thể sẽ tồi tệ hơn nhiều nếu Vi Hậu và công chúa An Lạc bắt đầu một triều đại mới kiểu ’’gia đình trị’’ họ Vi mà không có sự can thiệp của nhiều thế lực khác, trong đó có Thượng Quan Uyển Nhi.
Công chúa Thái Bình
Công chúa Thái Bình (khoảng 665-713) là danh hiệu của một công chúa thời nhà Đường ở Trung Quốc, con gái của Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên, có lẽ có tên thật là Lý Lệnh Nguyệt .
Thái Bình công chúa là vị công chúa nhiều tham vọng, quyền thế nhất trong triều nhà Đường, nhưng có kết cục bi thảm.
Năm 681 bà lấy Tiết Thiệu, con trai của cuộc hôn nhân lần thứ hai của người chị hoàng đế Cao Tông là công chúa Thành Dương với Tiết Quán (hay Tiết Diệu). Với Tiết Thiệu bà sinh ra ba người con trai là Tiết Sùng Giản, Tiết Sùng Mẫn và Tiết Sùng Hành. Năm 688, Việt Kính vương Lý Trinh cùng con trai của ông là Lang Nha vương Lý Xung nổi dậy chống lại Võ Tắc Thiên và thất bại. Cả ba anh em Tiết Di, Tiết Thiệu, Tiết Tự bị nghi là có liên quan tới Lý Xung và đều bị bắt. Tiết Di, Tiết Tự bị chặt đầu còn Tiết Thiệu bị đánh 100 roi và bỏ chết đói trong ngục.
Năm 690, Võ Tắc Thiên định gả công chúa Thái Bình cho Ngụy Tuyên vương Võ Thừa Tự, nhưng do Võ Thừa Tự có bệnh nên cuộc hôn nhân này phải hủy (có thuyết cho rằng công chúa không thích Võ Thừa Tự). Vì thế Võ Tắc Thiên gả công chúa cho Võ Du Kị, một người cháu khác cũng gọi Võ Tắc Thiên bằng cô. Do Võ Du Kị đã có vợ nên Võ Tắc Thiên đã buộc người vợ này của Du Kị phải tự sát.
Võ Tắc Thiên ở khi tuổi già lập Phụng Thần Phủ để tuyển chọn nhiều thanh niên tuấn tú đưa vào đó để phục vụ và thỏa mãn dục vọng của mình, trong số đó có Trương Xương Tông vốn được công chúa Thái Bình giới thiệu để hầu hạ cho nữ hoàng vào khoảng năm 697. Xương Tông lại giới thiệu tiếp người anh của mình là Trương Dịch Chi.
Nữ hoàng vô cùng sủng ái Trương Dịch Chi và Trương Xương Tông, phong Tông làm Vân Huy tướng quân, còn Dịch Chi làm Tư Vệ thiếu khanh. Rồi ngày càng say đắm cưng chiều khiến hai tên ngày càng lộng quyền, thậm chí Trương Dịch Chi ngoại tình với nữ quan thân cận nhất của Võ Tắc Thiên là Thượng Quan Uyển Nhi. Thế lực của hai anh em ngày càng lớn mà Võ Tắc Thiên thì không ra khỏi cung nữa.
Tháng 2 năm 705, tể tướng Trương Giản Chi dẫn 500 quân tiến đánh vào hoàng cung, giết hai anh em họ Trương, ép buộc nữ hoàng Võ Tắc Thiên truyền ngôi cho thái tử Lý Hiển. Võ Tắc Thiên lúc đầu không chịu, nhưng Thái Bình công chúa đã thuyết phục mẹ thoái vị về làm thái thượng hoàng, Lý Hiển lên ngôi lần thứ hai khôi phục lại nhà Đường sau 15 năm gián đoạn, tức là Đường Trung Tông (lần trước chính Võ Tắc Thiên lập lên và phế bỏ). Chín tháng sau, Võ Tắc Thiên qua đời. Với công lao của mình, bà được tôn là Trấn Quốc Thái Bình công chúa, được lập phủ riêng, ăn lộc năm nghìn hộ.
Đường Trung Tông lên ngôi lần thứ hai, Thái Bình công chúa dần tham gia vào chính sự. Lúc đó vợ con của Trung Tông là Vi hoàng hậu và An Lạc công chúa lộng hành trong ngoài cung, duy chỉ e ngại có Thái Bình công chúa mà thôi. Năm 709, thái tử Lý Trọng Tuấn làm phản bị giết, nhân đó An Lạc vu cáo Thái Bình và Tương vương Lý Đán đồng mưu với thái tử, nhưng xét ra không đúng, do đó Thái Bình và An Lạc đối địch công khai.
Tháng 6 năm 710, Đường Trung Tông băng hà, do Vi hoàng hậu và An Lạc công chúa hạ độc. Vi hoàng hậu muốn nhân đó chiếm ngôi vị, làm một Võ Tắc Thiên tiếp theo, nhưng Thượng Quan Uyển Nhi đã cùng Thái Bình công chúa đưa di chiếu lập Ôn vương Lý Trọng Mậu làm vua, tức Đường Thương Đế, Vi hoàng hậu thành Hoàng thái hậu, cùng nhiếp chính, Tương vương Lý Đán cũng tham chính.
Tháng 7 năm đó, Thái Bình công chúa hiệp sức với con của Lý Đán là Lý Long Cơ tiến hành chính biến, tiêu diệt Vi thái hậu và bè đảng, Thượng Quan Uyển Nhi cũng bị giết chết, phế bỏ Đường Thương Đế.Tương vương Lý Đán được lập lên làm vua, tức là Đường Duệ Tông (lên ngôi lần thứ hai), phong Lý Long Cơ làm thái tử. Thái Bình công chúa có công lớn, được phong Vạn hộ, trở thành vị công chúa quyền thế nhất trong triều đại nhà Đường.
Tuy nhiên, sau đó Thái Bình và Lý Long Cơ lại tranh giành quyền lực, bà từng khuyên Duệ Tông phế thái tử nhưng không được, nên tích cực gây dựng phe cánh của mình. Có lúc trong bảy vị đại thần đầu triều thì năm người theo Thái Bình công chúa, chỉ có Diêu Sủng, Tống Cảnh không theo. Duệ Tông cũng muốn hòa giải nhưng không được, dần dần không quan tâm đến triều chính.
Năm 712, Đường Duệ Tông lui về làm thái thượng hoàng, truyền ngôi cho Lý Long Cơ (tức Đường Huyền Tông). Cùng năm đó chồng của Thái Bình công chúa là Võ Du Kị qua đời.
Năm 713, Thái Bình công chúa chuẩn bị khởi loạn, tìm cách nắm giữ ngự lâm quân. Lý Long Cơ quyết định ra tay trước, giết tướng của ngự lâm quân. Thái Bình công chúa thấy việc đã hỏng, bỏ chạy đến trốn ở chùa Nam Sơn trong ba ngày. Thái thượng hoàng Duệ Tông đành phải ra mặt xin Lý Long Cơ tha chết cho em gái, nhưng Lý Long Cơ từ chối. Cùng đường, Thái Bình công chúa đành phải tự tử. Mộ của chồng bà là Võ Du Kị cũng bị san bằng.
Triệu Lệ Phi
Triệu Lệ Phi vốn là một kỹ nữ có tiếng ở đất Lộ Châu. Chuyện kể rằng từ năm Cảnh Long thứ 2 tới năm Cảnh Long thứ 4, tức từ năm 708 – 710, Đường Huyền Tông, khi đó vẫn còn là Lâm Tri Vương được phái đến Lộ Châu làm chức Biệt giá.
Trong thời gian làm quan tại đây, Huyền Tông đã gặp cô kỹ nữ họ Triệu, vừa xinh đẹp lại giỏi ca múa vì vậy quyết định lấy Triệu thị về làm vợ bé. Trong suốt thơi gian này, Huyền Tông vô cùng sủng ái Triệu thị.
Sau khi Đường Trung Tông bị vợ là Vĩ Hoàng hậu cùng An Lạc Công chúa hạ độc giết chết, triều đình nhà Đường đại loạn. Đường Huyền Tông tự phong là Bình Vương liên kết với Thái Bình Công chúa phát động binh biến, tấn công vào kinh thành Trường An, giết chết Vĩ Hoàng hậu.
Sau khi bình định phản loạn, Huyền Tông đưa cha mình là Lý Đán lên ngôi vua, sử gọi là Đường Duệ Tông còn bản thân được phong làm hoàng thái tử.
Lúc bấy giờ, với thân phận là sủng thiếp của thái tử, cha và anh của Triệu thị được Huyền Tông cất nhắc, đều làm những chức quan to trong triều đình.
Sau khi Huyền Tông lên ngôi, năm Khai Nguyên thứ 3, tức năm 715, con trai do Triệu thị sinh ra Lý Tự được phong làm thái tử. Điều đó đủ thấy Huyền Tông sủng ái người vợ xuất thân kỹ nữ này tới mức nào.
Chưa dừng lại ở đó, sau khi Vương Hoàng hậu bị phế truất, Huyền Tông còn đặc cách phong cho Triệu thị trở thành Lệ Phi, một trong ba quý phi có tước vị chỉ dưới hoàng hậu. Tuy nhiên, sau đó, do Huyền Tông sủng ái Võ Huệ Phi nên dần lạnh nhạt với Triệu Lệ Phi.
Tới năm 737, do âm mưu của Huệ Phi, ngôi vị thái tử của con trai Triệu Lệ Phi là Lý Tự cũng bị phế truất. Gia tộc họ Triệu một thời nổi đình nổi đám vì người con kỹ nữ được Hoàng đế sủng ái nay nhanh chóng lụi tàn.
Dương Quí Phi
Tên là Dương Ngọc Hoàng, nguyên là vợ của Thọ Vương Mạo . Thọ Vương Mạo là con của vua Ðường Huyền Tông (tên thật là Lý Long Cơ, còn gọi là Ðường Minh Hoàng. Triều Ðường: 618 - 907), nhưng vì quá say mê sắc đẹp của Dương Quý Phi nên Ðường Huyền Tông chiếm đoạt và phong làm Quý Phi, gọi là Dương Quý Phi.
Dương Quý Phi vừa đẹp, vừa thông minh nên vua Ðường đắm đuối yêu thương, bỏ mặc việc triều chính cho gian thần Lý Lâm Phủ trông coi. Lúc bấy giờ An Lộc Sơn, người Hồ, là tướng dũng mãnh, được nhà vua trọng dụng. Nhất là đối với Dương Quý Phi, nhờ khéo léo nịnh nọt nên họ An rất được yêu thương. An Lộc Sơn xin làm "con nuôi" của Dương Quý Phi để tiện ra vào làm chuyện gian dâm với Dương Quý Phi!
Năm 755, An Lộc Sơn cử đại binh làm phản, đem 150,000 binh lính Khiết Ðan từ Phạm Dương kéo về chiếm Hà Bắc, Hà Nam, công hãm thành Lạc Dương, tự xưng là Yên Ðế rồi tấn công thẳng vào kinh đô Trường An. Binh triều đại bại, vua cùng một số quần thần phải bỏ kinh thành chạy vào Ba Thục.
Ðến Mã Ngôi, tướng sĩ không chịu chạy nữa, đồng lòng giết chết gian thần Dương Quốc Trung (anh họ của Dương Quý Phi) và bức bách vua Ðường phải thắt cổ Dương Quý Phi thì họ mới chịu phò vua. Lương thực hết, quân sĩ bất mãn, gặp bước đường cùng, vua Ðường đành dấu mặt, đứt ruột mà hy sinh "người đẹp khuynh nước, khuynh thành." Mối tình vương giả này sẽ bị chìm vào quên lãng nếu không có ngòi bút tài hoa của Bạch Cư Dị tô điểm cho thêm phần lâm ly bi đát.
Bạch Cư Dị tự Lạc Thiên, quê ở Thái Nguyên, Sơn Tây, đậu Tiến sĩ năm 27 tuổi, nhậm chức Hàn lâm học sĩ. Chứng kiến cảnh thảm khốc của một bi tình lụy của Ðường Minh Hoàng, họ Bạch cảm xúc làm bài "Trường hận ca" nổi tiếng, được dịch qua tiếng Pháp bởi Georges Soulié de Morant và tiếng Việt bởi Yã Hạc và Trinh Nghiên. Vì bài "Trường hận ca" dài quá nên chỉ liệt kê 4 câu cuối như sau:
(Tại thiên nguyện tác tị dực điểu,
Tại địa nguyện vi tiên lý chị
Thiên trường địa cửu hữu thời tận,
Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ)
Trên trời nguyện hóa chim liền cánh,
Dưới đất làm cây nhánh dính liền.
Trời Ðất lâu bền rồi sẽ tận,
Hận này muôn thuở vẫn miên miên...
Tập "Tây Bắc thảm kỳ" của Ðào Ngọc Sơn đời nhà Minh (1368 - 1628) có chép truyện "Quái nham Quý Phi toàn dục bích họa", nghĩa là bức họa trên vách tả cảnh Dương Quý Phi tắm suối ở Quái Nham.
Quái Nham là một hòn núi hiểm hóc ở Thiểm Tây, không có dấu chân người Ðường Minh Hoàng đã hạ chỉ bắt xây dựng cầu mây để đưa Dương Quý Phi vào đó vui chơi, tốn kém không biết bao nhiêu là tiền của, chưa kể nhiều người chết do làm cầu. Cửa hang nơi Dương Quý Phi vào tắm thì càng vào trong càng rộng. Tới mãi trong cùng thì có một bãi đất lộ thiên rộng tới vài chục mẫu, cỏ mọc xanh rờn như một tấm nệm trải phẳng phiu. Có nhiều thứ cây lạ. Chung quanh bãi ấy, thân núi dựng đứng như bức tường dài. Vách núi nhiều chỗ lại phẳng trơn như mài, bóng loáng rất đẹp. Dưới những vách đá là một con suối chảy lượn theo triền núi. Cách khoảng có những giọt nước từ trên khe đá tí tách rơi xuống hay những tia nước từ trong các mạch đất cuồn cuộn tuông ra, hợp với tiếng nước suối chảy tạo nên những tiếng nhạc êm tai. Dòng suối lại có những khúc rất sâu, nước trong vắt thấy tới đáy! Thật là một cảnh thần tiên.
Ngày nay, di tích Dương Quý Phi vẫn còn. Trên vách đá phía Ðông thấy có hàng chữ "Dương Quý Phi toàn dục diễm tích" (dấu vết xinh đẹp khi Dương Quý Phi tắm suối). Các nét vẽ đều chạm khắc sâu vào thân vách nên dù có hơi phai nhạt màu nhưng trông như mới. Tất cả chừng 10 bức vẽ: lúc Dương Quý Phi cổi áo, lúc nàng nghịch nước, lúc lội suối với ngấn nước trong veo dần dần mờ in trên thân hình tha thướt, uyển chuyển, da trắng như tuyết, .... Dưới các bức vẽ có đề ngày 25 tháng 5 năm Thiên Bảo thứ 10 (tức năm 752). Cuốn "Dị Văn Lục" chép khúc vũ Nghê Thường là do Ðường Minh Hoàng lên chơi cung trăng mà ra. Lúc ấy, trăng sáng Ðường Minh Hoàng mơ được lên chơi cung trăng. Ðạo sĩ La Công Viễn dùng phép tiên biến giải lụa trắng thành chiếc cầu đưa Ðường Minh Hoàng lên nguyệt điện. Trong điện có tiếng nhạc du dương, các nàng tiên xiêm y lộng lẫy, mùi nước hoa quyến rũ đâu đây, uyển chuyển múa hát như đàn bướm muôn màu tha thướt bay lượn bên hoa. Ðường Minh Hoàng càng nhìn càng say mê, quên cả trời gần sáng, nếu không có La Công Viễn nhắc thì đã ...quên trở về hạ giới. Khi trở về, Ðường Minh Hoàng nhớ lại và ghi thành khúc "Nghê thường vũ y" để rồi cứ đến rằm tháng Tám, Ðường Minh Hoàng cùng Dương Quý Phi uống rượu dưới trăng, ngắm đoàn cung nữ múa khúc Nghê Thường mà tưởng chừng như đang ở Nguyệt điện.
Tài liệu trên có tính cách thần thoại. Còn cuốn "Ðường Thư" ghi có phần thực tế hơn như sau:
Ðường Minh Hoàng mơ lên chơi Nguyệt điện, thấy các tiên nữ mặc áo cánh chim, xiêm y ngũ sắc, hát bài "Tây thiên điệu khúc"; đến khi trở về hạ giới thì còn nhớ mang máng. Nhằm lúc đó, có Tiết độ sứ là Trương Kính Thuật từ Tây Lương (Cam Túc ngày nay), đem khúc hát Bà La Môn đến hiến nên Ðường Minh Hoàng truyền đem san định lại và đổi tên là khúc "Nghê thường vũ y". (Nghê: cầu vồng. Thường: xiêm ỵ Nghê thường nghĩa là xiêm y may bằng vải năm màu của cầu vồng. Vũ y: áo dệt bằng lông chim). Ðúng ra, căn cứ vào các tài liệu sử học và khoa khảo cổ, người ta cho rằng khúc "Nghê thường vũ y" là một vũ khúc Ấn Ðộ truyền sang Trung quốc qua "con đường tơ lụa" (route de la soie), khi đến Trung quốc thì được cải biến cho hoàn chỉnh hơn.
Trong "Cung Oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều có câu:
Dẫu mà tay múa, miệng xang,
Thiên tiên cũng ngảnh Nghê thường trông trăng
Trong "Bích câu kỳ ngộ" có câu:
Ðong đưa khoe thắm, đưa vàng,
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha
Quắc Quốc Phu nhân
Tên thật chưa rõ, nhiều sách ghi là Dương Ngọc Dao, lại có sách ghi là Dương Lan Lan – con gái thứ 3 của Tư mã Tham quân Thục Châu Dương Huyền Diễm. Từ nhỏ đã thông minh lanh lợi, lại rất thân thiết với em gái Dương Ngọc Hoàn nên khi Ngọc Hoàn được phong làm Quý Phi, nàng cũng được Huyền Tông phong là Quắc Quốc Phu nhân.
Lúc nàng còn khá trẻ đã trở thành quả phụ, bản tính lại lẳng lơ thiếu giữ gìn, nàng vừa là nhân tình của Dương Quốc Trung vừa dụ dỗ biết bao hoàng thân quốc thích, thậm chí mồi chài cả hoàng thượng khiến Quý phi ghen tuông như bão táp gây ra trận phong ba rất lớn.
Giai thoại về Quắc Quốc Phu nhân: Một lần, vào sinh nhật của Huyền Tông, nàng đã chuẩn bị một tiết mục đặc biệt mừng sinh nhật hoàng thượng. Nhưng do luyện tập mệt mỏi nên đã thức dậy muộn, chưa trang điểm đã vội vàng vào cung. Huyền Tông thấy Quắc Quốc phu nhân tuy chưa trang điểm nhưng lại có vẻ đẹp khác thường, đôi má ửng hồng, những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, sức sống rào rạt như đóa phù dung sau cơn mưa. Có người đã viết bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của nàng:
Khước hiềm chi phấn ô nhan sắc
Đạm tảo ma mi triều chí tôn
———————-
Chỉ hiềm son phấn ô nhan sắc
Tô nhẹ mày ngài hầu quốc vương
1 đoạn khác:
Nói đến Quắc Quốc phu nhân, người ta sẽ liên tưởng ngay đến người con gái loạn lung, thiên kim tiểu thư tiêu xài phung phí, nhưng là bậc giai nhân sắc nước hương trời, vô cùng sắc sảo và phong lưu đa tình. Sau khi cô em Dương Ngọc Hoàn được sủng ái, là chị của Quý phi, Quắc Quắc phu nhân cũng nhận được ân điển, có xe ngựa đưa rước, lụa là châu báu chất đầy, trở nên vô cùng rực rỡ. Nàng một mặt dựa vào thế của đứa em, nhận tiền hối lộ, can thiệp triều chính, tạo mối quan hệ với quan thần và chiêu mộ thuộc hạ dưới trướng, mặt khác lại liếc mắt đưa tình với Đường Huyền Tông, không hề có chút tránh kỵ mà ở cùng phòng với người anh họ Dương Quốc Trung. Nàng từ nhỏ được giáo dục tốt, có thể nói là một mỹ nhân tài sắc vẹn toàn. Nhưng vốn tính cao ngạo, Quắc Quốc phu nhân tự thấy mình xinh đẹp phong lưu hơn người, không hề thích trang điểm. Mỗi lần vào cung, ai ai cũng trang điểm thật lộng lẫy, riêng chỉ nàng là trang điểm tùy ý mờ nhạt diện thánh. Quắc Quốc phu nhân cực kỳ xinh đẹp lại cá tính, không chỉ nhận được sủng ái của Huyền Tông mà còn được đặc quyền tự do ra vào cung gặp hoàng thượng bất cứ lúc nào.
Công chúa Văn Thành
Trên lịch sử Trung Quốc, có rất nhiều công chúa hoặc con gái giòng họ nhà vua gả cho quốc vương nước ngoài, trường hợp này chia làm hai loại: Một là vì quốc lực suy yếu, làm thông gia với hoàng tộc nước ngoài có thể chiếu cố tới toàn cục; hai là quốc lực hùng mạnh, làm thông gia với những nước láng giềng để giữ gìn an ninh cho khu vực biên giới. Vào thời kỳ Đường Thái tông Lý Thế Dân, công chúa Văn Thành gả đi xa cho Thổ Phan, nàng là mẫu mực của trường hợp thứ hai.
Thổ Phan chính là khu vực Tây Tạng ngày nay. Người Thổ Phan sống bằng nghề chăn nuôi là chính. Thế kỷ thứ 7 công nguyên, Chi-tông-nông-chan nối ngôi là vua Thổ Phan, mọi người gọi ông là Sông-chan-can-pu. Ông là một vị lãnh tụ dũng cảm oai phong, dẫn quân đi thống nhất nhiều bộ lạc trên cao nguyên Thanh Hải Tây Tạng, thết lập vương quốc hưng thịnh, đóng đô tại La Sa ngày nay.
Năm 639 công nguyên, Song- chan- can- pu đưa quân tấn công Tùng Châu, một thành phố biên giới thời nhà Đường, bị quân nhà Đường đánh bại, Sông-chan-can-pu đành cúi đầu xưng thần, lại còn cầu hôn với triều đình nhà Đường. Đường Thái Tông bèn nhận lời, ông tuyển chọn cô con gái giòng họ nhà vua giỏi làm thơ viết sách, và phong nàng là công chúa Văn Thành rồi đem gả nàng cho Sông-chan-can-pu.
Trải qua hơn một tháng lặn lội gian khổ, gió thổi tuyết bay, công chúa Văn Thành mới tới được Hà Nguyên—nơi bắt nguồn của sông Hoàng Hà, Sông-chan-can-pu đích thân dẫn rất nhiều người và ngựa ra đây đứng đợi nghênh tiếp. Gái thì xinh đẹp thùy mị, trai thì khôi ngô tuấn tú, thế là hai người đều phải lòng nhau. Sông-chan-can-pu liền tổ chức lễ cưới linh đình, ngoài ra còn cho xây riêng một cung điện nguy nga hoành tráng tặng công chúa Văn Thành, ao nước cỏ cây, đình đài lầu các trong cung đình đều được thiết kế theo phong cách kiến trúc cung điện triều đình nhà Đường. Để có càng nhiều điểm chung với công chúa Văn Thành, Sông-chan-can-pu liền thay trang bộ phục nhà Đường do chính Công chúa cắt khâu cho, ngoài ra còn nhờ công chúa dạy tiếng Hán cho mình, hai vợ chồng tôn trọng lẫn nhau, thương yêu nhau nhất mực.
Sau khi đời sống đã được ổn định, các tùy tùng cùng công chúa đến Thổ Phan bắt đầu triển khai nhiệm vụ của mình. Các nhạc công dân tộc Hán diễn tấu nhạc dân tộc Hán, khiến cho loại âm nhạc này càng trở nên chính quy. Sông-chan-can-pu ra lệnh cho con cháu các đại thần và quý tộc học văn hoá dân tộc Hán. Ngoài ra ông còn tuyển chọn một số thanh niên nam nữ dân tộc Tạng đến thành đô Tràng An nhà Đường để học tập.
Các thợ kỹ thuật nông nghiệp dạy kỹ thuật canh tác cây lương thực cho học viên Thổ Phan, đặc biệt dạy họ phương pháp trồng dâu nuôi tằm, khiến cho người Thổ Phan cũng có hàng dệt tơ lụa của mình. Tất cả những việc này, đã nâng cao rất nhiều đời sống của bà con Thổ Phan, nhân dân Thổ Phan hết sức cảm kích công lao của công chúa Văn Thành.
Năm 650, Đường Thái Tông Lý Thế Dân băng hà, thái tử lên nối ngôi, hoàng đế mới phong Sông-chan-can-pu là Tây Hải Quận vương, rồi cử người mang theo nhiều vàng bạc châu báu, tơ lụa, thơ tập và các loại hạt giống đi Thổ Phan tăng cho Sông-chan-can-pu, ngoài ra còn mang tặng cho công chúa Văn Thành đồ trang sức và mỹ phẩm, để khen ngợi công đức hòa thân của công chúa Văn Thành.
Trong thời kỳ này, các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa v v ... của Thổ Phan đã có sự phát triển vượt bậc, do vậy mà làm bá chủ vùng Tây vực, Thổ Phan đã trở thành tấm bình phong của triều đình nhà Đường tại phía Tây. Về sau, do nhiều nguyên nhân, Đường Cao Tông cử đại tướng Tiết Nhân Thọ dẫn quân đi đánh Thổ Phan, từ đó quan hệ của hai bên dần dần xa lánh nhau.
Kể từ ngày công chúa Văn Thành gả cho Sông-chan-can-pu, cho đến khi triều đình nhà Đường đưa quân đi đánh Thổ Phan, trong suốt 30 năm, do công chúa đa tài lắm nghệ, đã có sự ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của Thổ Phan và ổn định của triều đình nhà Đường. Đáng tiếc là Đường Cao Tông không biết nâng niu quý trọng, nông nổi gieo rắc chiến tranh, khiến cục diện hòa mục giữa nhà Đường và Thổ Phan do công chúa Văn Thành khổ tâm kinh doanh, thật khiến mọi người người phải đau lòng. Năm 680, công chúa Văn Thành lâm bệnh rồi qua đời, nhân dân thổ Phan hết sức đau lòng, họ xây rất nhiều chùa ở khắp nơi để thờ công chúa Văn Thành. Đến nay, công chúa Văn Thành và các sứ giả hữu nghị cùng đi với công chúa năm xưa vẫn được nhân dân Tây Tạng coi là thần linh.
Tiết Đào
Nữ thi nhân thời Đường, người gọi là Nữ Hiệu Thư, từng xướng họa cùng thi nhân nổi tiếng đương thời Nguyên Trẩn, thực lực không thua kém. Tác phẩm tiêu biểu : Ngô Đồng Thi (làm khi mới 8 tuổi)
Đình trừ nhất cổ đồng,
Tủng cán nhập vân trung,
Chi nghênh nam bắc điểu,
Diệp tống vãng lai phong.
Tiết Đào (770-832), tự Hồng Độ. Cha Tiết Vân là một viên tiểu lại ở kinh đô, sau loạn An Sử dời đến ở Thành Đô, Tiết Đào sinh vào năm thứ 3 Đại Lịch thời Đường Đại Tông. Lúc còn nhỏ đã thể hiện rõ thiên phú hơn người, 8 tuổi đã có thể làm thơ, cha từng ra đề “Vịnh Ngô Đồng”, ngâm được 2 câu “Đình trừ nhất cổ đồng, tủng cán nhập vân trung”; Tiết Đào ứng thanh đối ngay : “Chi nghênh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong”. Câu đối của Tiết Đào như dự đoán trước mệnh vận cả đời của nàng. Lúc 14 tuổi, Tiết Vân qua đời, Tiết Đào cùng mẹ là Bùi Thị nương tựa nhau mà sống. Vì sinh kế, Tiết Đào bằng dung mạo và tài năng hơn người tinh thi văn, thông âm luật của mình bắt đầu đến các nơi ăn chơi hoan lạc, rót rượu, phú thi, đàn xướng hầu khách nên bị gọi là “Thi Kỹ”.
Thời Đường Đức Tông, triều đình mời Trung thư lệnh Vĩ Cao làm Tiết độ sứ Kiếm Nam, thống lược Tây Nam, Vĩ Cao là một quan viên nho nhã cũng có tài thơ văn, ông nghe nói về tài năng xuất chúng của Tiết Đào mà còn là hậu nhân của quan chức triều đình, liền phá lệ mời nàng dùng thân phận nhạc kỹ đến Soái Phủ đãi yến phú thi, Tiết Đào trở thành Doanh Kỹ nổi tiếng ở Thành Đô (Nhạc kỹ chính thường được mời đến các cuộc vui chơi của võ quan trấn thủ các nơi). Sau 1 năm, Vĩ Cao mến tài Tiết Đào, chuẩn bị tấu xin triều đình để Tiết Đào đảm nhiệm quan chức Hiệu Thư Lang, tuy chưa kịp thực hiện nhưng danh hiệu “Nữ Hiệu Thư” đã không kính mà đến, đồng thời Tiết Đào cũng được gọi là “Phụ Mi Tài Tử”. Về sau, Vĩ Cao vì trấn thủ biên cương có công nên được phong làm Nam Khang Quận Vương, rời khỏi Thành Đô. Lý Đức Dụ tiếp nhiệm Kiếm Nam Tiết Độ Sứ cũng rất ngưỡng mộ tài năng của Tiết Đào. Trong suốt cuộc đời của Tiết Đào, Kiếm Nam Tiết Độ Sứ tổng cộng có 11 người thay phiên đảm nhiệm, người nào cũng vô cùng thanh lãi và kính trọng nàng, địa vị của nàng đã vượt xa một tuyệt sắc hồng kỹ tầm thường.
Hoắc Tiểu Ngọc
Nàng là "Người đẹp có tài làm thơ", đã chung sống hai năm với Lý Ích, một trong “Thập tài tử Đại Lịch”.
Nàng là nhân vật chủ yếu phát sinh các câu thành ngữ “Lang tài nữ mạo” (mặt gái tài trai) nói về tài năng của người nữ, “Thủy loạn chung khí” (trước yêu sau bỏ) nói về hoàn cảnh bị bức hại và “Si tâm nữ tử phụ tâm Hán” (gái chung thủy trai phụ bạc)
Lý Ích (748-829) tự Quân Ngu, người Cổ Tang , Lũng Tây (nay thuộc huyện Vũ Uy tỉnh Cam Túc , Trung Quốc), thi nhân đời Trung Đường.
Khi Lý Ích có danh tiếng lớn ở kinh đô, cố gắng đi tìm “người vừa đẹp vừa làm thơ hay” nên đã gặp Hoắc Tiểu Ngọc. Hai người không cưới hỏi mà chung sống với nhau suốt hai năm, thề nguyện câu “hải thệ sơn minh” (chỉ non mà thề, chỉ biển mà hẹn = thề non hẹn biển)
Sau, Lý Ích bị gia đình bức ép phải cưới vợ là Lư Thị, nàng Hoắc Tiểu Ngọc quá đau xót, nuốt hận mà chết. (Xem chuyện nầy ở “Truyện Hoắc Tiểu Ngọc” của Tưởng Phòng, đời Đường).
Lý Ích sau nầy trở thành “nhà thơ bậc nhất” vùng biên tái. Đường hoạn lộ thuận lợi, cấp chức cao nhất sau cùng lên đến “Lễ Bộ Thượng Thư” . Nguyên từ lúc trẻ, Lý Ích mắc một chứng bệnh gọi là “Đố si”, mọi người đặt cho cái tên là “Lý Ích tật” (tật của Lý Ích) [ Theo sách Tân—Cựu Đường Thư].
Các tiểu thuyết về sau khai thác chuyện nầy, thổi phồng lên nhiều hư cấu khác, nói rằng chàng ta bị oan hồn của Hoắc Tiểu Ngọc theo báo thù nên mới bị chứng bệnh kỳ lạ, gọi là “Nghi tâm chứng” (chứng bệnh đa nghi, ganh ghét, ngược đãi … người khác). Cũng theo tình tiết diễn tả trong tiểu thuyết, sau nầy Lý Ích đã sát hại một thị tì và ly hôn với vợ là Lư Thị.
Theo “Truyện Hoắc Tiểu Ngọc” thì sau khi nàng chết, có người thương tiếc nàng viết bài thơ :
Nhất đại danh hoa phó lạc nhân ,
Si tâm uổng tự luyến thi nhân ;
Hà như giá dữ hoàng sam khách ,
Bạch mã phương giao cộng đạp xuân .
Uổng một đời hoa chọn lộn người,
Tâm tình trao hết một nhà thơ.
Giá như nàng chỉ tìm ai khác,
Có lẽ cùng nhau sống trọn đời !
Nàng Phi Yên
Nàng Phi Yên là người đẹp khoảng niên hiệu Hàm Thông đời nhà Đường.
Nàng tinh thông thi văn, giỏi nghề đàn hát.
Phi Yên là đại biểu cho quan điểm “chống đối cuộc hôn nhân ép buộc”. (Đây quả là quan điểm mạnh mẽ ở thời kỳ phong kiến đang thịnh hành ngày xưa)
Khi lâm vào hoàn cảnh “đau khổ kéo dài ” ấy, người con gái có quyền chọn một người yêu đúng nghĩa khác.
Theo quyển “Tam thủy tiểu độc” của Hoàng Phủ Mai đời Đường , phần “Truyện Phi Yên” như sau:-
Nàng Phi Yên bị ép buộc làm thiếp của Vũ Công Nghiệp ở Lâm Hoài. Niên hiệu Hàm Thông, Vũ Công Nghiệp được bổ nhiệm chức Công Tào Tham Quân ở phủ Hà Nam (Lạc Dương). Bận công vụ nên Công Nghiệp không về nhà được.
Cạnh nhà có chàng Triệu Tượng, thấy nhan sắc Phi Yên kiều diễm, lại biết chuyện bị bắt ép của nàng, nên tìm cách gởi một bài thơ để ướm thử. Nàng làm thơ phúc đáp họa lại, lời lẽ văn hoa bay bướm. Sau đó hai người tư thông với nhau, thời gian suốt một năm.
Nàng Phi Yên trước kia có lần nhân một tì nữ phạm lỗi, nàng có đánh nó mấy roi, nó đem lòng oán hận. Khi biết chuyện dan díu của hai người, tì nữ liền báo cho Vũ Công Nghiệp. Họ Vũ nổi giận, tra hỏi đánh đập rất nhiều mà Phi Yên nhất quyết không chịu khai sự thật. Cuối cùng bị họ Vũ giận quá đánh đến chết.
Câu nói nổi tiếng của nàng trước khi chết là :
“Sanh ký tương ái,
Tử diệc hà hận !”
*Dịch:-
“Sống mà được yêu,
Chết có hận gì !”
Quan Miến Miến
Là một danh kỹ đất Từ Châu đời nhà Đường,khoảng niên hiệu Trinh Nguyên và Nguyên Hòa (785—820).
Năm Trinh Nguyên thứ 15 , quan Thượng Thư Trương Kiến Phong làm Tiết Độ Sứ ở Vũ Ninh, Trấn Thủ Từ Châu. Trong dinh quan họ Trương, có nuôi rất nhiều ca kỹ, múa hay hát giỏi. Trong số đo có nàng Quan Miến Miến (cũng đọc là Quan Phán Phán) được Thượng Thư Trương Kiến Phong nạp làm thiếp.
Đại thi hào Bạch Cư Dị đã kể lại chuyện gặp nàng Quan Miến Miến , làm thơ tặng nàng. Sau, họ Trương mất, nàng Miến Miến đã thủ tiết thờ chồng và cuối cùng là tự tử như sau:-
Trương Thượng thư ở Từ Châu (tức Trương Kiến Phong) có người con hát yêu tên Miến Miến, giỏi ca múa, phong tư trang nhã xinh đẹp. Tôi làm Hiệu thư lang, tới vùng Hoài Tứ, được Trương thượng thư mời ăn tiệc, lúc rượu say, ông gọi Miến Miến ra ca múa giúp vui. Tôi nhân đó làm bài thơ tặng:
Tặng Quan Miến Miến
Phụng bát kim linh thế,
Đàn tào hậu đới thuỳ.
Tuý kiều vô khí lực,
Phong niểu mẫu đơn chi.Tặng Quan Miến Miến
Dịch:
Lông vàng xếp cánh phượng,
Đàn dứt dây tơ chùng.
Say lả càng kiều diễm,
Mẫu đơn cành gió rung
Một lần vui rồi chia tay, từ đó về sau tuyệt không biết gì về nàng cả. Đến nay đã mười hai năm, hôm trước quan Tư huân Viên ngoại lang Trương Trọng Tố tự Hội Chi (con Trương Kiến Phong) thăm tôi, nhân ngâm ba bài thơ Yến Tử lâu, lời lẽ dịu dàng đẹp đẽ, hỏi ra thì là thơ của Miến Miến. Hội Chi làm Tùng sự ở Vũ Ninh nhiều năm, biết rõ chuyện Miến Miến, kể rằng Trương thương thư đã chết, phủ đệ cũ ở Bành Thành có một ngôi lầu nhỏ gọi là Yến Tử lâu. Miến Miến nhớ lòng yêu dấu của ông ngày trước nên không lấy chồng, về ở lầu ấy hơn mười năm, nay vẫn còn sống. Thơ Miến Miến như sau
Lầu thượng tàn đăng, bạn hiểu sương
Độc miên nhân khởi hợp hoan sàng
Tương tư nhất dạ tình đa thiểu
Địa giác thiên giai bất thị trường
2.-
Bắc khâu tùng bách tỏa sầu yên
Yến Tử lâu nhân tứ tiêu nhiên
Tự mai kiếm lý ca trần tán
Hồng tụ hương tiêu thập nhất niên
3.-
Thích khan hồng nhạn Lạc Dương hồi
Hựu đổ huyền cầm bức xã lai
Dao sắt ngọc tiêu vô ý tự
Nhiệm tòng thù võng nhiệm tòng khôi
Dịch nghĩa
Trên lầu ngọn đèn tàn làm bạn với làn sương sớm
Người ngủ một mình vừa rời chiếc giường hợp hoan
Một đêm nhung nhớ biết là nhiều hay ít
Chân trời góc đất cũng chẳng phải dài lâu...
2.-
Tùng bách nơi núi Bắc Mang tỏa khói sầu
Trong lầu Yến Tử có người xao xác nhớ
Từ khi chôn vỏ kiếm, bụi trần của khúc ca xưa theo đó mà tan đi
Mùi hương tiêu biến khỏi tay áo hồng cũng đã mười năm rồi
3.-
Mong được nhìn cánh hồng nhạn bay về Lạc Dương
Lại thấy cánh chim đen đến từ Bức Xã
Đàn dao cầm và cây ngọc tiêu không nỗi niềm chi
Cũng đành vương đầy mạng nhện và tro bụi...
Bài tựa (lời kể) của Bạch Cư Dị tới đây là hết. Nhưng theo Trường Khánh tập, sau khi được thơ của họ Bạch, Miến Miến bắt đầu nhịn ăn, mười ngày sau thì chết. Nhưng lại ngâm thơ rằng:
Nhi đồng bất thức xung thiên vật,
Mạn bả thanh nê ô tuyết mao.
Trẻ con chẳng biết “én xung thiên”,
Nở trét bùn xanh lên cánh trắng
Như vậy, phải chăng vì hai bài thơ của Bạch Cư Dị đã giết Miến Miến ? Nhưng trên thực tế, đây cũng không phải là một vụ án mạng Đường thi. Phải đâu họ Bạch không hiểu tâm sự Miến Miến ? Câu cuối trong bài Yến Tử lâu thi cho thấy ông biết nàng không có cớ chết theo Trương Kiến Phong và bài thơ tặng đóng vai một người thương xót họ Trương mà kết án đám con hát bạc tình kia chính là nhằm tạo lý do cho nàng hoàn thành sở nguyện. Và dĩ nhiên Miến Miến cũng hiểu cái ý tứ sâu xa ấy, nên trong bài Họa Bạch công, nàng đã tỏ lòng biết ơn ông bằng cách nhắc lại lời thơ "mẫu đơn" mười hai năm trước. Và chính là nhờ biết Bạch Cư Dị hiểu được tâm sự của mình, nên nàng mới ngạo nghễ nói với người đời rằng vì bị họ Bạch bôi nhọ nên nàng phải chết bằng hai câu thơ trước khi nhắm mắt. Tự ví mình bằng loài én "xung thiên" bị trẻ con trát bùn lên cánh trắng - Bạch Cư Dị có hiệu là Lạc Thiên. Nàng quy trách nhiệm cái chết của mình về ông, nghĩa là cho người sống chứ không phải về Trương Kiến Phong, để dập hết những đàm tiếu của người sau đối với người chồng mà nàng yêu thương kính trọng.
Ngư Huyền Cơ
Dịch cầu vô giá bảo, nan đắc hữu tình lang.
(Bảo vật vô giá dễ tìm, khó kiếm được người xứng đôi)
Ngư Huyền Cơ sanh trong thời Đường Võ Tông . Sinh năm 844, mất khoảng 871. Tên tự Ấu Vi, hoặc Huệ Lan, người Trường An. Ngư Huyền Cơ rất thích đọc sách và rất thông minh , 5 tuổi đã biết ngâm thơ , 7 tuổi đã biết làm văn.
Sinh thời nàng được quan Bổ khuyết là Lý Ức nạp làm thiếp, sau đó tình yêu phai nhạt, xuất gia làm đạo cô ở Hàm Nghi quán. Sau này không hiểu vì lý do gì nàng bị Kinh triệu doãn là Ôn Chương ám hại khi chưa đầy ba mươi tuổi. Thơ Ngư Huyền Cơ là những khúc ca ai oán, thấm đẫm hương vị đắm say của tình yêu đôi lứa, rất mạnh dạn trong cách biểu hiện. Có những dòng thơ khó ai ngờ một người phụ nữ giữa thời phong kiến lại dám viết ra: Hoạ kha xuân miên triêu vị túc, mộng vi hồ điệp dã tầm hoa (Giấc ngủ sớm xuân trong thuyền chưa đủ, lại mộng làm hồ điệp lướt tìm hoa). Ngư Huyền Cơ tuy tài năng và danh vọng không so được với Lý Thanh Chiếu, Chu Thục Chân thời Tống, nhưng một chữ tình trong thơ ấy, cổ kim nào có khác chi nhau...
Vương Ngọc Xuyến
Ngọc Xuyến sống vào thời nhà Đường còn hưng thịnh, là thiên kim tiểu thư của thừa tướng đương triều, sắc nước hương trời, cầm kỳ thi họa cái nào cũng tinh thông. Cô được cha nhắm gả cho hoàng thượng nhưng vì không muốn chịu cảnh ép duyên, cô đã quyết định gieo tú cầu nhờ trời định đoạt chuyện nhân duyên. Tiếc là sau đó tú cầu lại rơi vào tay một người khất thực (Tiết Bình Quý), cô phải chịu cảnh sống bần hàn một thời gian dài.
Sau này chồng cô lập được công trạng trên chiến trận nơi biên cương và được phong tước bá, cô mới trở lại với cuộc sống sung sướng như trước đây.
Cô, dù xuất thân danh giá nhưng nổi tiếng là người chịu thương chịu khó, không quản ngại vất vả phụng dưỡng mẹ già và nuôi dạy con nhỏ khi chồng xa nhà lâu ngày không phụ giúp gì được
Công Tôn Đại Nương
Công Tôn Đại Nương được xem như một bậc thầy về múa kiếm thời nhà Đường. Trong bộ võ phục, nàng chinh phục người xem bằng điệu múa khéo léo với trình độ nghệ thuật xuất chúng. Người hâm mộ nàng là các bậc uyên bác, những người được trọng vọng. Ngay cả nhà thơ Đỗ Phủ cũng đã từng làm một bài thơ để ca ngợi tài múa kiếm điêu luyện của nàng (bài Công Tôn Đại Nương đệ tử vũ kiếm khí hành).
Cá tính của Công Tôn đại nương : chỉ một đao đã vang dội tứ phương, sáng đẹp như Hậu Nghệ bắn mặt trời, kiêu hãnh như rồng bay công lượn, đến như tiếng sấm vang trời, dừng lại nhẹ nhàng như mặt biển lặng yên
Vương Ấu Ngọc
Vào cuối đời Đường , các tay thương nhân với giới quan lại đi qua vùng Tương Giang , tất cả đều biết và say mê một ca kỹ nổi danh tài sắc : Vương Ấu Ngọc . Họ bảo nhau , ai đã đến thành Hoành Dương mà chưa được nhìn Vương Ấu Ngọc , tên đó là con lừa .
Đám sĩ đại phu lại càng say mê Vương Ấu Ngọc hơn nữa vì nàng rất tinh thông văn mặc , giỏi làm thi từ . Nhiều thi sĩ tiếng tăm đương thời khuyên nàng bỏ Hoành Dương , kinh đô của thương mại để về Trường An , kinh đô của văn học và chính trị , nhưng Vương Ấu Ngọc không nghe vì thâm tâm nàng không muốn làm khôi thủ chốn phong trần mà mong kiếm một người chồng để có thể sống hạnh phúc dưới mái gia đình , chỉ hiềm nỗi chưa gặp người tri kỷ.
Vương Ấu Ngọc vừa đẹp vừa tài hoa lại vừa giàu có nên nàng rất kiêu kỳ .
Một ngày kia có kẻ phiêu lãng hào hoa tên Liễu Phú theo đám thương nhân đi từ Lạc Dương tới Lĩnh Nam , neo thuyền nghỉ tại Hoành Dương đã gặp Vương Ấu Ngọc . Chỉ một đêm thơ hoa và rượu , cả hai người bỗng yêu đến nỗi không muốn rời nhau . Vương Ấu Ngọc đề nghị nguyện làm vợ của chàng . Liễu Phú lặng thinh . Sáng hôm sau , họ chia tay . Liễu Phú nhớ Ngọc không theo thương thuyền đi Lĩnh Nam nữa , chàng ở lại Hoành Dương nhưng không tới thăm nàng , vì Liễu Phú chỉ còn tiền đủ ăn cơm trong mấy ngày thôi .
Ba bốn hôm sau , Vương Ấu Ngọc mới biết tin người yêu vẫn ở Hoành Dương nàng tức tốc đi tìm , họ gặp nhau trong niềm cảnh vừa hân hoan vừa sầu tủi . Ngồi trên thuyền thả trôi trên dòng Tương Giang , Liễu Phú giải thích lý do tại sao chàng lại lặng thinh trước lời đề nghị kết giải đồng tâm của Ngọc . Trước đây , do một chuyện bất bình , chàng đã phạm tội sát nhân , có người đàn bà chứng kiến ép buộc chàng phải lấy bà ta , nếu không sẽ đi tố giác với quan phủ . Vương Ấu Ngọc nghe xong , nàng rất vui vẻ nói có thể giải quyết chuyện đó dễ dàng bằng tiền bạc .
Ngay tối hôm ấy , Liễu Phú về Trường Sa gặp vợ con thương lượng . Vợ Liễu Phú bằng lòng bán chồng cho Vương Ấu Ngọc với giá 200 vạn tiền ( một vạn tiền giá trị một lạng vàng ) , Phú quay lại Hoành Dương cho Ngọc hay , Ngọc bán hết tư trang cộng với số tiền dành dụm đem đến đưa vợ Phú .
Hạnh phúc hai người tràn ngập thế gian . Nhưng số mệnh Vương Ấu Ngọc mỏng manh quá . Chưa được bao lâu thì cha Liễu Phú mất , Phú phải về Lạc Dương cư tang .
Lúc chia tay , Vương Ấu Ngọc bảo Liễu Phú : ” Em sẽ chờ anh , dù bao nhiêu lâu chăng nữa em vẫn chờ “. Khi Liễu Phú đi rồi , Ấu Ngọc đem châu báu đổi thành tiền , từ bỏ hẳn kỹ viện , mướn một căn nhà nhỏ vùng phụ cận Hoành Dương sống âm thầm chờ Liễu Phú .
Liễu Phú đi tới nữa năm rồi mà chẳng có một tin tức nào cả , khiến Vương Ấu Ngọc nóng ruột vô cùng . Các bạn của Ngọc cho rằng Liễu Phú là kẻ bạc tình , khuyên Ngọc nên phục xuất thi thố cái tài ca vũ thi từ . Ngọc cho rằng Liễu Phú nhất định không phải là con người phụ bạc .
Một năm trôi qua , vẫn biệt âm vô tín . Vương Ấu Ngọc cắt một lọn tóc bỏ vào phong thư , thuê người đi tìm Liễu Phú . Ưu uất tương tư đã bắt đầu làm cho Ngọc trở nên tiều tụy .
Phần Liễu Phú , chàng đâu có phải là kẻ vong tình . Khi vừa đặt chân tới Lạc Dương thì bị quan quân bắt bỏ ngục , hoàn toàn bị cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài .
Người của Ngọc cho biết chẳng tìm ra tung tích Liễu ở đâu . Chuyện tình đau khổ của Ngọc lan truyền khắp vùng Tương Giang . Ai cũng cười Vương Ấu Ngọc là ngu dại .
Đau khổ , Ngọc thành bệnh , tiền thì tiêu hết , bệnh không thuyên giảm . Có nhiều phú thương nhờ mối lái muốn kết hôn với nàng nhưng nàng vẫn một mực cự tuyệt với ý nguyện chờ Liễu Phú đến hơi thở cuối cùng .
Hết tiền , Vương Ấu Ngọc đành phải ôm đàn ra đầu đường đầu chợ đứng ca để kiếm ăn độ nhật . Giữa lúc ấy thì tin tức Liễu Phú đến với nàng , đó là một bài thơ từ phú viết từ trong ngục gửi ra như sau :
“ Nhân gian tối khổ , tối khổ thị phân ly
Quân ái ngã , ngã ái quân , thanh thảo ngạn đầu nhân độc lập
Họa thuyền đông khứ lỗ thanh trì
Sở thiên đê , hồi vọng xứ lưỡng y y
Hậu hội dã tri câu hữ nguyện , vị trí hà nhật thị giai kỳ , tâm hạ sự , loạn như tì , hảo thiên long dạ hoàn hư quá
Cô phụ ngã , lưỡng tâm tri nguyện quân gia , ai trường tại , nhất song phi “
nghĩa là :
“ Điều khổ nhất nhân gian là cảnh phân ly
Tôi yêu em , em yêu tôi , ngọn cỏ xanh mướt đầu sông một mình đứng
Ngóng trông con thuyền lặng lẽ xuôi về bên đông , tiếng bơi chèo chầm chậm .
Trời nước Sở nặng u buồn , người đứng vọng phía xa lòng cô tịch .
Ngày gặp nhau chúng ta sẽ hiểu , nhưng bao giờ chúng ta mới được hội ngộ , tâm sự rối bòng bong , hôm nay đêm mai trôi mãi .
Dù em có phụ tôi thì tâm hồn tôi vẫn nguyện được cùng em như chim liền cánh “.
Vương Ấu Ngọc đọc thuộc bài từ , biết người yêu còn nhớ đến mình , sung sướng hôm ấy nàng cất tiếng ca âm thanh thống thiết , ai nghe cũng rơi lệ . Nửa tháng sau , Vương Ấu Ngọc chết , trong cây đàn người ta tìm thất bài từ ai oán kia .
Tin Vương Ấu Ngọc chết làm cả thành Hoành Dương xôn xao , bạn bè cùng những người ái mộ nàng mỗi người quyên góp ít tiền xây cho Ấu Ngọc một ngôi mộ tuyệt đẹp với tấm bia đề : “ Liễu thị phu nhân chi mộ “
Nghi Thành Công chúa
Cô công chúa này tính tình rất nóng nảy cũng rất gan lì, việc gì cũng rất quyết đoán, không hề chần chừ.
Khi Nghi Thành Công chúa tới tuổi gả chồng, Lý Hiển vẫn chưa lên ngôi hoàng đế.
Vì thế, khi xuất giá về nhà chồng, phong hiệu của Nghi Thành Công chúa vẫn là Nghĩa An Quận chúa. Ngoài ra, do Nghi Thành Công chúa không phải là do Vỹ Hoàng hậu sinh ra, thuộc nhành thứ, vì thế so với các công chúa nhành chính, chế độ đãi ngộ của Nghĩa An Quận chúa luôn bị kém hơn một bậc.
Tuy nhiên, dù tước phong chỉ là quận chúa, không được uy phong như công chúa, tuy nhiên, Nghĩa An Quận chúa không hề vị vậy mà cảm thấy thân phận mình thấp kém hơn kẻ khác.
Sau khi kết hôn, Nghĩa An Quận chúa cũng tuân theo lễ pháp, khi phải đến chào bố mẹ chồng thì đến chào, còn không có việc gì thì lo việc của mình.
Trong một khoảng thời gian dài tưởng như là cuộc sống trôi qua yên ả không có việc gì trọng đại.
Chẳng bao lâu sau đó, Lý Hiển lên ngôi hoàng đế. Nghĩa An được phong làm Nghi Thành Công chúa. Chồng của Nghĩa An Quận chúa tên là Bùi Tốn.
Chức vị của Bùi Tốn không phải cao, chỉ làm một chức gọi là Ti thương Tham quân ở Quân Châu. Sau khi kết hôn không bao lâu, Nghi Thành Công chúa cảm thấy chồng mình có điều gì đó không bình thường.
Cô cảm thấy chồng có điều gì đó bất mãn với mình, trong lời nói luôn bóng gió xa xôi có ý mỉa mai. Nghĩ tới nghĩ lui, Nghi Thành Công chúa bắt đầu cảm thấy nghi ngờ, cho rằng chồng mình có người phụ nữ khác ở bên ngoài.
Bởi lẽ, nếu không làm sao lại có thái độ như vậy với mình được. Nghĩ vậy, Nghi Thành Công chúa thầm mắng rằng: “Người giỏi lắm Bùi Tốn.
Ngươi dám làm việc có lỗi với ta sao? Ta dù là công chúa nhưng vẫn giữ trọn nghĩa vụ 1 người vợ còn ngươi thì lại ở bên ngoài tìm người đàn bà khác. Chuyện lăng nhăng của ngươi mà để ta bắt được tận mặt thì ta sẽ cho người biết mặt ”.
Sau khi đã đinh ninh như vậy, Nghi Thành Công chúa bắt đầu để ý dò xét chồng. Mọi việc sau đó diễn ra thuận lợi hơn dự tính của Nghi Thành Công chúa.
Bởi lẽ, người phụ nữ mà Bùi Tốn “phải lòng” chẳng phải ai khác mà chính là 1 cô người hầu xinh đẹp ở ngay trong nhà của họ.
Vì thế, chẳng phải tốn nhiều công sức, Nghi Thành Công chúa đã bắt tại trận đôi gian phu, dâm phụ ở ngay trên giường nhà mình.
Chỉ nghe 2 tiếng “rầm rầm”, cửa phòng bị đạp tung, Bùi Tốn nhìn lên thì thấy Nghi Thành Công chúa đang “nộ khí xung thiên” xông vào.
Bùi Tốn vội vàng bật người dậy vớ lấy quần áo, trong lòng run sợ không biết nên nói thế nào với vợ. Năn nỉ vợ xin tha thứ rồi đuổi quách cô người tình xinh đẹp đi hay là cương quyết bất chấp thái độ của vợ, cưới cô người hầu làm thiếp.
Tuy nhiên, Bùi Tốn nhanh chóng nhận ra rằng, dù cưới nhau đã lâu song ông ta vẫn không hề hiểu người vợ xuất thân cao quý của mình.
Trong lúc Bùi Tốn vẫn còn đang lần khần không biết nên mở lời thế nào với vợ thì Nghi Thành Công chúa tay đã sẵn dao nhọn xông vào xẻo luôn tai và mũi của “tình địch”.
Vừa động thủ, Nghi Thành vừa nghiến răng nói: “Ta xem ngươi sau này làm sao còn làm hồ li tinh được nữa”.
2. Sau khi giải quyết xong “hồ li tinh”, Nghi Thành Công chúa cầm con dao còn dính đầy máu tươi xông thẳng lại phía Bùi Tốn. Bùi Tốn sợ quá, vội vàng nhảy sang một bên để tránh.
Tuy nhiên, con dao nhọn trên tay Nghi Thành Công chúa vẫn kịp cắt đứt một đám tóc trên đầu của Bùi Tốn.
Trong lúc chạy quanh lẩn trốn, Bùi Tốn vẫn nhìn thấy vật mà Nghi Thành Công chúa cầm trên tay trái. Hóa ra, đó chính là một mảng da người mà cô công chúa bạo liệt Nghi Thành xẻo ra từ trên người của cô “tình địch”.
Bùi Tốn sợ quá, không biết Nghi Thành Công chúa còn dám làm gì với mình, đành đánh liều xông ra cửa, gọi lớn: “Người đâu! Người đâu! Mau đến đây!”
Những người hầu nghe thấy có tiếng gọi của chủ lập tức chạy tới. Bùi Tốn ngay lập tức trốn sau lưng những người hầu rồi run rẩy chỉ Nghi Thành Công chúa lẩm bẩm: “Cô ta… cô ta… định giết ta”.
Những người hầu vẫn chưa hiểu chuyện gì, chỉ thấy bà chủ đang vô cùng giận dữ, nộ khí xung thiên, tay lăm lăm con dao nhọn đầy máu thì thấy rằng có lẽ ông chủ nói đúng, vì vậy chúng tìm mọi cách để bảo vệ cho ông chủ, ngăn cản Nghi Thành Công chúa lại.
Nghe Bùi Tốn nói mình định giết chồng, Nghi Thành Công chúa cười nói: “Ta giết chàng làm gì? Yên tâm, ta sẽ không giết chàng.
Tuy nhiên, ta nhất định sẽ cho cả thiên hạ biết chuyện tốt đẹp mà chàng đã làm”. Nói xong, Nghi Thành Công chúa bước ra ngoài, chẳng thèm nhìn Bùi Tốn lấy nửa con mắt.
Bùi Tốn nhìn sau lưng thấy Nghi Thành Công chúa bỏ đi, cảm thấy bản thân mình hoàn toàn không hiểu nổi cô vợ này. Rốt cuộc, Nghi Thành Công chúa muốn làm gì? Nghĩ tới đây, Bùi Tốn không khỏi cảm thấy rùng mình. Đáp án rất nhanh chóng được làm sáng tỏ.
Chẳng tới 10 phút sau, Đường Trung Tông Lý Hiển biết tin vội vàng tìm tới nhà của Nghi Thành Công chúa.
Nghi Thành kéo Bùi Tốn tới trước mặt cha mình, kể lại mọi chuyện đã xảy ra, ngôn ngữ rất nhẹ nhàng, không hề có chút giận dữ nào, dường như mọi chuyện không phải là chuyện của mình.
Sau khi kể xong, Nghi Thành Công chúa mới đưa tay ra phía trước nói: “À, còn đây chính là người phụ nữ mà anh ta đã dan díu”. Nói xong, Nghi Thành Công chúa lấy miếng da cắt ở người tình địch đặt lên mặt của Bùi Tốn.
Trung Tông Lý Hiển nhìn thấy cảnh đó cũng toát mồ hôi, sau đó giận dữ vô cùng, lập tức hạ lệnh giáng Nghi Thành Công chúa xuống làm huyện chúa, Bùi Tốn cũng bị giáng chức.
Tuy nhiên, có lẽ, sau đó, Đường Trung Tông cảm thấy người sai nhiều hơn là Nghi Thành Công chúa vì thế đã thăng quan cho Bùi Tốn. Sau khi mọi chuyện đã qua đi trong một thời gian khá dài, Trung Tông mới khôi phục tước hiệu công chúa cho Nghi Thành.
Cuộc sống giữa 2 vợ chồng Nghi Thành và Bùi Tốn sau đó ra sao thì không thấy sử sách ghi chép cụ thể. Tuy nhiên, có thể đoán định rằng, sau chuyện đánh ghen này, nhất định Bùi Tốn sẽ hiểu rõ tính cách của vợ mình hơn vì thế mà bớt trăng hoa hơn.
Trước khi Nghi Thành Công chúa qua đời, dường như không có nhiều chuyện trăng hóa của Bùi Tốn được truyền ra ngoài. Nếu như có, với tính cách của mình, có lẽ Nghi Thành Công chúa cũng chẳng thể để cho Bùi Tốn được yên.
Đỗ Thu Nương
Đỗ Thu Nương thực chất là 1 ca nữ chốn lầu xanh ở Kim Lăng (tức Nam Kinh ngày nay).
Nàng có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, dù không hề trang điểm cũng xinh đẹp hơn hẳn người thường. Thêm vào đó, Đỗ Thu Nương lại có tài nói năng, thơ ca, đàn hát đều xuất sắc.
Vì thế, dù là con hát chốn lầu xanh nhưng Đỗ Thu Nương là đối tượng mà nhiều công tử quý tộc trong vùng theo đuổi. Lý Kỳ khi đó đang là Trấn Hải Tiết độ sứ nghe nói đến sắc đẹp của Đỗ Thu Nương thì tìm đến tận nơi để gặp mặt.
Vừa nhìn thấy Đỗ Thu Nương lần đầu tiên, Lý Kỳ đã say mê người ca nữ này vì thế không tiếc tiền của bỏ ra mua Đỗ Thu Nương về phủ làm thiếp.
Lúc bấy giờ, Tiết độ sứ thực tế là một phiên Vương, là người đứng đầu một vùng, vì vậy, Đỗ Thu Nương vui vẻ chấp nhận trở thành tỳ thiếp của Lý Kỳ.
Khi Lý Kỳ lấy Đỗ Thu Nương về làm thiếp, ông ta mới chỉ 27 tuổi, trong khi Đỗ Thu Nương mới chỉ 15. Trong phủ của Lý Kỳ, người đẹp không thiếu, song không ai có thể so sánh với Đỗ Thu Nương.
Sau khi Lý Kỳ chết, Đỗ Thu Nương cùng với những người phụ nữ khác trong nhà họ Lý bị đưa vào cung. Tuy nhiên, nhờ có nhan sắc hơn người, Đỗ Thu Nương 1 lần nữa lại lọt vào mắt xanh của Hiến Tông Lý Thuần.
Lý Thuần rất mực sủng hạnh Đỗ Thu Nương, ban tặng Đỗ Thu Nương tên mới gọi là Đỗ Trọng Dương, phong cho làm chức nữ quan trong hậu cung.
Năm Nguyên Hòa thứ 15, hoạn quan Trần Hoằng Chí đã dùng độc giết chết Hiến Tông. Lý Hằng, con của Quách thị lên ngôi vua, sử gọi là Mục Tông
Lúc bấy giờ Đỗ Thu Nương đã ngoài 30 tuổi, tuy nhiên, nhan sắc không hề giảm sút, ngược lại có phần đằm thắm hơn xưa, vì thế, Đỗ Thu Nương lại được Mục Tông sủng hạnh.
Để che đậy chuyện này, Mục Tông sắc phong cho Đỗ Thu Nương làm bảo mẫu kiêm gia sư cho Hoàng tử Chương Vương.
Tuy nhiên, Mục Tông cũng giống như cha mình, chẳng sống được bao lâu đã về gặp tổ tiên. Đỗ Thu Nương sau đó lại tiếp tục trải qua hai đời vua nữa là Kính Tông và Văn Tông.
Năm Thái Hòa đời vua Văn Tông, Chương Vương bị vu cáo nên bị phế, Đường Văn Tông hạ chiếu cho Đỗ Thu Nương trở về quê sinh sống. Những năm cuối đời, Đỗ Thu Nương phải sống trong cảnh nghèo đói và thiếu thốn. Mỹ nhân từng làm điêu đứng cả 2 ông vua triều Đường rốt cuộc phải nhận lấy một số phận đầy bi kịch.
Hoa Nhị Phu Nhân
Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn từng ngưỡng mộ tài danh của Hoa Nhị Phu Nhân. Hoa Nhị Phu Nhân là Phí Quý Phi của Hậu Thục Hậu Chủ - Mạnh Xưởng, xuất thân là 1 ca kỹ ở Thanh Thành (nay ở phía Đông Nam thành phố Giang Yển).
Tương truyền “Hoa Nhị Phu Nhân Cung Từ” có hơn 100 biến, trong đó thật ra chỉ có hơn 90 biến. Khi Tống diệt Hậu Thục, chỉ dùng có 1 vạn quân, 14 vạn quân Hậu Thục không chiến mà hàng, Hoa Nhị Phu Nhân theo Mạnh Xưởng lưu vong về phương bắc, đêm nghỉ ở Gia Minh dịch trạm, cảm hoài nỗi buồn nước mất nhà tan, đề lên vách quán bài “Thái Tang Tử”. Nhưng vì quân kỵ thôi thúc nên bị mất hết một nửa, cứ viết được 1 chữ lại rơi lệ.
Lý Sư Sư
Theo giai thoại dân gian thì Lý Sư Sư là người Biện Kinh, cha là một thợ nhuộm tên là Vương Dần. Mẹ mất ngay khi mới sinh, cha nàng chỉ dùng sữa đậu nành để nuôi lớn. Đến 4 tuổi thì cha cũng qua đời, vì vậy Lý Sư Sư lưu lạc từ nhỏ, được một gia đình họ Lý nhận nuôi nên mới cải danh là Lý Sư Sư.
Với nhan sắc trời phú và tài hoa, Lý Sư Sư nhanh chóng trở thành một danh kĩ thời Bắc Tống, nổi tiếng dịu dàng, phong nhã. Nhiều danh sĩ cũng từng giao thiệp với nàng như Chu Bang Ngạn và Triều Xung Chi đến nhà đàm luận văn chương, trao đổi thi từ. Tống Huy Tông nghe danh nàng, cũng tìm đến: "Danh kĩ Lý Sư Sư ở ngõ Kim Tuyến trong thành Đông Kinh, tài nghệ và dung mạo đều tuyệt trần. Huy Tông từ những năm Chính Hòa về sau, thường vi hành ngồi kiệu nhỏ, với vài nội thần dẫn đường đến chơi nhà Lý Sư Sư.
Năm Tuyên Hòa thứ 7 (1125), khiếp sợ trước áp lực của quân Kim, Tống Huy Tông từ ngôi, truyền vị lại cho Thái tử Triệu Hoàn. Lý Sư Sư vì thế cũng bị thất sủng. Có giai thoại cho rằng Lý Sư Sư từng được Tống Huy Tông phong làm Doanh Quốc Phu nhân, Lý Minh phi; nay mất chỗ dựa, bị phế làm thứ dân, và đuổi khỏi cung, nhà cửa, gia sản đều bị tịch biên. Một giai thoại khác cho rằng nàng đã "đem hết của cải được ban tặng khi xưa, giao nộp cho phủ doãn Khai Phong, xung vào của công để giúp quân lương ở Hà Bắc".
Năm Tĩnh Khang thứ 2 (1127), quân Kim công phá Biện Kinh. Từ đó, không còn ai nghe tung tích của nàng nữa.
Những câu chuyện về Lý Sư Sư tuy không thấy trong chính sử, nhưng trong dã sử hay các thoại bản dân gian thì có thể thấy rất đầy đủ và sinh động. Trong "Thuỷ Hử Truyện", tác giả sách này đã viết về Lý Sư Sư với quan hệ mật thiết tới việc chiêu an các anh hùng Lương Sơn Bạc, và nhờ vậy mà cô đã trở thành một nhân vật phong lưu tột bực trong những năm Chính Hoà thời Tống Huy Tông. Về sau, cô lại trở thành một hình mẫu đặc thù cho các văn nhân mượn để châm biếm những ông vua hoang dâm vô độ. Sử Mộng Lan đời Thanh có bài thơ: "Vi Tống diễm đề từ" (Đề từ cho bức tranh người đẹp đời Tống) như sau:
Tống sử cao tiêu đạo học danh,
Phong lưu thiên tử khước đa tình.
An An Đường dữ Sư Sư Lý,
Tận đắc thừa ân nhập cấm thành.
(Tạm dịch:
Tống sử nêu cao người học đạo,
Phong lưu thiên tử cũng đa tình.
An An Đường với Sư Sư Lý,
Đều được ơn vua đến Cấm thành.)
Chu Thục Chân
Nữ từ nhân nổi tiếng thời Đường, hiệu xưng U Thê Cư Sĩ, được biết là một tài nữ người ở Tiền Đường thời Tống, thi từ đều giỏi, đương thời chỉ có nàng mới xứng tề danh với Lý Thanh Chiếu. Tác phẩm tiêu biểu có “Đoạn Trường Tập” và “Đoạn Trường Từ” được lưu truyền, nổi tiếng nhất là “Điệp Luyến Hoa”.
Chu Thục Chân có cuộc đời khá u sầu. Nguyên nàng có một ý trung nhân lý tưởng, cũng là người tài hoa mà nàng tự quen biết. Nhưng phụ mẫu không cho phép nàng kết hôn với ý trung nhân của mình, mà gả nàng cho 1 thương nhân. Chồng nàng là người chỉ biết kiếm tiền, đối với thi từ và tranh vẽ của nàng đều không có hứng thú, vì vậy mà cuộc sống của nàng lúc nào cũng đầy u sầu và tẻ nhạt
Lý Phượng Nương
Vợ của Tống Quang Tông tên gọi là Lý Phượng Nương, vốn là con nhà võ, vì thế tính cách vô cùng chua ngoa và đanh đá. Một người phụ nữ như vậy, vì sao lại được đưa vào hoàng cung? Nguyên nhân chỉ là một câu nói của vị đạo sĩ có tên là Hoàng Phủ Thản.
Khi lần đầu tiên nhìn thấy Lý Phượng Nương, Hoàng Phủ Thản giật mình nói: "Cô gái này có tướng đại quý, ngày sau nhất định sẽ trở thành bậc mẫu nghi thiên hạ".
Cha của Lý thị nghe thấy vậy, gật gù nói, chẳng trách, khi Lý thị sinh ra đời, có một con phượng hoàng màu đen bay tới nhà (có lẽ là một đám mây màu đen?). Hai người đàn ông có tuổi nhàn rỗi đã ngồi bàn với nhau tới nửa ngày về chuyện này.
Những tưởng chuyện chỉ nói vậy cho vui, nào ngờ, mọi chuyện lại xảy ra đúng như những gì Hoàng Phủ Thản dự đoán. Vào những năm cuối thời kỳ trị vì của vua Cao Tông nhà Tống, Hoàng Phủ Thản được triệu vào cung để xem bệnh cho thái hậu.
Nhờ chữa được bệnh cho thái hậu, Hoàng Phủ Thản rất được Cao Tông tin sủng. Lúc bấy giờ, vua Cao Tông đang tìm vợ cho đứa cháu thừa tự của mình. Hoàng Phủ Thản biết chuyện liền tiến cử Lý Phượng Nương.
Hoàng Phủ Thản ba hoa một hồi về những điềm lạ khi Lý thị sinh ra đời, tán tụng đủ thứ từ nhan sắc tới tính cách của cô con gái nhà họ Lý. Cao Tông nghe lời Hoàng Phủ Thản, cho là thật, cảm giác như lấy được Lý thị là hoàng thất họ Triệu đã lấy được một con phượng hoàng. Lý Phượng Nương đúng là một con phượng hoàng, chỉ đáng tiếc, đó là một con phượng hoàng đen.
Thông thường, một "cô gái lọ lem" khi bước chân vào nhà giàu có sẽ ngại ngùng, không dám ăn, không dám nói, huống hồ đó là hoàng cung. Tuy nhiên, Lý Phượng Nương dường như chẳng biết sợ là gì. Vào cũng chưa được bao lâu, Lý thị mang thai rồi sinh con trai.
Vợ sang nhờ chồng, mẹ quý vì con, đến khi chồng được phong làm thái tử, Lý Phượng Nương càng thêm đắc chí. Tương lai, ta đã là đệ nhất phu nhân, vậy việc gì ta lại phải khiêm nhường nữa? Vì thế, trước mặt Cao Tông, Lý Phượng Nương quát mắng cả Hiếu Tông.
Trước mặt Hiếu Tông, Lý thị nũng nịu vạch tội cả thái tử, tức chồng mình. Trước mặt thái tử thì Lý Phượng Nương càng chẳng nể nang gì. Cứ như vậy, ba người đàn ông họ Triệu, một người là hoàng đế đã nghỉ hưu, một người là đương kim hoàng đế và một người là hoàng đế tương lai, bị một cô con gái nhà võ xoay như chong chóng.
Tới lúc này, Cao Tông mới như thức tỉnh: Lý Phượng Nương vốn là con gái nhà võ tướng, thiếu hẳn sự nền nếp gia giáo, Hoàng Phủ Thản làm hại ta rồi. Tuy nhiên, Cao Tông là phận ông, mà lại chẳng phải là ruột thịt vì Hiếu Tông chỉ là con nhận làm thừa tự của Cao Tông mà thôi, vì thế, vào lúc này nói điều gì cũng không thích hợp.
Cao Tông không thể nói nhưng ông bố chồng là Hiếu Tông thì nhịn không nổi nữa. Cô con dâu hoành hành bá đạo trong hậu cung, gây ra đủ chuyện thị phi, chẳng con 3 đời hoàng đế ra gì, làm sao có thể nhịn được?
Vì thế, một hôm, Hiếu Tông cho gọi con dâu tới dạy dỗ, nói: Con phải chịu khó học theo sự hiền đức của thái hậu đừng làm chuyện bậy bạ, khiến hậu cung thêm loạn nữa. Nếu không, ta sẽ phế tước vị thái tử phi của con.
Đáng tiếc, những lời của Hiếu Tông Hoàng đế không dọa được cô con dâu Lý Phượng Nương. Đợi tới lúc Hiếu Tông thoái vị, Lý Phượng Nương càng tác oai tác quái hơn. Cũng đúng, lúc ông tại vị, quyền sinh quyền sát trong tay ông, tôi còn không sợ, giờ ông đã về hưu, việc gì tôi phải sợ?
Một lần, Lý Phượng Nương nổi giận đánh một cung nữ. Thái hậu nhìn thấy, nhịn không nổi mới muốn khuyên Lý thị dừng lại. Lý Phượng Nương không những không dừng lại mà còn quay lại quát cả thái hậu: Ta và hoàng thượng kết làm vợ chồng, danh chính ngôn thuận. Nay ta thay hoàng thượng dạy dỗ nô tì trong nhà lại có gì sai hay sao?
Ẩn ý trong câu nói của Lý Phượng Nương là thái hậu vốn không phải là vợ cả của Hiếu Tông, vì thế, một người vợ bé thì không nên quản việc của nhà con dâu làm gì. Hiếu Tông Hoàng đế lúc đó đang đứng ở bên, nghe Lý Phượng Nương nói vậy thì giận lắm, nghiêm mặt cảnh cáo Lý thị:
Nếu tiếp tục làm càn như vậy thì ta sẽ phế bỏ ngươi! Thực tế, lúc đó, Hiếu Tông định làm thật chứ không phải là đùa giỡn. Bởi lẽ, ngay sau đó, Hiếu Tông cho gọi thái sư tới để thương lượng việc này.
Tuy nhiên, các đại thần trong triều đều khuyên rằng, việc trong nhà nên giải hòa chứ không nên phá bỏ như vậy, hơn nữa, vua Quang Tông chỉ vừa mới lên ngôi chưa được bao lâu, nay lại có chuyện phế bỏ hoàng hậu, sẽ không có lợi cho việc ổn định triều đình. Cũng vì thế, việc phế hậu tạm thời bị gác lại.
Chồng đã làm hoàng đế, tiếp theo, con trai phải trở thành thái tử. Bởi lẽ, chỉ có như vậy thì Lý Phượng Nương mới có thể yên vị với vị trí mẫu nghi thiên hạ của mình. Vì thế, Lý thị thúc giục chồng mình nhanh chóng quyết định việc lập thái tử.
Quang Tông đem chuyện này bàn với Hiếu Tông, có điều, Hiếu Tông nhất định không đồng ý. Lý Phượng Nương biết chuyện, giận tới tím mày tím mặt, chạy tới chất vấn Hiếu Tông: Tôi được họ Triệu các người mai mối rước về đàng hoàng, con trai tôi cũng là do hoàng đế sinh ra, lại là con trưởng vì sao không thể lập làm thái tử?
Bị con dâu trở mặt, mắng như tát nước, Hiếu Tông Hoàng đế giận tới mức không nói được câu nào. Phế bỏ cũng không được, trị tội cũng không được, không thể làm gì cô con dâu ngang ngược, Hiếu Tông rất buồn. Thế rồi uất ức, buồn tủi tích tụ lâu ngày không được giải tỏa, tới mức Hiếu Tông phát điên.
Cô con dâu ngang ngược tới như vậy, nguyên nhân chủ yếu là do con trai mình. Thông thường, đã là một vị hoàng đế, chúa tể cả thiên hạ thì việc gì phải sợ vợ, quá đáng quá thì phế bỏ, cưới một cô vợ mới là xong.
Tuy nhiên, Quang Tông trong suốt nhiều năm đã bị vợ "tẩy não", coi chuyện "sợ vợ" như một phẩm chất tốt, không hề có ý phản kháng chứ đừng nói tới chuyện phản kích.
Một lần, khi đang rửa tay, Quang Tông phát hiện đôi tay của một cung nữ hầu mình vừa trắng lại vừa nõn nà, không kìm được lòng mới nhìn vài lần, khen ngợi vài câu và có lẽ cũng hôn một cái. Nào ngờ, mấy ngày sau, Lý Phượng Nương sai người mang tặng cho Quang Tông một cái hộp. Quang Tông vừa mở hộp ra xem thì suýt ngã ngửa vì bên trong hộp là một bàn tay còn bê bết máu tươi.
Quang Tông từ nhỏ đã được cưng chiều, có lẽ đến việc giết gà cũng không biết làm như thế nào, giờ nhìn thấy một bàn tay người đầy máu tươi như thế, làm sao không kinh hoàng cho được.
Quang Tông sau đó bị ốm một trận nặng, nằm liệt trên giường suốt nhiều ngày liền không dậy nổi. Một ông vua sợ vợ tới mức như vậy thì liệu còn có thuốc chữa hay không?
Tuy nhiên, chuyện đôi tay của cô cung nữ cũng chỉ là chuyện nhỏ, vì dẫu sao một cung nữ cũng chẳng có thân phận gì lớn lắm. Tuy nhiên, Quang Tông thì tới cả người thiếp yêu của mình cũng không bảo vệ nổi.
Một ngày nọ, Quang Tông chủ trì việc tế trời đất nên không thể về cung. Lý Phượng Nượng nhân lúc Quang Tông ở ngoài, mượn cớ giết chết Hoàng Quý phi, một người thiếp rất được Quang Tông sủng ái và còn kịp thời báo cáo với Quang Tông rằng:
Hoàng Quý phi đột tử! Quang Tông biết rõ, Hoàng Quý phi vì sao mà chết nhưng không dám nói, chỉ biết buồn buồn tủi tủi, khóc thầm một mình.
Có lẽ vì có một đứa cháu nhu nhược như vậy, liệt tổ liệt tông của họ Triệu cũng cảm thấy phần nào xấu hổ. Trong lần tế lễ hôm ấy, một loạt sự cố nảy sinh: Đầu tiên đài tế lễ bỗng nhiên phát hỏa, xém chút nữa thiêu chết cả Quang Tông.
Ngay sau đó, trời lại nổi giông bão, rồi lại mưa đá khiến buổi tế lễ của Quang Tông tan hoang, tơi tả như đi đánh trận thất bại trở về. Quang Tông trải qua những việc khủng khiếp do Lý Phượng Nương gây ra, bản thân đã khiếp hãi lắm rồi, nay lại bị thần linh trách mắng, càng nghĩ càng thấy sợ hơn.
Tinh thần ngày một suy sụp, chẳng bao lâu sau, Quang Tông cũng theo cha mình, mắc phải chứng bệnh thần kinh, cả ngày cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ.
Sơn Âm công chúa
Sơn Âm công chúa Lưu Sở Ngọc là con gái của Nam Tống Hiếu Vũ đế Lưu Tuấn. Mẹ nàng là Văn Mục hoàng hậu Vương Hiến Nguyên – người đã hạ sinh cho Hiếu Vũ đế hai trai, bốn gái, gồm: Phế đế Lưu Tử Nghiệp, Dự Chương vương Lưu Tử Thượng, Sơn Âm công chúa Lưu Sở Ngọc, Lâm Hoài Khang Ai công chúa Lưu Sở Bội, Hoàng nữ Lưu Sở Tú và Khang Lạc công chúa Lưu Tu Minh. Những người con của Văn Mục hoàng hậu đều sở hữu dung mạo anh tú hoặc xinh đẹp mỹ miều. Trong số bốn nàng công chúa cùng mẹ sinh ra, Lưu Sở Ngọc tức Sơn Âm công chúa chính là người nổi trội hơn cả. Tuy nhiên, điểm khiến ít ai quên được nàng công chúa này chính là sự "háo dâm" vô độ. Một trong những điển tích nhắc tới nàng công chúa này chính là mối tình loạn luân với hoàng đế Lưu Tử Nghiệp, cũng chính là em trai của Sơn Âm công chúa. Sau khi Lưu Tử Nghiệp lên ngôi vua lúc 16 tuổi, mặc dù Sơn Âm công chúa đã lấy chồng vẫn thường xuyên vào cung để hưởng thụ thú vui xác thịt với em trai mình. Chồng của Sơn Âm công chúa bị nàng công chúa hoang dâm và vị vua dâm loạn bày kế hại chết để thoải mái quay cuồng trong dục vọng. Sau này để thỏa mãn cho thú vui của mình, Sơn Âm còn tuyển thêm 30 mỹ nam hằng ngày phục vụ. Trong lịch sử kể lại, Sơn Âm còn say đắm Trử Uyên vốn là chú dượng, chồng của cô ruột Sơn Âm công chúa. Tuy nhiên, người chú ruột chính trực đã thể hiện sự kiên định của mình không mảy may xiêu lòng trước mọi chiêu trò gạ gẫm của Sơn Âm.
Đường Uyển
Đường Uyển, người Âm Sơn (Việt Châu) thời Nam Tống là biểu muội của Lục Du.
2 người là thanh mai trúc mã, sau đấy kết thành vợ chồng. Về sau do sự phản đối của Lục mẫu nên 2 người đành chia tay. Sau đó, Lục Du kết duyên cùng 1 cô gái họ Vương. Còn Đường Uyển thì gả cho Triệu Sĩ Trình.
Trong 1 lần tình cờ, 2 người lại gặp nhau, tình ý ngày xưa lại chứa chan. 2 người bèn cùng nhau làm bài “Thoa đầu phượng” để tỏ tình ý của mình:
Hồng tô thủ, hoàng đằng tửu, mãn thành xuân sắc cung tường liễu
Đông phong ác, hoan tình bạc, nhất bôi sầu tự, kỷ niên ly tố
Thác! Thác! Thác
Xuân như cựu, nhân không sấu, lệ ngân hồng ấp giao tiêu thấu
Đào hoa lạc, nhàn trì các, sơn minh tuy tại, cẩm thư nang thác
Mạc, mạc, mạc
(Lục Du)
Thế tình bạc, nhân tình ác, vũ tống hoàng hôn hoa dịch lạc.
Hiểu phong can, lệ ngân tàn, ý giam tâm sự, độc ngữ tà nan.
Nan, nan, nan !
Nhân thành các, kim phi tạc, bệnh hồn thường tự thu thiên tác.
Giác thanh hàn, dạ lan san, phạ nhân tuân vấn, yết lệ trang hoan.
Mãn, mãn, mãn !
(Đường Uyển)
Vì nỗi nhớ nhung da diết ấy mà không lâu sau nàng sinh bệnh rồi mất. Lục Du hay tin như sét đánh ngang tai, mấy phen khóc đến chết đi sống lại. Từ đó về sau, cái tên Đường Uyển đã trở thành 1 đề tài quen thuộc trong sáng tác văn chương của Lục Du. Mãi đến khi 84 tuổi ông vẫn không quên người vợ, người tri kỷ lúc đầu của mình. Người đời đánh giá đây chính là 1 mối tình “thiên cổ hận”.
Lương Hồng Ngọc
Lương Hồng Ngọc là vợ của tướng quân Hàn Thế Trung đời Nam Tống, không rõ năm sinh. Bà sinh ra trong một gia đình nghèo khó, phải bán mình làm kỹ nữ. Nói đến Lương Hồng Ngọc, bà không những nổi tiếng vì là mẹ hiền vợ thảo, mà còn là một chiến lược gia tài năng. Không ít lần, bà đã giúp Hàn Thế Trung đánh trận giành thắng lợi.
Tương truyền vào đời hoàng đế Tống Cao Tông. Quân Kim thường xuyên đem quân xâm chiếm, năm 1129, hoàng tử nước Kim là Ngột Truật mang đại quân 10 vạn binh lính đánh Giang Nam, thế lực vô cùng mạnh, Tống Cao Tông sợ hãi bỏ chạy về Ôn Châu. Lúc đó, Thế Trung được lệnh đóng quân ở sông Trường Giang để đón đánh địch. Mặc dù ở thế chủ động, nhưng chỉ có vẻn vẹn 8000 quân, làm sao để đánh bại được 10 vạn quân Kim. Lương Hồng Ngọc bèn nghĩ ra cao kế, bà bàn với Thế Trung cố ý giăng đèn kết hoa mở hội ở Tú Châu để đánh lạc hướng quân Kim, một mặt, bà bảo chồng mang quân bí mật phục ở sông Trường Giang. Đúng như Hồng Ngọc dự tính, khi quân của Ngột Truật rút về tả ngạn sông Trường Giang, mải mê hướng về hội đèn hoa, không mảy may chuẩn bị. Lúc ấy, Thế Trung tung 8000 quân ra chặn đánh, quân Kim không kịp trở tay, thảm bại trong tay số quân lính ít ỏi của Thế Trung. Quân Tống đại thắng, Hàn Thế Trung từ đó ngày càng khâm phục vợ hơn, càng hay hỏi han bà về binh thư sách lược. Bà được suy tôn là 1 trong 3 nữ tướng quân vĩ đại trong lịch sử Trung Hoa.
Mạnh Lệ Quân
Mạnh Lệ Quân con gái của đại phu Mạnh Sĩ Nguyên trấn Thúy Trúc. Mạnh Lệ Quân rất thông minh, tuy là con gái nhưng kinh thi, bách gia chư tử đều thuộc, tinh thông y thuật, cầm, kì, thi, hoạ. Nàng không thích chuyện thêu thùa mà chỉ thích cải nam trang ra ngoài chơi. Tình cờ, nàng kết giao bằng hữu với Thiết Mộc Nhĩ và Hoàng Phủ Thiếu Hoa. Thiết Mộc Nhĩ vốn là đại hãn tương lai của nhà Nguyên. Trong lần đi xuống Giang Nam để tìm thuốc cho cha, anh đã gặp gỡ và yêu thương Mạnh Lệ Quân. Còn Hoàng Phủ Thiếu Hoa là một anh chàng ngốc nhưng rất giỏi võ nghệ cũng là người có đính ước với Mạnh Lệ Quân từ khi còn nhỏ. Do sự hiểu nhầm, Mạnh Lệ Quân đã lầm tưởng người cô yêu là Thiết Mộc Nhĩ. Cùng lúc đó, cha mẹ Mạnh Lệ Quân và Hoàng Phủ Thiếu Hoa lại chuẩn bị tác hợp cho hai người thực hiện lời giao ước trước đây. Trong vùng có tên ác bá là Lương Khuê Bích nghe đồn về Mạnh Lệ Quân cậy thế cha là thừa tướng đương triều đã đem sính lễ đến đòi cưới nàng. Mạnh Sĩ Nguyên rất khó xử đành mở cuộc thi bắn cung kén rể. Cuối cùng Hoàng Phủ Thiếu Hoa thắng cuộc. Lương Khuê Bích uất ức bày mưu hại Thiếu Hoa nhưng may mắn chàng được Lương Yến Ngọc, em gái cùng cha khác mẹ của Lương Khuê Bích cứu. Từ đó Lương Yến Ngọc đem lòng yêu Thiếu Hoa.
Về phần Mạnh Lệ Quân, nàng không đồng ý với cuộc hôn nhân do cha mẹ xắp xếp nên đã bỏ lên kinh thành tìm Thiết Mộc Nhĩ. Lương Khuê Bích đã vu oan cho cha của Hoàng Phủ Thiếu Hoa nhằm đạt được mục đích lấy được vợ đẹp. Cuối cùng nhà họ Mạnh đành phải gả nàng Tô Ánh Tuyết thay thế. Trong ngày tân hôn Ánh Tuyết đã nhảy sông tự tử và trôi dạt vào thuyền của một vương gia, họ đã nhận nàng là con nuôi. Thiết Mộc Nhĩ nghe danh Mạnh Sĩ Nguyên nên đã mời ông về cung làm thái y, khiến cho Lệ Quân và Thiếu Hoa tưởng họ bị tội. Lương Yến Ngọc bị anh gả cho người bán thịt lợn, cô đã trốn lên kinh thành để tìm cha. Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Lệ Quân cũng tới kinh thành để cứu Mạnh Sĩ Nguyên. Ba người Mạnh Lệ Quân, Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Lương Yến Ngọc cùng đi. Trên đường đi Mạnh Lệ Quân mới biết người mình thực sự yêu thương là Hoàng Phủ, đồng thời Thiếu Hoa cũng phát hiện Mạnh Lệ Quân là con gái và đã đem lòng yêu thương nàng.
Tại kinh thành, Thiết Mộc Nhĩ đã lên ngôi và lấy vợ nhưng lúc nào chàng cũng nhớ tới Lệ Quân. Để cứu cha Lệ Quân đã tham gia kì thi trạng nguyên và trở thành tể tướng nhà Nguyên do sự thiên vị dặc biệt của Thiết Mộc Nhĩ. Mạnh Lệ Quân đã đồng ý lấy con gái của vương gia cũng chính là Tô Ánh Tuyết. Hoàng Phủ Thiếu Hoa trở thành vị tướng quân. Lúc này cha con Lương Khuê Bích bị Mạnh Lệ Quân tố cáo nên bị đày vào ngục chuẩn bị xử chém. Lương Yến Ngọc cầu xin Thiếu Hoa giúp đỡ, chàng đành làm lễ kết hôn với Lương Yến Ngọc. Điều này làm Lệ Quân buồn bã quyết chí cùng gia đình trở về quê cũ. Đúng lúc này vương gia làm phản đã bắt Lệ Quân. Cuối cùng thân phận nữ của nàng bại lộ, Thiết Mộc Nhĩ viện cớ này ép nàng làm cung phi. Nhờ có thái hậu giúp đỡ Lệ Quân trở về với gia đình. Lúc này Yến Ngọc đã ra đi. Lệ Quân cùng Thiếu Hoa kết làm vợ chồng chu du thiên hạ.
Hoàng Phủ Phi Giao
Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Mạnh Lệ Quân có bốn người con : Triệu Câu, Triệu Lân, Triệu Phượng và Mạnh Phi Giao, từ khi còn ở phủ Hoàng Phủ Phi Giao đã bộc lộ bản tính muốn cai trị cả thiên hạ, nàng thường mơ ước mình có thể giống như Võ Tắc Thiên nên thạo bức chân dung của Võ Mỹ Nương mà ngắm nhìn và tôn vinh. Thái Thượng Hoàng của Minh triều muốn ẩn dật tu hành nên truyền ngôi lại cho con trai của ông là Anh Tôn lập hữu hậu là Hùng Ngọc Dung con gái của Hùng Hữu Hạo cũng là chỗ thâm tình của Hoàng Phủ Thiếu Hoa, Thái Thượng Hoàng còn truyền thánh chỉ lập Phi Giao làm hữu hậu điều này càng làm cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa lo sợ vì bản tính của Phi Giao nhưng cũng đành chấp nhận vì ko thể nào kháng chỉ.
Từ khi Phi Giao nhập cung, Anh Tôn đã mê mẩn tâm hồn trước sắc đẹp của Phi Giao, Phi Giao vì muốn loại bỏ Hùng Ngọc Dung nên đã lập mưu sai Đồ Mang Hưng Phục và Thái giám Mã Thuận vu khống cho Hùng Hữu Hạo tội mưu phản. Anh Tôn nghe theo lời Phi Giao xử tội chết cả nhà Hùng Hữu Hạo, còn phần Ngọc Dung vì đang mang thai nên bị xử giam vào lãnh cung chờ ngày sanh nở và truyền lệnh cho Bình Bộ Thượng Thơ hạ sắc chỉ phong cho Phi Giao làm Chiêu Vương Hoàng Hậu được quyền nhiếp chính giữa triều đình.
Ngay lúc đem Hùng Hữu Hạo ra pháp trường thì cả nhà Hoàng Phủ đến giải cứu, Hoàng Phủ Thiếu Hoa quyết định lên thâm sơn tìm Thái Thượng Hoàng mời Ngài về trừng trị Phi Giao, Hùng Hữu Hạo cùng lên đường với Thiếu Hoa. Về phần Ngọc Dung sinh được Hoàng tử, Triệu Lân không ngại khó khăn đến lãnh cung mang Hoàng tử về gởi cho chị dâu của mình nuôi dưỡng, Phi Giao thấy mẹ cứ chống lại ý nàng nên dựa vào chức quyền đã truyền thánh chỉ phong toả cung Nam Thanh giam Mẹ và Hoàng Thái Hậu. Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Hùng Hữu Hạo sau 1 thời gian dài đã tìm được Thái Thượng Hoàng, ngài đồng ý trở về triều để xử tội. Triệu Lân sau 1 đêm trằn trọc tìm mưu kế truất phế Phi Giao thì từ tóc xanh trở nên đầu bạc, và đã tìm được kế vẹn toàn đưa Đồ Mang Hưng Phục lên làm vua nhằm tạo sự bất hòa sau đó thỉnh Thái Thượng Hoàng đăng điện để xử án. Hùng Ngọc Dung gặp lại Hoàng Tử sau nhiều năm xa cách mẫu tử tương phùng, Đồ Mang Hưng Phục và Mã Thuận bị xử tội chết, Anh Tôn đau khổ khi Thái Thượng Hoàng bắt buộc chính Anh Tôn phải hạ chỉ xử Phi Giao tội chết, Phi Giao bị xử bá đao trảm quyết nhưng vì bá quan văn võ quỳ xin tội nên Thái Thượng Hoàng giảm án xử Phi Giao tam ban triều điển, nhà Hoàng Phủ khóc tiễn con nhưng cũng đành phải chịu vì luật nước không thể nào chống lại.
Mộc Quế Anh
Lưỡi kiếm của nàng vung lên huy hoàng như Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời. Nàng tung hoành giữa trận như rồng giữa trời xanh, nàng tấn công như sấm sét, và khi bình yên, nàng như mặt nước phẳng lặng huyền ảo cùng ánh trăng lung linh’’, một học giả viết về Mộc Quế Anh như vậy.
Hai nước Tống – Miêu chinh chiến liên miên. Tương Miêu bày Thiên Môn Trận – trận đồ bất khả chiến bại và thách thức quân đội Tống phá trận trong một trăm ngày). Nếu không, họ phải giao nộp đất đai cho Miêu. Trong quân đội Tống, có một gia đình võ tướng họ Dương đã chiến thắng trong nhiều trận chiến. Tuy nhiên, họ bị kẻ xấu dèm pha, vua Tống nghi ngờ. Cuối cùng, cánh quân nhà họ Dương bị Miêu đánh bại và chịu tổn thất lớn lao: người bị giết chết, người từ bỏ chiến trường đi tu, người bị bắt giữ… Ngoại trừ một người duy nhất còn sống sót, giờ đây, các vị trí chỉ huy thay thế người đã mất đều do nữ giới trong gia đình đảm nhận. Lịch sử Trung Quốc gọi là “các nữ tướng Dương gia’’.
Họ chiến đấu can trường và dũng cảm nhưng bị thất bại trước Thiên Môn trận. Thời hạn 100 ngày sắp tới gần, một vị quân sư nhớ tới và tiến cử Mộc Quế Anh – một nữ tù trưởng trẻ tuổi, xinh đẹp ở gần đó – cũng là người duy nhất biết cách phá trận đồ. Tài năng của nàng sớm gây ấn tượng với quân đội hai nước Tống – Miêu ngay trong trận chiến đầu tiên. Quân đội Tống phá được Thiên Môn trận, tướng chỉ huy giao quyền thống lĩnh cho Quế Anh.
Như một võ tướng kỳ cựu, Mộc Quế Anh sắp xếp lại quân đội, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng người, tìm cách thiêu trụi toàn bộ lương thực và cỏ dự trữ của kẻ thù. Thiếu cỏ, kỵ binh Miêu – cánh quân chủ chốt trở nên vô dụng. Thiếu lương thực, hàng nghìn quân hùng mạnh không còn sức chiến đấu. Quân đội Tống đánh từng trận thắng lợi và thu lại đất bị xâm chiếm.
Mộc Quế Anh với tài năng và sự dũng cảm đã khiến võ tướng họ Dương ngưỡng mộ. Ca khúc khải hoàn, cặp trai anh hùng – gái thuyền quyên được vua Tống ban thưởng xứng đáng, và còn tổ chức hôn lễ long trọng cho hai người.
Lý Thần Phi
Lý thị là người Hàng Châu, tổ phụ là Lý Diên Tự , làm chức Chủ bộ của huyện Kim Hoa. Cha Lý thị là Lý Nhân Đức , sau phong chức Tả ban điện trực . Lúc đó, khi cha Lý thị mất, mẹ kế của bà tái giá với người khác, Lý thị bèn xuất gia vào chùa tu hành. Nhưng không lâu sau, Lưu mỹ nhân vào chùa cầu an, gặp được Lý thị. Lưu mỹ nhân thấy bà có nhan sắc xuất chúng, bèn đưa về cung làm thị nữ hầu cận.
Vào trong cung, Tống Chân Tông đang sủng ái Lưu mỹ nhân, muốn lập bà làm Hoàng hậu, nhưng quần thần nhận thấy Lưu mỹ nhân xuất thân hàn vi, cật lực phản đối. Chân Tông lo lắng, ngày đem không yên. Lúc đó, Lý thị gặp được mộng tiên nhân, báo rằng sẽ sinh long thai kỳ tử. Chân Tông cùng Lưu mỹ nhân bèn nghĩ ra kế sách Tá phúc sinh tử. Chân Tông vời Lý thị vào hầu, sau 1 đêm quả nhiên có thai, ông ban cho Lý thị một cây trâm bằng ngọc, nhưng kiêng dè thị tẩm lần nữa.Ngày 12 tháng 5, năm 1010, Lý thị sinh ra 1 hoàng tử, đặt tên Triệu Thụ Ích, và Chân Tông tuyên bố là do Lưu mỹ nhân sinh ra, Lý thị được phong Sùng Dương huyện quân. Sau, Lý thị mang thai được 1 công chúa, tiến phong lên Tài nhân , nhưng công chúa mau chóng chết yểu.
Về sau, Lưu phi được phong làm Hoàng hậu, Lý tài nhân được nâng lên hàng Chính nhị phẩm, tước Uyển nghi . Địa vị của Lý thị lúc đó hơn Thẩm tiệp dư , ngang với Tào sung viên và dưới Dương Thục phi. Năm 1022, Thái tử Triệu Trinh kế vị, tức Tống Nhân Tông. Lưu hoàng hậu được tôn làm Hoàng thái hậu. Lý uyển nghi được phong làm Thuận Dung , đưa đến trông nom lăng mộ Tiên đế là Vĩnh Định lăng để chăm sóc. Lưu thái hậu còn sai Lưu Mỹ, Trương Hoài Đức tra tìm thân tộc của Lý thuận dung và ban tiền bạc cho họ, phong em trai là Lý Dụng Hòa làm Tam ban phụng chức , với lý do Thuận dung đến trông coi lăng mộ Tiên đế, nên ban ơn trọng thưởng.Nhân Tông Triệu Trinh, lúc trước tên Triệu Thụ Ích, được Tống Chân Tông chỉ định Lưu thái hậu là mẹ ruột sinh ra, nên hiếu thảo với Lưu thái hậu, và không biết rằng Lý Thuận dung mới chính là mẹ ruột của ông. Nhưng Lý Thuận dung vẫn không trách cứu nửa lời, lặng lẽ sống trong cung và cuối cùng đi đến Vĩnh Định lăng để chăm nom mộ phần Tiên đế.Năm 1032, Minh Đạo nguyên niên, Lý Thuận dung bệnh nặng, Lưu thái hậu sách phong bà làm Thần phi , đưa Thái y đến tận tình cứu chữa. Ngay khi vừa sách phong thì Lý Thần phi qua đời, hưởng thọ 46 tuổi. Năm 1033, Lưu thái hậu qua đời. Lúc này, Yên vương Triệu Nguyên Nghiễm tiết lộ sự thật về thân thế của Lý Thần phi, nói rằng Lưu Thái hậu đã cướp Nhân Tông về làm con mình, bỏ rơi Thần phi ở trong cung thất sủng. yên vương còn dèm pha rằng Lưu thái hậu đã hạ độc chết Thần phi. Tống Nhân Tông khi biết sự thật, trong lòng xúc động quá độ, di đến mộ phần của Thần phi mà khóc lóc thảm thiết
Sau, Nhân Tông truy phong Thần phi làm Trang Ý hoàng thái hậu . Do Lưu thái hậu chưa từng bạc đãi Lý thái hậu, Nhân Tông không truy cứu bất kỳ điều gì về chuyện xảy ra năm sưa nữa, chỉ chú tâm an táng tử tế cho Lý thái hậu và Lưu thái hậu, hợp táng cùng Tống Chân Tông.Những năm Khánh Lịch (1041 - 1048), thụy hiệu của bà được cải thành Chương Ý hoàng hậu, cùng Chương Hiến Minh Túc hoàng hậu đặt bài vị ở Thái miếu.
Nhân Tông còn trọng dụng em trai bà là Lý Dụng Hòa, phong làm Chương Tín quân Tiết độ sứ , muôn phần thiện đãi. Ông còn gả Phúc Khang công chúa hạ giá lấy con trai của Lý Dụng Hòa.
---------
Theo câu chuyện dân gian thì Lý Thần Phi vốn chỉ là một cung nữ hèn mọn hầu hạ thái hậu. Một lần, Tống Chân Tông Triệu Hằng ngẫu nhiên tạt qua và muốn rửa tay. Lý Thần Phi vội vàng tranh thủ cơ hội này bê đồ rửa lên để phục vụ thánh thượng. Hoàng thượng thấy nàng da dẻ mượt mà mềm mại liền tán gẫu với nàng vài câu. Nàng liền tranh thủ cơ hội nói với Tống Chân Tông rằng: Đêm qua nô tỳ đột nhiên nằm mơ thấy một đạo sĩ mặc áo lông vũ phát ánh hào quang giáng phàm nói rằng nô tỳ sẽ sinh được hoàng nhi cho Hoàng thượng. Đang lúc Chân Tông buồn rầu vì chưa có con trai, nghe Lý Thần Phi nói vậy thì vui mừng và lập tức triệu hạnh và sủng ái nàng.
Năm 1004, quân Khiết Đan xâm lấn biên cương, Chơn Tông phải thân chinh đánh dẹp. Khi nhà vua đã xuất chinh, cả Lưu hoàng hậu và Lý thần phi đều lâm bồn. Lưu hoàng hậu chỉ sinh con gái, còn Lý thần phi lại sanh hạ được hoàng tử. Do ganh ghét, sợ sau này con trai của Lý thần phi sẽ được kế vị ngai vàng, nên Lưu hoàng hậu âm mưu cùng thái giám Quách Hòe, đem một con mèo chết đánh tráo hoàng tử, ám hại Lý thần phi để trừ hậu hoạn.
Nhờ cung nữ Khấu Thừa Ngự ở Chiêu Dương cung mật báo là Lưu hoàng hậu sẽ cho đốt Bích Vân cung, mà Lý thần phi trốn thoát, lưu lạc ra ngoài dân gian. Khi Lưu hoàng hậu và Quách Hòe sai Khấu Thừa Ngự bồng hoàng tử ném xuống ao Kim Thủy, do lòng trung hậu, cung nữ họ Khấu lén giao hoàng tử cho thái giám Trần Lâm, là người trung nghĩa, đưa về Nam Thanh cung cho Địch phi nuôi dưỡng, còn nàng thì nhảy xuống Kim Thủy trì tự tử. Hoàng tử được Bát vương đặt tên là Triệu Thọ Ích.
Khi Triệu Thọ Ích được 9 tuổi, Bát vương từ trần. Hai năm sau, vua Chơn Tông dẹp yên Khiết Đan, hồi trào. Nghe thuật lại việc Bích Vân cung bị cháy, mẹ con Lý thần phi và các cung nữ đều chết, vua vô cùng thương tiếc. Vì nghĩ mình không có con trai, Chơn Tông mới lập con của anh (Bát vương) làm Đông cung Thái tử, cải tên là Triệu Trinh. Năm thái tử 14 tuổi, Chơn Tông băng hà, triều thần phò Triệu Trinh lên ngôi, lấy hiệu là Nhân Tông, niên hiệu là Thiên Thành nguyên niên. Ngay đến lúc ấy, Nhân Tông cũng không hề hay biết về thân thế của mình.
Về sau, nhân lúc xứ Thần Châu mất mùa, dân tình đói khổ, vua sai Bao Công đi phát gạo cứu tế. Trên đường về, bỗng có một cơn gió lạ thổi bay mão của Bao Công, quân hầu bảo đó là “lạc mạo phong”. Bao Công sai đi bắt. Hai tướng cận vệ thân tín ở phủ Khai Phong là Trương Long, Triệu Hổ cầm tờ trát ra đi, lại bị một luồng gió mạnh thổi bay tờ trát vào người một thiếu niên bán rau. Người này liền bị bắt. Nhờ đó, Bao Công dò hỏi và tìm tới được một lò gạch cũ bỏ hoang, gặp một phụ nữ mù lòa, chính là Lý thần phi, mẹ nuôi của chàng bán rau Quách Hải Thọ, và là mẹ ruột của đương kim hoàng đế Nhân Tông. Bao công minh oan cho Lý thị, bà được đón vào cung tôn làm Hoàng thái hậu.
Lý Thanh Chiếu
Lý Thanh Chiếu, người Tế Nam, tỉnh Sơn Đông. Bà là con gái của học giả kiêm nhà viết tản văn Lý Cách Phi, mẹ bà cũng là người thông thạo văn chương. Năm 18 tuổi, bà kết hôn với thái học sinh Triệu Minh Thành (1081 - 1129), là một nhà khảo chứng kim thạch học nổi tiếng và là con trai Tể tướng Triệu Đĩnh. Cưới xong, chồng bà đi làm thái thú ở Lai Châu, Truy Châu, bà được đi theo.
Trong cảnh giàu sang quyền quí, mỗi khi rảnh việc quan, hai vợ chồng cùng nhau xướng họa thơ văn, thu thập chỉnh lý sách vở, họa phẩm, các áng văn trên đá, trên đồng...
Năm 1127 quân nhà Kim chiếm Khai Phong, bắt giữ cả hai vua nhà Tống là Thượng hoàng Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông, nam bắc Hoàng Hà lần lượt rơi vào tay quân Kim, nhiều quan lại trong triều đình nhà Tống phải chạy xuống phía nam, vợ chồng bà cũng chạy xuống phía nam Hoài Hà.
Trong lúc loạn lạc, Triệu Minh Thành được lệnh làm thái thú Hồ Nam, nhưng trên đường đi nhậm chức thì bị cảm và chết ở Kiến Khang (nay là Nam Kinh). Chồng bà ốm chết mà quân Kim cứ tràn xuống tấn công, khiến bà cũng như triều đình nhà Tống cứ phải nay đây mai đó. Hàng châu, Việt Châu, Đài Châu, Kim Hoa...là những vùng miền bà đã lần lượt trải qua, sống một mình trong cảnh cô tịch, khốn đốn cho đến khi già yếu rồi qua đời.
Đường Quát Định Ca
Trước khi trở thành Quý phi, Đường Quát Định Ca đã yên bề gia thất. Phu quân của nàng ta là Sùng nghĩa quân tiết độ sứ Hoàn Nhan Ô Đới. Hoàn Nhan Lượng và Đường Quát Định Ca thường giấu Ô Đới, thậm thụt ong bướm, làm những chuyện “điên loan đảo phượng”.
Tại thời điểm mới “đầu mày cuối mắt” cùng ả Định Ca, Hoàn Nhan Lượng vẫn chưa lên ngôi báu. Tới khi tức vị, Kim Phế đế không muốn vụng trộm như trước, bèn cho triệu tỳ nữ Quý Ca của người tình vào cung để nhắn nhủ một điều: “Giờ ta đã làm nên nghiệp lớn, không bận gì phải vụng trộm. Nàng hãy vào cung, nhưng không được luyến tiếc gã chồng ấy nữa, cho hắn về cõi âm ti là vừa”. Tiếc nuối cho nghĩa phu thê bấy lâu cùng Ô Đới, Đường Quát Định Ca không nỡ ra tay. Nàng lại sai Quý Ca vào cung chuyển lời tới hoàng đế, đại ý rằng: “Trước đây, chúng ta lén lút, thiếp luôn cảm thấy có lỗi với Ô Đới. Huống hồ con cái đã lớn cả rồi, bệ hạ sao nỡ ép thần thiếp ra tay với chồng?”.
Nghe truyền đạt lại, Hoàn Nhan Lượng bỗng nổi giận đùng đùng, trừng mắt nhìn Quý Ca mà ra lệnh: “Người hãy về nói lại với nàng, rằng ta rất tức giận. Nếu nàng không chịu giết Ô Đới, ta quyết tru di cửu tộc nhà nàng”. Mười mươi hiểu rõ, Hoàn Nhan Lượng đã nói là làm, Đường Quát Định Ca bèn tìm thời cơ thuận lợi, chuốc say Ô Đới tội nghiệp rồi sai mấy kẻ tâm phúc bóp chết chồng.
Hoàn Nhan Lượng nghe tin, vui mừng khôn xiết. Dẹp sạch lối đi, Hoàn Nhan Lượng đường đường chính chính triệu Đường Quát Định Ca vào cung, phong làm quý phi.
Khi mới vào cung, Đường Quát Định Ca được Hoàn Nhan Lượng hết mực sủng ái. Thậm chí, Hoàn Nhan Lượng còn vỗ ngực tuyên bố, sẽ sắc phong cho Đường Quát Định Ca làm hoàng hậu. Nhưng dần dần, Đường Quát Định Ca bị thất sủng. Nhà vua thường bỏ mặc nàng quạnh quẽ trong cung rồi tung tăng ra ngoài thưởng hoa thưởng rượu với đám mỹ nữ. Vốn nhiều dục vọng, Định Ca sao có thể chịu đựng cô đơn mãi như vậy. Trong lúc tâm trí cùng quẫn, nàng bèn nghĩ tới chuyện tìm kiếm cho mình một người đàn ông khác, để thỏa cơn khát ái tình. Thực chất, lúc còn vụng trộm với Hoàn Nhan Lượng, Đường Quát Định Ca cũng đồng thời vụng trộm với một gia nô có tên Diêm Khất Nhi. Sau khi vào cung, nàng không còn cơ hội gần gũi với y. Tới lúc bị hoàng đế vứt bỏ, xem như thứ thừa thãi trong cung, Đường Quát Định Ca lại bồn chồn nghĩ tới Diêm Khất Nhi.
Định Ca sai ngườilục tìm vài bộ đồ ngủ trước kia của nàng trong phủ rồi lấy một cái giỏ lớn, cho Diêm Khất Nhi ngồi gọn trong ấy, bên trên lại phủ kín xiêm y để che mắt thiên hạ, đường đường chính chính tiến thẳng vào cung.
Nhưng Đường Quát Định Ca cũng hiểu rằng, việc ngoại tình một khi bại lộ, hậu quả sẽ khôn lường. Để che mắt thiên hạ, dâm phụ cho Diêm Khất Nhi trang điểm và ăn mặc như một cung nữ, ban ngày thì đội lốt kẻ hầu, đợi lúc sơ hở thì thỏa thuê giường chiếu, ban đêm lại nghĩ trăm phương ngàn kế để nhân tình được ra ngoài. Cứ thế, Diêm Khất Nhi hưởng đời an nhàn, sung sướng trong cung.
Thế nhưng, cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra. Chuyện quý phi ngoại tình cuối cùng cũng đến tai Hoàn Nhan Lượng. Chính Quý Ca – hầu gái thân cận của Đường Quát Định Ca - đã tiết lộ chuyện này
Nghe xong, Hoàn Nhan Lượng chỉ cười lạnh một tiếng mà rằng: “Đồ thối tha, sống làm gì cho phí hoài, dám cắm sừng cả trẫm, ta sẽ không dung tha cho ả”. Ông lập tức hạ lệnh bắt quý phi phải thắt cổ tự vẫn, Diêm Khất Nhi và ba ni cô cũng chịu chung số phận với Định Ca.
Mã Hoàng hậu hay Hiếu Từ Cao Hoàng hậu (1332–1382) là vợ của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, là người rất giản dị, hiền lành, được triều đình trên dưới khen ngợi và bá tánh yêu thương.
Vào tiết nguyên tiêu ( rằm tháng giêng âm lịch) giữa năm Hồng Võ triều Minh, ở kinh thành, khắp nơi đều giăng đèn kết hoa để mừng không khí ngày tiết sung mãn. Minh Thái tổ sau khi nghe đại thần báo cáo về tình hình hội hoa đăng kinh thành xong, cũng có niềm hứng thú muốn đi xem hội. Ông liền dẫn theo mấy người tuỳ tùng, ăn mặc đơn giản ra khỏi cung, đi đến miếu Khổng Tử ở mé Nam Thành là nơi tập trung nhiều đèn nhất.Ở đây xuất hiện nhiều đèn có dán câu đố. Đằng này nhóm ba, đằng kia nhóm năm, vây quanh mê đăng mà chỉ chỉ điểm điểm, nói nói cười cười, chốc chốc truyền ra câu đố để cùng đoán. Bỗng Chu Nguyên Chương nghe rõ mồn một tiếng của một đứa trẻ:" ha ha, tôi đoán trúng rồi, đó là Quốc mẫu Hoàng hậu của chúng ta!"
Ba chữ " Mã Hoàng hậu" đặc biệt khiến cho Chu nguyên Chương chú ý, ông vội đi tới xem, thì ra chiếc mê đăng trước mặt vẽ một phụ nữ bàn chân to ôm trái dưa hấu lớn, đáp án câu đố đúng là Mã Hoàng hậu phu nhân của ông. Chu Nguyên Chương hết sức tức giận quay trở về cung, và lập tức hạ lệnh bắt những người có ý cười chê Mã Hoàng hậu.
Vì sao Chu nguyên Chương với một bức vẽ mê đăng mà nổi giận? Thì ra, đó là do bàn chân to của Mã Hoàng hậu trên bức vẽ. Thời xưa, nam nhân rất coi trọng phụ nữ có đôi bàn chân nhỏ nhắn( tam thốn Kim Liên: bàn bàn chân phụ nữ được bó cho nhỏ). Phụ nữ mà có bàn chân to tượng trưng không người dạy dỗ và không giữ đạo phụ nữ.
Tin này truyền đến tai Mã Hoàng hậu, bà vội vàng tìm đến Chu nguyên Chương mà khuyên:" Bàn chân to thì có soa đâu? Năm ấy ông đánh giặc bị thương, nếu không có đôi bàn chân to này của tôi cõng ông chạy trốn binh giặc rượt tho, thì chúng ta có được ngày hôm nay không? Điều mà bá tánh nói đó là sự thật!" Lời khuyên này đã làm dịu đi con lửa giận của Chu Nguyên Chương.
Lần khác, một cung nữ làm sai trái qui cũ trong cung, Chu Nguyên Chương nổi giận, bắt nàng xử phạt rất nặng. Mã Hoàng hậu biết được, bèn cũng giả vờ nổi nóng, liền bắt cung nữ này giao cho quan phán hình xử tội. Khi Chu Nguyên Chương hỏi bà vì sao làm như vậy, thì Mã Hoàng hậu nói: " Người làm Hoàng đế không nên vì sự vui giận của mình m2 tuỳ ý thưởng phạt. Khi ông nóng giận, sẽ tăng nặng sự phạt. Nếu giao cho quan phán hình xử lý, định tội, như thế mới công bằng hợp lý. Và như vậy cũng có thể tránh xảy ra án oan uổng."
Nhờ đức độ khiêm tốn, nhân từ của Mã Hoàng hậu, cho nê đã trách được rất nhiều sai lầm cho Chu Nguyên Chương trên đường chính trị.
Quách Ái
Vì sự ích kỷ của các đời đế vương, quản thúc mỹ nữ, nhốt trong hậu cung đã làm hại thanh xuân, hạnh phúc và tính mệnh của biết bao thiếu nữ. Nếu có kiếp sau, chắc chắn họ sẽ hy vọng được gả vào một nhà bình thường, trên còn phụ mẫu, dưới có nhi nữ, họ cũng cam tâm tình nguyện đắm chìm trong ngọn lửa yêu thương của thê chức mẫu chức trên nhân gian, tháng năm dần qua cho đến một ngày kia họ lạc hạ hoàng tuyền, tức là kiếp này đã dứt.
Các cung nữ triều nhà Minh đa phần đều xuất thân từ các gia đình thanh bạch trong chốn kinh thành. Một khi được chọn vào cung thì họ như con chim trong lồng, khó lòng mà gặp lại người thân nữa. Hơn nữa những năm đầu triều Minh vẫn còn áp dụng chế độ tuẫn táng tàn bạo của triều Nguyên trước. Khi Minh Tuyên Tông mất, cung nữ Quách Ái được lệnh phải tuẫn táng khi nàng chỉ vào cung mới được 20 ngày. “Tuyệt mệnh từ” là tác phẩm nàng viết trước lúc chết, câu câu đều chứa chan nước mắt thể hiện sự sinh tử biệt ly với cha mẹ
Tuyệt mệnh từ
Tu đoạn hữu số hề, bất túc giảo dã
Sinh nhi như mộng hề, tử giả giác dã
Tiên ngô thân nhi qui hề, tàm dư chi thất hiếu dã.
Tâm thê thê nhi bất năng dĩ hề, thị tắc khả điệu dã.
Vương Kiều Loan
Kiều Loan là một người rất thông minh, lại được cha mẹ nuông chiều cho nên từ nhỏ đã thông kinh bác sử, văn hay chữ tốt. Nếu là con trai thì đã chiếm được bảng vàng, phò vua giúp nước, danh tiếng lưu truyền thiên thu.
Chỉ trách chuyện tình duyên của nàng lại lắm bi ai. Lúc đầu, từ việc viết thư cho nhau, nàng và Chu Đình Chương ngày càng hiểu thêm về nhau rồi tình cảm đôi bên bắt đầu nảy sinh. Trong phủ họ Vương, lại có thêm Tào Di như người “bắc cầu” cho cả hai nên tình duyên ngày càng sâu đậm. Chu Đình Chương lúc đầu là một người phong lưu nho nhã, có tài thi phú, Đình Chương và Kiều Loan quả là một đôi trai tài gái sắc. Nhưng từ sau khi về quê, được Chu tư giáo sắp đặt hôn lể với Ngụy Đồng tiểu thư thì Đình Chương đã quên hẳn lời thề xưa với Kiều Loan. Kiều Loan vẫn đêm ngày mong mỏi, viết thư cho Đình Chương nhưng không bao giờ được hồi âm. Khi biết được sự thực Đình Chương phụ bạc mình, Kiều Loan vô cùng thất vọng và không còn thiết sống nữa. Trước khi tự tử, nàng gom tất cả các thư từ xướng họa với Đình Chương. thêm vào đó những dòng chữ thề nguyền và thiên Trường hận đóng vào một tập, cho vào bao công văn gửi đến vệ quân Ngô Giang nhờ bắt một tên quân tại đào. Trên phong thư đề “Nam Dương vệ chưởng ấn Vương Thiên hộ kính gửi chức lệ Tô Châu phủ, Ngô Giang huyện, huyện lệnh đại nhân”.
Phàm Công đọc tất cả thơ từ và thiên Trường hận, lòng tấm tắc ngợi khen tài năng của Kiều Loan và trách Đình Chương là một tên bạc tình, bèn cho người đi bắt Đình Chương đến. Lúc đầu Đình Chương chối cãi nhưng lúc sau khi thấy những tập thơ ấy thì bèn nhận tội. Phàm Công sa lính đánh Đình Chương đến tan xương nát thịt.
Lý Tích Nhi
Vua Minh Đại Tông, vị Hoàng đế thứ bảy của triều Minh có một câu chuyện tình đình đám với kỹ nữ lừng danh thời đó là Lý Tích Nhi. Thời bấy giờ, kỹ viện là do triều đình và quan lại địa phương mở và bảo trợ, triều đình còn lập hẳn một chức quan chuyên quản các kỹ viện, lầu xanh trong khắp cả nước.
Lúc bấy giờ, quan chủ quan công việc này là Lạc Tấn Vinh, do muốn lấy lòng Hoàng đế nên đã đem Lý Tích Nhi, cô kỹ nữ ăn khách bậc nhất thời bấy giờ dâng lên Minh Đại Tông. Được Minh Đại Tông chấp nhận, Lý Tích Nhi được bí mật đưa vào cung để hầu hạ Hoàng đế. Tuy nhiên, khác với những mỹ nữ khác, cô kỹ nữ họ Lý là người rất thẳng tính.
Dù được phong làm phi, Lý Tích Nhi vẫn không từ bỏ bản tính nóng nảy, thẳng thắn của mình. Khác với lối hành xử nhu mì, nhất nhất phục tùng của các phi tần trong cung, Lý Tích Nhi thường lên tiếng bảo vệ chính kiến của mình. Thậm chí cả hoàng thượng, người hết mực yêu thương, sủng ái nàng, cũng không thể khiến Lý Tích Nhi trở nên mềm tính.
Nhiều lần, vì phiền lòng với cách hành xử của Đại Tông, nàng đã không ngần ngại “khẩu chiến”. Những lời lẽ đanh thép cùng bản tính nóng nảy của Lý Tích Nhi khiến cô kỹ nữ dần bị thất sủng và cuối cùng bị đuổi khỏi hoàng cung.
Lưu mỹ nhân
Lưu mỹ nhân sinh ra trong một gia đình thường dân. Lớn lên, nàng trở thành một kỹ nữ thuộc quyền quản lý của Tấn Vương Phủ. Trong một lần du hý tới vùng Thái Nguyên tìm kiếm người đẹp mua vui, Lưu mỹ nhân đã lọt ngay vào mắt Minh Vũ Tông.
Tiếng đàn, tiếng hát ngọt ngào cộng thêm điệu múa uyển chuyển của Lưu mỹ nhân đã khiến vị Hoàng đế triều Minh mê mẩn. Minh Vũ Tông quyết định đặc cách, giữ Lưu mỹ nhân ở lại bên mình hầu hạ.
Từ đó, Lưu mỹ nhân và hoàng đế gắn với nhau như hình với bóng, nửa bước không rời, ngày càng được sủng ái. Về tới kinh thành, Minh Vũ Tông vẫn rất mực say mê nàng kỹ nữ tỉnh lẻ họ Lưu, ngày đêm cùng mỹ nhân đắm chìm trong hoan lạc. Trong cơn đê mê khoái lạc cùng người đẹp, Minh Vũ Tông ra lệnh xây cho Lưu mỹ nhân một cung điện thật đẹp để nàng tới ở. Lưu mỹ nhân còn có khả năng khống chế cả những quyết định triều chính do vị vua này quá mê mẩn sắc đẹp và "ngụp lặn" trong đời sống tình dục.
Nguồn yume.vn ; phunutoday.vn ; news.zing.vn ; blog.zing.vn ; baohay.vn
Các mĩ nhân Trung Hoa thời xưa (1)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét