Lời tựa
Tôi còn nhớ một câu
chuyện ngụ ngôn Á Rập rất ngộ nghĩnh sau đây do văn sĩ Anatole France thuật
lại: Có một nhà vua gọi các bậc trí gia trong nước, bảo tìm tòi và mang lại cho
ông sự khôn ngoan. Các nhà bác học ấy sưu tầm tất cả các sách vở hay nhất trong
nước để chở đến cho nhà vua. Nhà vua đang bận vui chơi trong một yến tiệc nên
không có ngày giờ đọc. Người nói: "Nhiều quá! làm sao đọc hết được? Suốt
đời ta cũng không đọc hết. Các ngươi hãy tuyển lại trong đống sách ấy những
quyển nào hay nhất và cần thiết nhất thôi".
Các nhà bác học ngày đêm
tuyển chọn, còn được một số sách hay nhất, bèn đem chở đến nhà vua. Bấy giờ nhà
vua đang mơ màng buồn ngủ, bèn bảo: "Vẫn còn nhiều quá! Các khanh cố gằng
thêm lên, đọc lại thật kĩ các sách này và tóm tắt lại tinh hoa của nó, viết lại
thành một quyển sách thôi, rồi ta sẽ đọc quyển ấy để thu nhập sự hiểu biết của
những bậc thông minh nhất thế giới từ cổ chí kim, có phải tiện hơn không?"
Các nhà bác học uyên
thâm nhất lại cặm cụi cả năm trời mới rút đặng tinh hoa vào một bộ sách duy nhất.
Lòng mừng khấp khởi rồi vị cao niên nhất trong các nhà thông thái ôm bộ sách
quí ấy vào đền. Nhà vua cũng vẫn chê là còn dài dòng lắm: "Khanh hãy cố
gắng rút tất cả tinh hoa bộ sách này làm thành một câu thôi, như thế ta chỉ học
lấy câu ấy để biết được tất cả cái biết của con người từ xưa đến nay, trong
khắp thiên hạ".
Nhà thông thái trở về,
và sau một tháng trở vào triều, cầm theo câu tư tưởng tinh hoa của tất cả sự
hiểu biết của con người, viết trên một tấm lụa ngà: "Con người sinh ra yếu
đuối, trần truồng. Càng ngày càng lớn hơn, về sức mạnh cũng như về dục vọng,
nhưng lòng tham muốn lại không bao giờ thỏa mãn. Rồi tàn tạ, rồi tiêu
vong..."
Nhà vua đang bận sửa
soạn ra quân, tỏ vẻ giận dữ nói: "Điều ấy có gì mà phải nói. Ta đã biết dư
rồi! Các anh toàn là bọn láo cá!".
* * *
Câu chuyện này muốn nói
gì thế? Theo Charles Baudoin, thì trong những ý kiến các trí gia xưa nay ý kiến
này của Alain có lẽ là đúng nhất: [b]"Văn hóa là điều không thể truyền
được mà cũng không thể tóm tắt lại được".
Tôi cũng nhìn nhận lối
nhận xét trên đây của Alain là đúng. Như thế, sao lại còn viết ra quyểnTôi tự
học để làm gì?
Tự học là một nghệ
thuật. Là nghệ thuật thì không thể truyền được. Trang Tử cũng có câu chuyện ngụ
ngôn sau đây, gẫm rất là ý vị: "Hoàn Công đọc sách ở trên lầu. Có người
thợ mộc đang đẽo bánh xe ở nhà dưới, nghe tiếng đọc, bỏ chàng, đục, chạy lên
thưa với nhà vua:
-"Xin hỏi nhà vua
học những câu gì thế?"
Hoàn Công nói:
-"Ta đọc những câu
của thánh nhân".
-"Thánh nhân hiện
còn sống không?".
-"Đã chết cả rồi?".
-"Thế thì những câu
nhà vua đọc chỉ là cặn bã của cố nhân đấy thôi".
-"À, anh thợ ! Ta
đang đọc sách, sao dám được nghị luận. Hễ nói có lí thì ta tha, bằng không có
lí ta bắt tội".
Người thợ mộc nói:
-"Tôi xin cứ lấy
việc tôi làm mà suy luận. Khi đẽo bánh xe, rộng, hẹp, vừa vặn, đúng mực thì
thật là tự tâm tôi liệu mà nêu ra tay tôi làm, như đã có phép nhất định, chứ
miệng tôi không thể nói ra được. Cái khéo ấy, tôi không thể dạy được cho con
tôi, con tôi không thể học được của tôi. Bởi vậy, năm nay tôi đã bảy mươi tuổi
rồi mà vẫn giữ nghề đẽo bánh xe...
Người xưa đã chết, thì
cái hay của họ khó truyền lại được, tưởng cũng như đã chết cả rồi. Thế thì
những câu nhà vua học, thực ra chỉ là những cặn bã của người xưa mà thôi".
Thật có đúng như lời của
Alain đã nói:
"Văn hóa là một cái
gì không thể truyền, mà cũng không thể tóm tắt lại được".
* * * * * * *
Văn hóa tuy không thể
truyền được cái hay nhưng có thể khêu gợi và giúp cho người ta đi đến chỗ hay.
Cũng như nguyên tắc dạy vẽ, tuy không truyền lại được cái thiên tài của họa sĩ,
nhưng cũng giúp cho người người có thể có được những lề lối làm việc để thành
một nhà họa sĩ chân tài.
* * * * * * *
Tôi là người trước đây
đã vất vả rất nhiều trong con đường học vấn. Trước đây, tôi là người rất kém về
trí nhớ, lại cũng kém cả thông minh và sức khoẻ, sau khi ra trường lại cảm thấy
bơ vơ, ngơ ngác trước con đường học vấn mênh mông. Thú thật, ở trường tôi không
học được gì hơn là những ý thức thông thường, nhưng không tiêu hóa được bao
nhiêu. là vì chương trình quá nặng mà thời gian"tiêu hóa" rất ngắn.
Cho nên ra trường được vài năm thì dường như đã quên gần hết những gì mình đã
học. Sở dĩ sau này mà có được chút ít học vấn, dù nông cạn đến đâu, cũng đều
nhờ công phu tự học cả. Tôi nhận thấy câu nói này cũa Bibbon rất đúng:"Mỗi
người đều nhận được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho; một
thứ, quan trọng hơn nhiều, do mình tự tạo lấy". Đó là trường hợp của tôi.
Và, như bác sĩ Gustave Le Bon đã nói, tôi cũng đã "dùng phần thứ hai của
đời mình để đả phá những ảo vọng, những sai lầm và những nếp suy tưởng hẹp hòi
lạc hậu mà mình đã hấp thụ được trong khoảng đời thứ nhất" của mình ở nhà
trường.
* * * * * * *
Trước đây, về vấn đề
này, tôi đã có cho xuất bản hai quyển Óc Sáng Suốt vàThuật Tư Tưởng. Quyển
"Tôi tự học" này chỉ để bổ túc hai quyển trước mà thôi. Bởi vậy, nếu
bạn đọc nhận thấy rằng đề cập đến vấn đề học hỏi mà bỏ qua vấn đề luyện trí
nhớ, tập quan sát, luyện giác quan, cũng như phương pháp suy luận là một điều
thiếu sót lớn, thì xin các bạn nên biết cho rằng những vấn đề ấy đã được bàn
rất rộng trong hai quyển đã kể trên. lắm khi cũng có một vài vấn đề đem ra bàn
lại, dĩ nhiên là với nhiều tài liệu phong phú hơn, được bàn rộng hơn về nhiều
khía cạnh hơn.
Đây là một mớ nguyên
tắc, không phải chỉ tự mình tôi tìm ra, mà phần nhiều là của những bậc tiền bối
cổ kim, đã giúp ích tôi rất nhiều trong con đường học vấn. Những kinh nghiệm
của tôi trong thời gian tự học thường chỉ dùng để bàn rộng và bình phẩm những
nguyên tắc do các bậc đàn anh chỉ dẫn. Dĩ nhiên là khi biên chép lại, đã có
nhìn nhận rằng nó đã giúp được rất nhiều cho mình, và như thế cũng có nghĩa là
rất có thể nó sẽ không giúp ích gì cho những ai khác có những thiên tư cùng
năng khiếu khác mình. Vì vậy, mới có tên làm tựa sách làTôi tự họcmà không dám
đềTự họcsuông, như các sách cùng loại đã xuất bản. Như vậy, những thiếu sót,
hoặc vụng về, hoặc sai lạc đều là do những kinh nghiệm còn nhiều bỡ ngỡ của
tôi. Seignobos, Désire' Roustan, Marchel Prévost, Jean Guitton, Jules Payot,
Gastave Rudler, là những học giả mà tôi chịu nhiều ảnh hưởng nhất, không phải
về tư tưởng mà về phương pháp tự học.
* * * * * * *
Học là để cho đầu óc và
tâm hồn càng ngày càng cao hơn, rộng hơn...có cao, có rộng thì mới tránh được
cái nạn "thiên kiến", "chấp nhất" của những đầu óc hẹp hòi.
"Óc hẹp hòi", theo Charles Baudoin, "là những đầu óc không
thưởng thức nổi những gì mình không ưa thích". Ông lại nói: :Từ sự không
có văn hóa đến lòng thiên chấp, chỉ có 1 bước mà thôi". Thật có như vậy.
Người có văn hóa cao là
người mà tâm hồn thật cao rộng, dung nạp được tất cả mọi ý kiến dị đồng, không
có những thành kiến hay tư tưởng một chiều, bao giờ cũng nhìn thấy tất cả mọi
mặt trái của sự đời. Bởi vậy, muốn có được một tâm hồn cao rộng ít ra phải có
một nền học thức rộng đủ mọi mặt, kiêm cả động tây, kim cổ. kẻ nào tin tưởng
một cách quả quyết rằng chỉ có mình nắm được chân lí tuyệt đối là kẻ không thể
có lòng khoan dung rộng rãi. Nhất là không thể là một nhà tâm lí sâu sắc được.
Học rộng sẽ giúp ta đi
từ "tuyệt đối luận" qua "tương đối luận", biết vượt lên
trên những lập trường eo hẹp hạn định của một hệ tư tưởng khác không hợp với
lòng ưa thích của mình. Người học thức rộng là người biết thưởng thức tất cả
mọi hình thức văn hóa bất luận đông tây kim cổ.
Đầu óc hẹp hòi, hay suy
nghĩ có một chiều, nên dễ sinh ra cuồng tín. Cuồng tín là tai họa ghê gớm nhất
của thời đại, bất cứ là thời đại nào. Trừ bớt được nó chút nào, may ra chỉ có
văn hóa. Như vậy, phải chăng văn hóa là một trong nhiều phương tiện tranh đấu
để đem lại tình thương và hòa bình cho nhân loại? Đó là mục tiêu cao nhất của
văn hóa: Làm cho con người hoàn thành sứ mạng của con người.
Thu Giang NGUYỄN DUY CẦN
Chương 1: THỬ TÌM MỘT ĐỊNH NGHĨA
A. THẾ NÀO LÀ NGƯỜI HỌC THỨC?
Lễ Ký có nói: "Ngọc
bất trác, bất thành khí; nhân bất học, bất tri lí". Có người dịch như vầy:
"Ngọc chẳng mài, chẳng ra chi. Người mà chẳng học, trí tri đâu tường..."
Như thế nào là "người
có học"?
Có kẻ học đậu năm ba bằng,
có người đậu cử nhân, tiến sĩ...thế mà cũng còn bị người ta mắng cho là đồ
"vô học". Như thế thì "người có học" là người như thế nào?
Chắc chắn, nó phải có một định nghĩa rõ ràng, nhưng thường được hiểu ngầm hơn
là nói trắng ra.
Tôi có quen nhiều bạn đậu
kĩ sư điện, thế mà trong nhà có máy điện nào hư, phải đi tìm những anh thợ máy
điện đến sửa. Nếu ta bảo họ giảng nghĩa về điện học, thì phải biết, họ sẽ làm
cho ta điếc óc...Tôi có biết nhiều ông giáo sư ở trường sư phạm ra, thế mà
trong khi dạy học, họ không biết áp dụng một nguyên tắc sư phạm nào cả; học trò
vẫn than phiền là giờ dạy của họ buồn ngủ muốn chết, không hiểu được gì
cả...Rồi họ bảo: "Học trò mà học dở, không phải lỗi tại thầy"...Tôi
cũng có thấy vài ông đậu bằng tiến sĩ hay thạc sĩ triết học, thế mà cách ăn ở
với đời dại như một người ngu, không hiểu chút gì về tâm lí của con người cả.
Ai ai, nếu để ý quan sát,
cũng sẽ nhận thấy như tôi...Sự tình ấy không phải lỗi hoàn toàn nơi những người
ấy, mà tôi sẽ bàn đến một nơi khác. Tôi chỉ muốn nói, những người có những cấp
bằng trên đây, họ có hơn gì kẻ vô học không? Nếu có hơn là họ hơn về lí thuyết
nhưng về phần thực tế...họ đâu có hơn gì một con "Vẹt". Nói cho đúng
hơn, họ chỉ có "học" mà không có "hành". Học là để biết.
Biết, mà không thực hành được, cũng chưa gọi là "biết". Tri và hành
cần phải hợp nhất mới được gọi là người "có học thức".
Người xưa có ví: "Con
chim ăn cỏ, đâu phải để mà nhả cỏ, mà là để biến thành những bộ lông mướt đẹp.
Con tằm ăn dâu, đâu phải để mà nhả dâu, mà là để nhả tơ...". Học mà không
"tiêu hóa", có khác nào con chim nhả cỏ, con tằm nhả dâu...Người ta
rồi cũng chẳng khác nào cái máy thu thanh, chỉ lặp lại những gì kẻ khác đã
nói...Học như thế, không có lợi ích gì cho mình mà còn hạ phẩm cách của con
người ngang với máy móc. George Duhamel có nói: "Đừng sợ máy móc của bên
ngòai...hãy sợ máy móc của cõi lòng...". Một xã hội mà con người chỉ còn
là một bộ máy thì sứ mạng của văn hóa đã đến ngày cùng tận rồi...mà tinh thần
loài người rồi cũng đến lúc diệt vong: có xác mà không hồn...Học mà đưa con
người đến tình trạng ấy, tôi tưởng thà đừng học có hơn không? Cái hiểm trạng
của xã hội phần lớn phải chăng một phần nào đều do những bộ óc "học thức
nửa mùa" ấy gây nên?
Thế thì, học và học thức
không thể lầm lẫn với nhau được. ta cần phải để ý phân biệt hai lẽ ấy.
Thật vậy, có những sự hiểu
biết chỉ "bám" ngoài da mà không thể "ăn sâu" vào tâm khảm
của ta. Nó là một nước sơn bóng nhoáng và chỉ là một lớp sơn thôi...Cái học của
ta không có ảnh hưởng gì đến tâm hồn ta cả. Trái lại, cũng có nhiều thứ hiểu
biết liên lạc với kí ức ta, với tư tưởng ta, với tình cảm dục vọng ta, nó hòa
hợp với con người tinh thần của ta không khác nào khí huyết tinh tủy đối với
thân thể của ta vậy. Giữa những sự hiểu biết ấy và ta, có một thứ tác động và
phản động, xung đột nhau, hòa hợp nhau để thay đổi nhau và thay đổi luôn cả cái
người của ta nữa...
Tôi muốn nói: giữa ta và
những điều ta học hỏi phải có một sự tiêu hóa, hay muốn nói theo Kinh Dịch,
phải có một việc thần hóa (thần nhi hỏa chi) mới được.
Vậy, ta phải dành chữ
"học thức" cho những bộ óc thông minh biết đồng hóa với những điều
mình đã học. Như thế thì, học nhiều và học thức không giống nhau.
Phần đông chúng ta thường
hiểu lầm những việc ấy. Chúng ta thường đánh giá con người theo bằng cấp của
họ, những bằng cấp ấy phần nhiều là những bằng cấp trí nhớ: kẻ nào nhớ giỏi thì
thi đậu. Sự nhận xét sai lầm này gây không biết bao tai họa cho loài người hiện
thời.
Tóm lại, người học thức
không phải cần biết thật nhiều, mà cần phải thật biết những gì mình đã biết.
"Tri chi vi tri chi,
bất tri chi bất tri, thị tri dã" - Biết, thì biết là mình biết, không biết
là biết mình không biết, ấy mới thật là biết. Học thức là một vấn đề thuộc
"phẩm", chứ không phải thuộc "lượng".
Cái học mà đã được đồng hóa
rồi thì không còn nói là cái học bên ngoài nữa. Cỏ mà bị chim ăn rồi, không còn
là cỏ nữa. Dâu mà bị tằm ăn, không còn gọi là dâu nữa.
Học, cũng như ăn.
B. HỌC ĐỂ LÀM GÌ?
Học để làm gì? Vài tại sao
ta phải học?
Ta phải quan sát chung
quanh ta, ta sẽ thấy có hai hạng người: học vì tư lợi, và học không vì tư lợi
gì cả, nghĩa là học để mà học, học theo sở thích của mình...
Hạng học vì tư lợi, chiếm
một phần rất đông. Họ học một nghệ thật nào, một khoa học nào, một nghề nghiệp
nào là để tìm một kế sinh nhai. Cái ý muốn thiết thực này cũng là cái ý muốn
chính của các bậc làm cha mẹ khi tìm thầy cho con, hay khi gởi chúng đến
trường. Mà chính các học sinh, đa số cụng chỉ có một mục đích ấy: nắm lấy bằng cấp
để tìm lấy một con đường sinh kế.
Thật ra, cũng có nhiều kẻ,
đối với nghề nghiệp sau này của mình cảm thấy thích thú lắm. Cũng có thể rất
sung sướng khi nghĩ đến sau này sẽ được làm kĩ sư, giáo sư, nghệ sĩ hay sĩ
quan...Nhưng, cái ý nghĩ nhờ đó kiếm địa vị, tiền bạc, danh vọng, quyền tước...cũng
đủ làm cho tâm hồn mình mất cả cái sung sướng tinh khiết của cái học vô tư
lợi...Cái mộng của tuổi trẻ qua rồi, tôi thường thấy có nhiều bậc phụ huynh
không muốn cho con em mình sau này theo đuổi nghề nghiệp của mình. Học để tìm
một nghề nghiệp làm kế sinh nhai, có cái lợi ích của nó, không một ai có thể
chối cải được, nhưng dầu thích hay không thích nó chỉ là một cái học để thành
công, một cái học vị lợi...mà đối với những người có đầu óc thiết thực, ít lí
tưởng, cho là thỏa mãn lắm rồi!
Bên những nhà "tập
sự" vị lợi ấy, chúng ta cũng thấy có nhiều kẻ, ngay tuổi còn thơ, nhất là
lúc mà trí thức đương chừng nẩy nở, họ ham học mà không có một ý nghĩ gì vụ lợi
cả: không phải để kiếm tiền, không phải để tìm địa vị, cũng không phải để tìm
danh vọng...Chiều theo ý của cha mẹ, hoặc vì hoàn cảnh bắt buộc mà phải chọn
một nghề nào, kì thực họ không để chút tâm hồn nào nơi ấy cả. Họ là một công
chức sở hối đoái mà họ say mê thi phú hay âm nhạc. Họ là một sĩ quan mà họ mê
say lịch sử hay văn chương. Họ là một trạng sư mà họ mê say toán học. Có kẻ,
ngoài giờ phải lo lắng giồi mài nghề nghiệp của mình để kiếm ăn, cũng ráng dành
một vài giờ để thỏa mãn tính tò mò của mình, học những môn không lợi ích gì cho
cái đời vật chất của mình cả, khi thì đọc triết học, khi thì đọc sách nghiên
cứu về văn chương, lắm khi "tập tễnh" cầm bút viết văn hay hội họa...
Đấy cũng là một cách học,
một cái học hoàn toàn không chút gì vị lợi. Những kẻ học như thế, họ học văn
chương vì văn chương, học nghệ thuật vì nghệ thuật, học khoa học vì khoa học.
Hai hạng người trên đây, ai
có lí? Ai vô lí? Thật cũng khó mà trả lời. Cái thích của người này chưa chắc
cũng là cái thích của người kia.
Lại còn có người nọ thích
không học gì cả, thì sao? Họ sẽ nói: "Đời người ngắn ngủi, học cùng không
học thì có khác gì nhau. Anh thích khoa học, tạo hóa ban cho anh nhiều năng
khiếu, thì anh thành nhà bác học giúp đời...
Còn tôi không có năng khiếu
chi cả, cố mà nhồi vào sọ những cái học hỏi của kẻ khác, cố mà sản xuất những
tác phẩm không hơn gì những bài làm của học sinh...thì phỏng có lợi ích gì! Ta
hãy cứ tìm lấy những hạnh phúc rẻ tiền không cần dụng công nhọc sức chi cả có
hơn không! Anh đọc truyện kiều, anh biết thích...Tôi, tôi đọc Lục Vân Tiên, tôi
cũng biết thích vậy. Anh, anh thích nhạc cổ điển, anh thích nhạc Âu Mỹ. Tôi,
tôi nghe vọng cổ, tôi xem hát bội, tôi cũng biết thích vậy. Anh đọc tiểu thuyết
cổ điền của Đông Phương, tôi cũng biết mê say...Vậy, thì cũng chưa chắc cái
sướng của anh hơn cái sướng của tôi..."
Ta phải trả lời với họ cách
nào?
Đã không thiếu gì những
quyển luân lí tân cựu đã trả lời với họ rất hùng hồn...Nhưng, theo tôi, mặc dầu
có rất nhiều bài văn mà tài hùng biện của tác giả không thể chối cãi được...Tôi
thấy cũng chưa đủ sức cảm hóa hạng người trên đây.
Ta hãy can đảm nhìn ngay sự
thật; có nhiều kẻ họ sống hết sức hạnh phúc trong sự ngu dốt và ở không của
họ...Họ ghét đọc sách, họ ghét suy nghĩ, họ ghét làm việc bằng tinh thần cụng
như họ ghét gông cùm tù tội vậy: một vấn đề hoàn toàn thuộc về bản chất...
Geothe, lúc mà danh vọng
của ông lên đến tột độ, ngày kia dạo trên bờ sông thành Naples gặp một tên ăn
mày nằm ngủ phơi mình trong ánh nắng...Ông dừng chân, tự hỏi:
"Ta và anh ăn mày này,
ai hạnh phúc hơn ai?". Thật, cũng khó mà trả lời cho dứt khóat. Tuy nhiên,
tôi chắc chắn, các bạn cũng như tôi, chúng ta thích sống trong hạnh phúc của
Geothe hơn. Andre' Gide cũng nói: "Một cái hạnh phúc mà vô tâm, tôi không
chịu sống trong hạnh phúc ấy ".
Nếu bạn là người chịu theo
phái "ăn rồi nằm ngữa nằm nghiêng, có ai mướn tớ, thì khiêng tớ
về..." Nghĩa là theo phái thích "ăn không ngồi rồi", "tối
thiểu nổ lực" và cho đó là hạnh phúc nhất đời, thì xin mời bạn hãy để
quyển sách này xuống...Nó không phải viết cho bạn.
Thú thật, tôi không đủ tài
để thuyết phục bạn. Sách này viết ra, là cho những ai cùng đồng một ý kiến với
tôi, cho rằng hạnh phúc của Geothe hơn hạnh phúc của anh ăn mày, hay nói đúng
hơn, Geothe cao trọng hơn anh ăn mày.
Theo tôi, hạnh phúc là được
làm chủ hành động ta, tư tưởng ta, tình cảm ta...và mỗi ngày mỗi làm cho
"cái người" của ta thêm sáng suốt hơn, thêm tự do hơn, thêm to rộng
hơn...nghĩa là thêm mới mẻ hơn. "Cấu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật
tân". Mỗi ngày một mới, và ngày càng mới mãi...Đấy là lời khắc trên bồn
tắm của vua Thành Thang ngày xưa. Và cũng chính là lí tưởng của Pastuer:
"Cao lên, cao hơn lên, và cao lên mãi..."
Như thế, ta thấy rõ mục
đích của sự học là gì rồi. Học, là để mưu hạnh phúc, nghĩa là để làm cho mình
càng ngày càng mới, càng ngày càng cao, càng ngày càng rộng.... Học, là tăng
gia sự hiểu biết của mình, là mở rộng tâm hồn của mình bằng cách thu nhận sự
hiểu biết cùng những kinh nghiệm của kẻ khác làm của mình. Có khác nào một đứa
trẻ mới sinh, cân không đầy hai, ba kí...thế mà nhờ càng ngày càng lớn đến năm,
sáu chục kí...trong khoảng vài mươi năm sau? Phải chăng nhờ rút lấy những vật
liệu chung quanh: không khí, món ăn, món uống...mà tiến từ nhỏ đến lớn, từ yếu
đến mạnh, nghĩa là càng ngày càng mới, càng ngày càng cao, càng ngày càng lớn.
Bởi vậy, trước đây tôi có nói: "Học cũng như ăn".
Ăn mà không tiêu, thì có
hại cho sức khoẻ. Học mà không tiêu hóa thì có hại cho tinh thần. Cỏ của con
chim ăn mà được tiêu, không còn gọi là cỏ nữa, mà là bộ lông mướt đẹp của nó.
Dâu của con chim ăn mà được tiêu, không còn là dâu nữa, mà là sợi tơ mịn màng tươi
tốt của nó. Người có học thức là người đã thần hóa những cái học của mình. Bởi
vậy, người có học thức là người dường như không biết gì cả, mà không có cái gì
là không biết.
Học mà đến mực dường như
quên hết cả sách vở của mình đã học thì cái học ấy mới thật là "nhập
diệu". Herriot nói: "Học thức là cái gì còn lại khi mình đã quên tất
cả ".
Một nhà tâm lí học có nói:
"Quên là điều kiện cần thiết của cái Nhớ". Thật là chí lí. Một điều
gì học mà mình còn cố nhớ, là nó chưa được nhập vào tâm. Chỉ khi nào mình không
cần nhớ mà nó vẫn tự nhiên hiển hiện trong tâm trí mình thì môn học ấy mới được
gọi là đã được tiêu hóa. Người học đánh máy chữ mà còn để ý tìm từng nét chữ,
cố nhớ vị trí của nút chữ...là người đánh máy chưa tinh. Người học đi xe máy mà
còn nhớ mình còn ngồi trên yên xe máy, còn để ý đến bàn đạp, cách đạp...là
người đi xe máy chưa tinh. Tôi còn nhớ, lúc còn học thi, gần đến ngày thi, tôi
băn khoăn nói với cha tôi: "Sao con học nhiều quá mà nay dường như con
không nhớ gì cả. Lòng con như quên hết, không biết có nhớ được gì không? Con sợ
quá ". Cha tôi cười bảo:
"Đấy là con đã học
"mùi" rồi. Quên tức là nhớ nhiều rồi đó. Con hãy yên tâm...".
Thật đúng như lời. Ngày thi giám khảo hỏi đâu, tôi trả lời liền đó, một cách dễ
dàng hết sức.
Trang Tử nói: "Người
bắn cung mà còn để ý đến việc bắn cung của mình là người bắn chưa tinh. Kẻ lội
mà còn để ý đến cái lội của mình là người lội chưa giỏi. Phải biết quên thị phi
đi, thì cái tâm mình mới thông suốt được cái lẽ thị phi...(Tri vong thị phi,
tâm chi thích dã)". Hiểu được câu nói này của Trang Tử là hiểu được cái
diệu pháp của Phép Học rồi vậy.
C. THẾ NÀO LÀ BẬC THIÊN
TÀI?
Nói đến những bậc thiên tài
nhiều người đã tưởng tượng họ như kẻ phi thường, cô phong độc tú...xa hẳn với
loài người. Thực ra cũng không có gì lạ giữa họ và chúng ta cho lắm; có nhiều
kẻ còn tệ hơn chúng ta nhiều về vấn đề thể chất lẫn tinh thần nữa. Họ chỉ khác
ta có một điều thôi: họ có một đức tin vững vàng về phương pháp làm việc của
họ. Họ tin rằng với sự cần cù nhẫn nại và cách làm việc có phương pháp, họ sẽ
đạt được ý muốn cao xa của họ. Theo họ "thiên tài chỉ là một sự nhẫn nại
bền bỉ lâu ngày" mà thôi.
Darwin, tác giả bộ
"Vạn vật nguyên lai luận", người đã gây được một cuộc cách mạng to
tát trong khoa học là một người có một trí nhớ rất tồi tệ, một sức khoẻ rất bạc
nhược.
Spinoza thì đau bệnh phổi,
chết vào khoảng 45 tuổi.
Pascal thì đau mãi và mất
sớm năm 39 tuổi.
Montaigne cứ than vãn mãi
về trí nhớ thậm tệ của ông cũng như về trí não "chậm chạp và tăm tối"
của ông, còn Herbert Spencer thì không thể nào làm việc trong một giờ mà không
đau. Có ai dám bảo rằng những người nói trên đây không phải là những bậc vĩ
nhân trong nhân loại? Sự nghiệp tinh thần của họ đều là những kỳ công bất hủ,
những tinh hoa của nhân loại. Thế mà vấn đề thể chất của họ còn thua ta xa, còn
vấn đề tinh thần có khi cũng không hơn gì ta cho lắm. Nếu phải kể ra cho hết,
thì cả năm mươi trang cũng không sao kể đủ tên tuổi của các bậc vĩ nhân mà về
phương diện thể chất và tinh thần không có gì là đặc sắc hơn những kẻ tầm
thường.
Thế nhưng họ đã để lại cho
đời những kỳ công vĩ đại là nhờ đâu? Vì họ biết cách làm việc có phương pháp,
có nghệ thuật.
Trong giới trí thức, cũng
như trong các hiện tượng khác của tự nhiên: những hành động bạo phát, hùng hổ
mãnh liệt như địa chấn, thủy tai...chỉ là những hiện tượng bạo phát mà bạo
tàn...
Những gì có tính cách vĩ
đại khó thoát khỏi yếu tố thời gian. Muốn học cho thâm, muốn gây tạo những công
trình to tát cũng phải cần đến thời giờ. Nhất là văn hóa, không thể chấp nhận
được thời gian. Một giọt nước con, mà với thời gian đã điêu khắc dải Hoành Sơn,
Tuyết Lãnh...
Nếu các bạn xem kĩ đời niên
thiếu của các bậc vĩ nhân đã làm vẻ vang cho Tổ quốc họ và cho cả nhân loại,
các bạn sẽ thấy, khi các ông ấy còn là học sinh đâu phải luôn luôn là những học
sinh đứng vào hạng nhất trong lớp họ. Có khi họ lại là những anh học sinh
"hạng bét" là khác. Có nhiều kẻ, chính các ông thầy của họ cũng không
để ý đến họ nữa. Nhưng, một ngày kia, một tình cờ run rủi, bỗng dưng cảm khích
như Malebranche, sau khi đọc quyển "Traite' de lHomme của Descartes",
đem hết nghị lực lao đầu vào sự học, nhẫn nại, cố gắng cho tới ngày tài hoa
xuất hiện.
Một việc làm âm thầm, lặng
lẽ trong cô tịch nhưng đầy hăng hái, đầy kiên nhẫn sẽ là những công việc làm có
nhiều kết quả vẻ vang và sâu sắc nhất. Trong khoảng âm thầm lặng lẽ nghiên cứu
học hỏi, các bạn đã tìm ra được lắm ý nghĩa hay ho, nhiều tư tưởng tân kì có
thể là những nền tảng cho một đời sống tinh thần và phát minh sau này của bạn.
Trong lúc ấy, trong lúc mà
các bạn khác của bạn, nhiều may mắn hơn, đi vào các trường cao đẳng để tản mác
trí lực của họ trong những cuộc đua chọi bằng cấp và địa vị cao sang quyền quí,
thì trong bóng tối, trong im lặng, tác phẩm của bạn như tiếng sấm đêm
đông...làm cho mọi người kinh khủng. Công trình sự nghiệp của bạn chẳng khác
nào những hòn đảo kia, từ lượng cát đắp bồi, bỗng trồi lên mặt nước, một cách
vững vàng như con núi.
Những bậc vĩ nhân đều hiện
lên một cách từ từ và lặng lẻ như thế. Họ nhẫn nại mà đi từng bước một; nhưng
một bước của họ là một bước chắc chắn.
Leo núi cao, các người từng
trải đều quả quyết rằng những kẻ nào háo thắng, vội vàng sẽ không bao giờ đi
tới mức được. Họ sẽ mệt nhọc, đuối sức và bị bỏ lại giữa đường. Các bậc vĩ nhân
họ đi từ từ mà không nghỉ, một cách hết sức trật tự và quy củ.
Ông Newton nói: "Nếu
tôi có phát minh được một đôi điều gì, cũng là nhờ nghĩ ngợi mãi một việc và
đem việc ấy mà quan sát đủ mọi phương diện. Nếu những phát minh của tôi có được
chút ích lợi cho đồng bào là do sự cần cù và đeo đuổi mãi theo một ý nghĩ mà
không thôi vậy ".
Giáo sư Duclaux, trong một
bài diễn văn nói về Pastuer có nói: "Tôi không rõ những phát minh kì vĩ có
phải là do thiên tài sản xuất, không cần đến sự cố công gắng sức không? Chứ ở
trường hợp Pastuer đây, tôi thấy hẳn không phải vậy. Nếu ông là một nhà phát
minh đã lập được rất nhiều kì công vĩ đại trong nhân loại, trước hết là nhờ ông
là một người làm việc rất nhẫn nại và lặng lẽ..."
Nhất là họ không bao giờ
hiếu danh, hối hả trong công việc học hỏi và nghiên cứu của họ.
Người ta bảo rằng lúc
Pastuer thi vào đại học, chỉ đậu hạng ba hạng tư gì đó. Năm ấy, ông không chịu
vào đại học. Học thêm một năm nữa, kì thi năm sau ông đứng đầu. Ông tự cho rằng
sức ông còn yếu, nên cần học lại thêm một năm nữa, đâu có muộn gì, bởi theo ông
cần nhất là phải có thật tài hơn là hối hả trong công trình học vấn. Thật có
khác với đầu óc tâm tưởng của phần đông chúng ta ngày nay, bao giờ cũng không
muốn cướp thời gian và thành công mau lẹ.
Tóm lại, thiên tài là một
sự nhẫn nại bền bỉ và lâu dài. Muốn thành những bậc tài hoa, điều thứ nhất là
phải có lí tưởng, có đủ tin tưởng và chí kiên nhẫn để thực hiện lí tưởng ấy;
điều thứ hai là làm việc cho có trật tự, có phương pháp, nhẫn nại và lặng lẽ,
không bồn chồn, không vội vã...
Chương 2: NHỮNG YẾU TỐ CHÍNH
A.HỌC VẤN VÀ THỜI GIAN
Trang Tử nói: "Đời
sống ta có hạn mà sự học hỏi thì vô hạn...". Đời bấy giờ mà ông còn nói
thế, thì sống vào đời này phải nói như thế nào? Khoa học đã đi đến trình độ cực
kì phức tạp và sâu rộng, dẫu là bậc thông minh đến đâu cũng không thể dám nói:
"Óc tôi có thể chứa được tất cả cái học hiện thời". Người như Trang
Tử mà Tư Mã Thiên bảo là có một cái học "thông kim bác cổ", vậy mà
còn phải nói thế. Ta cứ nhìn kĩ chung quanh từng ngành học, sẽ thấy sự gia tăng
của nó trong mấy năm gần đây mà ngợp. Dù cho ta có thể đầu thai mấy ngàn kiếp
cũng không sao chứa được hết cái học của con người, ngay trong mỗi một ngành
học nào cũng vậy.
Sự học ngày càng tăng, mà
thời giờ con người càng ngày càng thu hẹp. Đừng nói thì giờ rỗi rãi của ta ngày
nay có nhiều...Lấy ngay một cái nghề giáo viên cũng đủ thấy ngày giờ của mình
đã mất hết. Dù ta bỏ hết thời giờ của ta cũng không sao có đủ để nghiên cứu học
hỏi cho tinh chuyên. Nghề bác sĩ, nghề kĩ sư...và bất luận là nghề nào, muốn
học đến chỗ tinh vi của nó, đều phải mất thì giờ không ít. Thế là sự học càng
tăng thì giờ để thu thập nó lại càng hẹp.
Thật là một sự mâu thuẩn
đau đớn cho những người ham học như chúng ta. Trước vấn đề khó giải này phải
đối phó cách nào?
Chắc chắn là chúng ta không
nên giải quyết một cách tiêu cực như hạng "dốt kim thời" này: họ viện
lẽ "bể học mênh mông mà thời giờ không có đủ...vậy tốt hơn việc nhà mình
mình biết, ghé mắt vào việc nhà kẻ khác để làm gì? Học làm gì, rút cuộc cũng
không hiểu biết gì hơn người không học..." Socrate há không có nói:
"Điều mà ta biết rõ nhất là ta không biết gì cả!" hay sao?
Hạng "dốt" này,
may thay chỉ có một phần tử rất ít trong xã hội ngày nay. Nói thế, đâu phải chỉ
có đời nay mới có hạng người này mà thôi. Đời nào cũng có cả. Nhưng có điều là
hạng "dốt kim thời" này họ dốt và biết biện hộ sự dốt nát của họ: họ
viện đủ lí lẽ, nào là khoa học phá sản, nào là sức hiểu biết của trí não thì
hữu hạn, còn sự hiểu biết của loài người thì vô biên...Nói cho đúng, họ là hạng
dốt có "triết lí". Họ lí sự lắm và tìm đủ cách để biện hộ sự khuất
phục của họ trước vấn đề học hỏi.
Lại còn có một hạng người
phản đối hạng trên. Họ nhất định không chịu khoanh tay chịu dốt...Nhưng, cẩn
thận hơn, họ quyết định chọn một vài sự hiểu biết nào mà họ thích nhất, rồi bám
lấy, ngăn tường đắp lũy, đem tất cả thời giờ và tâm trí họ để nghiên cứu một
cách sâu sa triệt để hơn. Đây là giải pháp của nhà chuyên môn. Hạng người này
hiện thời rất đông. Bất cứ là đi vào giới trí thức nào ta luôn luôn đụng chạm
với những nhà thông thái "trong tháp ngà" ấy. Một ông kĩ sư cấu cống
không biết gì cả đến các phong trào văn nghệ trong nước, cũng không đủ sức hiểu
biết một bài thơ hay. Một bác sĩ y khoa không bao giờ đọc sách triết học, hay
văn chương. Một kịch gia suốt đời không đọc một quyển sách về khoa học ứng
dụng.
Ngoài cái ngành chuyên môn
của họ, họ không buồn biết đến việc gì ngoài chỗ sở trường của họ. Họ cũng là
hạng người công nhận sự bất lực của trí não con người trước vấn đề mênh mông
của sự học hỏi. Nhưng, thay vì như anh "dốt kim thời" trên đây bó tay
chịu dốt, thì họ lại quyết định chọn con đường cô lập và chuyên môn. Tuy vậy,
hạng người này đáng mến hơn hạng người trên đây, nhất là họ dễ thương hơn hạng
người "ngụy trí thức" sau đây.
Hạng người "ngụy bác
học" hay "ngụy trí thức" lại cũng là nạn nhân của vấn đề nan
giải trên đây: cái học thì vô cùng mà thời gian thì có hạn. Họ không chịu dốt,
nhưng họ cũng không có đủ can đảm làm nhà chuyên môn. Họ là những hạng người
"dở dở ương ương" : cái gì cũng biết, nhưng biết không có cái gì thực
biết. Đấy cũng là lối học ở nhà trường để đào tạo một hạng người "bác học
nửa mùa". Sách gì họ cũng đọc...nhưng mà họ chỉ đọc phớt qua như con bướm
giỡn hoa...Họ bàn đến nguyên tử lực, họ nói chuyện Einstein và thuyết tương
đối, họ bàn đến Vô Vi của Lão Tử, họ luận về Tam Giáo, sành chính trị, kinh
tế...không có câu chuyện gì là không thấy họ phê bình chỉ trích như một kẻ
chuyên môn. Những nhà "bác học nữa mùa" này hiện thời đã chiếm số khá
đông trong nhân loại. Chế độ dân chủ cho phép họ nghênh ngang múa mép trong
khắp các ngành hoạt động xã hội. Những báo chí, những sách phổ thông viết một
cách hối hả của những "học giả nữa mùa" là những "tội nhân"
đã đào tạo ra hạng người này, nhất là cái học "bách khoa" của giáo
dục.
Hạng "ngụy trí
thức" này thật là cả một tai vạ cho xã hội hiện thời. Đối với hạng dốt và
hạng chuyên môn trên đây họ là hạng người bêu xấu sự học, hạng người đáng ghét
nhất. Dân chúng thiếu học thường bị bọn người này loè bịp khiến kẻ nào múa môi
lẻo mép nhất, thường được quần chúng hoan nghênh...Và chính họ là kẻ dẫn dân
chúng vào những con đường phiêu lưu tăm tối của lịch sử sau này.
B. CÁI HỌC VỀ BỀ RỘNG VÀ
CÁI HỌC VỀ BỀ SÂU
Có hai thứ học vấn: học về
bề sâu và học về bề rộng
Có một thứ hiểu biết do bên
ngoài đưa đến, có một thứ hiểu biết do bên trong mà phát huy ra được.
Cái học bao quát mà người
xưa ở Đông Phương khuyên bảo: "Thượng tri thiên văn, hạ tri địa lí, trung
tri nhân sự" là một cái học hết sức cần thiết để tìm biết được chân lí
trong đời này. Thật vậy, mọi sự mọi vật trên đời liên quan rất mật thiết với
nhau. Có biết được nguyên nhân mới hiểu rành lí sự. Nhưng cái "nhân"
này sanh ra cái "quả" kia, rồi cái quả ấy lại là cái nhân cho cái quả
khác, tiếp tục nhau mà đến. Sự việc này xảy ra trước mắt ta hôm nay, trước đây
đã có một dọc nguyên nhân mà ta không biết và có biết chăng, cũng chỉ biết được
một vài nguyên nhân thiển cận mà thôi, còn lại không biết bao nhiêu nguyên nhân
khác nữa, hữu hình có, vô hình cũng có mà ta không làm sao biết hết được. Người
trí sở dĩ khác được kẻ ngu chỉ ở điểm này: Một đàng đã tìm thấy được nhiều
nguyên nhân sâu xa và rộng rãi, còn một đàng thì không nhận thấy một nguyên
nhân nào khác hơn là sự việc đã xảy ra mà thôi. Vì vậy mà người trí thức cần
phải có một cái học rộng rãi để khỏi phải bị thiên kiến trong khi nhận xét và
phê bình.
Nhưng cần nhất là phải có
một cái học chuyên môn, một cái học về bề sâu. Victor Duruy nói: "Phải có
một cái học tổng quát để phụng sự cho ngành chuyên môn của mình!".
Câu chuyện sau đây chứng tỏ
rằng cái học chuyên môn mà được tận tâm huấn luyện bắt buộc ta phải đi đến cái
học tổng quát.
Một nhà tiến sĩ văn chương
cổ điển, ngày kia đến viếng ông Kerschensteiner, bấy giờ đang làm hiệu trưởng
các trường ở Munich, để xin một chân giáo học ở trường tiểu học của ông. Dĩ
nhiên trong việc xin dạy đây, chắc hẳn không phải vì vấn đề sinh nhai mà chính
vì ông ta muốn tự mình nghiên cứu sự tổ chức và phương pháp dạy dỗ ở cấp đại
học mà ông sẽ có phận sự đảm nhiệm.
Kerschensteiner, trước lòng
khẩn thiết nhật thành ít có ấy, bằng lòng nhận ông ấy vào dạy học, nhưng cũng
không quên nhắc ông rằng cái học chuyên khoa về ngôn ngữ học của ông e sẽ là
một trở ngại to tát cho công việc dạy dỗ của ông đối với cấp sơ học. Ông này
cho biết rắng sự chuyên học về tiếng La Tinh va Hy Lạp đầu tiên đã hướng ông
vào công việc nghiên cứu về lịch sử thời cổ sơ. Và nghiên cứu thời tiền sử, và
vì thế bắt ông phải đeo đuổi theo khoa nhân loại học. Chính lúc ấy ông cảm thấy
ông cần phải có một sự hiểu biết vững vàng về vạng vật học và ông bắt đầu
nghiên cứu về thực vật học và động vật học. Nhân đó, ông cảm thấy ông còn thiếu
sót rất nhiều về vật lí học cũng như về hóa học, bởi vậy ba năm sau khi thi đậu
bằng tiến sĩ văn khoa, ông theo thọ giáo những nhà khoa học trứ danh Rontgen và
Bayer.
Câu chuyện trên đây, đâu
phải là một câu chuyện đặc biệt riêng gì của một người: các nhà học thức chân
chính nào cũng đi một con đường như ông tiến sĩ trên đây cả. Thật vậy, khi mình
muốn đi thật sâu vào một vấn đề nào, thường thường lại phải cầu cứu đến các
ngành học khác có liên lạc đến nó. Như cái học về vật lí bắt ta phải sành toán
học, cái học về địa lí buộc ta phải có một cơ sở học vấn vững vàng về địa chất
học.
Thành ra, chỉ đi sâu vào
ngành học nào, người ta rốt cuộc cũng tìm ra được cái học bao la tổng quát, vì
sự vật trong đời chằng chịt dính líu nhau, không có một sự vật nào là cô đơn
độc lập cả.
Rồi ra, cái học tổng quát
có cái hại này, là cái gì cũng biết, nhưng không có cái gì chuyên môn thực hiện
được cả cho sự tiến bộ chung của nhân loại. Tuy vậy, nó có những cái lợi to tát
này là nó đào tạo cho ta có được một cái nhìn bao quát, không thiên kiến, trí
óc và tâm hồn rộng rãi, hiểu được người chung quanh, không có tinh thần quá
khích. Đời sống tinh thần cũng dồi dào mà hưởng thụ sự sung sướng cũng rộng
rãi. Thử tưởng tượng một người có óc thẩm mĩ, hiểu biết được cái hay của âm
nhạc hay hội họa, bất kì là âm nhạc hay hội họa của nước nào. Người đó phải
chăng là người có nguồn hạnh phúc tinh thần vô tận không? Trái lại, những kẻ
chỉ biết cái hay của vọng cổ mà không thưởng thức cái đẹp của một bản nhạc
Beethoven, biết cái hay của một tuồng hát bóng Âu Mỹ mà không thưởng thức nổi
cái đẹp của một tuồng "hát bội" Á Đông...thì dĩ nhiên nguồn cảm hứng
mĩ thuật phải kém nhiều, vì bị hạn định.
Cái học chuyên môn thì có
cái lợi nhiều cho xã hội, khiến cho công việc làm ngày càng trở nên tinh tiến,
mau lẹ, nhưng nó có cái hại là thường hay biến con người thành bộ óc hẹp hòi,
vì nghề nghiệp. Có quá nhiều nhà chuyên môn họ làm thái quá đến lố bịch...Như
nhà bác sĩ kia bị ám ảnh vì vi trùng, rồi dưới con mắt ông, cái gì cũng cắt
nghĩa bằng vi trùng...Cho đến tình yêu họ cũng cắt nghĩa là bị vi trùng
"yêu". Dưới mắt bác sĩ, điên là một chứng bệnh, nhưng thiên tài đối
với các ông cũng là một chứng bệnh. Thậm chí có nhà bác học nọ cho Đức Jesus
cũng là một người điên, vì là một người "phi thường". lại nữa, nhà
chuyên môn cũng thường bị mang chứng bệnh "Sai ngoa về nghề nghiệp"
nữa. Đó là một tai hại đáng lo ngại, cần phải tránh xa vì nó có tính cách phản
văn hóa.
C. CỐ GẮNG: ĐIỀU KIỆN ĐẦU
TIÊN CỦA SỰ TIẾN BỘ TINH THẦN
Muốn có sự tiến bộ về văn
hóa, tức là muốn cho sự học được bổ ích cho tinh thần, phải để ý đến yếu tố đầu
tiên này, sự cố gắng.
Một cố gắng dù nhỏ bậc nào
cũng là điều kiện cần thiết để tinh thần trí não ta tiến bộ. Ngày nay, phần
đông đã hiểu một cách sai lầm rằng: ông thầy dạy hay không phải ông thầy bắt ta
làm việc, mà là ông thầy làm việc thế nào cho ta. Cũng như sách hay không phải
là sách mà tác giả bắt ta suy nghĩ, trái lại là sách mà tác giả đã suy nghĩ sẵn
cho ta, có khi tác giả đã làm sẵn bài tóm tắt cùng dàn bài cho ta nữa những
sách học trò lớp năm...vậy.
Người ta lại còn rút ngắn
và lược thuật các quyển sách chỉ nói đại cương như loại "Degest" của
Mỹ, và loại sách ấy rất được đa số quần chúng ưa thích...Dường như càng cố
tránh cho độc giả phải nhọc công tìm kiếm, và suy nghĩ được chừng nào hay chừng
nấy, đó là người ta đã đạt được mục đích mà họ gọi là "phổ
thông"...Kể ra những công việc làm ấy, về mặt văn hóa, không giúp ích gì
tinh thần bao nhiêu. Độc giả chỉ đóng một vai tuồng thụ động trong khi đọc
sách, thành ra, đọc sách thì thật nhiều, mà kết quả về văn hóa thì chả có là
bao.
Đọc sách du lịch, viếng các
việc bảo tàng, đi nghe âm nhạc, nghe diễn thuyết...không phải là đi tìm món ăn
tinh thần, gây dựng cơ sở văn hóa cho mình sao? Làm mấy công việc đó đâu cần gì
phải cố gắng?
Ta nên nhớ rằng, người ta
có thể đọc sách rất nhiều, đi du lịch cùng khắp thế giới mà dốt nát vẫn hoàn
dốt nát. Là tại sao? Đọc sách có nhiều sách. Nếu đọc sách chỉ để giết thời giờ,
tìm vui thích hoặc để tìm quên lãng trong những lúc buồn chán ở trên toa xe hay
đọc sách để tìm giấc ngủ - thì đọc sách không lợi gì cho tinh thần cả. Đọc sách
mà có lợi cho tinh thần là khi nào mình biết vận dụng tất cả năng lực và năng
khiếu của mình, nhận thức được rõ ràng những ý kiến sâu thẳm của lòng mình đem
ra so sánh với những ý kiến dị đồng của tác giả, biết sắp đạt lại những kí ức
của mình, biết trầm ngâm suy nghĩ, biết làm việc có phương pháp, tóm lại, biết
thảo luận và thông cảm với tác giả quyển sách mình đọc, đó là cách đọc sách
đấy.
Du lịch cũng là một nguồn
học hỏi, nhưng biết du lịch chỉ là thụ động, mà không biết quan sát, biết suy
nghĩ thì dù có lê chân suốt đời khắp năm châu thế giới cũng chẳng ích gì. Sở dĩ
du lịch đã giúp ích cho sự "đa văn quảng kiến" cho nhiều bậc văn hào
trên thế giới như bằng chứng nơi những tập du kí của những đại văn hào H. de
Keyserling, Aldous Huxley, R.Rolland, A. Gide...là vì những nhân vật ấy đã khéo
biết quan sát, không phải cái bề ngoài của sự vật và con người mà là vì họ đã
biết nhìn xem cái động cơ vô hình đã nhào nặn những sự kiện hữu hình dưới mắt
họ kia. Sự du lịch của họ không có tính cách thụ động nhọc nhằn chán nản như
một thí sinh dượt thi một cách đau khổ chán chường...Sự cố gắng trong vấn đề
học hỏi rất có thể trái ngược lại, là một cố gắng đầy hứng thú và hăng hái nhất
đời - như sự cố gắng của nhà đánh vợt hay đá banh trong một cuộc tranh hùng hào
hứng và sung sướng. Ta lại cũng có thể so sánh sự cố gắng ấy như sự cố gắng của
nhà thi sĩ "nặn" được một vần thơ...tuy vô cùng nhọc mệt, nhưng cũng
vô cùng hạnh phúc.
D. CỐ GẮNG MÀ ĐƯỢC BỀN BỈ
LÀ NHỜ CÓ SỰ HỨNG THÚ LÀM HẬU
THUẪN
Giáo dục mà có hiệu quả,
chỉ khi nào gây được nơi con người một sự cố gắng tinh thần. Nhưng đừng hiểu
lầm rằng lối "giáo dục mới" chủ trương sự giáo dục tự do, nghĩa là
không ép buộc làm việc, trái lại, để cho học sinh thích gì học nấy, đừng bao
giờ bắt buộc học sinh những gì nó không thích, mà phải biết gây hứng thú cho
việc học, là lối giáo dục hủy bỏ sự cố gắng. Hiểu thế là sai lầm. Lối giáo dục
mới ngày nay không bao giờ chủ trương hủy bỏ sự cố gắng, mà thực ra là tìm cách
để gây hứng thú cho sự cố gắng được lâu dài. Chỉ khi nào có hứng thú thì sự cố
gắng mới được bền bỉ. Lòng ham muốn mê say là một động cơ thúc đẩy và nuôi nấng
sức cố gắng không ngừng đến cực độ. Bởi vậy, tìm được hứng thú cho sự học, bất
cứ là cái học nào, đó là điều kiện đầu tiên và cần thiết để duy trì sự cố gắng
được lâu bền và có đường lối.
Đ. BIẾT TỔ CHỨC SỰ HIỂU
BIẾT CỦA MÌNH
Người học thức không chỉ là
người học nhiều mà thôi, mà là người đã "tiêu hóa" được cái học của
mình, vì đã biết tổ chức những tài liệu mà mình đã thu thập thành một cái biết
có cơ sở vững vàng và rộng rãi. Tổ chức sự hiểu biết của mình không phải là đem
nó gò bó vào một hệ thống tư tưởng nào. Đừng học theo thói các nhà có óc câu
nệ: bất cứ sự kiện nào cũng đều đem sắp vào một hệ thống tư tưởng mà mình đã
tôn thờ.
Người có một trình độ văn
hóa cao là người có một đầu óc rộng rãi, một tâm hồn khoáng đạt, không bao giờ
chịu giam mình trong một học thuyết hay một chủ nghĩa nào. Họ biết rằng trong
đời còn biết bao là điều hay chuyện lạ khác ngoài cái triết học mà họ tôn sùng.
Vòng chân trời to rộng của sự hiểu biết của họ cứu họ thoát khỏi cái nhìn thiển
cận và nô lệ của tâm hồn. Kẻ có một trình độ văn hóa cao rộng là người có rất
nhiều bậc thầy nhưng không nô lệ một ông thầy nào cả. Nhờ đọc Epictete mà họ
thoát khỏi ảnh hưởng của Montaigne, cũng như nhờ đọc Montaigne mà họ thoát khỏi
Epictete. Nhờ đọc Lão Trang mà họ thoát khỏi Khổng Mạnh, nhờ đọc Vương Dương
Minh mà họ thoát khỏi cái học của Tống Nho.
Tóm lại, nhờ họ có rất
nhiều "Thầy" nên họ không lệ thuộc một ai cả. Họ nhờ đó mà biết quan
sát một cách không thiên kiến, biết nhìn lạic các vấn đề quan trọng bằng những
nhãn quan khác nhau, biết kiểm lại tư tưởng và những thành kiến của mình với
cặp mắt luôn luôn mới mẻ. Họ không bao giờ có những định kiến không thay đổi
nghĩa là họ có óc "hoài nghi triết lí" thỉnh thoảng biết đặt lại những
vấn đề mà họ thiết tha tin tưởng nhất. Một bậc "thức giả" xứng đáng
với cái danh từ tốt đẹp ấy sở dĩ khác kẻ tầm thường trong đời chỉ vì một đàng
thì có những phản ứng cực kì uyển chuyển tùy nghi thích ứng, còn một đàng thì
chỉ có những phản ứng hạn định một chiều mà bất cứ một ai để ý quan sát đều có
thể đoán trước được. Họ là kẻ biết rõ cái đạo "tiến thoái tồn vong",
nghĩa là kẻ biết lúc nào nên tiến, lúc nào nên thối, lúc phải giữ cho còn, lúc
phải làm cho mất.
E. ÓC PHÊ BÌNH
Đành rằng, người học thức
không thể tránh được tất cả những ảnh hưởng ngoại giới...nhưng họ là người biết
phê phán, biết lựa chọn với một đầu óc sáng suốt, độc lập và tự do. Dĩ nhiên
những danh từ này dùng với cái nghĩa tương đối của nó. Hay nói một cách khác,
họ là người có óc phê bình sáng suốt và linh động.
Một cái "học" mà
xứng đáng với danh từ chân chính của nó, ít ra cũng phải có đủ hai điều kiện
sau đây:
1. Trước hết cái
"học" ấy đừng phải là cái học "quá chuyên môn". Một nhà
khảo cứu về các loài bướm hay các loại "tem" bưu điện chưa phải là
một nhà có học thức cao.
2. Cái "học" ấy
phải là một cái học do sự suy nghĩ nghiền ngẫm mà có, chứ không nên là cái học
do kẻ khác mang lại cho mình sẵn sàng, tránh cho ta phải vận động đến óc phê
bình, phán đoán hay suy nghĩ gì cả. Một sự hiểu biết không giúp ta suy nghĩ
thêm, lại làm tắt hẳn óc tò mò và gây tạo một tinh thần thụ động, không ham
thích tìm tòi gì nữa cả...là một cái học "chết". Những kẻ tự hào có
một cái học như một cái "đơn bá chứng" có thể dùng để giải quyết được
tất cả mọi vấn đề trong đời mình là những kẻ đáng thương hại nhất.
Loài thú cũng giống như
loài người đều có thiên tính. Thiên tính là một năng khiếu mà tạo hóa đã ban
cho tất cả mọi sinh vật trên đời để phản ứng được với tất cả mọi biến cố trong
đời mà không cần phải dùng đến lí trí, không cần phải đặt vấn đề. Trái lại, văn
hóa làm nẩy sinh trong đầu óc con người vô số vấn đề, bắt phải luôn luôn suy
nghĩ. Cặp mắt của người có một trình độ văn hóa cao luôn luôn nhìn đời với
những khía cạnh và máu sắc mới lạ. Và phải chăng đó là tất cả danh dự của con
người?
G. "BIẾT MÌNH" LÀ
CÁI HỌC ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI TRI THỨC
Sự học của ta thường có thể
đi vào hai chiều. Chiều "hướng ngoại", tức là óc tò mò của ta thiên
về ngoại giới, thì đi theo những vật gì ngũ quan tiếp xúc được như mắt thấy,
tai nghe, mũi ngữi, chân tay rờ mó được, mà sự nghiên cứu có lề lối phương
pháp, người ta cho nó cái tên chung là khoa học. Hoặc chiều "hướng
nội", thì đi sâu vào đời sống tình cảm và ý tưởng của ta, tức là đi vào
một cõi thế giới mà chỉ có tâm tư ta đạt đến được mà thôi, nghĩa là đi đến cái
học về con người của ta, không phải về con người vật chất mà là về con người
tinh thần, cái con người biết suy nghĩ, biết tư tưởng với cái nghĩa rộng của
nó, tức là biết đau khổ, biết sung sướng, biết ham muốn, biết nhận thức, biết
hiểu biết, biết phê bình, biết lí luận, biết sáng tác và biết tự mình định đoạt
qui tắc cho hành động mình, biết chọn lựa sự tín ngưỡng của mình và biết trù
liệu suy nghĩ đến số phận của mình. Sự hiểu biết về đời sống nội tâm của mình
dường như đã bị nhà khoa học xem thường và cho đó là một cái học "xa xí
phẩm" dành cho nhà luân lí, triết học, tâm lí và văn chương thi sĩ lo nghĩ
mà thôi. Đối với thường nhân, đó cũng chỉ là một cái học sống trong tưởng tượng
chứ không phải là cái học trong thực tế.
Thực sự, trong lịch sử tư
tưởng loài người, bao giờ cũng khởi đầu bằng sự chú ý đến ngoại giới trước khi
đi về cái học nội tâm. Phải có một trình độ văn hóa cao mới có thể dùng đến
khẩu hiệu này: "Biết mình là đầu mối của sự khôn ngoan", và đi sâu
vào con đường quan sát "nội giới".
Cái học cần thiết cho con
người là cái học về bản thân.
Tất cả những cái học khác
đều là phụ thuộc, đều để mà phụng sự nó, không được quyền cướp phần ưu tiên.
Một nhà hiền triết Đông Phương nói: "Tri nhân giả tri, tự tri giả
minh" (biết người là trí, biết mình là sáng). Hiền giả Hy Lạp Scrate cũng
bảo: "Hãy tự tri". Cuối thế kỉ thứ 18, Geothe khuyên ta: "Cái
học về con người là cái học hứng vị nhất đối với chúng ta, và có lẽ là mục đích
quan trọng nhất mà ta nên chú trọng. Tất cả chung quanh ta chỉ là cái khung
cảnh để chúng ta sinh hoạt, hoặc là để dùng làm dụng cụ cho ta mà thôi. Nếu
chúng ta lại quá quan trọng và chú ý đến những hoàn cảnh bên ngoài ấy, đó là ta
làm giảm mất nơi ta cái chân giá trị con người của ta và của xã hội nữa. Và ông
đã phải than: "cái mà người ta biết thì không biết dùng để làm gì; trái
lại cái mà người ta không biết lại chính là điều mà ta cần dùng nhất".
Thật là một câu nói đáng cho ta chú ý, nhất là ở thời buổi này.
H. HỌC ĐỂ THÀNH CÔNG TRONG CON ĐƯỜNG XỬ THẾ
Có kẻ cho rằng học là để có
một phương tiện đắc lực để thành công - thành công trong con đường xử thế. Nhà
văn sĩ Vauvenargues nói: "Người có một tinh thần sâu sắc cần phải tự đào
tạo một cái học để khám phá những tế nhị của lòng người, tuy đối với nhà toán
học, nó là một cái học mơ hồ nhưng chắc chắn nó giúp ta rất nhiều trong sự
thành công trong đời"
Theo ông Vauvenargues thì
sự hiểu biết một cách thâm sâu lòng người là để giúp ta gây ảnh hưởng và cái
học xử thế phải chăng là cái học cơ sở mà chúng ta cần phải có, để được thành
công trên đời? Nghĩa là không có cái học nào là cái xứng đáng với danh từ của
nó, nếu nó không giúp ta điều khiển được kẻ khác? Hay nói một cách khác, nói
theo danh từ ngày nay, học là để thành công. Thực ra, cái quan niệm về sự học
này, có điều không ổn thỏa. Dù rằng, có văn hóa cao, tức là ta có thêm một yếu
tố khuất phục được kẻ khác, nhưng đâu phải nó là yếu tố chính, yếu tố duy nhất
để gây được uy tín cho mình. Người ta sở dĩ có được uy tín là nhờ rất nhiều yếu
tố khác nữa như những yếu tố khách quan này: giọng nói chững chạc, tướng mạo
điềm đạm, hoặc có những thiên tư quyết định lẹ làng, can đảm, dám nhận lãnh
trách nhiệm...Vả lại, văn hóa cao tuy giúp cho ta có được thêm nhiều phương
tiện để phô trương ý chí của mình, thì mặt khác nó cũng giúp cho ta nâng cao
tâm hồn và đồng thời làm giảm bớt những dục vọng ích kỉ, không đem con người
làm vật hi sinh, nghĩa là sai sử họ và lợi dụng họ để làm nấc thang cho con
đường danh lợi của mình. Nó giúp cho ta có lòng biết tôn trọng nhân phẩm kẻ
khác, nâng cao tính công bình và lòng nhân đạo của mình. Sự học hỏi không còn
phải là một khí cụ để ta ngự trị và bóc lột người đồng loại, một năng lực để
cho ta thành công trên sự vụng và ngu dại của kẻ khác. Nhưng, hiểu ngược lại
cũng là sai. Nếu bảo rằng sự học không giúp gì cho con người trên thực tế, thì
học để làm gì? Sống trong loài người, chúng ta phải cần đến mọi người khác,
không có họ ta cũng không làm được gì cả. Ta cần phải làm cho họ nghe theo ta,
phụ lực với ta...Vậy làm cách nào cho họ phục ta, đem người thù làm người bạn,
đó là cách xử thế rất cần...Cái học dùng trong đạo xử thế không còn phải là cái
học dùng để lợi dụng bóc lột người.
Dĩ nhiên, cái học xử thế
không thể còn dùng đến toán học để giải quyết những vấn đề khúc mắc của lòng
người. Mà trái lại, phải dùng đến một năng khiếu khác hơn là óc khúc chiết: tôi
muốn nói đến óc tinh nhuệ.
J. ÓC TINH NHUỆ
Ngoài lí trí, tức là óc
khúc chiết, ta cần phải lo đào luyện óc Tinh nhuệ.
Chính óc tinh nhuệ nó giúp
ta trên con đường nghiên cứu những gì mà giác quan của ta không còn nhận xét
được nữa, tức là giúp ta hoạt động trên những vùng tinh thần rất tế nhị của
tình cảm về tư tưởng: ở đây ta chỉ có thể cảm được chứ không còn suy tính ra
được, ta có thể nhận thấy ngàn muôn sợi dây liên lạc vô cùng tế nhị và chằng
chịt mà ta không sao thấy được dấu hiệu gì bộc lộ bên ngoài...Óc tinh nhuệ giúp
ta thấy được chỗ không thể lìa ra của sự vật trên đời, trong khi phần đông
người ta thấy toàn là rời rạc.
Muốn đào luyện óc tinh
nhuệ, điều kiện đầu tiên là phải biết tập trung tất cả sự chú ý của ta về cái
con người "sâu sắc, phức tạp mà duy nhất" của mình đây...Trong tất cả
cái học trên đời này, cái học về mình là quan trọng nhất. Cần suy nghĩ, nghiền
ngẫm đến con người nói chung và của mình nói riêng, tìm hiểu một cách sâu sắc,
tinh tế những tình cảm của ta, những cách suy nghĩ và hành động của ta...Phải
để ý quan sát và tìm hiểu ý nghĩa và hành động của con người trong khi mình
giao thiệp với họ, từ cái tiếng cười hay câu nói, trong cái lặng thinh hay liếc
mắt đều có một cái gì biểu lộ được cái sâu kín của cõi lòng. Đó là phương pháp
hiệu quả nhất để mài giũa óc tinh nhuệ của ta...Muốn cho óc tinh nhuệ được thêm
tế nhị, ta cũng cần rút kinh nghiệm nơi những bộ tiểu thuyết danh tiếng của các
đại văn gia Âu Mỹ cùng những tuồng truyện có tiếng tăm quốc tế.
K. BIẾT TUYỂN CHỌN
Học, cần phải biết tuyển
chọn. Tuyển chọn, tức là phê phán, quyết định và lọc lại trong mớ sách ngổn
ngang chồng chất trong các nhà sách những sách nào hợp với mình và cần thiết
cho nhu cầu hiện thời của mình. Không lựa chọn, đụng đâu đọc đó, là làm tản mát
tinh thần mà cũng không hiệu quả vào đâu cả.
Tuyển chọn phải là công
việc đầu tiên của người ham học. Chẳng những phải biết chọn riêng cho mình
những sách mà mình thích nhất, lại cũng phải biết chọn trong một quyển sách
những chương nào hay nhất để ta thỉnh thoảng đọc đi đọc lại. Tuyển chọn cũng có
nghĩa là tuyển lại một trang, một đoạn hoặc một câu nào hay nhất có thể là tinh
hoa của cả một chương, hay của một tiết để xem đi xem lại, hoặc để học thuộc
lòng hay ghi nhớ trong tâm khảm. Phải có những tập trích tuyển các câu văn hay,
những câu thơ đẹp hoặc những đoạn sách đặc sắc với những tư tưởng mới...cho
riêng mình. Nhưng cũng phải có một cuốn tập riêng để tóm tắt, và phê bình những
sách hay mà mình đã học. Ở đây, mỗi người đều có một phương pháp riêng không thể
bắt ai theo ai được.
Tập trích lục các đoạn văn
hay nên sắp theo thứ tự vấn đề và theo mẫu tự. Tôi thấy có nhiều người cho dán
vào những quyển sổ to luôn cả bài báo nào hay nữa. Thói quen ấy cũng rất hay,
nhưng cốt yếu phải sắp đặt cách nào để một khi ta muốn dùng đến là tim được
ngay lập tức. Có người chép lại hoặc tóm tắt lại những đoạn văn hay trên những
tờ giấy rời, dĩ nhiên là chép trên một mặt thôi, và bỏ chung vào một trong bao
thư lớn có đề tựa. Tóm lại, ta cần phải tuyển chọn những sách hay nhất trong
những sách hay, những trang hay nhất trong những sách hay nhất. Phương pháp
tuyển chọn ấy dĩ nhiên là có tính cách cá nhân, nhưng đó mới thật là phương
pháp hay. Khi ta tìm ra được một trang sách hay là vì nó là tiếng dội của lòng
ta và ta có thể nói: "Đây là ý tưởng và cảm xúc của tôi, và nếu tôi viết
ra, tôi chỉ muốn viết được như thế, chỉ tiếc vì tôi không đủ tài hoa để miêu tả
được thôi".
Ta nên dành riêng cho những
sách ta đã tuyển chọn ấy một ngăn đặc biệt trong tủ sách ta, và có người lại
khuyên ta nên "đem nó mà đóng lại, giấu nó đi, và đừng cho ai mượn cả, dù
là bạn chí thân cũng vậy".
Sự tuyển chọn là một phương
pháp hay để tự mình biết rõ cái chân tướng của mình. Cứ đọc những tập trích
tuyển đủ biết khuynh hướng và tâm hồn của người trích tuyển ấy: hễ "đồng
thinh" mới "tương ứng", "đồng khí" mới "tương
cầu".
Khi mình còn ít tuổi thì
mình chưa định, chưa biết tuyển chọn, nên sự kết giao rất bừa bãi. Đến khi có
tuổi, thì sự kết giao bắt đầu siết chặt lại vòng dây: ta bắt đầu tuyển chọn. Về
việc học cũng thế.
Lúc còn trẻ, mình thường có
nhiều cao vọng muốn biết tất cả và nhớ tất cả! Vì vậy mà tuổi ấy khó học nhất,
bởi chưa biết tuyển chọn.
Ngay khi viết sách cũng
thế. Có nhiều nhà văn "trẻ tuổi" họ không biết tự giới hạn vấn đề,
không biết tiết kiệm lời nói, họ thao thao bất tuyệt và giành hết quyền sáng
tác của độc giả. Bởi vậy, có người đã bảo: "Thế nào là quyển sách hay? Là
quyển sách mà tác giả đã biết hạn chế vần đề, tiết kiệm lời nói. Trái lại,
quyển sách dở là quyển sách mà trong đó tác giả không còn để thiếu sót cái gì
cả, không để cho độc giả cùng bàn góp thêm được phần nào ý kiến của mình".
Cần nói nữa lời thôi, nhưng là những lời nói khêu gợi. Phải biết giúp cho người
suy nghĩ, đừng suy nghĩ thế cho người. Sách hay, tức là sách bắt ta suy nghĩ,
bắt ta hoài nghi và đặt lại vấn đề. Jean Giutton nói: "Nhà văn cần phải
biết nín lặng, đừng nói hết ý nghĩ của mình và phải đề cho độc giả có chổ tỏ ra
sự hiểu biết của họ". Như vậy, những vở tuồng hoặc truyện hay là những vỡ
tuồng, truyện như vở Rhasomon hay là Địa ngục môn của Nhật, hoặc những tiểu
thuyết của Andre Gide trong đó tác giả chỉ trình bày và đặt vấn đề, chứ không
giải quyết. Lối dạy học của Socrate cũng một thế ấy: ông chỉ đặt câu hỏi. Đọc
sách mà suy nghĩ thì nên đọc những quyển sách ấy, và sách như thế mới là những
quyển sách hay.
Người ta bảo, Pascal chết
sớm nên sự nghiệp văn chương của ông bị gián đoạn. Nhưng chính ông chết sớm mà
sách vở của ông có tính cách giáo dục nhiều hơn cả, bởi một lẽ rất giản dị là
nó bị gián đoạn và pascal không kịp nói hết lời. Tiếng đàn hay là hay ở dư
âm...Lời nói hay là lời nói vắn tắt mà hậu ý thâm trầm và man mác...
"Kẻ nào chưa biết tự
hạn chế là người không bao giờ biết viết văn". (Boileau)
* Có hai cách tuyển chọn:
Cách thứ nhất là lượm lặt
tinh hoa của tất cả sách vở bất cứ thuộc về loại gì, bất cứ thuộc về thời nào.
Cách thứ nhì là chọn trước
một đầu đề rồi sau lấy đó làm trung tâm nghiên cứu, tuyển chọn những gì liên
quan mật thiết với nó, và mỗi ngày mỗi đi sâu vào vấn đề, được chừng nào hay chừng
nấy.
Trong hai cách tuyển chọn
ấy, cách sau này là tiếp thu hơn hết, và cách trước là lí thú hơn hết. Cũng cần
tham khảo cả hai.
Về sự tuyển chọn, có người
khuyên ta: "Đừng bao giờ đọc những vài văn bây giờ, nhất là vừa mới viết
do những ngòi bút mới lạ. Đừng đọc sách mới xuất bản. Phải để cho thời gian đào
thải...Ngày giờ ta rất ngắn ngủi: đừng nên đọc những sách chưa chịu nổi thử thách
của thời gian. Đừng đọc sách của những nhà văn chưa có tên tuổi. Chỉ nên đọc
những sách gì đã được tái bản hay xuất bản được trên ba mươi năm, trên ba trăm
năm, trên ba ngàn năm...bấy giờ bạn sẽ lại gặp văn hào Homere"...
Lại cũng nên nói
"tuyển chọn những sách nào làm cảm xúc được ta". Nhưng ta nên hiểu
chữ "cảm xúc" đây không có nghĩa là cảm động ngoài da bằng một thứ
cảm giác kích thích thần kinh hay vật dục của ta như những quyển tiểu thuyết
diễm tình hạng rẻ tiền. Cảm xúc đây là sự cảm xúc sâu nặng như sự cảm xúc của
Augustin Thierry khi đọc quyển Les Martyrs của Chateaubriand, của Malebranche
khi đọc quyển Traite' de Lhomeme của Descartes: một người thì tìm ra được cái
khiếu về sử học, một người thì tìm ra được cái khiếu về triết học của mình. Quyển
sách đầu tiên đã làm cho tôi xúc cảm quá sâu nặng và đã ảnh hưởng tư tưởng của
đời tôi không nhỏ là quyển La Conquete de l'Illision của J.J.Van Der Leeuw. Đó
là những sách có thể gọi là hay, dĩ nhiên là đối với riêng từng cá nhân vậy.
Chương 3: NHỮNG ĐIỀU KIỆN THUẬN TIỆN
Trong những điều kiện đầu
tiên để có thể xây đắp cho mình một nền học vấn vững vàng, ta phải kể trước hết
điều kiện là thời gian.
Phần đông muốn học rút thời
gian, học mau, học tắt… Họ chấp thời gian. Dù là bậc thông minh đến đâu cũng
không thể chấp thời gian mà thành công trên con đường học hỏi. Ta nên biết rằng
những kẻ thật thông minh, nghe qua là hiểu suốt mọi lẽ là hạng người rất hiếm
trên đời. Bực tầm thường như chúng ta, không làm gì chấp thời gian mà học hiểu
sâu sắc được. Tưới cây, người ta cũng tưới từ từ, và phải có thời gian, nước
mới có thể thấm nhuần gốc rễ. Có thời gian, trái mới chín, hoa mới trổ. Thiếu
thời gian, cái học của con người chỉ được có bề rộng, kém bề sâu hay cũng chỉ
có được một nước sơn bóng loáng bên ngoài mà thôi. Chấp thời gian là phản văn
hoá.
*
* *
B. TINH THẦN TẢN MÁC.
Muốn có được một học vấn
uyên thâm, cần phải tránh những cơ hội làm cho tinh thần tản mác trong một đời
sống quá phiền phức.
Tản mác vì những xã giao
nhảm nhí: sáng nầy mình định nghiên cứu về một vấn đề mà mình ôm ấp từ lâu. Sau
khi tắm rửa xong xuôi, mình định lại bàn viết đọc sách và làm việc. Nhưng thắc
mắc, mình lật quyển sổ tay xem coi ngày hôm nay có hứa hẹn với ai gì không?
Chết chửa! suýt lại quên mất, mình đã hứa đi lễ cưới con của một người bạn ở
Phú Nhuận. Mười giờ… Thì bây giờ còn sớm chán… Ngồi lại bàn, lấy sách ra đọc…
Nhưng thỉnh thoảng áy náy mình cứ nhìn đồng hồ. Kết quả công phu nghiên cứu của
mình chả có gì cả vì mình không còn tin tưởng nơi kết quả nữa, mình đã bận nghĩ
đến cái phút mà mình bắt buộc phải dừng lại, thay áo quần, lên xe đi cho thật
nhanh đến nơi kỳ hẹn… Rồi còn phải xã giao, miễn cưỡng, vui cười giả dối, chúc
mừng, tán tụng hão… Lại còn nghĩ mình trước khi ra đi hôm nay, mặc bộ ào gì?
Còn khổ nỗi, đây rồi còn bắt buộc phải gặp mấy thằng bạn “trời đánh” chuyên môn
quấy rối và làm mất thời giờ người khác bằng những cái tán nhảm, những câu
chuyện không đâu mà mình đã cố lẩn tránh từ lâu. Thật ra, buổi sáng nầy chắc
chắn ta sẽ không làm nên trò gì được cả rồi!
Thôi thì ngày mai… có lẽ ta
sẽ “yên thân” mà làm việc và học hỏi có kết quả hơn. Nhưng quyển sổ tay của ta
đã ghi những gì? 8 giờ sáng đi dự đại hội nghiệp đoàn; 10 giờ đi dự lễ khai mạc
phòng triển lãm hội hoạ; 11 giờ đưa đám táng ông phó chủ tịch hội Khuyến học; 3
giờ chiều nghe diễn thuyết tại Đại học đường Văn khoa… và, 5 giờ đi xem chớp
bóng…
Thưa bạn, nếu thời dụng
biểu ấy giống từa tựa với cái thời dụng biểu hằng ngày của bạn, thì bạn đừng
mong đi sâu vào con đường học vấn… Hoặc ít ra, bạn phải cương quyết tổ chức
thời giờ của bạn bằng cách giản dị hoá nó lại. Đời sống bạn, phiền phức lắm.
Nếu bạn có thời giờ, tôi xin điểm chỉ cho bạn quyển “Đời sống giản dị” của
Charles Wagner để mà nghiền ngẫm. Bấy lâu nay chúng ta đi dự không biết bao
nhiêu đám cưới, không biết bao nhiêu đám táng, không biết bao nhiêu phòng triển
lãm nhảm nhí, không biết bao tuồng hát tầm thường không giá trị… Đám tang thì
chỉ nên dự vào những ai là người chí thân; những kẻ đến dự cho có, không nên
đến nhiều, làm rộn tang gia. Đám cưới mà dự cho đông, toàn là để có dịp khoe
khoang tán hão, không lợi gì thiết thực cho đôi tân nhân là chân hạnh phúc của
tình yêu họ. Đi dự các phòng triển lãm nhảm, hoặc đi xem những vở tuồng “xoàng”
là một sự mất thời gian đáng tiếc.
Phải biết bênh vực cái thời
giờ quý báu của ta. Biết từ chối, đó là một sức mạnh của tâm hồn. Đừng sợ làm
phật lòng kẻ khác bằng sự từ chối khéo léo: mình đã chẳng những làm lợi cho
mình mà cũng không làm bận cho người. Những người thông minh họ rất hiểu tâm sự
của các bực học giả cũng như của các nhà ham học. Phải thật can đảm, mới chống
trả nổi những dụ dỗ của cuộc sống xa hoa phù phiếm chung quanh. Người quyết tâm
đào tạo cho mình một đời sống tinh thần, phải ít ra có một đời sống đơn giản,
một nếp sống xa hẳn cuộc sống xa hoa của đời náo nhiệt bên ngoài, nghĩa là, nếu
có thể được, nên có một nếp sống của một người “ẩn dật”…
*
* *
C. ĐỜI SỐNG ĐƠN GIẢN.
Điều kiện thuận tiện nhất
cho một người cố tâm học hỏi là phải có được một đời sống đơn giản nhất.
Sống đơn giản, đâu có nghĩa
là sống nghèo khó trong cảnh muối dưa đạm bạc, sống thiếu tất cả tiện nghi và
trở lại sống cái sống của người bán khai mộc mạc. Sự bận lòng vì quá thiếu thốn
về vật chất, không những sẽ làm cho đời ta bực bội, lại còn làm cho nó thêm
phiền phức hơn nữa, chứ không giản dị hoá nó được như ta đã tưởng. Trái lại, có
một sự nghiệp to lớn của nhiều cũng làm bận thêm tâm trí: lo làm thêm ra mãi,
lo thu cất giữ gìn, lo tranh đấu với những kẻ tranh thương với mình là cả một
công việc vô cùng phiền phức. Đời sống như thế không thể nào gây dựng một công
trình văn hoá gì được cho ra hồn. Chỉ có những đời sống mà gia tư kha khá về
mực trung mới có thể đủ điều kiện thuận tiện nhất cho công trình tự học.
Tuy nhiên, ở đây, ta nên để
ý đến vấn đề phẩm hơn là lượng. Không phải cái số tiền bạc tài sản nhiều hay ít
là điều quan trọng. Quan trọng chăng là cái quan niệm của mình đối với tiền
bạc. Đời sống đơn giản, tức là cái nếp sống tổ chức theo một quan niệm biết
nhìn thấy cái gì là chánh, cái gì là phụ trong đời, biết quý cái cần thiết mà
bỏ qua những cái không cần thiết… Phần đông con người không biết phân biệt cái
gì là chánh, cái gì là phụ, chỉ loay quay quan trọng hóa những cái phụ thuộc
của cuộc đời mà quên lửng đi cái cốt yếu.
Lấy ngay một việc hôn nhân
thì đủ rõ: người ta lo nghĩ tất cả, nào là môn đương hộ đối, nào là chàng rể
đẹp trai, nàng dâu kiều diễm, nào là tuổi tác đôi bên xứng đôi vừa lứa, cha mẹ
đôi bên xứng đáng sui gia, nào là sắm lễ vật cùng trao tặng quà vật đắt giá,
nào là quan khách đông đặc toàn là những bậc quyền quý cao sang, nào là xe hoa
lộng lẫy, chúc tụng lăng nhăng… Nhưng cái điều cốt yếu, cái điểm chánh là tình
yêu của đôi tân nhân có thành thực yêu thương nhau không, tánh tình họ có hoà
thuận nhau chăng và họ phải làm cách nào để yêu thương nhau mãi và tự mưu hạnh
phúc cho nhau… Phần chánh đó, người ta đã không bao giờ để ý đến hay nhắc đến.
Người ta đã để ý đến cái phụ nhiều quá mà quên mất cái chánh yếu.
Lầm cái phụ với cái chánh,
lầm hình thức với nội dung, có thể nói đó là cái thông bệnh của phần đông người
đời nay vậy.
“Sự sung sướng vật chất,
học vấn, tự do, tất cả nền văn minh… chỉ là cái khung của một bức tranh. Cái
khung đâu phải là bức tranh. Cũng như cái áo choàng đâu có làm thành được nhà
tu, bộ quân phục đâu có biến con người thành một nhà chiến sĩ… Bức tranh ở đây,
tức là con người với tất cả những gì thâm sâu nhất của con người, tức là lương
tâm, tánh khí và ý chí của mình. Trong khi người ta chăm lo săn sóc và đánh
bóng cái khung cho đẹp đẽ, người ta đã quên mất, khinh thường và làm hỏng mất
bức tranh. Cũng như, chúng ta có thứa thãi về vật chất bên ngoài, nhưng lại hết
sức nghèo nàn về cái đời sống bên trong… Chúng ta có thừa thãi tiền của mà ta
có thể không có cũng không cần, trái lại, ta lại rất nghèo thiếu cái điều cần
thiết nhất của đời ta. Thế nào là một cây đèn tốt? Cây đèn tốt đâu phải là cây
đèn có cái dáng ngoài rất đẹp, được điêu khắc cầu kỳ hay được làm bằng một thứ
kim khí quý báu. Một cây đèn tốt là một cây đèn thắp sáng. Con người cũng một
thế..” (8) Người giản dị nhất là người đã bộc lộ và thực hiện được cái người
thật của mình mà không bị ràng buộc trong những điều phụ của mình như tiền của,
danh vọng, sự nghiệp… của mình. Một hiền triết Hy Lạp có nói: “Nếu anh có ngựa
tốt, hãy nói: Con ngựa tôi tốt, chứ không phải tôi tốt.” Người đời phần đông
không phải đều có óc giản dị như thế cả. Phần đông có con ngựa tốt, lại cũng
tin tưởng thật rằng mình tốt: họ đã đồng hoá họ với những vật ngoại giới mà họ
đã có. Bởi vậy, phần đông con người đánh giá chính mình cũng như những kẻ khác
bằng những ngoại vật mà mình đã chiếm đoạt. Có khi nhà lầu của họ rộng, nhưng
con người của họ không rộng; địa vị của họ cao sang mà chính họ không cao sang.
Họ đã lầm lẫn cái chánh và cái phụ, cái thực và cái hư, cái chân và cái giả. Có
khi họ có tiền của nhiều và cứ tin tưởng rằng, họ là chủ nhân của số tiền ấy,
mà trong thực tế, họ chỉ là kẻ nô lệ tiền tài cùng chức vị của họ. Họ đã lấy
tiền của làm cứu cánh trong khi nó chỉ là phương tiện thôi.
Đời sống giản dị là đời
sống của phần đông các bực vĩ nhân. Họ là người chống lại sự tản mác tinh thần
không chạy theo những phụ thuộc của cuộc đời.
Đời sông của nhà hiền triết
Spinoza có thể xem là gương mẫu của một đời sống đơn giản. Người thì ốm yếu,
bệnh hoạn và đã phải làm cái nghề mài kiếng đeo mắt để mưu cho mình một đời
sống tự do. Ông quyết định cư ở La Haye, trong một căn phòng ở từng lầu thứ
hai. Ông cho người bưng cơm lên phòng và ở miết cả hai ba ngày không tiếp ai.
Về sau, ông cảm thấy sống như thế vẫn còn tốn kém, ông bèn mướn một căn phòng
khác và tự tay mình săn sóc lấy miếng ăn miếng uống của mình. Ông có ngày chỉ
ăn có một món súp nấu với sữa và chút bơ, chỉ tốn ba xu và một ve rượu bia
chừng một xu rưỡi.
Phải chăng là ông sống khổ
hạnh? Hay vì ông chán đời? Không! Triết lý của ông là vui sống. Ông cũng không
phải ghét đời hay chán đời: ông vẫn cho sự nghiệp với đời là cần thiết cho sự
rộng thấy, xa nghe. Ông cũng đâu có khinh thường những tiện nghi của đời. Ông
nói: “Người khôn ngoan biết hưởng thụ những khoái lạc của cuộc đời, phải biết
ăn mặc đẹp, thưởng thức các mùi hương hoa, âm nhạc…” Nhưng, ông lại tự đặt cho
mình một quy luật là không bao giờ vì một vài tiện nghi và sung sướng nhục thân
đến phải hy sinh các tự do của tâm hồn mình. Người ta đề cử ông một chân giáo
sư triết học ở Heidellberg. Ông từ chối: “Không khi nào tôi nghĩ đến việc làm
cái nghề ấy. Dạy dỗ thanh niên sẽ làm trở ngại sự nghiên cứu học hỏi của
tôi...” Nhiều bạn lại muốn tặng cho ông một số bạc thật to, ông cũng từ chối:
“Chính cái hình ảnh của bạc tiền nó cứ ám ảnh những tâm hồn tầm thường. Nhưng
đối với những kẻ biết dùng tiền và biết ăn xài theo túi tiền của mình thì họ
phải biết sống an phận và sống không cần gì đến phải tiền nhiều cả”.
Đó là người biết sống một
cách đơn giản, biết phân biệt cái gì là chánh, cái gì là phụ, cái gì là cứu
cánh, cái gì là phương tiện.
Học, cần phải làm như con
ong hút nhuỵ, đừng học đòi như con bướm giỡn hoa. Có người tưởng rằng mình sẽ
có được số vốn học hỏi vừa căn bản, vừa rộng rãi bằng cách hằng ngày đọc năm ba
quyển sách, chín mười tờ báo, đi xem ba bốn phòng triển lãm, đi nghe hai ba
cuộc diễn thuyết văn học, chánh trị, triết lý… Là vì theo họ, nhờ thế họ sẽ
được “nhìn xa thấy rộng” tất cả mọi năng khiếu đều sẽ được khải phát đủ mọi
khía cạnh. Họ lầm! Tôi có thấy nhiều người họ đọc sách, đọc báo như điên… Bất
cứ gặp gì dưới tay là họ đọc ngốn đọc nghiến, họ đọc cả tủ sách này đến tủ sách
kia, bất cần là sách hay sách dở… Nếu họ là bực thông minh triệt để thì tôi
chẳng dám nói, vì đó là những ngoại lệ. Thực sự, với hạng tầm thường như chúng
ta, tôi quả quyết những người học như thế ấy không làm gì đào tạo cho mình một
cơ sở văn hoá vững vàng được cả. Với cách học như thế, chắc chắn họ chỉ có được
một cái học ngoài da, một cái hào nhoáng không sao tiêu hoá được. Cái học ấy có
hại hơn là có lợi cho óc phán đoán đúng đắn và mực thước. Chông chất không thứ
lớp những sự học hỏi hiểu biết của ta, đâu phải đó là mục tiêu của văn hoá.
Riêng ta, mỗi sự kiện tự nó không có ý nghĩa gì cả: nó chỉ có giá trị khi nào
nó được sắp đặt ngay vào vị trí của nó, liên lạc mật thiết với nhau như một tổ
chức tự nhiên của một vật sống. Một ý tưởng rời rạc không thể dắt dẫn gì ta
được trên con đường hành động. Là vì trong thực tế, sự việc trên đời là một cái
gì phức tạp muôn màu và một khi muốn đem nó ra thích ứng với sự đời ta phải đem
ý tưởng nầy sửa chữa lại bằng những ý tưởng khác, chứ không thể theo một chiều
nào được. Vì vậy, sự tổ chức lại các điều học hỏi của ta còn quan trọng hơn là
những điều mà ta đã học hỏi. Và chính sự tổ chức cho có hệ thống đàng hoàng là
quan trọng nhất, nên sự tán mạn đó đây của óc tò mò của ta như trước đây nói
không có lợi gì cho ta cả, mà trái lại, là một trở ngại to lớn cho cái học về
bề sâu của ta vậy.
Cái học mà vụ về bề rộng và
bề cạn nghĩa là cái gì cũng biết, nhưng không có cái gì là thật biết, là mối
thù số một của Văn hoá. Có người lật sách đọc mà không quan tâm gì đến cái tên
của tác giả, cái tựa của quyển sách. Họ đọc rồi là quên rồi. Có người, mỗi tuần
lễ, đọc có trên mười quyển tiểu thuyết, hoặc mười quyển sách nghiên cứu phổ
thông hạng rẻ tiền về triết học hay khoa học dành riêng cho những kẻ không
thích cố gắng và suy nghĩ. Đó không phải là lối đọc sách để mà học.
Đọc sách để giải buồn trong
những lúc ngồi không ở trên toa xe… thì lại là một việc khác. Đọc sách để giải
trí thì nên đọc những tác phẩm để cầu vui, trái lại, đọc sách để mà đào tạo cho
mình một cái vốn hiểu biết đứng đắn, phải đọc một cách chọn lọc những tác phẩm
không thể nào đọc qua một bận mà lĩnh hội hết được ý nghĩa, những tác phẩm mà
ta càng đọc đi đọc lại càng thấy thâm trầm. Vấn đề nầy chúng ta sẽ xem xét lại
một cách rạch ròi hơn sau đây.
Đọc sách để mà học, cần
phải chọn lọc thật kỹ. Sự gần gũi thân mật với những loại sách quá tầm thường
sẽ càng ngày càng làm hạ thấp tinh thần trí não ta. Gần mực thì đen, gần đèn
thì sáng.
D. SỰ TẬP TRUNG TINH
THẦN.
Muốn có được một nền
tảng văn hoá vững vàng phải biết thống nhất tất cả sự hiểu biết cùng học hỏi của
ta vào một chiều sâu nào đó.
Một nhà văn Pháp có nói:
“Tất cả những trước tác danh tiếng của những bực tài hoa viết ra, toàn là những
giải thích về chiều rộng một ý tưởng duy nhất nào đó, một tình cảm về cuộc sinh
tồn đang tìm đường sống… Đào mãi một cái lỗ, đó là phương thế duy nhất để đi
sâu vào lòng đất và khám phá được những bí ẩn của nó”.
Nhờ sự tập trung tinh
thần, ta lần lần tìm ra mối dây liên lạc duy nhất nối liền những ý tưởng cùng
những sự kiện tạp nhạp mà mới xem qua ta không thấy ăn chịu với nhau chút nào
cả. Nhưng chính cái chỗ “nhất dĩ quán chi” ấy là cái bí quyết của tất cả những
danh tác bất hủ của nhân loại.
Khổng tử có nói: “Ngô
đạo nhất dĩ quán chi” (đạo của ta trước sau chỉ có một lý mà thông suốt cả mọi
việc).
Cái “một” ấy cũng là cốt
tử của tất cả nghệ thuật và tư tưởng. Một học thuyết, một quyển sách, một bài
văn hay một bức hội hoạ… đều phải có điểm chánh dùng làm trụ cốt.
Một danh hoạ bao giờ
cũng gợi cho ta một cảm giác gì. Cảm giác ấy mạnh hay yếu cũng nhờ nơi khéo lựa
chọn một cách cẩn thận cân nhắc những chi tiết vừa đủ để gây cho ta cái cảm
giác ấy. Nếu trái lại, hoạ sĩ phung phí những chi tiết vụn vặt không ăn, hoặc
không mấy ăn vào đề thì đó là một bức hoạ thiếu tính cách nhất quán, một bức
hoạ hỏng. Người ta xem nó, không hiểu rõ nó muốn miêu tả cái gì. Đứng trước nó,
ta cảm thấy hoang mang.
Sự thuần nhất trong một
tác phẩm hội hoạ hay văn chương là điều khó thì hành nhất. Có gì dễ bằng chồng
chất một cách hỗn độn nhưng chi tiết rất hay rất ngộ, nhưng không liên lạc gì
với ý chánh của tác phẩm mình. Trong mỗi ý tưởng hay cảm giác hỗn tạp do sự
kích thích của ngoại giới đưa đến cho ta, ta phải biết lọc lừa, chọn những gì
trọng yếu nhất ăn sát vào đề để sắp đặt lại và trình bày một cách khéo léo, hầu
gây cho kẻ khác một cảm tưởng thuần nhất mạnh mẽ. Không khác nào người trồng
nho: họ tỉa những nhánh lá không cần thiết hoặc đèo đẹt để tăng sinh lực cho
những nhánh lá khác có thể trổ sanh được nhiều trái hơn: hoạ sĩ hay nhà văn cần
phải biết hy sinh những chi tiết không cần thiết hoặc còn bạc nhược để cho tác
phẩm mình thêm nhiều sinh lực. Có nhiều nhà văn tư tưởng họ dồi dào quá, họ
phung phí tư tưởng họ trên mặt giấy không khác nào những cành lá rườm rà của
đám nho rừng…
Vì thế, viết một bài văn
hay, hoặc vẽ một bức hoạ khéo, đâu có dễ. Người viết nó phải, trong khi giải
bày những ý phụ, đừng cho sa đà ra ngoài đề. Giá trị của một nghệ sĩ là chỗ
biết giản lược những gì phiền phức rườm rà để tăng gia sinh lực cho cái cảm
giác chung nghĩa là phải biết hy sinh. Mặc dầu là những chi tiết hay, hoặc là
những tài liệu quý đến bực nào, nếu thấy không liên lạc một cách chặt chẽ với
đầu đề, hãy có gan hy sinh nó đi. Nó là những thứ “chùm gởi” không nên dung
dưỡng trong tác phẩm của mình. Viết văn mà biết mình thi hành nguyên tắc “nhất
dĩ quán chi” ấy, đó là mình đã tập cho tinh thần mình bao giờ cũng được tập
trung sáng suốt.
Taine có nói: “Điều khó
khăn nhất trong khi nghiên cứu là tìm cho ra cái điểm đặc biệt và chủ yếu, do
đó tất cả đều có thể quy về một mối…” Ông lại bày giải phép làm văn của mình:
“Trong khi viết lại một tác phẩm nào, tôi luôn luôn làm một cái bản mục lục
phân tích từng vấn đề. Tôi làm bản ấy, không phải lúc mới khởi thảo, hoặc sau
khi viết xong bản thảo, mà là lần lần sau khi viết xong mỗi đoạn. Tôi tóm lại
mỗi đoạn bằng một câu hết sức gọn gẫy và rõ ràng. Đâu phải dễ dàng gì tìm ra
được liền câu đại lược ấy, nhưng hễ đã một khi tìm ra được nó rồi thì câu ấy
chỉ cho ta thấy trong đoạn văn nầy có những gì dư, những gì thiếu, những gì
không ăn chịu nhau, hoặc không đầu đuôi, bởi thảy đều phải quy về câu tóm tắt
ấy. Hơn nữa, câu tóm tắt nầy cùng những câu tóm tắt khác của các đoạn sau, gộp
chung lại, giúp ta thấy cái yếu điểm của toàn chương”.
Đây chẳng những là
phương pháp làm văn mà cũng là phương pháp đọc văn và rộng hơn nữa, nó là tất
cả phương pháp học hỏi bất cứ môn học nào.
Muốn có được luôn luôn
một đầu óc sáng suốt mà cũng là phương pháp đọc văn và rộng hơn nữa, nó là tất
cả phương pháp học hỏi bất cứ môn học nào.
Muốn có được luôn luôn
một đầu óc sáng suốt phải biết tập cho mình cái thói quen tìm ngay cái ý chánh,
biết phân biệt liền cái gì là yếu điểm với những gì là phụ thuộc, nhất định
không bao giờ để mình bị lôi cuốn theo những đề phụ…mỗi khi đọc sách, xem
tranh, làm văn, xem kịch hay nghe tiểu thuyết…
Nhất là khi đọc sách.
Đọc sách là phương tiện quan trọng nhất trong khi tự học. Đọc sách mà muốn tìm
nắm lấy cái đại ý của toàn tập, phải đọc nó suốt một hơi, đừng bận những tiểu
tiết về văn từ cũng như về ý tưởng. Về sau sẽ đọc trở lại vài lần một khi đã
nắm được đại ý. Bấy giờ ta sẽ đọc kỹ lại từng thiên, từng đoạn, từng câu. Nhưng
bao giờ cũng phải biết để ý đến chỗ thuần nhất của nó.
Nếu ta thi hành nguyên
tắc “nhất dĩ quán chi” nầy một cách trung thành trong mỗi khi đọc sách hay làm
văn, lâu ngày ta sẽ tạo cho ta một thói quen rất tốt là bất kỳ đứng trước một
việc gì phiền phức bực nào cũng không bao giờ để tinh thần mình bị lôi cuốn vào
những chi tiết chi ly vụn vặt, không phân biệt được cái gì là chánh cái gì
phụ…Người xưa thường dặn: “Tri kỷ lý giá, nhứt ngôn nhi chung, bất tri kỳ lý
giả, lưu tán vô cùng”.
Đây nào phải đâu chỉ là
công phu những khi đọc sách hay làm văn mà thôi đâu, ta phải lấy nó làm công
phu của suốt đời, bất kỳ là đứng trước một trường hợp nào…”(Xem lại quyển Óc
sáng suốt –trang 183).
Cái đặc điểm của những
bậc vĩ nhân là nơi sức mạnh của sự tập trung tinh thần của họ. Roederer bàn
Napoleon Bonaparte có nói: “Ông sở dĩ khác người là nhờ nơi sự tập trung tinh
thần của ông rất mạnh và rất bền. Ông là người có thể làm việc liên tiếp mười
tám giờ đồng hồ về một công việc…Không có người nào biết để hết tâm tư mình vào
công việc mình làm hơn ông”.
Có kẻ hỏi Newton, nhà
đại thiên văn nước Anh, cái mật pháp của sự phát minh về sự “dẫn lực của Vũ
Trụ” của ông. Ông trả lời: “Có gì lạ, chỉ vì tôi cứ nghĩ đến nó mãi mà thôi!”
Ông Darwin sở dĩ làm
được công nghiệp vĩ đại trong khoa học giới là nhờ ông có cái tài “đeo đuổi mãi
theo một vấn đề suốt năm nầy đến năm kia mà không biết nản”, không bao giờ chạy
theo cái phụ mà quên cái chánh.
Khổng Tử cũng thường nói:
“Ta là người, hễ có việc gì nghĩ chưa ra, thì nghĩ đến quên ăn, nghĩ ra được
thì vui quên cả lo, không biết rằng tuổi già đã sắp tới vậy.”
“Thiên tài chỉ là một sự
kiên nhẫn lâu dài”, kiên nhẫn đeo đuổi mãi một ý nghĩ, một việc làm cho kỳ được
mới thôi.
Darwin, mỗi buổi sáng
làm việc từ 8giờ đến 9 giờ rưỡi, từ 10 giờ rưỡi đến 12 giờ trưa. Chiều, thì làm
việc từ 3 giờ rưỡi đến 5 giờ rưỡi, nhưng không phải luôn luôn như vậy, vì đó là
công việc làm thêm. Tuy làm việc rất ít, mà hễ làm thì ông làm một cách nhiệt
thành, đem cả tâm trí chuyên chú vào đó và không khi nào ông làm một việc gì mà
còn phải làm lại một lần thứ hai nữa.
Bạn ông là nhà địa chất
trứ danh Lyell cũng chỉ làm việc có 2 giờ liên tiếp thôi. Herbert Spencer,
người bạn đồng hương của ông, có một sức khỏe rất tồi tệ, ông nầy không đủ sức
tập trung tinh thần tư tưởng lâu được: thần kinh hệ của ông rất suy nhược. Làm
việc liên tiếp ba giờ thì ông phờ cả người, không còn đủ sức để đọc một quyển
tiểu thuyết nữa, ông đã đuối sức rồi. Thế mà vì khéo biết tập trung sinh lực
vào một công việc sưu tầm của ông thôi và biết hy sinh tất cả những gì phụ cho
cái chánh mà sau cùng ông đã để lại cho đời một công trình hết sức to lớn.
Bất cứ làm việc gì,
chuyên tâm chú ý, tập trung tinh thần là bí quyết của thành công.
“Trọng Ni đi qua nước
Sở, vừa ra khỏi rừng, thấy một người tật bướu bắt ve bằng môt cây sào dài, rất
lẹ và chắc chắn cũng như nó bắt bằng tay vậy.
Trọng Ni nói: Anh thật
là tài. Xin cho ta biết cái thuật của anh.
Tên tật bướu nói: Thuật
của tôi là đây: trong năm, sáu tháng, tôi tập để viên đạn đứng thăng bằng trên
ngọn sào của tôi mà không hề rớt. Khi tôi để đứng đặng hai viên, thì ít con ve
nào thoát khỏi tay tôi. Khi tôi để đứng đặng năm viên, tôi không hề trật một
con nào hết. Cái thuật cảu tôi là biết quy tất cả tinh thần của tôi vào chỗ chí
hướng mà tôi mong đạt đó. Tôi trị cái tay tôi, cả thân thể tôi cho đến chừng
nào thành một khúc gỗ, không còn xao nhãng nữa. Tuy Trời Đất là lớn, vạn vật là
nhiều, nhưng tôi chỉ thấy có con ve mà tôi muốn bắt nó thôi. Không chỉ làm cho
tôi xao lãng ngoài cái ý của tôi muốn đó, con ve làm gì thoát khỏi tay
tôi”.(Trang Tử -Đạt Sanh thiên).
Đó cũng là cái bí quyết
của phép tự học nữa.
E. ÓC TỔNG QUAN.
Như ta đã thấy trên đây,
sự đi tìm cái lẽ “nhất dĩ quán chi” của mọi sự vật trên đời, đó là cách đào tạo
cho mình tinh thần tổng quan.
Như thế, óc tổng quan
thực là khuynh hướng chống lại với sự tản mạn tinh thần chống lại với sự quá
phung phí tư tưởng vào những cái chi ly vụn vặt và phụ thuộc, nghĩa là biết đem
những chi tiết phụ ghép vào cái chánh, biết nhận thấy cái dây liên lạc mật
thiết giữa các sự vật rời rạc nhau, biết tìm hiểu cái ý nghĩa thâm sâu của mọi
sự mọi vật trên đời, nhưng chú ý đến không có nghĩa là đã quên mất cái đại ý
của cuộc đời, cái ý nghĩa thâm sâu của sự sống để mà giản dị hoá nó, mà “chuyên
tâm bão nhất”.
“Tập trung tinh thần”
cũng không có nghĩa là khép mình trong “chuyên môn”. Đây là hai hoạt động tinh
thần khác nhau xa. “Chuyên môn” là hoạt động bằng tư tưởng cũng như bằng hành
vi trong một khu vực hạn định nào, không khác nào một người thợ bắt bù lon, cứ
bắt bù lon mãi suốt ngày, hay một người thơ ký đánh máy cứ đánh máy mãi suốt
ngày…Tập trung tinh thần, là biết trung thành luôn luôn với lý tưởng. Tập trung
tinh thần không có nghĩa là tự giam mình trong một phạm vi chật hẹp nào của
nghề nghiệp, mà trái lại, tự mình lựa chọn một trung tâm hoạt động tha hồ quyền
biến mà không bao giờ sai với tôn chỉ.
*
* *
F.ÓC NHÂN QUẢ.
Sự vật trong đời, không
bao giờ ngẫu nhiên mà có, cũng không bao giờ ngẫu nhiên mà không. Có hoặc không
chỉ là cái quả, nguyên nhân nó hoặc gần hoặc xa, chắc chắn là phải có. Có biết
đặng nguyên nhân, mới biết rành kết quả. Thấy quả phải tìm đến nhân, đó là một
trong nhiều khía cạnh của tinh thần khoa học. Cần phải tạo cho mình một khuynh
hướng luôn luôn đứng trước một sự kiện gì đều phải biết tìm dây nhân quả thì sự
học hỏi của ta mới chắc chắn vững vàng.
Thật vậy, chỉ có những
đầu óc nông nổi mới hay tin đến sự cộng đồng sinh tồn và sự tiếp tục ngẫu nhiên
trong sự vật mà thôi. Đời sống phức tạp, tản mác, giáo dục hấp tấp vội vàng,
thói đọc sách sơ sài ngoài mặt là những nguyên nhân làm cho tinh thần ta thiển
bạc lười biếng, thấy sao, hay vậy…không chịu khó tìm xem nguyên nhân sự vật ở
nơi đâu.
“Có biết đặng nguyên
nhân mới hiểu rành mọi sự…Tiền nhân, hậu quả. Quả cùng nhân tương tiếp tương
thừa. Dây nhân quả vô cùng vô tận. Chận một khoảng nào thì khoảng ấy là quả của
bao nhiêu nhân trước, mà là nhân của cả dọc quả về sau. Vậy thì quả đây, nhân
nó ở đâu? Người ta cắt nghĩa lầm một sự là vì chỉ thấy một cái nhân nầy mà
không thấy cái nhân khác của sự ấy, chỉ thấy có cái nhân gần mà không thấy được
cái nhân xa của sự ấy. Muốn hiểu rõ một sự, phải biết cho tường tận cái dọc
nhân ở đàng trước của nó là gì? Song le có nhiều sự không phải chỉ có một dọc
nhân làm ra nó mà có nhiều dọc nhân khác làm ra. Không hiểu được hết cái dọc
nhân, người ta đổ cho sự may rủi” (Luận Tùng trang 68 -Phạm Văn Hùm –Tân Việt
xuất bản).
Biết tìm được cái dây
nhân quả trong mọi sự mọi vật trên đời thì tư tưởng ta mới được đầy đủ và cường
kiện thêm lên. “Không có gì ngẫu nhiên cả, thảy đều có cái lý của nó”. Đó là
cốt yếu của tinh thần khoa học.
Vậy, trước một hiện
tượng nào, hãy hỏi: Tại sao? Và nếu có ai quả quyết với mình một điều gì, phải
lập tức đòi hỏi lấy “bằng cứ”!
Đọc báo, thấy nhà phê
bình chê hoặc khen một tác phẩm nào, phải tự hỏi để tìm lấy cái nguyên nhân
thầm kín của nó: “Tại sao khen? Tại sao chê?”. Ta phải đòi hỏi nơi nhà phê bình
những bằng cứ đúng đắn trước khi nhận những lời phê phán của họ.
Nếu muốn hiểu rành một
điều nghe thấy nào, cần phải “có đủ các dọc nguyên nhân” mới được. Nhưng “việc
đời phức tạp mà đời người rất ngắn, con người phải tạm sống với những kết luận
tạm”. Thà kết luận tạm với một mớ nguyên tắc thiếu sót, có phải còn quý hơn là
kết luận liều lĩnh mà không cần hiểu đến một nguyên nhân cỏn con nào cả không?
Óc nhân quả, giúp cho ta
nhận thấy được sự mâu thuẫn trong các hành vi tư tưởng của kẻ khác. Có nhiều
nhà văn tả cảnh xuân mà lại nói đến “sen nở mai tàn” hoặc là cảnh ban đêm mùng
một mà “vầng trăng vặc vặc, bóng sao ngời ngời”. Delacroix, trong bức hoạ
Barque de Don Juan, vẽ nhiều người chết đói mà cánh tay hãy còn tròn ũm no nê.
Những người viết ra, vẽ ra những cái ngớ ngẩn ấy, và những kẻ xem nó lại không
để ý đến, toàn là tại thiếu óc nhân quả. Có được một đầu óc nhân quả thì công
phu học hỏi của ta mới mong có kết quả chắc chắn được.
G. ÓC TẾ NHỊ.
Lại cũng phải cần tạo
cho mình óc tế nhị. Trong khi học hỏi, quan sát ngoại giới cũng như nội giới,
ta cần phải quan tâm đến sự giống nhau và khác nhau của mỗi sự vật. Không thế,
ta chỉ có được một mớ học thức mơ hồ mà thôi.
Phần đông chúng ta hay
có thói quen suy nghĩ theo loại vì đó là lối suy nghĩ thô sơ nhất. Phân biệt
được những chỗ khác nhau và biết nhận thấy được những chỗ giống nhau của sự vật
là một công phu không phải dễ.
Người vô học thường quan
niệm sự đời bằng cách loại suy: họ không biết so sánh. “Những đầu óc tinh nhuệ
mới nhận thấy được sự khác nhau trong sự vật, những đầu óc tầm thường chỉ thấy
toàn là những sự giống nhau thôi”. Anh lính thuỷ thiện nghệ, thoáng qua nơi
chân trời có thể nhận được liền một chiếc tàu hàng hay một chiến hạm. Anh bán
vải sành, thoáng qua là đã phân biệt được thứ lụa giả lụa thiệt. Nhà trinh thám
đại tài, thoáng qua là phân biệt liền được kẻ gian người ngay.
Về chỗ giống nhau của sự
vật, cũng đâu phải dễ nhận thấy. Thấy cho đúng chỗ giống nhau, nhận cho đúng
chỗ khác nhau, phải là một đầu óc tinh nhuệ sắc sảo lắm mới được. Phải có một
thiên tư xuất chúng mới thấy được chỗ giống nhau hay khác nhau của sự vật.
Nhiều việc bề ngoài thấy rất phiền phức khác biệt nhau mà kỳ trung lại giống
nhau như một. Cũng có nhiều việc bề ngoài giống nhau như một mà kỳ trung khác
nhau như trời vực.
Trong khi đọc sách, đọc
báo hoặc đọc các bài diễn văn “giựt gân” của những lãnh tự các đảng phái chính
trị, ta cần phải thận trọng để ý xem xét cho thật kỹ những lối so sánh tỉ luân
của họ, như ta đã thấy trên đây, để ngừa sự nguỵ luận.
Hằng ngày nên tập quan
sát sự đồng dị giữa sự vật. Thấy chỗ khác biệt giữa hai sự đồng tánh là khó,
nhưng nhận được sự giống nhau giữa hai sự vật không đồng tánh cũng không phải
dễ. Người ta thường nói Phật và Lão phảng phất giống nhau. Nhưng giống nhau chỗ
nào? Khác nhau chỗ nào? Trong Phật học, Phật giáo có mấy tông phái? Các tông
phái giống nhau chỗ nào và khác nhau chỗ nào? Khổng và Mạnh, Lão và Trang giống
nhau chỗ nào và khác nhau chỗ nào? Nếu mỗi mỗi ta đều để ý quan sát để xem xét
những chỗ đồng dị thì lý thú không biết chừng nào mà thụ dung cũng không biết
là ngần nào.
Bất kỳ gặp một cơ hội
nào cũng đừng bỏ qua: hễ thấy những vật giống nhau, cần phải tìm những chỗ dị
đồng của nó. Không bao lâu ta sẽ thấy sự nhận xét của ta càng ngày càng tinh
mật một cách hết sức mau lẹ. Bấy giờ ta sẽ có được cái biệt tài rất quý báu này
là thấy được nhiều khía cạnh mà thôi.
Đứng về mặt thực tế, thì
óc nhận xét nầy có rất nhiều lợi ích. Nó giúp ta thấy được được sự thực giả một
cách rất dễ dàng trong các sự vật.
Hãy tập phân biệt sự
thực giả của hột xoàn, của hột trai, của giấy bạc…là những điều rất cần thiết
trong đời sống hàng ngày. Tập cho mình có được một đầu óc tế nhị là mình đã có
một cơ sở khá cứng cát để đi vào con đường tự học.
*
* *
H. ÓC THÁN THƯỞNG
Aristote nói: “Tất cả
mọi người đều ao ước được có nhiều hiểu biết. Nhưng muốn hiểu biết, điều kiện
đầu tiên là phải biết nhìn đời với cặp mắt của đứa trẻ thơ: cái gì cũng mới là
và làm cho ta ngạc nhiên được cả.”
Biết ngạc nhiên biết
nhìn đời bằng một cặp mắt mới lạ, giúp cho Newton tìm ra cái lực “vũ trụ hấp
dẫn” trong khi ông nhìn thấy quả “bôm” rụng. Denis Papin tìm ra sức mạnh của
hơi nước cũng chỉ vì biết nhìn với cặp mắt ngạc nhiên bình nước sôi…mà ai ai
cũng thường thấy hàng ngày.
Sự quen thuộc thường làm
cho ta không nhận thấy đặng những cái hay, cái đẹp của chỗ ta ở hàng ngày.
Người ngoại bang đến xứ ta, thấy bao nhiêu là việc lạ mà chính ta không dè. Hãy
biết phản ứng ngay với những thái độ tiêu cực ấy: phải biết xem xét chung quanh
ta với cặp mắt của người xứ lạ. Ta sẽ thấy đời ta đổi khác với nhiều tư tưởng
bất ngờ mà xưa nay ta chưa từng nghĩ đến. Nhà văn Lamennais có nói: “Tất cả mọi
người đều biết nhìn cái tôi đã nhìn, nhưng họ không thấy được cái chỗ tôi
thấy”.
Đừng để trong trí rằng
dưới đời không còn có gì mới lạ và cái gọi là mới lạ, chỉ là những gì người
khác đã nhận thấy và đã nói ra rồi.
Ta phải tập nhìn đời với
một cặp mắt mới mẻ, với giác quan tinh tế của một kẻ đau liệt trên giường bệnh
vừa mới khỏi, bắt đầu tiếp xúc với ánh sáng và không khí bên ngoài…
Nói thì có hơi như nguỵ
biện, nhưng sự thật cần phải quả quyết rằng cái đức đầu tiên của óc thông minh
là phải có cảm giác mình không hiểu biết gì cả. Một bộ óc “thông minh” mà việc
gì cũng cảm thấy không có gì lạ cả, một bộ óc tê liệt, bệnh hoạn, không còn cơ
phát triển gì được nữa. Đức Khổng Tử có ý bất mãn về Nhan Hồi khi Ngài nói:
“Hồi không dạy được ta gì cả. Ta nói ra điều gì, nó hiểu liền và không ham cật
vấn”.
Jules Lemaitre cũng nói:
“Đứa học trò hay nhất của tôi là đức không đồng ý với ý kiến với tôi”. Và đức
học trò giỏi hơn nữa, có lẽ sẽ là đứa biết rõ ràng nó không hiểu gì cả. Phần
đông, ta thường có cái khuynh hướng hay tưởng tượng rằng mình đã hiểu rõ rồi,
nhưng khi bị bắt buộc phải giảng giải ra thì mình mới nhận thấy mình mới chỉ
nhận thức một cách rất lờ mờ…Phải chăng ta thường thấy có quá nhiều kẻ quá hoạt
bát, quá thông minh nhưng kỳ thật chỉ là những đầu óc thiển cận và chỉ bừng
sáng lên như ngọn lửa rơm; trái lại, có nhiều kẻ mới xem thì lù đù mà tư tưởng
lại uyên thâm…Họ hiểu chậm, nhưng đến khi hiểu thì hiểu một cách sâu sắc thâm
trầm. Là tại sao? Nhờ họ không xem thường một việc nhỏ nhặt nào cả. Nhân đó ta
có thể phân biệt rõ ràng kẻ nào biết tư tưởng với kẻ không có tư tưởng gì cả.
Trước một sự kiện huyền bí, kẻ không tư tưởng quả quyết là không có gì lạ mà
không hiểu. Trái lại, dù là đứng trước một sự kiện hiển nhiên, kẻ biết tư tưởng
vẫn e dè và tự bảo: “Tôi cũng chưa hiểu rõ là cái gì cả!” Và chính đây mới là
chỗ sâu sắc nhất của lời nói nầy: “Điều mà tôi biết rõ hơn hết, là tôi không
biết gì cả.”
Cũng chính Socrate đã
nói: “Không có sự dốt nát nào nhục nhã bằng tin tưởng rằng mình đã hiểu những
gì mình không hiểu.”
Phải chăng bước đầu tiên
của tư tưởng là phải dám đặt nghi vấn trước những vấn đề mà người người đều xem
thường hay tin tưởng là mình đã hiểu rồi.
Một văn hào Pháp,
Charles Péguy, có nói: “Trong đời ta, ít ra cũng phải có một lần đặt lại và
kiểm soát lại những tư tưởng của ta”, nhứt là những tư tưởng mà ta thích nhất
và tín ngưỡng nhất.
Chỉ có những người tự
đắc và nông nổi mới dám quả quyết: “Đời đục cả, một mình ta trong. Đời say cả,
một mình ta tỉnh”. Tự mãn trong sự hiểu biết của mình và tin tưởng rằng không
còn có gì phải suy xét lại nữa là tự huỷ hoại con đường tiến thủ tinh thần ta
rồi.
Vì vậy, theo thiền ý,
một trong những mật pháp của một nền giáo dục sâu sắc không gì bằng tập cho
thanh thiếu niên sớm biết được cái nghệ thuật thán thưởng.
Platon có nói: “Biết
ngạc nhiên, đó là nguyên nhân của triết học”.
Truyện Kim Vân Kiều của
Nguyễn Du, sở dĩ có thể xem là một quyển sách hay về tư tưởng, không phải vì nó
đã giải quyết sẵn cho ta một vài quan niệm về cuộc đời, mà chỉ vì nó đã đặt
thêm cho ta nhiều vấn đề mà hiện thời ta chưa rõ phải giải quyết ra sao cả.
Tiểu thuyết mà hay không phải những loại tiểu thuyết có luận đề, trong đó người
ta cố nặn bóp thế nào cho mọi sự kiện đều đi về một chiểu, một hướng như Lục
Vân Tiên chẳng hạn. Tiểu thuyết của André Gide sở dĩ đã làm chấn động dư luận
thế giới, tựu trung đã nhờ sự biết đặt những nghi vấn và tác giả đã biết nhường
cho độc giả cái phần sáng tạo thêm là tìm hiểu lấy những nghi vấn ấy, chứ tự
tác giả không bao giờ giải quyết sẵn cho. Cũng như đọc Hồng Lâu Mộng của Tào
Tuyết Cần, đố ai biết được dụng ý của pho truyện này là để chứng minh quan niệm
gì? Lối viết truyện này, tức cũng là lối viết truyện của André Gide ngày nay
vậy.
Giờ đây, chúng ta thử
bàn qua những phương pháp đào tạo óc thán thưởng.
Có hai cách thán thưởng:
tiêu cực và tích cực.
Thán thưởng tiêu cực là
biết ngạc nhiên, biết thán thưởng một cách tự nhiên không cần cố gắng gì cả.
Tức là trường hợp của những người ở đồng quê vắng vẻ và lần đầu tiên lên đến đô
thành đồ sộ nguy nga và vô cùng náo nhiệt. Họ nghĩ ngợi, họ bị bắt phải suy
nghĩ và có những cảm tưởng lạ lùng. Là nhờ nơi đâu? Nhờ nơi sự so sánh và sự
tương phản giữa hai hoàn cảnh khác nhau.
Chân lý là gì? Phải
chăng chân lý là sự đối chọi và so sánh những chân lý tương đối khác nhau? Phải
có một sự khác nhau mới làm cho ta để ý và suy nghĩ. Chính nhờ có bóng tối mới
làm nổi bật được ánh sáng. Có sống trong nô lệ người ta mới biết nghĩ đến giá
trị của tự do mà tiếc uổng.
Tóm lại, người ta mà có
biết suy nghĩ, phần nhiều là nhờ có sự tương phản của hoàn cảnh gây nên. Sự có
mặt của một sự vật nào mãi mãi bên ta sẽ gây thành thói quen. Thói quen sẽ làm
nhụt cả cảm giác của ta đối với sự vật ấy. Bởi vậy, có một nhà văn đã nói: “Ta
sống nhờ ngó đàng trước, ta hiểu nhờ ngó lại sau, ta cảm nhờ có sự vắng mặt”.
Hay thay! Cái gì “đã đi qua” mà còn trở lại sẽ làm cho ta sung sướng không biết
chừng nào!
Ngày mà ta thấy thâm cảm
được mối tình sâu nặng của cha mẹ ta, chính là ngày mà hình bóng ấy đã vắng bặt
trên cõi đời. Khi mà ta nếm được hương vị thần tiên của tình yêu thâm trầm ấy,
chính là ngày mà ta cảm thấy đã quá muộn màng không còn phương gì để đền ơn đáp
nghĩa nữa.
Và vì thế mà sự vắng mặt
giúp cho chúng ta suy gẫm nhiều, đồng thời nó cũng là món ăn tinh thần cho
những tâm hồn đa cảm. Xa nhau thường là mối dây thiêng liêng ràng buộc tình cảm
càng thêm bền chặt. Sự sống chung đụng hằng ngày dễ làm cho ta nhàm chán và xem
thường. Cho nên một trong những phương pháp nuôi dưỡng tình yêu là thỉnh thoảng
nên xa nhau để cho tình thương càng thêm nung nấu.
Tóm lại, phương pháp
giúp cho ta có nhiều sáng kiến và suy tưởng là phương pháp đối chiếu, phép dùng
mâu thuẫn. Và những hình ảnh do đỗi chiếu mà ra.
Giờ thử bàn đến phương
pháp tích cực để kích thích óc thán tưởng, tức là đặt vấn đề, đặt những câu
hỏi, để mà “tiên đoán” hay dự đoán những gì ta sắp đọc, sắp nghe…
Rất có thể mình dự đoán
sai. Nhưng cái đó không mấy cầu. Chính cái chỗ khác nhau giữa sự thực với việc
ta dự đoán mới là điều quan trọng: nó kích thích óc tò mò và làm cho ta nhớ
thật dai, đồng thời bắt ta suy nghĩ và làm óc giàu sáng kiến. Thiết tưởng những
giáo sư dạy sử cũng nên dùng đến phương pháp này để dạy học trò, chắc sẽ linh
động lắm. Khi ta trình bày những sự kiện lịch sử, đến khi kết cuộc ta nên dừng
lại và “đố” học sinh phải tìm lấy…Học sinh có thể đoán lầm…và phần nhiều hay
đoán lầm…là vì sự đời nhiều khi rất vô lý. Sự xảy đến thường lại không xảy đến
như lòng ta sở nguyện: “nhơn nguyện như thử, thiên lý vị thiên”!
Chính đây cũng là phương
pháp dạy học trò của Socrate hay của Khổng Tử: biết đặt câu hỏi là cả một nghệ
thuật của phép dạy dỗ, làm kích thích tư tưởng.
Có người đề nghị phép
học nên gồm trong câu châm ngôn nầy thôi: “Nếu muốn học “thấy” hãy “bịt” mắt
lại mà tưởng tưởng trước bằng một viễn tưởng trong tâm hồn”; nếu muốn học
“nghe” hãy “bịt tai lại”; nếu muốn học cách “đọc sách”, hãy “xếp sách lại mà
phỏng đoán trước những gì ta sắp đọc”…đó là để mà lóng nghe cái tiếng dội của
tâm hồn. Platon nói rất sâu sắc: “Hiểu biết, thực ra, là một sự nhận ra những
gì ta đã biết”. Nghĩa là, cái thật biết là cái biết do mình đã tìm ra. Ta chỉ
thấy được những gì ta đã thấy. Ta chỉ thích được những gì ta đã thích. Có đồng
mới có ứng, không đồng không ứng. Đọc sách mà biết hay chẳng qua vì nó là tiếng
dội của lòng mình. Những ý tưởng mà ta đã nghĩ qua, những tình cảm mà ta đã
trải qua, nhưng vì không được hàm dưỡng đúng mực nên đã giống như ngọn lửa than
âm ỉ trong đáy lòng, nay bỗng gặp được ngọn gió thổi lòng nên nó bừng lên mà
cháy lại. Thực ra, chỉ có “đồng thinh” mới “tương ứng”, “đồng khí” mới “tương
cầu”.
Những văn gia đại tài
thường là những kẻ biết khêu gợi và làm sống lại những tư tưởng ấp ủ trong lòng
người. Họ là những kẻ khéo gieo vào lòng người những câu hỏi, những thắc mắc,
những hoang mang, những nghi vấn…Họ là những kẻ biết “thổi” vào lòng người ngọn
gió “hoài nghi”, một thứ hoài nghi triết lý mà André Gide gọi là “hoài nghi phá
hoại” làm nghiêng ngửa tất cả lâu đài tư tưởng mà vì tánh lười biếng người ta
đã âm thầm xây dựng trên những thành kiến lâu đời…Có thể nói họ là những nhà
đại cách mạng và cứu thoát tâm hồn con người ra khỏi gông xiềng của những tư tưởng
hẹp hòi lâu nay đã giam hãm con người trong những giá trị sai lầm, không động.
Thích Ca, Lão Tử hay Jesus phải chăng là những nhà đại cách mạng của nhân loại
vì họ đã dám phá tan những ảo vọng của con người. Họ là những người làm thức
tỉnh chứ không phải là người làm ru ngủ nhân loại bằng cách “gãi chỗ ngứa” của
quần chúng.
Và vì thế mà họ thường
là những kẻ bị kẻ đồng thời đối đãi một cách có khi hằn học hay lạnh lùng…nếu
họ không bị đem lên cây Thập ác mà hành hình như Đức Datô. Trái lại, một
Francoise Sagan, một James Deans…lại được phần đông thanh niên sùng bái như một
vị thần. Đó là chỗ phân biệt những bậc vĩ nhân, thứ chân và thứ giả.
Phương pháp này chẳng
những rất hiệu nghiệm trong khi đọc sách, mà nó cũng rất thực dụng trong khi đi
nghe diễn thuyết, đi xưm bảo tàng viện hay các cuộc triển lãm hoặc đi xem xi nê
hay diễn kịch. Nó cũng là phép dùng ức thuyết của các nhà bác học, y sĩ hay các
nhà mật thám đại tài (Xem lại quyển “Óc sáng suốt” cùng một tác giả)
Cũng còn có nhiều cách
để kích thích óc thán thưởng và sự ngạc nhiên là thường nên lân la với người có
những quan niệm về cuộc đời khác ta, hoặc chống đối lại ta. Đọc sách cũng nên
đọc những sách có những chiều tư tưởng nghịch lại với ta. Kẻ đồng chí với ta là
bạn ta, mà kẻ thù của ta thường là “thầy” của ta, nếu ta biết lợi dụng sự chống
báng của họ để kiểm điểm lại những sai lầm thiếu sót và nghiên cứu lại cho thật
kỹ hơn những lý thuyết hay quan niệm về nhân mạng mà ta hằng ngày hằng sùng bái
để nó càng ngày càng thêm khởi sắc. Chính đây là ý nghĩ thâm trầm của câu nói
Jules Lemai re mà tôi đã nhắc trước đây: “Đứa học trò hay nhất của tôi là đứa
không đồng ý với tôi”.
Những người còn trẻ tuổi
nên lân la những bậc trưởng thượng, những kẻ đã từng trải cuộc đời để nghe họ
nói chuyện. Họ là những người không còn dục vọng sôi nổi của tuổi trẻ, đã có
nhiều kinh nghiệm và cuộc đời sẽ có nhiều bình tĩnh hơn. Tóm lại, kẻ lớn tuổi
cũng cần gần gũi thanh niên để khỏi bị tê liệt tinh thần; còn thanh thiếu niên
cũng nên gần gũi với người già; họ không còn quyền lợi gì để lừa dối ta nữa.
Đương lứa với nhau, vì sự tranh đua với nhau mới có sự lừa dối nhau, chử kẻ
không còn tranh hơn tranh kém với mình, họ đâu có lợi gì để lừa bịp mình nữa!
Sự va chạm giữa hai thế hệ là một nguồn kích thích tư tưởng rất lợi ích cho hai
đàng.
Lại nữa, cũng nên cố
gắng mà trả lời một cách thành thật và đúng đắn những câu hỏi đột ngột của trẻ
thơ. Con trẻ thường giữ được sự thán thưởng tự nhiên: đối với chúng thảy đều là
những hiện trạng bất thường…Chúng thường có những câu hỏi bất ngờ nhưng đầy ý
vị sâu xa, mà phần đông người lớn không sao trả lời cho xuôi được. Nhưng thường
lại là những câu hỏi đầy ý nghĩa của triết học nếu ta biết để ý đến. Đừng bỏ
qua mà la rầy đàn áp chúng, như chúng ta thường có thói quen khinh thường
chúng.
Có đứa trẻ nọ hỏi cha
nó: “Tại sao Trời không giết những loài ma quỷ hại người, thì làm sao người ta
còn phải khổ nữa?” Phải chăng là một câu hỏi thuộc về triết lý, một câu hỏi
thuộc về vấn đề Thiện ác? (16)
Chương 4: NHỮNG PHƯƠNG TIỆN CHÁNH
A. ĐỌC SÁCH
Giáo dục có mục đích giúp
cho trẻ em, trong một thời gian hạn định, vượt qua con đường mà nhân loại đã
trải qua từ thượng cổ đến giờ, từ lúc còn ăn lông ở lỗ đến ngày văn minh của
hiện đại. Vậy nhà giáo dục là kẻ có phận sự giúp trẻ em phải sống lại lịch sử
của nhân loại…
Nhưng phải làm cách nào để
thâu ngắn lại con đường kinh nghiệm của nhân loại? Chỉ có đọc sách, ngoài ra ít
có phương pháp nào hơn nữa.
Đọc sách là phương tiện cần
thiết nhất, hiệu quả nhất để đào tạo cho mình một cơ sở học vấn vững vàng.
Thật vậy, dầu là bực thông
minh đến đâu cũng nhờ đọc sách mà kiến văn ngày một thêm rộng.
Đọc sách có lợi cho đường
học vấn và tư tưởng mình thế nào, cái đó khỏi cần minh chứng, không còn một ai
là không nhận thấy.
Những bực vĩ nhân trong tư
tưởng giới, phần đông đều nhân đọc một quyển sách nào của người trước mà nghĩ
ra nhiều ý tưởng hay lạ khác. Một câu sách, hoặc một quyển sách đọc xong, có
khi đổi cả một đời tư tưởng của ta. Cái đó thường lắm.
Sách giúp ta suy nghĩ, chỉ
cho ta khỏi phải tốn công tìm kiếm một điều gì mà kẻ khác đã tìm ra được trước
ta. Đó là đã đỡ bớt cho ta một sự phí công vô ích. Ta cần dành sức, để tìm kiếm
thêm những cái mà kẻ khác đã tìm, và nhân đó làm cho nó thêm sáng tỏ hơn. Hoặc
nó cũng chỉ cho ta biết vấn đề đã phát ra như thế nào, và người ta đã giải
quyết nó như thế nào, hoặc người ta đã tìm nó tới đâu rồi.
Đành rằng, xem tận mắt,
nghe tận tai quý hơn xem bằng sách…Nhưng, các điều ta có thể quan sát đặng sao
có thể sánh kịp với những điều sách vở để lại, bởi nó tóm cho ta biết bao nhiêu
thế kỷ suy tìm và kinh nghiệm mà nếu ta phải tự mình tìm lại, tuổi thọ của ta
không làm sao cho phép. Vậy, ta phải đốt giai đoạn là chỉ có sách là miễn được
cho ta công trình khổng lồ ấy mà thôi.
Học bằng sách, rất quan
trọng ở thế kỷ nầy, có thể tóm được trong hai điều kiện nầy:
- Chỉ đọc những sách hay mà
thôi.
- Và phải biết cách đọc.
-
1. Thế nào là sách hay?
Thế nào là một quyển sách
hay?
Làm cách nào để nhìn ra nó,
và tìm ra nó?
Sách hay, đây là nói về
sách học trước hết. Tuỳ theo loại, mỗi loại đều có cái hay của nó và cách lựa
chọn cùng đánh giá cũng khác nhau xa.
Bắt đầu bằng cách loại trừ.
Loại trừ đầu tiên những thứ
sách học mà dài nhăng nhẳng, mà to lớn nặng nề. Một người đọc sách, nhất là
sách để học, ngày giờ của họ dic nhiên có hạn, sự chăm chú, năng lực tinh thần
cũng như trí nhớ vẫn có hạn. Bởi vậy, một quyển sách học mà dài lê thê bất tận
không thể thích nghi được. Thật ra, người nào viết sách học mà viết lê thê bất
tận là chứng tỏ sự bất tài và bất lực của mình. Sách học, càng ngắn càng tốt,
càng gọn càng hay. Loại sách “Expliquez moi…” của “Les Editions Foucher” rất
tài tình.
(Hầu hết những sách dạy về
sử học ở Trung học thường là những sách quá dài)
Sách nào quá dài, tốt hơn
đừng đọc. Hãy đợi khi mình đã có một luồng mắt thống quan rồi, bấy giờ sẽ đọc
đến những sách trường gian của những nhà nghiên cứu và chuyên môn.
Kế đó nên loại trừ những
sách buồn chán. Sách học mà trình bày một cách buồn tẻ khô khan là sách không
nên đọc. Mất thì giờ, mất hứng thú, thật không kết quả gì.
Và sau cùng, hãy loại trừ
những sách khó hiểu. Sách khó hiểu, là sách của hạng tác giả không biết mình
nói cái gì. Phần đông họ là những kẻ có đầu óc mù mờ, cho nên họ lượm thượm,
nói cái gì cũng chả ra cái gì. Rất có thể, tác giả là bực thông thái, nhưng họ
đã quên họ đang dạy học, dạy học cho những đầu óc tầm thường. Họ viết cho họ
hơn là cho học sinh. Đó là cái tật của phần đông các nhà viết sách học hiện
thời. Có khi vì họ muốn cầu kỳ để tăng “giá trị” của họ. Những loại sách ấy
không nên giao cho học sinh, vì nó sẽ dễ làm chán nản và làm cho học sinh mất
cả hứng khởi của sự học.
Tóm lại, cần phải loại trừ
những sách dài lê thê bất tận, những sách buồn chán, những sách đọc khó tiêu.
Tuy nhiên, một quyển sách ngắn, vui vẻ và dễ dàng cũng rất dễ biến thành những
thứ sách đơn sơ quá, thiếu căn bản, thiếu cương yếu và là những thứ sách rỗng
tuếch, rất tầm thường. Vậy, cần phải làm một cuộc chọn lọc trong đống sách
không dài, không chán mà cũng không khó đọc như đã nói trên. Phải làm cách nào
để chọn lựa, trong khi mình chỉ là tay ngang, một người đang ở thời kỳ “tập
sự”? Muốn phê bình cho đứng đắn “ông thầy” của mình, ít ra mình cũng phải biết
rõ cái khoa của mình học. Như thế, thì làm gì chọn lựa cho được!
Thì như đã nói trên, chúng
ta hãy căn cứ vào ba yếu tố trên: loại trừ những sách dài lê thê, những sách
buồn ngủ, những sách đọc khó hiểu. Chả lẽ mình lại không quen biết được một vài
bực học thức cao thâm nào để mà hỏi thăm và cậy họ giới thiệu sách hay mà đọc.
Có người kia muốn mua một
món đồ dùng thật tốt, nhưng họ không phải người chuyên môn, họ cũng không có
kinh nghiệm để có thể phân biệt món hàng nào giả, họ lại không có ai có thể tin
cậy để hỏi thăm, vậy họ phải làm cách nào để mua món đồ cần dùng ấy mà không bị
lầm? Có gì khó. Họ lựa món đồ của “hiệu có danh tiếng” quốc gia hay quốc tế.
Mua đồng hồ tay mà lựa hiệu “Omega”, “Longines” hay “Movado” của Thuỵ sĩ thì ít
sợ lầm thứ xấu. Cũng có thể họ mua lầm được lắm nhưng ít ra họ đã thu hẹp được
rất nhiều sự rủi ro lầm lạc.
Những ai không được may mắn
gặp được những bực thức giả cao thâm giới thiệu cho những sách hay, tại sao
không biết làm như người đi mua đồ trên đây mà lựa sách do những tác giả có tên
tuổi viết ra? Đành rằng trong giao thời nầy vàng thau còn lẫn lộn, nhưng những
ai đã chịu được thử thách của thời gian, ít nhiều đã chứng minh được giá trị
tương đối của tác phẩm mình rồi.
Andre Mauroi khuyên ta:
“Chúng ta nên tin cậy nơi sự lựa chọn của các thế kỷ đã qua. Một người có thể
lầm, một thế hệ có thể lầm, nhưng cả nhân loại không thể lầm. Homere,
Shakespeare, Moliere, chắc chắn là những người xứng đáng với danh tiếng của họ.
Chúng ta sẽ chuộng các tác giả nầy hơn là các nhà chưa chịu sự thử thách của
thời gian”.
Muốn đọc sách để bổ túc cho
trí thức, cần nhất là phải biết cách đọc sách mới đặng.
Có nhiều kẻ đọc sách như
điên, luôn luôn sách chẳng rời tay, nhưng kết quả không ích lợi gì cho đường
học hỏi của họ cả, là vì họ không biết đọc sách.
Trong túi họ, ta thấy luôn
luôn đầy sách báo. Họ vừa ngồi xuống, bất luận là ở trên xe đò hay toa xe điện,
là ta thấy họ mở sách bảo ra mà đọc. Họ đọc tiểu thuyết, đọc những tin tức hàng
ngày, đọc luôn cả những cột quảng cáo không sót một chữ. Sách ở thư viện họ đọc
gần hết. Nhưng họ không hiểu họ đọc những gì, cũng không rõ tên tác giả là ai.
Đó là lối đọc sách nguy hiểm nhất. Jules Payot nói: “Đọc sách là một cách lười
biếng nguy hiểm nhất, bởi kẻ làm biếng mà ở không nhưng, họ sẽ cảm thấy như khó
chịu với lương tâm. Trái lại, nếu họ có đọc sách, họ tin rằng họ có làm việc và
nhân thế, cái bịnh lười biếng của họ không còn thế nào trị đặng nữa”. Thật có
đúng như vậy. Lối đọc sách nầy chỉ làm phí thời giờ mà thôi. Nếu ta thành thực
với ta, ta sẽ thấy sau một tuần lễ, ta sẽ không còn nhớ gì nữa cả.
Có một hạng độc giả đọc
sách để mà lo việc khác. Họ vẫn chăm chú đọc hàng nầy đến hàng kia, nhưng thực
sự tâm tư họ đi vào chỗ khác. Đó là một cố tật, không nên bắt chước.
Lại cũng có một hạng độc
giả, sách gì cũng đọc, nhưng họ chỉ đọc từng chặng, khúc đầu, khúc đuôi rồi xếp
sách lại, tin tưởng rằng mình đã hiểu được tất cả ý tưởng của tác giả. Tôi giám
quả quyết kẻ đọc sách như thế, dù là bậc thông minh bực nào, cũng không làm gì
hiểu được tất cả trong quyển sách. Nhất là một quyển sách thuộc về loại sách
học, trong đó, mỗi câu có khi là một vấn đề, sự liên lạc của nó không thể bỏ
qua một đoạn nào mà khỏi phải hiểu sai. Hạng độc giả nầy, đọc đây một đoạn, đó
một đoạn…đọc cầu vui, đọc không mục đích…và đọc mãi suốt ngày. Có ai hỏi họ làm
gì trong ngày: họ bảo họ đọc sách. Nhưng thực sự, trí họ như con bướm chập chờn
lởn vởn từ đoá hoa nầy sang đoá hoa kia. Xong rồi, đầu óc họ vẫn trống trơn,
không còn lưu lại một ấn tượng gì cả. Cũng có khi họ nhớ, nhưng chỉ nhớ những
vụ lặt vặt không đầu đuôi, không thành vấn đề gì cả.
Trở lên là lối đọc sách
không bổ ích gì cho trí thức cả. Kẻ nào muốn lợi dụng sự đọc sách để giúp óc
suy nghĩ, phán đoán của mình và giúp thêm tài liệu cho sự hiểu biết của mình,
đừng bao giờ đọc sách như những cách đã nói trên.
Goethe lúc về già, nói với
Eckermann: “Người ta đâu biết rằng phải tốn bao nhiêu thời giờ, bao nhiêu công
khó mới học được cách đọc sách. Tôi đã bỏ công vì nó, trên 80 năm, thế mà bây
giờ tôi chưa thể tự hào là đã đạt được mục đích ấy rồi vậy.”
Nghệ thuật gì mà khó khăn
thế? Chỗ liên lạc giữa người đọc sách và người viết sách phải như thế nào?
Người đọc sách phải giữ thái độ gì để khỏi phải bị sách đầu độc, và trái lại
nhờ sách mà làm giàu thêm kinh nghiệm? Phải đọc những sách gì, và nhất là phải
đọc cách nào? Đối với những loại sách danh tác ta phải đối xử như thế nào? Trái
lại đối với sách hạng thứ, những sách phổ thông có tánh cách nhập môn, những
sách có tánh cách đại lược hay trích lục ta phải sử dụng cách nào? Lợi ích của
quyển sách phải chăng cũng chỉ có một giới hạn nào đó và phải dừng lại nơi đâu?
Đó là mới kể sơ vài phương diện của vấn đề đọc sách để rèn luyện trí não mà
thôi, chứ thật ra có rất nhiều cách đọc sách: có kẻ đọc sách để tìm tài liệu
tin tức; cũng có kẻ đọc sách để giết thời giờ và để giải buồn. Nhưng ở đây,
chúng ta chỉ nên chú trọng đến cách đọc sách để tự học nghĩa là để đào tạo cho
mình một cơ sở văn hoá tinh thần mà thôi, vì đó là mục đích của quyển sách nầy.
Như vậy thì sự đọc sách để tìm an ủi trong đau khổ, đọc sách để tìm một sức
mạnh tinh thần, giúp tâm hồn mình thêm nhẫn nại, can đảm mà vượt qua những
thống khổ của cuộc đời, đọc sách để tìm hứng thú cho tinh thần cũng đều thuộc
về loại đọc sách để tự học cả, vì phàm cái chi hoạt khởi được tâm cảm mình, đổi
mới được về khuynh hướng chân, thiện, mỹ đểu bổ ích cho tinh thần trí não của
mình.
2. Đọc sách để tìm hiểu
mình.
Đọc sách mà đến mức cao
thâm, là đọc sách không phải để tìm hiểu cái ngoài ta, mà là để tìm hiểu cái
người thật của ta. Sách vở, đối với ta, sẽ chỉ còn là cái nguồn khêu gợi…mà
thôi.
Andre Maurois có khuyên ta
một câu nầy mà tôi cho là sâu sắc nhất: “Phải tự làm cho mình xứng đáng với
những tác phẩm mình đang đọc..(2) “Thuật đọc sách là cái nghệ thuật tìm thấy
lại cuộc đời của mình và hiểu biết nó hơn, bằng sách”. Ông lại nói rõ ràng hơn
“không có gì cảm động hơn là thấy người thanh niên năm ngoái chỉ chịu đọc những
chuyện phiêu lưu, bỗng dưng nay lại đâm ra ham mê đọc những quyển như Anna
Karenine (Tiểu thuyết của Tolstoi) hay Dominque (Tiểu thuyết của E.Fromentin),
bởi vì bây giờ họ đã nếm qua thế nào là cái vui sướng và đau khổ của tình yêu.
Những người ưa hoạt động là những đọc giả thưởng thức Kipling, những nhà chính
trị đại tài là những độc giả của Tacite hay của Retz” (12).
Thật có đúng như thế. “Đoạn
trường ai có qua cầu mới hay”. Hễ “đồng thinh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Những kẻ thích đọc Lão, Trang hay Phật đại thừa là những hạng độc giả thuộc
hạng hướng nội nhiều hay ít…Phải chăng đọc sách là một cái thú thâm trầm khi
chúng ta tìm thấy trong một tác phẩm, giãi bày một cách chu đáo và đầy đủ những
tư tưởng mà chính mình đã nghĩ qua, đã hoài bão lâu ngày và băn khoăn tha
thiết…Chúng ta nhận thấy những ý nghĩ kín đáo nhất của mình được một người khác
công nhận, lại nói ra một cách vỡ vạc thì còn gì thú vị bằng! Phải chăng chỉ có
những ai đã từng sống gượng xa người bạn thân yêu mà hoàn cảnh bắt buộc phải
tươi cười với những kẻ chung quanh mà mình không chút tình thương, mới cảm thấy
cái hay và thâm trầm của câu:
“Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó, mặn mà với
ai.” (KIỀU)
Một câu văn mà ta gọi là
hay, phải chăng là câu văn đã làm vang động tâm hồn trí não ta, nghĩa là đã
khêu gợi những gì sâu kín trong đáy lòng ta…Andre Gide có nói: “hình như nếu
tôi không đọc Dostoi ewsky, Nietzche hay Frend…có lẽ tôi cũng sẽ nghĩ thế. Tôi
chỉ tìm thấy ở họ một sự khuyến khích hơn là một mầm tư tưởng mới mà họ đã tặng
thêm cho tôi, thật ra chính họ là những kẻ đã dạy tôi, đừng e sợ, đừng rụt rè
và ngờ vực tư tưởng của mình nữa…” (12)
B. PHẢI ĐỌC SÁCH CÁCH NÀO
1.Tánh cách tôn nghiêm của
sự đọc sách:
` Nói đến sự tôn nghiêm,
tức là muốn khuyên các bạn nên “gây chung quanh những lúc đọc sách của ta một
không khí trang nghiêm và trầm lặng thường bao bọc những cuộc hoà nhạc hay
những buổi lễ cao quý”. Nên tránh cái cảnh vừa đọc, vừa ăn, vừa nói chuyện,
hoặc đọc thoáng qua một trang, thì ngừng lại để trả lời với máy điện thoại,
hoặc cầm sách mà trí nghĩ đâu đâu…rồi lại bỏ dở vì có người bạn đến nói chuyện
kháo, rủ nhau đi ăn uống hay đi dạo mát…Người biết đọc sách phải biết dành cho
mình một buổi nào để đọc sách trong yên lặng và cô tịch. Nên dành riêng cho một
nhà văn nào mình rất yêu quý, một buổi chiều trong ngày chủ nhựt trong tuần,
hay một buổi chiều thứ bảy nào đó.
Riêng tôi, suốt một đoạn
đời từ 21 tuổi đến nay, tôi đã dành cho mỗi buổi tối ít nhất là 2 giờ đồng hồ
để đọc sách khoảng từ 20 giờ đến 22 giờ không bao giờ sai chạy. Giờ ấy đối với
tôi cũng như giờ cầu kinh, nhất định không để cho ai quấy rầy…Giờ đọc sách này
là giờ đọc sách hoạt động. Tất cả người trong gia đình đều phải nể cái giờ phút
thiêng liêng nầy của tôi…ngoài ra, tôi không đòi hỏi gì hơn là để cho tôi được
quyền sống một mình trong cô tịch và lặng lẽ. Ngoài cái giờ ấy, tôi cũng đọc
sách, cũng xem báo như mọi người…nhưng làm việc một cách tiêu cực, hoặc sưu tầm
tài liệu để qua một bên, đợi lúc đọc sách chánh thức đem ra mà nghiền ngẫm.
Dĩ nhiên là trong lúc đọc
sách trang nghiêm ấy, tôi chỉ đọc toàn những tác phẩm hay nhất mà thôi.
2. Chỉ đọc những tác phẩm
hay:
Jules Payot nói: “Nếu cho
tôi được sống lại cuộc đời của tôi, tôi tự thệ trong lúc trẻ tuổi, chỉ đọc ròng
sách hay, do những bực vĩ nhân trong tư tưởng giới viết ra thôi. Tôi đã mua rất
đắt cái kinh nghiệm đã qua của tôi khi còn nhỏ, đã làm phung phí sức lực của
tôi rất vô lối vì những tác phẩm vô giá trị. Nếu anh em muốn có một tương lai
tốt đẹp về tinh thần, hãy nghe theo tôi, đừng bao giờ đọc sách nhảm…” (25)
Vậy làm cách nào để nhìn
biết một quyển sách hay? Trước đây đã nói qua về loại sách học. Nay xin bàn đến
những sách có tính cách đào luyện tinh thần trí não con người.
Sách hay nói đây chẳng
những hay về văn chương tao nhã mà hay về ý tưởng thâm trầm.
Có một đặc điểm nầy để nhận
thấy cái hay của một quyển sách, bất cứ là một quyển sách loại gì, là càng đọc
đi đọc lại chừng nào, càng thấy nó rộng rãi sâu xa chừng nấy. Một quyển sách mà
tháng này đọc thấy hay, tháng sau đọc lại thấy bớt hay hoặc hết hay là một
quyển sách tầm thường. Có nhiều quyển sách mình chỉ đọc qua một bận là hết muốn
giữ nó bên mình. Trái lại quyển sách hay dù cho một năm sau, ba năm sau, hay
mười năm sau nữa mà đọc lại vẫn thấy thâm trầm man mác không biết chừng nào.
Trình độ mình càng ngày càng lên cao, mình lại thấy nó càng thâm sâu hơn nữa.
Những sách tầm thường không sao chịu nổi thử thách của thời gian. Đó là loại
sách mà người ta thường gọi là “sách bất tận”. Cần lựa những sách ấy làm sách
“gối đầu giường”. Những sách như quyển Ngữ lục (Pensees) của Pascal, Ethique
cảu Spinoza, Pensees của Epictete va Marc-Aurele, Imitation de Jesus-Christ,
Bible, Nam hoa Kinh, Đạo đức Kinh, Dịch Kinh…là những sách rất hay, đọc đến
chết vẫn thấy còn luôn luôn sâu sắc thâm trầm.
Tuy nhiên, sách hay cũng
không phải cần luôn luôn là “sách bất tận” mới được. Những quyển sách khêu gợi được
ta nhiều ý nghĩ đột ngột, lạ lùng và mới mẻ, dù ta không thể nhìn nhận tư tưởng
của tác giả, ta cũng không sao tránh khỏi những bâng khuâng và hoài nghi, hoặc
trong nhất thời đưa đến cho ta những vấn đề mà xưa nay ta chưa từng để ý đến,
đều là những thứ sách làm giàu thêm cho ta về kinh nghiệm, về tư tưởng và về
tài liệu. Những thứ sách ấy cũng được xem là sách hay.
3. Sách gối đầu giường
Tiện đây, xin nói qua về
những sách “gối đầu giường”. Những sách “gối đầu giường” phải là những bộ sách
mà bất cứ ở hoàn cảnh nào đều có thể giúp cho ta một vài ý tưởng thích nghi và
an ủi; những sách đưa ta lên cao bằng những tư tưởng thanh thoát hay những
gương mẫu của những bực anh hùng vĩ nhân trong nhân loại; những sách giúp ta
biết hoài nghi suy nghĩ thêm, biết đặt vấn đề, biết làm cho lòng ta nhẹ nhàng
và phấn khởi, khôn ngoan và trong sạch hơn. Có người nói rằng: “Quyển sách đẹp
nhất có lẽ là quyển sách viết ra không phải để mà đọc, và chỉ in ra khi nào tác
giả đã qua đời, và nhờ vậy, nó có tánh cách của một bản di thư tinh thần, không
có một ẩn ý gì là chiều chuộng hay làm vui lòng độc giả” (7). Người đọc sách
phải cảm thấy có một sự kêu gọi khao khát thì sự đọc sách mới thật là hứng thú
và có nhiều thụ dụng, nếu cảm thấy không có gì trong thâm tâm khát kêu gọi gì
cả, thì thà đừng đọc sách còn hơn, cũng như nếu mình cảm thấy không có gì cần
phải nói ra, thì đừng bao giờ miễn cưỡng mà viết sách. Những bài thơ hay và cảm
động nhất phải chăng là những bài thơ mà thi sĩ đã cảm động nhất trong khi sáng
tác nó?
Học cũng như ăn. “Mỗi một
tâm hồn đều có một thức ăn riêng. Phải biết nhận cho ra ai là những tác giả
riêng của mình. Dĩ nhiên là những tác giả ấy sẽ khác hẳn với những tác giả của
bạn bè ta. Trong văn chương cũng như trong tình yêu ta thường phải ngạc nhiên
vì sự chọn lựa của người khác. Chúng ta cần phải trung thành với các tác giả đã
thích hợp với mình. Về việc lựa chọn nầy chỉ có chính mình mới là người xét
đoán đúng nhất mà thôi”…(12)
Có những sách “gối đầu
giường” mà người ta đọc mỗi ngày như kinh nhật tụng. Nhưng cũng có những thứ
người ta không cần phải đọc, mà ảnh hưởng của nó đối với ta rất lớn: chỉ một
cái tựa sách, hoặc cái tên tác giả mà thôi cũng đã là một khuyến lệ, một vị
thiên thần luôn luôn ủng hộ che chở ta và nhắc nhở an ủi ta rồi.
Sau cùng, cũng cần giữ bên
mình ta những sách có những tư tưởng đối lập với ta dùng làm sách “gối đầu
giường”. Pascal lại đọc Montaige, Montaige lại đọc Seneque. Cái người “thù” với
tư tưởng ta, thường lại là người giúp cho ta suy nghĩ nhiều hơn tất cả, vì
chính họ là người giúp ta thấy rõ những nhược điểm của ta và bắt buộc ta phải
tìm thêm bằng cứ cho lập trường tư tưởng của ta. Họ là kẻ nhìn thấy rất tăm tối
chỗ mà ta nhận thấy rất sáng sủa, và chính họ là kẻ giúp ta biết giữ vững lập
trường, biết hoài nghi và thận trọng.
4. Uống nước tận nguồn.
Đọc sách hay cần đọc ngay
nguyên văn. Nếu không đọc được nguyên văn, thì phải tạm đọc sách dịch. Như thế
thì sự hiểu biết của ta cũng kể là hiểu biết tạm thời thôi. Văn dịch chỉ đưa
đến cho ta có một phương diện về tư tưởng của tác giả thôi, bởi người dịch cũng
chỉ dịch theo sự hiểu biết tạm thời của họ. Câu nguyên văn, ta có thể ví như
mặt biển rộng thênh thang, còn câu văn dịch không khác chi là mặt nước ao tù.
Văn dịch, nếu dịch đúng,
chỉ đem lại cho ta một phần nào cái ý vị của nguyên văn thôi. Bởi vậy, nếu muốn
đọc sách cho đứng đắn, cần phải đọc chánh văn. Đọc một trăm quyển sách khảo cứu
về Vương Dương Minh, Lão tử, hay Trang tử…không bằng đọc ngay Vương Dương Minh,
Lão tử, hay Trang tử. Vì vậy, học được nhiều ngoại ngữ chừng nào càng tốt đối
với người muốn tạo cho mình một cơ sở học vấn rộng rãi và sâu sắc.
Có kẻ tưởng cần kiếm sách
nghiên cứu về Lão tử, Trang tử hay Vương Dương Minh để dễ thấy đại lược tư
tưởng của các ông ấy hơn là phải đọc ngay các ông ấy, khó khăn hơn. Tính như
thế thật sai lầm. Đọc sách nghiên cứu trước khi đọc một tác giả nào, có cái lợi
là khỏi cần mất nhiều thời giờ để hiểu tác giả ấy trong khi đã có người làm
trước cho ta công việc đó. Nhưng ta sẽ bị cái hại nầy là ta chỉ hiểu biết tác
giả qua sự hiểu biết và nhận xét của nhà nghiên cứu thôi, chứ khó lòng biết
được cái chân diện mục của tác giả. Muốn biết Lão tử mà đọc cuốn Lão tử của Ngô
Tất Tố thì ta chỉ biết được Lão tử theo Ngô Tất Tố chứ chắc chắn không làm gì
hiểu được Lão tử. Nhưng thực ra, cũng không biết ta phải hiểu cách nào mới thật
hiểu đúng theo như Lão tử đã hiểu, là vì “không có một danh từ nào mà có một
nghĩa đối với hai người”. Mỗi độc giả đối với Lão tử có một cách nhận xét và
phản ứng riêng, vì vậy, như ta đã biết, không biết bao nhiêu là bản dịch Đạo
đức Kinh hoàn toàn khác nhau và những nhà chú giải Lão tử cũng không sao kể
xiết.
Sở dĩ tôi đã nói trước khi
đọc ngay chánh văn của Lão tử, đừng vội đọc sách nghiên cứu về Lão tử, là tôi
muốn cho các bạn đối với Lão tử (hay bất cứ đối với một tư tưởng gia nào) đừng
bị một thiên kiến nào trước cả, nó sẽ làm tê liệt óc phê phán của ta. Đối với
những học sinh hay sinh viên không ngày giờ để nghiên cứu nghiền ngẫm thì sự
đọc những sách nghiên cứu trước khi đọc chánh văn là một sự cần để biết mà trả
lời cho giám khảo. Việc ấy là một sự bắt buộc, không thể nào làm khác hơn được.
Chỉ cần đợi họ sau khi ra trường làm lại công cuộc giáo dục của họ sẽ hay. Chứ
đối với người có công tự học thì việc “đi sau đuôi” kẻ khác, tìm lấy một “con
đường mòn” theo kẻ khác mà đi…là một điều không nên có.
Dù sự phán đoán, phê bình
của ta không được xuất sắc bằng nhiều nhà nghiên cứu khác, nhưng nó là của
ta…nó là của trình độ hiểu biết hiện tại của ta…Sau nầy, ta sẽ đọc lại các sách
nghiên cứu khác để so sánh và chữa lại hoặc bổ túc thêm những phán đoán sai lầm
hay thiếu sót của ta, thì công phu tự học thụ dụng không biết chừng nào. Sự lợi
ích của sách nghiên cứu là giúp cho ta so sánh lại những nhận xét của nhà
nghiên cứu với những điều ta quan sát và suy xét, chứ không nên để cho nó quy
định trước lề lối tư tưởng của ta và làm mai một tinh thần sáng tác và tự chủ
của ta. Đọc sách phải là một sự sáng tạo. Chứ không phải là một sự nô lệ. Đừng
bao giờ tìm hiểu biết một người bằng lời giới thiệu của một kẻ thứ ba. Sự ưa
ghét, bao giờ cũng thiên lệch. Ưa thì nói tốt, ghét thì nói xấu…đều là những
phê bình chủ quan cả. “Đồng với ta, cho ta là phải; không đồng với ta, cho ta
là quấy”. Cái Phải Quấy của con người thường chỉ có thế thôi.
Phần đông một số sách
nghiên cứu ngày nay ở nước ta là một sự nhai đi nhai lại những ý kiến của những
người đi trước và chỉ có thế thôi, nhất là những sách giáo khoa. Vì vậy, một
cái lầm lạc của người trước sẽ được người ta “tụng” đi “tụng” lại mãi như con
“két” thật đáng thương hại không biết chừng nào!
5. Sách quá nhiều chú giải:
Có nhiều người tin tưởng
rằng đọc những sách có nhiều chú giải và phê bình sẽ giúp cho mình hiểu tác giả
một cách rành mạch hơn.
Giữa ta và quyển sách cần
phải có một sự tiếp xúc trực tiếp, không nên có nhiều kẻ xen vào “giành giựt”
sự thông cảm của riêng ta. Có những quyển sách dịch, vừa dịch vừa chú giải quá
rườm ra, kể lể ông nầy bà nọ đã nói gì về ý nghĩa của câu văn kia trải qua từng
thời đại. Kể ra công phu thì công phu thật, nhưng họ đã làm “mất” cả sự hứng
thú của những cảm giác hồn nhiên của ta đối với tác phẩm. Sự bác học của nhà
chú giải làm “rộn” ta nhiều hơn là giúp ích cho ta…Có gì bực mình bằng lúc mà
nhà thơ đang đưa ta vào cõi mộng mê ly của một câu thơ tuyệt đẹp thì nhà chú
giải bác học của ta lại kéo giựt ngược lại để giới thiệu cái nhạc điệu của câu
văn và cách dùng chữ ở những vần bình thường bình hạ, hoặc cắt nghĩa cho ta
nghe chữ dùng kia của nhà thơ là một chữ có một nguyên lai cực kỳ lạ lùng bí
hiểm…Có khác nào trong khi ta đang nghe một khúc nhạc thâm trầm mê mẩn…người ta
lại bắt ta dừng lại để nghe diễn thuyết cả một bài học về luật điều hoà! Ta đòi
hỏi người ta nên để cho ta lặng lẽ mà nghe tiếng vang trong lòng thầm kín của
ta khi tiếp xúc với tác phẩm ấy…
Đọc sách cần phải “uống
nước tận nguồn” nghĩa là tìm chánh văn mà đọc, đừng vội đi tìm những sách về
tác giả ấy do một “bàn tay thứ hai” viết lại.
Như thế ta lại cũng cần
phải tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm ấy lâu chừng nào hay chừng nấy.
Tôi xin thử lấy một thí dụ.
Các bạn muốn đọc Pascal là một đại văn hào Pháp ở thế kỷ thứ mười bẩy, nhưng từ
trước đến giờ chưa có được nghe ai nói đến để dự bị cho bạn. Những sách chú
giải về Pascal là cả một cái rừng. Thảy đều có giá trị cả. Như bộ sách
Port-Royal của Sainte-Beuve có thể được xem là quyển sách chú giải rộng nhất và
tự nó đã cũng là một tác phẩm rồi. Vậy, bạn có cần phải khởi đầu bằng đọc sách
cảu Sainte-Beuve chăng? Nghĩa là bạn có bằng lòng đọc trước ba nghìn trang
sách, trước khi mở ra quyển Tư tưởng lục (Pensees) của Pascal không? Dĩ nhiên
bạn sẽ không phải làm một việc luỗng công vô ích, dù bộ Port-Royal là một bộ
sách rất phong phú, nghiên cứu rất kỹ thống quan về lịch sử tư tưởng văn chương
của nước Pháp hồi thế kỷ thứ mười bảy. Nhưng muốn gặp Pascal mà phải đánh một
cái vòng to rộng như vậy, kể ra cũng khí quá, huống chi công phu của bạn nếu đã
xong rồi, bạn cũng chỉ nghiên cứu về Sainte-Beuve chứ cũng chưa gặp đặng
Pascal. Mà trong hai người ấy, bực vĩ nhân hơn hết có lẽ cũng chỉ là Pascal.
Đành rằng Sainte-Beuve là một phê bình gia sâu sắc lắm, nhưng vẫn cũng không
sao qua nổi Pascal là một thiên tài kỳ vĩ, uyên thâm và rộng rãi đã làm danh dự
chung cho nhân loại.
Bạn nên đi ngay vào Pascal
đừng diên trì gì cả, dĩ nhiên là bạn phải biết đặt ông vào hoàn cảnh xã hội của
ông trước để có một ý niệm thống quan về những điều kiện khách quan đã chi phối
và cấu tạo thiên tài của ông, nghĩa là bạn cần phải biết qua về sự hoạt động
của nhóm “jansenisme” cũng như sơ lược về đời tư của ông. Nhưng muốn có được
một khái niệm như thế. Nhưng muốn có được một khái niệm như thế, bạn chỉ cần
đọc lối ba mươi trang sách và mất chỉ vài giờ là cùng. Bạn hãy lựa một quyển
văn học sử đứng đắn như của các ông Gustave Lanson, hay của Bédier và Hazard,
hoặc là trong một bài tự ngôn nho nhỏ ở đầu sách các quyển “Pensees” của Pascal
cũng là đầy đủ lắm rồi. Dự bị được bao nhiêu đó, hãy đi ngay vào tác phẩm của
Pascal. Và sau khi đã đọc đi đọc lại nhiều lần và nghiền ngẫm nó…bấy giờ nếu có
thời giờ, hãy đọc thêm Sainte-Beuve, hoặc những bài nghiên cứu công phu của các
văn gia Brunschivig, Ravaisson, Ranh, F. Strowski, Petitot, Jacques
Chevalier…Nhưng dù sao, Pascal vẫn phải được quyền ưu tiên (3).
6. Đọc sách cần phải đọc đi
đọc lại nhiều lần:
Đọc sách hay không nên đọc
đọc sách mượn. Sách mượn phải trả, không nên giữ nó lâu ngày đến đợi người ta
đòi. Cái đó thiếu liêm sỉ. Vậy đọc sách hay, phải đọc sách mình đã mua, để có
thể đọc đi đọc lại nhiều lần.
Đọc đi đọc lại nhiều lần,
chẳng phải để cho dễ nhớ, mà là bởi có nhiều thứ sách rất hàm súc: nếu chỉ đọc
qua một bận, không tài nào hiểu nó được hết. Có nhiều quyển sách đọc đến lần
thứ ba, thứ tư mới hiểu được. Trước đây tôi có bàn đến sách khó đọc. Khó đọc
đây là khó đọc vì văn từ lòng dòng, cách cấu tạo hỗn độn mà ý nghĩa thì thực
chẳng có gì. Còn ở đây, tôi muốn bàn đến những sách hàm súc mà văn từ quá điêu
luyện, cần phải chú ý rất nhiều mới khám phá được những ẩn ý hoặc những tế nhị
của tư tưởng. Nhất là sách xưa, văn từ rất ngắn, không thích giảng giải hay
minh chứng dài dòng, nhưng hàm chứa những ý tưởng vô cùng sâu sắc.
Gặp phải những thứ sách như
thế, có nhiều kẻ quá thận trọng, nhưng thiếu kinh nghiệm, họ nhất định không
chịu bỏ qua một chứ nào còn nghi ngờ cả. Nếu họ gặp một câu nào khó hiểu, họ
dừng lại, cố tìm cho ra nghĩa của câu đó mới chịu tiến tới. Với phương pháp đó,
tôi dám quả quyết họ sẽ không bao giờ đọc hết mười trang sách Trang Tử hoặc của
Kant hay Hegel. Gặp trở ngại mà cứ đứng lỳ lại, không chịu đi tới nữa, theo tôi
là một phương pháp sai lầm.
Hãy cứ đi tới mãi…và đi cho
tới cùng. Bấy giờ ta mới thống quan được cái đại ý, nắm được cái giềng mối.
Biết được cái tổng quan niệm của tác giả, mình mới nhân đó mà suy xét lại những
chi tiết của nó. Rồi những gì mập mờ sẽ lần lần sáng tỏ lại. Đọc lần đầu, cần
phải đi thật mau, để xem cái lề lối đại cương của quyển sách, chẳng khác nào
xem trước cái hoạ đồ của một đô thị trước khi mình đi vào đó vậy. Đọc lần thứ
hai, ta sẽ ngạc nhiên thấy những trở ngại trước kia tiêu tan lần lần. Tư tưởng
bấy giờ liên lạc tiếp tục nhau không bị gián đoạn nữa, là vì mình đã biết được
phương hướng của nó rồi.
Đừng nói là đọc lần thứ
nhì, có loại sách đọc đi đọc lại ba, bốn lần mà nghĩa nó vẫn mờ tối. Nhưng dù
sao mình cũng đã biết được đại cương và phương hướng của nó rồi. Những chỗ mờ
tối ấy thủng thẳng lâu ngày rồi cũng sẽ có ngày hiển lộ. Ta biết rằng câu văn
của nhà đại tư tưởng thường rất vắn tắt mà hàm súc lắm. Kinh nghiệm của ta còn
ít, tư tưởng của ta còn nông, muốn hiểu hết ý nghĩa của nó phải cần đến thời
gian.
Không phải họ cố ý làm cho
tư tưởng họ mờ tối làm gì. Chỉ vì họ có rất nhiều tư tưởng phải nói với ta, hềm
gì họ phải dùng đến một tiếng nói tầm thường, không thể nào biểu diễn hết ý
nghĩ của họ đặng. Ai đã từng cầm bút mới hiểu rõ nỗi thống khổ của ta khi biểu
diễn tất cả nỗi lòng cảu ta mà văn từ không sao biểu diễn nổi. Dù là bực văn
tài đến bực nào cũng cảm thấy cái chỗ thâm sâu của tấm lòng không sao truyền
vào câu văn cho hết được. Thánh nhân mà còn nói: “Thơ bất tận ngôn, ngôn bất
tận ý” thay!
Vậy, đọc sách mà độ tới cái
chỗ “không thể nói được” đó, nhận được cái mà người ta gọi là “ý tại ngôn
ngoại”, thời đọc sách mới tinh thần.
Trang Tử nói: “Có nơm vì
cá. Muốn đặng cá phải quên nơm. Có dò vì thỏ, muốn đặng thỏ phải quên dò. Có
lời vì ý, muốn đặng ý phải quên lời”
Phật tổ ngày kia lấy ngón
tay chỉ mặt trăng mà bảo các đệ tử: “Kìa là mặt trăng! Các đệ tử hãy ngó theo
ngón tay ta thì thấy. Nhưng, nên nhớ: ngón tay ta không phải là trăng. Những lời
giảng của ta về Đạo cũng vậy. Các con cứ nghe lời ta giảng mà tìm Đạo. Nhưng
nên nhớ: lời giảng của ta không phải là Đạo”.
7. Cần đọc những sách cao
hơn tầm hiểu biết của mình:
Một nguyên tắc trong việc
tự học mà ta không nên quên là chỉ có những công phu nào có nhiều cố gắng mới
có thể có lợi cho sự tiến bộ tinh thần trí não thôi. Không cố gắng, không sao
tiến bộ được.
Có nhiều người quá thận
trọng, quá rụt rè, không dám đọc những sách cao quá trình độ hiểu biết của
mình. Đọc sách cũng một trình độ tư tưởng của ta, cũng như đọc những sách cùng
đồng một chí hướng của ta chẳng khác nào kết bạn với những bực ngang hàng, chỉ
được có người tán tụng phụ hoạ mà không được có người nâng đỡ hoặc giúp ta đặt
lại vấn đề cũng suy nghĩ thêm nhiều khía cạnh bất ngờ khác.
Có ích gì những sách cùng
một trình độ với mình, vì họ chỉ mang lại cho ta có cái tiếng dội của những ý
kiến của ta mà thôi. Tác giả không cao hơn ta sẽ không giúp ích gì cho ta. Tuy
lắm khi mình không theo kịp họ, nhưng cũng có lúc mình cũng lấn họ, và nếu cần,
cũng chống lại với họ.
Sau khi đọc xong quyển
sách, mặc dù mình không đạt được hết tư tưởng của tác giả, mình cũng thấy chỗ
thay đổi trong cái người tinh thần của mình. Những chỗ tối tăm khó hiểu của họ
lắm khi cũng giúp cho ta suy nghĩ thêm nhiều hơn là khi họ nói ra môtj cách
rạch ròi vỡ vạc. Nhà tư tưởng Joubert có nói đại khái như vầy: “Những ý tưởng
rõ ràng sáng sủa giúp cho tư tưởng; nhưng chính những ý tưởng mập mờ lại giúp
ta hành động, chính những ý tưởng ấy chỉ huy sự sống của ta”. Ở đây chúng tôi
muốn nói về những quyển sách cao sâu, vượt quá cái tầm hiểu biết thường của ta,
chứ không phải muốn nói về những loại sách tối nghĩa của những kẻ muốn lập dị
cầu kỳ mà thực ra rất tầm thường và nông nổi.
Làm bạn thì nên làm bạn với
những kẻ cao hơn mình về tài đức, đọc sách nên đọc những quyển sách cao hơn
trình độ tư tưởng của mình thì mới mong tiến bộ mau trên con đường tri thức.
8. Đối với bất cứ sách nào,
phải dành cho nó một tấm lòng thiện cảm.
Trước khi phê bình một
quyển sách nào, phải để chút hy vọng và tin tưởng nơi nó. Một người viết sách,
dù có dở đến bực nào, cũng đã lao khổ nhiều với tác phẩm của mình. Họ cũng đã
bỏ nhiều thời giờ suy nghĩa nghiền ngẫm mới viết ra. Thật cũng đã lao tâm khổ
tứ với nó không ít. Nếu trước khi đọc nó, mình lại thiên ý, hoặc có ý kình
địch, ác ý, đó là tự mình làm mất một cơ hội tốt. Biết đâu trong khi cùng “âm
thầm đàm luận” với quyển sách, nó không khêu gợi cho mình nhiều ý nghĩ hay hay.
Có nhiều người viết văn rất
khúc mắc khó đọc. Có khi vì họ kém cái tài ăn nói, không biểu diễn ý tưởng của
mình được một cách giản dị rõ ràng, hoặc là tác giả có ý cầu kỳ lập dị…Nhưng
mình cũng không vì đó mà không ráng công với họ một chút để tìm hiểu họ. Có khi
họ sẽ đền đáp với mình rất hậu. Cần nhất là mình phải có chút ít thiện cảm, để
cùng nhận xét và thông cảm với họ.
Thường ta có thói quen “hễ
đồng với ta là phải, không đồng với ta là quấy”mà mang theo mình đầy thành kiến
trong khi đọc sách. Như thế, đọc sách không lợi ích gì cho ta cả. Huống chi đọc
sách mà có nhiều thiên kiến, nhất là ác cảm, thì chắc chắn không làm gì hiểu
được thâm ý của tác giả.
9. Cần ôn lại những gì ta
đã hiểu biết hoặc đã suy nghĩ về vấn đề của quyển sách đã nêu ra:
Lại nữa, mình cần phải có
hiểu biết hoặc suy nghĩ trước chút ít mới được. Đến khi đọc sách là mình tìm
coi tác giả sẽ giải quyết hoặc đặt vấn đề ấy như thế nào, có đồng hoặc không
đồng với ý kiến của ta chăng, mà nếu có đồng thì đồng chỗ nào, “đại đông” mà
“tiểu dị”, hay “đại dị” mà “tiểu đồng”? Còn nghịch với ta, thì tác giả nghịch
chỗ nào? Đừng vội đọc liền quyển sách. Nên chờ cho mình nhận định vấn đề trước
đã. Muốn vậy nên đọc trước bản mục lục hay bài tựa để có một khái niệm chung về
đề tài của quyển sách.
Không phải riêng gì việc
đọc sách, đi nghe diễn thuyết cũng vây, cần phải ôn lại những gì mà ta đã hiểu
biết hoặc đã suy nghĩ về đề tài sắp đem ra trình bày…để mình có thể theo dõi
cuộc nói chuyện một cách hào hứng…Bằng không mình chỉ nghe đến đâu hay đến đó,
chứ không sao nhận thấy liền được những ý tưởng đặc biệt tân kỳ của diễn giả.
10. Đọc sách cần phải đồng
hoá với nó và phản động lại nó:
Đọc sách là để nuôi dưỡng
tinh thần trí nào. Đồ ăn vào bao tử mà tiêu hoá được là nhờ các chất tiêu hoá
dịch. Những điều hiểu biết mà mình mới thu thập đặng nơi sách vở sở dĩ bổ ích
được tinh thần mình là nhờ mình biết so sánh, đối chiếu với sự hiểu biết của
mình đã có trước. Hễ mình đã hiểu biết được nhiều chừng nào, đọc sách sẽ được
bổ ích thêm chừng nấy. Một quyển sách mà mình thích đọc là vì nó với mình có
nhiều chỗ cảm ứng mật thiết với nhau.
Khi cho in quyển sách, bản
tâm soạn giả bao giờ cũng muốn cùng độc giả san sẻ tư tưởng về một vẫn đề nào.
Vậy muốn cùng tác giả suy nghĩ thì độc giả cũng phải để một phần ý kiến mình
vào trong đó, nghĩa là nếu muốn hưởng ứng cùng tác giả một cách thân mật, người
đọc cần phải đem tư tưởng của tác giả đối chiếu với kinh nghiệm của mình.
Chỉ có cách so sánh và đối
chiếu ấy mới giúp cho mình tìm thấy được mình, nghĩa là giúp cho chính mình
nhận thấy được khuynh hướng thầm kín và sâu xa của cái người tinh thần của mình
mà thôi. Trong cảnh tĩnh mịch âm thầm…một tư tưởng của tác giả đã làm rung động
cả tầm hồn trí não ta, làm thành một tiếng gọi xa xăm mà rõ rết. Bấy giờ ta mới
sực tỉnh, nhìn lại mới hay là tư tưởng của thâm tâm mình mà bấy lâu nay mình không
dè, hoặc vì mình đã nghĩ đến mà chưa dám tìm ra được câu nói cho vỡ lẽ. Cả tâm
hồn ta bấy giờ rung động sung sướng như mừng gặp đặng người tri kỷ đã lâu ngày
cách biệt. Cũng như, đối với nhiều nhà viết sách, ta không thể hưởng ứng được,
vì cái người tinh thần của họ không thể nào hoà hợp đặng với cái người tinh
thần của ta. Tuy vậy, đối với họ, mình nên giữ thái độ một người bạn hơn một kẻ
thù.
Đọc sách mà tin cả sách,
cũng như đọc sách mà bất cứ câu nào cũng phản đối…đó là hai thái độ không nên
có của một người đứng đắn.
Đọc sách mà phản động lại
với sách là cái quyền, hơn nữa, là phận sự của mỗi người. Nhưng, ta chỉ có cái
quyền đó, cái phận sự đó khi nào ta đã làm hết sức ta để đứng theo quan niệm
của tác giả.
Nên nhớ kỹ: phản đỗi, chống
lại tác giả không phải là bảo tác giả phải bỏ quan niệm của họ để nhìn nhận
quan niệm của mình, mà trái lại, chỉ cho tác giả biết, đứng trong trường hợp
của tác giả, tác giả phải nên có quan niệm như thế nào để khỏi phải có sự mâu
thuẫn, phải lẽ hơn hoặc hay hơn mà thôi.
Những kẻ có tánh ưa phản
đối công kích chỉ để phản đối công kích mà thôi, thì thật là khả ố. Họ lầm lẫn
óc phê bình với óc phản bác. Hai thái độ ấy khác nhau rất xa. Những kẻ đụng đâu
phê bình đó, không kể gì đến liêm sỉ, thường lại được bọn người vô học ưa
thích, vì họ tưởng làm hạng người ấy là hạng đại tài, bởi có tài mới phê bình
kẻ khác một cách dễ dàng được. Đứng về phương diện tâm lý mà xét thì phần đông
kẻ có óc phản bác (hay ưa nói nghịch), đều có lẽ vì bị cái “tâm cảm tự ty”: họ
dìm kẻ khác để nâng cao mình lên. Ngoài ra họ không còn có phương tiện gì khác
để nâng cao giá trị của họ cả. Tôi thường thấy họ đọc sách một cách cẩu thả đến
thế nầy: gặp bất cứ một quyển sách nào trên bàn, họ lấy lên, lật càng ra một
trang nào cũng được, “túm” lấy một câu nào ở đâu cũng được, rồi lấy riêng nó ra
mà đọc lên và nhạo báng mỉa mai. Mà làm gì không chế nhạo chăng? Trong một bài
có nhiều câu, câu nầy ăn với câu kia mới có nghĩa. Nếu lấy rời ra một câu thời
có khi nghe nó vô lý và ngây ngô là thế nào! Bảo đọc riêng nó lên, và dụng ác
tâm mà tha hồ giải thích nó thì không làm trò cười cho kẻ khác sao đặng! Họ cắt
xén đoạn mạch của bài văn, trong một đoạn họ rút ra một câu, thay đổi ý chánh,
bắt tác giả phải nói những điều họ không nói, để chỉ trích phê bình có khi mỉa
mai chế nhạo là khác. Đó là một việc làm thiếu liêm sỉ mà bất cứ một nhà văn
nào có lương tâm không thể làm được. Một nhà phê bình trứ danh có nói: “Hãy đưa
cho tôi một vài hàng chữ của người nào, tôi sẽ làm cho hắn bị xử giảo cho xem”
(4).
11. Đọc sách cần đặt cho
mình trước một vấn đề … hay một câu hỏi để tìm kiếm, săn đuổi…
Gặp những sách hay, đừng
bao giờ đọc nó như ta đọc tiểu thuyết giải trí, tới đâu hay đó.
Ta nên biết rằng sách hay
về tư tưởng, bao giờ cũng đề cập rất nhiều vấn đề. Ta không cần phải biêtd tất
cả các vấn đề trong đó làm gì. Cứ lấy riêng ra một vấn đề nào để đặt lấy cho ta
một câu hỏi, rồi tự mình tìm lấy một giải quyết tàm tạm trước khi đi vào quyển
sách.
Ta sẽ tìm coi giải quyết
của tác giả sẽ như thế nào? Cách giải quyết của tác giả có hợp với quan niệm
của mình không? Nếu không hợp, vậy quan niệm cảu tác giả có đứng vững chăng,
trước thực tế? Đọc sách như thế mới thật là thụ dụng.
Nếu trước khi đọc một tác
phẩm nào mà ta lại đọc được một bài phê bình nào về nó, thì phải biết lợi dụng
ngay bài phê bình đó, tìm coi bài phê bình ấy đối với quyển sách đã nêu thêm
được vấn đề nào. Lấy vấn đề ấy làm câu hỏi cho mình, rồi đi ngay vào quyển sách
mà quan sát tìm tòi theo phương hướng đó.
Tỉ như muốn đọc Luận ngữ,
ta thử đặt trước một trong những vấn đề hay những câu hỏi sau đây:
- Đối với Khổng Tử quan
niệm về giáo dục như thế nào?
- Sao gọi là người quân tử,
theo Khổng Tử?
- Người quân tử theo Khổng
Tử có sống được trong xã hội ngày nay không?
- Nhân sinh quan của Khổng
Tử như thế nào? Quan niệm ấy có khác với Lão Tử không? và khác chỗ nào?...
Ta có thể nêu ra không biết
bao nhiêu là câu hỏi hay vấn đề khác tuỳ thích. Nhưng cần phải nêu ra từng vấn
đề mộtvà tìm giải quyết riêng từng vấn đề, chứ nếu xem tất cả một lượt thì sẽ
không thấy gì cả.
Tìm ra một vấn đề hay một
câu hỏi rồi, bấy giờ lật sách ra mà đọc và cứ theo phương hướng đó mà đi, ta sẽ
thấy lý thú vô cùng.
Hoặc nhân câu nầy của một
nhà phê bình: “Đạo trung dung bất thiên bất ỷ, không xu hướng về cực đoan,
không thái quá, không bất cập tức là chiết trung chủ nghĩa vậy”. Nhân đó ta nêu
lên một vấn đề: Đạo Trung dung của Khổng Tử có phải là chủ nghĩa chiết trung
không?
Hoặc nhân một câu khác nầy
của một nhà phê bình khác: “Xã hội nước ta chịu ảnh hưởng của thuyết trung dung
mà hoá ra một cái xã hội dở dở ương ương trắng không ra trắng, đen chẳng ra
đen…Trung dung chỉ là cái thai đẻ ra khiếp nhược và là cái ổ chứa gian tà
thôi.”
Nhân đó ta sẽ nêu ra vấn đề
nầy: Đạo Trung dung có phải là thai đẻ ra khiếp nhược và là cái ổ chứa gian ta
không? Thuyết Trung dung nghĩa nó thật như thế không?
Đó là cách lợi dụng những
phê bình của kẻ khác để tạo cho mình một câu hỏi, dùng làm phương hướng trong
khi đọc sách.
Tóm lại, tôi thường dùng
phương pháp nầy: đầu tiên, đối với quyển sách tôi lấy hết sức thiện cảm để đọc
nó. Có thiện cảm mới có thể tìm hiểu được tác giả. Kế đó, tôi lấy tư cách đối
phương để đọc nó. Tôi tìm đủ cách để bươi móc chỗ dở của nó, phê bình nó một
cách hết sức nghiêm khắc như một kẻ thù. Rồi sau cùng, lấy tư cách của một
trạng sư, tìm đủ lý lẽ để bênh vực nó, kỳ cho được lý mới chịu thôi. Như thế,
bề mặt, bề trái của nó, tôi thấy rõ ràng hết sức. Sự phê phán của tôi bấy giờ
mới có thể nhứt định đặng. Phương pháp ấy đã giúp tôi từ lâu nay để tránh khỏi
mọi phê phán cẩu thả và bất công.
12. Làm thế nào để nghiên
cứu một hệ thống tư tưởng?
Nếu muốn tự mình có được
một ý niệm về một luồng tư tưởng nào, bất cứ thuộc về xưa hay nay, thì chỉ có
một phương pháp duy nhất nầy: đi ngay vào những tác phẩm chánh.
Lấy một thí dụ: nếu ta muốn
có được một ý niệm về chủ nghĩa “khắc kỷ”, ta phải làm sao? Tạm thời hãy tạm
gác một bên những bài tóm tắt chủ nghĩa ấy trong các quyển triết học sử. Đừng
bắt chước lối học của học sinh nhà trường. Phải dám đi ngay vào những tác phẩm
chánh của phái học ấy. Nghĩa là hãy đọc ngay quyển “Entreiens d’Epictète” do
Adrien sưu tập và Courdaveaux phiên dịch (Paris Perrin. 1908). Đừng nghe theo
phần đông mà chon quyền “Manuel d’Epictète” vì quyền Manuel chỉ là bộ trích yếu
tư tưởng của nhà hiền triết nầy, một bản trích yếu rất khô khan và không còn gì
là hương vị của quyền trên. Ta cũng có thể đọc thêm quyển “Pensees de
Marc-Aurele”. Quyển nầy có nhiều bản rất hay. Hoặc là ta hãy đọc quyển “Lettres
à Lucilius” của Séneque. Một trong ba quyển trên đây cũng vừa đủ để cho ta có
một tài liệu rõ ràng về chủ nghĩa trên đây mà không một nhà phê bình chú giải
nào giúp ta hơn được (3).
Phải biết và dám tin tưởng
nơi sự phê phán của mình trước hết: tiếng dội ấy sẽ là tiếng dội thành thật
nhất và hồn nhiên nhất.
13. Làm cách nào để hiểu
biết được học thuyết mới?
Dù là đối với những lý
thuyết mới, phương pháp cũng như trên. Ví dụ đối với học thuyết phân tâm học
của Freud. Bất cứ nhà trí thức nào cũng muốn biết qua nó như thế nào? Sách báo
bàn tán đến nó không ngót, nhưng thực sự người ta cũng chỉ thực biết nó rất là
thiển cận.
Mặc dù biết đến học thuyết
Freud mà chỉ đọc mấy quyển Introduction à la Psychanalyse hoặc quyển Science
des rêves thì cũng chỉ biết nhá nhem thôi, nhưng mà cần nhất là phải khởi đầu
bằng những quyển ấy.
Có nhiều người có học thức
khá, thế mà họ chỉ đọc ròng những sách kích bác học thuyết Freud mà chưa từng
bao giờ đọc ngay tác phẩm của Freud. Làm thế là tự mình đã chịu khuất phục rồi,
không làm gì có đủ tư cách và tài liệu để nhận xét những lời phê bình kia có
đúng đắn hay không?
Tóm lại, bao giờ cũng phải
kêu cứu ngay những tác phẩm do tay tác giả trước tác, hoặc nếu không có thì chỉ
nên đọc những tác phẩm có giá trị. Đọc những sách, dù là đọc một phần thôi, chứ
không được đọc hết tất cả tác phẩm của danh gia ấy, ta cũng có được một ý niệm
giá trị hơn là đọc những sách toát yếu của nó.
14. Cái hại của những sách
toát yếu.
Dùng đến những sách toát
yếu rất nguy hiểm cho những người mới học. Đọc một bài tóm tắt một lý thuyết
nào hay một quyển sách toát yếu kiểu Reader’s Digest của Mỹ, đâu phải là lối
học tắt. Nó chỉ có ích để giúp trí nhớ cho những người đã biết rõ rồi, nay chỉ
cần một vài câu để nhắc lại những gì mình đã học.Chứ khởi đầu học mà lại dùng
đến những sách toát yếu thì là cả một sự sai lầm dại dột. Ngay khi mình đã hiểu
rồi mà dùng đến sách toát yếu cũng vẫn còn nguy hại: những ý tưởng dồi dào
phong phú kia đã mất cả sự linh hoạt của nó vì đã bị nhốt vào một vài câu văn
cằn cỗi khô khan, không còn chút gì là sinh khí, mạch lạc, tư tưởng bị đứt đoạn,
trí nhớ chỉ còn ghi lại những danh từ…và chỉ là những danh từ mà thôi. Sách
toát yếu chỉ còn là sự “táo kết”, sự “khô gầy” của tri thức, nó chỉ nhằm vào
mục đích “nấu cao” lại sự hiểu biết của con người…đã biến thành một chứng bệnh
thiên về nghề nghiệp của một số người chuyên môn dạy học.
Thời gian ngắn, mà sự hiểu
biết của một chương trình khổng lồ và tham lam bắt buộc người ta phải thu ngắn
lại tất cả ngành hiểu biết của con người vào một vài trang sách để thắng thời
gian. Người ta đã quên rằng văn hoá là một vấn đề phẩm chứ không phải lượng, và
cũng là một vấn đề thời gian. Cái lợi của những sách toát yếu đại lược chỉ giúp
cho ta một quan niệm tổng quát, dĩ nhiên thiếu sót về phần tinh vi sâu sắc…tức
là phần cần thiết để đào luyện phần thâm thiết nhứt của tâm trí con người.
15. Viết lại những gì mình
đã đọc.
Đọc sách để học, cần phải
đọc thật kỹ, sau khi đọc xong phải biết nhận đại lý như thế nào. Đọc sách cần
phải suy nghĩ, và muốn cho sự suy nghĩ được thâm sâu, tưởng không có phương
pháp nào hiệu quả bằng viết lại và tóm tắt những gì ta đã đọc.
Nhưng chép lại và tóm tắt
cũng vẫn còn là một việc làm thụ động. Ta còn phải biết biên lại cảm tưởng của
ta, hoặc những ý kiến riêng của ta chống đối lại với tác giả, lọc lừa những gì
nên giữ, những gì nên bỏ. Tuy vậy, trước hết đừng có thái độ chống đối mà cần
phải có sự thông cảm vì đó là điều kiện đầu tiên để tìm hiểu tác giả. Phải biết
để cái người của mình qua một bên, nghĩa là phải biết quên tất cả những thành
kiến của mình, đem mình đặt vào hoàn cảnh của tác giả xem theo cặp mắt của tác
giả để đi sau vào tình cảm và tư tưởng của tác giả.
Nhưng khi đã đọc xong, và
nếu có thể được, sau khi đã đọc xong lần thứ hai hay thứ ba, phải biết trở về
với sự phản ứng của con người thật của mình. Ta không cần phải viết lại một bài
luận năm, mười trang giấy làm gì mà chỉ nên cố gắng trong mươi hàng để tóm tắt
cảm tưởng của mình là đủ nếu thật tình mình muốn thấy rõ lòng mình.
Đây là thí dụ đọc sách của
Felix Pecaut, một nhà đại giáo dục nước Pháp. Ông có viết một quyển sách trứ
danh nhan đề là “Quinze ans d’éducation” (Mười lăm năm giáo giục). Quyển sách
nầy là kết tinh của công trình đọc sách hằng ngày của ông. Mỗi buổi sáng, ngồi
lại bàn viết, ông thảo sơ những đề tài thảo luận cho sinh viên trường Sư phạm
Fontenay-aux-Roses trong ngày. Đề tài thảo luận thường là đề tài của một quyển
sách mà ông vừa đọc được. Mặc dù là một kẻ rất sành sỏi kinh nghiệm, ông vẫn
không chịu chiều theo cái hứng của ông, ông tư đặt cho mình một kỷ luật gắt gao
là nghiền ngẫm trong sự tĩnh tâm tịch mịch những yếu điểm sẽ làm đề tài cho
cuộc thảo luận. Mỗi ngày ông biên chép thêm một vài trang…lần lần tập ký ức
biến thành tập sách danh tiếng ấy, trong đó ông chỉ viết ra những cảm tưởng
dành riêng cho ông với mục đích là kiểm soát lại tư tưởng của ông và sắp đặt nó
lại cho có hệ thống. Thiết nghĩ không còn có cách nào hay hơn nữa để đọc sách
cho có hiệu quả. (3)
Tóm lại: Ta cần phải đọc
những sách “vĩ đại”, những sách thật hay; đọc ngay nó mà đừng đi vòng chung
quanh nó; đọc nó ít lắm cũng hai lần, lần thứ nhất để nhận thấy tổng quan và
đại ý, lần thứ hai, đọc lại thật kỹ từng chi tiết; phải có can đảm đọc ngay
những sách hay mà khó để bắt ta cố gằng và suy nghĩ, và phải đọc nó với một vấn
đề tự mình đặt lấy và giải đáp trước để rồi sau kiểm soát lại; phải đọc sách
thật có giá trị, dù chỉ đọc vài đoạn một, mà đọc ngay chánh văn còn hơn là đọc
lại những bản toát yếu khô khan của nó: đọc xong nên ghi chép lại cảm tưởng của
mình một cách đơn giản và chân thành.
Đọc sách mà thiếu lòng hâm
mộ, nhiệt hứng, đọc một cách thụ động…đó là một tật làm biếng nên tránh xa.
Nhiều kẻ đọc sách để tự mình khỏi phải suy nghĩ: đọc sách mà tin cả sách, mà
không dám phản ứng lại với sách, thì thà đừng đọc sách còn hơn. Đọc sách như
thế tức là tự huỷ hoại tư tưởng cũng nhân cách của mình. Đọc sách là để khải
phát cõi lòng thâm sâu của mình, tìm thấy con người chân thật và sâu sắc của
mình, để tăng cường đời sống tinh thần của mình thì mới nên đọc sách mà thôi.
Nhược bằng đọc sách để mà nô lệ sách vở, đọc sách để mà bắt chước suy nghĩ theo
kẻ khác thì đọc sách rất là có hại.
16. Đọc sách cần xem bản
mục lục.
Tựa quyển sách, chỉ cho ta
thấy trước đường lối để đi vào tư tưởng của tác giả. Nhờ có nó ta mới nhận thấy
được mau lẹ mạch lạc của quyển sách, biết trước cách giải quyết của tác gỉa.
Nguồn tusach.mobi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét