Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

13 thg 2, 2014

Liêu Trai Chí Dị - Tập 101-110 - Bồ Tùng Linh

Tấm Gương Thu Hình

    Lâm Thao Phùng sinh, tên thật là gì, người thuật chuyện không nhớ, chỉ biết chàng vốn dòng dõi thế gia nay đã sa sút rồi. Có người chài lưới thiếu nợ chàng mà không trả nổi, hễ lần nào bắt ba ba cùng loài cua đinh cũng đem biếu chàng. Có lần biếu con ba ba cực to, trán có đốm trắng, chàng thấy hình dạng lạ lùng, liền thả ra sông. 



    Sau đó có dịp đi thăm con rể trở về đến bờ sông Hoàng Hà trời đã chạng vạng, thấy một người say rượu, hai ba tiểu đồng theo sau, ngất ngưởng đi từ đầu kia tới, giáp mặt chàng hỏi chàng là ai đi đâu vậy? Chàng trả lời là kẻ đi đường. Người say giận nói: 
    - Chàng có tên họ gì, sao lại nói cụt ngủn là kẻ đi đường? 
    Đường xa trời tối, chàng sốt ruột đi về, cho nên chẳng buồn trả lời, cứ phăng phăng đi qua. Người say càng giận, nắm chặt lấy áo chàng không cho đi, mùi rượu xông lên sặc sụa. Chàng rất khó chịu mà cố sức gỡ mình ra không được bèn nói xẵng: 
    - Nhà ngươi tên chi? 
    Người say đáp giọng lè nhè: 
    - Ta là Lệnh Doãn cũ ở Nam Đô. Mà chú hỏi làm chi. 
    Chàng nói: 
    - Thế gian có thứ Lệnh Doãn như vậy, thật là chửi thiên hạ. Ấy, may là Lệnh doãn cũ, phải là Lệnh doãn mới, dễ thường phải giết hết người ta chăng? 
    Người say giận lắm, toan giở võ ra với chàng. Chàng dõng dạc nói: 
    - Ta đây là Phùng mỗ, không chịu anh đánh đâu. 
    Nguời say nghe nói, liền đổi giận làm vui, cúi mọp xuống lạy mà nói: 
    - Ngài là ân nhân của tôi, vừa rồi đường đột, xin đừng chấp trách. 
    Đoạn, trỗi dậy bảo tiểu đồng đi mau về nhà trước dọn rượu. Chàng từ chối không được, nắm tay cùng đi vài dặm, đến một xóm nhỏ. Vào trong thì nhà cửa sang trọng, như phủ đệ qúy nhân. Sau khi thấy chủ nhân đã tỉnh rượu, chàng mới hỏi thăm tên họ là gì. Chủ nhân nói: 
    - Thú thật với ông xin ông chớ kinh hãi. Tôi là bát Đại Vương ở sông Thao đây. Mới đây, Thanh Đồng ở Sơn Tây mời đi uống rượu trở về có hơi quá say, nên mới xúc phạm tôn nhan, nghĩ rất hổ thẹn. 
    Chàng biết là yêu quái nhưng thấy tình ý niềm nở cho nên chẳng sợ hãi. Giây lát tiệc bày linh đình, mời chàng uống rượu nói chuyện. Bát vương uống cực hăng một hơi đã cạn luôn mấy ly lớn. Chàng sợ hắn lại say, sinh sự rắc rối như hồi nãy, bèn giã đò mình say đòi đi nằm. Bát vương hiểu ý, cười nói: 
    - Ông sợ tôi say quá hóa cuồng chăng? Xin ông chớ lo. Phàm người say nói xằng làm bậy, mà bảo rằng qua sáng mà tỉnh rượu, không còn nhớ gì việc mình là, ấy là nói dối, nhưng đối với người trưởng giả như ngài, thật không dám làm điều vô hạnh. Tại sao ngài cự tuyệt tôi như thế? 
    Chàng nể lòng, lại ngồi xuống, nghiêm sắc mặt can gián: 
    - Ông đã tự biết mình lầm lỗi, sao không sử đổi đi? 
    Bát vương đáp: 
    - Lão phu hồi làm Lệnh Doãn, say sưa be bét còn quá ngày nay. Từ ngày chọc giận Thượng đế, bị đày ở cù lao, cố chừa thói cũ, được hơn mười năm. Nay nghĩ mình già yếu sắp sửa vào hòm, mà tấm thân còn vất vả chẳng được vẫy vùng, cho nên thói cũ lại muốn trở lại mà không tự biết đó thô. Nay được ngày khuyên bảo, tôi xin vâng lời. 
    Còn đang nói chuyện, thì nghe thấy tiếng chuông chùa xa đã gõ. Bát vương đứng dậy cầm tay chàng nói: 
    - Tôi cùng ngài tụ họp không được lâu, vậy có một vật báu, xin tặng ngài để báo đáp ơn xưa. Vật này chẳng nên mang lâu. chừng được như nguyện rồi, xin trả lại cho tôi. 
    Nói đoạn, khạc trong miệng ra một hình nhân bé tí hon, độ chừng một tấc, rồi móng tay nọn rạch cánh tay chàng đau như xé ruột, vội vàng đặt hình nhân lên trên mà đè thật mạnh. Khi buông tay thì hình nhân đã lọt vào da thịt, mà dấu móng tay còn rành rành. Chàng sợ hãi cuống quít, Bát vương cười mà không đáp, chỉ nói rằng: 
    - Ngài nên đi thôi. 
    Đoạn tiễn chân chàng ra cửa. Bát vương trở lại. 
    Chàng ngoảnh lại, xóm làng nhà cửa đều biến mất, duy một con ba ba đang bò xuống sông, chàng sửng sốt giây lâu tự nghĩ vật báu mới cho tất là ngọc ba ba. 
    Từ đó cặp mắt cực sáng; phàm chỗ nào có châu báu, dù ở suối vàng cũng trông thấy. Ngay đến vật gì thuở nay không từng biết bao giờ cũng ứng khẩu nói ra đích danh. Nhờ vậy mà đào lên được mấy trăm bạc chôn giấu ngay trong buồng ngủ, thành ra sự ăn tiêu hơi phóng túc. 
    Sau có người bán ngôi nhà cũ, chàng dòm thấy tiền bạc chôn giấu nhiều lắm, bèn mua giá đắt để làm nhà ở. Dần dà giàu có ngang bậc vương hầu, phàm loại ngọc quý trong thiên hạ, nhà chàng sưu tập tích súc đủ cả. 
    Trong số đó có một tấm gương, sau lưng chạm trỏ hình chim phượng và bà Tương Phi, bề mặt chiếu sáng tới ngót một dặm, rõ ràng từ mảy tóc sợi lông, có thể đếm được. 
    Nhất là mỹ nhân nào soi gương này, tức thời hình dạng in vào gương, chùi lau cách gì cũng không mất được. Nếu người đó thay quần áo khác mà soi lại, hoặc một mỹ nhân khác soi thì hình ảnh in trước mới được mất đi. 
    Lúc bấy giờ, bà chúa Ba, con gái Túc vương ( tức là Túc Trang Vương), hoàng tử thứ mười bốn của Thái tổ nhà Minh nhan sắc tuyệt đẹp, chàng vẫn nghe danh mộ tiếng. Nhân dịp bà chúa đi chơi núi Không Động, chàng đi trước, lén núp trong hang, rình khi chúa ở trên kiệu bước xuống, lấy gương ra thu hình ảnh rồi mang về. 
    Chàng về, đặt gương trên bàn, nhìn kỹ, thấy mỹ nhân ơ trong, tay cầm khăn, miệng mỉm cười và mấp máy muốn nói, làn sóng mắt cũng long lanh muốn động, chàng mừng quá giấu kỹ một nơi. 
    Hơn một năm, vợ ngồi lê đôi mách, nói lộ chuyện ấy ra, lọt đến tai Túc phủ. 
    Túc vương cả giận, bắt giam chàng lại, đòi lấy tấm gương và định đem đi chém. Chàng hối lộ rất nhiều cho một vị thân tín trong phủ, nhờ băn tin với Túc vương rằng: 
    - Nếu vương tha thì của gì báu nhất trên đời, muốn có cũng dễ. Bằng không, tôi chỉ chết là cùng, sự đó lại chẳng ích lợi gì cho vương. 
    Túc vương muốn tịch thu gia sản và đày chàng đi xa. Chúa Ba nói: 
    - Hắn đã dòm con rồi, dù hắn chết mười phần, cũng không gội rửa cái nhơ bẩn này, chi bằng gả con cho hắn là hơn. 
    Vương không nghe. Chúa đóng cửa không chịu ăn. Vương phi lo quá, hết sức nói với vương, bấy giờ vương mới chịu thả chàng ra khỏi ngục, lại sai người thân ngỏ ý với chàng. Chàng từ chối: 
    - Vợ tôi lấy từ thuở hàn vì, nghĩa không sao bỏ đặng. Tôi thà chết, chứ không dám phụng mạng. Nếu vương cho tôi chuộc tội thì hết nhà hết cửa cũng cam. 
    Vương giận lắm, lại bắt chàng giam ngục. 
    Bà vương phi vời vợ chàng vào trong cung, toan đánh thuốc độc cho chết. Nàng đem chiếc giá gương bằng san hô làm lễ ra mắt, lời lẽ cực mềm mỏng. Vương phi rất vui lòng, sai giáp mặt Chúa Ba, chúa cũng ưng ý, đính ước làm chị em, rồi sai người vào ngục dụ dỗ chàng nữa. Chàng nhắn bảo vợ: “Con nhà vương hầu, không nên kể trước sau mà bàn chuyện lớn bé được”. 
    Vợ không nghe, cứ việc sắm lễ vật, đưa nộp vương phủ. Số người mang đội lễ có hàng ngàn, nhiều thứ châu báu quý ngọc lạ, nhà vương không biết tên gì. Vương mừng thả chàng về làm lễ cưới với chúa. Hôm chúa về nhà chồng, cũng đem gương báu cùng về. 
    Một đêm chàng nằm một mình, mộng thấy Bát vương nghênh ngang đi vào nói: 
    - Món đồ tôi tặng năm xưa, giờ nên trả lại. Mang nó trong mình lâu quá tổn hao tâm quyết và haị mạng nữa. 
    Chàng xin vâng, muốn cầm giữ Bát vương ở lại uống rượu chơi, nhưng Bát vương từ chối: 
    - Thôi, rượu thì tôi xin kiếu. Từ lúc nghe lời ông khuyên can, tôi bỏ dứt hơi men, được ba năm rồi. 
    Đoạn há miệng cắn vào tay chàng. Đau quá chàng tỉnh dậy, xem cục thịt nổi đã tiêu mất rồi. Từ đó y như người bình thường. 


Gái Báo Thù Cha

    Xưa ở Chư Cát Thành có Thường Sĩ Vũ là kẻ sĩ nhân. Do say rượu nói điều ngỗ ngược với vị huyện hào, Thường bị vị nọ sai gia nô túm lại đánh cho tơi bời, về đến nhà thì chết. 
    Thường có hai con trai, cả tên Thần, thứ tên Lễ, người con gái là Tam Quan, tuổi vừa trăng tròn lẻ, đẽ hẹn kỳ xuất giá, song vì việc cha phải dừng. Hai anh đâm đơn kiện, một năm ròng chưa được hỏi đến. Nhà trai sai người đến thăm dò hỏi ý kiến bà mẹ xin cho được tòng quyền cưới chạy tang. Bà mẹ đã xiêu nhưng cô gái thưa lại: 
    - Cha mất chưa kịp lạnh, sao có thể tính chuyện vui mừng? Dễ họ không có cha mẹ hay sao? 
    Nhà trai nghe thấy điều ấy, lấy làm xấu hổ đành bỏ ý định. 
    Không bao lâu, vụ kiện không được xét, hai người anh trai đành đội đơn về, cả nhà khôn xiết đau thương. Hai anh bàn hãy lưu thi hài cha, chưa chôn cất vội để tiếp tục theo kiện, Tam Quan nói: 
    - Người bị sát hại mà không được xử, đủ biết sự thế ngày nay như thế nào rồi?Có dễ trời sinh riêng cho anh em ta một Bao Công chăng? Ta nỡ lòng nào cứ để thi hài cha phơi mãi như thế! 
    Hai anh phục lời nói ấy, liền lo ngay việc mai táng cha. 
    Việc tang vừa xong, bỗng ban đêm Tam Quan trốn nhà đi đâu không biết. Bà mẹ coi chuyện này là điều tủi hổ cho gia phong nên sợ nhà trai nghe thấy, không dám để lộ chuyện với bà con họ hàng, chỉ rỉ tai hai con trai phải kín đáo dò tìm xem sao. Song nửa năm dã qua vẫn không thấy tăm tích Tam Quan. 
    Gặp dịp huyện hào bày lễ mừng thọ, gọi phường hát đến mua vui. Trùm phường họ Tân, dẫn theo hai đàm em giúp việc, một gã tên Vương Thành dung mạo bình thường nhưng tiếng trong vắt, mọi người tán thưởng lắm; một gã tên Lý Ngọc, mặt mày xinh đẹp như con gái, chủ bảo hát cứ cố từ rằng không được thường luyện, nài ép mãi thì ca giọng hát nửa phần lẫn lộn những khúc điệu dân ca của đàn bà con gái. Nghe xong cả đám vỗ tay cười rầm rĩ. Tân xấu hổ quá, phải thưa thực với chủ: 
    - Nó mới học chưa được bao lâu chỉ mới biết hầu rượu xin chớ trách mắng. 
    Rồi Tân sai gã ta đi chuốc rượu. Lý Ngọc lại qua nhẹ nhàng lúng liếng khi rót ra mời, lại rất khéo chiều ý hướng của chủ khiến ông ta đẹp lòng lắm.
    Rượu tàn, khách về, huyện hào lưu Ngọc lại cùng ngủ. Ngọc rũ giưòng cởi giày cho chủ ân cần, chu đáo lắm. Huyện hào vờ say rượu ôm ấp cợt nhả, Ngọc chỉ mỉm cười, cho nên lão ta càng mê tợn. Hắn đuổi hết đầy tớ ra chỉ để một mình Ngọc lại. Ngọc đợi mọi người ra hết liền đóng cửa, khóa trái. 
    Bọn đầy tớ sang nhà khác ăn uống. Lát sau nghe thấy tiếng động công cốc trên sảnh nơi chủ ngủ, một người chạy sang, chỉ thấy trong sảnh tối đen như mực, im lặng như tờ, quay trở về, bỗng nghe tiếng huỵnh như có vật gì nặng treo cao đứt dây rơi xuống. Lên tiếng hỏi, không thấy trả lời. Gọi mọi người phá cửa vào, thấy chủ nhân đầu lìa khỏi xác. Còn Ngọc thì treo cổ tự tử, dây đứt xác rơi xuống đất. Trên xác vẫn còn lủng lẳng một đoạn dây. 
    Mọi người trong nhà kinh hãi, tụ tập bàn tán, không hiểu ra sao. Họ khiêng xác Ngọc ra sân, thấy trong giày và bít tất dường như không có bàn chân, cởi ra thì thấy bàn chân bó nhỏ, hóa ra là con gái. Họ lại càng hoảng gọi Tân đến gặng hỏi. Tân hãi quá, không biết trả lời thế nào, chỉ biết sơ sài: “Tháng trước, Ngọc đến xin làm đàn em, được đi theo đến cuộc lễ mừng thọ, thực không biết từ đâu đến”. 
    Vì thấy Ngọc mang đồ tang, họ ngờ là thích khách nhà họ Thương, tạm cử hai người trông coi xác. Cô gái nét mặt vẫn đẹp như ngọc, vỗ về thì thân thể tay chân ấm lại. Hai chàng máu dê liền giở trò khả ố. Một anh ôm lấy thi thể vần vò xoay nghiêng xoay ngửa, đang lần cởi giải thì đầu như một đòn búa bổ, máu mồm, máu mũi hộc ra, chết đứ đừ, còn anh kia thoát chết, kể chuyện lại với mọi người. Co gái được coi như thần. 
    Vụ này được báo lên quận, Quan hỏi Thần và Lễ, họ đều nói không biết gì, còn cô em Tam Quan thì đã bỏ nhà đi từ nửa năm rồi. Họ đến thử xem thì đúng là Tam Quan. Quan cũng phải coi điều kỳ lạ, truyền hai anh em mang thi hài em về mai táng, lại sức khuyên nhà huyện hào chớ có cậy thế gây thù chuốc oán nữa. 

Bức Họa Trên Tường

    Mạch Long Ðàm, người Giang Tây, với hiếu liêm họ Chu đều là khách trọ ở kinh đô. Ngẫu nhiên cùng dạo chơi một cảnh chùa. Ðiện Phật, giải vũ, phòng tăng đều không lấy gì làm rộng rãi. Chỉ có một vì sư già trụ trì trong đó, thấy khách vào bèn xốc áo ra đón, rồi dẫn khách đi xem khắp đó đây. Trong điện có tô tượng Chí Công, hai bên tường đều vẽ vời rất tình xảo, nhân vật thảy đều như sống thật. Tường bên Ðông vễ bức" Thiên nữ rắc hoa", ở trong có một thiếu nữ buông mái tóc thề, tay cầm bông hoa, miệng hé cười, đôi môi anh đào muốn nhấp nháy, làn sóng mắt dường như đung đưa. 
    Chàng Chu chú mục giây lâu, bất giác như bị mất hồn, bàng hoàng thờ thẫn. Rồi thân thể bỗng nhiên phơi phới, như cưỡi trên mây mù, thoắt cái đã bay lên đến bức tường. 
    Nhìn thấy lầu gác trùng trùng không phải là cõi trần. Một vị sư già đang thuyết pháp ở trên tòa, những người mặc áo hở vai vây xung quanh đông vô kể. 
    Chu cũng đứng lẫn vào trong số đó. Một chốc, tựa như có người ngầm kéo vạt áo, quay lại thì ra cô thiếu nữ có mái tóc thề, đang vừa cười vừa quay đi. Chàng lập tức trở gót bước theo. 
    Qua những hành lang quanh co thì có môt căn phòng nhỏ. Chu ngập ngừng không dám tiến nữa nhưng thiếu nữ đã quay đầu lại, đưa bông hoa trong tay lên có vẫy gọi, chàng liền bước theo vào. 
    Trong phòng tịnh không có người, chàng vội ôm chầm lấy, nàng cũng không kháng cự gì lắm, bèn cùng nhau giao hoan thỏa thích. 
    Xong rồi nàng đóng cửa ra đi, dặn Chu đừng hỏi. Ðến đêm lại đến. 
    Cứ thế được hai hôm, các bạn gái nàng biết được, cùng nhau tìm thấy chàng, liền trêu trọc nàng rằng: 
    - Cậu bé trong bụng đã lớn tướng mà con để mái tóc bồng bồng, cũng học đòi làm gái còn son ư? 
    Rồi bảo nhau đưa cho nàng nào trâm, nào hoa tai, bắt nàng cuốn ngược tóc lên. 
    Cô gái thẹn thùng, không nói lời nào. Một nàng bảo: 
    - Chị em ơi, tụi mình đứng đây lâu, kẻo người ta mất vui. 
    Cả bọn liền cười và bỏ đi. Chàng nhìn lại nàng, thì tóc mây đã búi cao lên, vành tóc phượng buông thấp xuống, so với cô gái để tóc thề lúc trước lại càng xinh đẹp gấp bội. 
    Nhìn quanh không có ai, bàn dắt nhau bước vào cuộc ân ái. 
    Hương lòng rạo rực, lạc thú đang nông, thì bỗng đâu nghe tiếng ủng da cồm cộp rất dữ, dây xích và khóa kêu loảng xoảng, cộng thêm tiếng quát tháo, tiếng cãi cọ huyên náo. 
    Nàng kinh hoàng nhỏm dậy, cùng với chàng đều ghé mắt nhìn trộm ra ngoài, thì thấy một vị sứ giả mặc áo giáp vàng, mặt đen như sơn, tay cầm khóa, tay nắm chùy, đám thiếu nữ xúm xít xung quanh. 
    Sứ giả nói: 
    - Ðã đủ chưa? 
    Có tiếng đáp: 
    - Ðủ cả rồi. 
    Sứ giả lại nói: 
    - Nhược bằng có chứa chấp người hạ giới thì lập tức bảo nhau cùng khai ra, chớ để phải hối về sau. 
    Cả bọn đồng thanh đáp: 
    - Không có đâu! 
    Sứ giả quay người, đưa cặp mắt cú vọ nhìn quanh, tựa hồ tìm ra kẻ đang nấp. 
    Cô gái cả sợ, mặt xám như tro, thảng thốt bảo chàng: 
    - Mau trốn xuống gầm giường. 
    Rồi mở cánh cửa ngách bên tường lẻn đi mất. 
    Chu nằm bẹp xuống, không dám thở. 
    Giây lát nghe tiếng ủng đi vào trong phòng rồi lại đi ra. 
    Chẳng bao lâu tiếng huyên náo xa dần, bụng đã yên, nhưng ngoài cửa vẫn có tiếng người qua lại bàn bạc. 
    Chu cứ thấp thỏm như thế giờ lâu, đến lúc bên tai như có tiếng ve kêu, trong mắt nẩy đom đóm, tình trạng ngỡ không chịu nổi nữa, chỉ còn cố lắng tai để đợi nàng về, cuối cùng cũng không còn nhớ thân mình từ đâu mà đến đây. 
    Bấy giờ Mạnh Long Ðàm đang đứng trước điện thờ chớp mắt đã không thấy Chu đâu, ngờ vực hỏi Nhà Sư. 
    Vị sư cười đáp: 
    - Ði nghe thuyết pháp rồi. 
    Mạnh Long Ðàm hỏi: 
    - Ở đâu? 
    Nhà Sư đáp: 
    - Không xa. 
    Một chốc Nhà Sư bèn gõ ngón tay lên tường mà gọi to lên rằng: 
    - Ông đàn việt họ Chu, đi chơi lâu thế, sao chẳng quay về? 
    Liền thấy giữa bức họa trên tường có hình của Chu, đang đứng nghển cổ lắng tai, chừng như nghe ngóng. 
    Nhà Sư lại gọi tiếp: 
    - Ông bạn cùng đi đợi lâu rồi đấy. 
    Thế rồi Chu bồng bềnh từ trên tường bay xuống, lòng lạnh như tro, người cứng đờ như gỗ, mắt trừng trừng, chân bủn rủn. 
    Mạnh đâm hoảng, sẽ sàng hỏi han. 
    Thì ra lúc đó Chu đang núp dưới giường, bỗng nghe tiếng gõ vang như sấm, vội chui ra khỏi phòng để nghe ngóng tình hình. 
    Cả hai cùng ngước nhìn cô gái nhón hoa thì mái tóc vặn hình ốc đã cuốn cao lên, không còn xõa tóc nữa. 
    Chu khiếp sợ, vái vị sư già mà hỏi duyên cớ. 
    Nhà Sư cười đáp: 
    - Ảo là do mình sinh ra, bần đạo làm sao giải thích được! 
    Chu ỉu xìu mất cả khí thế. 
    Mạnh sợ hãi không còn tự chủ nổi, vội đứng dậy lần bậc thềm ra về. 

Hồ Gã Con
    Có một Thiên Quan họ Ân, người Lịch Thành thuở nhỏ, nhà nghèo, thường tỏ ra gan dạ. Trong ấp có khu nhà của một cố gia, rộng vài chục mẫu, lầu viện liền nóc, thường thấy chuyện quái dị, vì thế mà bỏ hoang, không ai ở. 
    Lâu ngày tranh cỏ mọc um tùm, giữa ban ngày cũng không ai dám bén mảng đến. 
    Một hôm, Ân đang cùng các bạn học trò uống rượu, có người nói đùa: 
    - Ai dám ngủ trong nhà đó một đêm, chúng tôi sẽ góp tiền đãi bữa rượu. 
    Ân ngồi nhổm ngay dậy, nói: 
    - Khó gì việc ấy: 
    Rồi cắp một chiếc chiếu mà đi. Chúng bạn tiễn Ân đến cổng, bảo đùa rằng: 
    - Chúng tôi hẵng đợi ngoài này, nếu như có thấy điều gì thì kíp gọi to lên. 
    Ân cười đáp lại: 
    - Nếu có ma hãy hồ thì sẽ tóm cổ đưa về làm bằng 
    Nói rồi đi vào. Thấy lau sậy mọc khuất cả lối đi, các loài cỏ dại mọc rậm như gai. 
    Hôm đó, nhằm khoảng đầu tháng, trăng non mờ nhạt, nên cửa ngõ cũng phân biệt được. 
    Ân đưa tay lần vách mà đi mãi, mới đến khu lầu phía sau. 
    Trèo lên sân thưởng nguyệt, thấy sáng sủa, sạch sẽ, một vành trăng sáng ngậm trên đầu núi, ngồi một lúc lâu, không thấy có gì lạ, trong bụng cười thầm cho là thiên hạ đồn hão. 
    Rồi giải chiếu xuống đất, gối đầu lên hòn đá, nằm ngắm sao Ngưu Lang Chức Nữ. 
    Canh khuya, lơ mơ muốn ngủ, Ân chợt nghe dưới lầu có tiếng giầy lẹp kẹp đi lên. 
    Ân vờ ngủ, ghé mắt xem, thấy một nàng áo xanh xách chiếc đèn hoa sen, thốt nhiên nhìn thấy Ân thì giật mình lùi bước, bảo với người đi sau rằng:
    - Có người lạ trên này. 
    Người bên dưới hỏi: 
    - Ai vậy? 
    - Cô gái đáp rằng: 
    - Không biết. 
    Giây lát, một ông già bước lên, đến tận nơi nhìn kỹ, nói: 
    - Ðây là quan thượng thư họ Ân. Ngài đã ngủ say, ta cứ làm việc mình. Ông lớn là người không câu nệ, chắc không lấy làm lạ mà quở trách đâu. 
    Họ bèn đưa nhau lên, vào cả trong lầu. Các cửa lầu mở hết. Một lát nữa, kẻ đi người lại càng nhiều. Trên lầu, đèn sáng như ban ngày. 
    Ân khẽ cựa mình, cất tiếng ho hắng. 
    Ông già thấy ông đã tỉnh, bèn bước ra, quỳ xuống thưa rằng: 
    - Kẻ hèn mọn này có đứa con gái sắp gả chồng, đêm nay cho cháu làm lễ vu quy; không ngờ xúc phạm đến quan nhân, mong ngài lượng thứ. 
    Ân ngồi dậy, đỡ ông lão lên nói: 
    - Không biết hôm nay là ngày vui mừng của nhà ta, thật áy náy vì không có gì để mừng tặng. 
    Ông già đáp: 
    - Ðược quan nhân hạ cố, trấn áp điềm hung hiểm, là may lắm rồi. Lại xin được phiền ngài ngồi lại cùng vui, quý hóa biết chừng nào 
    Ân cũng mừng, nhận lời. 
    Vào trong lầu, nhìn xem, thấy bày biện đẹp đẽ, trang nhã. 
    Lúc ấy, có người đàn bà bước ra vái chào, tuổi đã ngoại bốn mươi. Ông già nói: 
    - Ðây là tiện nội. 
    Ông vái chào lại. 
    Bỗng nghe tiếng sênh, tiếng nhạc cất lên inh tai, có người nhà chạy vội lên thưa: 
    - Ðến rồi! 
    Ông lão chạy ra đón, Ân cũng đừng đợi. 
    Phút chốc, một chiếc đàn lồng bằng sa mỏng, dẫn chú rễ vào. 
    Chù rễ tuổi khoảng mười bảy mười tám, vẻ người sáng sủa, thanh tú. 
    Ông già bảo hãy chào quan khách trước. 
    Chàng trai đưa mắt nhìn ông. 
    Ông giữ chân tiếp khách dùm chủ nhà, nên nhận lễ nửa khách nửa chủ. Thứ đến là bố vợ và chàng rễ giao bái. Xong, bèn ngồi vào bàn tiệc. 
    Một loáng, đám người phấn sáp kéo lên như mây. Rượu thịt bày la liệt. Chén ngọc, bình vàng sáng nhoáng, chiếu rọi lên bàn ghế. 
    Rượu được vài tuần, ông già bảo con hầu vào mời tiểu thư ra. 
    Con hầu vâng lời đi vào, lúc lâu vẫn không thấy ra. 
    Ông lão tự mình đứng lên, vén bức màn, giục ra. 
    Phút chốc, một bọn hầu gái, trẻ có già có, cùng đỡ cô dâu ra. 
    Tiếng ngọc đeo vang lên lanh canh, mùi lan thơm sực nức. 
    Ông già truyền bảo nàng hãy trông lên mà chào lạy. 
    Lạy xong cô dâu đứng dậy, ngồi bên cạnh bà mẹ. 
    Ân đưa mắt liếc nhìn, thấy cô tóc phượng cài trâm thu, tai đeo ngọc minh châu, dung nhan tuyệt đẹp. 
    Thế rồi, rót rượu vào chén vàng, mỗi chén lớn chừng vài đấu. 
    Ân nghĩ: 
    -Vật này có thể đưa cho bạn bè làm chứng được, bèn giấu vào trong tay áo rồi vờ say, tựa xuống ghế, gục đầu mà ngủ. 
    Mọi người đều nói: 
    - Ông lớn say rồi! 
    Không bao lâu, nghe tiếng chú rễ có lời xin rước dâu. 
    Tiếng nhạc, tiếng sênh lại nổi lên, mọi người nhộn nhịp xuống lầu ra đi. 
    Xong xuôi, chủ nhân thu dọn bàn tiệc, thấy thiếu mất một cái chén, tìm khắp không thấy. 
    Có người bàn, vụng ngờ cho ông khách đang nằm ngủ. 
    Ông già vội gạt đi không cho nói hết, chỉ sợ Ân nghe được. 
    Lúc lâu nữa, trong ngoài im lặng cả, Ân mới trở dậy. 
    Tối mò không có đèn đuốc gì, chỉ có mùi thơm của phấn sáp và hơi rượu, như còn đầy cả bốn quanh tường. 
    Trông ra, hừng đông đã rạng, bèn thong thả bước ra. Sờ vào trong tay áo, cái chén vàng vẫn còn. 
    Ra đến cổng thì bạn bè đã đợi sẵn, họ cứ ngờ Ân đang đêm lẻn ra, gần sáng mới trở vào. 
    Ân đưa chén cho xem, ai cũng kinh ngạc, dò hỏi. 
    Ân bèn kể rõ đầu đuôi cho biết. Chúng đều nghĩ vật này thì anh học trò nghèo chẳng thể nào có, mới tin là chuyện thực. 
    Về sau, ông thi đỗ Tiến sĩ, nhậm chức ở Phù Khâu. 
    Có nhà gia thế họ Chu thết tiệc ông, sai lấy bộ chén lớn, mà mãi vẫn không thấy người hầu mang ra. 
    Có đứa hầu nhỏ che miệng nói thầm với chủ nhân điều gì đấy, nét mặt chủ nhân có vẻ tức giận. 
    Một lát sau đem bộ chén vàng ra, rót mời khách uống. 
    Nhìn kỹ kiểu chén cùng đường trạm trổ, không khác chút gì với thứ chén của hồ dạo nào. 
    Ân lấy làm lạ , Ân hỏi chén này chế tạo ở đâu. Chủ nhân đáp: 
    - Bộ chén này cả thảy có tám chiếc, đời ông thân tôi làm quan Khanh tại kinh, kén tìm thợ khéo chế ra, nên lấy làm vật gia bảo truyền thế, cất kỹ từ lâu. Vì được đại nhân hạ cố mới lấy ở trong hòm ra, thì chỉ còn bảy chiếc. 
    Ngờ đâu người nhà lấy trộm, mà dấu niêm phong mười năm vẫn như cũ, thật chẳng hiểu sao nữa. 
    Ân cười bảo: 
    - Chén vàng mọc cánh bay mất rồi, những vật báu truyền đời không nên để cho mất. Tôi có một chiếc cũng gần giống, xin đem để tặng ngài. 
    Tiệc xong, về dinh, ông lấy chén ra, cho người mang đến. 
    Chủ nhân xem kỹ, rất kinh hãi, đích thân đến tạ ơn, và hỏi nguyên do chiếc chén từ đâu mà có. 
    Ân bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện. 
    Mới hay rằng vật ngoài nghìn dặm, hồ cũng có thể lấy được, duy chỉ không dám giữ làm của mình. 

Mưa Tiền

    Thư sinh tú tài xứ Tân Châu đang đọc sách trong phòng học thì có tiếng gõ cữa. Một ông già tóc trắng phơ phơ, dáng người cũ kỹ bước vào. 
    Thư sinh đón mời vào hỏi họ tên. Ông cụ cho biết ông họ Hồ, tên Dưỡng Chân, vốn là hồ tiên, vì mến mộ chàng là người coa nhã, xin được đến cùng ăn ở sớm khuya. 
    Thư sinh tính khí khoáng đạt cho nên cũng không nghi ngại gì, hàng ngày cùng nhau bàn luận cổ kim. Ông cụ đặc biệt uyên bác, nói năng vanh vách như nhả ngọc phun châu, về mặt kinh nghĩa lại càng sâu sắc. Thư sinh tự thấy mình không thể kịp, càng kính phục lắm, lưu ông cụ ở lại rất lâu. 
    Một hôm thư sinh ngỏ lời tâm tình: 
    - Cụ thấy tôi là người hiền lành, phúc hậu mà lại nghèo khổ thế này. Cụ chỉ ra tay một chút là vàng bạc đến ngay, sao cụ không gia ơn cho chút đỉnh? 
    Ông cụ “hừ” một tiếng, tựa như cho là không thể được. Nhưng lát sau lại cười bảo: 
    - Việc đó cực dễ! Nhưng phải có mười đồng tiền mẹ làm mồi. 
    Thư sinh đưa ra đủ. Ông cụ dẫn vào một cái buồng kín đáo rồi làm phép, bắt quyết đọc chú. Chỉ một lát bỗng hàng chục vạn, tặm vạn đồng tiền từ trên nóc nhà loảng xoảng rơi xuống y như mưa rào vậy. Loáng cái đã ngập đến đầu gối người đứng dưới, rút chân đứng lên trên tiền lại ngập đến bắp vế. Một căn nhà rộng mênh mông mà tiền ngập đến ba, bốn thước. 
    Ông cụ quay lại hỏi chàng thư sinh: 
    - Thế nào, vừa ý anh chưa? 
    - Thưa đủ rồi - Chàng hoan hỉ trả lời. 
    Ông cụ vẫy tay một cái mưa tiền ngưng lại. Rồi cùng nhau đóng cửa gài then đi ra. 
    Chàng thư sinh mừng quá chắc mẩm phen này giàu nứt đố đổ vách. Lát sau phải vào căn nhà ấy để lấy đồ thì ôi thôi, căn nhà đầy tiền đã rỗng không. Chỉ còn mười đồng tiền mẹ làm mồi, nằm chỏng chơ ở đó. 
    Hy vọng thế là tiêu tan, chàng thư sinh tức điên lên, oán trách ông già lừa mình. Ông già nổi giận mắng lại: 
    - Lão này với anh chỉ là bạn văn chương chữ nghĩa, chứ không định cùng anh làm giặc. Muốn được như ý của anh thì phải kết thân với bọn trèo tường khóet vách, chứ lão đây không thể vâng mệnh! 
    Nói rồi phủi áo bỏ đi. 

Thuật Mồm
    Có một cô gái tuổi chừng hai bốn, hai nhăm, khoác một túi thuốc đến làng bán. Người đến chữa bệnh, cô gái không biết kê đơn bốc thuốc, khất đợi tối đến hỏi thần. 
    Tối đến, cô ta dọn dẹp sạch sẽ căn buồng nhỏ, cài chặt cửa bên trong. Mọi người xúm đến quanh cửa sổ nhưng chỉ dám thầm thào nói nhỏ không dám ho. Trong ngoài lặng ngắt như tờ. Khoảng nửa trống canh sau bỗng rèm động, cô hàng thuốc hỏi: 
    - Cô Chín đến đấy ư? 
    Tiếng con gái đáp: 
    - Đến đây. 
    Lại hỏi: 
    - Lạp Mai có theo hầu cô Chín đến đây không? 
    Ả thị tì trả lời: 
    - Đến rồi ạ! 
    Ba người líu ríu trò chuyện. Lát sau, rèm lại động, cô bán thuốc reo lên: 
    - A! Cô Sáu đến rồi. 
    Tiếng tíu tít hỏi: 
    - Xuân Mai có bế cậu nhỏ theo không? 
    Tiếng một ả khác: 
    - Cậu cứ khóc không chịu ngủ, nằng nặc đòi theo nương tử. Gớm, nặng đến hàng tạ, cõng tưởng chết người. 
    Rồi tiếng cô bán thuốc ân cần, tiếng cô Chín thăm hỏi, tiếng cô Sáu hàn huyên, tiếng hai thị tì rúc rích, tiếng cậu bè cười đùa, tất cả cứ rối rít lên. Lại nghe cô hàng thuốc cười nói: 
    - Chàng nhỏ này nghịch quá xá, xa thế mà còn đem theo cả con mèo. 
    Sau đó lời qua tiếng lại thưa thớt dần. Bỗng rèm lại động. Gian buồng lại lao nhao lên: 
    - Cô Bốn sao đến chậm vậy? 
    Tiếng một cô bé gái lí nhí: 
    - Đường xa hơn nghìn dặm, đi với cô bao nhiêu lâu mới tới được. Cô đi hơi chậm. 
    Rồi tiếng nói chuyện dông dài, tiếng chuyển chỗ, tiếng gọi lấy thêm ghế, cứ láo nháo lào nhào, phải chừng giập bả trầu mới tạm ngớt. 
    Đến lúc cô hàng thuốc cầu xin đơn thuốc. Cô Chín nói phải có sâm. Cô Sáu nói phải có kỳ. Cô Bốn nói phải có truật, cùng bàn nhau châm chước. Một lúc có tiếng cô Chín lấy bút nghiên, tiếng xé giấy soàn soạt, tiếng đặt cán bút canh cánh, tiếng mài mực rí rách, tiếng cầm bút viết, tiếng chân chạm ghế, rồi tiếng gói thuốc loạt soạt. 
    Lát sau, cô hàng thuốc vén rèm gọi con bệnh nhận thuốc lấy đơn. Khi cô ta quay vào buồng, tức thì tiếng bà cô cáo biệt, tiếng bà thị tì cáo biệt, tiếng cô bé bi bô, tiếng con mèo meo meo, tất cả lại rộ lên. Giọng cô Chín trong, hơi cao. Giọng cô Sáu chậm mà buồn. Giọng cô Bốn mềm mại dịu dàng. Gịong ba ả thị tì đều có sắc thái riêng nghe thường có thể phân biệt. 
    Dân làng tin là thần giàng thật, song uống thuốc thử không kiến hiệu. 
    Đó gọi là thuật mồm, dùng nó để bán thuốc cho chạy. Song ở đời cũng khối việc kỳ như vậy! 
    
Kiếm Khách
    Đổng sinh, người Từ Châu ưa thích kiếm thuật thường hay khoe khoang tự phụ. Một hôm đi cùng đường với một người lạ. Sinh gợi chuyện làm quen tuôn ra toàn giọng an hùng quá đáng. Được biết người ấy họ Đổng ở đất Liêu Dương, Sinh hỏi ông ta đi đâu. Người ấy đáp: 
    - Tôi xa nhà lang bạc đã hai mươi năm nay, vừa từ hải ngoại về. 
    -Ông ngao du bốn bể, gặp người cũng nhiều, có thấy bậc dị nhân nào không? 
    - Dị nhân về mặt nào? 
    Đổng kể sở thích của mình và lấy làm tiếc không được bâc dị nhân nào truyền cho kiếm thuật. Người lại hỏi: 
    - Ở đâu mà chẳng có dị nhân. Song phải là tôi trung, con hiếu thì mới mong được dị nhân truyền cho. 
    Đổng hứng chí huênh hoang là mìn sẽ làm được như thế. Rồi rút gươm ra, vỗ vào gươm mà hát. Nhân đà hưng phấn, Đổng phạt một cây nhỏ bên đường để khoe kiếm sắc. Khách vuốt râu mỉm cười, tiện thể mượn gươm ngắm xem, Đổng đưa cho xem lấy lệ. Khác chê: 
    - Đây là thứ kiếm xoàng, thép đã non lại ám mồ hôi. Kẻ hèn này tuy chưa nghe về kiếm thuật nhưng cũng sẳn có một thanh dùng được. 
    Nói rồi ông rút trong áo ra một thanh đoản kiếm chừng một thước, lấy nó gọt gươm của Đổng ngọt như cạo khoai. Tiện tay lại phạt một ô đất chằn chặn như tiện. Đổng phát khiếp nằng nặc đòi xem, rồi lại ngứa ngáy nghề cầm lấy múa máy trông như phủi bụi. Rồi Đổng mời người nọ về nhà cố lưu lại một đêm, lân la hỏi han về kiếm pháp. Khách một mực tạ từ không biết. Đổng phải quỳ gối xin, lời lẽ vẫn hùng hồn trống rỗng. Khách chỉ kính cẩn lặng im ngồi nghe. 
    Đêm đã khuya. Bỗng ở nhà bên-nhà cha mẹ Đổng ở- có tiếng ồn ào mã bắt. Đổng sợ hãi không biết chuyện gì, vội chạy đến sát tườnội giámnghe. Có tiếng quát tháo: 
    - Gọi con mày ra chịu tội chết. Nếu không sẽ bắt mày. 
    Rồi tiếng đánh đập tới tấp. Tiếng rên rỉ không dứt. Đúng là tiếng cha của Đổng. 
    Đổng vớ lấy ngọn mác muốn xông sang. Khách ngăn lại: 
    - Ra khỏi đây, e anh khó thóat chết. Hãy nên xét kỹ được vẹn toàn. 
    Đổng đâm hoảng xin chỉ giáo cho, khách nói: 
    - Quân cướp tìm bắt anh là rắp tâm muốn giết anh. Anh không còn ai là cốt nhục ở đây, vậy nên dặn dò trối trăn lại vợ con đã. Tôi sẽ mở cửa giúp anh trị tội bọn ấy. 
    Đổng theo lời, vào nói với vợ. Vợ níu lấy áo khóc. Thế là bao “hùng khí” ở Đổng bỗng chốc xẹp hết. Anh ta theo khách lên lầu, tìm cung, tìm tên để đề phòng bọn cướp đánh sang. Anh ta còn hoảng hốt đã nghe tiếng khách trên mái lầu cười ha hả: 
    - May quá, cướp chạy rồi! 
    Đổng vội đốt đuốc lên, thì khách đã biến đâu mất, thập thò cổ ngó sang nhìn nhà bên thì Đổng ông đang ở hàng xóm uống rượu. Đốt đèn mời ông về nhà chỉ thấy trên sân đầy cỏ may và than bụi. 
    Mới biết ông khách lạ đó chính là dị nhân. 
    Trung hiếu là quý tính của người xưa. Xưa nay những kẻ là con không thể xả thân vì cha, lúc đầu há không có một chút toan cầm mác xông ra như Đổng ư? Cuối cùng chỉ cần trong nháy mắt lại nhầm lẫn u mê. Ngày xưa Giả Đại Thân và Phương Hiếu Nhu đã thề cùng nhau sống chết thế mà sau lại nuốt lời (1). Biết đâu khi về nhà lại nghe tiếng bạn cầu cứu ở đầu giường. 
    Làng ta có một anh lính thuộc loại vô lại. Một hôm đi đâu trở về, hắn bắt gặp một chàng trai trẻ từ trong buồng vợ mình ra. Ngờ vực, căn vặn vợ, vợ khăng khăng chối. Sau hắn bắt được tang chứng gã trai kia để lại ở đầu giường, vợ không chối được quỳ xuống khóc lóc xin tha tội. Hắn giận lắm, vứt cho cuộn dậy bắt phải thắt cổ chết. Vợ xin vào buồng trang điểm, hắn ngồi đợi ngoài, vừa rót rượu uống vừa chửi mắng thúc giục. Lát sau, cô vợ lộng lẫy trong y phục choáng lộn bước ra, nuốt lệ trách: 
    - Anh nhẫn tâm quá, nỡ bắt tấm thân xấu xa hèn mọn này chết thật ư? 
    Hắn vẫ làm vẻ tức giận, đùng đùng quát tháo ầm ĩ. Vợ không làm thế nào được đành trở vào buồng, vừa định tròng dây vào cổ thì chồng nâng chén rượu giật giọng gọi ra cười hềnh hệch: 
    - Thôi ra đây ta bảo: Một thằng khăn xanh (2) như ta lẽ nào bắt người khác chết được ư? 
    Rồi lại ăn ở với nhau khắn khít nồng nàn như thuở ban đầu. 
    Anh này cũng loại Đại Thân, Đổng Sinh. Đáng buồn cười vậy. 
     
    (1) theo Minh sử: Giả Đại Thần thời Hồng Vũ (Minh Thái Tổ, từ năm 1368) kết nghĩa cùng với một số danh sĩ trong đó có Hiếu Nhu, thề sống chết hoạn nạn có nhau. Sau Hiếu Nhu bị phanh thây ngoài chợ, có vài người bạn chết theo, còn phần lớn nuốt lời làm ngơ. 
    (2) thời Xuân Thu, ở TQ có những kẻ chuyên buôn bán đổi chác vợ kiếm lời, gọi là “xuớng phu”. Bọn này phải lấy khăn xanh bịt đầu để phân biệt với các loại người sang. Sau gọi chung những kẻ bịt đầu xanh (lục đầu cân) là loại ti tiện. 
Lấy Vợ Công Chúa

    An Đại Nghiệp, người Lô Long, mới lọt lòng đã biết nói, bà mẹ phải lấy máu chó đổ cho uống mới hết. Lớn lên đẹp trai, chẳng ai bì kịp, lại thông minh học giỏi, nhiều nhà giàu sang muốn gả con gái cho. 
    Lúc trước, bà mẹ thường chiêm bao thần dạy: 
    - Con mụ sẽ lấy công chúa. 
    Trong bụng rất tin. Nhưng con đến mười lăm, mười sáu tuổi, chưa thấy linh nghiệm, khiến bà lần hồi ăn năn mình tin thần mộng quàng xiên. 
    Bữa nọ, An ngồi một mình, chợt có mùi thơm lạ sực nức, rồi một thị nữ đẹp chạy vào nói: 
    - Công chúa đến. 
    Vừa nói vừa trải chiếu dài trên mặt đất, suốt từ ngoài cổng vào thẳng trong nhà, khít bên giường chàng ngồi. Chàng đang kinh ngạc hốt hoảng, thấy một thiếu nữ vịn vai gái hầu lững thững bước vào, y phục dung nhan sáng chiếu khắp nhà. Gái hầu lấy gối thêu, nệm gấm lót trên giường, rồi đỡ thiếu nữ ngồi xuống. 
    An luýnh quýnh không biết làm sao, vòng tay nói rất cung kính: 
    - Ngài là thần tiên ở núi nào, động nào, có lòng đoái tưởng, chịu dời gót giáng lâm nhà tôi? 
    Nàng mỉm cười, lấy tay áo che miệng không nói gì. Thị nữ nói: 
    - Đây là công chúa Vân La trong phủ Thánh Hậu. Vì Thánh Hậu để ý tới lang quân, muốn cho công chúa kết duyên, nên công chúa tự đến xem nhà cửa đó. 
    Chàng mừng quá không nói ra lời. Nàng cũng cúi đầu, ngồi đối diện nhau làm thinh. 
    Bình nhật chàng vốn thích đánh cờ, bàn cờ thường để bên cạnh. Một thị nữ lấy khăn đỏ lau bụi sạch sẽ, đem ra đặt trên bàn và nói: 
    - Thường ngày công chúa ưa cuộc tiêu khiển này, thử chơi với lang quân xem ai thắng nào? 
    Chàng dời ghế gần. Công chúa cười và gật đầu ưng thuận. Hai người qua lại độ ba chục nước, thị nữ thò tay xoá bàn cờ và nói: 
    - Thôi phò mã thua rồi. 
    Lượm quân cờ bỏ vào hộp, nói tiếp: 
    - Có lẽ phò mã là tay cao cờ ở phàm trần, công chúa chỉ có thể nhường sáu con thôi. 
    Liền chọn sáu con cờ đem ra bày lại bàn cờ, công chúa cũng gật đầu. 
    Lúc nàng ngồi đánh cờ, sai thị nữ ngồi dưới, đưa lưng cho nàng gác cẳng, còn cẳng kia thõng xuống đất, thì một thị nữ khác phục xuống mà đỡ. Hai bên hai con bé đứng hầu. Mỗi lúc An ngẫm nghĩ nước cờ khó khăn, nàng co một cánh tay gác lên vai, ngồi đợi. 
    Ván cờ đánh mãi chưa phân thắng phụ, con hầu nhỏ cười nói: 
    - Phò mã thua một con. 
    Nhân dịp, thị nữ xen vào, thưa: 
    - Công chúa đã mệt mỏi, nên dẹp đi thôi. 
    Nàng nghiêng mình nói nhỏ bên tai thị nữ điều gì không rõ. Thị nữ chạy ra, giây lát trở lại, đặt ngàn vàng trên giường và bảo chàng: 
    - Mới rồi công chúa nói nhà cửa ẩm thấp, chật chội, vậy phiền lang quân dùng số tiền này sửa sang lại, sửa xong thì sum họp đó. 
    Một thị nữ khác nói: 
    - Tháng này phạm vào sao Thiên Hình, không nên xây dựng gì cả. Qua tháng sau tốt lắm. 
    Công chúa đứng dậy, chàng ra trước mở cửa. Thị nữ lấy ra một vật trông giống như cái túi bằng da, liền gõ tại đó, tức thì có mây ở bên trong toả ra tứ phía rồi thì hợp lại, mù mịt chẳng trông thấy công chúa và bọn tuỳ tùng đâu nữa. 
    Mẹ chàng hay chuyện, ngờ là yêu quái. Nhưng chàng mơ tưởng mẩn mê, không sao quên được, lo gấp công việc cất nhà bất chấp ngày tháng kiêng kị. Chàng hối thúc thợ làm, không mấy ngày mà cửa nhà mới hẳn. 
    Nguyên trước có người học trò Loan Châu, tên là Viên Đại Dụng, đến trọ ở xóm bên, đưa danh thiếp vào tận nhà chàng để xin ra mắt. Chàng vốn ít giao du bè bạn, cho nên thác cớ đi vắng không tiếp, lại dò được hồi Viên không có ở nhà tọ, mà đến chơi đáp lễ. 
    Hơn tháng sau, thình lình gặp nhau ngoài cửa, té ra Viên là chàng thiếu niên mới ngoài đôi mươi, y phục thanh nhã. An đứng nói chuyện qua loa, thấy người rất đứng đắn, trong bụng khoái lắm, liền mời vào nhà đánh cờ tướng chơi, mỗi bên đều có hơn thua. Sau đó bày rượu ra uống liên miên, chuyện vãn cực tương đắc. 
    Ngày hôm sau, Viên mời chàng đến nhà trọ mình, cũng đãi tiệc rượu ân cần tử tế. Có thằng tiểu đồng lối mười hai, mười ba gõ nhịp ca hát và nhảy múa giúp vui. 
    Chàng say quá bước đi không nổi, Viên sai tiểu đồng cõng về. Chàng thấy nó nhỏ con, yếu đuối, sợ không cõng mình đặng, nhưng Viên một hai bảo cứ để nó cõng xem. Quả nhiên nó chàng về nhà khoẻ re. Chàng lấy làm kì. Hôm sau đem tiền đến thưởng nó, nó chối từ đôi ba phen rồi mới chịu lãnh. 
    Từ đó, Viên với chàng giao tình thân mật, cách đôi ba ngày lại đến nhà nhau một lần. 
    Viên có tính sơ sài, lặng lẽ, mà khảng khái hay giúp đỡ người ta. Trong chợ có kẻ mắc nợ phải bán con gái đi, Viên trút túi ra chuộc giùm, không có vẻ tiếc của chút nào. Vì thế An càng kính trọng. 
    Cách mấy hôm sau, Viên đến từ giã chàng, tặng những đũa ngà, kì nam, cả thảy mười món, lại thêm năm trăm đồng bạc để giúp chàng chữa nhà. Chàng trả bạc lại, chỉ lấy đồ vật, và đưa vải lụa tặng lại. 
    Vài tháng sau đó, ấp Lạc Đình có người đi làm quan xa về, hòm xiểng đầy nhóc của cải. Đêm khuya, cướp vào nhà, bắt trói chủ nhân mà nung sắt nướng kìm, tra tấn thảm độc, rồi vơ vét sạch sành sanh. 
    Người nhà biết họ Viên làm vụ đó, bèn trình báo quan sở tại. Quan tư giấy khắp nơi tróc nã. 
    Lối xóm An có nhà họ Đồ, ngày thường vốn xích mích với nhà chàng, nay thấy chàng xây dựng cửa nhà to tát, trong bụng âm thầm ghen tức. Sẵn dịp có thằng nhỏ ở của chàng lấy trộm đũa ngà, đem đến nhà Đồ dạm bán. Đồ biết là vật của Viên tặng, liền báo quan huyện. 
    Huyện sai lính kéo về bao vây nhà chàng, nhằm lúc chàng với tôi tớ vắng mặt, liền bắt mẹ chàng đi. Bà cụ già yếu lại bị kinh khủng, thở không ra hơi, luôn hai ba bữa không ăn uống gì cả, quan huyện thả cho về. 
    Chàng nghe tin mẹ, vội vã trở về nhà, thì mẹ đã bệnh nguy rồi, hôm sau qua đời. Thu liệm vừa xong còn chưa kịp chôn, thì chàng đã bị lính huyện áp giải đi. 
    Quan huyện thấy bộ tịch trẻ trung nho nhã, thầm nghĩ chàng bị vu oan, nhưng bề ngoài cũng làm ra nạt nộ. Chàng nói thật nguyên do kết bạn với Viên, không giấu một chút nào. Quan lại hỏi tự nhiên phát giàu là của ở đâu, chàng đáp: 
    - Mẹ tôi có chôn giấu được ít nhiều tiền của, nay tôi sắp sửa lấy vợ, cho nên sửa sang nhà cửa, thế thôi. 
    Quan huyện tin lời, liền viết tờ bẩm và cho lính đưa chàng lên quận xét nghỉ. Thằng cha hàng xóm là họ Đồ kia, biết thế nào lên quận chàng cũng vô sự, bèn đem nhiều tiền hối lộ cho tụi lính áp giải để chúng giết chàng ở dọc đường là xong. 
    Đường đi lên quận, phải qua núi sâu, lính kéo chàng đến sườn núi lởm chởm, rồi đấy xuống vực sâu là rồi đời. Giữa lúc thiên nguy vạn cấp đó, bỗng dưng một con cọp từ trong bụi rậm nhảy ra, cắn hai tên lính chết rồi tha chàng đến một nơi có lâu đài nguy nga, bỏ nằm ở đó. 
    Chàng hồi tỉnh, mở mắt thấy Vân La công chúa vịn vai thị nữ đi tới, nức nở chia buồn với chàng rồi nói: 
    - Thiếp muốn giữ lang quân ở lại đây, nhưng nghĩ lại chàng còn việc tang bà cụ chưa chôn cất xong, mà dính với quan nha cũng đang lỡ dở, nên ở lại đây không tiện. Vậy chàng nên cầm lấy tờ bẩm, lên quận tự nạp mình, chắc chắn là vô sự đó. 
    Nói đoạn lấy sợi dây lưng trước bụng chàng, thắt lại hơn mười nút, dặn dò chàng khi đứng trước mặt quan cứ lần mở những nút này, tức thì tia qua nạn khỏi. 
    Chàng nghe lời khuyên bảo, một mình đến quận, tự đầu. Quan thái thú mừng là người thành thực, lại xem tờ bẩm, hiểu rõ oan tình, liền phê cho chàng về. 
    Về nửa đường gặp Viên, xuống ngựa cầm tay, kể lể tình trạng rắc rối bấy lâu. Viên nghe tức giận xám mặt, làm thinh không thốt lời. Chàng nói: 
    - Vẻ người như anh, làm chi tới chuyện trộm cướp để tự nhơ xấu danh tiếng. 
    Viên đáp: 
    - Tôi giết toàn hạng người bất nhân, tôi lấy toàn là tiền của phi nghĩa. Không vậy thì của bỏ rơi ở đường cũng không thèm lượm. Điều anh khuyên răn tôi rất phải, nhưng xin hỏi thứ người như thằng cha lối xóm nhà anh, có nên để nó sống ở trên đời không chớ? 
    Nói xong chào biệt, thúc ngựa đi thẳng. 
    Chàng về chôn cất mẹ rồi, đóng cửa tạ khách. Bỗng một đêm, trộm vào nhà hàng xóm, cha con trên mười người, đều bị giết sạch, chỉ chừa lại một con ở. Giết xong cuốn gói tiền của đồ vật, chia bớt cho tiểu đồng mang xách. Lúc ra đi, lấy đèn soi mặt và bảo con ở: 
    - Mi nhìn cho kĩ nghe. Giết người nhà này là tao đây, chứ không dính dấp tới ai. 
    Nói đoạn không cần mở cửa, hai thầy trò vọt lên mái nhà, nhảy qua vách tường đi mất. 
    Hôm sau, vụ án này đến quan. Quan ngờ An sinh hay biết, lại bắt chàng đi, trừng mắt xem hỏi cực nghiêm. Chàng đứng giữa công đường, tay rờ vào dây lưng thắt nút, vừa tranh biện vừa cởi nút ra, quan không có chỗ nào buộc tội, lại tha cho về. 
    Lần này được về, chàng lại càng giữ gìn, chỉ ở nhà đọc sách, không đi đầu nửa bước, nội nhà chỉ có một vú già khập khiễng lo việc cơm nước mà thôi. Mãn tang mẹ rồi, ngày ngày quét dọn nhà cửa chờ đợi tin lành. 
    Một hôm, mùi hương lạ thơm ngát trong nhà. Chàng leo lên gác xem, thấy trong ngoài đã bày biện khác hăn, cuốn rèm lên thì thấy công chúa đã ngồi chững chạc từ hồi nào rồi. Chàng vội vàng vái chào, nàng nắm lấy tay và nói: 
    - Chàng không tin số, thành ra xây dựng nhà cửa lỗi thời gây nên tai vạ, lại thêm tang tóc, làm trễ cuộc sum họp của chúng ta mất ba năm. 
    Muốn gặp, té ra lại chịu trì hoãn, ấy việc đời đại khái như thế cả. 
    Chàng tính lấy tiền cho mụ vú đi chợ, nàng gạt đi bảo không cần. Thị nữ lấy trong rương ra các món đồ ăn nóng sốt, như mới xào nấu dưới bếp đem lên, rượu cũng thơm ngon lạ lùng. Hai người uống rượu nói chuyện một lúc thì trời đã sẩm tối, mấy con hầu đưa lưng cho nàng gác cẳng đều tản mát đi hết. Nàng uể oải tay chân, co duỗi bắp đùi, dường như không che đậy gì cả. Chàng liền ôm nàng hôn hít. Nàng nói: 
    - Khoan đã! Chàng hãy buông tay ra, em giao hẹn câu này. Bây giờ có hai cách, chàng muốn chọn cách nào? 
    Chàng ôm cổ nàng và hỏi hai cách nào. Nàng đáp: 
    - Em với chàng, nếu kết bạn chén rượu cuộc cờ, thì được tụ họp đến ba chục năm, còn nếu kết bạn thú vui chăn gối, thì chỉ được sum họp sáu năm thôi. Chàng chọn cách nào? 
    Chàng cao hứng quá, nói đại: 
    - Hãy được sáu năm rồi sau lại tính. 
    Nàng làm thinh. Hai người giao hoan. Nàng nói: 
    - Em vốn biết chàng không sao tránh khỏi thú vui phàm tục, âu cũng là số mạng khiến vậy. 
    Rồi đó khuyên chàng nuôi thêm vú già con hầu, cho ở riêng căn nhà phía nam, lo việc thổi nấu cơm nước và kéo sợi dệt vải làm sinh kế. Còn ở căn nhà phía bắc tịnh không khói lửa, bên trong chỉ có bình rượu bàn cờ mà thôi, cửa đóng kín tối ngày. Chàng đẩy nhẹ thì cửa tự mở ra, ngoài chàng, không ai được tới đó. Tuy thế những người ở căn nhà phía nam làm việc chăm chỉ hay trễ nải, nàng đều biết rõ, thường khi bảo chàng qua rầy mắng người nào, thì người ấy phải chịu lỗi ngay. 
    Nàng không nói nhiều lời, không cười nói lớn tiếng, cùng chàng nói chuyện gì, chỉ cúi đầu cười nụ, hễ sánh vai ngồi thì ưa nghiêng mình dựa vào chàng. Có khi chàng ẵm nàng lên đầu gối, thấy nhẹ như ẵm trẻ thơ. Chàng nói: 
    - Nàng nhẹ thế này, có thể đứng trên bàn tay người ta múa được. 
    Nàng trả lời: 
    - Chuyện đó có khó khăn gì đâu, có điều chỉ là phần việc của mấy con thị nữ, tôi không thèm làm đó thôi. Ví dụ con Phi Yến mà sách vở trần gian vẫn ca tụng đó, nguyên là thị nữ của chị Chín tôi, hay lẳng lơ mà bị tội, đày xuống trần gian, lại không biết giữ trinh tiết, cho nên bây giờ đang bị nhốt kín một nơi. 
    Trên gác trải đầy đệm gấm, mùa đông chẳng thấy lạnh, mùa hạ chẳng thấy nóng. Giữa mùa đông lạnh lẽo cắt ruột, nàng cũng mặc áo mỏng và nhẹ. Chàng may áo mới, ép nàng phải mặc, nàng vì nể, mặc vào chốc lát, cởi ra nói: 
    - Vật phàm ô trọc đè nặng vào xương cốt đến thành bệnh lao chết. 
    Một hôm chàng ẵm nàng trên gối bỗng thấy nặng khác mọi ngày, lấy làm lạ. Nàng cười trỏ vào bụng: 
    - Trong này có giống phàm tục rồi. 
    Cách mấy hôm sau, nàng ngỏ ý muốn ăn đồ nấu nướng, chàng liền mua sắm những món lạ cho nàng ăn. Từ đó nàng ăn uống không khác gì người thường. Một bữa, nàng nói: 
    - Em vốn ốm yếu, không kham nổi việc sinh sản, con thị nữ Phàn Anh khoẻ mạnh, vậy để nó thay em. 
    Nói đoạn cởi áo lót mình, mặc vào cho Phàn Anh rồi nhốt nó trong phòng. Giây lát nghe tiếng trẻ khóc, mở cửa ra coi té ra con trai. Nàng mừng và bảo: 
    - Thằng con này có phúc tướng, chắc sau thành người khá to, nên đặt tên là Đại Khí. 
    Nàng ẵm con trao cho chàng đưa về căn nhà phía nam cho vú sữa nuôi. Từ khi nàng thoát nợ sinh sản, vóc vạc lại nhỏ thó như cũ và không ăn vật thực phàm trần nữa. Bỗng từ biệt chàng để về thăm nhà. Hỏi bao giờ trở lại, nàng đáp là ba ngày. Lúc đi, lại có túi da tuôn mây rồi biến đi như bận trước. 
    Đến kì hẹn, không thấy nàng về. Hơn một năm bặt luôn tin tức, chàng đã tuyệt vọng, bèn đóng cửa đọc sách, thi đậu cử nhân, song không chịu lấy vợ, mỗi đêm nằm ngủ một mình ở căn nhà phía bắc, tắm gội với hương thừa hãy còn phảng phất. 
    Đêm nọ, thao thức trên giường không ngủ, chợt thấy đèn lửa sáng trưng, rọi qua cửa sổ, rồi thì cửa giữa tự mở, bọn thị nữ xúm đỡ công chúa bước vào. Chàng mừng hết sức, vùng dậy chào hỏi và trách lỗi sai hẹn. Nàng nói: 
    - Em có sai hẹn đâu nào. Trên trời mới có hai ngày rưỡi đó thôi. 
    Chàng khoe khoang thi đâu, ý hẳn nàng mừng. Không dè nàng buồn rầu và nói: 
    - Ôi! Cái thứ danh vọng thoảng qua đó có nghĩa lí gì đâu. Chẳng qua làm tội người ta tổn thọ thì có. Ngờ đâu vắng mặt có ba bữa mà chàng đã vương phải tục luỵ sâu thêm một lớp nữa rồi. 
    Chàng nghĩ lời vợ nói phải, cho nên từ đó không muốn học hành thi cử gì hơn nữa. Cách mấy tháng nàng lại đòi về thăm nhà. Chàng bịn rịn không muốn cho vợ đi, nhưng nàng năn nỉ bằng được: 
    - Chuyến này em trở về mau, không để cho chàng trông đợi như kì trước. Vả lại, đời người biệt li đều có định số, mình xem trọng quá thì thấy nó dài, mặc kệ nó thì thấy nó ngắn mà. 
    Nàng ra đi, hơn tháng trở lại. Từ đấy thành lệ một năm hay nửa năm, có đi một kì, chừng vài tháng lại về, chàng thấy sự thường, không lạ gì nữa. 
    Vợ chồng ăn ở với nhau, lại sinh hạ thêm đứa con trai. Nàng ẵm lên và nói: 
    - Thằng này sài lang, nên bỏ đi, chớ nuôi. 
    Nhưng chàng không nỡ lòng bỏ, cứ để lại nuôi, đặt tên là Khả Khí. Vừa mới đầy năm, nàng đã gấp tìm nơi hỏi vợ sẵn sàng cho nó. Các bà làm mai mách mối, tới lui liền liền. Nàng hỏi tuổi đứa con gái kĩ lưỡng, đứa nào cũng chê không hợp, than thở rằng: 
    - Ta có ý muốn mưu sẵn một cái chuồng sắt để nhốt thằng con hùm beo này, mà mưu không thành, âu cũng là số. 
    Đoạn, dặn dò chồng: 
    - Chàng nhớ bốn năm sau, Hầu thị sinh đứa con gái, sườn bên tả có cái bướu nhỏ, chính là vợ của thằng Khả Khí đó. Chàng nên dạm hỏi cho nó, bất chấp nhà gái sang hèn gì cả. 
    Nàng nói rồi, buộc chàng chép vào giấy tức thời cho khỏi quên. Sau đó nàng lại về thăm nhà. Bận này đi luôn không trở lại nữa. 
    Chàng nhớ lời vợ căn dặn, thường cậy bạn thân đi hỏi, quả có Hầu thị sinh ra đứa con gái mọc bướu cạnh sườn, nhưng Hầu thị là người hèn hạ mà tính tình rất xấu, không ai thèm chơi với. Chàng mặc kệ, cứ việc cậy mối lái đi hỏi con gái Hầu thị cho thằng Khả Khí. 
    Con trưởng là Đại Khí mười bảy tuổi thi đậu, cưới vợ họ Vân. Hai vợ chồng đều hiếu hạnh, chàng rất yêu chuộng. Còn Khả Khí càng ngày lớn lên, xem chừng không thích học, chỉ lén ăn cắp tiền nhà đi cờ bạc với bọn vô lại, dần dà lấy trộm cả đồ vật đem bán để trả nợ chơi bời. Cha giận đánh đòn nhiều trận, nhưng chứng nào vẫn giữ tật ấy không chừa. Thế rồi cả nhà bảo nhau đề phòng, không thể lấy gì được nữa, bèn đi đêm ăn trộm lặt vặt của người ta, bị chủ nhà bắt trói dẫn lên huyện. Quan huyện xem rõ tên họ, viết danh thiếp cho lính đưa trả về nhà, nhưng cha và anh cùng trói lại. Cha lại đánh suýt chết, anh phải lạy lục năn nỉ hộ, cha mới chịu tha. 
    Vì đó cha phẫn uất sinh bệnh, kém ăn, bèn làm tờ chia của cho hai con. Những nhà lầu, ruộng tốt đều về phần Đại Khí. Thấy vậy Khả Khí tức tối, nửa đêm xách dao vô buồng toan giết anh, nhưng chém lầm phải chị dâu. Nguyên trước công chúa có để lại chiếc áo cũ, nhẹ và mềm nhuyễn, anh giữ làm áo ngủ, giờ Khả Khí chém vào áo nảy lửa, cháy lập loè tứ tung làm hắn ta sợ hãi chạy mất. 
    Cha hay việc này, bệnh nặng thêm, mấy tháng sau thì mất. Khả Khí nghe tin cha qua đời mới mò về. Anh đối đãi tử tế, nhưng hắn ngày càng hư, chỉ hơn một năm, phá hết điền sản của cha chia cho, rồi làm đơn thưa anh tại quận. Quận thừa biết là người thế nào cho nên xé đơn đuổi về không xét. Tình nghĩa anh em thành ra đoạn tuyệt từ vụ đó. 
    Cách hơn năm sau, Khả Khí hai mươi ba tuổi. Hầu nữ mười lăm rồi, anh nhớ lời mẹ dặn dò, muốn gấp cưới vợ cho xong, liền kêu Khả Khí về nhường toà nhà đẹp cho ở. Khi cưới vợ về nhà, anh lại đem bao nhiêu ruộng tốt cha để lại, toàn số giao cho và nói với em dâu rằng: 
    - Mấy đám ruộng này, bấy lâu anh cố sống cố chết giữ gìn hộ, ngày nay anh giao lại hết đó. Em tôi vốn mất nết, dù cho nó nhiều ít gì cũng đều như của bỏ. Từ đây về sau, nên hay là hư cốt ở nơi thím. Nếu chú nó biết sửa nết, chịu khó làm ăn, thì chả phải lo đói rét, không vậy thì anh đây cũng chịu phép không lấy gì mà lấp đầy cái vực sâu không đáy kia đặng. 
    Hầu nữ tuy là con nhà hèn mọn, nhưng thông minh, có sắc. Khả Khí vừa yêu vừa sợ, nàng bảo gì cũng không dám trái ý. Đi đâu, hẹn giờ khắc mà về không đúng thì nàng nhiếc mắng, không thèm ngồi ăn uống chung. 
    Nhờ vậy, Khả Khí cũng chừa bớt lêu lổng ít nhiều. Hơn năm sau, sinh đứa con trai, Hầu nữ nói: 
    - Từ nay, chẳng cầu gì ai. Mấy đám ruộng tốt đó, ta lo cày cấy, mẹ con no ấm có thừa, bây giờ chẳng có chồng cũng chẳng cần. 
    Có hôm Khả Khí xúc trộm lúa đi bán để đánh bạc, vợ hay, cầm cung tên đứng chặn ở cửa để chống cự. Khả Khí sợ quá, lẩn trốn mất mặt. Chừng dòm thấy vợ vào trong nhà rồi, lại mon men trở vào, định lấy lúa cho bằng được. Không ngờ vợ xách dao rình sẵn. Khả Khí bỏ chạy, vợ rượt theo chém trúng mông, máu tuôn đẫm ướt giày tất, liền đến mách với anh, nhưng anh mặc kệ, đành hổ thẹn ra đi. 
    Sáng hôm sau lại bò về, quỳ trước mặt chị dâu mà khóc lóc kêu ca, nhờ chị nói giùm để vợ cho về nhà. Vợ nhất định không nghe. Khả Khí nổi xung định giết chết vợ. Anh cũng mặc kệ, không nói gì. Khả Khí càng phẫn, xách ngọn mác hầm hầm ra đi. Chị sửng sốt, toan chạy theo ngăn lại, nhưng anh đưa mắt ra hiệu bảo đừng, chờ cho Khả Khí đi rồi, mới cắt nghĩa: 
    - Nó làm bộ tịch vậy đó, cho ăn kẹo cũng không dám vác mặt về. 
    Nói rồi, sai người theo dõi, thì Khả Khí đã bước vào trong nhà rồi. Bấy giờ anh mới đâm lo tính, chạy theo can gián cho kịp, chẳng dè đến nơi, thì Khả Khí đã cúi mặt nín thít đi ra. Té ra chàng vào nhà, vợ đang đùa giỡn với con, thoáng trông thấy, liền đặt con trên giường, vào bếp xách con dao bổ củi ra. Chàng hết hồn hết vía, kéo lê ngọn mác chạy mất. Vợ rượt theo tới ngoài cổng mới chịu lui. 
    Anh biết rõ sự tình như vậy, nhưng làm bộ như không biết, cố ý gạn hỏi đã đâm vợ chết rồi chưa. Khả Khí chỉ úp mặt vào tường mà khóc nức nở, hai mắt đỏ ngầu. Anh động lòng thương, tự dắt Khả Khí vào nhà, vợ mới chịu tiếp. Chờ anh đi rồi, phạt chàng quỳ dưới đất, buộc phải thề độc, bấy giờ mới lấy cơm đựng vào tô xấu cho ăn. 
    Từ đó chàng sửa nết làm lành, vợ lại chịu khó chăm nom công việc làm ăn, thành ra nhà được phong túc. Chàng chỉ có việc ngồi ăn sẵn mà thôi. Đến năm bảy mươi tuổi, con cháu đầy nhà, còn có lúc bị vợ nắm râu bạc và bắt quỳ. 

Thiên Cung
    Quách sinh, người kinh đô, tuổi ngoài hai mươi, dung mạo đẹp đẽ. Một buổi chiều tà có bà già mang đến cho một chén rượu. Sinh hỏi duyên cớ, bà già cười bảo: “Không phải hỏi, uống đi, sẽ thấy cảnh tuyệt vời”. Nói rồi đi, Sinh nâng chén khẽ nhấp, thấy hương thơm tỏa khắp. uống vào rồi, say lịm đi không biết gì nữa. 
    Tỉnh ra Quách thấy mình nằm với một người. Sờ soạng thấy da thịt mềm mại, mùi hương sực nức, thì ra là con gái. Hỏi không nói, chẳng cần biết sấp tẻ. Quách cứ làm tới luôn. Xong rồi, lấy tay sờ mó xung quanh thấy bức vách toàn đá, không khí âm ấm hơi đất như ở trong mộ vậy. Hoàng quá, Quách nghi là quỷ bẫy. Thủ thỉ với cô gái là thần gì, cô gái đáp: 
    - Ta không phải là thần mà là tiên. Đây là động phủ. Ta với anh vốn có túc duyên, xin chớ ngờ vực, cứ ở lại đây. Vào qua một lần cừa nữa, nơi có ánh sáng lọt vào có thể đại tiểu tiện được. 
    Dặn rồi cô gái trờ dậy, đóng cửa đi mất. lâu sau, bụng Quách đã đói, một cô gái mang bánh bao canh vịt cho ăn. Xung quanh vẫn cứ đen như mực, không biết sớm tối. Chỉ khi cô gái vào ngủ mới đoán là đêm. Quách bực dọc bảo: 
    - Ngày không ánh nắng mặt trời, đêm không tia đèn lửa, ăn uống không biết mồm ở đâu. Cứ thứ này, nàng Hằng Nga có khác gì mụ La Sát, thiên đường không phân biệt với địa ngục. 
    Cô gái cười an ủi: 
    - Vì anh là người trần tục hay bép xép cho nên ta không muống lộ mặt. Vả lại ăn nằm trong bóng tối, méo tròn đẹp xấu cũng có thể phân biệt, hà tất phải đèn đuốc làm gì? 
    Ở mấy ngày buồn quá, Quách đòi về. Cô gái bảo: 
    - Đêm mai cùng chàng lên thiên cung rồi sẽ chia tay. 
    Hôm sau cô tiểu hoàn xách đèn lồng vào bảo: 
    - Nương tử đợi chàng lâu rồi. 
    Quách đi theo, trong ánh sao vằng vặc, thấy vô số lầu gác. Qua mấy khúc hành lang chạm vẽ thì đến một nơi: trên thềm treo rèm châu, đèn đuốc sáng tựa như ban ngày. Bước vào thấy một mỹ nhân tuổi trạc hai mươi, ngồi quay hướng nam, trang sức cự kỳ hoa lệ, đầu đính minh châu, áo gấm hoa mắt, quần sa bóng lộn, đúng là người trời. Quách bối rối, người như mụ đi, bất giác quì xuống. Mỹ nhân sai nữ tì đỡ dậy, dìu vào ghế. Lát sau các món sơn hào hải vị bày la liệt. Mỹ nhân rót rượu mời: 
    - Nâng chén rượu này để tiễn chàng về. 
    Quách gập mình thưa thốt: 
    - Trước đây giáp mặt mà không biết người tiên, thực lấy làm xấu hổ. Xin cho chuộc lỗi, được làm kẻ bầy tôi suốt đời không hai lòng. 
    Mỹ nhân đưa mắt nhìn tì nữ cười mủm mỉm, sai thu tiệc soạn giường. 
    Trong nội thất cũng thướt tha trướng gấm,, chăn gối nức hương. Mỹ nhân bảo Quách ngồi vào giường. Trong lúc uống nàng nhắc mấy lần: 
    - Chàng xa nhà lâu, nay về cũng được. 
    Đã hết canh một, Quách vẫn chưa ngõ lời từ biệt. mỹ nhân gọi nữ tỳ xách lồng đèn đưa tiễn. Quách nín thít giả vờ say rượu nằm lăn ra giường, lay gọi không dậy. Nàng sai các tì nữ cởi quần áo. Một cô gí vào chỗ kín của Quách giỡn: 
    - Anh chàng mặt mũi có vẻ ôn nhã mà cái của này lại chẳng “văn vẻ” tí nào! 
    Họ đưa Quách vào trong giường khúc khích đi ra. Mỹ nhân cũng lên giường. Quách trở mình. Nàng hỏi: 
    - Say à? 
    - Tiểu sinh có say đâu! Chỉ mới thấy người tiên, thần hồn đã nghiêng ngửa. 
    Mỹ nhân dặn: 
    - Đây là thiên cung, gần sáng phải ra. Vào trong động phủ nếu hiềm không vừa ý, chi bằng sớm từ biệt. 
    Quách gạ khéo: 
    - Nay có người ban đêm nhặt được đóa hoa đẹp, chỉ cầm cánh ngửi hương mà không thấy sắc màu thì tình cảnh ấy làm sao chịu được? 
    Nàng cười lấy đủ đèn đến, sáng trưng. 
    Vừa sang canh tư, mỹ nhân đã gọi nữ tì mang đèn lồng, ôm áo, đưa Quách vào động ngủ. ở đây các đồ trang sức màu hồng tinh xảo, nơi ngủ thì nệm da, thảm lông dày dặn. Quách cởi giày ôm chăn, ả nữ tì còn bần thần quanh quẩn chưa đi. Quách để ý nhìn kỹ thất phong tươi tốt, liền cợt nhả: 
    - Có phải cô bảo tôi cái của ấy không “văn vẻ” phải không? 
    Ả cười, lấy chân đá cái gối nói: 
    - Thôi anh cứ nằm đờ ra đi cho được việc, đừng lắm lời nữa. 
    Nhìn đôi giày của ả có đính ngọc châu long lanh, to như hạt đậu lớn, Quách nắm lấy kéo ả vào, ả ngã vào lòng Quách, rồi ôm lấy nhau, hú hí rên rỉ mãi. Quách hỏi: 
    - Bao nhiêu tuổi rồi? 
    Đáp: 
    - Mười bảy. 
    - Xử nữ đã biết thế nào là tình chưa? 
    - Em không còn là xử nữ, song hoang vắng đã ba năm nay rồi. 
    Quách hỏi dò họ tên, tông tích tiên nữ bấy lâu chung đụng, ả nữ tì dọa: 
    - Chớ hỏi! Không phải là tiên nữ trên thượng giới thì cũng là dị nhân ở trần gian. Nhược bằng muốn biết tỉ mỉ chuyện đó thì e rằng không có đất mà chôn. 
    Thấy nói thế, Quách không dám hỏi thêm. 
    Đêm sau nữa nữ nhân lại mang đèn tới, cùng nhau ăn ngủ liền liền như vậy. Một tối, nàng bảo: 
    - Những ước được cùng nhau vui vầy mãi mãi, không ngờ tình người ngăn trở, nay phải quét dọn thiên cung, cho nên không thể ăn nằm với nhau được nữa. Xin cùng chuốc chén từ biệt. 
    Quách khóc, xin một vật gì làm kỷ niệm ái ân. Cô gái không cho, chỉ tặng một cân vàng, trăm hạt ngọc châu. 
    Hết canh ba, Quách bỗng say lịm, tỉnh dậy thấy tứ chi bị trói rất chặt, chân không thể duỗi, đầu không thể thò ra, hết sức giãy giụa thì lăn xuống chân giường. Quách lấy tay sờ đoán thì biết mình bị nhét vào trong túi chăn gấm, ngoài nịt chặt dây. Ngồi dậy đắn đo suy gẫm, thoáng thấy cái giường mới biết đây là nhà mình. 
    Tính đến bây giờ, Quách biệt tích đã ba tháng, người nhà đều cho là anh ta đã chết. Giải thoát được rồi, lúc đầu Quách chưa dám ngỏ chuyện cùng ai, chỉ sợ bị tiên trừng phạt. Song mối ngờ vực vẫn day dứt trong lòng, dần dà anh ta thuật lại với bạn. Không ai biết duyên cớ ra sao. Cái chăn bọc anh ta vẫn gấp để đầu giường mùi hương sực nức, giở ra xem kỹ thì đó là loại vải Hồ Châu tẩm hương liệu, liền trân trọng giấu đi. Sau có một quý quan biết chuyện ấy, hỏi căn hỏi vặn đến điều rồi cười mà bảo: 
    - Đó là ngón chơi của Giả hậu (1) bắt đĩ đực về đấy. Tiên nào lại như thế. Tuy nhiên phải hết sức giữ kín chuyện, lộ ra là chết cả họ. Có người thầy bói thường ra vào các nhà quyền quý, nói rằng hình dạng các lầu gác như Quách kể đúng là dinh Nghiêm Đông (2) rồi không sai. 
    Quách nghe thấy vậy, vô cùng sợ hãi, vội đưa cả gia đình đi nơi khác, ít lâu sau Nghiêm bị giết mới dám mon men trở về. 
     
    (1) Giả hậu: hoàng hậu của Tấn Huệ Đến, là người vô cùng dâm đãng, thường sai các mụ hầu ra ngoài tìm kiếm các trai tơ khỏe đẹp mang vào trong cung cấm để thỏa mãn lòng dục. 
    (2) Nghiêm Đông là tên hiệu của Nghiêm Thế Phan, con Nghiêm Tung đời Minh. Nhà này ỷ thế làm quan to người quyền thế, cho nên nhà cửa vô cùng xa hoa, đời sống hết sức phóng đãng, dâm dật. 
Giấc Mộng Đắc Chí

    Vương Tử An, danh sĩ đất Đông Xương, trầy trật hoài trong sự lều chõng Khoa ấy, vào trường thi hương xong rồi, Vương rất mực tin tưởng. Gần đến ngày treo bảng xướng danh, uống rượu say mèm về nằm ở buồng trong. 
    Bỗng có người đến bẩm: 
    - Ngựa đã tới! 
    Vương chồm dậy bảo: 
    - Thưởng cho người báo mười nghìn! 
    Người nhà biết là say, nói theo đà để cho Vương yên: 
    - Xin ngủ cho! Thưởng rồi. 
    Vương nằm ngủ yên. 
    Lát sau có người vào bẩm: 
    - Ngài đỗ tiến sĩ rồi! 
    Vương nói rằng mình chưa về Kinh thi Hội làm sao đỗ tiến sĩ? Người ấy nói: 
    - Ngài quên rồi ư? Đã qua tam trường rồi. 
    Vương mừng quá, trỗi dậy gọi: 
    - Thưởng người báo mười nghìn! 
    Người nhà lại nói gạt: 
    - Xin cứ ngủ đi! Đã thưởng rồi. 
    Không lâu, một người vội vã vào bẩm: 
    - Ngài được bổ vào viện Hàn Lâm, ông trưởng ban cũng đã đến. 
    Nhìn ra, quả có hai người, áo mũ chỉnh tề đang sụp lạy dưới giường. Vương gọi dọn rượu khoản đãi. Người nhà lại nói lừa cho ngủ và cứ cười mãi sao ông ta say quá thể như thế. 
    Vương lại nghĩ không thể không đi ra ngoài cho vẻ vang làng xóm, liền cất tiếng gọi to trưởng ban. Gọi đến hơn chục lần, không thấy ai thưa. Người nhà cười mà bảo: 
    - Xin tạm nằm đợi một chút, đã sai người đi tìm ông ta rồi. 
    Rồi trưởng ban tới thật. Vương đập giường giậm chận mắng: 
    - Đồ rùa! 
    Trưởng ban nổi giận cãi lại: 
    - Thực là đồ vô lại! Tôi chỉ muốn đùa ông một chút mà ông mắng thật à? 
    Vương tức lắm vùng dậy tát cho ông ta một cái làm rơi cả mụ xuống đất. Vương cũng ngã theo. Bà vợ đỡ dậy bảo: 
    - Trời ơi! Sao mà say thế này? 
    Vương lẩm bẩm: 
    - Tên trưởng ban ăn hại, tôi phải trị nó. Say đâu mà say! 
    Bà vợ cười: 
    - Trong nhà chỉ có bà lão giúp việc, ngày thổi cơm, đêm đốt lò cho ông, làm gì có trưởng ban, trưởng biếc gì? Thôi, đến khi ông rạc xương ra. 
    Con cái trong nhà đều cười phá. 
    Cơn say của Vương rồi cũng dần phai đi. Vương như vừa tỉnh mộng mới biết những việc xảy ra vừa qua đều là ảo cả. Song ông ta vẫn nhớ việc trưởng ban rơi mũ. Tìm ở sau cửa thì thấy một cái núm dải mũ to như cái chén. Mọi người đều lấy làm lạ. 
    Vương tự cười rằng: 
    - Xưa thì người bị quỷ trêu cợt, còn nay ta bị hồ báng bổ sỉ nhục. 
    LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢ 
    Tú tài của trường thi có bảy cái “giống như”: 
    * Lúc mới vào trường, chân trắng vác chõng giống như ăn mày. 
    * Lúc gọi tên, quan thét lệ mắng giống như tù nhân. 
    * Lúc về nhà trọ, hốc vách rút đầu, buồng buồng thò cẳng, giống như ong lạnh cuối thu. 
    * Lúc ra khỏi trường thi, tâm thần thản thốt, trời đất đổi màu giống như chim ốm rời lồng. 
    * Lúc đợi yết bảng thì cây cỏ đều kinh, mộng tưởng cũng ảo. Nếu đỗ ư, thì khoảnh khắc đã này lầu này gác! Nếu trượt ư, thì nháy mắt xương cốt mục ra. Lúc ấy thôi đứng ngồi không yên giống như con khỉ bị bắt. 
    * Lúc xướng danh không có tên thì tinh thần đổ sụp người chết lặng đi giống như con nhặng nhả bả,có ai trêu đùa cũng thây kệ. 
    *Sau đó bất đắc chí mắng quan trường mù, bút mực không thiêng. Mọi vật dụng học hành đều đem đốt. Đốt không hết thì đập vỡ. Đập không hết thì đem ném xuống nướcbẩn. Từ đó xõa tóc vào núi tu tiên, úp mặt vào vách đá. Nếu có người thương tình bảo sẽ tiến cử, nhất định giơ dao dọa đuổi. Rồi thánh ngày qua mau, cơn uất hận tạm lắng, tài cũng dần mòn đi, chẳng khác gì con chim cưu vỡ trứng, thôi thì đành lại cõng rác làm tổ, ôm ấp trứng mà thôi. 
    Tình cảnh đến như vậy, người trong cuộc khóc thương tưởng chết mà người ngoài cuộc đứng nhìn chỉ thấy thật là đáng cười. 
    Tấc lòng Vương Tử An ngổn ngang muôn nỗi, chắc rằng quỷ, hồ cười trộm đã lâu mới nhân bị say mà đùa trêu như thế. Con người trên giường tỉnh rượu, há không phá lên mà tự cười mình sao? Thử xem cái ý vị khoa bảng đắc chí chẳng qua trong một lát, các ông nên danh nên giá chỉ trong đôi ba lát. Thế mà mới trong một sớm Vương Tử An đã được nếm hết. Cái ơn của hồ đáng là ơn bậc thầy vậy. 

 Nguồn music.vietfun.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved