Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

2 thg 12, 2013

Các mỹ nhân Trung Hoa thời xưa (1)


Nữ Kiều (không rõ năm sinh và chết) 

Phi tử của Hạ Vũ 
Nữ Kiều, con gái của Đồ Sơn Thị, là phi tử của vua Hạ Vũ tự Văn Mệnh. Bà có dung nhan đẹp đẽ, tính tình nhã nhặn, là người đẹp có tiếng ở địa phương. 
Vua Đại Vũ bận lo việc trị thủy, 30 tuổi vẫn chưa có gia thất. Sau nhân trị thủy tại Đồ Sơn ( nay là tây bắc huyện Thiệu Hưng tỉnh Triết Giang) mới gặp Nữ Kiều, hai người cùng sinh lòng yêu mến nhau. Do công tác trị thủy khẩn trương, Đại Vũ lại phải đi đến nơi khác xem tình hình tai nạn. Nữ Kiều nhớ Đại Vũ , bèn viết một bài thơ, chỉ còn lại hai câu: “ Đẳng hậu nhân a, đa ma đích trường cửu ước!”. (Ôi! Chờ đợi người, sao mà lâu quá thế!). 
Theo truyền thuyết, đó là bài thơ tình sớm nhất từ phương nam truyền lại. Xử nữ của Nữ Kiều đem việc ấy nói với Đại Vũ, Đại Vũ cảm động, bèn kết hôn với Nữ Kiều tại Đài Tang. Đó là câu chuyện “ Vũ đắc Đồ Sơn nữ, nhi thông vu Đài Tang” (Đại Vũ gặp được cô gái ở Đồ Sơn mà thành hôn ở Đài Tang). 

Sau khi cưới con gái của Đồ Sơn Thị, Đại Vũ không vì tình riêng mà lơ là việc công. 4 ngày sau khi cưới, ông từ biệt vợ, tiếp tục đi trị thủy. Nữ Kiều được đưa đến An Ấp ( nay là Đông Bắc huyện Giải tỉnh Sơn Tây), bà ngày đêm nhớ lại quê hương phía nam. Đại Vũ biết nhưng không có thì giờ an ủi vợ mới cưới, bèn phái người đắp một cái đài gọi là Vọng hương đài ở phía nam của thành để cho vợ mình lên đài trông về quê hương. Có một lần, Đại Vũ đi trị thủy ngang qua nhà, vừa gặp Nữ Kiều sinh con. Láng giềng nói với Đại Vũ, khuyên ông về thăm vợ con. Đại Vũ nói “ Trị thủy cần dành thời gian, không được phép phân tâm”. Người láng giềng nói :” Ông không thể về thăm vợ con, cũng nên đặt cho con một cái tên chứ!”. Đại Vũ trong lúc vội vàng nói “ Thì đặt tên là Khải,có ý “ khải hành trị thủy”. Như thế đi luôn 13 năm, 3 lần về qua nhà mà không vào, lúc trở về thì con đã hơn 10 tuổi, và Nữ Kiều cũng trở thành một phụ nữ trung niên rồi. 
Đại Vũ nối ngôi vua của vua Thuấn, phong Nữ Kiều làm phi, Khải nối ngôi, thành vua khai quốc của nhà Hạ 


Khánh Đô

Lần ấy đế Cốc đi tuần du thiên hạ có ghé qua nước Trần Phong và vào thăm nước ấy tiện thể xem xét dân tình, ông vô tình gặp người con gái là Khánh Đô ngang đường đem lòng yêu mến mà nạp làm vợ thứ tư. Khánh Đô hoài thai 14 tháng mới sinh ra một người con trai ở đất Đan Lăng, đế Cốc hay tin xa giá đến tận nơi thăm con và ban cho họ Y Kỳ tên chữ là Phòng Huân (đế Nghiêu sau này). Phòng Huân từ nhỏ đã được mẹ dạy dỗ những điều nhân nghĩa và tư tưởng đạo đức của tổ tiên là Hiên Viên Hoàng Đế, ông cũng gần gũi dân chúng nên thấu hiểu được cảnh cơ cực và nỗi vất vả của người dân lao động. Sau này lớn lên Phòng Huân giúp vua cha lập nhiều công to được thụ phong ở đất Đào, đến khi đế Chí đăng cơ thì cải phong ở đất Đường nên mới gọi kép là Đào Đường thị.
Còn về nước Trần Phong từ đó trở đi sử sách không thấy nhắc đến lần nào nữa, tuy nhiên chỉ cần biết rằng nước ấy là quê ngoại của đế Nghiêu cũng đủ cho đời sau không bao giờ lãng quên.


Ốc Đăng

Ốc Đăng là tên của 1 nữ nhân được cho là sống vào thời Đường Nghiêu trong lịch sử Trung Quốc, theo nhiều tư liệu cổ điển ghi chép thì bà chính là mẹ đẻ của đế Thuấn.
Tương truyền Ốc Đăng là người con gái hiền thục, đoan trang, trung hậu, đảm đang, bất khuất, kiên cường...Không rõ phụ mẫu bà là ai và xuất xứ từ nước nào chỉ biết chồng bà tên Cổ Tẩu - con trai của Kiều Ngưu - dòng dõi đế Chuyên Húc, xét về phẩm hạnh của nàng thì dân chúng quanh vùng đều đánh giá: nết na, thùy mị, chính trực, khảng khái...
Một lần Ốc Đăng đi cấy ngoài đồng cách nhà tương đối xa gặp ngay trời đổ mưa giông bất ngờ không chạy về kịp, nàng núp vội dưới gốc cây vệ đường để tạm trú ẩn cho qua cơn bão tố. Chợt nàng thấy trên bầu trời xuất hiện cây cầu vồng bảy sắc óng ánh rất đẹp mắt. Nàng mải chăm chú nhìn lên ngắm hiện tượng thiên nhiên này say mê đến nỗi mưa tạnh mây tan lúc nào cũng không hay biết. Khi người đi đường ngang qua thấy lạ liền gọi thì nàng mới giật mình bừng tỉnh. Sau hôm ấy nàng thụ thai rồi sinh ra một bé trai kháu khỉnh đặt tên là Đô Quân. Vì lúc sinh con thì bà đang ở đất Diêu nên lấy luôn tên đất mà xưng họ Diêu tự là Trọng Hoa, nàng vừa làm lụng vừa nuôi con thơ tất bật vất vả khiến thân hình càng ngày càng tiều tụy. Chẳng bao lâu nàng mắc bạo bệnh rồi qua đời khi ấy còn quá trẻ để lại cho chồng là Cổ Tẩu cảnh "gà trống nuôi con", nhưng chưa mãn tang Cổ Tẩu đã vội đi lấy vợ hai rồi đem Trọng Hoa sang cho ông nội là Kiều Ngưu. Thế rồi Kiều Ngưu nuôi dạy cháu cũng chỉ hơn 10 năm thì già yếu mà từ giã cõi thế gian, Trọng Hoa phải về ở với cha đẻ và mẹ kế lúc này đã sinh được 1 trai là Tượng và 1 gái là Hệ. Lần đầu tiên trong lịch sử câu ca dao:"mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời gì ghẻ có thương con chồng" được người đời chiêm nghiệm thực tế, kết quả mọi thủ đoạn mánh khóe của cha đẻ và mẹ kế cùng em khác mẹ đều được Trọng Hoa vượt qua một cách khéo léo tài tình.
Chính vì lẽ trên làm đế Nghiêu cảm mến đức hạnh phẩm chất cao thượng của Trọng Hoa mà thiện nhượng trở thành thánh quân Ngu Thuấn nổi tiếng vậy, đó cũng chính bởi gen di truyền hình thành từ mẹ sang con của người phụ nữ tên Ốc Đăng.

Nga Hoàng, Nữ Anh (không rõ năm sinh và chết) 

Phi tử của Thuấn Đế 
Theo truyền thuyết, Nga Hoàng và Nữ Anh là con gái của Nghêu Đế, là phi tử của vua Thuấn Đế Dao Trùng Hoa. 
Cũng theo truyền thuyết, khi vua Nghêu tuổi già, Tứ nhạc và Thập nhị mục cử người thừa kế, mọi người đều nhất trí chọn ông Thuấn. Vua Nghêu tiến hành khảo nghiệm một thời gian dài với ông Thuấn, thấy rất vừa ý, yên tâm nhường ngôi và đem Nga Hoàng và Nữ Anh gả cho ông Thuấn. Đó là câu chuyện “ hai con gái vua Nghêu là hai phi tử của nước Thuấn” được nói trong sử sách. 
Nga Hoàng và Nữ Anh rất hiền tuệ, chưa hề cho mình xuất thân nơi cao sang mà đối xử kiêu ngạo với người. Chị em đối xử hòa thuận, cùng lòng hiệp sức giúp vua Thuấn sắp đặt việc nước, làm nhiều việc có ích cho nhân dân. Sau khi vua Thuấn đi tuần du phương Nam, chết ở Thương Ngô, chôn ở núi Cửu Nghị (nay huyện Ninh Viễn tỉnh Hồ Nam). Nga Hoàng , Nữ Anh tìm đến phương Nam điếu tế khóc lóc, nước mắt nhỏ xuống, dính vào trúc, làm cho cây trúc xanh nhuốm những vệt loang lổ của vết lệ. 
Đó là câu chuyện “ Ban trúc” cũng gọi là “ Tương phi trúc” trong truyền thuyết. Thi nhân đời Đường là Chu Huyện, có bài thơ Thuấn phi viết: “ Thương ngô nhất vọng cách trùng vân, Đế tử bi tầm bất kí xuân. Hà sự lệ ngân thiên tại trúc, Trinh tư ân niệm tiết cao nhân” 
Dịch là “ Thương ngô trông cách mấy tầng mây, Vua chết buồn tìm chẳng nhớ ngày. Vết lệ cớ sao riêng gửi trúc, Tiết cao nên nghĩ kẻ trinh ngay”. 
Hai bà phi khóc chồng, giọt lệ nhuộm trúc trở thành vệt loang lổ, câu chuyện xưa đẹp đẽ làm cảm động lòng người, thể hiện mối tình cao thượng của phụ nữ Trung Quốc, được muôn đời truyền tụng. 
Nga Hoàng không sinh nở, Nữ Anh sinh con trai là Thương Quân. Thương Quân không có tài cán gì, trước khi lâm chung, vua Thuấn cử Đại Vũ làm người kế thừa. Sau khi Đại Vũ lên ngôi, phong Thương Quân ở đất Ngu ( nay là huyện Ngu tỉnh Hà Nam). Nga Hoàng , Nữ Anh lo trọn đại cục, cùng với con ở đất Ngu, an hưởng tuổi già và qua đời. 
Lại có một thuyết nói rằng: sau khi vua Thuấn chết thì hai bà nhảy xuống sông tự tử. Trong bài “ Cửu ca” của Khuất Nguyên có hai bài “ Tương quân” và “ Tương phu nhân”, mà có người cho là những bài thơ ca tụng Nga Hoàng , Nữ Anh. Nga Hoàng là chính phi gọi là Tương quân, Nữ Anh là thứ phi gọi là Tương phu nhân 


Muội Hỷ

Muội Hỷ là con dân nước Hữu thi, một nước nhỏ ở biên viễn. Do đánh thua vua Kiệt nhà Hạ (thế kỷ 21 đến thế kỷ 17 trước CN) nên vua nước Hữu Thi phải nộp người con gái đẹp là Muội Hỷ để xin giảng hòa. Với sắc đẹp hiếm có cộng với khả năng quyến rũ lạ thường, Muội Hỷ khiến Kiệt suốt ngày phải bám lấy gấu váy của nàng, không lo gì chính sự
Dù sống trong cung điện nguy nga nhưng Muội Hỷ vẫn chưa bằng lòng. Nàng bắt vua Kiệt phải xây cho mình 1 cung điện mới nguy nga và lộng lẫy hơn. Bên ngoài cung điện lại xây một cái đài cao ở trước cung điện bằng ngọc trắng gọi là “Dao đài” để Muội Hỷ lên cao ngắm phong cảnh

“Tửu trì” (ao rượu) cũng là sáng kiến của Muội Hỷ và Hạ Kiệt. Tửu trì rộng lớn đến mức có thể đi thuyền ngắm cảnh. Bả rượu được dùng để đắp 1 con đê bao quanh có chu vi 10 dặm, trên đê bã rượu có 3000 trai gái chầu trực sẵn sàng đợi lệnh. Trên đài cao đặt mấy chiếc trống lệnh, Hạ Kiệt xuống lệnh, tiếng trống vang trời, thế là 3000 người theo tiếng trống chỉ huy, nhất tề nhoài mình xuống theo tư thế trâu uống nước, chân chổng lên trời, thò cổ chúc đầu xuống tửu trì để uống rượu. Cảnh tượng ấy khiến Muội Hỷ và Hạ Kiệt ha hả cười vui vô kể.
Các vị đại thần can ngăn như Quan Long Bàng đều bị xử chết. Chư hầu nổi dậy dưới sự chỉ đạo của Thành Thang là hầu tước của nước Thương nên đã lật đổ nhà Hạ. Hạ Kiệt và Muội Hỷ bị đài đến Nam Sào là vùng biên giới hoang vu. Chẳng bao lâu, đôi vợ chồng vương giả này vì không chịu nổi sự cơ cực mà chết.


Phụ Hảo

Phụ Hảo (không rõ năm sinh, mất khoảng năm 1200 TCN) tên Hảo hoặc họ Hảo (tức Hảo Tử) còn được gọi là Phụ Hiếu, miếu hiệu Mậu Tân. Nàng là một trong 60 phi tần của vua Vũ Đinh nhà Thương, nàng là nữ tướng, nữ chính trị gia đầu tiên được ghi chép thành văn khắc trên đồ đồng xanh sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Tư liệu về Phụ Hảo rất ít, chỉ biết rằng Vũ Đinh thông qua việc kết hôn với phụ nữ các bộ lạc lân cận để có được sự tin tưởng của họ, Phụ Hảo thông qua việc kết hôn chính trị mà bước vào gia đình quý tộc vả lại còn sử dụng xuất thân từ xã hội nô lệ bán mẫu hệ để nâng cao địa vị xã hội của mình. Nàng được giới học giả hiện đại biết đến chủ yếu dựa vào lời đề từ Giáp cốt văn (là một loại văn tự cổ đại của Trung Quốc, được coi là hình thái đầu tiên của chữ Hán, cũng được coi là một thể của chữ Hán) triều Thương ở Ân Khư.
Theo những tư liệu có liên quan trong văn giáp cốt cho biết thì Phụ Hảo là một tướng lĩnh rất có tài năng, nắm đại quyền về quân sự, chinh nam phạt bắc, tiếng tăm vang dội. Trong những cuộc chiến tranh Vũ Đinh tiến hành nhằm chống lại sự quấy nhiễu của các bộ tộc, quốc gia xung quanh, có lúc Phụ Hảo làm tướng tiên phong, có lúc một mình thống lĩnh đại quân. Trong cuộc chiến chống Khương Phương, nàng đã chiêu mộ một vạn ba ngàn quân, tự mình mình thống soái chỉ huy, vào thời đại bấy giờ một vạn ba ngàn quân một hành động quân sự đại quy mô. Nàng còn tham gia chỉ huy chiến đấu những trận đánh lớn với Thổ Phương, Ba Phương, Đông Di. Trong trận đánh với Ba Phương, nàng đã dẫn quân bày trận mai phục, chờ quân của Vũ Đinh dánh đuổi Ba Phương vào trong vòng mai phục, lập tức xông ra tấn công tiêu diệt, lập đươc chiến công lẫy lừng, là trận phục kích được ghi chép sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc. Thông qua các loại binh khí đã được khai quật nhiều lần (bao gồm một cái rìu chiến tốt nhất, đào được ở mộ phần của nàng) cùng văn vật được xác nhận.
Phụ Hảo rất được Vũ Đinh yêu mến, chiều chuộng, sách phong cho nàng đất phong ở gần triều đình, thậm chí căn cứ vào ghi chép trong Giáp cốt văn thì Vũ Đinh còn cho tiến hành bói toán, để đoán xem bào thai mà Phụ Hảo đang mang là nam hay là nữ. Phụ Hảo mất khi Vũ Đinh còn sống. Ngoài ra bà còn thực hiện việc chủ trì các hoạt động tế tự quan trọng, như chủ trì việc cúng tế tổ tiên, thần thánh, đất, trời…

Năm 1976, các nhà khảo cổ học đã phát hiện mộ tán bà tại phía tây bắc thôn Tiểu Đồn, huyện An Dương, tỉnh Hà Nam, vật tùy táng trong mộ Phụ Hảo phong phú tinh xảo, đào được tổng cộng 1928 hiện vật, bao gồm đồ vật dùng bằng đồng, ngọc đá, gốm, xương, ngà, mã mão, pha lê, trong đó vật dùng bằng đồng có tới 468 cái, có hơn 130 món binh khí, thanh đại đồng phủ trong đồ đồng nặng hơn 9 kg. Thi thể của bà được chôn trong một quan tài bằng gỗ quét sơn thô, đến bây giờ mới được phép mở cửa cho công chúng tham quan.




Đát Kỷ

Đát Kỷ , hay còn gọi là Đắc Kỷ, là một cung phi được sủng ái của Trụ Vương nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. Bà cũng là người thân với hoàng hậu của Trụ Vương. Bà không được học chữ, nhưng được nhận định là thông minh và gian xảo
Đát Kỷ trước khi làm cung phi cho Trụ Vương đã từng bị đày ở lãnh cung. Rồi bằng cách nào đó được Trụ vương đưa về cung và rất cưng chiều.
Trụ vương nổi tiếng là một ông vua dâm đãng. Ông mê Đát Kỷ đến quên việc triều chính. Ông và Đát Kỷ là một cặp được nhắc đến trong lịch sử Trung Quốc với sự phẫn nộ của nhiều người.
Đát KỷTương truyền, trong cung Trụ có một nơi phục vụ cho thú vui của vua Trụ. Đát Kỷ và vua, cùng nhiều cung tần mỹ nữ khác thường xuyên vui chơi trụy lạc tại đây. Họ ra lệnh dùng roi đánh khắp thân thể những con vật thật đau, để hằn lên vết đỏ, rướm máu, sau đó nướng chúng lên để thưởng thức. Chỗ này được thiết kế với những hồ nhỏ, vua cho đổ rượu vào đầy hồ và xuống tắm rượu cùng các mỹ nhân và Đát Kỷ.
Có lần Đát Kỷ bất hòa với thân thuộc của vua là Tỷ Can, bắt ông này phải moi tim ra cho bà xem. Một vị quan giỏi xem tinh tượng, bói toán cũng vì bất hòa mà bị bà cho dựa lưng vào cột vừa nung đỏ, cháy cả lưng.
Đát Kỷ bị dân gian nghi vấn là hồ ly hóa thành, vì được biết bà rất rậm lông chân.
Các sử gia đời sau thường cho rằng, vì việc quá yêu Đát Kỷ, Trụ vương đã làm nhiều điều thất đức, trượt theo vết xe đổ của vua Kiệt nhà Hạ say đắm nàng Muội Hỷ đến nỗi làm hỏng chính sự và mất nước về tay nhà Chu. Sau này cuối thời Tây Chu lại có chuyện Chu U vương si mê nàng Bao Tự mà cũng lặp lại bi kịch như Trụ vương làm nhà Tây Chu mất.
Như vậy xét về nép đẹp, Đát Kỷ cũng thuộc hàng đại mỹ nhân của Trung Hoa, nhưng không được kính nể trọng vọng như Tứ Đại Mỹ Nhân và người đời gọi bà là yêu cơ.



Tô Ngưng Hương


tương truyền là em gái của Đắc Kỷ. Nàng cùng chị nhập cung nhà Thương nhưng không được sủng ái bằng chị của mình.


Thân hoàng hậu


người nước Thân nhập cung nhà Chu sau hạ sinh Nghi Cữu nhưng vì nghe lời dèm pha của Bao Tự cùng bọn nịnh thần nên con bị phế, mẹ bị hại



Bao Tự

Bao Tự (?-771 TCN) là người đẹp Trung Quốc thời nhà Chu. Truyền thuyết kể rằng Chu U Vương mê say nàng nhưng chưa bao giờ thấy nàng cười nên ra lệnh ai làm cho nàng cười sẽ thưởng nghìn lạng vàng.
Để làm nàng cười, nhà vua đã làm mọi cách. Một hôm, Bao Tự cùng vua đi dạo trong vườn thượng uyển thì bỗng có một tiếng động vang lên, và nhà vua thấy được nụ cười đẹp tuyệt của nàng. Sau khi hỏi nàng về điều này, nàng nói do tiếng vải lụa bị xé làm nàng nhớ đến những ngày tháng êm đềm khi sống với cha trên núi.
Sau khi biết được điều này, U vương cho hàng ngàn người ngày đêm xé những mảnh vải lụa đó cho đến khi nàng cười mới thôi. Nhưng ngờ đâu nụ cười vẫn không đến với nàng.
Sau nhiều lần cố gắng nhưng không thành, có một hoạn quan là Quắc công Kỵ Phủ tâu với vua là mình có cách làm cho nàng cười. Quanh đất nhà Chu cai trị vốn xây nhiều tháp dầu để khi có giặc kéo đến thì đốt các cột lửa báo hiệu cho chư hầu đến cứu. Quắc Công khuyên Chu U vương đốt lửa cho chư hầu đến để cho Bao Tự cười. U vương làm theo.
Quân chư hầu mấy nước lân cận trông thấy các cột lửa cháy, ngỡ là có giặc bèn hớt hải mang quân đến cứu. Đến kinh thành, thấy mọi người vẫn đi lại bình thường, không có giặc giã gì cả. Các chư hầu ngơ ngác nhìn nhau. Bao Tự ở trên đài trông thấy bật tiếng cười lớn. U vương vô cùng hoan hỉ vì làm được cho nàng cười. Xong U vương lệnh cho các trấn chư hầu rút quân về vì không có giặc.
Đến một thời gian sau, vua Chu lại sai đốt lửa lần nữa và các chư hầu lại bị lừa để Bao Tự có được tiếng cười


U vương say mê Bao Tự, xa lánh hoàng hậu họ Thân. Bao Tự sinh được một hoàng tử, U vương rất yêu quý, định lập làm thái tử và muốn phế truất thái tử Nghi Cữu. Cha Thân hậu bèn liên hệ với quân Khuyển Nhung bên ngoài kéo vào đánh úp Cảo Kinh. U vương vội cho đốt lửa hiệu triệu chư hầu tới cứu, nhưng các chư hầu bị lừa vài lần nên tưởng vua đùa, không tới nữa. U vương mang Bao Tự và con nhỏ bỏ chạy, bị quân Khuyển Nhung đuổi theo giết chết. Riêng Bao Tự bị vua Khuyển Nhung bắt về cung để mua vui.Quân Khuyển Nhung cướp phá giết người kinh thành. Thân Hầu ân hận mang họa cho dân Cảo Kinh bèn viết thư triệu các nước chư hầu Tấn, Tần, Trịnh đến đánh quân Khuyển Nhung. Quân ba nước kéo đến đánh tan quân Nhung. Vua Nhung bỏ chạy. Bao Tự thấy quân các nước kéo vào cung bèn thắt cổ tự vẫn.
Con trưởng U vương là Nghi Cữu được lập lên ngôi, tức là Chu Bình vương.
Nhà thơ Lý Bạch có câu:

Mỹ nhân nhất tiếu hoán thiên kim

Tạm dịch:

Người đẹp nở một nụ cười đáng đổi lấy nghìn lạng vàng


Hạ Cơ

Hạ Cơ là một người con gái thời Xuân Thu (722 TCN - 480 TCN), tương truyền rằng nàng có thuật "hoàn tân".

Hạ Cơ vốn là gái nước Trịnh, sau về làm dâu nước Trần. Nàng là cô gái ăn chơi rất lịch lãm, sử sách nói sau khi ăn nằm với ai rồi, nàng trở lại "hoàn tân" như cũ. Điều đặc biệt là hễ ai đã ân ái với nàng thì thường gặp phải tai vạ và chết. Người ta nghi nàng có thuật "Hấp tinh đại pháp".
Người tình đầu tiên của nàng là công tử Trần Man, tư thông với nàng vài năm rồi qua đời. Sau đó nàng có chồng là Tư mã Hạ Ngự Thúc, hai vợ chồng có một con trai là Hạ Trưng Thư, rồi Ngự Thúc cũng chết.
Hạ Cơ lại tiếp tục dan díu với hai quan trong triều là Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ, hai quan này làm việc ô uế công khai. Một hôm Khổng Ninh lấy trộm cùa nàng cái "Cẩm dương" (quần lót bằng gấm) về khoe. Nghi Hàng Phủ thấy vậy nổi cơn ghen, cố nài xin cho được chiếc "Bích la nhu" (áo lót bằng lụa màu xanh) để trêu lại. Khổng Ninh cả giận liền tiết lộ cho vua Trần Linh Công biết. Trần Linh Công nghe kể thích quá liền nhập cuộc chơi, Hạ Cơ liền tặng vua chiếc áo lót nữa.
Từ đó, sau mỗi lần bãi triều, cả ba thường đem "bảo vật" ra khoe với nhau. Trong triều có quan Đại phu Tiết Giả là bầy tôi trung, thấy vậy liền can vua và chỉ trích hai tên quan kia. Nhà vua ngoài miệng hứa chừa, nhưng âm mưu với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ, giết Tiết Giả. Tiết Giả chết rồi không còn có ai dám can ngăn nữa, cả ba mặc sức tung hoành trác táng đến nỗi dân nước Trần đã đặt bài vè "Châu Lâm" (Châu Lâm là nơi Hạ Cơ đang ở) để chê trách Linh Công.
Hạ Cơ cho Trưng Thư về kinh đô để học, cũng mong cho con ngày sau nối nghiệp cha. Trưng Thư lớn lên, có tài võ nghệ, Linh Công cho Thư nối chức cha làm Tư mã, ở lại kinh. Từ đó Hạ Cơ một mình tiếp luôn ba người không biết mệt mỏi.
Một hôm Hạ Trưng Thư ở kinh về Châu Lâm trông thấy vua Trần Linh Công và Khổng Ninh, Hàng Phủ cùng Hạ Cơ đang vầy cuộc ái ân, ăn nói suồng sã bỉ ổi loạn luân, lập tức Hạ Trưng Thư cho quân vây quanh nhà và giết được Trần Linh Công còn hai tên kia chạy thoát qua nước Sở, vào kêu với Sở Trang Vương rằng Hạ Trưng Thư giết vua để cướp ngôi.
Trang Vương đem binh đánh Trần, giết Hạ Trưng Thư. Thấy Hạ Cơ xinh đẹp ý muốn thu dùng, nhưng một bầy tôi là Khuất Vu, một tướng lãnh tài ba, trẻ tuổi, đẹp trai, lại luyện được phép "Bí thuật phòng trung", bấy lâu đã nghe tiếng Hạ Cơ có ngón ăn chơi trác tuyệt muốn thử lửa một phen bèn ra sức can Sở Trang Vương đừng thu dùng nàng. Trang Vương lại muốn gả cho người khác, Khuất Vu cũng lại can, cuối cùng vua gả cho một vị tướng già là Tương Lão. Hạ Cơ lại tư thông với con Tương Lão, việc đổ bể Hạ Cơ trốn sang nước Trịnh, còn con của Tương Lão bị hành hình.
Khuất Vu đi sứ sang Trịnh, nhân cơ hội đó Khuất Vu tư thông với Hạ Cơ, rồi đưa nàng trốn sang Tấn "xây mộng uyên ương". Mấy năm sau Khuất Vu đem nàng sang nước Ngô và ở hẳn nơi này. Từ đấy về sau không còn ai biết Hạ Cơ ra sao nữa.








Nàng Tuyên Khương

Năm Cấp Tử 16 tuổi, Vệ Tuyên công cho người sang cưới công chúa nước Tề là nàng Tuyên Khương về làm vợ thế tử. Tuy nhiên, khi nghe nói đến sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Tuyên Khương, nhà vua không thể kìm lòng, bèn ra tay chiếm đoạt.
Vệ Tuyên công sai làm một cái đài thật đẹp gọi là Tân Đài, cho Tuyên Khương lên đó ở. Rồi ông sai Cấp Tử đi sứ ở nước Tống, tạo cơ hội để ông về Tân Đài ăn ở với Tuyên Khương, không đoái hoài gì đến Di Khương nữa. Khi trở về ra mắt vua cha, Cấp Tử đã phải dở khóc dở cười gọi chính vợ mình là mẹ kế.

Sau này, Tuyên Khương sinh được hai người con trai. Vừa muốn giành ngôi thế tử cho con, vừa ngại chạm mặt với Cấp Tử, nàng bèn tìm cách hãm hại Cấp Tử.
Nàng Tuyên Khương đặt điều với vua rằng Cấp Tử cố tình làm nhục  mình: "Nó nói mẹ ta là vợ của ông nội mà cha ta còn lấy được, huống hồ Tuyên Khương vốn thực là vợ ta, chẳng lẽ ta không lấy được sao, chẳng qua ta cho cha mượn mà thôi".
Nghe vợ dèm pha nhiều, Vệ Tuyên công đành sai người giết Cấp Tử. Con trai thứ của Tuyên Khương là công tử Thọ không đồng tình ý định trên, bèn lập mưu lừa bọn sát thủ để chết thay. Một đêm nọ, chàng rủ Cấp Tử uống rượu thật say, lấy quần áo của Cấp Tử mặc vào đi đón lũ lính. Bọn lính nhận nhầm bèn ra tay hạ sát công tử Thọ. Khi chúng định cắt đầu công tử Thọ mang về lĩnh thưởng thì Cấp Tử tỉnh dậy, thừa nhận mình mới là kẻ chúng cần giết. Thế là chúng hạ sát nốt Cấp Tử để bịt miệng.
Vệ Tuyên công nghe tin cả hai con trai đều bị giết thì ngã vật ra giữa long sàng, kêu lớn: "Đứa con gái nước Tề (ý chỉ Tuyên Khương) đã hại cả nhà ta rồi". Kể từ đó, nhà vua sinh bệnh, chỉ nửa tháng sau thì chết. Người đời luôn oán giận rằng chính sự dâm loạn và ngu muội của Vệ Tuyên công mới là nguyên nhân dẫn đến cơ sự này.

Khi Huệ công lên ngôi còn ít tuổi, công tử Ngoan đã lớn, say mê mẹ kế Tuyên Khương, tìm cách thông dâm. Ban đầu Tuyên Khương không bằng lòng nhưng vì bị công tử Ngoan bắt ép, cuối cùng hai người lấy nhau
Tháng 11 năm 697 TCN, công tử Tiết và công tử Chức vốn ủng hộ Cấp Tử, bèn làm binh biến, Vệ Huệ công phải bỏ chạy sang nước Tề. Công tử Chức và công tử Tiết lập em của Cấp Tử làcông tử Kiềm Mâu lên ngôi.
Công tử Ngoan và Tuyên Khương lấy nhau, lần lượt sinh ra 5 người con: 3 trai là Tề Tử, Cơ Thân, Cơ Hủy và 2 người con gái. Do quan hệ loạn luân giữa hai người, anh em Cơ Thân và Cơ Hủy vừa là em cùng mẹ khác cha với Vệ Huệ công, vừa là cháu gọi Huệ công bằng chú; còn Tuyên Khương vừa là mẹ vừa là bà trẻ.
Năm 688 TCN, được vua anh Tề Tương công giúp, con bà là Vệ Huệ công trở lại ngôi vua. Kiềm Mâu phải đi lưu vong.Năm 669 TCN, Vệ Huệ công mất. Cháu nội Tuyên Khương là Cơ Xích lên nối ngôi, tức là Vệ Ý công. Công tử Ngoan qua đời, được truy phong là Chiêu Bá.
Vệ Ý công thích chơi chim hạc, mất lòng dân, bị quân Xích Địch vào đánh và giết chết năm 660 TCN. Tống Hoàn công sang cứu trợ nước Vệ. Do người nước Vệ không có thiện cảm với Vệ Huệ công giết các anh tranh ngôi, không muốn lập lại dòng dõi của Huệ công nên Tống Hoàn công lập người con thứ 2 của công tử Ngoan và Tuyên Khương là Cơ Thân lên nối ngôi, tức là Vệ Đái công.
Nước Vệ mang 2 người con gái của Tuyên Khương và công tử Ngoan gả cho Tống Hoàn công và Hứa Mục công
Tuy nhiên Vệ Đái công làm vua không được lâu thì mất. Bá chủ Tề Hoàn công – cũng là một người anh em trai khác của Tuyên Khương - lập em Đái công là công tử Hủy lên nối ngôi, tức là Vệ Văn công.
Không rõ Tuyên Khương mất năm nào. Trước sau bà lấy 2 cha con vua Vệ, là mẹ của 3 vua Vệ (Huệ công, Đái công, Văn công) và mẹ của 2 phu nhân chư hầu.


Ly Cơ(? – trước 650)

Vương phi của Tấn Hiến Công

Ly Cơ, con gái của vua nước Ly Nhung thời Xuân Thu (nay là huyện Lâm Đồng tỉnh Thiểm Tây). Vương phi của Tấn Hiến Công Cơ Quỷ Chư. Bà là người có sắc đẹp, giỏi mưu kế. 

Năm 663 trước công nguyên ( năm thứ 15 Tấn Hiến Công), nước Tấn đánh bại Ly Nhung, Ly Nhung cầu hòa, đem 2 người con gái của vua đến cầu thân. Người lớn là Ly Cơ, sinh một trai tên Hề Tề, người nhỏ là Thiếu Cơ, sinh một trai tên Trác Tử.
Ly Cơ xinh đẹp rất được Tấn Hiến Công thương yêu. Bà là người mánh khóe, dối trá, ra sức chiều chuộng vua để được vua yêu, lần lần được Tấn Hiến Công tin dùng, cho tham dự việc triều chính. phế bỏ phu nhân tên là Tề Khương, lập Ly Cơ làm phu nhân, phong Thiếu Cơ làm thứ phi. Ly Cơ lại tiến một bước muốn phế bỏ thái tử Thân Sinh, lập Hề Tề làm thái tử.
Tấn Hiến Công có một người kép hát rất được ưa chuộng gọi là Tiểu Thi. Tiểu Thi có tư tình với Ly Cơ .Ly Cơ nói với Tiểu Thi:” ta muốn lập Hề Tề làm thái tử, chỉ sợ các công tử Thân Sinh, Trùng Nhĩ, Di Ngô phản đối, làm sao bây giờ?”. Tiểu Thi nói:” đem bọn họ xếp đặt cho yên, để bọn họ biết địa vị bọn họ đã đến tột cùng rồi, do đó họ có thể sinh lòng khinh mạn vua; như vậy thì đối phó không khó”. Và đề nghị nên ra tay với thái tử Thân Sinh trước.
Ly Cơ mua chuộc các quan đại phu nước Tấn như Lương Ngũ và Bế Ngũ, bảo họ nói với
Tấn Hiến Công rằng “ Khúc Ốc (nay là đông bắc huyện Hỉ tỉnh Sơn Tây ) là chỗ tổ miếu của nước Tấn, rất nên đưa thái tử Thân Sinh đến trấn giữ, Bồ Thành (nay là huyện Lã Lương tỉnh Sơn Tây) với Nam Bắc Khuất (nay là đông nam huyện Thạch Lâu tỉnh Sơn Tây) là nơi tái yếu biên phòng, rất cần đưa công tử Trùng Nhĩ, Di Ngô chia nhau phòng thủ”. Hiến Công mắc mưu, chỉ lưu Hề Tề, Trác Tử hai người ở bên mình, để chờ cơ hội phế lập. Sử gọi “ nhị Ngũ hại Tấn” ( hai tên Ngũ hại nước Tấn)
Tiểu Thi bày cho Ly Cơ vào lúc nửa đêm, khóc lóc trước mặt Hiến Công và nói: “ thiếp nghe nói là Thân Sinh khéo mua chuộc lòng người, e sợ muốn hành hung với nhà vua để cướp ngôi”. Hiến Công nói:” nếu nó biết thương dân của mình, lại không thương cha của nó sao?”. Ly Cơ biết Hiến Công vẫn tin thái tử, cho nên lại bí mật lập mưu khác. Có một hôm, thái tử Thân Sinh từ Khúc Ốc gửi đến một khối tế nhục cho Tấn Hiến Công, Ly Cơ ngầm bỏ thuốc độc vào tế nhục, để gia tội cho thái tử, lấy đó mà ép chết thái tử. Lại nói vu cho Trùng Nhĩ, Di Ngô cũng tham gia vào âm mưu của Thân Sinh, ép hai vị công tử phải đi qua nước Địch và nước Lương. Ly Cơ biết thời cơ đã chín muồi, ép Hiến Công lập Hề Tề làm thái tử.
Năm 652 trước công nguyên ( năm thứ 26 Tấn Hiến Công), Hiến Công chết, Hề Tề được lên nối ngôi, bị quan đại phu Lý Khắc giết chết, lập công tử Di Ngô là Tấn Huệ Công.
Năm 650 trước công nguyên, tội vu hại thái tử của Ly Cơ bị phơi bày, Ly Cơ bị giết chết.



Tức Vĩ (hay còn gọi là Tức Quy) 

Nàng vốn là là con gái nước Trần sống vào thời Xuân Thu, nhan sắc tuyệt vời. Nàng và chị gái là Sái Quy vốn không biết cha mẹ mình là ai. Nàng cùng với chị được gả đến hai nước Tức và Sái (Thái). Khi lấy Tức hầu, nàng được gọi là Tức phu nhân, sau là Văn phu nhân, sau là Văn quý nhân rồi Văn Vương phi. Tương truyền Tức Vĩ má tựa hoa đào nên nhân gian thường nàng gọi là "Đào hoa phu nhân". Sau này, vì Sở Văn vương vì ham mê sắc đẹp của nàng nên đã đem quân qua đánh nước Tức rồi cướp nàng về làm phu nhân. Đến nay câu chuyện về nàng không còn nhiều nữa, song câu chuyện vì tình sống qua ngày của nàng vẫn còn được lưu truyền và trở thành một giai thoại.

Các nước chư hầu thời Xuân Thu là các nước tự trị vẫn thường hay tấm công thôn tính lẫn nhau hòng xưng bá thiên hạ. Vậy nên vùng Trung Nguyên rộng lớn không ngày nào là không nghe thấy tiếng vó ngựa, khói bay mịt mù, đao quang kiếm ảnh khiến dân chúng rơi vào cảnh khốn cùng. Từ sau “trận thành Bộc” của nước Tấn- Sở mới hình thành ranh giới nam- bắc. Các nước nhỏ không dựa vào nước Tấn thì theo Sở và ngược lại. Nói chung, họ đều phải dựa vào hai nước này để có thể sinh tồn.

Vì sự sinh tồn ấy nên giữa các nước thường hay lục đục nhau. Chuyện hợp- tan giữa hai bên trở thành chuyện thường tình. Một số nước chỉ vì những chuyện rất nhỏ nhặt song lại chấp nhặt với nhau lấy đó làm cớ để gây xích mích, phát động chiến tranh, trở thành kẻ thù của nhau chỉ trong chốc lát. Câu chuyện của Sái Hầu và tức hầu là một mình chứng cụ thể cho chuyện này mà người chịu nhiều đau khổ nhất và phải hy sinh nhiều nhất chính là nàng Tức Vĩ có đôi má tựa hoa đào.

Sái hầu và Tức hầu đều lấy con gái nước Trần về làm vợ. Hai người con gái này xinh đẹp vô cùng. Một người mang vẻ chim sa cá lặn. Một người mang vẻ hoa nhường nguyệt thẹn. Cả hai quả là những trang mỹ nhân tuyệt sắc diễm lệ, không ai là không biết đến. Theo quy đinh hôn nhân thời bấy giờ, khi vợ của quốc vương hoặc đại phu xuất giá theo chồng, em gái của vợ cũng phải đi theo để phụ dâu, gọi là “em dâu”, còn nếu là các nữ tì gọi là “phù dâu”, gọi chung là “em phù dâu”. Vợ của Sái hầu và Tức hầu vốn là chị em họ, vốn Sái hầu có thể một công đôi việc nhưng do nhầm lẫn nên đã đem cái lợi ấy cho Tức hầu. Điều này khiến Sái hầu luôn canh cánh trong lòng.

Sau này, khi Tức Vĩ lúc này đã trở thành Tức phu nhân về nước Trần thăn cha mẹ có đi ngang quá nước Sái. Sái hầu lại vì dục vọng thì nhiều mà tình hữu nghị thì ít nên đã lệnh cho người sắp xếp tiệc rượu, tiếp đãi nàng rất nồng hậu. Lúc bắt đầu buổi tiệc, Sái hầu còn giữ lễ chủ- khách nhưng sau khi thấm say, ông bắt đầu có những lời lẽ buông tuồng, đùa vui và không đúng với thân phận. Không những vậy Sái hầu còn nắm lấy đôi tay của Tức phu nhân. Nàng vì sự tôn nghiêm của quốc vương phu nhân một nước nên bèn phủi tay áo đứng lên và nhanh chóng rời khỏi nước Sái.

Tức hầu biết chuyện cho rằng Sái hầu ức hiếp người quá đáng, không nhịn được và hạ quyết tâm nhất định phải tìm cơ hội báo thù nước Saia. Thế nhưng nghĩ là một chuyện, làm lại là chuyện khác. Nước Tức vốn là nước nhỏ, quân lực yếu vốn không phải là đối thủ của nước Sái. Hơn nữa vô duyên vô cớ xuất binh sẽ không được lòng binh sĩ. Vậy nên Tức hầu bèn “mượn dao giết người”. Ông tìm cách vu cáo Sái hầu không phục Sở, và xin Sở Văn Vương mang quân mượn cớ đánh Tức rồi hợp lực diệt Sái. Ông cho sứ giả đến nước Sở để cống nạp đồng thời bàn mưu với Sở Văn vương:

_ Nước Sái dựa vào tình hữu nghị với nước Tề nên không phục nước Sở. Nếu như nước Sở khởi binh đánh nước Tức, Tức hầu sẽ cầu cứu nước Sái. Sái hầu sẽ nghĩ đến tình anh em với Tức hầu mà xuất binh giúp đỡ. Sau đó nước Tức và nước Sở sẽ liên kết đánh nước Sái, tất sẽ bắt sống được Sái hầu. Vừa bắt được Sái hầu, lại không sợ rằng nước Sái sẽ không cống nạp cho Sở.

Sở Văn vương thấy kế hoạch rõ ràng như vậy rất vừa ý bèn chọn ngày đem quân tiến đánh nước Tức. Tức hầu giả vờ hoang mang, lúng túng đấn cầu cứu nước Sái quả nhiên Sái hầu đích thân dẫn quân đến ứng cứu. Song, khi doanh trại chưa ổn định, quân Sở và quân Tức đã bao vây bốn phía tiến đánh quân Sái. Trong đêm tối, Sái hầu hốt hoảng phá vòng vây chạy đến Tức thành nhưng Tức hầu lại đóng chặt cửa. Sái hầu không còn đường thoát nên bị nước Sở bắt làm tù binh. Lúc này Sái hầu mới biết mình đã trúng kế của Tức hầu nhưng đã quá muộn.

Sái hầu bị bắt về nước Sở làm tù binh nên hận Tức hầu tới tận xương tủy. Bên cạnh đó, ông cũng phỉ báng Sở vương vô duyên vô cớ xuất binh. Sở Văn vương tức giận hạ lệnh giết Sái hầu để cúng tế Thái miếu. Song đại trung thần Dục Quyền đã can ngăn và dùng mọi lý lẽ để Sở Văn vương giữ lại mạng sống cho Sái hầu. Bởi nếu giết Sái hầu, sẽ khiến cho các nước run sợ đi cầu cạnh các nước hác để bảo vệ mình, có thể xảy ra cục diện các nước liên minh lại với nhau để chống lại Sở. Như vậy, kế hoạch bắc tiến của Sở sẽ gặp phải không ít khó khăn. Dục Quyền sau một hồi khuyên giải mới xoa dịu được cơn giận của Sở vương và cứu được mạng của Sái hầu.

Sái hầu sau khi thoát chết mới bình tỉnh suy nghĩ kỹ mọi việc và thấy rằng ngọn nguồn mọi chuyện đều do Tức Quy mà ra nên bèn nghĩ kế nịnh nọt Sở Văn vương:

_ Thiên hạ tuyệt thế mỹ sắc đều ở trong cung của đại vương rồi! Nhưng vẫn chưa có một ai có thể sánh được với sắc đẹp của phu nhân Quỳ thị của Tức hầu.

Kế “mượn dao giết người” đã biến Sái hầu trở thành phạm nhân của nước Sở. Nay Sái hầu lại áp dụng kế này để diệt nước Tức. Sở Văn vương nghe thấy Sái hầu nói vậy lại đông lòng sắc dục, ý muốn chiếm hữu dâng lên mạnh mẽ nên đã hỏi Sái hầu phải làm thế nào mới chiếm được người đẹp. Sái hầu nhân đó “chỉ vẽ” vào. 

Sở Văn vương lấy cớ đi tuần sát, thực sự là muốn Tức hầu mở yến tiệc. Trong bữa tiệc Sở Văn vương nói: 

_ Trước kia ta cũng có chút ít công lao với Quý phu nhân, nay ta tới đây, chả lẽ Quý phu nhân lại không mời ta một ly rượu sao?

Tức hầu sợ oai phải cho người vào cung mời Tức Vĩ ra. Tức Vĩ quần áo tha thướt, chân ngọc rung kêu nhịp nhàng, bước ra sụp lạy Sở Văn Vương. Vua Sở đứng dậy đáp lễ. Tức Vĩ lấy chén ngọc rót đầy rượu, màu da tay và màu chén ngọc không phân biệt được. Vua Sở định giơ tay ra đỡ, nhưng Tức Vĩ lại sai cung nhân bưng rượu đến dâng vua Sở. Vua Sở uống một hơi hết ngay, nhìn ra thì đã thấy Tức Vĩ vái lạy và lui vào cung.

Hôm sau, vua Sở mở tiệc mời Tức Hầu. Nửa chừng tiệc, vua Sở bảo Tức Hầu:

_ Ngày trước quân Sở đã giúp phu nhân, nay quân Sở qua quý quốc, chả nhẽ phu nhân lại không khao thưởng họ một chút ư?

Tức hầu nói:

_ Nước tôi nhỏ bé, của cải ít ỏi, khó lòng khao nổi đại quân. Xin cho chúng tôi về bàn bạc.

Sở Văn Vương đập bàn quát lớn:

_ Kẻ thất phu này vong ơn bội nghĩa. Võ sĩ đâu bắt trói lại cho ta.

Quân Sở xô lại trói Tức hầu, vào cung bắt Tức Vĩ. Nàng nghe tin Tức hầu bị quân Sở bắt, bèn thở dài:

_ Rước hùm sói vào nhà còn nói sao được?

Nói xong, định chạy ra vườn đâm đầu xuống giếng tự vẫn. Tướng Sở là Đấu Đan, vội vàng chạy theo nắm vạt áo Tức Vĩ ngăn lại rồi nói:

_ Phu nhân không muốn cho Tức hầu toàn vẹn tính mạng hay sao?

Tức Vĩ nín lặng. Đấu Đan đưa tới chỗ vua Sở. Sở Văn Vương khuyên nàng nếu muốn cho Tức hầu toàn mạng thì nên về Sở. Sau đó phong cho chức Sở phu nhân. Nàng nhập cung Sở được Sở Văn Vương sủng ái vô cùng. Trong ba năm Tức Vĩ sinh được 2 người con với vua Sở là Hùng Gian và Hùng Uẩn. Song từ khi nhập cung, nàng luôn ủ rũ mặt mày, không nở lấy một nụ cười khiến Sở Văn vương rất bồn chồn, bắt nàng phải nói rõ nguyên nhân. Tức Vĩ không còn cách nào khác bèn nhỏ lệ rồi nói:

_ Thần thiếp phải thờ hai chồng, đã không biết giữ tiết thì còn mặt mũi nào mà chuyện trò với ai.

Sở Văn Vương nói:

_ Việc này cũng bởi Sái hầu trước kia giới thiệu phu nhân cho ta, nên ngày nay mới sanh ra thảm cảnh này. Ta sẽ vì phu nhân đem quân đến bắt Sái hầu đền tội.

Chớp mắt đã qua mùa thu, hoa quế đã đưa hương, Sở Văn vương vui mừng đi săn dự định là sau hai, ba ngày mới hồi cung. Tức Vĩ nhân cơ hội lén trốn ra noài thành gặp lại chồng cũ. Cả hai người gặp nhau giống như mấy đời chưa gặp lại. Nàng vừa khóc vừa nói:

_ Thiếp ở trong Sở cung, phải nhịn nhục để sống qua ngày, trước là để bảo toàn tính mạnh của đại vương, để sau này có thể gặp lại đại vương, bây giờ thiếp đã thỏa tâm nguyện rồi, chết cũng nhắm mắt.

Nghe Tức Vĩ nói vậy, Tức hầu đau lòng khôn xiết, ông bèn khuyên nàng:

_ Trời xanh vẫn còn có mắt, phu thê ta cũng có ngày gặp lại, ta thà làm chức quan giữ thành nhỏ nhoi này, cũng chính là chờ đợi cơ hội gặp lại.

Tức Vĩ cho rằng những ngày tháng sau này sống thật không bằng chết, chi bằng chấm dứt kiếp khổ sở tại đây. Vậy nên nàng bèn đâm đầu vào tường thành khiến Tức hầu không kịp trở tay. Nhìn thấy người vợ yêu dấu chết ngay trước mặt mình, Tức hầu kêu khóc thảm thiết, ngay lập tức trở nên thất vọng. Và để báo đáp lại mối thâm tình của Tức Vĩ, ông cũng đâm vào tường mà chết theo.

Sở Văn vương sau khi đi săn về biết chuyện, ông trở nên chán nản. Cảm động trước mối tình của hai người, ông hạ lệnh cho chư hầu tổ chức nghi lễ để mai táng cho Tức hầu vào tức Vĩ trên núi Đào Hoa ngoài thành Hán Dương. Người đời sau dựng miếu thờ dưới chân núi, quanh năm thờ cúng gọi là “Đào Hoa phu nhân miếu”

Đỗ Mục, thi sĩ thời Đường khi đi ngang qua Hán Dương đã đến miếu và viết thơ:


“Tế yêu cung lý lộ đào tân,
Mạch mạch vô ngôn kỷ độ xuân;
Chí cánh tức vong duyên để sự
Khả liên Kim Cốc trụy lâu nhân.
Tức vong thân nhập Sở vương gia,
Hồi khán xuân phong nhất diện hoa;
Cảm cựu bất ngôn thưởng yểm lệ,
Chỉ ứng phiên hận hữu vinh hoa.”

Cái chết của Tức Vĩ đã trở thành một giai thoại. Chuyện tình của nàng và tức hầu cũng đã trở thành một câu chuyện đẹp nhưng lại buồn thương. Và vì câu chuyện bi thương này nàng đã được lưu tên trong quyển “Liệt nữ truyện”. Song thực tế, nhân gian đã thêu hoa cho cái kết của nàng. Nếu theo đúng lịch sử, nàng không hề tự tử chết. Tuy nhiên, nguyên nhân dẫn đến cái hết của nàng đến nay vẫn chưa được làn sáng tỏ. Có lẽ vì lý do này nên người đời sau đã mặc sức tưởng tượng và tô điểm cho cuộc đời vốn truân chuyên của nàng.





Văn Khương

Văn Khương là công chúa nước Tề, sở hữu nhan sắc tuyệt trần. Nhưng ít ai biết, cô còn có mối tư tình với chính anh trai mình là thái tử Chư Nhi. Sau khi Văn Khương được gả cho vua nước Lỗ và Chư Nhi lên ngôi vua, cặp đôi này vẫn thư từ qua lại tình tứ.
Trong 1 lần xin về thăm nước Tề, Văn Khương đã vào cùng và quay cuồng trong dục vọng cùng anh trai mình. Vụ việc nhanh chóng bị vua nước Lỗ phát hiện. Để che giấu hành vi đáng hổ thẹn, vua nước Tề, Chư Nhi đã sai người ám hại vua nước Lỗ ngay trên chuyến xe về nước Lỗ. Thế là Văn Khương ở lại Tề, cùng anh ruột mây mưa mê mải. Sau khi con trai của Văn Khương và vua nước Lỗ lên ngôi vua, Văn Khương bèn ở phía biên giới hai nước để tiện cho việc hoan lạc với anh trai mình. Sau khi vợ của mình là công chúa nhà Chu vì buồn đau mà chết thì Tề vương thường giả cách săn bắn, ra chốn biên giới Tề - Lỗ để đêm ngày giao hoan với em gái. Sau này, Tề vương bị chết, Văn Khương vẫn không từ bỏ thói hoang dâm của mình mà vẫn tiếp tục mời gọi thêm nhiều tình nhân khác.



Ai Khương


Theo Sử ký, Ai Khương là con gái của Tề Tương công, cháu gọi Tề Hoàn công bằng chú. Nàng có người cô ruột là Văn Khương lấy vua Lỗ Hoàn công, sinh ra Cơ Đồng.
Cô Văn Khương tư thông với cha Tề Tương công, khi bị Lỗ Hoàn công biết, Tề Tương công bèn giết Lỗ Hoàn công.
Người em họ của nàng là Cơ Đồng lên nối ngôi, tức là Lỗ Trang công, khi đó 13 tuổi. Để hai nhà thêm thân, sau đó Văn Khương bắt Lỗ Trang công lấy con gái Tề Tương công, đó là Ai Khương. Vì Ai Khương còn nhỏ, Lỗ Trang công bị muộn con, lại lấy cả em gái Ai Khương là Thúc Khương.
Ai Khương được lập làm phu nhân, nhưng không có con. Em gái Ai Khương là Thúc Khương sinh được một con trai là Cơ Khải (Công tử Khải).
Năm 662 TCN, Lỗ Trang công mất, con là Cơ Ban lên nối ngôi. Ai Khương thông dâm với em của Lỗ Trang công là công tử Khánh Phủ. Hai người bàn nhau lập con của em Ai Khương (Thúc Khương) là công tử Khải lên ngôi, do đó Khánh Phủ dự định giết Cơ Ban.
Cơ Ban vừa lên ngôi được 2 tháng thì bị chú là công tử Khánh Phủ sai một người tên là Lạc giết chết tại nhà mẹ đẻ là Mạnh Nhâm. Cơ Khải được lập, tức là Lỗ Mẫn công.
Khánh Phủ làm phụ chính, một người em khác của Lỗ Trang công là công tử Quý Hữu vốn ủng hộ lập công tử Ban phải chạy sang nước Trần.
Khánh Phủ muốn tự mình làm vua, lại bàn với Ai Khương muốn cướp ngôi của Mẫn công. Ai Khương đồng tình. Năm 660 TCN, Khánh Phủ sai thủ hạ là Bốc Kỳ mang quân tập kích giết chết Lỗ Mẫn công tại cửa cung.
Công tử Quý Hữu nghe tin, vội từ nước Trần trở về nước Lỗ, đón công tử Thân chạy sang nhà Chu bá cáo và cầu cứu.
Khánh Phủ tuy giết được Mẫn công nhưng bị người trong nước căm ghét và muốn giết, nên sợ hãi cùng Ai Khương bỏ chạy sang nước Cừ.
Nước Cử đuổi công tử Khánh Phủ không dung nạp. Quý Hữu trở về nước. Khánh Phủ nhờ công tử Ngư nước Lỗ xin hộ cho về nước, nhưng Quý Hữu không thuận. Khánh Phủ cùng đường phải thắt cổ tự vẫn.
Năm 660 TCN chú Ai Khương là Tề Hoàn công đang làm bá chủ chư hầu, nghe tin Ai Khương đồng mưu với Khánh Phủ làm loạn nước Lỗ, bèn gọi Ai Khương về nước Tề và giết chết.
Ai Khương hoạt động trong khoảng gần 30 năm, không rõ bao nhiêu tuổi.


Di Khương

Đều là vợ của Vệ Tuyên công và tên có đôi chút giống nhau nên Di Khương hay bị nhầm lẫn chính là Tuyên Khương. Bởi vậy vô hình chung nàng Di Khương phải gánh tội danh loạn luân nặng nề của nàng Tuyên Khương. Hiện nay, tài liệu về nàng không còn nhiều nữa. Song trong phần gia quyến của Vệ Tuyên công đều để tên của nàng và Tuyên Khương trong phần "vợ". Như vậy chứng tỏ Di Khương và Tuyên Khương là hai người con gái hoàn toàn khác nhau. Trong khi nàng bị con riêng của cha ép hôn thì Tuyên Khương hoàn toàn tự nguyện phạm tội loạn luân. Câu chuyện ngắn ngủi sau hy vọng sẽ giúp mọi người có cái nhìn khách quan hơn và đúng đắn hơn dành cho nàng Di Khương
Bản chất dâm loạn của ông vua này thể hiện từ khi chưa lên ngôi. Di Khương là vợ lẽ của cha Vệ Tuyên Công. Trước vẻ mặn mà của người mẹ kế, Tuyên Công đã không kìm nén được dục vọng bản thân và ấp ủ âm mưu chiếm được người đẹp. Về phần mình, lúc đầu Di Khương không chấp nhận thái độ của người con riêng nhưng sau đó chính Di Khương cũng đã đồng tình thông dâm với Vệ Tuyên Công. Kết quả của mối tình loạn luân này là Di Khương sinh được một trai tên là Cấp Tử. Sau khi lên ngôi, Vệ Tuyên Công lập Cấp Tử làm thế tử.
Sau khi lên ngôi, Tuyên công lập Cấp Tử làm thế tử, giao cho công tử Chức giúp đỡ. Sau Cấp Tử, Di Khương còn sinh ra 2 người con trai khác là Cơ Kiềm Mâu và Cơ Ngoan. Di Khương thấy Vệ Tuyên công vô đạo, uất ức tự vẫn. Tuyên Khương cùng công tử Sóc muốn hại Cấp Tử, việc này được Vệ Tuyên công đồng tình. Tuyên công sai Cấp Tử đi sứ nước Tề và ngầm sai quân cướp đón đường giết con




Nàng Mạnh Doanh

Muốn kết thân với nước Tần, Sở Bình vương sai sứ sang hỏi công chúa nước Tần là nàng Mạnh Doanh cho thế tử Kiến con mình. Khi sứ giả trở về, Sở Bình Vương hỏi: “Nhà ngươi đã trông thấy mặt (cô dâu) chưa? Nhan sắc thế nào?”.  Vị quan trả lời: “Mắt tôi nhìn gái đẹp đã nhiều, nhưng chưa từng thấy ai đẹp như nàng Mạnh Doanh. Trong cung nước Sở chẳng có ai sánh kịp đã đành, ngay những trang tuyệt sắc ngày xưa như Đắc Kỷ, Ly Cơ e rằng cũng chỉ là tiếng đồn thế thôi, chứ so ra thì nàng Mạnh Doanh đẹp muôn phần, họ chưa chắc đã được một”.
Nghe vậy, Sở Bình vương buồn bã thở dài: “Ta đây làm vua gì cho nó uổng. Không được gặp người đẹp ấy, cũng phí một đời”.
Tuy cũng sợ hại đến tình cha con nhưng vì không kìm nổi ham muốn sở hữu người đẹp, Sở Bình vương nghe theo kế của bề tôi, đưa nàng Mạnh Doanh vào cung vua, và lấy một cô gái khác mạo danh Mạnh Doanh đưa vào cung thế tử Kiến. Sợ con trai phát giác chuyện tráo đổi, ông ta cấm thế tử Kiến vào cung, rồi sai đi trấn thủ phương xa cho khuất mắt. Ông đuổi vợ chính (mẹ thế tử Kiến), lập Mạnh Doanh làm chính cung.
Nàng Mạnh Doanh không hề biết bị đổi chồng, nhưng lúc nào cũng buồn rầu. Sở Bình vương hỏi tại sao thì nàng đáp: “Thiếp vẫn tưởng vợ chồng vừa đôi phải lứa với nhau, khi vào cung mới biết ngài nhiều tuổi. Thiếp không dám oán ngài, chỉ hận là sinh sau đẻ muộn quá”.  Nhà vua bảo: “Ta dù già nhưng nàng lấy ta thì được làm chánh hậu sớm đến mấy năm”. Nghe lạ tai, Mạnh Doanh dò hỏi các cung nữ mới biết chuyện đánh tráo, cứ khóc thầm mãi, nhưng vì Sở Bình vương hứa lập con nàng làm thế tử nên nàng cũng dần nguôi.
Thế là để chuộc lỗi với người đẹp và khỏi ngượng mặt với đứa con bị mình cướp vợ, Sở Bình vương gán cho thế tử Kiến tội làm phản, cho truy lùng khắp nơi. Cuối cùng, vị thế tử bất hạnh này bị giết chết.


Phàn Cơ

Nàng là Vương Phi của Sở Trang Vương Mễ Lữ đời Xuân Thu. Nàng là người tài mạo vẹn toàn.
Theo truyền thuyết, Sở Trang Vương muốn chọn trong số các cung phi một người làm chính phẩm phu nhân, mới ra lệnh hạn trong 3 ngày, mỗi người dâng lên một lễ vật, lễ vật nào vừa ý vua nhất thì người đó được trúng tuyển. Các cung phi đều lo tìm kiếm lễ vật, riêng Phàn Cơ không chuẩn bị gì cả. Qua 3 ngày, các cung phi đều đến với lễ vật của mình, Phàn Cơ đến tay không. Trang Vương hỏi 

_ Lễ vật nàng chuẩn bị cho ta đâu ?

Phàn Cơ chậm rải đáp:

_ Tâu Đại Vương, xin nói thật là việc chuẩn bị lễ vật cho ngài, thiếp không hề nghĩ tới!

Trang Vương lấy làm lạ, lại hỏi:

_ Chẳng lẽ nàng không nghĩ đến việc làm chính cung phu nhân của ta sao?
Phàn Cơ gật đầu nói:

_ Xin Đại Vương nghe thiếp một câu nói này, Đại Vương nói lễ vật đưa đến phải là vật nhu yếu trước mắt Đại Vương. Nhu yếu trước mắt Đại Vương là gì? ngoài việc lập một chính phẩm phu nhân, chẳng lẽ còn có cái gì trọng yếu hơn nữa sao?

Sở Trang Vương thấy lời Phàn Cơ có lý , nên lập nàng làm chính phẩm phu nhân.

Một hôm Trang Vương bãi triều sớm để đãi tiệc, Phàn Cơ hỏi đặt tiệc để làm gì, Trang Vương nói là tiệc đãi người hiền, Phàn Cơ hỏi người hiền là ai? 

Trang Vương nói: 

_ Tể Tướng Ngu Khưu Tử là người hiền. 

Phàn Cơ nói:

_ Ngu Khưu Tử làm tể tướng, chưa từng tiến cử một người hiền nào, sao gọi là hiền thần được? 

Hôm sau Trang Vương đem lời của Phàn Cơ nói với Ngu Khưu Tử, Ngu Khưu Tử lấy làm hổ thẹn, sau mới tiến cử Tôn Thúc Ngao vào triều. Trang Vương đặt Tôn Thúc Ngao làm lệnh doãn. Tôn Thúc Ngao bắt đầu tu sửa công trình thuỹ lợi, thực hành cải cách, làm cho nước Sở ngày một cường thịnh. Năm 597 trước công nguyên (năm thứ 17 Sở Trang Vương) Sở đánh thắng quân Tấn ở đất Bí (nay là phía đông Trịnh Châu, Hà Nam) bắt các nước Trịnh, Tống phải quy phục vào Sở, thay nước Tấn làm bá chủ chư hầu. Châu Huyện, thi nhân đời Đường viết bài thơ về Phàn Cơ có câu:


"Đương thời bất hữu Phàn Cơ vấn. 

Lệnh doãn hà do tiến Thúc Ngao"
Dịch:

"Bấy giờ không có Phàn Cơ hỏi

Lệnh doãn vì đâu cử Thúc Ngao"


Việc Ngu khưu Tử vì Phàn Cơ tiến cử Tôn Thúc Ngao làm tướng nước Sở, giúp nước Sở lập nên nghiệp bá là một chuyện hay trong lịch sử Trung Quốc.
Trang Vương thích săn bắn, Phàn Cơ can ngăn mà không bỏ, nàng bèn chống lại bằng cách không ăn thịt loài cầm thú, cuối cùng Trang Vương sửa đổi, chăm lo chính sự. Bạch Cư Dị có câu "Tam tải đoạn tiên phì" (Ba năm đoạn tuyệt đồ tươi béo) là nói về việc ấy. Phàn Cơ rất được thương yêu nhưng 10 năm không sinh nở, vua lại không lui tới các cung khác. Phàn Cơ nói với Trang Vương:
_ Thiếp vào hậu cung 10 năm, được Đại Vương rất thương yêu, thiếp rất đội ơn, nhưng Đại Vương đến nay chưa có con, nên tiến cơ thiếp để có ích cho việc kế tự.
Rồi nàng để cho Trang Vương đến với 6 vị cơ thiếp trong cung, sinh được 6 người con trai. Nàng là người được thương yêu mà không ghen tuông, là sự lạ ít thấy trong số hậu phi đời xưa. 
Trong Đông Chu liệt quốc mô tả Sở Trang vương từ một vị vương thích ăn chơi hưởng lạc trở thành một vị bá vương thật sự. Có thể thấy người có công lớn nhất trong việc thay đổi Sở Trang vương không ai khác chính là nàng Phàn Cơ.


Tây Thi (Trầm ngư)

Tây Thi, còn gọi là Tây Tử, tên Di Quang, là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt (một nước thuộc tỉnh Triết Giang, Giang Tô và một phần Sơn Ðông ngày nay) thời Chiến Quốc. Nàng xuất thân từ một gia đình nghèo, cha đốn củi, nàng dệt vải ở thôn Trữ La. Trữ La có hai thôn: Ðông thôn và Tây thôn, phần nhiều họ Thi. Vì nàng ở Tây thôn nên gọi là Tây Thi. Bạn nàng là Trịnh Ðán cũng là một giai nhân sắc nước, hương trời.
Nhà ở gần sông, ngày ngày hai nàng cùng nhau ra đập sợi ở ven sông. Má hồng, nước biếc, hai bóng lộn nhau trông như hai đóa phù dung của buổi bình minh tươi đẹp. Vua nước Việt là Câu Tiễn bại trận, phải cùng vợ sang làm người tù chăn ngựa cho vua Ngô. Sau khi được thả về, lòng uất ức căm hờn, mong rửa thù. Ðại phu Văn Chủng hiến cho 7 kế phá Ngô. Một trong 7 kế là đem mỹ nữ sang dâng để mê hoặc vua Ngô. Câu Tiễn liền thực hành ngay. Trong vòng nửa năm tuyển được 2,000 mỹ nữ, lại chọn 2 người đẹp nhất là Tây Thi và Trịnh Ðán. Câu Tiễn sai Tướng quốc là Phạm Lãi đem 100 nén vàng đến thôn Trữ La rước 2 nàng về, trang sức lộng lẫy, cho ngồi trong xe có màn phủ. Người trong nước nghe tiếng mỹ nữ, ai cũng muốn xem mặt, tranh nhau ra ngoài đón coi. Ðường phố chật cứng! Phạm Lãi liền để 2 nàng trong quân xá rồi truyền dụ rằng: "Ai muốn xem mặt mỹ nhân phải nộp một đồng tiền." Chỉ trong một lúc ngắn mà tiền thu đầy quỹ. Hai nàng lên lầu, đứng tựa bao lơn, trông không khác nào tiên nga giáng hạ. Hai nàng lưu ở ngoài kinh thành 3 ngày, tiền thu không kể xiết. Câu Tiễn cho hai nàng ở riêng tại Thổ thành, rồi sai lão nhạc sư đến dạy múa hát. Ba năm qua, Tây Thi và Trịnh Ðán cùng một số mỹ nữ đã học múa hát thành thạo. Câu Tiễn liền truyền Phạm Lãi đem sang cống cho vua Ngô là Phù Sai. Phù Sai vừa trông thấy hai nàng là xính vính, cho là thần tiên giáng trần, hồn phách mê mẩn, mắt nhìn như ngây, như dại .... Tây Thi và Trịnh Ðán được Phù Sai cực kỳ yêu mến. Nhưng riêng Tây Thi vì có sắc đẹp lộng lẫy lại khéo chiều chuộng, có nghệ thuật làm người say đắm nên Ngô vương sủng ái hơn: Tây Thi được ở đài Cô Tô với Phù Sai. Trịnh Ðán ghen với Tây Thi, uất ức không nói được, một năm sau thì chết! Phù Sai đem chôn ở Hoàng mao sơn và cho lập đền thờ. Tây Thi có chứng đau bụng. Mỗi lần đau thì nhăn mặt, mà nhăn mặt thì lại đẹp thêm! Phù Sai đắm đuối trước nét đẹp thiên kiều bá mị của Tây Thi. Phù Sai xây cung Quán Khuê ở núi Linh Nham, trang trí toàn bằng châu ngọc để làm cảnh cho Tây Thi đi dạo, ngắm cảnh. Lại cất Hưởng điệp lan, Ngoạn hoa trì, Ngoạn nguyệt trì, Ngô vương tỉnh, v.v... để Tây Thi ngắm hoa lan, coi ao hoa, thưởng trăng và soi bóng mình dưới giếng. Phù Sai lập cầm đài để Tây Thi đàn những cung đàn tuyệt diệu cho Phù Sai thưởng thức. Phù Sai lại cho đào một con sông nhỏ ở trong thành, rồi cùng Tây Thi dong thuyền, gọi là Cẩm phàm hình. Và còn nhiều nữa, kể không hết. Từ khi được Tây Thi, Phù Sai cứ ở luôn trên Cô Tô đài, bốn mùa vui chơi, không thiết gì đến việc nước. Tây Thi, con người kiều diễm ấy, tuy có thân hình mảnh mai như cành liễu yếu mềm nhưng tiềm tàng một ý chí phi thường là quyết lật đổ cả một triều Ngô. Hai bàn tay ngà ngọc xinh xắn ngày nào dệt vải, quay tơ nhưng nay lại dùng để bóp nát cả một nước Ngô binh hùng, tướng mạnh. Mắt nàng cau một cái là một cái đầu rơi. Môi nàng cười một nét là kho nhà Ngô vơi đi bạc vàng, châu báu. Ngũ Viên, một vị tướng quốc kiên trung, đa mưu túc trí, đầy tài dũng lược đã vì nàng mà chết dưới thanh kiếm Chúc lâu của Phù Sai! Nước Ngô ngày càng suy yếu. Nước Việt thừa thế tấn công. Ngô bại trận, Phù Sai tự tử. 
Tây Thi làm tròn sứ mạng đối với tổ quốc; xin được về lại thôn Trữ La. Nhưng vương phi của Câu Tiễn sợ rằng chồng sẽ mê say sắc đẹp Tây Thi nên bí mật sai người bắt Tây Thi neo đá quăng xuống dòng sông Tam giang. Ðó là viết theo chính sử. 
Có truyện chép : Phạm Lãi yêu Tây Thi nhưng thấy Câu Tiễn muốn lấy Tây Thi nên ghen; sau đó, bày mưu cho vợ Câu Tiễn giết Tây Thi. 

Có truyện lại chép: Phạm Lãi trước đã cùng Tây Thi yêu nhau. Vì vậy, khi đốt phá đài Cô Tô, Phạm Lãi đã đón Tây Thi xuống thuyền, rồi cả hai bỏ nước đi du Ngũ hồ cho trọn cuộc tình. Có lẽ người đời sau giàu tình cảm và trí tưởng tượng nên không nỡ chia lìa đôi trai tài gái sắc Phạm Lãi - Tây Thi nên tạo câu chuyện du Ngũ hồ để an ủi oan hồn Tây Thi chăng?




Trịnh Đán

Vua nước Việt là Câu Tiễn bại trận, phải cùng vợ sang làm người tù chăn ngựa cho vua nước Ngộ Sau khi được thả về, lòng uất ức căm hờn mong rửa được nhục thù. Đại phu Văn Chủng hiến 7 kế phá Ngộ Một trong 7 kế là đem mỹ nữ sang dâng để làm mê hoặc vua Ngô. Câu Tiễn liền thực hành ngay.Theo lịch sử, nuớc Việt dâng nguời đẹp sang nuớc Ngô, ngoài Tây Thi ra còn có một cô gái tên Trịnh Đán. Trịnh Đán hay còn gọi là Đông Thi, cũng là nguời đẹp nổi tiếng, nhà ở thôn Mao Gia Bộ cách nhà Tây Thi không xa mấy, cha làm nghề đánh cá, mẹ nuôi tằm.Nhà ở gần sông, ngày nào hai nàng cũng cùng nhau ra đập sợi ở ven sông. Má hồng nước biếc, hai bóng lộn nhau, trông hai đóa phù dung của buổi bình minh tươi đẹp.Câu Tiễn sai Tướng quốc Phạm Lãi đem 100 nén vàng đến thôn Trữ La rước hai nàng về, trang sức lộng lẫy, cho ngồi trong xe có màn phủ.
Câu Tiễn cho hai nàng ở riêng tại Thổ Thành, rồi sai một lão nhạc sư đến dạy múa hát.
Ba năm qua, Tây Thi và Trịnh Đán cùng số mỹ nữ học múa hát đã được tinh xảo, Câu Tiễn liền truyền Phạm Lãi đem sang cống cho vua Ngô là Phù Sai. Phạm Lãi vào yết kiến, sụp lạy vua Ngô, tâu rằng:
- Đông hải tiện thần là Câu Tiễn cảm ơn đại vương, không thể đem thê thiếp đến hầu hạ ở bên cạnh được, vậy cố tìm khắp trong nước được hai mỹ nhân khéo nghề múa hát nên sai chúng tôi đem nộp vương cung để giữ việc quét rửa.
Phù Sai trông thấy hai nàng, cho là thần tiên mới giáng hạ, hồn phách mê mẩn, mắt nhìn đăm đăm một cách say sưa. Phù Sai rất lấy làm hài lòng nhận lấy mỹ nữ. Tây Thi và Trịnh Đán được Phù Sai yêu mến. Nhưng riêng Tây Thi vì có sắc đẹp lộng lẫy lại khéo chiều chuộng, có nghệ thuật làm người say đắm nên Ngô vương sủng ái hơn. Tây Thi được ở Cô Tô đài với Phù Sai. Nàng đi dạo nơi đâu cũng dùng đồ nghi vệ theo địa vị phi hậu. Trịnh Đán ở Ngô cung, ghen với Tây Thi uất ức không nói ra, được hơn một năm đau chết. Phù Sai thương lắm, đem chôn ở Hoàng Mao sơn và lập đền thờ cúng.

Nam Tử 

Nàng vốn là con gái của Tống Bình công. Sau này nàng được gả cho Vệ Linh công mà nguyên nhân cũng không nằm ngoài việc kết hòa hiếu giữa hai nước. Một trong vô vàn những cuộc hôn nhân chính trị của thời đó. Đa phần những cuộc hôn nhân này đều không bắt nguồn từ tình yêu nhưng cũng có không ít trường hợp cá biệt. Song chuyện rạn nứt cuộc những cuộc hôn nhân này là chuyện cũng hết sức bình thường. Và cuộc hôn nhân của nàng Nam Tử lại không nằm trong trường hợp cá biệt.
Tương truyền, Nam Tử là một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp nhưng cái tên của nàng nghe lạ tai vô cùng và biệt tài của nàng chính là quyến rũ đàn ông. Theo nhiều tài liệu ghi chép, nàng không chỉ sở hữu sắc đẹp quý phái diễm lệ mà còn có tính lẳng lơ, dâm đãng nên rất thu hút đàn ông. Vậy nên nàng ta có một sở thích rât chi kỳ lạ đó là thích chung đụng chăn gối cũng những nam nhân lạ. Với nàng ta, càng lên giường với nhiều đàn ông khác nhau càng thoải mãn được dục vọng của mình. Chính vì vậy sẽ không có gì lạ khi trong danh sách của nàng ta có cả tá tên đàn ông. Và chắc chắn sẽ càng không có gì lạ nếu nàng ta lỡ mang thai mà lại không biết cha đứa trẻ là ai.
Với vẻ đẹp và tính tình như vậy nên đối với Nam Tử lấy phải một ông chồng như Vệ Linh công thật đúng là thảm họa. Bởi Vệ Linh công là ông vua đồng tính. Cho dù trước mặt ông ta là cả trăm mỹ nữ đẹp như hoa như ngọc, ông ta cũng không màn đến. Chẳng vậy nên việc ông ta thờ ơ với vị Hoàng hậu xinh đẹp này cũng là chuyện thường tình.
Lẽ dĩ nhiên, người Vệ Linh công sủng ái chắc chắn cũng phải là nam nhân. Người đó chính là Di Tử Hà và công tử Triều. “Dư đào đoạn tụ” chính là chỉ mối tình của Vệ Linh công và Di Tử Hà. Thế nhưng cho dù có đồng tính hay không, ông vua nào cũng có tính cả thèm chóng chán cả. Có một lần, có người nói với ông rằng:
_ Thần nằm mơ về đại vương, thấy một cái bếp, rồi lại mơ thấy một người ngồi ở trước cái bếp ấy.

Nghe vậy, Vệ Linh công vô cùng tức giận bèn nói:

_ Ta chỉ nghe thấy khi mơ về quân vương thì mơ thấy mặt trời, chưa từng nghe nói mơ thấy cái bếp bao giờ.

Người kia lại nói:
_ Mặt trời chiếu khắp thiên hạ, bất cứ vật gì tồn tại trên mặt đất đều được hưởng ánh sáng của nó. Còn như cái cửa bếp, nếu có một người ngồi tại cửa thì chỉ có một mình người đó được hưởng ánh sáng và hơi ấm mà thôi, còn những người khác muốn có ánh sáng và hơi ấm cũng không được.
Hiểu được ý người này nói rằng mình chỉ sủng ái Di Tử Hà mà không chăm lo đến chính sự nên Vệ Linh công đã tìm cách đuổi Di Tử Hà ra khỏi cung. Và không lâu sau đó ông lại sủng ai một nam nhân khác tên là Triều, Công tử Triều. Công tử Triều vào cung được Vệ Linh công sủng ái vô cùng. Ngược lại, nơi hậu cung, Nam Tử Hoàng hậu lại chán ngán và cho rằng mình bất hạn vô cùng khi lấy phải một ông chồng đồng tính. Nàng đã từng thốt lên rằng:
_ Ta sống trong cái lồng son này để làm gì? Thực tế là ta đang chết dần trong cái lồng này. Con người sống để làm gì nếu không có tình yêu?
Vậy nên Nam Tử quyết không chịu an phận sống cuộc đời sung sướng của một vị Hoàng hậu đương triều. Nàng bất chấp cả danh phận lẫn địa vị của mình để lén lút quan hệ với nhiều nam nhân khác. Trong đó có Công tử Triều. Ban đầu chỉ lén lút nhưng càng về sau hai người càng công khai khiến cho không ít người phải cảm thán và tỏ thái độ. Nhưng Vệ Linh công lại chả có hành động trừng phạt gì cả. Ngược lại ông ta còn tận tâm rước trai về nhà cho vợ “lên mây”. Đơn giải chỉ vì một mục đích đó là nếu để Công tử Triều được làm những gì mình muốn, bao gồm cả tư thông với vợ mình chắc chắn Công tử Triều sẽ phải “nhớ ơn” mà phục vụ Vệ Linh công chu đáo hơn. Đỉnh điểm sự nhu nhược của người chồng này còn ở chỗ, khi con trai của nhà vua và hoàng hậu phát hiện ra mẹ mình đang công khai ngoại tình với công tử Triều. Thế nên Thái tử này thấy quá xấu hổ, nhục nhã. Thái tử đã tìm cách ám sát mẹ ruột của mình thì bị Linh Công biết và đuổi thẳng con trai ruột của mình ra khỏi cung.
Chính vì làm ngơ việc tư thông này mà các triều thần chán ghét làm loạn khiến Vệ Linh công phải trốn khỏi cung cấm. Sau khi Vệ Linh Công dẹp loạn trở về ngôi cao, Công tử Triều và Nam Tử đã cùng nhau chạy trốn sang nước Tấn. Thế nhưng Vệ Linh Công vẫn còn luyến tiếc Công tử Triều, muốn có anh ta ở cạnh vì vậy mới lấy cớ là mẫu hậu tưởng nhớ con dâu là nàng Nam Tử, gọi Công Tử Triều về nước Vệ.
Chuyện về thói dâm đãng của nàng Nam Tử cũng lên quan đến một vĩ nhân nổi tiếng của Trung Quốc, đó chính là Khổng Tử.
Tương truyền rằng, vào thời Xuân Thu, hầu hết các sứ thần nước khác đến nước Vệ, trước khi yết kiến nhà vua già Linh Công đều phải diện kiến hoàng hậu Nam Tử. Nếu Nam Tử đồng ý thì họ mới được gặp vua.
Sinh thời, chỉ có Khổng Tử là từ chối cuộc gặp với người đàn bà mất nết này nên không được nhà vua dùng. Tuy nhiên ngài cũng được cho ở tạm trong nhà khách của triều đình.
Một lần, thấy trong nhà khách có cây đàn khánh, Khổng tử bèn gảy mấy cung điệu. Tiếng đàn ngân lên trong đêm khuya khoắt khiến cho Nam Tử thao thức mãi. Trong khi chồng bà đang say giấc nồng, bà lần theo hành lang, tới đứng bên ngoài nhà khách nghe đàn.
Ngay sáng sớm hôm sau, vì đam mê tài năng trí tuệ của Khổng Tử, Nam Tử đã phá lệ, cho mời Khổng Tử vào diện kiến. Trước một Hoàng hậu nhan sắc diễm lệ, quý phái và tìm mọi cách gạ tình, nhưng vị thánh nhân này vẫn thờ ơ. 
Chưa nản chí, cậy nhờ quyền lực của mình, Nam Tử vẫn thường triệu Khổng Tử vào cung để gặp gỡ hoặc tặng quà. Nhưng cuối cùng, nhan sắc và độ lả lơi của nàng vẫn không thể lay chuyển được một người đàn ông quân tử và cứng rắn như Khổng Tử.
Có một lần Vệ Linh công cùng Nam Tử ngồi xe ra ngoại thành du ngoạn, lại mời Khổng Tử đi theo sau. Khổng Tử không thể từ chối được bèn theo họ ra ngoài. Người ngoài nhìn vào thấy thế bèn cười nói:

_ Kìa đạo đức chạy theo sắc đẹp.

Không Tử bèn than:

_ Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả dã (Ta chưa thấy ai yêu cái đức tốt như yêu sắc đẹp.)

Trần Qui

Nàng là thiếp của Trịnh Tử Anh sau nàng tái giá với cháu là Trịnh Văn công. Theo những gì sử sách còn ghi lại, Trịnh Văn công có một người thiếp từng làm thiếp của Trịnh Tử (không nhớ rõ đầy đủ tên gì chỉ biết đó là một người chú), nàng sinh cho Văn công 2 đứa con là Tử Hoa và Tử Tang nhưng 2 đứa con này đều bị Văn công giết cả. Có khả năng, người thiếp đó chính là Trần Qui.

Yên Cật

Nàng là thiếp của Trịnh Văn công. Tương truyền có một lần nàng mơ thấy hoa lan bèn thuật lại cho Văn công nghe, vua cho đó là điềm tốt nên sủng ái nàng vô cùng. Ít lâu sau nàng hạ sinh con trai, Trịnh Văn công đã đặt tên con là Cơ Lan (chính là Trịnh Mục công sau này).

Thi Lương đệ

Nguyên Chẩn một nhà thơ lớn thời Đường đã làm thơ để tưởng nhớ đến vợ mình. Ông đã làm tất cả là ba bài, trong đói nổi tiếng hơn cả là bài thơ “Khiển bi hoài”:

"Tạ công tối tiểu thiên lân nữ
Tự giá Kiềm Lâu trách sự quai
Cố ngã vô y sưu tận anh
Nệ tha co tửu bạt Kim Thoa
Dã sơ sung thiện cam trường hoắc
Lạc diệp thiên lân ngưỡng cổ hòe
Kim nhật bổng tiền quá thập vạn
Dữ tha doanh điện phục doanh trai"

Dịch:

Con gái nhỏ Tạ công thương bấy
Hỏng trăm bề trừ lấy Kiềm Lâu
Ta không áo vét hầu bao
Nghị nang mua rượu thoa đầu cởi ra
Cơm rau hoắc qua loa nhật dụng
Lá cổ hòe thấy rụng củi thêm
Ngày nay mười vạn bổng năm
Với nàng tiền giỗ rồi tiền làm chay.

Câu đầu của bài thơ trên đã nhắc đến một điển tích của Trung Quốc. Ấy chính là về một đôi vợ chồng nhà nghèo rớt mồng tơi. Kiềm Lâu được nhắc đến trong bài chính là “Kiềm Lâu Tự” nổi tiếng trong lịch sử.
Kiềm Lâu là người nước Lỗ thời Chiến Quốc. Áy là một thời đại chiến tranh liên miên các nước thường xuyên gây hấn để giành quyền lợi với nhau. Chu Vương Dụ đã suy yếu dần, chế độ đẳng cấp cũng dần tan vỡ, tư tưởng học thuật bừng bừng phát triển đã hình thành nên cục diện “Bách gia chư tử” (trăm nhà đua tiếng). Đây được xem là giai đoạn hoàng kim của nền tư tưởng Trung Quốc. Các nước chư hầu lôi kéo các binh sĩ tài trí về bên mình. Còn tầng lớp bình dân bắt đầu bước lên vũ đài chính trị, hình thành nên cục diện “Khanh tướng áo vải”
Thi Lương Đệ, một tiểu thư khuê các, con nhà danh gia vọng tộc bấy giờ khiến không ít người ngưỡng mộ về tài trí của nàng. Nàng thực sự xứng với câu “tú ngoại tuệ trung” (ngoài thanh tú, trong trí tuệ). Phụ thân nàng vốn là quan Thái Chúc, một chức quan chuyên tế lễ quỷ thần để bảo vệ vương gia. Chức quan này cùng hàng với 3 chức quan khác là: Thái Tông (quản lý chùa chiềng, bố trí tế lễ), Bốc Chính (bốc quẻ xem cát hung), Thái Sư (ghi chép thời sự, quan sát hiện tương, bảo vệ văn thư. Vì thời Thượng Chu vẫn còn rất mê tín nên 4 chức quan này rất được coi trọng. Vì vậy, gia đình Thi Lương Đệ trở thành gia đình danh gia cũng không có gì là lạ.
Vốn là một thiếu nữ tài năng, trí tuệ nên cách nhìn người của Thi Lương Đệ cũng không giống người bình thường. Theo lẽ thường, con gái một khi đã xuất giá theo chồng thì không con bất kỳ mối quan hệ, liên lạc nào với gia đình cha mẹ ruột nữa. Con gái sau khi lấy chồng rồi thì phải theo chồng, sướng khổ cùng chòng, đúng nghĩa của câu “cưới gà phải theo gà, cưới chó phải theo chó”. Vậy nên khi Thi Lương Đệ quyết lấy Kiềm Lâu Tự, gia đình nàng không tiếc lời khuyên nhủ nhưng điều không ăn thua.
Từ một gia đình quý tộc nàng phải theo chồng về sống trong một gia đình nghèo rớt mồng tơi. Từ một thiên kim tiểu thư đài các sống trong nhung lụa nàng phải trở thành một người vợ dân giả quên mùa với áo vải thô sơ. Rửa sạch cuộc sống vinh hoa phú quý, nàng cùng chồng sống cuộc sống ruộng vườn. Nàng phải mặc trên người bộ áo vải tự dệt, tự may, ăn ngũ cốc do tự mình trồng được. Cứ vậy, chồng hát vợ theo, tình cảm theo năm tháng mà gắng bó , một cuộc sống hạnh phúc trôi đi êm đềm.
Chồng Thi Lương Đệ, Kiềm Lâu dù xuất thân trong một gia đình nghèo nhưng là người có trình độ học vấn ca. Ông từng viết 4 tập sách nổi tiếng trình bày rõ tôn chỉ đạo gia. Có tài nhưng lại phải sống trong cảnh nghèo khó song ông chỉ coi vinh hoa phú quý như là mây khói., không đoái hoài gì đến tranh chấp quyền lợi vậy nên ông được đánh giá rất cao. Vậy nên Thi Lương Đệ chọn ông để gửi gắm cả đời quả là một lựa chọn đúng đắn.
Bốn tập trong “Kiềm Lâu Tự” chủ yếu luận về Bát quái, biến lý, âm dương, ngũ hành, vũ trụ…một phần ít là về “toán học” như hằng số, chụp số của vạn vật; về “hóa học” như chụp hình của vạn vật; về “chất” là chất của vạn vật. Quyển sách đầu tiền của ông vì có giọng điệu quá cao nên chưa thể khớp chặt chẽ được với vạn vất đang sinh ra. Sau khi lấy được Thi Lương Đệ, hai vợ chồng thường trao đổi với nhau trong những lúc nghĩ ngơi. Nàng đã ghép tất cả truyền thống học vấn của mình lại để trò chuyện cùng chồng và đi đến thống nhất với nhau. Nàng cho rằng trong trời đất cái đầu tiên có chính là âm dương. Từ âm dương mới sinh ra cảm ứng, từ cảm ứng có biến hóa, rồi lại sinh ra cảm ứng trở thành một vòng tuần hoàn. Lần lượt: cát, hung, đắc thất, thất, hận, lận, ưu, ngu xuất hiện. Nói một cách dễ hiểu chính là: sự hình thành và biến hóa của vạn vật là sự tác động giữa âm và dương.
Đi theo hướng này của Thi Lương Đệ, Kiềm Lâu đã chỉnh sửa lại 4 quyển “Kiềm Lâu Tự”. Sau khi sửa xong, 4 quyển này lập tức thu hút sự chú ý và gây chấn động cả một vùng Tề- Lỗ. Các sx tử đều dựa vào những quyển sách này để nghiên cứu về trời đất, con người. họ xem quyển sách như là Nhật quỹ (đồ nghi lễ bằng ngọc thời cổ). Quốc dân và khanh đại phu cũng dùng đến quyển sách này để làm đạo lý cai trị đất nước, yên dân. Trong dân chúng, ai cũng ngưỡng mộ với sự uyên bác của Kiềm Lân. Lỗ công muốn lập ông là Tể tướng nhưng với ý chí kiên định của mình ông đã dứt khoát từ chối. Lỗ công liền đe, 3000 đấu ngô ban thưởng cho ông với hy vọng có thể cải thiện cuộc sống của ông nhưng ông cũng kiên quyết không nhận lộc thưởng. Tiềng làng đồn xa, dân chúng càng thêm ngưỡng mộ về tài đước và khâm phục uy phong cao cả của Kiềm Lâu.
Có thể thấy, làm nên tập sách nổi tiếng kia không chỉ có Kiềm Lâu mà còn có công không nhỏ của Lương Đệ nhưng người đời lại không mấy để ý đến. Âu đó cũng là phận của nữ nhi. Trong xã hội chỉ coi trọng đồng tiền quyền lực ấy, Kiềm Lâu phu nhân lại hoàn toàn trái ngược hẳn. Năm ấy mùa màng thất bát, đói kém liên miên, gia đình Kiềm Lâu cơm ăn áo mặc gặp khó khăn vô cùng. Quan lại nô nức kéo đến nhà Kiềm Lâu để biếu quà nhưng ông đều khéo léo từ chối. Ông và vợ kiên quyết tự lực cánh sinh để kiếm kế sinh nhai. Tề Uy vương nghe tin Kiềm Lâu đến nước mình liền nghĩ đến việc chọn ông làm Quốc khanh nhưng ông cũng một mực từ chối.
Kiềm Lâu tuy không làm quan nước Tề song vua Tề vô cùng tôn kính. Cứ mỗi lần nước Tề gặp chuyến như bị kẻ thù xâm chiếm, Tề Uy vương đều tìm đến Kiềm Lâu để giúp đỡ. Vậy nên ông không chỉ có đực mà rất có tài, có thể phong ông là hiền nhân.
Kiềm Lâu vứt bỏ vinh hoa phú quý, chỉ quan tâm đến tí ngưỡng mình theo đuổi. Ông từ chối lời thỉnh cầu của các nước chư hầu, sống một cuộc sống thanh bạch, đạm bạc. Tất cả những việc làm của ông không hề bịa đặt. Nó đã phản ánh được phần nào phong trào tư tưởng của xã hội thời bấy giờ. Điều đáng quý ở đây là người vợ của ông, Thi Lương Đệ vốn là tiểu thư khuê các nhà giàu nhưng đã từ bỏ tất cả để gắng bó cuộc đời mình với ông.
Sự đối đáp giữa Kiềm Lâu phu nhân với Tăng Tham, một học trò của Khổng Từ khi người này đến viếng Kiềm Lâu càng cho thấy sự thông minh, sắc sảo của nàng. Chuyện được kể như sau:
Khi Tăng Tham đến viếng thấy Kiềm Lâu nằm dưới khung cửa sổ bị vỡ, trên người mặc chiếc áo lụa dài cũ, ông nằm trên chiếc chiếu cỏ rách nát, đắp một lớp chăn ngắn phủ không hết chân. Ông liền kiến nghị Kiềm Lâu phu nhân rằng kéo dịch chăn lại sẽ đắp kín toàn thân. Nhưng Kiềm Lâu phu nhân không nghe theo. Khi Tăng Tham chuẩn bị ra về Kiềm Lâu phu nhân lập tức nói:

_ Dĩ khang vi dật! (cần lấy sức khỏe làm trọng)

Tăng Tham không giải thích, ông liền nói:

_ Tiên sinh khi sinh thời, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, khi chết tay chận thì không bó lại, lao động vất vả không ăn rượu thịt, lúc sống không được hưởng vinh hoa phú quý, chết cũng không được lo chu đáo, thì còn nói gì dĩ khang vi dật cơ chứ!
Kiềm Lâu phu nhân nghiêm mặt nói:
_ Lúc sinh thời, Lỗ Quân muốn chọn Kiềm Lâu làm tướng, Tề Quân muốn chọn làm khanh, ông cũng từ chối. Như thế cũng thừa “quý|” đấy chứ. Lỗ Quân ban thưởng 3000 đấu ngô, Tề Quân cũng nhiều lần muốn trả ơn, nhưng ông không nhận. Như thế cũng thừa “phú” đấy chứ. Bỉ tiên sinh không buồn rầu vì nghèo khổ, không ham muốn phú quý, cầu nhân đắc nhâ, cầu nghĩa đắc nghĩa, dĩ khang vi dật, ai nói không đúng nào!
Nghe xong Tăng Tham cảm động mà cảm thán một câu

_ Ta tư nhân dã, nhi hữu tư phu!

Mị Bát Tử

Nàng là vương phi của Tần Huệ Văn vương vua thứ 31 của nước Tần, mẫu thân của Tần Chiêu Tương vương, vua thứ 33 của nước Tần. Là vị vương thái hậu trẻ tuổi đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Trong lịch sử Trung Quốc, tước hiệu thái hậu bắt đầu từ xuất hiện từ nàng, thái hậu chuyên quyền cũng bắt đầu từ thời nàng mới có. Tương truyền nàng mưu lược hơn người, tại nước Tần nắm hết quyền lực triều chính, hô phong hoán vũ gần 40 năm.
Mị Bát Tử nguyên quán ở nước Sở có họ hàng xa với vương thất nước Sở. Sử sách không nói rõ cha mẹ bà là ai, cũng như việc nàng được gả sang nước Tần khi nào. Năm 324 TCN, Mị Bát Tử hạ sinh công tử Tắc, tức Tần Chiêu Tương vương sau này. Ngoài ra, sử sách còn cho biết nàng có hai người em trai là Ngụy Nhiễm (khác cha) và Mị Nhung. Sau khi được Tần Chiêu Vương nạp làm vương phi, Nguỵ Nhiễm được vào triều đình nước Tần nhậm chức và được trọng dụng.
Sau khi Tần Chiêu Huệ vương qua đời năm 311 TCN, vua lên nối ngôi là Tần Vũ vương (con của Huệ Văn hậu). Năm 307 TCN, Tần Vũ vương mất không có con nối ngôi, nội bộ nước Tần nảy sinh tranh chấp. Ngụy Nhiễm lúc đó đang nắm binh quyền trong tay, ủng hộ công tử Tắc (lúc bấy giờ đang làm con tin ở nước Yên. Cùng lúc Triệu Vũ Linh vương cũng đem quân hỗ trợ, đón công tử Tắc về nước lập làm vua, tức Tần Chiêu Tương vương. Chiêu Tương vương tôn nàg làm Vương Thái hậu.
Vua mới còn nhỏ tuổi, nên chính sự nước Tần do Tuyên Thái hậu quyết định. Mị Bát Tử liền trọng dụng em trai của mình, đồng thời kết thành một thế lực mạnh mẽ khống chế chính quyền. Nguỵ Nhiễm cũng được bái làm Tướng quân, phụ trách cảnh vệ quốc đô Hàm Dương, trở thành trọng thần thân tín của Tuyên thái hậu. Trong những năm tiếp theo, Tuyên Thái hậu và Ngụy Nhiễm lần lượt giết Tần Huệ Văn hậu và những người con khác của Tần Huệ Văn vương, đuổi Tần Điệu Vũ hậu ra nước ngoài, ổn định chính sự.
Năm 307 TCN, Sở Hoài vương đánh nước Hàn, vây đất Ung. Chiến sự kéo dài suốt năm tháng, Hàn Tương vương sai Công Tôn Muội đến nước Tần cầu viện. Lúc đầu Tuyên Thái hậu cử quân giúp nhưng chưa tiến quân. Hàn vương lại phải nhờ Thượng Cận tới xin, Tuyên Thái hậu nhớ tới quê hương mình là nước Sở, bèn lựa lời từ tạ không giúp. Vua Hàn lại sai Trương Thúy đến cầu cứu lần nữa. Trương Thúy nhờ Thừa tướng Cam Mậu mới mượn được binh. Quân Sở rút lui.
Năm 287 TCN, năm nước Tề, Triệu, Ngụy, Hàn và Sở hợp tung chống Tần, nhưng chỉ tới Thành Cao thì rút lui.
Sau lần hợp tung đó, Tần Chiêu Tương vương thấy chư hầu còn mạnh, muốn cho công tử nước Hàn là Thành Dương quận đang ở Tần làm tướng quốc hai nước Ngụy, Hàn nhưng hai nước không đồng ý. Tuyên Thái hậu lại nhờ Ngụy Nhiễm kiến nghị vua Tần không nên dùng Thành Dương quân vì sẽ làm ảnh hưởng đến quan hệ với Ngụy, Hàn.
Nước Nghĩa Cừ là một bộ lạc Nhung Địch ở phía bắc nước Tần, thường xuyên xảy ra chiến tranh với Tần. Dưới thời Tần Huệ Văn vương, sau khi bị quân Tần đánh bại, Nghĩa Cừ vương đành phải thần phục nước Tần. Đến khi Tần Chiêu Tương vương lên ngôi, Nghĩa Cừ vương sang nước Tần triều kiến, gặp được Tuyên Thái hậu. Hai người tư thông với nhau, sinh được hai con.
Năm 272 TCN, Tần Chiêu Tương vương và Tuyên Thái hậu muốn đánh Nghĩa Cừ, bèn triệu Nghĩa Cừ vương sang yết kiến, rồi giết chết ông ta ở cung Cam Tuyền. Nhân đó, Tần Chiêu Tương vương sai quân đánh và tiêu diệt Nghĩa Cừ lấy đất Nghĩa Cừ lập ra ba quận Lũng Tây, Bắc Địa, Thượng quận.
Sau khi lên nắm quyền chính, Tuyên Thái hậu trọng dụng Ngụy Nhiễm phong làm Thừa tướng, Nhương hầu, người em khác là Mị Nhung được phong làm Hoa Dương quân, còn hai người con khác của bà là công tử Khôi, công tử Phất cũng được phong Kinh Dương quân và Cao Lăng quân, gọi là Tứ quý, nắm nhiều quyền lực, lấn át Tần Chiêu Tương vương. Năm 271 TCN, người nước Ngụy là Phạm Thư đến Tần, được trọng dụng. Phạm Thư tâu với Tần Chiêu Tương vương rằng Tứ quý và Thái hậu quyền lực lớn, cần đề phòng. Tần Chiêu Tương vương nghe theo, phế quyền lực của Tuyên Thái hậu, bắt lui về cung riêng, đuổi Nhương hầu về phong ấp, đuổi Hoa Dương quân, Cao Lăng quân, Kính Dương quân ra biên cương.
Sau đó, Tuyên Thái hậu lại có người tình là Ngụy Sửu Phu. Năm 265 TCN, khi lâm bệnh nặng, bà muốn cho Sửu Phu tuẫn táng theo mình. Sửu Phu sợ hãi, nhờ Dung Nhuế đến thuyết phục nàng bãi lệnh tuẫn táng.
Tháng 10 năm đó, Tuyên Thái hậu Mị Bát Tử qua đời. Sử sách ghi nhận nàng hoạt động từ khi sinh Tần Chiêu Tương vương năm 324 TCN đến lúc mất năm 265 TCN, tổng cộng là 59 năm, không rõ bao nhiêu tuổi. Thi hài của nàng được chôn cất ở Dương Ly Sơn.

Hoa Dương phu nhân

Nàng là ái thiếp của Tần Hiếu Văn vương, là nữ nhân rất có ảnh hưởng đến vị vua này. Nàng là người mẹ "chính trị" của Dị Nhân, mẹ chồng của Triệu Cơ.



Triệu Cơ

Triệu Cơ người Hàm Đan nước Triệu cuối thời Chiến Quốc, là mẹ của Tần Thủy Hoàng. Triệu Cơ đóng vai trò quan trọng trong âm mưu đưa Tần Thủy Hoàng lên ngôi của Lã Bất Vi. 
Triệu Cơ vốn là thiếp của Lã Bất Vi, người tuyệt đẹp, múa giỏi đàn hay. Khi đó Tần công tử, Tử Sở, làm con tin ở nước Triệu nghèo khó khốn cung. Lã Bất Vi ra tay cứu giúp, xin Hoa Dương phu nhân nhận Tử Sở làm con nuôi, trở thành người thừa tử của thái tử An Quốc Quân. 
Một lần Tử Sở sang nhà Bất Vi, nhìn thấy Triệu Cơ đem lòng say mê. Lã Bất Vi đem nàng dâng cho Tử Sở, khi đó Triệu Cơ đang mang thai. Tử Sở bèn lập nàng làm phu nhân, đến kỳ Triệu Cơ sinh con đặt là Chính. 

Năm thứ 50, đời vua Chiêu Vương nước Tần, Tần sai Vương Ý vây Hàm Đan rất gấp. Nước Triệu muốn giết Tử Sở. Tử Sở cùng Lã Bất Vi mưu đưa sáu trăm cân vàng cho kẻ coi giữ nên trốn thoát về Tần. Triệu muốn giết Triệu Cơ và Chính, nhưng Triệu Cơ là con nhà tai mắt ở Triệu, lẩn trốn được vì thế mẹ con đều sống. 
Năm thứ 56, Tần Chiêu Vương mất, thái tử An Quốc Quân lên làm vua, lập Hoa Dương phu nhân làm hoàng hậu, Tử Sở làm thái tử. Sau thời gian khốn khó ở Triệu, Triệu Cơ cùng Chính về Tần. Vua Tần lên ngôi được một năm thì mất, thái tử Tử Sở lên thay, tức là Trang Tương Vương. 
Trang Tương Vương làm vua được ba năm thì mất, thái tử tên là Chính lên ngôi Tần Vương, tức Tần Thủy Hoàng, Triệu Cơ trở thành Thái hậu. Khi Tần Vương còn nhỏ tuổi, thái hậu Triệu Cơ thường lén lút tư thông với Lã Bất Vi. Về sau Tần Thủy Hoàng đã lớn, Lã Bất Vi sợ lộ sẽ mang vạ, bèn ngầm tìm kẻ dương vật lớn là Lao Ái, dùng làm người nhà. Lã Bất Vi sai Lao Ái làm trò vui, lấy dương vật của mình tra vào bánh xe gỗ đồng mà đi. Thái hậu Triệu Cơ nghe thấy muốn được Lao Ái cho riêng mình, Lã Bất Vi bèn cho Lao Ái giả làm hoạn quan rồi đem dâng cho thái hậu. Từ đó Triệu Cơ cùng Lao Ái thông dâm, sinh được hai con. Lao Ái đem hai đứa con đi dấu, định lập mưu đợi Tần Thủy Hoàng chết thì lập con hắn làm vua. 
Năm thứ 9 đời Thủy Hoàng, có kẻ phát giác Lao Ái thực không phải là hoạn quan và thường thông dâm với thái hậu. Tần Thủy Hoàng liền giao cho pháp đình xét, biết rõ sự tình. Tháng 9 năm đó Tần Thủy Hoàng giết cả ba họ nhà Lao Ái. Lại giết hai con do thái hậu đẻ ra và đày thái hậu Triệu Cơ sang đất Ung. Tháng 10 năm thứ 10, sau khi cách chức Lã Bất Vi, Tần Thủy Hoàng mới sang Ung đón thái hậu Triệu Cơ về Hàm Dương. 
Năm thứ 19 đời Thủy Hoàng, thái hậu Triệu Cơ mất, tên thụy là Đế thái hậu, chôn một chỗ với Trang Tương Vương ở Chỉ Dương



Ngu Cơ

Ngu Cơ thường xuyên đi cùng Hạng Vũ ra chiến trận, sát cánh cùng Sở Bá vương trong suốt nhiều năm chinh chiến. Đoạn tiễn biệt giữa hai người trong thành Cai Hạ là một đoạn bi tráng rất nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc được Sử ký của Tư Mã Thiên nhắc tới.

Hạng Vũ và Lưu Bang vốn đã giảng hoà ở Hồng Câu để chia đôi thiên hạ. Nhưng sau đó Lưu Bang bội ước đánh úp Hạng vương khiến Hạng vương phải chạy vào thành Cai Hạ
Hạng vương đóng quân ở trong thành Cai Hạ, binh ít, lương hết. Quân Hán và quân chư hầu bổ vây mấy vòng. Đang đêm, Hạng vương thức dậy nghe quân Hán ở bốn mặt đều hát giọng Sở, Hạng vương kinh hoàng, nói:

Hán đã lấy được Sở rồi sao? Sao mà người Sở lại đông như thế?
Đêm hôm đó Hạng vương uống rượu trong trướng cùng Ngu Cơ. Hạng vương đau đớn cảm khái làm bài thơ, được đời sau gọi là bài "Cai Hạ ca":

Lực bạt sơn hề, khí cái thế,
Thời bất lợi hề, Chuy bất thệ
Truy bất thệ hề khả nại hà,
Ngu hề, Ngu hề nại nhược hà. 

Dịch:

Sức nhổ núi, khí trùm đời,
Ngựa Chuy chùn lại bởi thời không may!
Ngựa sao chùn lại thế này?
Nàng Ngu, biết tính sao đây hỡi nàng? 

Hạng vương ca mấy lần, Ngu Cơ múa kiếm, hát hòa theo, lời ca rằng:

Hán binh dĩ lược địa,
Tứ diện Sở ca thanh.
Trượng phu ý khí tận,
Tiện thiếp hà liêu sinh. 

Dịch:

Quân Hán lấy hết đất,
Khúc Sở vang bốn bề.
Trượng phu chí lớn cạn,
Tiện thiếp sống làm chi.

Rồi Ngu Cơ lấy gươm tự vẫn để "tránh làm vướng bận" Hạng Vũ. Hạng Vương thấy Ngu Cơ chết, khóc chảy nước mắt, tả hữu đều khóc, không ai có thể ngẩng lên nhìn.
Tương truyền nơi máu bà đổ xuống mọc lên một thứ cỏ hễ có rót rượu gần bên thì cỏ múa lả lướt như Ngu Cơ trong tiệc rượu của Hạng Vũ. Người ta gọi cỏ ấy là "Ngu mỹ nhân thảo". Lại có thuyết cho rằng hương hồn bà không tan, hóa thành 2 khóm cỏ trên mộ, ngày đêm cứ quấn quít vào nhau, người ta gọi là Cỏ ngu.


Lã Trĩ –người phụ nữ độc ác nhất

Lã Trĩ là hoàng hậu đầu tiên đời nhà Hán – vợ Hán Cao Tổ Lưu Bang, có thể coi là một nữ chính trị gia rất nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, nhưng cho đến nay mọi người nhắc đến tên bà, điều đầu tiên hiện ra chính là sự độc ác và quyền biến của bà.
Tương truyền rằng, Lưu Bang gặp gỡ và nên duyên vợ chồng với Lã Trĩ khi cuộc sống còn khó khăn, suốt ngày lo chuyện binh đao. Sau khi chiến thắng Hạng Vũ và lập nên triều đại nhà Hán và trở thành Hoàng Đế. Lưu Bang không quên ước hẹn đưa người vợ đồng cam cộng khổ của mình lên làm hoàng hậu. Lên ngôi hoàng hậu khi không còn trẻ trung, nhan sắc lại không nổi trội nên Lã Hậu không còn được sủng ái trong mắt hoàng thượng.
Để bù đắp những ngày chinh chiến gian khổ trước kia, Lưu Bang tuyển hàng loạt cung tần mỹ nữ xinh đẹp vào hậu cung. Nhìn thấy Lưu Bang đem lòng say mê ái phi, cơn ghen của bà hoàng hậu tàn ác nổi lên mở màn cho âm mưu tàn độc lưu truyền vạn kiếp. Để trả thù ái phi được Lưu Bang sủng ái – Thích Phu Nhân, Lã Hậu đã sai người trói bà vào trục đá lớn của cối xay rồi bắt kéo. Để “diệt cỏ tận gốc", Lã Hậu còn sai người đem thuốc độc để bắt Như Ý – con trai Thích Phu Nhân, lúc này đã được phong là Triệu Việt Vương uống.
Tuổi già của Lã Hậu sống trong sự giàu sang phú quý nhưng cô độc và luôn nhận được sự oán hận của người đời vì sự tàn bạo và độc ác của mình.



Lã Tu 


(?- 180 TCN) nàng là con gái của Lã Công, em gái của Hán Cao Tổ Hoàng hậu Lã Trĩ. Sau nàng được phong làm Lâm Quang hầu. 
Chị của nàng, Lã Trĩ khi còn trẻ đã kết hôn với Hán Cao Tổ Lưu Bang, vua đầu tiên của nhà Hán lúc Lưu Bang còn làm Đình trưởng, còn thời trẻ của Lã Tu chưa thấy thư tịch nào đề cập đến. Mãi sang năm 202 TCN khi Lưu Bang làm hoàng đế đã gả nàng cho đại tướng Phàm Khoái và phong Khoái làm Vũ Dương Vũ hầu. Không rõ lúc xuất giá nàng bao nhiêu tuổi nhưng có thể đoán được là chưa tới 40, do chị nàng Lã Trĩ (sinh trước vào năm 240 TCN) khi đó mới 39 tuổi. Nàng sinh cho Phàn Khoái một người con là Phàm Khang.

Tháng 2 năm 195 TCN, Cao Tổ cử Phàm Khoái đem quân đánh kẻ phản loạn là Lư Quán, nhưng do có người gièm pha nên vua lại sai Trần Bình và Chu Bột đến xử tử Phàn Khoái nhưng Trần Bình chỉ cách chức và đem về kinh chứ không giết. Cùng lúc Cao Tổ mất, Huệ Đế (người gọi Lã Tu là bác gái) lên ngôi, quyền hành rơi vào tay Lã Trĩ. Lã Trĩ nể tình Lã Tu nên tha cho Phàn Khoái.

Năm 187 TCN, Huệ Đế mất, Lã Thái hậu lâm triều xưng chế và bắt đầu phong vương cho những người họ Lã để cho họ Lã nắm quyền. Thái hậu cũng phong cho Lã Tu làm Lâm Quang hầu.

Năm 180 TCN, Lã Thái hậu qua đời, Tề Ai vương (cháu nội Cao Tổ) ở phía đông khởi binh đánh họ Lã. Trong khi ở triều đình, Trần Bình và Chu Bột hưởng ứng, sai người nói với Triệu vương Lã Lộc hãy bỏ ấn tướng quốc về nước Triệu thì quân Tề sẽ lui. Lã Tu biết được, trách Lã Lộc:

_ Mày làm tướng mà bỏ quân lính thì họ Lữ này sẽ không biết ở vào đâu!

Rồi đem tất cả châu ngọc, đồ quý báu vãi trong phòng, nói:

_ Ta không còn hơi đâu mà giữ của cho người khác.

Nhưng rốt cục Lã Lộc vẫn trao tướng ấn lại, cuối cùng bị giết chết. Trần Bình và Chu Bột ra sức thanh toán gia tộc họ Lã, bản thân Lã Tu bị đánh tới chết, còn con nàng là Phàm Khang do là cháu ngoại họ Lã nên cũng bị giết. Sau nhà Hán tìm con người thiếp của Phàm Khoái lên làm Vũ Dương hầu.



Bạc Cơ 


Nàng là một phi tần của Hán Cao Tổ Lưu Bang, sinh mẫu của Hán Văn Đế Lưu Hằng. Trước Lưu Bang, nàng là một thiếp thất của Ngụy vương Báo.
Cha của Bạc thị là người đất Ngô huyện, quận Cối Kê, mẹ là Ngụy Ổn. Khi Trần Thắng khởi nghĩa chống nhà Tần, các chư hầu tự lập để hưởng ứng, trong đó có nước Ngụy. Bạc thị được mẹ đưa vào cung hầu hạ Ngụy Báo, từ đó được gọi là Bạc Cơ. Trong số thê thiếp của Ngụy Báo, Bạc Cơ xinh đẹp nhất nên nhanh chóng trở thành ái thiếp của ông.
Sau, Ngụy Báo chết, Bạc cơ được Hán vương Lưu Bang đưa về hậu cung, lập làm Phu nhân, hết mực sủng ái. Về sau khi Hán vương xưng Hoàng đế, tức Hán Cao Tổ, Bạc cơ ở lại Tràng An cùng Hán Cao Tổ.
Bạc Cơ nhập hậu cung, không lâu sau sinh ra người con trai tên Lưu Hằng. Tính tình nàng hiền lành yên phận, chuyên tâm chăm sóc con nên ít bị Lã hậu - hoàng hậu của Hán Cao Tổ đố kị. Khi Lưu Hằng được 8 tuổi, Hán Cao Tổ phong làm Đại vương (Vương nước Đại)
Năm 195 TCN, Hán Cao Tổ qua đời, anh khác mẹ của Lưu Hằng là thái tử Lưu Doanh lên ngôi, tức là Hán Huệ Đế. Quyền hành nằm trong tay Lã thái hậu. Khi Cao Tổ hoàng đế còn sống, ông đặc biệt sủng ái Thích phu nhân nên Lã thái hậu căm hận mẹ con Thích phu nhân và Triệu vương Lưu Như Ý. Bạc cơ vì muốn né tránh những mâu thuẫn nên cầu xin Lã thái hậu cho đi nước Đại với con, vốn là đất phong của Lưu hằng. Lã thái hậu thấy Bạc cơ chưa từng làm mất lòng mình nên bằng lòng cho Bạc cơ đi. Lúc này nước Đại còn rất hoang sơ, nhưng Lưu Hằng vẫn trị vì tốt, còn Bạc Cơ thành Đại thái hậu (Thái hậu nước Đại).
Năm 194 TCN, Thích phu nhân bị Lã thái hậu ra lệnh giết rất tàn bạo. Sau đó Lã thái hậu còn bức hại nhiều hoàng tử con của Cao Tổ như Lưu Như Ý, Lưu Hiển, Lưu Khôi. Sắp đặt người trong họ Lã, phong Vương cho họ. Việc làm của Lã thái hậu được xem là chuyên quyền, nhưng không ai dám phản đối.
Tháng 8, năm 180 TCN, Lã thái hậu qua đời. Trong số những người con còn sống của Hán Cao Tổ thì Lưu Hằng lớn tuổi nhất nên các đại thần tìm cách đến nước Đại để mời Lưu Hằng về Tràng An. Sau khi bẩm báo Bạc thái hậu, Lưu Hằng nhận lời trở về cùng mẹ.
Năm đó, Lưu Hằng lên ngôi hoàng đế, tức Hán Văn Đế, Bạc cơ được tôn làm Hoàng thái hậu. Phong anh trai của Thái hậu là Bạc Chiêu làm Chỉ hầu, truy tôn phụ thân của Thái hậu làm Linh Văn hầu, mẹ Ngụy Ổn làm Linh Văn phu nhân. Bạc thái hậu tìm cách gả người con gái trong gia tộc của mình cho con trai của Hán Văn Đế là Thái tử Lưu Khải, phong làm Thái tử phi.
Năm 157 TCN, Thái tử Lưu Khải lên ngôi, sử gọi Hán Cảnh Đế, mẫu thân Đậu Hoàng hậu được tôn làm Hoàng thái hậu, tổ mẫu Bạc thị được tôn thành Thái hoàng thái hậu, cháu gái nàng là Bạc thị được phong Hoàng hậu, tức Bạc Hoàng hậu.
Năm 155 TCN, Bạc Thái hoàng thái hậu qua đời, không rõ bao nhiêu tuổi. Đương thời Bạc cơ không được táng cùng lăng mộ với Hán Cao Tổ và Lã hậu là Trường Lăng mà chỉ táng ở phía Nam Bá Lăng, lăng mộ của con trai nàng là Hán Văn Đế. Gọi là Nam lăng, hay còn gọi là Bạc lăng.
Năm 156 TCN, Hán Cảnh Đế gặp và sủng ái Vương Chí, lập làm Mỹ nhân, rất sủng ái cô ta. Bạc hoàng hậu không sinh được con, lại không còn chỗ dựa từ Bạc thái hậu nên bị phế năm 151 TCN và qua đời năm 147 TCN. Sau đó, Vương Chí sắc phong thành Hoàng hậu.

Năm 56, vào đời cháu của Hán Văn Đế Lưu Hằng là Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú, Bạc phu nhân được tôn làm Cao hoàng hậu, được hợp táng cùng Hán Cao Tổ, còn Lã hậu thì phần mộ bị dời ra khỏi Trường lăng.



Thích Phu Nhân(? - 194 TCN)


Vương phi của Hán Cao Tổ 
Thích phu nhân cũng gọi là Thích Cơ, người Định Đào ( nay là Tây Bắc huyện Định Đào tỉnh Sơn Đông) thời cuối Tần đầu Hán, là sủng cơ của Hán Cao Tổ. 
Thích phu nhân sinh con là Như Ý được phong là Triệu Vương, không những tính cách giống hệt Luu Bang, mà tài cán trội hơn hẳn thái tủ Lưu Doanh là con của Lữ hậu. Luu Bang muốn phế Lưu Doanh, lập Lưu Như Ý làm thái tử. Lữ hậu dùng kế của Trương Lương, cho thái tủ Thường Sơn tứ hạo ( 4 ông già ở Thường Sơn) làm thầy. Một hôm, Luu Bang đến Thích phu nhân, tự mình hát bài “ hồng hạc ca”, đại ý lời ca rằng: “ hồng hạc bay cao bay xa ngàn dặm, lông cánh đã thành, ngang dọc bốn biển, không biết làm sao, dù có cung tên, dùng được đâu nào!”. Thích phu nhân theo lời ca múa theo lối Sở, khóc thút thít, nước mắt thấm ướt khăn. Luu Bang không biết làm sao, bỏ uống rượu ra đi. 
Sau khi Luu Bang chết, con của Lữ hậu lập lên làm đế là Huệ đế, Lưu Doanh không có tài năng gì, Lữ hậu nắm thực quyền. Việc phế lập thái tử là ý của Luu Bang, Lữ hậu quy tội cho Thích phu nhân, cầm tù Thích thị, bắt giã gạo ở Vĩnh Hạng. Thích phu nhân vừa giã gạo vừa hát “ chung nhật bạc mộ” lời ca rằng:” con làm vua, mẹ tù tội, từ sáng đến tối, chỉ có chết mà thôi! Cách nhau ba nghìn dặm, biết khiến ai nói tới!”. Lữ hậu bi ế t được cho là Thích phu nhân muốn nhờ con Triệu Vương để phát biểu sự bất mãn đến với mình. Lữ hậu cho đánh thuốc độc giết chết , lại chặt chân tay của Thích phu nhân, móc mắt, chọc thủng tai,bắt uống thuốc cho câm, làm thành một người mắt đui, tai đíêc, miệng câm, nhốt trong nhà xí, gọi là “ lợn người” 
Năm 194 trước công nguyên ( năm đầu của Hán Huệ đế), Thích phu nhân bị Lữ hậu đày đoạ đến chết. Thi nhân đời Minh là Chu Hạng Linh có bài viết “ Thích cơ”: “ Sở vũ bi ca lệ mãn cân,Nga Hủ nhi chủ thiết toan tân, khả liên tam xích di Tần, Hạng, thân hậu nan tồn nhất phụ nhân” ( Múa Sở buồn ca lệ đãm khăn, chủ trương Nga hủ chịu khổ đau, tuốc gươm tiêu diệt xong Tần, Hạng, nhắm mắt không còn một phụ nhân) 
Ý nói Luu Bang từ áo vải cầm ba thước gươm lật đổ nhà Tần, đánh bại Hạng Vũ, lại không che chở được cho người sủng cơ của mình. Trong thư chê Luu Bang đương thời không dám quyết tâm làm việc phế lập, đối với sự tao ngộ với Thích phu nhân, kí thác sự đồng tình rất lớn.




Công chúa Lỗ Nguyên (?- 187 TCN) 

Nàng là con gái trưởng của Hán Cao Tổ Lưu Bang và hoàng hậu Lã Trĩ. Không rõ nàng sinh năm nào và tên thật là gì. Theo sử sách ghi lại, nàng là con gái lớn của Lã Trĩ và là chị của Lưu Doanh.
Theo các nhà sử gia, Trung Quốc phong kiến có cách gọi “hoàng đế” đầu tiên từ khi Tần Thủy Hoàng lên ngôi, nhưng vẫn chưa có cách gọi “công chúa”, mà vị công chúa đầu tiên chính là Lỗ Nguyên đời Hán. Tính từ Lỗ Nguyên đến vị công chúa cuối cùng là Vinh Thọ Cố Luân đời Thanh, Trung Quốc có tất thảy 887 công chúa.
Năm 205 TCN, diễn ra trận Bành Thành. Quân Hán bị Sở vương Hạng Vũ đánh tan tành. Lưu Bang thua to, bỏ chạy, gia quyến bị thất lạc. Trên đường tìm cha, Lưu Bang gặp chị em Lưu Doanh.
Thủ hạ thân tín là Hạ Hầu Anh đưa chị em Lưu Doanh lên xe ngồi cùng Lưu Bang. Quân Sở đuổi gấp phía sau. Lưu Bang sợ nhiều người ngồi thì xe nặng sẽ đi chậm không thoát được, nên đẩy cả hai con xuống. Hạ Hầu Anh đang đánh xe, vội nhảy xuống dắt hai chị em lên xe đi tiếp.
Đi được một đoạn, Lưu Bang lại sợ bị quân Sở bắt, cuống cuồng đẩy con xuống lần nữa. Theo Sử ký, việc đó lặp lại 3 lần. Hạ Hầu Anh nhẫn nại cả 3 lần dừng ngựa, xuống kéo hai chị em lên xe, và van xin Lưu Bang không bỏ con, Lưu Bang mới thôi việc đó. Cuối cùng cha con Lưu Bang cũng thoát được sự truy đuổi của quân Sở.
Công chúa được gả cho Triệu Vương Trương Ngao sinh được con gái là Trương Yên. Trương Yên sau được gả cho cậu mình là Hán Huệ Đế Lưu Doanh làm hoàng hậu, theo ý muốn của thái hậu Lã Trĩ.

Năm 198 TCN, Trương Ngao bị truất ngôi Triệu vương, giáng làm Tuyên Bình hầu.

Nàng mất năm 187 TCN, sau em trai Huệ Đế 1 năm, không rõ bao nhiêu tuổi. Cả hai chị em nàng đều không giống người mẹ họ Lã đảm đương mọi việc trong triều - cứng rắn, vô tình. Ba năm sau (184 TCN) Tuyên Bình hầu Trương Ngao chồng nàng mất, người con là Trương Yển được phong làm Lỗ vương, sau được tặng tên thụy là Lỗ Nguyên vương. Chính vì lẽ đó, nàng được gọi theo thuỵ hiệu là công chúa Lỗ Nguyên.

Trong "Sử ký chính nghĩa" có đề cập đến mộ của công chúa Lỗ Nguyên hiện an táng tại phía tây bắc huyện Hàm Dương.

Theo sử sách ghi lại, nàng là con gái đầu của Lã Trĩ - người được xác định sinh năm 241 TCN; Hán Huệ Đế em nàng được xác định sinh khoảng năm 210 TCN. Con gái nàng là Trương Yên gả làm vợ của Huệ Đế, như vậy nàng hơn Huệ Đế khá nhiều tuổi.

Trương Ngao chồng nàng cùng cha là Trương Nhĩ theo nhà Hán từ năm 206 TCN, có thể xác định nàng lấy Trương Ngao từ thời điểm này, khi chưa tới 20 tuổi; Trương Yên được gả cho cậu Lưu Doanh (16 tuổi) khi mới khoảng hơn 10 tuổi.



Trương Yên 

Nàng là con gái của Triệu vương Trương Ngao và công chúa Lỗ Nguyên, tức là cháu ngoại của Hán Cao Tổ và Lã hậu. Xét về quan hệ huyết thống, Trương Yên chính là cháu gọi Hán Huệ Đế là cậu ruột. Tính từ khi ông nội bà là Trương Nhĩ bỏ Hạng Vũ về theo Lưu Bang và kết làm thông gia với Lưu Bang năm 205 TCN, lúc đó Trương Yên chỉ khoảng hơn 10 tuổi. Theo dã sử, bà có tên tự là Vu Anh, và tiểu tựlà Thục Quân. 
Chuyện kể năm 194 TCN, Hán Cao Tổ Lưu Bang - cha của Lưu Doanh qua đời. Ở tuổi 16, Lưu Doanh đã được đưa lên ngôi hoàng đế. Tuy nhiên, Lưu Doanh chẳng khác gì một ông vua bù nhìn bởi mọi quyền thế và việc điều hành triều đình đều nằm trong tay mẹ ông là hoàng hậu Lã Trĩ.
Với mục đích giám sát và khống chế cậu con trai đang ngày một khôn lớn, Thái hậu Lã Trĩ đã lên kế hoạch tìm kiếm một ứng cử viên thích hợp cho ngôi vị hoàng hậu. Sau một quá trình thăm dò khắp nơi, cuối cùng Lã Trĩ đã quyết định chọn Trương Yên để lấy làm vợ cho con trai mình. Điều trớ trêu Trương Yên lúc ấy mới 10 tuổi, chính là cháu gọi Lưu Doanh bằng cậu.
Bất chấp quan hệ huyết thống, Lã Trĩ đã nhắm đến dung nhan xinh đẹp của Trương Yên. Hơn thế nữa, dù còn ít tuổi nhưng Trương Yên đã được mẹ mình là Lỗ Nguyên công chúa dạy dỗ rất chu đáo, biết lễ nghĩa. Bởi thế, nàng cũng được lòng Lã Trĩ. Bản thân Lưu Doanh rất quý mến cô cháu gái của mình. Tuy nhiên hoàng đế không hề đồng tình với quyết định của mẹ. Ông khó có thể chấp nhận việc lấy chính cháu gái về làm vợ. Sự lựa chọn của Lã Trĩ tiếp tục vấp phải sự phản đối của bố mẹ Trương Yên là Lỗ Nguyên Công chúa và Trương Ngao. 
Tuy nhiên, bất chấp tất cả, Lã Trĩ vẫn gây sức ép đối với tất cả những người liên quan dưới quyền mình để cuộc hôn nhân được diễn ra đúng như ý bà sắp đặt. Và chính cuộc hôn nhân oái oăm này đã đẩy cuộc đời nàng chìm trong khổ đau và cô độc từ khi lên ngôi hoàng hậu cho đến phút lìa đời. Vào khoảng năm 192 TCN, đám cưới của Hán Huệ Đế Lưu Doanh và Trương Yên diễn ra linh đình trong thành Trường An. Cũng từ đây, cuộc đời của Lưu Doanh như bước sang một trang mới. Một phần vì bất mãn với cuộc hôn nhân ép buộc của mẹ, phần khác vì quá ghê rợn trước đòn ghen tàn độc của Thái hậu Lã Trĩ đối với sủng phi của cha mình là Thích phu nhân, Lưu Doanh đâm chán nản, xa rời việc triều chính. Từ một người có chí hướng, Hán Huệ Đế chìm đắm trong tửu sắc, ngày đêm uống rượu, chơi bời,phó mặc mọi việc lớn nhỏ cho Thái hậu quyết định.
Ngay từ đầu khi bước vào cuộc hôn nhân không có sự đồng thuận của đôi bên, cuộc đời của hoàng hậu Trương Yên đã chẳng khác nào bắt đầu một trang bi kịch. Thêm vào đó, khi người chồng càng ngày càng tỏ ra bất lực, chán nản và sa đà vào tửu sắc, bỏ bê mình thì người phụ nữ này lại càng phải chịu thêm cảnh cô đơn, tủi nhục. 
Hai năm sau khi kết hôn, Trương Yên bước vào tuổi 14 xinh đẹp và ra dáng một thiếu nữ thực sự. Lúc này, Thái hậu Lã Trĩ mới để ý đến cuộc hôn nhân của con trai mình. Bà bèn sai người giám sát hai vợ chồng Trương Yên, ép hoàng đế phải ngủ chung giường với hoàng hậu để sớm có hoàng tử kế tục cho triều đại nhà Tây Hán,âm mưu sâu xa là để thâu tóm quyền lực trong tay mình.
Tuy nhiên, vì đã quá oán hận và ghê sợ trước những việc làm của Thái hậu nên dù bịép buộc, Lưu Doanh vẫn nhất quyết không ngủ cùng Trương Yên. Vậy là sau vài năm kết hôn, Trương Yên vẫn chẳng khác nào gái chưa chồng. 
Mục đích có cháu nối dõi vẫn chưa thành hiện thực, trong khi Hán Huệ Đế mải ăn chơi nên cơ thể ngày một tàn tạ. Quá lo lắng, Thái hậu tiếp tục gây sức ép đến vợ chồng Trương Yên. Bà gọi cả hoàng đế và hoàng hậu lên ra lệnh: nếu hoàng hậu không có con thì bà sẽ ra tay giết hết những phi tần mà hoàng đế sủng hạnh. 
Nhưng không vì thế mà ý nguyện của Thái hậu sớm được thực hiện. Hán Huệ Đế tiếp tục say sưa bên các cung tần mỹ nữ, đồng nghĩa với đó là hoàng hậu Trương Yên tiếp tục bị ghẻ lạnh. Cuộc hôn nhân của hoàng hậu cứ thế trôi qua trong buồn tủi, cô đơn đến cùng cực. 
Một thời gian sau, một phi tần của Hán Huệ Đế mang thai. Lợi dụng vụ việc này, Thái hậu Lã Trĩ truyền tin rằng Trương Yên đã mang thai rồi sinh con, bà bí mật ra lệnh giết chết người phi tần kia để chôn giấu sự thật. Trước những âm mưu cuồng bạo của Thái hậu, cả Hán Huệ Đế và Trương Yên đành để mặc cho bà sắp đặt mọi việc. 
Như vậy, suốt một thời gian dài kể từ khi bước chân lên ngôi hoàng hậu, dù sống giữa chốn hậu cung nhung lụa nhưng người con gái xinh đẹp Trương Yên đã phải trải qua cuộc sống tăm tối của sự cô đơn, không ai yêu thương, không người chăm sóc. Đến người để nàng sẻ chia, tâm sự cũng chẳng có lấy một ai. 

Biết chuyện của con gái, mẹ nàng đau như đứt từng khúc ruột. Mẹ nàng thường xoa đầu con mà xót xa thốt lên rằng: 

_ Con xinh đẹp như vậy mà sao cả đời vẫn là trinh nữ? 

Để an ủi con, mẹ Trương Yên còn nói nàng chính là tiên trên trời giáng xuống trần gian nên ông trời mới để nàng không vướng bụi trần. Cứ thế, nhiều lần vào thăm con, hai mẹ con Trương Yên lại ôm nhau khóc nức nở. 

Cuộc hôn nhân của Trương Yên kéo dài đến năm 188 TCN, vì sức khỏe sa sút, Lưu Doanh đã qua đời. Lúc đó, Trương Yên mới 14 tuổi nhưng vì có con trai là thái tử nên nàng đã được phong làm thái hậu. Nàng trở thành một trong những vị Hoàng thái hậu trẻ nhất của nhà Hán. Chức tước như vậy nhưng nàng không hề có thực quyền gì vì bị bà ngoại của mình thao túng. 

Hán Tiền Thiếu đế lớn lên, nghe nói mẹ mình bị Lã thái hậu giết, còn mình không phải là con của hoàng hậu Trương Yên, bèn nói ra miệng ý định trả thù. Vì vậy Lã thái hậu bèn giết Thiếu Đế, lập một người con khác của Huệ đế là Thường Sơn vương Lưu Nghĩa làm vua (Hán Hậu Thiếu đế), tiếp tục cầm quyền chính. Năm 180 TCN, Lữ thái hậu qua đời. Các đại thần Trần Bình, Chu Bột làm chính biến lật đổ họ Lã, khôi phục lại ngôi vua cho họ Lưu, lập con thứ của Lưu Bang là Lưu Hằng làm vua, tức là Hán Văn Đế. Trương Yên bị dời sang Bắc cung.

Năm 163 TCN, Trương Yên qua đời lúc khoảng 40 tuổi.


Người ta kể, khi tắm rửa, thay quần áo cho Trương Yên, các cung nữ mới phát hiện ra nàng vẫn còn là một trinh nữ. Thông tin này nhanh chóng lan ra ngoài khiến thiên hạ không ai không thương xót. Nhiều nơi đã lập miếu thờ tôn vinh người phụ nữ sống cả cuộc đời bất hạnh bên người chồng ghẻ lạnh, để rồi khi lìa đời vẫn là một thiếu nữ trinh nguyên.



Đậu Y Phòng - Hiếu Văn Đậu hoàng hậu (205 TCN -135 TCN)

Đậu Y Phòng người Quan Tân, Thanh Hà, nước Triệu, xuất thân bình dân, thấp hèn. Cha mẹ nàng mất sớm, nàng và anh, em trai ba người nương tựa vào nhau, cuộc sống vô cùng nghèo khổ, vất vả. Bù lại nàng vô cùng xinh đẹp. Năm Đậu Thị mười mấy tuổi đã trở thành một thiếu nữ yểu điệu thướt tha, nhan sắc kiều diễm. Nàng được tuyển và đưa đến hoàng cung Trường An làm cung nữ. Nghe tin nàng tiến cung, ba anh em ôm nhau khóc nức nở. Nàng không muốn tiến cung vì thương đứa em trai mới được 4, 5 tuổi. Nhưng lệnh vua không thể cưỡng. Trước khi đi, nàng đứng ở trạm dịch xin được một ấm nước nóng và một bát cơm nguội. Nàng gội đầu cho em lần cuối và nhìn nó ăn hết bát cơm rồi bịn rịn, nước mắt lưng tròng lên xe rời xa. 
Khi vào cung do hiền lành, đoan trang nên đã nhanh chóng trở thành một tiểu thị nữ được Lã Trĩ rất yêu mến và tin tưởng. Không lâu sau, Lưu Bang ốm chết. Thái hậu Lã Trĩ thao túng triều chính, chia đất cho các con cái của thê thiếp Lưu Bang được phong Vương, đồng thời ban cho mỗi người 5 cung nữ. Ngoài thái tử Lưu Doanh con thái hậu Lã Trĩ, Lưu Bang còn có 7 người con trai. Đậu Thị cũng nằm trong danh sách cung nữ ban thưởng cho các vương hầu. Nàng nghe thấy Lưu Như Ý được phong là Triệu Vương, nên nàng muốn theo Triệu vương rời xa kinh thành và cũng có thể sẽ được gần quê hương hơn, như vậy sẽ tiện nghe ngóng và hỏi thăm tin tức về người thân hơn. Nàng đã dùng hết số tiền ít ỏi mà nàng dành dụm được từ hồi vào cung đưa cho viên thái giám phụ trách việc ban thưởng cung nữ, cầu xin ông ta khai ân cho mình được đi theo Triệu Vương. Không ngờ tên thái giám đó vẫn nhận tiền mà không giúp nàng, hoặc cũng có thể do số tiền của nàng quá ít nên hắn không thèm đếm xỉa, nên đến khi sắp xếp danh sách hắn cứ theo lệ mà làm, không ngờ viết tên nàng vào danh sách theo Lưu Hằng đến Đại quốc.
Nhưng nàng không ngờ đấy chính là chuyến đi thay đổi vận mệnh cả đời mình. Sau khi đến nước Đại, nàng được Đại vương Lưu Hằng sủng ái và phong là Thân Vương phi sau đó nàng sinh được ba người con. Công chúa đầu là Lưu Phiêu, hoàng tử thứ hai là Lưu Khải (sau này là Cảnh đế) và hoàng tử út là Lưu Vũ. Tuy đã được hưởng giàu sang phú quý tột cùng nhưng nàng vẫn không quên bản tính hiền dịu, đoan trang và sống rất tiết kiệm. Nàng luôn tỏ ra tôn kính với vương hậu Vương thị và mẹ chồng là Bạc thái hậu. Khi làm việc gì cũng luôn luôn giữ trọn lễ nghĩa. Đại vương Lưu Hằng, Bạc thái hậu và vương hậu vô cùng quý mến và thương yêu nàng. Mấy năm sau, vương hậu ốm và qua đời, việc kế lập vương hậu trở thành nhiệm vụ cấp bách. Lúc này nếu nhìn trong cung chỉ có nàng là có con trai, lại đủ đức hạnh. Thế là nàng Đậu Cơ được sắc phong Vương Hậu, bắt đầu cai quản mọi việc trong cung.
Đúng lúc đó một chuyện kinh thiên động địa đã xảy ra tại kinh thành Trường An. Một cuộc mưu sát chính trị đã xảy ra, gia tộc Lã Thị bị giết hết. Con cháu của hoàng đế Lưu Doanh và tiểu hoàng đế Lưu Hoằng cũng bị giết. Hoàng vị của Đại Hán Vương triều đang bỏ trống, thừa tướng Chu Bình, thái úy Chu Bột và các đại thần sau khi bàn bạc đã chọn Đại vương Lưu Hằng làm người kế vị. Năm 180 trước công nguyên, Lưu Hằng chính thức kế vị và trở thành Hán Hiếu Văn hoàng đế. Tháng 10 nguyên niên Hiếu Văn đế, Lưu Hằng cùng toàn bộ hoàng gia Đại quốc chuyển đến kinh thành Trường An, sau 16 năm xa cách, nàng Đậu Cơ đã lại trở về chốn cũ. Lưu Hằng đăng cơ lập tức lo việc triều chính. Nhưng không may đang lúc triều chính còn rối ren thì 4 hoàng tử do vương hậu sinh ra đã đổ bệnh lần lượt qua đời. Hoàng đế Lưu Hằng đau đớn đã than trời rằng có lẽ số mình không có phúc phận làm hoàng đế nên đã liên lụy đến vợ con, nên ông còn có ý định lập anh em chú bác làm thái tử nhằm kế vị ngai vàng. Không biết được chính xác ý định của Lưu Hằng thế nào nhưng cũng khiến cho đám đại thần ngày đêm lo sợ. Đám đại thần đã rất nhiều lần can gián với Văn đế về việc phải lập con làm thái tử. Cuối cùng Lưu Hoằng cũng đồng ý và sắc lập con trưởng Lưu Khải của Đậu Cơ làm thái tử.
Ba tháng sau đám đại thần lại một lần nữa dâng sớ lên Văn đế xin lập Hoàng hâu. Bạc thái hậu đã nói với Lưu Hằng rằng: "Cho dù con trai con hôm nay là thái tử hay là hầu vương thì cũng đều do Đậu Cơ sinh ra, đương nhiên phải lập nàng ấy là hoàng hậu”. Đúng là vận may nối tiếp vận may, ngay đến Đậu Cơ cũng không dám tin, không ngờ nàng đã trở thành vợ của đế vương đầu tiên của Hán Đế Quốc, cũng là hoàng hậu thứ tư của Đại Hán Vương triều. Để chúc mừng việc này và muốn cho bách gia trăm họ cùng được chung vui, Văn đế Lưu Hằng đã hạ chỉ, ban thưởng cho kẻ neo đơn, người nghèo khổ .Lê dân trăm họ vô cùng cảm kích trước tấm lòng của vị tân hoàng hậu. 

Cùng với niềm hạnh phúc tột cùng luôn là nỗi nhớ đau đáu về người anh và người em trai đã thất lạc rất lâu của mình. Nhưng do Bạc Thái hậu đang bận tế lễ tổ tiên Bạc thị nên nàng cũng không dám xin với hoàng thượng để tế lễ vong linh cha mẹ đã khuất và tìm hai người thân thất lạc. Sau này, vì dân chúng yêu mến nàng nên thân thế và gia cảnh của nàng đã nhanh chóng được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian, cuối cùng đã truyền đến tai một nô bộc tên là Đậu Quảng Quốc. Ở Tràng An khi biết tin về Đậu hoàng hậu linh cảm mách bảo đó chính là người chị đã không gặp gần 20 năm. Anh ta bèn bạo gan dâng thư nói mình chính là người em trai thất lạc đã lâu của Đậu Hoàng hậu. Quan lại sau khi nhận được thư không dám chậm chễ vội vàng bẩm báo với hoàng gia. Đậu hoàng hậu hay tin vừa kinh ngạc vừa vui mừng, vội vàng cùng Văn đế cho triệu kiến Đậu Quảng Quốc. Do dung nhan của Đậu hoàng hậu không thay đổi nhiều nên khi vừa gặp mặt, Đậu Quảng Quốc liền nhận ngày ra chị, nhưng do khi nàng đi em trai còn quá nhỏ nên nàng không nhận ra. Nhưng khi vừa nghe em trai kể lại chuyện li biệt năm xưa, nghe đến bát cơm nguội và chuyện gội đầu cho em lần cuối ở trạm dịch thì Đậu hoàng hậu không kiềm chế được bật khóc nức nở. Nàng không còn để ý đên danh phận mà ôm chặt em trai vào lòng, hai chị em nước mắt như mưa . Văn đế đã mở tiệc chúc mừng đã ban thưởng ruộng đất, nhà cửa cùng nhiều tiền bạc cho anh em Đậu Thị và cho họ sống gần Trường An. Bạc Thái Hậu cũng rất thương cảm với con dâu nên cũng lập chiếu thư truy phong cho cha nàng là An Thành Hầu, mẹ là An Thành phu nhân và xây mộ viên tại Thanh Hà, phong ấp 200 hộ, quan lại địa phương chịu trách nhiệm tế bái 4 đời như quy mô của từ đường Bạc thị. Sau bao nhiêu năm sóng gió thăng trầm, giờ đây nàng đã có thể tế bái vong linh cha mẹ và được hưởng cuộc sống hạnh phúc.


Lý Phu Nhân 

( không rõ năm sinh và chết) 
Phi tữ của Hán Vũ Đế 

Lý phu nhân, người ở Trung Sơn ( nay là huyện Định tỉnh Hà Bắc), giỏi ca muá. Bà là phi tử Hán Vũ Đế Lưu Triệt. 
Lý phu nhân gặp Hán Vũ Đế, câu chuyện như sau: 
Bà Vệ hoàng hậu được Vũ Đế sủng ái, tuổi già sắc đẹp suy giảm, nhà vua muốn chọn một người đẹp sung vào cung. Anh của Lý phu nhân là Lí Diên Niên, một người giỏi âm nhạc nổi tiếng đời Hán. Có một bận, Lí Diên Niên được triệu vào cung biểu diễn âm nhạc, biết 
Hán Vũ Đế đang tìm nguồn vui mới, bèn biễu diễn tiết mục “ bắc quốc giai nhân”. Khi âm nhạc trỗi lên du dương, Lí Diên Niên hát rằng: 
“ Bắc phương hữu giai nhân, tuyệt thế nhi độc lập, nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc. Ninh bất tri khuynh thành dữ khuynh quốc, giai nhân nan tái đắc” 
Dịch là: 

“ Phương Bắc có người đẹp, đẹp tuyệt thế mà còn đơn chiếc, quay nhìn một lần làm nghiêng thành, quay nhìn lần hai thì nghiêng nước. Thà là không biết cái đẹp khuynh thành khuynh quốc, người đẹp khó gặp đến hai lần”. Sau đó từ “khuynh thành khuynh quốc” trở thành điển cố để hình dung người đẹp. 


Hán Vũ Đế xem tiết mục ấy, và bị thu hút, mới hỏi Lí Diên Niên: “ Người đẹp mà ngươi hát đó, trên đời này thật có người con gái đẹp như vậy sao?”. Chị của Hán Vũ Đế là Bình Dương công chúa nói: “Lí Diên Niên có người em gái, là một người đẹp khuynh thành khuynh quốc như thế”. Lí Diên Niên qua biểu diễn ca muá, đã khéo léo đem em gái mình tiến cử vào cung. Lý phu nhân không những đẹp gái mà còn giỏi ca múa, sau khi vào cung được sủng ái hơn cả mọi người, sau sinh ra hoàng tử Lưu Bạc, Lý phu nhân sinh bệnh, qua vài năm rồi từ trần. 
Hán Vũ Đế rất đau lòng trước cái chết của Lý phu nhân, ra lệnh các hoạ sư vẽ di tượng Lý phu nhân treo ở cung Cam Tuyền. Phương sĩ Lý Thiếu Ông, biết Hán Vũ Đế ngày đêm thương nhớ Lý phu nhân đã quá cố, bèn nói là ông ta có thể thỉnh Lý phu nhân về để gặp gỡ đức vua. Hán Vũ Đế vui mừng, vời Lý Thiếu Ông vào cung làm pháp thuật. 
Lý Thiếu Ông dùng y phục Lý phu nhân của lúc còn sống, chuẩn bị tịnh thất, giữa treo một tấm màn bằng lụa mỏng, bên trong màn thắp đèn sáp. Quả nhiên qua ánh sáng của đèn, bóng của Lý phu nhân hiện ra trên màn lụa mỏng, chỉ thấy Lý phu nhân nghiêng mình chậm rãi đi qua, một lúc lâu rồi mất. Trên thực tế, Lý Thiếu Ông biễu diễn trò chơi “đăng ảnh”. Hán Vũ Đế xem thấy bóng Lý phu nhân, càng tương tư bi cảm hơn, viết một bài thơ. 
“ Thị da, phi da lập nhi vọng chi, thiên hà san san kỳ lai trì” 
Nghĩa là : 
“ Là nàng hay không phải nàng ? Đứng đây mà đợi mà chờ, cớ sao cố ý đến muộn màng vậy ? ‘ Hán thư truyện. Rồi ông ta ra lệnh cho nhạc sư của Nhạc phủ trong cung phổ thành bài hát. Nhà vua còn viết bài « Thương điếu Lý phu nhân phú », nói lên tình yêu đối với Lý phu nhân.Lý Thiếu Ông biểu diễn đăng ảnh hí, làm tái hiện hình tượng Lý phu nhân trên màn lụa mà được phong là Văn Thành tướng quân.


Vương Chí (? – 126 TCN)

Hòang hậu của Hán Cảnh Đế 
Vương Chí người Hòe Lí ( nay là đông nam huyện Hưng Bình tỉnh Thiểm Tây), cha là Vương Trọng, mẹ là Tang Nhi. Bà là hòang hậu của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. 


Trước khi nhập cung, vương thị là vợ của Kim vương Tôn và sinh được một gái, sau li hôn với Kim Vương Tôn, vào cung hầu hạ hòang thái tử Lưu Khải. Khi Lưu Khải lên ngôi là Cảnh đế, phong Vương Chí làm mỹ nhân), năm 156 trước công nguyên ( năm Hán Cảnh Đế nguyên niên) sinh hòang tử Lưu Triệt (Hán Vũ Đế). Mẹ được quý do con, nên sau địa vị của bà được rạng rỡ. 
Lưu Khải lúc đầu lập Bạc thị làm hòang hậu, Bạc thị không có con, Lật cơ được Cảnh đế sủng ái, sinh được 3 trai, trưởng tử là Lưu Vinh được lập làm thái tử. Lưu Khải còn tính phế Bạc thị lập Lật cơ làm hòang hậu. Chị của Cảnh đế Lưu Phiêu sinh một gái là A Kiều, muốn lập A Kiều làm vợ thái tử để sau này lên ngôi hòang hậu. Lật cơ không thích A Kiều, Lưu Phiêu từ đó kết óan với Lật cơ. Vương Chí biết việc này, bèn làm thân với Lưu Phiêu, tỏ ý muốn cưới A Kiều làm vợ Lưu Triệt, Lưu Phiêu gả A Kiều cho Lưu Triệt rồi dùng kế xin Cảnh đế phế lập thái tử. Lưu Phiêu ở trưức mặt Cảnh đế nói Lật cơ bụng dạ hẹp hòi, là kẻ độc ác, nếu lập làm hòang hậu, tương lai Vương mỹ nhân là người vua yêu sẽ thành lợn người thứ hai. Cảnh đế nghe xong cả kinh, bèn phế thái tử Lưu Vinh biếm làm Lâm Giang Vương, Lật cơ tức giận sinh bệnh mà chết 
Năm 149 trước công nguyên (Hán Cảnh Đế trung nguyên niên), Cảnh đế lập Vương mỹ nhân làm hòang hậu, Lưu Triệt làm thái tử. 
Năm 141 trước công nguyên (Hán Cảnh Đế hậu nguyên niên năm thứ ba) Cảnh Đế chết, Lưu Triệt được lập lên ngôi là Vũ Đế, tôn mẹ là Vương thị làm hòang thái hậu. Em của thái hậu là Điền Phần ( Tang Nhi mẹ thái hậu sau cải giá làm dâu nhà họ Điền) làm quan đến tể tướngVương thái hậu rất kiên dè việc mình từng là vợ Vương Tôn, sau Vũ Đế biết, đích thân đi tìm người con gái của Vương thị với Kim Vương Tôn, làm cô này lo sợ phải chạy trốn, Vũ Đế phải tốn nhiều công phu mới tìm được, không những không bắt tội mà lại nhận làm hòang tỷ đưa về cung trường lạc, phong là Tu thành quân. Mẹ con Vương thị đòan tụ, vui sướng đến nỗi không cầm được nước mắt. 
Năm 126 trước công nguyên (năm thứ ba Hán Vũ Đế nguyên sóc), Vương thái hậu chết, hiệp táng ở Dương lăng với Hán Cảnh Đế.



Trần A Kiều (không rõ năm sinh và chết) 

Hoàng hậu của Hán Vũ Đế 
Trần A Kiều, con gái công chúa Quán Đào Lưu Phiêu, hoàng hậu của Hán Vũ Đế Lưu Triệt. 

Lưu Phiêu vốn định đem A Kiều gả cho thái tử, bị mẹ Lưu Vinh là Lật Cơ cự tuyệt, mới đem A Kiều gả cho Lưu Triệt. con của Vương Mỹ nhân. Cảnh đế cho là A Kiều lớn tuổi hơn Lưu Triệt, tỏ ý không bằng lòng. Một hôm, Vương Mỹ nhân đem Lưu Triệt. đến thỉnh an Quán Đào công chúa, Quán Đào công chúa ôm Lưu Triệt hỏi: “ Gả A Kiều cho ngươi làm vợ có được không?” cười đáp: “ Rất tốt! Nếu được A Kiều làm vợ, thì xin xây nhà vàng cho ở”. Đây là nguồn gốc của câu thành ngữ “ Kim ốc tàng kiều”. Hán Cảnh Đế cho là con mình tuy nhỏ mà đã yêu mến A Kiều như thế, đại khái cho là có duyên phận, nên cũng nhận lời. 
Lưu Triệt nhân cưới được A Kiều do sự tác hợp của mẹ và cô, mới được lập làm thái tử và làm vua, bèn lập Trần A Kiều làm hoàng hậu. Nhưng Trần hoàng hậu lâu ngày không sinh đẻ, và để có con phải chi phí về thuốc thang mất chín ngàn vạn tiền, vẫn không hiệu quả. Bà lại lớn hơn Hán Vũ Đế nhiều tuổi, sinh hoạt vợ chồng không được hài hoà. Sau đó, Vũ đế yêu một cô gái đẹp giỏi muá hát là Vệ Tử Phu. Không bao lâu sau, Vệ Tử Phu có thai. Nếu Trần hoàng hậu bụng dạ khoáng đạt, nhân nhượng một chút, thì cũng chẳng sao. Đàng này, Trần hoàng hậu lại làm rày ra, to chuyện, nhiều lần toan bức chết Vệ Tử Phu, và mời đồng cốt vào cung trù ếm. Đó là điều Vũ Đế không cách nào tha thứ được, Vũ Đế giận, phế bỏ ngôi hoàng hậu của Trần thị, lập Vệ Tử Phu làm hoàng hậu, chuyển A Kiều đến ở Trường Môn cung rồi vào lãnh cung. A Kiều nghe tiếng Tư Mã Tương Như làm phú rung động lòng người, mới bỏ nghìn vàng nhờ viết bài “Trường Môn phú”, đó là câu chuyện “ Thiên kim mãi phú” ( mua phú ngàn vàng). 
Đoạn đầu bài phú viết: 
“ Phù hà nhất giai nhân hề, bộ tiêu dao dĩ tự ngu 
Hồn du dật nhi bất phản hề, hình khô khao nhi độc cư 
Ngôn ngã chiêu vãng nhi một lai hề, ẩm thực lạc nhi vong nhân 
Tâm khiểm di nhi bất tỉnh cố hề, giao đắc ý nhi tương thân…” 
Đại ý: 
“ Vì sao một vị gia nhân tiêu dao lo lắng, hồn phách thất tán 
Hình dung khô khan mà phải ở một mình vậy? 
Người từng hứa rằng sớm chiều lui tới, rồi có cái vui ăn uống mà bỏ ta sau lưng 
Vui vầy với tân nhân vừa lòng đẹp ý….” 
Cuối bài viết: 
“ Thiếp nhân thiết tự bi hề, cửu niên tuế nhi bất cảm vong” 
Dịch là: 
“ Thiếp tuy bị đối xử lạnh nhạt, thầm tự buồn than, dầu có mãi bị như thế, vẫn không dám quên vua” 
Bài “Trường Môn phú” biểu hiện được nỗi niềm uất ứcbuồn khổ của người phụ nữ bị thất sủng ở trong cung đình thời phong kiến, rất là bi thảm. 
Trần A Kiều bảo cung nữ đọc thuộc, hy vọng Hán Vũ Đế nghe sẽ hồi tâm chuyển ý, nhưng cũng không được gì. Vài năm sau, Trần A Kiều lìa bõ cõi đời trong sự buồn giận tức tối. 



Vệ Tử Phu

Vệ hoàng hậu tên thật là Vệ Tử Phu. Người đất Bình Dương, nguyên họ Trịnh, ban đầu địa vị thấp hèn, cha là Trịnh Quý làm Trung tiểu lại trong huyện, cộng sự với với Bình Dương Hầu – Tào Thọ. Có em trai là Vệ Thanh, một chiến tướng dũng mãnh được Hán Vũ Đế tin dùng.
Vệ Tử Phu ở đời Tây Hán Võ Đế, nàng là ca nữ trở thành hòang hậu và cũng là người làm cột trụ cho Thái Tử Lưu Cứ. Về sau, thái tử tự sát và kết thúc cuộc đời chính trị nàng.
Vệ Tử Phu vốn là ca nữ giỏi múa hát. Được Vũ Đế lâm hạnh có thai, sau đó Trần Hoàng Hậu (Trần A Kiều) ghen ghét nhiều lần bức hại khiến Vũ Đế giận dữ phế Trần lập Vệ thành Vệ Hoàng Hậu
.



Lại có tích nói rằng nàng chỉ là một nô tỳ của công chúa Bình Dương nhưng sau khi nhập cung thì được Hán Vũ Đế yêu mến và lập thành hoàng hậu. Vẻ đẹp, trí tuệ và đức hạnh của Vệ Tử Phu luôn được lưu truyền từ thời Hán Vũ Đế đến nay. Đặc biệt, nàng nổi tiếng khắp thiên hạ vì mái tóc đen và đẹp.

Mùa xuân năm Kiên Nguyên thứ hai, trong ngày lễ Thượng Tỵ, Hán Vũ Đế đi đạp thanh theo bờ sông Bá Thủy, vui vẻ thưởng ngoạn cảnh mùa xuân trong sáng, xinh đẹp. Đại để do không khí tươi mát, lại đứng trước cảnh sắc xinh đẹp, khiến nhà vua cảm thấy bệnh tật cũng như những điều bực bội trong lòng tan biến đi cả. Tâm trạng của Vũ Đế hết sức nhẹ nhàng, sảng khoái, bèn nhân sự cảm hứng trong buổi du xuân, đi thẳng tới phủ riêng của Bình Dương công chúa.
Bình Dương công chúa nhân cơ hội này hiến lên mười mấy cô gái đẹp cho họ múa hát, giúp vui. Vũ Đế vừa uống rượu, vừa nói chuyện thao thao với Bình Dương công chúa, chừng như không để ý gì tới những cô gái đẹp đang múa hát kia. Lúc bấy giờ, bỗng có một ca nhi xuất hiện, cất giọng trong trẻo hát lên một bài hát hay, khiến Vũ Đế hết sức chú ý.
Nhà vua đưa mắt nhìn về hướng người ca nhi, thấy cô ta xinh đẹp như một đóa hoa rừng nở giữa đồng nội, vừa rực rỡ lại vừa có sức hấp dẫn phi thường. Đôi mắt nhà vua như sáng hẳn lên và dán chặt vào tấm thân của cô gái đang hát. Bây giờ nhà vua không nói chuyện thao thao như vừa rồi nữa. Tất cả những việc đó đều lọt vào mắt của Bình Dương công chúa.
Tiếng ca vừa dứt, bỗng Bình Dương công chúa ra hiệu cho người ca nhi đưa Vũ Đế vào phòng thay áo. Tại gian phòng này, Vũ Đế đã vội vàng ngắt lấy đóa hoa rừng mà mình mới vừa gặp.
Người ca nhi đó chính là Vệ Tử Phu. Mẹ ruột của Vệ Tử Phu là tỳ nữ trong phủ của Bình Dương Hầu. Bà là một người phong lưu đa tình, tư thông với nhiều người đàn ông và hạ sinh ra cô gái này.
Sau khi Vệ Tử Phu tiến cung, được nhà vua cho đến hầu tại tẩm cung. Sự ân sủng ngày một to lớn khiến Trần hoàng hậu vô cùng tức giận. Bà phái người đi bắt em trai của Vệ Tử Phu là Vệ Thanh, một kỵ sĩ trong phủ của Bình Dương Hầu, muốn giết cậu ta để hả cơn giận. Nhưng không ngờ người bạn tốt của Vệ Thanh là Công Tôn Ngạo đã cứu thoát được cậu ta. Chuyện đó không rõ do đâu mà thấu tai Hán Vũ Đế. Nhà vua cảm thấy Vệ Thanh rất dũng cảm, nên cho triệu vào cung, phong làm Thị Trung và thưởng cho rất nhiều tiền tài. Một thời gian sau, Vũ Đế chính thức phong Vệ Tử Phu làm phu nhân, và phong Vệ Thanh làm Thái Trung đại phu.
Niên hiệu Niên Sóc nguyên niên, Vệ phu nhân đã hạ sinh được một hoàng tử. Vào tháng ba năm đó, Vũ Đế chính thức lập Vệ phu nhân làm hoàng hậu .
Chinh Hoà tam niên, bọn Giang Sung tạo ra một vụ án đồng cốt , khép tội cho thái tử, Lưu Cứ bị ép phải nổi quân phản kháng, binh bại tự sát, Vệ hoàng hậu nghiễm nhiên liên can, không thể tự minh bạch cũng đành tự sát.


 Chiêu Quân 

Chiêu Quân tên thật là Vương Tường, là một cung phi của vua Nguyên đế nhà Hán (48 - 53 trước Tây lịch).
Lúc bấy giờ vua nằm mộng thấy mỹ nhân cùng giao ước 100 năm. Nhà vua cứ ngày đêm mơ tưởng đến người trong mộng nên truyền các quan địa phương tìm cho được người đẹp trong giấc mộng. Thái sư Mao Diên Thọ lãnh phần việc ấy. Mao Diên Thọ thừa "nước đục thả câu", ăn hối lộ của cung phi. Hễ ai đút lót tiền thì cho vẽ đẹp đẽ, xinh tươi dâng lên vua. Chiêu Quân đẹp nhất nên không chịu lo lót, lại còn xỉ vả Mao Diên Thọ. Do đó, khi cầm bức vẽ Chiêu Quân, hắn lấy viết chấm dưới mắt Chiêu Quân một chấm làm thành nốt ruồi. Rồi khi dâng tranh lên vua, hắn sàm tấu rằng Chiêu Quân tuy đẹp nhưng có nốt ruồi mà sách tướng gọi là "thương phu trích lệ". Ðó là nốt ruồi sát phu. Nhà vua nghe vậy nên không đoái hoài đến Chiêu Quân. Nhưng nhờ tiếng đàn tuyệt diệu, Chiêu Quân đã khiến cho Hoàng hậu thấu rõ oan tình và dàn xếp cho gặp Hán vương. Chiêu Quân được phong làm Tây Cung vì nhà vua nhận ra đúng là người đã gặp gỡ trong mộng. Mao Diên Thọ bị kết án nhưng trốn được qua đất Hồ, đem dâng Phiên chúa bức tranh của Chiêu Quân làm Phiên chúa say đắm! Giặc Hung Nô khởi loạn, binh Hán đại bạị Phiên chúa đòi phải cống Chiêu Quân thì mọi việc được yên. Trước cảnh giang sơn nghiêng ngửa, vua Hán đành phải ngậm ngùi đưa Chiêu Quân sang cống Hồ. Khi qua ải Nhạn Môn, trong nỗi niềm thương nước nhớ nhà, giận kẻ gian thần, nàng xuống kiệu, hướng về quê hương và dùng đàn khảy lên khúc "Khúc quá quan". Giọng đàn bi ai thảm thiết, mọi người theo đưa đều não lòng nhỏ lệ Cây cỏ bên đường cũng héo hắt, gục xuống mặt đất như để buồn lây ... Nhìn một con chim lẻ cánh bạt gió về chiều, nàng xót xa cảm cho thân thế, cất tiếng ngâm: 

Cánh én cô đơn đượm tủi sầu, 
Ngang trời gió cuốn bạt về đâu. 
Quan san ngàn dặm vương thương nhớ, 
Hồ Hán từ nay cách biệt nhau. 

Khi sang đến đất Hồ, Chiêu Quân yêu cầu Phiên chúa xây một chiếc cầu trên sông Hắc Thủy để tạ ơn Trời Ðất. Lên cầu, nhìn cánh nhạn bay, nhìn dòng sông Hắc Thủy, nàng xót xa đau đớn, ngao ngán thở dài: 

Thủy hà sóng lạnh gió đìu hiu, 
Cánh nhạn lê thê giải nắng chiều. 
Thấp thoáng mây về nơi lữ thứ, 
Mơ màng một giấc mộng cô liêu. 

Ngâm thơ xong, nàng lao mình xuống sông Hắc Thủy! Cái chết trinh liệt của nàng khiến cho mọi người, kể cả Phiên chúa, ngậm ngùi thương tiếc và cảm phục. Văn thơ đời Hán và đời sau có nhiều bài nói về cuộc đời và sự hy sinh thanh cao của Chiêu Quân. Ðến đời nhà Tấn (265 - 419), vua Tấn Tư Mã Chiêu đổi tên Chiêu Quân thành Minh Phi. Thạch Sùng sáng tác khúc ca Vương Minh Quân. Có khúc cổ nhạc gọi là "Chiêu Quân oán", "Chiêu Quân cống Hồ". Trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, lúc Kiều đánh đàn cho Kim Trọng nghe, có câu: Quá quan này khúc Chiêu Quân, Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia. Trong "Lục Vân Tiên" của Nguyễn Ðình Chiểu có câu: Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ, Bởi người Diên Thọ họa đồ gây nên! Tỉnh Tuy Viễn ở Trung quốc, bắc giáp Mông cổ, cách 10 cây số về phía Nam hãy còn mộ của Vương Chiêu Quân. Nơi đây có 3 tòa cổ miếu xây bằng đá: mộ của Chiêu Quân ở ngôi miếu giữa, hai bên là mộ của hai nữ tỳ đã cùng tự tử với nàng. Trên mộ bia có khắc mấy dòng chữ đã mờ vì thời gian "Vương Chiêu Quân chi mộ" Tương truyền cỏ ở chung quanh vùng này đều màu trắng, chỉ có cỏ mọc trên mộ Chiêu Quân màu đỏ, là giống cỏ ở Trung quốc mới có. Phải chăng đó là hồn thiêng của đất nước của người kỳ nữ đã hun đúc chuyện lạ để tiếng muôn đời?



Vương Chính Quân (71 TCN– 31 SCN)

Hoàng hậu của Hán Nguyên Đế.
Vương Chính Quân, người đất Nguyên Thành - Ngụy quận ( nay là huyên Chính Định tỉnh Hà Bắc), là thứ nữ của Dương Bình hầu Vương Cấm, là hoàng hậu của Hán Nguyên Đế Lưu Thích, tính bà nhu nhược, không có chủ kiến.



Vương Chính Quân xuất thân từ nhà quan quyền, cha bà từng làm Đình úy sử ( thư kí pháp đình). Vương Cấm nghiện rượu, hiếu sắc, cưới mấy bà vợ nhỏ, sinh 4 gái 8 trai. mẹ của Vương Chính Quân là Lý thị, thất sủng đã lâu, phải li hôn, cải giá làm vợ Tuân An.
Vương Chính Quân từ nhỏ thiếu tình thương của mẹ, hơn 10 tuổi đã bị cha gả lấy chồng, chưa kịp cưới thì chồng bị chết. Cải giá làm cơ thiếp của Đông Bình Vương, chưa vào phủ thì Đông Bình Vương cũng chết.
Năm 53 trước công nguyên( năm Hán Tuyên Đế Cam lộ nguyên niên), Vương Chính Quân được tuyển vào cung, gặp lúc ái phi của thái tử Lưu Thích là Tư Mã thị chết, Lưu Thích rất đau buồn. Hán Tuyên Đế sợ thái tử quá đau buồn, khiến hoàng hậu chọn 5 cung nữ để thái tử tuyển phi tử. Vương Chính Quân cũng được liệt vào số đợi tuyển, bà ta mặc một bộ đồ hồng thêu hoa rất đẹp, lại được ngồi chỗ rất gần thái tử. Thái trử còn đang buồn nhớ ái phi, không có chủ ý kén chọn phi tử. Hoàng hậu ở bên cạnh hối thúc, Lưu Thích tùy tiện chỉ một người cung nữ ở bên mình. Như thế, Vương Chính Quân được chọn làm phi cho thái tử một cách dễ dàng.
Năm 51 trước công nguyên( năm Hán Tuyên Đế Cam lộ nguyên niên thứ 3), Vương Chính Quân sinh Lưu Ngao, từ đó địa vị ngày một tôn vinh. 
Tháng 12 năm 49 trước công nguyên, Lưu Thích lên ngôi Hán Nguyên Đế, phong Vương Chính Quân là Tiệp dư, 3 ngày sau lại được lập làm hoàng hậu. Sự kết hợp của Vương Chính Quân và Lưu Thích không có cảm tình thật sự nên sau đó, Hán Nguyên Đế yêu Phó Chiêu Nghi, thì Vương Chính Quân bị thất sủng. Do nhu nhược, Vương Chính Quân không tranh giành ghen tuông, mới chiếu lệ ban cho ân điển cho gia tộc hoàng hậu, nên nhà họ Vương được phong tước vương đến 10 người, đó là cội rễ cái hoạ ngoại thích chuyên quyền cuối đời Tây Hán. 
Năm 33 trước công nguyên (Hán Nguyên Đế Cảnh Ninh nguyên niên), Nguyên Đế chết, Lưu Ngao nối ngôi là Hán Thành Đế, tôn vương thị làm hoàng thái hậu. Cháu của Vương thái hậu là Vương Mãng có thủ đoạn biến trá, phong làm Tân đô hầu, từ chứ Thị trung Quang lộc đại phu thăng lên Đại tư mã.
Sau khi Thành Đế chết, các vua nối ngôi như Ai Đế, Bình Đế đến hoàng đế cuối cùng là Lưu Anh, liên tiếp phong Vương thị là Thái hoàng thái hậu, trong khi đó Đại tư mã Vương Mãng nắm thực quyền.
Năm tứ 8 công nguyên, Vương Mãng ép buộc cô là Thái hoàng thái hậu Vương thị phải giao quốc tỷ, tự lập làm vua, lập ra tân triều.
Vương Chính Quân sinh ra từ đời Hán Tuyên Đế, trải qua 7 triều đại, qua nhiều tang thương. Bà tuy không có tham vọng chính trị, nhưng tầm thường bất tài, yếu mềm không cương quyết, cuối cùng đánh mất giang sơn triều Hán của họ Lưu.

Năm 13 công nguyên ( Tân triều Thủy Kiến quốc 5 năm), Vương Chính Quân chết năm 84 tuổi. Bà là vị hoàng hậu sống lâu nhất trong lịch sử.



Ban Tiệp Dư

Nàng họ Ban, không biết tên, vốn là một cung phi của vua Thành Đế nhà Hán (32-8 trước C.N.). Nàng làm nữ quan, chức Tiệp Dư nên thường gọi nàng Ban Tiệp Dư.
Nàng đẹp, duyên dáng, được nhà vua sủng ái.
Nhưng sau, nhà vua say mê Triệu Phi Yến. Bị nàng này gièm pha, nàng Ban sợ nguy cho thân nên xin vua cho hầu bà Thái Hậu ở cung Trường Tín. Từ đó, sự sủng hạnh của vua đối với nàng ngày càng phai lần.




Tủi cho thân phận lâm cảnh phũ phàng, nàng buồn bã, lấy một thứ lụa bát tơ trắng gọi là Tề Hoàn (lục nước Tề) do nàng tự dệt lấy và làm thành một cây quạt tròn. Trên quạt, nàng đề một bài thơ để tự ví thân phận mình:

Mới chế lụa Tề trắng.

Trong sạch như sương tuyết.
Đem làm quạt Hợp Hoan,
Tròn hin giống mặt nguyệt
Ra vào trong tay vua,
Lay động sinh gió mát.
Thường sợ tiết thu đến,
Gió mát cướp nồng nhiệt,
Ném cất vào xó rương,
Nửa đường ân ái tuyệt.

Nguyên văn:

Tân chế Tề Hoàn tố,
Hạo khuyết như sương tuyết.
Tài thành Hợp Hoan phiến,
Đoàn đoàn tự minh nguyệt.
Xuất nhập quân hoài tụ,
Động đạo vi phong phát
Thường khủng thu tiết chí
Lương viêm đoạt viêm nhiệt.
Khí nguyên giáp tư trung,
Ân tình trung đạo tuyệt.

Nàng cung nữ họ Ban ấy tự ví mình như cây quạt Hợp Hoan đã từng được nhà vua nâng niu yêu chuộng. Nhưng rồi lại ném cất vào xó rương, vì gió thu mát đã cướp mất gió mát của quạt rồi. Thế là mối tình nửa đường đoạn tuyệt. Nhà vua nỡ say đắm kẻ khác, nghe lời gièm pha để nàng chịu nỗi duyên phận bẽ bàng.
Vương Xương Linh, một thi hào danh tiếng đời Đường (617-907) cảm xúc nỗi duyên phận ghẻ lạnh của nàng cung phi họ Ban, mà đây cũng là số kiếp chung của khách hồng nhan vô phúc sa vào cung cấm, nên có làm 3 bài, đề là "Trường Tín thu từ" để vịnh nàng:

I
Giếng ngọc cành khô rụng lá vàng,
Buông rèm đêm đã lạnh hơi sương.
Lò hương, gối ngọc vô duyên quá,
Lắng giọt đồng rơi xiết đoạn trường.
(Bản dịch của Lam Giang)
Nguyên văn:

Kim tỉnh ngô đồng lạc diệp hoàng,
Chu liêm bất quyển dạ lai sương.
Huân lung ngọc chẩm vô nhan sắc,
Ngọa thích Nam cung xuân lậu trường.


II
Ban mai quét tước mở đền vàng,
Nâng quạt nhìn thôi luống thở than.
Mặt ngọc không bằng con quạ rét,
Nó còn sưởi nắng điện Chiêu Dương.

Nguyên văn:

Phụng chửu bình minh kim điện khai
Thả tương đoàn phiến tạm bồi hồi.
Ngọc nhan bất cập hàn nha sắc,
Do đái Chiêu Dương nhật ảnh lai.

III
Đã đành phận bạc, ôi đau đớn,
Thấy vua trong mộng, tỉnh nhớ nhung.
Tây cung rộn rực đêm yến tiệc,
Mơ màng nhớ lúc được vua ban.

Nguyên văn:

Chân thành bạc mệnh cửa tầm tư,
Mộng kiến quân vương giác hậu nghi.
Họa chiếu Tây cung tri dạ ấm,
Phân minh phức đạo phụng ân thì.

Ba bài theo điệu nhạc phủ. Tác giả tả tâm trạng u hoài của Ban Tiệp Dư: nỗi buồn đêm thu, mối buồn sáng thu lại mối sầu đêm thu.
Đêm trước u buồn, sáng dậy bâng khuâng, đêm đến sầu não, cả ba bài đều cực tả một nỗi buồn tha thiết. Mà nỗi buồn ấy mãi vương vấn, không bao giờ chịu buông tha người bạc mệnh ở lãnh cung.
Trong "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, đoạn thuật lời thán oán của nàng cung phi trong cung cấm, có câu:

Nụ hoa chưa mỉm miệng cười,
Gấm nàng Ban đã nhạt mùi thu dung.

"Gấm nàng Ban" lấy ở điển tích trên.



Nguồn yume.vn; hn.eva.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved