Tên nước: Nước Cộng hòa A-rập Ai Cập
Thủ đô: Cai-rô
Diện tích: 997.738 km2
Dân số: 74 triệu người (2006)
Tiền tệ: ̣ Pound Ai-cập; 1USD = 5,78 EGP (2005)
Phần 1: TỔNG QUAN VỀ AI CẬP
1.1.1 Vị trí tuyệt đối
Ai Cập nằm ở tọa độ : Vĩ độ 30° 3' Bắc, Kinh độ 31° 14'
Đông.
Tọa độ dạng thập phân: Vĩ độ 30.06263, Kinh độ 31.24967.
Cao độ: 23 mét (75.46 foot).
Ai Cập nằm ở Bắc Phi, Trung Đông và Tây Nam Châu Á.
+ Phía bắc giáp Địa Trung Hải
+ Phía Nam giáp Xu-đăng
+ Phía Tây giáp Li-bi
+ Phía Đông giáp I-xra-en và biển Đỏ
Ai Cập có vị trí chiến lược quan trọng: là một quốc gia liên
lục địa, họ sở hữu
một cầu nối lục địa (Eo đất Suez ) giữa Châu Phi và Châu Á, và một cầu nối
đường thuỷ
(Kênh Suez) nối giữa Biển Địa Trung Hải và Ấn Độ Dương thông
qua Biển Đỏ
Diện tích: 997.738 km2
Ai Cập là một nước Hồi giáo với gần 90% dân số theo đạo này,
phần lớn thuộc dòng
Sunni một nhánh của Hồi giáo. Đạo Hồi ở Ai Cập tuy không hà
khắc nhưng có ảnh
hưởng sâu rộng trong đời sống mọi mặt của đất nước.
Cơ Đốc giáo chiếm khoảng 10% dân số, phần lớn là dòng Coptic
với 9%, 1% còn lại
gồm Công giáo, Hy Lạp Chính thống, Syri Chính thống, và
Armenia Chính Thống, phần
lớn sống tại
Alexandria và Cairo.
1.4 Ngôn ngữ, dân
tộc
Ngôn ngữ chính
thức của Ai Cập là tiếng Ả Rập, ngoài ra còn có tiếng Anh và
Dân cư Ai Cập gồm
vài sắc tộc, đa số là người Ai Cập ( dân gốc trước thời người
Ả Rập) và người Ả
Rập, họ đã xâm chiếm đất nước vào thế kỷ thứ 7. Một phần nhỏ gồm
dòng dõi của
người Hy Lạp, La Mã và Thổ Nhĩ Kỳ, họ cũng là những người đã chinh
phục Ai Cập. Một
dân tộc dù là rất ít, nhưng rất quan trọng là các bộ lạc Nubi sống dọc
thung lũng sông
Nile về phía Nam và dân tộc Beduin sống du mục trong sa mạc.
Hiện vẫn còn một
cộng đồng Do Thái nhỏ, với khoảng 300 người Ai Cập.
Phần 2: TIỀM NĂNG
DU LỊCH
2.1 Điều kiện tự
nhiên
Trên bản đồ, hình
bình hành Ai Cập và bán đảo Sinai tạo thành một vùng đất có
diện tích hơn một
triệu cây số vuông. Chưa đến 10% diện tích đất nước có người ở và
được khai khẩn – đó
là các thung lũng và châu thổ sông Nile, các vùng đất dọc kênh Suez
Sa mạc phủ hơn
90% diện tích, toàn bộ miền Tây là sa mạc Libia, tức là một phần
của Sahara, trong
sa mạc có lòng chảo Cattara mênh mông. Cao độ dưới lòng chảo thấp
hơn mực nước biển
113m. Các sa mạc Ả Rập và Nubi phân bố trên vài cao nguyên này
nâng dần từ lưu
vực sông Nile lên đến phía Đông và đổ gấp về phía Hồng Hải. Phía Bắc
bán bảo Sinai (
rìa tây bắc của đất nước) là bình nguyên sa mạc, ở phía Nam núi vượt cao
lên. Một trong các
núi là Sinal.
Rải rác trên sa
mạc là các ốc đảo,với những dòng suối róc rách chảy như ốc đảo
Siwa của Ai Cập,
ốc đảo Ainsala Gio-uốt của Angiêri
Khí hậu ở Ai Cập
nằm ở vùng cận nhiệt được tóm gọn trong hai chữ: nóng và khô,
ngoại trừ các
tháng mùa đông. Phía Bắc lạnh hơn phía Nam, nhiệt độ trung bình giao
động từ 200C trên
bờ biển Địa Trung Hải đến 260C ở Aswan. Vào mùa hè, nhiệt độ lên
cao, ở miền Nam
tối đa là 310C, và ở phía Bắc tối đa là 500C. Vào mùa đông, nhiệt độ đôi
khi tụt xuống
thấp, ở thủ đô Cairo là 80C và dọc theo bờ Địa Trung Hải. Ở sa mạc, nhiệt
độ càng khắc
nghiệt hơn, ban ngày nóng bao nhiêu thì ban đêm lạnh bấy nhiêu.
Ai Cập nhận được
ít hơn 80 mm lượng mưa hàng năm ở hầu hết các khu vực, bờ
biển phía bắc là
vùng ẩm thấp nhất, về phía nam lượng mưa giảm nhanh, ở nhiều nơi vài
năm mới có mưa
một lần. Hầu hết mưa dọc theo bờ biển, nhưng ngay cả những khu vực
ẩm ướt nhất,
Alexandria, cũng chỉ nhận được khoảng 200 mm lượng mưa mỗi năm. Nhìn
chung độ ẩm ở đây
thấp (điển hình ở Cairo cao nhất là 77 vào mùa hè và còn lại là rất
thấp).
Một hiện tượng
khí hậu của Ai Cập là mùa xuân gió nóng thổi trên toàn
quốc. Những cơn
gió, được biết đến với châu Âu như Sirocco và gió nam thổi ở Ai Cập,
thường đến vào
tháng Tư nhưng đôi khi xảy ra trong tháng 3 và tháng 5. Có lẽ vì những
gì khác lạ của
một vùng đất sa mạc châu phi mà Ai Cập tạo nên những điều vô cùng độc
đáo, thú vị, khí
hậu cũng là một trong những tài nguyên mà du lịch Ai Cập phải đối diện
với nhiều thách
thức nhưng cũng không kém phần tạo nên diện mạo đặc sắc của du lịch
Ai Cập.
Ai Cập cổ đại,
hay nền văn minh sông Nile, Sử gia Hy Lạp cổ đại là Herodote đã
từng viết: “Ai
Cập là tặng phẩm của sông Nile”. Điều đó nói lên rằng sông đã và đang
giữ vai trò tối
cao quan trọng trong sinh hoạt của Ai Cập về sự phát triển kinh tế, xã hội,
văn hóa và lịch
sử.
Địa Trung Hải, đã
tạo ra nơi sản sinh một trong những nền văn minh sớm nhất thế giới,
nó cắt đất nước
từ Nam đến Bắc. Từ Sudan
đến Cairo sông
chảy trong thung lũng hẹp
khoét sâu trong đá. Hồ chứa Naser xuất hiện sau khi hoàn
thành công trình đập Asuan
trên sông Nile (1960 –
1970), là một trong những thủy vực nhân tạo lớn nhất thế giới. Về
phía bắc Cairo là châu thổ
sông Nile mênh mông hình chiếc quạt, lấn sâu
vào Địa Trung
Hải đến 250km. Phần lớn dân cư, các thành phố lớn và những
vùng đất phì nhiêu nhất
đều nằm ở châu thổ sông Nile .
Hàng năm từ tháng 6 đến tháng 10, nước sông Nile dâng cao gây nên những trận
lụt lớn. Sang tháng 11, nước sông rút đi, để lại một lớp phù
sa màu mỡ dày đặc, rất thích
hợp cho việc gieo trồng các loại ngũ cốc. Vì vậy, dân cư
sống từ thời viễn cổ ở hai bên bờ
sông Nile đã biết nghề nông
rất sớm. Ở những dãy núi phía đông và phía tây dọc thung
lũng sông Nile , có rất
nhiều loại đá khác nhau: đá vôi, đá huyền vũ, đá hoa cương, đá vân
mẫu. Đây là những vật liệu kiến trúc quan trọng nhất của
người Ai Cập thời cổ đại.
Do điều kiện tự nhiên về đặc điểm địa hình, khí hậu mà sinh
vật ở đất nước này
cũng không phân bố rộng khắp mà tập trung hầu hết là ở hạ
lưu sông Nile . Nó giống như
hình tam giác dài 700km, hai bên bờ sông rộng từ 10 dến 50
km tạo thành một vùng sinh
thái ngập nước và bán ngập nước - một đồng bằng phì nhiêu
với động thực vật đa dạng
và đông đúc. Hàng năm từ tháng 6 đến tháng 9, nước lũ sông Nile dâng lên làm tràn ngập
cả khu đồng bằng rộng lớn và bồi đắp một lượng phù sa khổng
lồ, màu mỡ. Các loại
thực vật chủ yếu như: đại mạch, tiểu mạch, chà là, sen,…
sinh sôi nảy nở quanh năm. Ai
Cập cũng có một quần thể động vật đa dạng và phong phú, mang
đặc điểm đồng bằng-
sa mạc như voi, hươu cao cổ, sư tử, lạc đà, trâu, bò, cá
sấu, các loài cá, chim,…Tuy có
rất nhiều yếu tố bất lợi, thậm chí thiên nhiên quá khắc
nghiệt nhưng sinh vật của Ai Cập
vẫn sống mạnh mẽ, tốt tươi. Tạo nên một nét đặc trưng nổi
bật thu hút du khách nhiều
phương đến đây với sự hiếu kỳ và lạ lẫm mà chỉ có vùng đất
này mang lại.
2.2. TÀI NGUYÊN NHÂN VĂN
2.2.1 HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ
2.2.1.1Di tích văn hóa nghệ thuật:
Ngôi đền của thần Horus ở Edfu (còn được gọi là Đền Edfu) được coi là đền thờ giáo
phái bảo tồn tốt nhất ở Ai Cập, được xây dựng trong thời đại Ptolemaic 237-257
TCN. Nó phản ánh chính xác kiến trúc truyền thống pharaonic và mang lại nhiều ý
tưởng tuyệt vời cho tất cả các ngôi đền khác
Đền
Luxor: là quần thể kiến trúc đền lớn nhất Ai Cập cổ, với cửa lớn
hùng vĩ, vô số cột đá, tượng khắc đá và tháp nhọn vuông, được xây dựng bởi
Pharaoh Amenhotep III, nơi Pharaon (nữ) Hatshepsut thờ thần Amun.
Đền Karnak : là nơi lớn nhất cho
sự sùng đạo của người dân Ai Cập. Nó có một đài tưởng niệm để chỉ về mỗi thần
trong các tôn giáo Theban. Nó là một phức hợp lớn gồm ba ngôi đền và nổi tiếng
nhất trong số đó là đền thờ Amun.
Kim tự tháp: khu lăng mộ Giza là một trong những công trình cổ nhất và duy nhất còn
tồn tại trong số Bảy kỳ quan thế giới. Kim tự tháp 4.000 năm tuổi này là niềm
tự hào của đất nước Ai Cập .Bức tượng nhân sư Sphinx là công trình nổi tiếng ở
Ai Cập .Tượng mang hình quái vật có đầu người, mình sư tử và những chân vuốt
xòe ra phía trước, thể hiện sự bảo vệ đối với ba kim tự tháp lớn ở Giza.
2.2.1.2Di tích lịch sử cách mạng:
Pháo đài Quatbay: nằm ở
thành phố Alexandria có lịch sử từ thế kỷ XV và
là một công trình tuyệt đẹp nằm bên bờ sông Nile
2.2.1.3 Di tích khảo cổ:
Thành
phố Thebes là một trung tâm khảo cổ với những di tích nổi tiếng như Thung lũng các vị vua, đền Karnak, đền Luxor... cũng như các lăng mộ của các vị Pharaông
Thung
lũng cá voi (Wandi Al-Hitan)
Abu Simbel: là một một khu khảo
cổ bao gồm hai ngôi đền lớn tạc từ đá nằm tại phia Nam ai cập, về phia Tây hồ Nasser và khoảng 290 km phia Tây Nam
của Aswan .
2.2.1.4 Di tích danh thắng:
Kênh đào Suez :là kênh giao thông nhân tạo chạy
từ phía Bắc tới phía Nam đi ngang qua eo Suez tại phía Đông Bắc Ai Cập, nó nối Địa Trung Hải với Vịnh Suez, một nhánh của Biển Đỏ .
2.2.2: LỄ HỘI
2.2.2.1 Lễ hội Moulid:
Moulid có nghĩa là “Sự chào đời”. Lễ hội Moulid tổ chức ở Tanta , vùng châu thổ
sông Nil, để tưởng nhớ Ahmed el-Bedawi, vị thánh đạo Sufi
thế kỷ XIII. Đạo Sufi là một
nhánh đạo giáo thần bí của Hồi giáo. Có rất nhiều loại hình
lễ hội Moulid được tổ chức
ở Ai Cập hàng năm. Một phần hành hương, một phần vũ hội, một
phần nghi thức thần bí
Hồi giáo. Moulid là lễ hội ngày càng thu hút sự chú ý của
chính quyền Ai Cập.
2.2.2.2 Lễ hội Leylet en Nuktah (lễ hội sông Nil):
Hàng năm, cứ mỗi độ nước lên, người dân Ai Cập sống tại đôi
bờ sông Nil lại tổ
chức lễ hội Leylet en Nuktah để chào mừng lũ về. Đây một
trong những lễ hội quan trọng
nhất của người dân Ai Cập để tạ ơn những gì sông Nile mang lại cho họ.
2.2.2.3 Lễ Ramadam:
Là một trong những quốc gia theo đạo hồi, người Ai Cập cũng
tổ chức lễ
Ramandan vào cuối năm .Tháng Ramadan của người Hồi giáo là
tên gọi tháng thứ 9
theo âm lịch Ả Rập. Trong suốt một tháng lễ này, tất cả các
tín đồ đạo Hồi đều thực hiện
nghiêm túc quy định: không ăn, không uống, không hút
thuốc... (kể cả không sinh hoạt
tình dục). Tuy nhiên, những quy định này chỉ áp dụng vào ban
ngày, cụ thể là từ lúc mặt
trời mọc đến khi mặt trời lặn. Sau khi mặt trời lặn, mọi
người mới bắt đầu ăn uống.
Ý nghĩa: có sự thông cảm với những người nghèo đói, những
đồng đạo còn chưa
đủ ăn, đủ mặc. Bên cạnh đó, hành động này nhằm luyện cho con
người một sự tiết chế,
chống những cám dỗ vật chất, để tạo thuận lợi cho việc sau
này lên thiên đàng.
2.2.3 CÁC YẾU TỐ GẮN VỚI DÂN TỘC HỌC:
Đa dạng màu sắc và trang trí rất cầu kì với nhiều đồ trang
sức quý giá như vàng,
ngọc trai…người Ai Cập rất thích trang điểm, kể cả đàn ông. Mắt là nơi trang điểm cầu kì
và là nét đặc
trưng nhất của họ.
Các loại quần áo
của người Ai Cập được làm từ vải lanh. Vải lanh được làm từ cây
lanh - một loại
cây được trồng dọc theo sông Nile.
Đàn ông: thường
để trần phần trên, phần dưới quấn quanh thân một miếng vải lanh
hoặc da thú, có
đính lại ở phần ngang hông hay vùng thắt lưng. Trang phục này được gọi
là skhen-ti. Để
thể hiện đẳng cấp xã hội hay giai cấp, đàn ông quý tộc thường thắt thêm
một miếng vải màu
khác để tạo thành xếp nếp.
Phụ nữ: mặc váy
bó sát mang tên fulias, với hai phần váy và gilê được may bằng
vải lanh. Váy là
phần vải được quấn quanh cơ thể từ ngực tới chân.
Nghệ thuật kiến
trúc đạt đến trình độ cao. Kiến trúc Ai Cập cổ đại chủ yếu là các
đền đài tôn giáo
với các cấu trúc khổng lồ và sự thần bí của không gian, được xác định
bởi các bờ tường
dày và dốc với ít lỗ mở. Đây có thể là ảnh hưởng từ phương pháp xây
dựng cũ để tạo độ
ổn định của tường bằng bùn. Tương tự như vậy, các vệt khắc chạm
trên bề mặt và
các chi tiết trang trí bề mặt tường công trình bằng đá có thể xuất phát từ
cách trang trí
cho tường bùn đất.
Đặc trưng kiến
trúc Ai Cập cổ thể hiện sự khan hiếm vật liệu gỗ, nên người Ai
Cập cổ sử dụng
vật liệu trong xây dựng chủ yếu là gạch chưa nung, đá các loại. Trong
suốt các triều
đại Ai Cập cổ, vật liệu đá được dùng hầu hết cho các công trình như lăng
mộ và đền đài.
Đôi khi, các vật liệu gạch có được dùng trong các công việc xây dựng lâu
đài của các vua,
pháo đài và một số công trình dân dụng khác như tường bao quanh lâu
đài, đền đài và
đô thị và các công trình phụ trợ ít quan trọng trong các đền đài.
Nằm giữa châu Phi
và châu Á, ẩm thực Ai Cập đã tiếp nhận những gì độc đáo nhất
của các quốc gia trong khu vực này. Đó là sự giao thoa giữa
nhiều món đặc sản vùng Địa
Trung Hải. Một nửa các món ăn Ai Cập có nguồn gốc từ Thổ Nhĩ
Kỳ. Bên cạnh dó ẩm
thực Ai Cập còn chịu ảnh hưởng từ Li-băng , Iran ,
Hy Lạp và cả Anh Quốc.
Các món ăn nổi tiếng:
Món ăn truyền thống của người Ai Cập trong ngày tết là cá,
tỏi,rau sống và trứng
Foul là món ăn cơ bản nhất của người Ai Cập, gồm bánh mỳ ăn
với đậu hầm.
Người Ai Cập thường thích ăn thịt nướng và thịt băm, nhất là
thịt gà và cừu.
Món Shishkebab (thịt ướp gia vị xiên que)
Món kushari, gồm mỳ, gạo, đậu lăng, hành phi và sốt cà chua.
Molokhiyya là món ăn từ lá molokhiyya, nấu cùng với nước hầm
từ gia cầm và
Trái cây tươi quả vả, quả chà là, dưa hấu..., mùa nào thức
nấy.
Món tráng miệng thường được ướp hương nước hoa hồng và rắc
hạt đào lạc
Món Om'ali hỗn hợp gồm bột cán mỏng nhúng trong sữa, trộn
cùi dừa và hạt đào
lạc. Đây là món bánh ngọt được ưa thích nhất.
Baklava là tên các loại bánh ngọt nướng cùng quả óc chó và
phủ siro đường.
Trà bạc hà là thức uống mọi lúc mọi nơi của người Ai Cập
Nước trái cây :chuối, xoài, lựu, chanh, ổi, mía...
Họ uống trà và cà phê rất ngọt. Cà phê theo phong cách Thổ
Nhĩ Kỳ uống kèm với
Karkadé : loại nước uống được chế biến từ hoa dâm bụt (giống
như cách pha chè
Bia stella rất phổ biến ở Ai Cập.
Rượu Vin khá ngon nhưng giá cao.
Đa số người Ai Cập theo đạo Hồi. Vì vậy, quan điểm và cách
ăn mặc của người Ai
Cập rất khắt khe, đặc biệt là với phụ nữ.
Theo luật Hồi giáo, người theo đạo Hồi không được ăn thịt
heo và uống rượu.
Trong bữa ăn, việc cho thêm gia vị vào thức ăn là không nên
vì nó đồng nghĩa với việc
Người Ai Cập quan niệm rằng tay trái là tay không sạch sẽ,
vì thế bạn nên sử dụng
tay phải trong mọi trường hợp hoặc ít ra là phải sử dụng cả
hai tay. Bạn không được để
ngón cái chỉ lên trên, cũng không được để lộ bàn chân ra, vì
đó là cử chỉ xúc phạm người
Ở Ai Cập, đám cưới là một công việc mang tính gia đình và là
sự kết hợp của hai cuộc đời, hai gia đình. Trong đám cưới, cô dâu luôn đóng vai
trò đặc biệt và rất được coi
trọng vì cô dâu chính là cây cầu nối giữa tổ tiên với thế hệ
tương lai. Sở dĩ cô dâu được
coi trọng hơn chú rể còn vì rất có thể sau này cô sẽ sinh ra
một đứa trẻ đầy sức mạnh, cây
2.2.4 CÁC GIÁ TRỊ NHÂN VĂN KHÁC:
2.2.4.1 Nghệ thuật ướp xác Ai Cập cổ:
Thuật ướp xác của người Ai Cập ra đời từ năm 2700 TCN và kéo
dài đến tận thế
kỷ thứ V. Quan niệm của người Ai Cập cổ về sự vĩnh hằng ở
thế giới của các thần linh
sau khi chết nên việc ướp xác cũng là đức tin cho sự trường
tồn của vương quốc Ai Cập.
Nguyên tắc ướp xác của Ai Cập cổ đại dựa trên việc làm mất
nước trong cơ thể
người chết và lấy đi các bộ phận dễ phân hủy như nội tạng và
bộ não.
2.2.4.2 Chữ viết Ai Cập cổ:
Các nhà Ai Cập học xếp hệ thống chữ viết của Ai Cập cổ vào
thể loại chữ tượng
hình là lối viết sớm của hệ thống chữ viết của thế giới.
Những thầy tu thảo ra những chữ
tượng hình Ai Cập cổ từ triều đại đầu tiên (2925 - 2775
TCN).
Ngày nay, các xứ dùng mẫu tự La Tinh, trong đó có Việt Nam , Pháp, Anh;
các xứ
dùng mẫu tự Hi Lạp, trong đó có Nga đều thừa hưởng di sản
của chữ viết Ai Cập.
2.2.4.3 Văn học - nghệ thuật Ai Cập cổ:
Tác phẩm văn học cổ xưa nhất của Ai Cập có lẽ là các tác
phẩm sách giấy papyrus
(chỉ thảo) Ipuwer, có niên đại 1800 TCN,Chuyện của Wenamun
(1000 TCN)
Nghệ thuật hội họa Ai Cập cổ đáng để chúng ta kinh ngạc bởi
những tranh vẽ trên
tường trong các khu hầm mộ của các pharaon, trên các chất
liệu gốm cổ,… Các bức tranh
mô tả cảnh sinh hoạt và sản xuất cũng như tín ngưỡng tập tục
của các cư dân và vua chúa
2.2.4.4 Sự kiện văn hóa,thể thao, festival
Lễ hội Hòa Bình:Ngày 9/4 Đây là lễ hội hoà bình hàng năm do
Hội Liên hiệp
phụ nữ Ai Cập tổ chức dưới sự chủ trì của phu nhân Tổng
thống Ai Cập, bà Suzanne
Mubarak, nhằm tăng cường sự hiểu biết, tình đoàn kết giữa
các nước và nhân dân trên thế
Festival :Festival múa bụng tại Cairo , Ai Cập 2009; Festival khiêu vũ quốc tế
Phần 3: MỘT SỐ ĐIỂM DU LỊCH NỔI TIẾNG
bờ của sông Nile , gần đỉnh
của tam giác châu thổ con song vĩ đại này.
Phía Đông, phía Nam
và phía Tây của Cairo
là sa mạc, phía Bắc là đồng bằng
Thành phố Cairo
là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của Ai Cập, có hơn 400 di
tích lịch sử đã được công nhận, một con số lớn nhất so với
các thành phố khác ở châu Phi
và Trung Đông, trong cả một thời kỳ dài từ năm 130 trước
Công nguyên đến đầu thế kỷ
19.
Đặc biệt, Cairo
còn nổi tiếng với các kim tự tháp, các lăng mộ của các pharaoh
ngày xưa, các pho tượng nhân sư, có niên đại khoảng 2.500
năm trước Công nguyên.
3.1 .1 Kim tự tháp Giza
và tượng nhân sư Sphinx
Kim tự tháp là kỳ quan duy nhất trong 7 kỳ quan kiến trúc
thời cổ đại còn tồn tại
đến ngày nay và được lưu danh là 7 kỳ quan thế giới mới năm
2008. Kim tự tháp được
xem là biểu tượng tiêu biểu cho đất nước Ai Cập, cách trung
tâm thủ đô Cairo
khoảng 15
km về phía Tây Nam . Với hơn 80 kim tự tháp lớn bé
được xây dựng chủ yếu giữa những
năm 2600 trước Công nguyên và 1500 trước Công nguyên và hầu
như đều nằm gần con
sông Nile huyền thoại.
Những kim tự tháp này chỉ dành cho hoàng tộc, sau khi chết
xác họ được ướp
bằng kĩ thuật thủ công và được an táng trong tháp với rất
nhiều đồ dùng cá nhân sang
trọng khác. Bên trong Kim tự tháp luôn đặt các cơ quan và
cạm bẫy nhằm ngăn ngừa bọn
trộm mộ cũng như những lời nguyền kẻ nào dám đánh thức những
Pharaon vĩ đại.
Các kim tự tháp nổi tiếng nhất là Kim tự tháp Giza và tượng Nhân sư: Ước
tính
từ 20.000 đến 30.000 lao động được điều phối để xây dựng các
kim tự tháp tại Giza
với
khoảng thời gian là hơn 80 năm.
Kim tự tháp Kheops hay kim tự tháp Kê ốp, kim tự tháp Khufu
hoặc Đại kim tự tháp
tồn tại trong số Bảy kỳ quan thế giới cổ đại. Mặc dù đã bị
mất đi rất nhiều lớp vỏ bọc
bằng đá vôi trắng, cùng các đền thờ bao quanh đã bị đổ nát,
nhưng chính kích thước của
những công trình hùng vĩ này vẫn khiến du khách phải sửng
sốt. Công trình vươn lên
như một trong số những thành tựu đáng ngạc nhiên nhất trong
lịch sử, nhưng thậm chí
ngay cả hiện nay các phương pháp được những thợ xây cổ đại
áp dụng vẫn còn là vấn đề
nhiều tranh cãi. Thực tế có hơn 80 Kim tự tháp ở Ai Cập,
được xây dựng trong khoảng
thời gian hơn 100 năm, nhưng các Kim tự tháp ở Giza là lớn nhất và được
bảo quản tốt
nhất nhờ vào tính chắc chắn của công trình. Kim tự tháp Giza do ba vị vua thuộc
vương
triều thứ tư xây dựng: Khufu (còn gọi là Cheops), Khafre
(Chephren) và Menkaure
(Mycerinus). Kim tự tháp Khufu (khoảng 2551-228 tr.CN) lớn
nhất và còn được gọi là
Kim tự tháp lớn. Với hơn 4.000 năm tuổi, đây là công trình
được xây dựng cao nhất trên
thế giới.
Ý nghĩa: Các kim tự tháp Ai Cập thuộc Cổ hay Trung vương
triều đều là thượng
tầng kiến trúc của các lăng mộ hoàng gia. Sự chắc chắn và đồ
sộ của công trình nhằm
mục đích bảo vệ thi hài của nhà vua, nhưng việc chọn lựa
hình dáng kim tự tháp phải có
sự nghiên cứu biểu tượng đáng kể. Kim tự tháp nhằm mục đích
giúp nhà vua thăng thiên,
hình dáng thường được giải thích như một đoạn đường
dốc hướng lên bầu trời. Kim tự
tháp cũng liên kết với các gò đất nguyên thủy hình thành do
sự xáo trộn các khối nước
vào thời điểm xây dựng. Ngoài ra, hình dáng kim tự tháp có
thể là biểu tượng mặt trời,
tượng trưng cho các tia nắng mặt trời chiếu chếch ở dạng rắn
nổi lên, đôi khi nhìn thấy tia
nắng chiếu xuyên qua mây. Dù sự giải thích hình dáng như thế
nào, điều rõ ràng là người
Ai Cập đã cố gắng xây dựng công trình cao nhất có thể, một
khối lượng lớn gồm công
trình bằng đá xây dựng theo hình kim tự tháp có lẽ là phương
pháp thành công nhất để
đạt đến ước vọng này.
Đại nhân sư Sphinx của Gizah, bức tượng khổng lồ nửa người
nửa sư tử nằm bên
bờ tây sông Nile, gần thủ đô Cairo . Đây là một trong những bức tượng có
kích thước
lớn nhất thế giới, được người Ai Cập cổ tạo dựng từ Thiên
niên kỷ thứ 3 TCN. Tượng
Sphinx nằm ở sa mạc Ai Cập cách thủ đô Cairo khoảng 8 dặm, được người xưa dùng để
canh gác ba kim tự tháp lớn ở Gizah. Đó là một quái vật tạc
bằng đá, đầu người mình sư
tử với những chân có vuốt trải ra phía trước.
Hình tượng chạm trổ sơ sài nhưng đầu lại được tạc một cách
rất công phu. Đôi mắt
đầy vẻ bí hiểm và có cái nhìn không ai có thể giải thích
nổi. Tượng cao hơn 18 mét và
trải dài tới 57 mét, mặt có bề ngang 5 mét, tại 1,57 mét,
mũi 1,7mét. Người ta cho rằng
tượng Sphinx đã tồn tại ít nhất 5.000 năm nay! Giữa những
cái chân của hình tượng này
tìm thấy một cái am thờ nhỏ. Am thờ nhỏ này có bút tích của
hai vị hoàng đế cổ Ai Cập.
Hai vị giải thích rằng tượng Sphinx biểu thị một trong những
hình dạng của thần Mặt
trời Harmachis. Và hai vị còn nói rằng, mục đích làm tượng
Sphinx là để xua đuổi tất cả
những điểu bạo ác, tội lỗi khỏi khu nghĩa địa quanh Kim tự
tháp.
Trong các sách thánh của người Ai Cập, Sphinx có nghĩa là
“vua chúa”. Đối với
các tôn giáo nguyên thủy ở Ai Cập cũng như ở các nơi khác,
nhà vua được coi là sức
mạnh và sự khôn ngoan của nhiều con thú bằng cách khoác vào
lốt ngoài của chúng. Vì
vậy người Ai Cập đã chạm các vị thần và các vị hoàng đế của
họ nửa người nửa thú.
3.1.2 Viện bảo tàng Ai Cập cổ đại
Khi đến Ai Cập ngoài việc chiêm ngưỡng các kim tự tháp đồ sộ
thì Bảo tàng Ai
Cập tại Cairo
chính là điểm đến mà du khách không thể bỏ qua.
Bảo tàng Ai Cập tọa lạc tại quảng trường Tahrir của thủ đô Cairo . Được thành lập
năm 1902 và tồn tại cho đến ngày nay. Tòa nhà nổi bật tại
thủ đô với màu đỏ rực rỡ này
là nơi lưu trữ rất nhiều phần quan trọng của lịch sử Ai Cập
cổ đại, là nơi chứa bộ sưu tập
đồ cổ Pharaohic lớn nhất thế giới và kho báu của vị Pharaoh
nổi tiếng Tutankhamun.
Bảo tàng có hai tầng chính. Tầng trệt là nơi lưu giữ các
hiện vật phổ biến của Ai
Cập cổ đại như giấy cói, có những mảnh giấy có niên đại
khoảng 2000 năm, tiền xu với
nhiều giá trị khác nhau, bên cạnh đó là các bức tượng, bảng
biểu và các quan tài.
Tầng trên là nơi gìn giữ những hiện vật từ hai triều đại
cuối cùng của Ai Cập cổ
đại, đặc biệt là nơi trưng bày hiện vật của vua Tutankhamun
(cai trị từ năm 1350 - 1340
trước công nguyên) nổi tiếng và quan tài của ngài, có thể
nói ngôi mộ của vị Pharaoh này
được tìm thấy gần như nguyên vẹn, quan trọng nhất có lẽ là
mặt nạ xác ướp bằng vàng
bên ngoài của Tutankhamun. Ngoài ra còn vô số các hiện vật
từ các vị Pharaoh được tìm
thấy trong thung lũng các vị vua và nhiều bức tượng có giá
trị khác.
Từ thủ đô Cairo ,
chúng ta có thể bắt chuyến bay đi Aswan một cách thuận tiện.
bên bờ sông Nile, và là một trung tâm bận rộn ở phía Nam
này. Tới Aswan quí khách
sẽ có dịp tận hưởng cảm giác du thuyền trên sông Nile để tới tham quan Đập nước High
Dam, đập nước này khiến sông Nile
lần đầu tiên trong lịch sử Ai Cập hoàn toàn nằm dưới
sự khống chế của loài người. Tiếp đến sẽ xuôi thuyền đến
Edfu tham quan đền Horus -
ngôi đền thuộc triều đại Ptolemy này là một trong những ngôi
đền được bảo tồn nguyên
vẹn nhất ở Ai Cập.
3.2.1 Đập nước High Dam
Công trình to lớn này bắt đầu từ 1760, thời tổng thống Nasser . Đập nước có độ
cao 111 m, khẩu độ 3,6 kilomet, vùng đáy độ dày 975 m, thành
hình thang hướng lên
phía trên, vùng nóc độ rộng 40 m. Đá, cát, xi măng và vật
liệu kiến trúc khác hao tốn để
xây đập nhiều tới mức đủ để xây dựng 17 kim tự tháp. Đập tạo
nên một kho nước lớn, hồ
nam, đi qua Nubia ,
vào Sudan ,
với chiều dài 510 km.
Thị trấn Edfu nằm giữa Luxor
(115km), Aswan
(105km) và 65km về hướng
Bắc Kom Ombo. Ngôi đền thần Horus ở Edfu được xây dựng trong
thời kỳ Ptolemiac.
Phần lâu đời nhất của ngôi đền là phần Festival Hall đến
Sanctuary được khởi công bởi
Ptolemy III năm 237 trước Công nguyên và được hoàn thành bởi
con trai ông, Ptolemy
IV Philopator. Hội trường Hypostyle đã được xây dựng thêm
bởi Ptolemy VII (145-116
BC) và tháp được xây dựng bởi Ptolemy IX (88-81 trước Công
nguyên). Phần cuối cùng
của ngôi đền đã được xây vào thời Ptolemy XII, năm 57 trước
Công nguyên.
Đền Edfu là ngôi đền lớn thứ hai ở Ai Cập, sau đền Karnak .
1.3 Aswan – Luxor
Tiếp tục trên chiếc du thuyền, quí khách sẽ đến với quần thể
các đền Luxor ,
đền
đình viện, đại điện, rất nhiều cột đá, tượng khắc đá và tháp
nhọn vuông. Với lối kiến trúc
phức tạp và sở hữu nhiều tượng đá khổng lồ, khiến cho nhiều
người phải kinh ngạc.
Cửa ngoài cùng của đền chính cao 43,6m, rộng 113m, vách
tường dày 15m, sau
cửa là hành lang với cột vây quanh, có thể thông đến những
đền nhỏ hơn.
Cho đến nay, thì ngôi đền Karnak
vẫn được coi là ngôi đền tôn giáo cổ xưa lớn
nhất thế giới. Bởi ngôi đền được nhiều Pharaon chú trọng vào
việc tu bổ, sửa sang và thờ
cúng riêng cho các vị thần Amun-Ra (thần Mặt Trời), Montu
(thần chiến tranh) và Mut
(vợ thần Mặt trời). Mỗi vị Pharaon dường như luôn cố ganh
đua nhau để thể cố chứng tỏ
sự tôn sùng của bản thân với các vị thần tối cao đồng thời
cũng để lấy lòng các quan tư
tế.
Đền Luxor nằm sát cạnh đền
Karnak, ngay trong thành phố Luxor .
Trước ngôi
đền là ngọn tháp cao vút được xây dựng bởi Ramesses II. Ngọn
tháp trang trí cảnh những
chiến thắng của Ramesses (đặc biệt là trận đánh ở Kadesh),
các Pharaon sau này, nhất là
triều đại Nubian 25, cũng ghi những chiến thắng của họ ở đó.
Lối vào chính dẫn tới khu phức hợp của ngôi đền trước đây
được trang trí hai bên
bởi sáu pho tượng khổng lồ của Ramesses - bốn tượng ngồi và
hai tượng đứng nhưng
ngày nay chỉ còn tồn tại hai tượng ngồi. Những người đến
thăm đền ngày nay có thể nhìn
thấy trước ngôi đền một ngọn tháp bằng đá hoa cương cao 25m.
Trước đây là cả một cặp
nhưng hiện nay chỉ còn một cây. Cây còn lại đang nằm ở Place de la Concorde,
Paris.
Trước khi được
tìm ra và khai quật, ngôi đền này bị lấp hết hơn một nửa (giống
như hầu hết các
di tích Ai Cập cổ khác) dưới cát sa mạc. Vào thế kỷ 19, một ngôi đền
Hồi giáo được xây
ngay phía trên ngôi đền này và nó vẫn còn sử dụng cho tới ngày nay.
Năm 1885, để
"moi" ngôi đền này lên, các nhà khảo cổ đã phải đào cả 1 ngôi làng.
Sau chặng đường
tham quan khám phá trên sông Nile, đến đây đoàn sẽ lên bờ
thăm quan thành
phố Luxor, Thung lũng các vị vua, và bắt chuyến bay về lại Cairo tham
quan thủ đô, mua
sắm đồ cổ, quà lưu niệm.
1.4.1 Luxor – “cố
đô yên bình”
Luxor thuộc miền
Trung Ai Cập, nằm bên bờ sông Nile. Đã có thời Louxor là kinh
đô Ai Cập. Trái
ngược với Cairo luôn ồn ào hối hả, Luxor đón du khách bằng phong cảnh
làng quê thật yên
bình. Dòng sông Nile chia Luxor thành hai phần, bờ Đông là "thành
phố của người
sống", nơi người dân Ai Cập cổ sinh sống, còn bờ Tây là "thành phố
của
người chết",
nơi các pharaoh yên nghỉ ngàn thu trong những hầm mộ được đúc sâu vào
lòng núi đá.
Luxor Là địa danh
đầu tiên được UNESCO công nhận di sản thế giới (năm 1979),
Louxor chiếm 1/3
di tích thế giới. Được xây dựng trên nền kinh thành cổ Thebes, Luxor
có vô vàn những
di chỉ khảo cổ và công trình kiến trúc vô giá.
1.4.2 Thung lũng
của các vị vua
Kim tự tháp Gizah
và đồng bằng sông Nile là sự lựa chọn tuyệt vời để đặt các lăng
mộ của Pharaoh Ai
Cập cổ đại. Tuy nhiên, có một địa điểm khác nằm bên bờ Tây sông
Nile, trên các
ngọn đồi cằn cỗi thuộc bờ Tây Luxor, được gọi là Thung lũng các vị vua -
nơi các Pharaoh của thời kì New Kingdom
chọn làm nơi an nghỉ.
Đây là một bãi sa mạc rộng mêng mông nằm dưới chân dãy núi Libya
đổ ra hướng
thung lũng sông Nile . Các
vua Pharaon chọn nơi đây làm nơi yên nghỉ của mình. Có
khoảng 63 vị vua thuộc triều đại thứ XVIII — XIX — XX (niên
đại khoảng từ 1539 —
1075 trước CN) được chôn cất ở đây. Các ngôi mộ được xây
chìm dưới lòng đất. Lối vào
là các cửa hầm nhỏ. Ngày nay, thung lũng các vị vua mở cửa
hạn chế với du khách vì lý
do bảo tồn. Cũng có thể do người Ai Cập không muốn du khách
khuấy động vùng đất
thiêng của họ.
3.4.3 Mua sắm đồ cổ ở Cairo
Trong tất cả những điểm đến quan trọng tại đất nước cổ đại
này không thể không nhắc
đến những ngôi chợ cổ, nơi thể hiện rõ nhất những nét văn
hóa đặc trưng địa phương.
Tại thủ đô Cairo ,
có rất nhiều chợ Bazzar, nhưng nổi tiếng nhất có lẽ là Khan-El-
Khalili Bazzar. Đây không chỉ là ngôi chợ cổ lớn nhất Ai Cập
mà quy mô của nó cũng
đứng đầu vùng Ả Rập. Được thành lập từ năm 1382, ban đầu chỉ
là một nhà kho lớn
nhưng dần dần Khan-El-Khalili Bazzar phát triển thành khu
chợ lớn và hoành tráng như
hiện nay. Không giống như những ngôi chợ Việt Nam ,
Khan-El-Khalili Bazzar bao gồm
nhiều dãy phố nằm chen chúc nhau với đấy ắp các cửa hàng và
nổi tiếng với những món
đồ cổ độc nhất vô nhị, đồ thủ công mỹ nghệ được chế tác bằng
chính đôi tay tài hoa của
những người thợ lành nghề nơi đây. Ngoài ra, bạn cũng có thể
tìm cho mình những đồ vật
khác ở đây như thảm len, hương liệu, đồ da cùng muôn vàn mặt
hàng khác và tất nhiên là
không thể thiếu những cửa hàng sang trọng bán vàng, đồ trang
sức.
Tham quan Khan-El-Khalili Bazzar không chỉ là dịp để bạn tìm
kiếm và mua sắm đồ
cổ mà còn là dịp hòa mình vào không khí tưng bừng với người
mua kẻ bán để rồi bạn
phải thán phục cách bố trí mê cung nhưng đầy khoa học của
người Trung cổ mà Khan-El-
Khalili Bazzar vẫn còn lưu giữ đến ngày nay.
1.5 Sa mạc Sahara
Sa mạc Sahara lớn nhất thế
giới nằm ở Bắc Phi, có vẻ đẹp riêng, rất tuyệt vời,
độc đáo. Một bảo tàng thiên nhiên và nghệ thuật điêu khắc đá
đồ sộ của loài người thời
tiền sử nằm rải rác trên các vùng của sa mạc luôn là điểm
hấp dẫn du khách. Đến đây,
du khách có thể đi bộ để khám phá thế giới không có cây cối;
du khách cũng có thể trùm
khăn cưỡi lạc đà trên sa mạc, vượt qua luồng xoáy cát hay
những cồn cát mênh mông
hàng ngàn dặm để khám phá những điều kỳ diệu và huyền bí…
Khởi hành từ sáng sớm, trời mát, du khách có thể vừa đi bộ
trên cát vừa nhìn
ngắm sa mạc bao la, nhấp nhô từng đụn cát vàng như sóng biển
lớn. Đừng nghĩ sa mạc
chỉ có cát, gió và nắng.
Do dưới đất có nước nên hình thành những ốc đảo, như ốc đảo
Siwa của Ai Cập,
ốc đảo Ainsala Gio-uốt của Angiêri... với những suối nước
chảy róc rách, những hàng
cây chà là cao vút cung cấp nguồn thực phẩm chủ yếu cho cư
dân.
Ốc đảo là trung tâm của các hoạt động kinh tế trong sa mạc.
Du khách có thể dừng
chân, mua sắm một ít kỷ vật sa mạc, thường là các đồ đá khắc
chạm, vòng tay, vòng cổ…
rất tinh xảo. Có một thứ trà đặc biệt của vùng sa mạc. Đang
trong cơn nắng nóng, chỉ
uống một vài ngụm nhỏ thôi đã thấy mát rượi cả người.
Ở sa mạc, ban ngày mặt trời đỏ rực như thiêu như đốt. Nếu để
một quả trứng trên
cát, chẳng mấy chốc nó sẽ chín ngay. Nhưng đến đêm gió lạnh
cắt da cắt thịt. Nếu ở lại
đêm trên sa mạc, du khách phải đốt lửa và chui vào bao ngủ
đặc biệt, vì ban đêm cực kỳ
lạnh. Ban ngày nóng bao nhiêu thì ban đêm lạnh bấy nhiêu. Sự
chênh lệch nhiệt độ giữa
ngày và đêm là 15-35 độ C, cao nhất có thể lên đến 38,2 độ
C. Đêm trên sa mạc, ngồi
quây quần bên ngọn lửa vừa uống trà, vừa nhìn trời sao, nghe
những âm vang đặc thù của
sa mạc… thì không thể nói là du lịch sa mạc không lý thú.
Phần 4: MỘT SỐ LƯU Ý
4.1 Thủ tục xuất nhập cảnh
Hầu hết người nước ngoài vào Ai Cập đều cần có thị thực,
ngoại trừ công dân
của Guine, Hồng
Kông và Ma Cao. Để xuất nhập cảnh Ai Cập có ba cách là: đến Đại Sứ
Quán Ai Cập; đến
Đại Sứ Quán hoặc lãnh sự quán của nước mình ở Ai Cập; và đến thẳng
sân bay Quốc Tế ở
Ai Cập. Theo đó, cách thứ ba là đơn giản và tiết kiệm hơn cả.
Một thị thực nhập
cảnh có giá trị là ba tháng, và có quyền du lịch trên đất Ai Cập
một tháng.
4.2 Phong tục,
tâm lý giao tiếp
Ai Cập cũng có
những người theo đạo Thiên chúa giáo, nhưng đại bộ phận người
Ai Cập đều theo
đại Hồi giáo cũng giống như các nước thuộc giới A-rập khác. Chính vì
theo đạo Hồi giáo
nên việc ăn mặc của người Ai Cập rất khắt khe, đặc biệt là với phụ nữ.
Họ phải mặc trang
phục che kín toàn thân (dù thời tiết nóng). Bởi vậy, khi giao dịch với
các đối tác Ai
Cập bạn phải nhớ ăn mặc sao cho thật kín đáo, giản dị.
Cả nam giới và nữ
giới đều phải thận trọng trong ăn mặc nhưng phù hợp hơn cả
vẫn là bộ comple
hay những bộ quần áo giao dịch lịch thiệp như áo sơ mi hay bộ vét nhẹ
nhàng, cũng cần
hết sức hạn chế mặc áo cộc tay. Phụ nữ cần mặc những trang phục hết
sức kín đáo và
đơn giản, không được mặc váy ngắn.
Có một điều cần
lưu ý rằng, nhiều người cho rằng để tỏ lòng kính trọng và sùng ái
đất nước và phong
tục tập quán của nước đối tác, họ muốn được ăn mặc trang phục giống
như trang phục
của người bản xứ, nhất là các bộ trang phục truyền thống ; tuy nhiên ở Ai
Cập cũng như các
nước Hồi giáo khác thì việc bạn mặc trang phục truyền thống giống họ
là một điều cấm
kỵ.
4.2.2 Về cử chỉ
giao tiếp, chào hỏi
Trong giao tiếp,
người A-rập Ai Cập lại có thói quen gặp gỡ trực tiếp, giáp mặt
và đứng/ngồi gần
nhau để trao đổi, nói chuyện. Ai Cập là quốc gia an toàn và thân thiện
để du lịch. Đàn ông Ai Cập hay khen tặng phụ nữ, đừng quá
phòng thủ họ vì họ chỉ đơn
giản là khen tặng mà thôi..
Người Ai Cập có rất nhiều kiểu chào nhau. Bạn cũng phải quen
với những cử chỉ
tỏ ra rất thân mật của người Ai Cập như vỗ vai hay vỗ lưng,
nắm tay … Điều này không
có gì khác ngoài việc thể hiện bản tính hướng về con người,
cộng đồng của người Ai
Cập. Bởi vậy cách tốt nhất nếu bạn không hiểu rõ họ sẽ làm
thế nào thì nên chờ họ làm
rồi làm theo cách của họ.
Khi chào hỏi, cần hết sức lưu ý trong việc gọi tên của người
Ai Cập. Tên người Ai
Cập được viết bằng tiếng A-rập, không sử dụng hệ chữ latinh
như tiếng Anh nên thường
khó nhớ một cách đầy đủ và chính xác. Cũng có khi cách phát
âm cũng làm bạn hiểu sai
ý nghĩa về tên của họ. Vì vậy, nên chắc chắn về tên riêng
của người Ai Cập khi gọi tên
họ.
Các đối tác kinh doanh ở hầu hết các nước đều muốn được chào
hỏi, được gọi
bằng chức danh của mình, người Ai Cập cũng không phải là một
ngoại lệ. Để tỏ ra lịch
thiệp nhất, bạn nên gọi tên riêng kèm theo chức danh của họ.
Tuy nhiên với người Ai
Cập, họ cũng không quá câu nệ trong vấn đề này. Vì thế với
cùng một người bạn cũng có
thể có những câu xưng hô khác nhau, miễn là cách xưng hô đó
hợp lý vào thời điểm bạn
chào hỏi, xưng hô; điều này sẽ không làm thay đổi cách nhìn
của người Ai Cập về bạn.
Ai Cập là nước thuộc giới A-rập và ngôn ngữ của họ là tiếng
A-rập. Lối nói của họ
có phần chỉn chu, hoa mỹ, họ cũng ít khi muốn làm người nghe
phật lòng vì lối nói của
mình. Khi giao dịch, bạn cần hết sức tránh sử dụng tiếng
lóng và những thành ngữ không
phù hợp với văn hóa nơi đây. Cần chắc chắn là bạn hiểu rõ
những gì mình sẽ nói ra.
Cũng cần chú ý tới cách ghi danh thiếp. Bạn nên ghi danh
thiếp bằng tiếng A-rập,
bên cạnh tiếng Anh thông dụng.
Theo luật Hồi giáo, người theo đạo Hồi sẽ không được ăn thịt
lợn và uống rượu
(tuy nhiên họ vẫn được ăn cá và các loại thịt đã được giết
mổ theo đúng quy trình của đạo
Hồi).
Trong bữa ăn, việc cho thêm gia vị vào thức ăn là một điều
cấm kỵ, nó đồng nghĩa
với việc chê món ăn không ngon.
Việc sử dụng tay trái là điều cấm kỵ vì họ quan niệm rằng
tay trái là tay không
sạch sẽ, vì thế bạn nên sử dụng tay phải trong mọi trường
hợp, hoặc ít ra là phải sử dụng
cả 2 tay.
Bạn không được để ngón cái hướng lên trên, cũng không được
để lộ bàn chân ra,
vì đó là cử chỉ xúc phạm họ.
Vệ sinh ở Ai Cập không mấy đạt tiêu chuẩn, tùy vào từng nơi.
Số du khách bị
nhiễm khuẩn khá cao, nhớ đem theo thuốc trong thời gian du
lịch để phòng ngừa trước.
Thời gian tốt nhất để ghé thăm Ai Cập phụ thuộc vào việc bạn
muốn ghé thăm
điểm nào. Nhìn chung, vào mùa đông (từ tháng 12 đến tháng 2)
là mùa du lịch thuận lợi
nhất trên tất cả các vùng, và mùa hè (từ tháng 6 đến tháng
8) là thời gian khí hậu khắc
nghiệt, nên là mùa du lịch thấp điểm, ngoại trừ các vùng ở
ven biển.
Miền Bắc Cairo lúc nào cũng nóng như lửa từ tháng 6 đến
tháng 8, nhất
là Luxor và Aswan , có khi nhiệt độ lên đến 40 độ. Khi đến
tham quan những nơi
như Luxor ,
mùa đông là thời gian thoải mái nhất. Cairo
không mấy dễ chịu, trời lúc nào
cũng u ám và giá lạnh vào ban đêm, trong khi đó ở bờ biển Alexandria , vùng Địa Trung
Hải thì mưa nhiều, gây lũ lụt, đường phố bị lún. Ngay cả bãi
biển Sinai cũng hơi lạnh nếu
tắm nắng vào tháng 1. Từ tháng 3 đến tháng 5 hay tháng 9 đến
tháng 11 là thời gian tốt
nhất để thụ hưởng ấm áp.
Phần lớn những ngày lễ tôn giáo hay lễ quốc gia của Ai Cập
không làm gián đoạn
kế hoạch du lịch một cách nghiêm trọng. Vào lễ Ramadan của
người Hồi giáo, rất nhiều
quán hàng đóng cửa, các quán bar thì nghỉ hoàn toàn. Nhiều
công ty, văn phòng cũng làm
việc cầm chừng.
2.4 Phương tiện vận chuyển
Có rất nhiều cách để đến Ai Cập, tình trạng liên kết giữa Cairo và các thành phố
Châu Âu khác khá tốt. Nên mua một tour du lịch bao gồm cả
phiếu khách sạn nghỉ ngơi
có thể rẻ và tốt hơn đặt vé máy bay độc lập, nếu chỗ nghỉ
ngơi không như ý muốn, bạn có
thể bỏ phiếu. Chuyến bay từ các nước khác đến Ai Cập khá đắt
tiền nên tốt nhất là đi từ
Châu Âu, vì vé máy bay ở châu Âu đến Ai Cập khá rẻ.
Hãng hàng không quốc gia của Ai Cập là EgyptAir, Air Sinai
cũng kết nối
tốt tại Ai Cập. Phần lớn du khác đến Ai Cập phải đi qua Cairo , dù số người đến
ngày càng có chiều hướng gia tăng. Những sân bay đó có một
số hãng hàng không nhỏ
và các công ty hợp đồng trực tiếp liên kết với châu Âu.
Còn nhiều cách đến Ai Cập từ châu Phi và Trung Đông, kể cả
xe bus từ Israel
thông qua Gulf của Aqaba hay vùng mũi Bắc của dãy Gaza , hoặc phà từ Jordan , Ả Rập
Saudi và Kuwait .
Hệ thống giao thông công cộng và tư nhân ở Ai Cập khá phong
phú. Các hãng
hàng không trong nước bảo đảm bay khá nhanh, mặc dù bạn cần
có nhiều tiền và một ít
thời gian. Những hệ thống giao thông khác như xe bus, tàu
lửa, tàu thủy hay thậm chí là
lạc đà, lừa và ngựa.
Nếu bạn yếu sức khỏe, có thể không thích hợp đi xe bus hay
xe lửa, nhưng đó là
những cách tốt nhất để gặp gỡ người bản xứ, cảm giác được
văn hóa Ai Cập. Dịch vụ xe
bus hầu như có mặt khắp mọi tỉnh thành ở Ai Cập và 5000 km
đường ray xe lửa cũng kết
nối mọi thành phố từ Aswan
đến Alexandria .
2.5 Mua sắm, giá cả
Nếu bạn chuẩn bị ở một khách sạn rẻ hay nhà nghỉ, ăn thức ăn
lề đường thì cần
15USD/ ngày. Chi phí chính cho du khách đến Ai Cập là phí đi
lại và tiền vé vào cửa. Vé
vào Bảo tàng Ai Cập ở Cairo
khoảng 10 USD, kèm theo vé vào Phòng xác ướp Hoàng
gia. Giá rượu cũng khá cao, nhất là rượu tăng lực hay rượu
ngoại nhập.
Phải cảnh giác móc túi ở các địa danh du lịch, đừng bỏ tiền
vào túi sau. Một
số ngân phiếu du lịch nổi tiếng được ưu đãi ở mọi nơi.
American Express, Visa,
MasterCard, JCB hay thẻ châu Âu Eurocards được chấp nhận ở
nhiều cửa hàng và các
khách sạn.
Tại các khách sạn và nhà hàng áp dụng thuế dịch vụ 12%, thuế
mua bán cũng phải
nộp 7%. Thêm vào đó, có thể bạn sẽ phải trả thêm thuế từ 1 –
4% cho các tiện nghi khác,
nên có khả năng bạn sẽ cần phải trả 23% thuế cộng thêm vào
giá cả chính thức nếu bạn
nghỉ ở các khách sạn trung bình đến cao cấp.
Việc mặc cả là một phần cuộc sống tại Ai Cập và hầu như mọi
thứ đều có thể
thương lượng. Từ phòng nghỉ qua đêm, bữa ăn trưa ở quán lề
đường hay thuê tàu đi
trên sông Nile . Có một vài
quy tắc trong việc trả giá mà bạn cần tuân thủ như đừng bao
giờ đưa ra một giá mà bạn không chuẩn bị để trả, trước khi
mặc cả hãy nghĩ đến giá thật
sự, bạn cứ từ từ suy nghĩ, không ai cưỡng ép bạn phải mua
bất cứ thứ gì.
Ai Cập sử dụng đơn vị tiền tệ là Pound.
1 Egyptian pound = 0.179549 đô la Mỹ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
http://kenh14.vn/teeniscover/ghe-tham-karnak-ngoi-den-co-lon-nhat-ai-cap-
2010091110370793.chn
2. LonelyPlanet
3. Diendankienthuc.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét