Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

29 thg 10, 2013

Tùy Đường diễn nghĩa - Chữ Nhân Hoạch Hồi 10,11,12

HỒI 10
Miếu Đông Nhạc anh hùng mắc bệnh,
Trang Nhị Hiền tri kỷ giải lòng.

Thơ rằng: 
Cùng khốn biết lòng trời 
Lòng trời chăm chút người 
Dùi mài mong ngọc sáng 
Tôi luyện đặng vàng mười 
Xương cứng gian nan gánh 
Mưu sâu sóng gió cười 
Bỗng dưng gặp thất ý 
Vạt áo lệ tuôn rơi. 



Người bấy giờ gặp chuyện không vừa lòng, lập tức oán trời trách đất, mà không nghĩ được rằng, trời đất dẫu có làm được gì cũng bởi người mà ra cả vậy. Người dù gặp vận cùng, cũng đừng buông lời oán than vội, trời chẳng bỏ ai đâu. 

Vương Bá Đương, Lý Huyền Thúy, từ biệt Thúc Bảo, vội ra khỏi cửa tây, đến Nhị Hiền trang thì trời đã tối mịt, cửa đã đóng chặt. Nghe tiếng chó sủa rộn rã, Hùng Tín sai người ra cửa, xem ai dám đến náo động trước trang trại. Khi đã nhận rõ khách chẳng ai lạ, Hùng Tín liền cùng Bá Đương, Huyền Thúy bắt tay vào nhà. Sai cởi yên, dắt ngựa vào chuồng cho ăn uống cẩn thận, sắp chỗ nghỉ ngơi cho người nhà đi theo, rồi mới cùng Bá Đương, Huyền Thúy vái chào, mời vào ghế ngồi, sai người nhà pha trà, bày rượu ra. 

Khi đã yên vị, Bá Đương lên tiếng: 
- Nghe nói huynh trưởng vừa mới mua được một con ngựa tốt lắm phải không? 
Hùng Tín đáp: 
- Hôm nay chỉ mất có ba mươi lạng bạc mà mua được thiên lý long câu. 
Bá Đương tiếp: 
- Ngựa thì tiểu đệ biết, rõ là ngựa tốt rồi. Nhưng chuyện người bán con ngựa đó mới là chuyện cần nói. 
Hùng Tín hỏi: 
- Ngựa này là ngựa ăn trộm sao? 
Bá Đương đáp: 
- Chẳng phải ngựa ăn trộm đâu. Nhưng huynh trượng có biết người bán ngựa là ai không? 
Hùng Tín chắc chắn: 
- Người họ Vương ở Sơn Đông. Ta vì đang mừng được ngựa nên cũng không hỏi kỹ. Hai hiền đệ cũng biết chuyện sao, hay có quen người bán ngựa họ Vương chăng?
Bá Đương đáp: 
- Chúng đệ cũng không biết người họ Vương nào. Nói quanh co chẳng bằng nói thẳng vậy. Người bán ngựa chính là Tần Thúc Bảo. Vừa rồi may gặp ở quán ăn cửa tây, Tần đại huynh nói cho nghe hậu tình của nhị ca. 
Hùng Tín ngạc nhiên phàn nàn: 
- Thảo nào thấy khách như có điều gì muốn nói, rồi lại thôi. Thì ra là Thúc Bảo, bây giờ Tần đại huynh đang ở đâu? 
Bá Đương đáp: 
- Hiện đang ở quán trọ của Vương Tiểu Nhị ở trước cổng phủ đường chẳng bao lâu nữa sẽ về Tế Châu. 
Hùng Tín nói: 
- Thôi đêm nay chẳng ngủ ngáy gì nữa nhé. Mượn chén rượu ngồi chờ sáng, rồi sẽ đi tìm Tần đại huynh. 
Bá Đương, Huyền Thúy bằng lòng: 
- Xin theo nhị ca ngay! 

Ba người ngồi uống đến tận canh năm. 
Uống tràn quên sớm tối 
Thức ngủ dạ anh hùng. 


Ngựa thắng yên cương đã xếp đặt đâu đấy, Hùng Tín lại sai dắt thêm một con ngựa, cũng đóng sẵn yên cương theo để Thúc Bảo cưỡi, rồi cả ba lên ngựa vào cửa tây, tìm đến quán trọ Vương Tiểu Nhị, thì Thúc Bảo đã đi khỏi. Tiểu Nhị sợ bạn bè đuổi theo tìm, Thúc Bảo sẽ nói hết những cái xấu của mình, nên không nói Thúc Bảo đi bộ, mà lại nói chắc chắn rằng: 
- Tần quý khách phải về gấp, vì có ngựa của phủ Tế Châu đến đón về có việc cần. 

Nếu có đi ngựa nữa thì chỉ cần Hùng Tín ruổi theo bằng thiên lý long câu cũng sẽ đuổi kịp, nhưng đột nhiên từ Nhị Hiền trang, có người nhà đến tìm Hùng Tín đưa tin dữ: Anh ruột của Hùng Tín, Hùng Trung, vừa ra khỏi Trường An, bị Đường Công Lý Uyên bắn nhầm chết ở giữa đường, thủ hạ mang linh cửu vừa đến trang trại, Hùng Tín vội vàng trở về lo việc tang ma, không còn tâm địa đâu mà nghĩ đến chuyện đuổi theo Thúc Bảo. Bá Đương, Huyền Thúy vì thấy Hùng Tín có chuyện chẳng lành, nên cũng không muốn bàn đến Thúc Bảo nữa. Việc gác lại, ai đi đường ấy. 

*** 

Lại nói Thúc Bảo ra đi đêm hôm ấy, mãi đến sáng rõ, mà cũng chỉ được năm dặm. Phúc không tới hai lần, họa không đến một lượt. Thúc Bảo đã đi thì trăm dặm cũng là chuyện thường, nhưng ngựa đã bán rồi, lâu nay bị Vương Tiểu Nhị hắt hủi, vai khoác hành lý, tay xách giản, thì dù có đi giữa ban ngày cũng còn mệt huống chi lại đi giữa đêm khuya, càng đi càng mỏi và bị lạc vào giữa vùng núi nhấp nhô, cứ thế mà lần mãi mới ra được đường cái quan thì đã sáng rõ. Quay lại nhìn, tường thành Lộ Châu vẫn ở phía sau, chỉ cách khoảng năm dặm. 


Nghèo khó giàu sang số sẵn bày 
Tính theo năm tháng đoán giờ ngày 
Ôm chí lớn, anh đừng khoe chí 
Mong tài cao, chí nhớ cậy tài. 



Thúc Bảo lúc này chính lúc gian nan. Hôm qua, trong cửa hàng uống rượu lạnh, ăn thịt trâu nguội, lại gặp Bá Đương, Huyền Thúy, về quán Tiểu Nhị phải sắm sửa lên đường cho mau, suốt đêm lần mò trong núi, tiết cuối thu sương giá xuống nhiều, nội thương ẩm thực, ngoại cảm hàn khí. Sáng ra, ngày mùng hai tháng mười, thì người đã thấy ngấy sốt, mặt mũi đỏ bừng, trong người như có lửa đốt, đầu váng mắt hoa, chân bước không nổi, nhưng may vốn có sức, nên vẫn cố lê được năm dặm nữa. 

Lúc này cách thành mười dặm, là vùng Thập Lý điếm, có khoảng hai ba trăm nóc nhà, ở ngay đầu đường là một tòa miếu lớn, chính là miếu Đông Nhạc. Thúc Bảo thấy miếu cao rộng hiên ngang, nên ghé vào định nghỉ một chốc cho đỡ mệt lại sẽ đi tiếp. Qua cửa tam quan, vào đến thềm tiền dường, trông lên còn cao như núi, trèo lên đến nơi, giơ tay định vái lạy thần linh, chở che cho tai qua bệnh khỏi thì hai chân đã đứng không vững, ngã lăn ra, bất tỉnh nhân sự, đầu va chạm vào cái bệ cứng kê lò hương ở dưới nền, nghe một tiếng vừa mạnh vừa khô, chẳng khác gì Cung Công va đầu vào núi Bất Chu (1), chùy Bác Lăng đánh vào xe Tần Thủy Hoàng (2), cũng chỉ đến thế mà thôi. Hai thanh giản nặng, đập xuống nền gạch, một sau một trước, làm vỡ đến bảy tám viên gạch. Ông từ giữ cửa miếu thấy vậy, chạy lại đỡ Thúc Bảo lên, nhưng không tài nào đỡ nổi, liền chạy ngay vào Tùng Hạc hiên thưa với đạo sĩ trụ trì.
1 Cung Công, một trong bốn kẽ hung dữ thời Nghiêu Thuấn, Cung Công tranh ngôi vua với Chiêu Húc, không được, giận dữ húc đầu vào núi Bất Chu, cột trời gãy, giềng đất đứt, trời nghiêng vùng tây bắc, đất lệch vùng đông nam (Liệt Tử). 
2 Trương Lương thuê lực sĩ, dùng một chiếc chùy nặng một trăm hai mươi cân, rình đánh Tần Thủy Hoàng ở bãi Bác Lăng, nhưng đánh nhầm vào xe của tùy tùng. Trương phải bỏ trốn (Sử Ký). 

Đạo sĩ trụ trì suốt ngày không lúc nào nhàn rỗi. Đạo sĩ họ Ngụy, tên Trưng, người Khúc Thành thuộc Ngụy Châu, từ nhỏ đã mồ côi nghèo khổ, nhưng chẳng chịu học nghề gì để sinh sống, chỉ thích một việc là đọc sách. Chẳng sách nào là không qua mắt Ngụy Trưng, đừng nói đến tam phần ngũ điển, mà tam giáo cửu lưu, bách gia chư tử thiên văn địa lý, cả Tôn Tử, Ngô Khởi binh pháp đều tinh thông. Lại thông thạo cả thơ từ, ca phú, các tạp kỹ khác. Ngụy Trưng vốn từ lâu nuôi chí lớn, nên tìm cách kết giao với các hào kiệt bốn phương. Đương giữa triều Tùy, chỉ chú trọng.đến dòng dõi, không ai nhìn ngó gì đến kẻ thân cô thế cô lại nghèo đói. Từ khanh tướng điều khiển triều đình, đến những viên thủ lệnh đều rặt phường võ quan, vì triều đình chỉ chú trọng sức mạnh, chẳng nhìn ngó gì đến văn chương, nên Ngụy Trưng cho mình sinh ra không gặp thời, bỏ đi ẩn cư ở Hoa Sơn, khoác áo đạo sĩ. Về sau gặp một đạo hữu, họ Từ, tên Hồng Khách, rất tâm đầu ý hợp. Có lần Hồng Khách bàn với Ngụy Trưng: 
- Nhà Tùy làm nhiều điều càn rỡ, liên tiếp đánh dẹp, nay lại nhất thống được thiên hạ, nhưng thực ra đó cũng vì trời dẹp yên bốn cõi đón vị chân quân lâu dài. Đệ xem thiên văn, thì thấy chân chúa đã sinh, loạn lớn đến nơi, huynh có quý tướng, có cốt cách công khanh, chẳng dính dáng gì đến phận thần tiên, hãy tự lo cho mình một ít vốn liếng mà phò vua giúp nước, gặp thời sẽ theo mà làm nên nghiệp lớn. Sớm tối hãy đọc, hãy bàn cho đủ thiên văn địa lý, mưu lược nơi màn trướng, kế sách nơi biên ải. 
Lại ít lâu sau, Từ đạo sĩ bảo Ngụy Trưng: 
- Đêm qua xem thiên văn, đệ thấy vương khí sáng ở phận Sâm, phận Tĩnh, ứng với việc xuất hiện của đấng chân quân. Sao Cơ lại đi vào Triệu, Ngụy phân đã ứng với điềm kẻ phò tá vương vị cũng ra đời. Nhưng xem kỹ thì vương khí chưa thật sáng tỏ, nên bậc chân quân có lẽ chưa đến lúc đắc chí, sao Cơ thì mờ tối, xem ra kẻ phò tá cũng đang lúc khốn khổ. Chi bằng đệ với huynh hãy chia nhau đi tìm gặp kết giao với các hào kiệt chưa gặp thời. Ngày sau chúng ta sẽ gặp nhau. 

Từ đạo sĩ về phía Thái Nguyên, Ngụy Trưng về phủ Lộ Châu, Sơn Tây. Thấy Đơn Hùng Tín anh hùng hiếu khách, có tướng mạo của bậc khai quốc công thần, vì vậy, Ngụy Trưng vào tu ở miếu Đông Nhạc này, để tiện việc kết giao, từ đó nghĩ đến chuyện cứu khốn phò nguy cho các bậc anh hùng. Sáng hôm sau, Ngụy Trưng ngồi ở Tùng Hạc hiên của miếu Đông Nhạc đọc "Hoàng Đình kinh". 
Chính là: 
Không muốn bay cánh hạc 
Có ý xòe vuốt ưng. 

Ông từ chạy vào thưa: 
- Thưa đạo trưởng, có một người say rượu, ngã lăn quay trước điện. Lưng đeo vũ khí, đập vỡ cả mấy viên gạch, lay thế nào cũng không chuyển, xin vào thưa với đạo trưỡng. 

Ngụy Trưng nghĩ thầm: "Đêm qua xem thiên văn, thấy Sao Cơ đi vào đất này, ứng với người này chăng, ta hãy ra xem sao!". Liền rời khỏi Tùng Hạc hiên ra phía điện ngoài, thấy Thúc Bảo vẫn còn nằm mê mệt, hành lý vẫn vứt một bên, chưa ai kịp thu dọn, một tay bị người chận lên, một tay áo rách mướp, hở cả da thịt, đưa lên che lấy mặt. Ông từ kể thêm: 
- Lúc nãy hai chân còn gác lên cả bậc cửa, mới vừa co lại. 
Ngụy Trưng kéo tay Thúc Bảo nhìn thấy mặt đỏ bừng, có lẽ sốt nặng, trông dễ nhầm với kẻ say rượu, hai mắt vẫn trừng trừng không động đậy, không nói được. Ngụy Trưng gật gật đầu mà rằng: 
- Anh ta bị sốt nặng. Không phải say rượu đâu! 
Thúc Bảo trong người vẫn tỉnh táo, nhưng cổ họng như có gì tắc nghẹn. Một lát sau, mới hơi tỉnh, Thúc Bảo lấy tay phải viết lên nền hai chữ: "Ốm nặng". Gạch nền nhà tuy sạch, nhưng vẫn có một lớp bụi mờ, nên chữ Thúc Bảo viết, đọc cũng dễ dàng. Ngụy Trưng nói: 
- Anh bạn không phải say rượu mà. Chính là bị sốt nặng thôi! 
Thúc Bảo khẽ gật dầu. Ngụy Trưng liền an ủi: 
- Không có gì đáng lo đâu anh bạn ạ! 
Rồi sai ông từ: 
- Vào phòng trong lấy cho ta chiếc chiếu tĩnh tọa ra đây. 
Ông từ mang chiếc chiếu nhỏ hình tròn, đặt ngay cạnh Thúc Bảo, Ngụy Trưng nửa ngồi nửa quỳ cầm tay Thúc Bảo đặt lên đấu gối mình, xem mạch. Nhận ra thiếu dương kinh bị tổn thương, nội thương ẩm thực, ngoài cảm phong hàn, chỉ là sự tổn hại bên ngoài, hoàn toàn không có gì trầm trọng. 

Nhưng ở đại điện là nơi đón gió, không thể để người bệnh nằm được, phía hậu đường cũng không có phòng nào trống, nên Ngụy Trưng sai dìu Thúc Bảo vào một gian liền với gian để củi, ngay cạnh phía trái đại điện. Tuy không được sạch sẽ lắm nhưng lại kín gió, giải một ít cỏ khô, đặt chiếc chiếu tròn lên. Hai chiếc giản quá nặng, không ai mang được, đành để lại trên điện. Ngụy Trưng mở khăn gói của Thúc Bảo ra thì thấy hai tấm lụa, một chiếc áo màu tím, một công văn trả về Tế Châu, khoảng hơn mười lạng bạc, bèn nói với Thúc Bảo: 
- Những thứ lặt vặt này, sợ trong lúc ốm đau, anh không trông nom được, bần đạo sẽ giữ trong phòng, bao giờ lành bệnh, trả anh có được không? Còn đôi giản, bần đạo sai người lấy dây buộc kỹ lại một chỗ, ngay góc đại điện, chẳng ai đụng đến làm gì, cũng có thể nhờ nó mà xua bớt tà khí âm phong đấy! 

Thúc Bảo nghe xong, cúi xuống đất lạy. Ngụy Trưng đem hành lý Thúc Bảo về phòng mình, rồi quay ra Tùng Hạc hiên, bốc một thang thuốc trị cảm mạo phong hàn, sắc lên cho Thúc Bảo uống, lát sau mồ hôi vã ra đầy người. Đến ngày hôm sau thì đã nhẹ hơn, nói năng cũng đỡ khó khăn hơn. Ngụy Trưng vẫn tiếp tục cho Thúc Bảo uống thuốc, lại thường đến bên chiếu nói chuyện, dần dần cho ăn cháo nóng. Bệnh ngày càng lui. 

Chẳng bao lâu, đã mười bốn ngày trôi qua, hôm đó nhằm ngày mười lăm tháng mười, là lễ "Tam nguyên thọ điển", được làm ngay trong miếu Đông Nhạc. Canh năm vừa điểm, cửa lớn của miếu đã mở rộng, trống lớn trên đại điện đánh ầm ĩ. Tuy Ngụy Trưng tận tình chăm sóc, Thúc Bảo vẫn còn mệt mỏi, không thể nào chịu nổi với cảnh huyên náo xung quanh, luôn vò tai bứt tóc phàn nàn. 

Nằm trong vỏ trứng ai ngờ phượng 
Lẫn đám kình nghê dễ biết rồng. 


Đại phàm tăng hay đạo đều thế, thường có một nhà giàu, có thế lực ở trong vùng che chở, đứng ra làm hộ pháp cho, lấy rượu thịt chận họng những tay vô lại trong vùng để chúng khỏi phá phách, chỉ có thế nhà sư, đạo sĩ mới có thể yên ổn hành pháp. Ngụy Trưng tuy khoác áo vàng của đạo sĩ, nhưng mang khí cốt của bậc hào kiệt, sao thèm đi lại với bọn vô lại, cầu cạnh bọn trọc phú cho được. Bọn này lâu nay vẫn thù ghét Ngụy Trưng, nay lại càng lên tiếng chê bai, phao tin Ngụy Trưng chứa chấp bọn người vô lương không rõ tung tích, làm ô uế cả điện thánh. Thúc Bảo cũng có nghe, lòng càng hậm hực, tức tối, thấy mình quả không chốn nương thân yên ổn, thì may sao vừa gặp lúc Đơn Hùng Tín tới miếu. 

Hùng Tín dẫn đầy tớ tới miếu Đông Nhạc để làm lễ đưa linh cho anh trai Hùng Trung. Ai nấy trong miếu đều ra đón Hùng Tín ở cửa tam quan: 
- Đơn viên ngoại đến đúng lúc lắm! 
Hùng Tín hỏi: 
- Có chuyện gì thế? 
Mọi người thưa: 
- Miếu Đông Nhạc ta là nơi cầu phúc của toàn hạt Lộ Châu này, Ngụy đạo trưởng quên cả thiên chức của mình, đem miếu làm nơi chứa chấp bọn vô lại, không biết gốc tích ở đâu đến, làm nhơ nhớp cả đất thánh. Đơn viên ngoại phải bàn bạc cho ra nhẽ với đạo trưởng mới được! 
Hùng Tín vốn là người từng trải, hiểu mọi lý lẽ, chẳng nhận phúc đầu, chẳng ban họa trước, liền chậm rãi cười: 
- Xin đạo hữu cứ bình tĩnh, ta sẽ nói chuyện với đạo trưởng, mọi chuyện sẽ đâu có đó. 
Nói xong, bước lên đại điện, sai đầy tớ mời Ngụy Trưng, còn mình thì dạo bốn tường nhìn quang cảnh đại điện. Bỗng thấy phía sau giá treo chuông, trong góc tối có ánh sáng lấp loáng, Hùng Tín bước lại gần nhìn cẩn thận, thì ra là một đôi giản, có dây lớn buộc vào một góc tường, Hùng Tín nhìn thật kỹ, có vẽ nghĩ ngợi, hỏi mọi người: 
- Vũ khí này ở đâu ra thế? 
Cả bọn nhất tề nhao nhao: 
- Chính cái nhà anh đau ốm, bệnh hoạn ấy mang tới đây, thưa viên ngoại! 
Hùng Tín định hỏi thêm, thì thấy Ngụy Trưng mặt mày rạng rỡ, thong thả bước ra, vái chào Hùng Tín, Hùng Tín bèn hỏi: 
- Ngụy đạo trưởng, đạo hữu ở đây đều nói, Đông Nhạc miếu này là nơi cầu lộc phúc của vùng Lộ Châu, cần phải giữ cho thanh khiết, để mọi người còn chiêm bái. Nay đạo trường chứa chấp kẻ nào trong miếu, đến nỗi ô uế cả thánh thất, đạo hữu đều tỏ vẻ không bằng lòng, vì vậy xin hỏi đạo trưởng, không rõ là loại người nào vậy? 
Ngụy Trưng thong thả đáp: 
- Bần đạo là kẻ xuất gia, đâu dám làm việc gì càn rỡ, chỉ vì người này ốm nặng ngã lăn bất tỉnh trước điện, bần đạo phải mạnh thuốc lắm, bệnh tình mới thuyên giảm. Vả lại người này cũng không giống kẻ tầm thường, cho nên không nỡ đuổi đi. Ai thấy mà chẳng động lòng trắc ẩn, xin viên ngoại lượng thứ cho, nhờ viên ngoại cũng nói rõ để các thí chủ khác hiểu rõ. 
Hùng Tín vội hỏi: 
- Đôi giản ở góc đại điện, là vũ khí của người đó sao? Anh ta bản quán chốn nào. 
Ngụy Trưng đáp: 
- Người Tế Châu, Sơn Đông. 
Hùng Tín vốn nghĩ tới Thúc Bảo ngay từ đầu, nay nghe đến “Sơn Đông, Tế Châu", bỗng giật mình, hỏi không ra lời: 
- Họ gì? 
Ngụy Trưng đáp: 
- Hai ngày đầu, bệnh nặng không nói được. Xem công văn của phủ Tế Châu thì thấy ghi tên Tần Quỳnh, gần đây đã lanh lợi, trong khi trò chuyện thì xưng tên là Thúc Bảo, vốn dòng dõi công thần nhà Bắc Tề. 
Hùng Tín hỏi rối rít: 
- Thế nay đang ở đâu? 
Ngụy Trưng đưa tay chỉ nói: 
- Ở gian nhỏ lai thêm ở đầu hồi nhà chứa củi kia kìa! 
Hùng Tín kéo tay Ngụy Trưng, đạp cửa ra ngoài hiên, gọi đầy tớ: 
- Mau đỡ Tần đại huynh lên điện tương kiến? 
Ba bốn người chạy đi ngay, nhưng chẳng thấy Thúc Bảo đâu cả. Hùng Tín băn khoăn: 
- Hay vì biết ta đến, Tần dại huynh bỏ đi rồi cũng nên. 
Ông từ thưa: 
- Vừa thấy Tần quý khách ra phía sau đi giải, có lẽ còn đang ở phía hậu đường chăng? 

Hùng Tín nghe nói thế, liền kéo Ngụy Trưng ra phía hậu đường. 

Thì ra Thúc Bảo được Ngụy Trưng thuốc thang chăm sóc nửa tháng trời, bệnh tình cũng đã đỡ nhiều, tinh thần cũng đã thư thái, sáng nay thấy trời ấm ấp, ngoài đại điện ồn ào đông đúc, nên gượng dậy ra phía hậu đường, tìm hiên nhà vắng vẻ ngồi, tránh con mắt nhìn thù ghét của mọi người trong miếu. Thấy một đầu bếp, lấy vạt áo gói mấy ống gạo, tay kia cầm mấy bó rau đi ra, Thúc Bảo liền hỏi: 
- Bác đi đâu vậy? 
Người đầu bếp đáp: 
- Không dính dáng gì đến anh cả. Tôi có mẹ già đã nhiều tuổi. Vừa mới đến đây coi kho, kiếm ít ống gạo đem về nấu cháo cho đỡ xót lòng người già mà! 

Thấy thế, Thúc Bảo chạnh nghĩ: "Đến kẻ tiểu nhân còn nghĩ đến cha mẹ. Ta cũng có mẹ già như ai, chẳng lo tròn chữ hiếu, để mặc mẹ già ở quê nhà, ngày đêm tựa cửa trông chờ”. Nghĩ tới đó, bất giác rơi nước mắt. Lại thấy trên án thư bên hè, có một cây bút lông đã cùn, bèn cầm lấy. Tuy lâu nay làm công sai ở phủ đường, nhưng vẫn chưa quên chữ nghĩa, Thúc Bảo đề lên tường mấy câu thơ sau: 

Rằng giận bấy phương trời lận đận 
Mắt đăm đăm mây trắng dõi trông 
Dưới khe cá lượn thong dong 
Hồ ly nào rõ được lòng bằng côn 
Níu trẻ tạo bồn chồn định hỏi 
Hỏi cớ sao nghẽn lối về quê 
Thân bảy thước sợ tri mi 
Gươm ba thước, những chờ khi vẫy vùng 
Lưu sử sách danh lừng sông núi 
Vỗ ngực ca sớm tối không nguôi 
Rằng không để thẹn kiếp người... 


Thúc Bảo vừa viết xong, quay lại thấy một toán người rầm rộ tiến lại, nhìn kỹ, thấy cả Đơn Hùng Tín trong đó, giật mình, chẳng biết ẩn vào đâu, chỉ biết cúi đầu, dựa vào lan can, nghe Ngụy Trưng nói đấy vẻ mừng rỡ: 
- Thì ra ở đây! 
Đơn Hùng Tín bước lên, giang hai tay, ôm lấy Thúc Bảo, gần như quỳ xuống nói: 
- Hiền huynh đến Lộ Châu, gặp phải cảnh này. Hùng Tín thật không đáng mặt chủ nhà, thật hổ thẹn với hào kiệt trong thiên hạ. 
Thúc Bảo cũng không nén nổi xúc động, vội quỳ xuống, lạy sát đất thưa: 
- Xin huynh trưởng đứng dậy, chỉ sợ cái thân hình ô uế này làm bẩn lây cả quý thể huynh trưởng. 
Hùng Tín rơi nước mắt đáp: 
- Hùng Tín này nếu gánh được hoạn nạn cho hiền huynh, cũng chẳng dám tiếc thân, nói gì đến ô uế! 
Chính là: 
Hương lan thơm nức cửa 
Đừng hỏi vết bùn mây. 

Rồi quay lại nói với Nguy Trưng: 
- Đạo trưởng, xin đạo trường hãy tạm đình lễ đưa linh cho tiên huynh, đợi vài ngày nữa. Tần hiền huynh đang đau yếu, Hùng Tín nay không còn lòng dạ nào mà dâng hương khấn nguyện nữa. Xin đạo trưởng cho thu dọn đèn hương. Hùng Tín này cùng Tần hiền huynh về Nhị Hiền trang. Đợi đến khi hiền huynh khỏe mạnh hẵn, sẽ cùng đến miếu tạ ơn, chẳng phải là "nhất cử lưỡng tiện" sao? 
Bèn lệnh cho đầy tớ: 
- Tần hiền huynh còn chưa cưỡi được ngựa, hãy kiếm một cái kiệu tốt đến đây! 

Lúc này ở bên ngoài, nghe nói là bạn của Đơn viên ngoại, các thí chủ, đạo hữu không ai dám nói năng chi, lặng lẽ giải tán. Ngụy Trưng về Tùng Hạc hiên, lấy hành lý của Thúc Bảo, hai tấm lụa Lộ Châu, cái áo tím, công văn và mười lạng bạc, giao choHùng Tín. Hùng Tín trông thấy, thầm nghĩ: "Số bạc này chính là số bạc bán ngựa còn lại đây!”. Thúc Bảo chắp tay cảm tạ, từ biệt Ngụy Trưng cùng Hùng Tín về Nhị Hiền trang. Từ đấy Ngụy Trưng, Tần Thúc Bảo, Đơn Hùng Tín trở thành tri kỷ. 

Về đến thư phòng, Hùng Tín sai tẩm rửa, thay quần áo, dọn giường, trải đệm dày, lại cùng nằm chung giường với Thúc Bảo, để tiện cùng nhau bày tỏ tấm lòng. Bệnh tình Thúc Bảo ngày càng đỡ dần, ngày nào Hùng Tín cũng chăm sóc thuốc thang, ăn uống tẩm bổ cho Thúc Bảo rất chu đáo, thỉnh thoảng lại mời cả Ngụy Trưng đến cùng nhau bàn luận, chẳng khác gì anh em một nhà. 

Phải đâu lưu luyến tha phương 
Bởi chăng bệnh nặng, vấn vương như nhà. 


Chỉ có thân mẫu Thúc Bảo ở Sơn Đông, nhớ con không biết để đâu cho hết, sớm tối trông chờ mỏi mắt, chẳng biết sống chết ra sao. Thôi thì tế lễ bói toán, càng chẳng thấy tăm hơi, đến nỗi lâm bệnh nặng, chỉ nằm liệt giương, không đi lại được nữa. Chính là: 

Lòng theo ngàn dậm xa xa 
Bệnh theo một mối, sầu da diết sầu. 

Cũng may có mấy nhà lâu nay vẫn đi lại thân thiết với Thúc Bảo, biết rõ Thúc Bảo chưa về, mẹ già bị ốm nặng, nên cùng nhau kéo đến, kẻ biếu cái này, người cho cái khác, cùng nhau thăm hỏi. 
Tần mẫu lên tiếng: 
- Con cháu, thông gia đều đến thăm nom già này, thật chẳng mấy khi, xin mời vào trong này. 

Đến ngồi ngay bên giường có bốn người, ngoài cửa Tây mở cửa hàng là Giả Nhuận Phủ, cùng làm việc công sai với Thúc Bảo ở phủ đường Tế Châu cũng ba người: Đường Vạn Nhân, Liên Minh, cả Phàn Kiến Uy cũng có mặt. Tần mẫu gượng ngồi dậy trên giường, vợ Thúc Bảo, Trương Thị đứng hầu phía sau, lấy chăn khoác lên người Tần mẫu. Thấy đầy đủ bạn bè Thúc Bảo, Tần mẫu bất giác rơi nước mắt: 
- Các cháu của già, đã không bỏ già này, lại còn tới thăm nom, đủ thấy nghĩa nặng tình sâu. Nhưng chẳng biết Tần Quỳnh của già lưu lạc ở dâu, một đi không về, khiến lòng già này thật như đứt từng khúc vậy. 
Bọn Giả Nhuận Phủ thưa: 
- Tần đại huynh đi mãi không về, thật là kỳ quái. Bá mẫu hãy yên lòng, đừng nên lo nghĩ nhiều quá, chẳng sớm thì muộn, thể nào Thúc Bảo đại huynh cũng sẽ trở về thôi! 
Tần mẫu oán trách Kiến Uy: 
- Tần Quỳnh tháng sáu ra làm việc với cháu, cùng nhau lên đường một lần, cháu thì tháng chín đã về, nay đã giữa mùa đông rồi. Tần Quỳnh của già vẫn chẳng tin tức gì cả. Thật chuyện không phải lòng người không lo được! 
Nàng dâu nghe mẹ chồng nói thế, không dám khóc to, nhưng cũng thổn thức. Ai nấy đều lên tiếng trách móc Kiến Uy: 
- Phàn Kiến Uy, hiền đệ không thể trốn được lỗi mình trong chuyện này rồi. Người đời vẫn thường nói "Cùng đường đừng bỏ bạn". Rủ nhau ra khỏi cửa một lần, dù Tần đại huynh trên đường có gặp trở ngại gì khác đi nữa, thì cũng phải có mặt ở nhà rồi chứ sao nay vẫn chẳng thấy đâu. Bá mẫu lại sinh được mỗi Tần đại huynh, vắng nhà lâu ngày, nhìn quanh chẳng người thân thích, ruột rà, làm sao mà bá mẫu chịu được! 
Kiến Uy lên tiếng thanh minh: 
- Có chư huynh ở đây, bá mẫu trách mắng, tiểu đệ không dám phân giải gì. Chư huynh là bậc hào kiệt trên đời, lại không biết ở nhà nghìn ngày đều tốt đẹp, ra cửa một lúc gặp nạn hay sao. Tháng sáu là từ Sơn Đông đi Trường An lĩnh được giấy tờ ở Bộ binh về, thì đã hai tháng trôi qua rồi, đến mãi mười lăm tháng tám, lại mới cầm công văn lên đường, Tần đại huynh đến Lâm Đồng Sơn, gặp lúc Đường Công bị cướp, đang hồi gay go, Tần đại huynh nổi máu bất bình, cứu được Đường Công, ra đến ngoài cửa quan, thì chia hành lý, Tần đại huynh đi Lộ Châu, tiểu đệ đi Trạch Châu. Chẳng ngờ tất cả bạc tiền đều ở hành lý của tiểu đệ, mãi đến khi chia tay nhau rồi mới biết ra, số tiền đó trên đường, tiểu đệ cũng tiêu hết rồi còn đâu. Nay chẳng thấy Tần đại huynh trở về, tiểu đệ xin bù đủ số tiền ấy vậy thôi! 
Nói xong liền đưa cho một gói bạc, đặt lên giường. 
Tần mẫu nói: 
- Ta có bốn lạng bạc, đưa Tần Quỳnh bảo mua lụa Lộ Châu, có lẽ ở trong hành lý của Quỳnh chẳng? 
Kiến Uy tiếp: 
- Tiểu đệ tới Trạch Châu, Mã tứ sử cũng phải đi Thái Nguyên mừng Lý đại nhân, lại thêm hai gã phạm nhân đi theo; củi rau, gạo, muối mắm đều đắt như vàng, đến khỉ lĩnh được công văn trở về, thì chẳng còn một lạng bạc nào nữa. Còn như số bạc của bá mẫu, cháu không được biết. 
Tần mẫu lại hỏi: 
- Những chuyện ấy đều là chuyện của cháu, còn sau đó cháu có nghe được tin tức gì của Tần Quỳnh nữa không? 
Kiến Uy đáp: 
- Nếu tính ngày đi, đường ngắn dài, Lý đại nhân tới Thái Nguyên, thì Tần đại huynh cũng về tới Lộ Châu rồi. Lúc này có lẽ Sái thái thú chưa đi Thái Nguyên thì công văn có thể nạp được rồi. Đệ biết Tần đại huynh đã lĩnh được công văn trở về, mà lại còn ở lại Lộ Châu làm gì. Tiểu đệ nếu còn tiền đi đường, cũng cố đi vòng đường Lộ Châu tìm Tần đại huynh, nhưng vì tiền nong chẳng còn, phải vội về, nào biết được Tần đại huynh còn chưa trở về. 
Mọi người kết luận: 
- Đối với hiền đệ thì chuyện ấy là không có gì lạ. Nhưng bây giờ thì hiền đệ không thể từ chối khổ sở, gian nan tới Lộ Châu tìm Tần đại huynh, thì mới là thỏa đáng. 
Kiến Uy đáp: 
- Bá mẫu bất tất phiền não, xin viết cho một lá thư, cháu xin đến Lộ Châu, tìm kỳ được Thúc Bảo cho bá mẫu mới quay về. 
Tần mẫu sai hầu gái đem bút mực, giấy tờ viết thư cho Thúc Bảo, xong xuôi đưa cho Kiến Uy, lại không quên trả lại gói bạc cho Kiến Uy, còn dặn thêm: 
- Bạc này cháu cứ cầm lấy làm lộ phí, tìm được Tần Quỳnh về đây cho già là tốt rồi!
Kiến Uy thưa: 
- Cháu xin nhanh chóng lên đường, tìm được đại huynh sẽ về ngay, quả không dám đụng đến số tiền này của Tần đại huynh. 
Tần mẫu bảo: 
- Cháu cứ cầm, lấy cái đi đường cho rộng rãi. 
Mọi người đều khuyên: 
- Giờ chỉ cần mau mau tìm được Tần đại huynh về, hiền đệ cứ cầm tất cả đi, chi bằng nghe lời bá mẫu là tốt hơn cả. 
Kiến Uy nói: 
- Vậy cháu xin cáo biệt bá mẫu, lên đường đi tìm Tần đại huynh. 
Tần mẫu đáp: 
- Thôi thì cháu chịu khó vì bạn bè, vì bà già này vậy! 
Bạc tiền đem đến giúp đều được đặt cạnh giường Tần mẫu, mọi người mới ai về nhà nấy. Kiến Uy cũng về nhà, xếp đặt quần áo khăn gói, rời khỏi Tế Châu, qua đường Hà Giang đi Lộ Châu tìm Thúc Bảo. 

Không biết có tìm gặp được Thúc Bảo không, xem hồi sau sẽ rõ.


HỒI 11
Dầm bão tuyết, Phàn Kiến Uy tìm bạn hiền,
Lo thuốc thang, Đơn Hùng Tín sinh gái quý

Thơ rằng: 
Tuyết đè quan ải cảnh nao nao 
Gió bấc đưa về phủ trắng đầu 
Nằm bẹp Lạc Dương hai gối nhác(1) 
Nhớ sôi Diễm Thủy một chèo mau (2) 
Bông sơ cuống quýt toan bay thốc 
Bọt nước mong manh chực thổi vèo 
Dừng ngựa Lam Quan chiều nghẽn lối (3) 
Tri âm gặp mặt thỏa lòng nhau. 



1 Tuyết phủ kín Lạc Dương, dân cào tuyết ra đường kiếm ăn, Viên An vẫn đóng cửa nằm co, chịu đói, Thái thú phá cửa vào thăm, Viên An trả lời: “Thiên hạ đều đói. Ta cũng thế, nhưng ta chả muốn phiền người". 
2 Đang đêm, tuyết xuống đầy, Vương Hy Chi chợt nhớ bạn, chèo thuyền trên suối Diễm Khê, đến thăm bạn. Gần tới nơi, lại quay thuyền về, có người hỏi, Hy Chi đáp: "Hứng lên thì đi, không thích nữa thì về". (Từ Hải) 
3 Hàn Dũ, đời Đường, bị đẩy đi làm quan, làm thơ than: "Tần Lĩnh mây che nhà chẳng thấy, Lam Quan tuyết phủ ngựa khôn qua”. (Thơ Đường, tập 1) 

Trên đây là một bài thơ vịnh cảnh tuyết, ca ngợi vẻ đẹp sự thanh cao của tuyết. Tuyết khiến chén rượu nóng uống càng đậm đà, tuyết khiến mối sầu của khách đi đường càng tăng vẻ thê lương, có khi tuyết gợi hứng, làm nguyên cớ của những gặp gỡ giữa bạn bè, tri kỷ, Kiến Uy rời Sơn Đông, qua Hà Đông, tìm vào phủ đường Lộ Châu, hỏi tin Thúc Bảo, trở ra quán trọ của Vương Tiểu Nhị, hỏi: 
- Bác chủ xin hỏi bác một chuyện, gần đây có ai là người phủ Tế Châu, thuộc Sơn Đông, họ Tần, tên là Thúc Bảo, đến ở trọ quán bác không?
 
Tiểu Nhị đáp: 
- Có Tần quý khách trọ ở hàng tiểu nhân, nhưng ngày mùng một tháng mười vừa rồi, đã bán ngựa lấy tiền đi đường, về quê ngay đêm hôm ấy rồi. 
Kiến Uy nghe nói, thở dài rơi nước mắt. Còn Tiểu Nhị, vì khách trọ đông, gọi rối rít, đã bỏ đi từ lúc nào. 
Liễu Thị thấy thế, bèn để ý, lại gần hỏi: 
- Quý khách cho biết quý tính? 
Kiến Uy đáp: 
- Ta họ Phàn. 
Liễu Thị tiếp: 
- Có phải Phàn Kiến Uy chăng? 
Kiến Uy tiến vội hỏi: 
- Nhà chị sao lại biết ta là Phàn Kiến Uy. 
Liễu Thị đáp. 
- Tần quý khách vướng víu ở đây mãi, ngày ngày trông đợi Phàn quý khách. Chúng tôi đối xử với Tần quý khách chẳng được chu đáo. Tối hôm đầu tháng mười vừa rồi, Tần quý khách đã lên đường về. Lại có chuyện chưa đến nhà sao? 
Kiến Uy: 
- Chính vì chưa thấy về, nên ta phải đi tìm. 
Kiến Uy thầm nghĩ: "Giờ đã là đầu mùa đông, không thể có chuyện đi đường đến hai tháng, nhất định xảy ra việc gì. Có ở lại đây cũng vô ích". Kiến Uy ăn bữa cơm trưa, trả tiền chu đáo rồi ra cửa đông, quay về Sơn Đông. 
Trời thổi gió mạnh, tuyết đồ càng dày, Kiến Uy dầm trong gió tuyết, đầu cổ trùm kín, cứ trong tuyết mà đi mãi, lạnh cứng cả mặt mũi, hai tay, nhìn bốn bên chỉ thấy: 

Tung bay trút từ trên ải bắc 
Phơi phơi rơi rắc khắp cô thành 
Vườn Lương cầu Bá quanh quanh 
Quật lên úp xuống thình lình dừng quay 
Như có sức đổi thay tạo hóa 
Như có tài tuốt lá nhổ cây 
Vừng hồng tối sẫm mặt mày 
Rừng xanh nhạt sắc, đông tây lạc đường 
Dòng Trường Giang, cá dường lặn đáy 
Tầng mây cao, cánh sẩy nhạn xa 
Cọp gầm vượn hú xa xa 
Lúa đồng vùi nát, hoa nhà dập tan 
Kể sao xiết muôn vàn tai hại 
Điềm lành sao, địa quái thiên tai? 
Cằn gốc liễu, trụi cành mai 
Đường xa lối nghẽn, đền đài phôi pha 
Phủ đầy cửa ra vào quán lạ 
Nguồn cơn này hồ đã biết vay! 
Buôn lắm thay, khổ lắm thay 
Cảnh nhà hàn sĩ đắng cay thế nào 
Cầu khẩn đến trời cao giáng phúc 
Tâu Ngọc Hoàng chí đức chí nhân 
Mây thiêng kíp kíp xoay vần 
Vừng dương sáng chói, khí xuân chan hòa 
An cư lạc nghiệp, câu ca. . . 


Kiến Uy lặn lội trong cảnh gió tuyết, rét thấu xương, đến được Thập Lý điếm thì trời cũng đã chiều. Chưa biết ngủ trọ nơi nào, lại cũng tìm đến miếu Đông Nhạc, nơi Thúc Bảo bị ốm mấy tuần trước. Cho nên nếu không có trận tuyết lớn này, làm gì Kiến Uy phải vào miếu Đông Nhạc này. Gặp đúng lúc ông từ đứng đó đóng cửa, thấy có người đến xin nghỉ trọ, ông từ liền vào Tùng Hạc hiên thưa. Ngụy Trưng vốn thương người, liền cho Kiến Uy vào phòng phía sau. Đặt hành lý vào một góc, rũ hết tuyết trên áo mũ, Kiến Uy vái chào Ngụy Trưng. Ngụy Trưng lúc này mới hỏi: 
- Khách trọ đâu đến? 
Kiến Uy đáp: 
- Tiểu đệ họ Phàn, người Tế Châu thuộc Sơn Đông đến Lộ Châu tìm người bạn, gặp tuyết lớn, vào đây xin nhờ đạo trưởng qua đêm nay, sáng ra sẽ xin hậu tạ. 
Nguy Trưng đáp: 
- Khách có phải Phàn Kiến Uy chăng? 
Kiến Uy giật mình vội hỏi: 
- Đạo trưởng sao lại biết tiểu đệ? 
Ngụy Trưng đáp: 
- Thúc Bảo hiền huynh thường hay nói đến tên khách. 
Kiến Uy vui mừng hỏi tiếp: 
- Thúc Bảo hiện ở đâu? 
Ngụy Trưng đáp: 
- Khách đừng vội vàng thế! Nhanh hay chậm thì cũng chỉ gặp mặt Thúc Bảo thôi. 
Kiến Uy vẫn dồn dập: 
- Thúc Bảo đâu rồi! 
Ngụy Trưng từ từ: 
- Ngày mùng hai tháng mười, Thúc Bảo đến đây nhưng bị ốm nặng. 
Kiến Uy dậm chân: 
- Thế là thế nào? Hiện đâu rồi? 
Ngụy Trưng vẫn thong thả: 
- Ngày mười lăm tháng mười, Đơn viên ngoại đưa về Nhị Hiền trang để dưỡng bệnh. Đến mười lăm tháng mười một thì bệnh đã khỏi, có đến tạ ơn ở miếu này, nhưng vì trời lạnh nên vẫn ở Nhị 
Hiền trang, Đơn viên ngoại giữ chưa cho về. 
Kiến Uy nghe đến đây mới yên tâm. Chính là: 

Tráng sĩ được vàng ngàn lạng 
Hàn nho tên rạng tam nguyên 
Đêm động phòng hoa chúc như tiên 
Buổi họp mặt thân quen rạng rỡ 
Như hùm thêm cánh vỗ 
Như rồng gặp sấm ran 
Lão nông được trận mưa tràn 
Tuổi già thêm cành đan quế.  (Theo điệu "Tây gian nguyệt") 

Ngụy Trưng sai lấy trà rượu, hoa quả, ngồi tiếp Kiến Uy. Kiến Uy vì suốt ngày xông pha ngoài gió tuyết, người mệt mỏi, nên cũng uống khá nhiều rượu nóng, rồi ngủ kỹ.Mới sáng mai ra Kiến Uy đã trở dậy, mở hành lý, lấy bạc tạ ơn Ngụy Trưng. Nhưng biết là bạn Thúc Bảo, Ngụy Trưng nhất định không chịu nhận, lại giữ Kiến Uy lại dùng bữa sáng, rồi đưa ra khỏi cửa tam quan, chỉ đường tắt về Nhị Hiền trang, Kiến Uy cứ theo thế mà đi. 

Lúc này Hùng Tín cùng Thúc Bảo đang ngồi trong thư phòng sưởi ấm, uống rượu, thưởng cảnh tuyết bên ngoài rất là thích ý. Đầy tớ vào thưa có ông khách xưng là họ Phàn, đem thư của Tần mẫu tới. 
Thúc Bảo vui mừng: 
- Đơn nhị ca, lão thân cho Kiến Uy đem thư tới rồi! 
Hai người vội chạy ra đón. Thúc Bảo vui mừng reo lên: 
- Đúng là hiền đệ rồi! 
Kiến Uy cũng vội nói: 
- Lần ấy chia hành lý, tiền bạc đều ở chỗ tiểu đệ, quên không chia. Tiểu đệ đã đưa lại cho bá mẫu, nhưng bá mẫu nhất định không cầm, bảo tiểu đệ giữ làm lộ phí để đi tìm đại huynh. 
Thúc Bảo nói: 
- Tiền bạc chẳng có bên mình, bao nhiêu chuyện rầy rà xảy ra. 
Hùng Tín bàn: 
- Những chuyện ấy khoan nói, hãy xin mời vào nhà đã! 
Hùng Tín gọi đầy tớ cất hành lý, còn mình thì dẫn Kiến Uy vào thư phòng sưởi ấm. Hai bên lúc này mới làm lễ chủ khách. Thúc Bảo cũng chắp tay vái tạ Kiến Uy đã khó nhọc vì mình. Hùng Tín sai người nhà bày tiệc rượu. Thúc Bảo hỏi: 
- Thân mẫu tiểu đệ sức khoẻ ra sao? 
Kiến Uy đáp: 
- Có thư của bá mẫu, đại huynh cứ xem sẽ rõ! 
Thúc Bảo xem thư xong. Nước mắt chan hòa, lặng lẽ đứng đậy, thu xếp hành lý. 


Một thư chữ mẹ đầy mong nhớ 
Muôn dặm lòng con nỗi xốn xang. 


Hùng Tín thấy thế, cứ yên lặng khẽ cười. Tiệc rượu đã bày ra, ba người cùng ngồi, gối kề gối, vai sát vai. Hùng Tín hỏi: 
- Thúc Bảo, lệnh đường có khỏe không? 
Thúc Bảo đáp: 
- Thân mẫu hiện ốm nặng! 
Hùng Tín hỏi: 
- Thấy hiền huynh chuẩn bị hành lý, có lẽ định về Sơn Đông, ngay chăng? 
Thúc Bảo chùi nước mắt đáp: 
- Không phải tiểu đệ là kẻ vô ơn, ăn no rồi ưỡn bụng ra đi. Nhưng quả tình mẫu thân bệnh nặng, xin tạm biệt nhị ca. Sang năm sẽ quay lại xin tạ ơn tái tạo của nhị ca. 
Hùng Tín đáp: 
- Hiền huynh trở về, Hùng Tín này không dám ngăn trở. Nhưng đã là bạn bè thì phải làm cho nhau trở nên hoàn thiện hơn. Thần trung con hiếu, đời nào không có. Nhưng cần phải làm kẻ có lòng thành thực, chứ không phải để mua cái danh tiếng bề ngoài thôi! 
Thúc Bảo hỏi: 
- Xin nhị ca dạy cho. Thế nào là hiếu thật, thế nào là hiếu giả? 
Hùng Tín đáp: 
- Kẻ có hiếu lớn là hiếu thật, kẻ chỉ chăm sự hiếu nhỏ là hiếu giả. Vội vàng làm theo ý mình là hiếu giả. Cũng như bây giờ, hiền huynh ngày đêm lặn lội về quê, có vẻ là hiếu thật, nhưng thật ra là hiếu giả. 
Thúc Bảo nước mắt lúc này đã khô, bất giác khẽ cười hỏi: 
- Tiểu đệ gặp lúc vừa nghèo túng, vừa bệnh tật không nơi nương tựa xa cách thân mẫu đã lâu ngày, cũng là sự bất đắc dĩ, nay nghe thân mẫu bệnh nặng, ngày đêm trở về, cũng là sự chí tình của kẻ làm con, sao lại nói là hiếu nhỏ, hiếu giả được? 
Kiến Uy đỡ lời cho Thúc Bảo rằng: 
- Tần đại huynh nghe tin thân mẫu ốm là một lẽ, lẽ thứ hai là thân mẫu bệnh phải trở về ngay, nên vội lên đường, đó chính là hiếu lớn còn gì! 
Hùng Tín giải thích: 
- Chư huynh biết một mà không biết hai. Lệnh tiên quân (l) làm tướng nhà Bắc Tề, Bắc Tề mất, thân vong, những cái đó đều có nghĩa lớn, đại thần của một nước sắp mất, không thể tính đến chuyện sống còn của mình. Nhưng trời không nỡ nhìn thấy bậc trung thần tuyệt hậu, nên vẫn còn để lại cái vẻ anh hùng của hiền huynh. Hiện giờ chính là hiền huynh giữ lấy thân mình, chờ ngày lập nên sự nghiệp lẫy lừng, rạng rỡ họ Tần. Nay hiền huynh xông pha mưa tuyết gió lạnh, bệnh vừa mới đỡ, nếu giữa đường bệnh trở lại, nguyên khí không thể giữ nổi, vạn nhất có lúc hai là dài, ba là ngắn, đến nỗi mất cả kẻ nối dõi họ Tần, mất cả sự kỳ vọng suốt đời của bá mẫu, thì dù cho là chí tình, nhưng vẫn không phải là đạo hiếu. Kẻ quân tử đi, nhưng không chịu đi đường tắt, ngồi thuyền chứ không chịu bơi tay không, dù gặp lúc phải đi vội, nhưng cũng không dám quên chữ hiếu. Xông pha trong tuyết lớn như thế. Hùng Tín này không dám nghe theo vậy! 
1 Gọi kính cẩn cha đã mất của bạn bè. 
Thúc Bảo bèn hỏi: 
- Nếu thế thì tiểu đệ không về nữa, mới là hiếu hay sao? 
Hùng Tín cười đáp: 
- Ai bảo hiền huynh không về. Chẳng qua chỉ là hãy biết chờ thêm ít lâu. Vả lại bá mẫu là bậc hiền thục, hiểu mọi lý lẽ. Nay nhờ Kiến Uy đi tìm hiền huynh, cũng chỉ vì lòng yêu con của người mẹ, không hiểu tình cảnh con mình ra sao, không thể ngồi yên. Nay hiền huynh viết một phong thư, kể cả rõ việc lãnh công văn lâu ra làm sao, đang khi trở về thì ngã bệnh làm sao, đến này thì đã khỏi hắn, nhưng vẫn chưa thể dãi tuyết dầm sương, nghe mẫu thân ốm nặng bảo về ngay, nhưng Hùng Tín này giữ lại chưa cho về. Lệnh đường thấy hiện huynh đã có nơi chốn dưỡng bệnh, thì sầu não càng vơi dần, biết rõ bệnh tình của hiền huynh chưa thật khỏi, cũng không lòng nào để con dầm sương tuyết. Hùng Tín này với hiền huynh đã là “Nhất bái chi giao", mẫu thân của hiền huynh cũng là mẫu thân của Hùng Tín này, ta sẽ sắm ít lễ vật, gửi về an ủi bá mẫu, nhờ luôn Kiến Uy đem theo công văn về nạp cho phủ đường Tế Châu, trình rõ với Lưu thái thú, ốm đau ở Lộ Châu thế nào, đến nỗi hiền huynh chưa về được. Thế là việc công việc tư đều đầy đủ. Đợi đến ngày xuân nắng ấm, lúc đó Hùng Tín sẽ vì hiền huynh mà kiếm ít vốn liếng, để khi hiền huynh trở về, không thèm làm công sai ở phủ đường nữa. “Cầu vinh bất tại chu môn hạ” . Làm các việc này, luôn bị sai phái, mất cả tự do, để đến nỗi bá mẫu ngày ngày trông đợi, lo lắng, thật không tròn đạo hiếu vậy! Ngồi đợi thời, không phải là không có hiếu đâu! 
Thúc Bảo nghe Hùng Tín nói có tình có lý, lại cũng thấy mình chưa dãi dầu tuyết lạnh, đường xá xa xôi, bèn nói với Kiến Uy: 
- Tiểu đệ biết làm thế nào bây giờ, nên về cùng với hiền đệ hay viết thư về trước đã? 
Kiến Uy đáp: 
- Đơn nhị ca nói rất hợp tình, hợp lý. Bá mẫu mà biết đại huynh ở đây, lập tức yên tâm, bệnh tình tự nhiên sẽ khỏi, cũng không đòi đại huynh phải về ngay nữa đâu! 
Thúc Bảo quay lại nói với Hùng Tín: 
- Nếu thế, tiểu đệ xin viết thư gửi về để yên lòng thân mẫu. 
Thúc Bảo viết xong thư, đưa kèm cả công văn cho Kiến Uy, nhờ nạp lại cho phủ đường Tế Châu. Hùng Tín quay vào nhà trong, lấy ra bốn tấm lụa Lộ Châu, ba mươi lạng bạc, gửi về biếu Tần mẫu, lại thêm hai tấm lụa Tô Châu, mười lạng bạc đưa tặng Kiến Uy. Ngay hôm đó, Kiến Uy từ biệt trở về Sơn Đông, đem thư từ, tiền bạc trình Tần mẫu, và nạp công văn cho phủ đường Tế Châu. 
Hùng Tín vẫn giữ Thúc Bảo ở Nhị Hiền trang dưỡng sức. Hôm ấy Thúc Bảo đang nhàn rỗi trong thư phòng, xem hoa ngắm tuyết, Hùng Tín nói vào mấy câu chuyện phiếm, nhưng mặt mày ủ dột thảng thốt như có điều lo lắng. 
Thúc Bảo thấy thế, sợ Hùng Tín chán khách rồi chăng, nhịn chẳng nổi, bèn hỏi: 
- Nhị ca mọi hôm nói cười vui vẻ, hôm nay xem ra có điều gì không vui? 
Hùng Tín đáp: 
- Hiền đệ không biết, Hùng Tín này ít khi chợt vui, chợt buồn. Gần đây, vong huynh lỡ phải tên mà mất, Hùng Tín này mất ăn mất ngủ luôn mấy ngày, nhưng rồi mọi chuyện xếp dặt xong xuôi, coi như bỏ ngoài cửa. Nay lại gặp chuyện khó nói khác, vốn là chuyết thê (l) chẳng may mắc bệnh xoàng, thuốc thang vẫn chưa khỏi, vì vậy Hùng Tín này không khỏi có chút lo lắng. 
1 chuyết thê: người vợ vụng về. Tiếng khiêm nhường để chỉ vợ mình, trước mặt người khác. 
Thúc Bảo hỏi: 
- Quả là tiểu đệ quên hỏi nhị ca, nhị tẩu vốn thuộc tôn tộc nào, về Nhị Hiền trang này đã bao lâu? 
Hùng Tín đáp: 
- Chuyết thê vốn là cháu của đô dốc Thôi Trường Nhân, ngày xưa nhạc phụ cùng phụ thân Hùng Tín này đi lại với nhau thân thiết, chẳng bao lâu, cả phụ mẫu đều mất, gia cảnh khốn đốn, lúc này mới về Nhị Hiền trang. Cũng mừng là nàng vừa hiền vừa lanh lợi, có điều đã lấy nhau bảy tám năm nay mà chẳng sinh đẻ gì, mãi tới mùa xuân năm nay mới mang thai, tính ra thì tháng mười một này đã phải sinh, vì vậy có phần lo lắng không yên. 
Thúc Bảo lựa lời an ủi: 
- Tiểu đệ nghe các cụ ngày xưa nói, sinh con hổ, con lân thường không phải dễ. Phương chi, trời cũng lựa tướng mà trao điềm lành, theo thời tiết, dưa đến kỳ sẽ chín, nhị ca cũng chẳng nên lo lắng thái quá! 
Trò chuyện chưa dứt, thấy đầy tớ vội vàng chạy vào thưa: 
- Ngoài cửa có một nhà sư người Phiên (1) gõ cửa đòi bố thí, đuổi mấy cũng không đi. 
1 "phiên quốc tăng nhân": Có lẽ là nhà sư, người vùng Tây Tạng, theo đạo Phật thuộc dòng Lạt ma? 
Hùng Tín thấy nói thế liền cùng Thúc Báo ra xem, thì thấy một nhà sư người Phiên, mặc áo cà sa bằng lông thú đủ màu sắc rực rỡ, vai quảy một cây trượng dài, nhìn dáng người thì: 
Hô sâu tròng mất 
Nét rậm lông mày 
Sống mũi cao như mỏ ưng bay 
Râu tóc xoắn như bờm sư tử 
Miệng lẩm bẩm đọc kinh niệm chú 
Tay rung chuông, tay gõ phèng la 
Tòa sen hiện Phật Thích Ca 
Thiết Quài nhập xác, Lạt Ma giáng trần. 

Hùng Tín hỏi: 
- Sư trưởng định dùng cơm chay hay rượu thịt? 
Nhà sư đáp: 
- Ta không ăn chay! 
Hùng Tín liền sai đầy tớ bưng ngay ra một đĩa thịt bò lớn, một đĩa bánh bao, đặt trước mặt nhà sư, rồi cùng Thúc Bảo ngồi bên xem xét. Nhà sư múa tít hai tay một lúc, thì cả hai đĩa đều sạch nhẵn. 
Thấy thế Hùng Tín bèn hỏi: 
- Bây giờ sư trưởng đi đâu? 
Nhà sư đáp: 
- Giờ bần tăng phải đi Thái Nguyên, rồi từ đó chuyển đường đi Tây Kinh. 
Hùng Tín hỏi: 
- Tây Kinh vốn là vùng đất hoang vu, trưởng lão là nhà tu hành, đến đó làm gì? 
Nhà sư đáp: 
- Nghe nói hiện nay chúa thượng mỏi mệt, công việc triều chính, đều giao cho Thái tử coi sóc. Thái tử là người ương ngạnh, không muốn yên ổn, cho nên bần tăng muốn tới Tây Kinh, hái dược liệu làm thuốc, dâng Thái tử. 
Thúc Bảo hỏi: 
- Thế hiện nay trong khăn gói trưởng lão, có loại thuốc nào đặc biệt chăng? 
Nhà sư đáp: 
- Tất cả các loại thuốc đều có. 
Hùng Tín hỏi tiếp: 
-Xin hỏi trưởng lão có thuốc điều kinh thôi sản, xin cho một liều. 
Nhà sư đáp: 
- Có 
Rồi lấy trong tay nải ra một cái hồ lô, dốc ra một viên thuốc chỉ bằng hạt đậu lớn, lấy một miếng giấy màu vàng gói lại, đưa cho 
Hùng Tín dặn dò: 
- Cầm lấy, bao giờ có trống điểm canh thì cho uống, dùng nước trầm hương mà tiêu, nếu uống xong mà sinh ngay là con gái, ngày hôm sau mới sinh nhất định là con trai. 
Nói xong thì đứng dậy ra cửa, cũng chẳng một lời ơn nghĩa, nhìn theo, đã không thấy đâu nữa rồi. Hùng Tín kéo tay Thúc Bảo lại thư phòng. Thúc Bảo cảm thán: 
- Chúa thượng bỏ bê chính sự, bốn bể giặc giã như ong dậy, đến nỗi mãi ở Phiên quốc đều hay. Tương lai chúng ta rồi sẽ thế nào đây nhị ca? 
Hùng Tín đáp: 
- Lo lắng chuyện ấy làm gì. Nếu như có biến đi nữa, bọn ta càng có điều kiện để mở mày mở mặt với thiên hạ, xây được cơ nghiệp cho bản thân. Chẳng hơn cứ dấm dúi qua ngày như thế này sao? 
Nói xong, Hùng Tín bỏ vào nhà trong. 
Đêm hôm đó, Hùng Tín lấy viên thuốc nhà sư người Phiên cho, đưa Thôi phu nhân uống. Đến đúng giữa giờ tý* bỗng thấy khắp nhà hương hoa sen thơm ngát, phu nhân liền sinh con gái, vì vậy đặt tên là ái Liên. Vợ chồng đều mừng rỡ khôn tả. Thúc Bảo được tin cũng rất hân hoan. 
* Giờ tý: từ 23 giờ đến 1 giờ, giữa giờ tý là 24 giờ đúng. 
Thấm thoát quang âm, chẳng bao lâu đã tới ba mươi tết, Hùng Tín ngồi uống rượu với Thúc Bảo bên lò sưởi mãi tới sáng, chuyện trò đến quên cả cảnh tha hương, khách địa. Sáng mai ra đã là tháng giêng, năm thứ hai đời Nhân Thọ* rồi. Rượu uống mừng năm mới, Thúc Bảo nửa tỉnh nửa say nghĩ đến công nghiệp chưa thành, thân thế nổi trôi, xa mẹ, bỏ vợ con lòng vô cùng xốn xang. 
* Tức năm 602, sau công nguyên, ở Việt Nam ta là năm thứ 32, thời Lý Phật Tử, hậu Lý Nam Đế. 


Rượu rót mừng đuổi sầu đi 
Sầu trông còn đó, rượu thì cạn không. 


Rồi lại đến rượu của đêm nguyên tiêu, tết rằm tháng giêng. Hùng Tín suốt mấy tuần khó nhọc, nên đến chiều ngày mười tám, tháng giêng thì vì quá mệt mỏi, lui vào nhà sau nằm ngủ. Thúc Bảo vì nhớ người nhà, không thể nào ngủ được, chỉ đành quanh quẩn dạo dưới đèn. Mấy người đầy tớ trong trang trại, thấy thế bèn hỏi: 
- Tần quý khách vẫn chưa đi nằm sao? 
Thúc Bảo đáp: 
- Ta thật nóng lòng muốn về Sơn Đông quá chừng. Nhưng vì hậu tình của viên ngoại, đến nổi mở miệng xin về cũng khó nói. Các người hãy chịu khó giúp ta ra về. Ta sẽ để lại một lá thư, tạ lỗi cùng viên ngoại. 
Chỉ vì chủ nhà hiếu khách, nên bọn đầy tớ cũng rất ân cần, bèn thưa: 
- Tần quý khách ở đây, chính là chẳng có nơi ở nào tốt hơn. Bọn tôi tớ chúng tôi, sao lại dám để Tần quý khách ra đi được! 
Thúc Bảo bèn nói: 
- Nếu thế, ta sẽ có cách! 
Thế rối trong phòng nhìn ngang nằm ngửa, chỉ tay, gật đầu, như kiểu đang mưu tính gì. Bọn đầy tớ sợ giữ Thúc Bảo không xong, lỡ Thúc Bảo bỏ trốn mất, thì thật không biết trình với chủ thế nào, cho nên cả bọn bàn tính. kẻ thì ở lại hầu hạ trông chừng, kẻ vào nhà trong báo với chủ : 
- Tần quý khách muốn về quê, thưa chủ nhân! 
Hùng Tín nghe nói thế khoác áo, lê dép vội ra, hỏi: 
- Hiền huynh nồi hứng muốn về chăng? Không phải vì Hùng Tín này đối xử khiếm khuyết gì chứ? Nếu quả thế thì thật đáng tội Hùng Tín này. 
Thúc Bảo đáp: 
- Tiểu đệ nôn nóng muốn về quê, ngày đêm không yên dạ, nhưng thấy nhị ca nặng tình, nặng nghĩa, nên không dám ngỏ lời. Nay thật không thể nào ở lại được nữa, ngồi đứng không yên, xin nhị ca tha tội! 
Nói rồi rơi nước mắt, cảnh này, tình này thật hợp với bài "Tập Đường thi"* của đời sau: 
*“Tập Đường thi": dùng lại hoàn toàn, hoặc chữa một hai từ, những câu thơ Đường khác bài, khác tác giả để chấp thành bài mới. Giống hình thức “Tập Kiều” của ta vậy! 


Xuân về, đất khách vẫn lân la 
Gặp tết, bâng khuâng lại nhớ nhà 
Ôi hỡi, trông vời mây khói nọ 
Dài sông xa núi não lòng ta! 


Hùng Tín an ủi: 
- Hiền huynh chẳng cần phải thương cảm đến thế. Ngày mai, Hùng Tín sẽ đưa hiền huynh lên đường về với bá mẫu. Đêm nay hãy xin ngủ một giấc thật ngon lành, sáng mai lên đường sớm. 
Thúc Bảo vội hỏi: 
- Có thật thế không? 
Hùng Tín đáp: 
- Hùng Tín một đời chẳng từng thay lời. Chẳng nhẽ lại định nói dối hiền huynh sao! 
Nói rồi vào nhà trong sửa soạn. Thúc Bảo lại càng thấp thỏm, đứng ngồi không yên. Bọn đầy tớ đùa: 
- Tần quý khách từ lúc được viên ngoại hứa cho về quê, mặt mày trông thật rạng rỡ hẳn. 
Thúc Bảo cố tình lên giường nằm ngủ. Vì sao Hùng Tín phải giữ Thúc Bảo mãi đến nay mới cho về, thì ra từ ngày mùng một tháng mười, mua được con hoàng phiêu của Thúc Bảo, sau đó được Bá Đương, Huyền Thúy nói cho biết mọi chuyện, Hùng Tín liền gọi thợ yên ngựa giỏi, theo kích thước của con hoàng phiêu làm một bộ yên cương thật đẹp, khảm bạc, bịt đồng hẳn hoi, mãi tới tết nguyên tiêu vừa rồi mới xong, thật tinh xảo, ánh kim lấp lánh. Lại muốn tặng Thúc Bảo một số vốn lớn, nhưng chỉ sợ Thúc Bảo không chịu nhận, nên mới làm một cái khăn lớn phủ trùm lên yên ngựa. Phía sau cái khăn này là một cái túi lớn, bạc đánh thành từng thỏi dẹp bỏ vào túi buộc lại phía sau yên ngựa, không hề nói gì với Thúc Bảo về số bạc này, coi như chỉ khăn phủ trên yên mà thôi. Rồi mới dắt con hoàng phiêu ra, để Thúc Bảo thấy ngựa đã cường tráng, yên cương đầy đủ, sẵn sàng cho Thúc Bảo lên đường.


Thúc Bảo ý muốn tới Đông Nhạc chào Ngụy Trưng, Hùng Tín liền cho người mời Ngụy Trưng tới nhị Hiền trang. Chủ khách cũng ngồi vào bàn tiệc. Bàn bên bày ra mười tấm gấm Lộ Châu ngũ sắc, đủ để làm bốn chiếc áo bông lớn và năm mươi lạng bạc làm lộ phí. 
Hùng Tín mời Thúc Bảo cạn một chén rượu, chỉ lễ vật trên bàn bên, nói: 
- Đây là lễ mọn, xin hiền huynh nhận cho. Xin hiền huynh nhớ kỹ đừng quên câu "Cầu vinh bất tại chu môn hạ", nhé! 
Ngụy Trưng tiếp lời: 
- Thúc Bảo hiền huynh chịu nép dưới kẻ khác, làm tổn thương cả chí khí kẻ anh hùng. Huống chi, Ngụy Trưng này đã từng gặp bậc dị nhân mách rằng: chân chúa đã ra đời, nhà Tùy chẳng còn được bao lâu. Anh hùng như hiền huynh, nhất định phải là kẻ công thần khai quốc. Ngụy Trưng này, dẫu có khoác chiếc áo vàng của đạo sĩ, chẳng qua cũng để đợi thời mà hành động. Hiền huynh hãy nghe lời viên ngoại. Trời sinh ta có tài, đừng để uổng phí? 
Thúc Bảo trong lòng thầm nghĩ: "Ngụy Trưng nói thế còn có lý. Còn Hùng Tín biết ta rất rõ, chỉ cần lưu lạc ở quê người vài tuần, đã trở thành kẻ khố rách ngay. Nay với mấy chục lạng bạc này, mà bảo ta đừng vào làm việc ở phủ đường nữa. Có ngờ đâu rằng, ta tuy làm việc ở phủ đường nhưng chỉ cần đi lại với bạn bè trên dưới, những chi phí lễ nghĩa, thì một năm cũng được mấy trăm lạng rồi! Thế mà Hùng Tín nói chuyện đâu đâu!”. Thúc Bảo nghĩ vậy nhưng vẫn đáp lời Ngụy Trưng: 
- Những lời vàng đá của các vị huynh trưởng, tiểu đệ xin ghi nhớ vào gan dạ. Lòng trở về như tên bắn, không thể uống nhiều. 
Hùng Tín lấy chén, rót ba chén, cùng Thúc Bảo uống cạn. Ngụy Trưng cũng rót ba chén cùng uống với Thúc Bảo. Thúc Bảo nhận tặng vật của Hùng Tín, buộc vào sau yên, chắp tay vái biệt. Chính là: 
Dùng dằng không nỡ rời tay 
Rượu ngon mà chẳng dám say chén kề 
Đốt lòng ta, nỗi nhớ quê 
Nào đâu dám nhẹ chia ly buổi này. 


Ra khỏi cửa vừa lên ngựa, Thúc Bảo đã kéo thẳng dây cương. Hoàng phiêu đã nhận ra chủ cũ, ngựa mạnh, người khỏe, đi một hơi đã thấy ba mươi dặm. Lúc này mới dừng cương, Thúc Bảo quay nhìn, thì thấy hành lý sau yên đã sa hẳn một bên. Nếu Thúc Bảo tự chuẩn bị hành lý, yên cương, thì đã cân đối, chắc chắn, nhưng đây lại là bọn đầy tớ của Hùng Tín buộc không chặt, nhất lại bạc nặng gói bên trong, ngựa chỉ cần phi một đoạn đã lỏng thêm rồi. Thúc Bảo trông thấy nghĩ thầm: "Buộc không chắc, bạn bè cho gì, rơi dọc đường hết, thật là phụ lòng tốt của bạn. Không được chậm, nhưng cũng không được sai sót, phía trước đã là thôn trấn nào đó, hãy nghỉ lại đêm nay. Sáng sớm canh năm, ta trở dậy buộc lại mọi thứ hãy đi, thì chẳng mất mát gì được nữa?" Thúc Bảo liền tìm vào quán trọ. Vùng này vốn là rừng Tạo Giác, cũng bởi vận hạn của Thúc Bảo chưa hết, nên vẫn phải còn một tai họa lớn nữa. 
Chẳng biết tính mạng Thúc Bảo ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

HỒI 12
Rừng Tạo Giác hở cửa chuốc tai ương,
Thôn Thuận Nghĩa trên đài gặp địch thủ.

Thơ rằng: 
Giàu nghèo vốn chuyện rủi may 
Giàu mà rủi, nghèo gặp may, sự thường 
Túi đầy châu nặng, dễ vương 
Nhà thanh bạch, trí như gương, khác gì 
Thạch Sùng (1) chuyện cũ còn ghi 
Băn khoăn nữa, thì cứ đi hỏi trời. 


1 Thạch Sùng: giàu nổi tiếng đời Tấn. Rất xa hoa lấy nến làm củi, bạn với Vương Khải. Bị dèm pha, đến nỗi Triệu Vương giết giữa chợ, vợ con, của cải mất hết. Tương truyền cùng Vương Khải thi giàu bị thua, hóa thạch sùng, tắc lưỡi vì tiếc của. 

Phàm người ta, không tiền của khó mà mở mày mở mặt, nhưng trong tay nhiều tiền của thì thường hay mắc lụy. Làm một người dân thường, lắm của nhiều tiền, trước nhất được mang tên thằng tù giữ của, rồi quan ty nhìn ngó, thân hữu ghét ghen. Nếu để người ngoài thấy túi nặng, tất xảy chuyện cướp đoạt, đi một bước ngại ngần, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, thật là trong phúc có họa, rất dễ mang họa vào thân. 

Nói chuyện vào lúc Thúc Bảo đặt chân đến rừng Tạo Giác. Vùng này thường vẫn có cướp, chuyên cướp đoạt hành lý của khách lại qua. Đơn gửi về phủ Lộ Châu kể cớ hàng mấy chục, nhưng quan quân vẫn chẳng làm gì nên chuyện. Ở đây, có một chủ quán trọ họ Trương, tên Kỳ, lâu nay vẫn là bảo chính trông coi cả vùng. Vợ Trương thì cả ngày ngồi sau quầy hàng, đon đả chào mời, sai phái đàn em, lôi kéo hành lý, tranh nhau khách khứa với các hàng khác. Hôm ấy họ Trương vừa bị Sái Thái thú Lộ Châu đánh cho mười roi, bắt phải tóm cho kỳ được bọn cướp ở rừng Tạo Giác. Từ quan chí dân, ai cũng biết giữa bọn cướp với những quán trọ trong vùng đều một cánh với nhau, chính vì biết thế, nên Sái Thái thú mới khoác chặt việc này lên cổ Trương Kỳ. Trời vừa tối, họ Trương cũng vừa kịp kéo bọn lính của bọn phủ về tới cửa quán. Thúc Bảo đang trong phòng trọ, nghe bên ngoài ồn ào tiếng người, tiếng ngựa, tưởng có khách trọ mới tới nên không để ý. 

Trương vào nhà, kể lể với vợ: 
- Bọn cướp thì được của rồi chuồn mất. Lão Thái thú thì ôn dịch hồ đồ, đem cái việc khổ sở này buộc vào cổ ta chẳng khác gì bắt gió, giỡn trăng. Bảo ta tìm đâu ra bọn cướp để nạp bây giờ. 

Vợ Trương khẽ ra hiệu, vợ chồng dẫn nhau vào nhà trong, bọn lính bám theo để nghe vợ chồng rương bàn bạc ra sao. Vợ Trương thì thầm: 
- Vừa chiều có một khách trọ mới vào, rất đáng nghi ngờ. 
Bọn lính nghe thế, vội xúm lại hỏi: 
- Xin bà chủ nói rõ xem nào. Việc này quả rất đáng quan hệ đến mạng sống chúng tôi đấy! 
Vợ Trương đáp: 
- Các bác đừng to tiếng thế. Khách hiện vẫn đang trong quán mà! 
Một tên lính hỏi dồn: 
- Làm sao bà chủ biết được người khách trọ này đáng ngờ nào? 
Vợ Trương đáp: 
- Người này mặc quần áo mới, dây khăn chỉnh tề, lại mang khí giới, cưỡi một con ngựa cao lớn. Nếu là nhân viên phải có lính tráng theo hầu, là khách buôn thì cũng phải có bạn bè, đầy tớ, đằng này lại một mình vào quán, không đáng nghi ngờ còn gì nữa? 
Bọn lính cùng khen nịnh: 
- Bà chủ nói có lý lắm. Trước hết là cứ xem con ngựa của hắn ra sao là biết! 
Cả bọn cầm đèn ra phía chuồng ngựa, thì rõ là một con ngựa to khỏe không phải là vùng Lộ Châu mà là ở nơi xa đến, không khác gì ngựa của bọn cướp vẫn thường có. Một người lính khẽ hỏi: 
- Hắn đang ở phòng nào? 
Vợ Trương giơ tay chỉ: 
- Hiện đang ở phòng ngay gần cửa kia. 

Cả bọn lại tắt hết đèn đóm, giờ chỉ còn mỗi phòng Thúc Bảo sáng đèn. Cả chủ quán lẫn bọn lính rón rén nhìn qua khe cửa thì thấy Thúc Bảo vừa ăn bữa tối xong, mọi thứ đã thu dọn tươm tất, rồi đóng chặt cửa phòng, sửa soạn hành lý, chăn gối định đi ngủ để mai còn đi sớm. Mở túi hành lý ra, Thúc Bảo mới biết có rất nhiều thỏi bạc trong đó, tò mò không rõ ít nhiều lại cũng chưa thể ngủ ngay được nên Thúc Bảo đổ tất cả ra giường, thì thấy một giường đầy những thỏi bạc đã được đập dẹp lại, vuông vắn chẳng khác gì những viên gạch nhỏ. Thúc Bảo vừa mừng vừa ngạc nhiên cảm kích, thầm nghĩ: "Đơn Hùng Tín, Đơn Hùng Tín! Đại huynh bảo Tần Quỳnh ngày trở về Sơn Đông, đừng nên nhận làm tiếp công sai ở phủ đường, là do những thứ đại huynh đã chuẩn bị sẵn cho thế này đây. Nhưng sợ ta từ chối, nên phải giấu kỹ trong khăn gói. Đơn nhị ca thật hết lòng với bạn bè!". Vì chưa biết mỗi thỏi nặng bao nhiêu, Thúc Bảo đặt từng thỏi lên lòng tay ướm thử. Có ngờ đâu “bên vách vẫn có tai, ngoài đâu có vắng". Bọn lính thấy vậy, bàn với nhau: "Đúng là tướng cướp rồi. Nếu là khách thường, tiền ở nhà đem đi, nhiều ít nặng nhẹ, thì biết rõ cả. Hoặc nữa, tiền chủ giao cho, thì đã cân đếm rõ ràng, chẳng thể có chuyện không biết, để đến nỗi giữa quán trọ, ngồi xem nặng nhẹ. Số bạc này khó mà chối là không phải của ăn cướp, còn tay này rõ là cường đạo không còn hồ nghi gì nữa". Có kẻ giục: 
- Trói hổ không nên trù trừ. 

Trước hết, bọn lính dắt ngựa giấu đi chỗ khác, rồi chọn lấy cái dây thật tốt, đến trước cửa phòng Thúc Bảo, buộc vào cột, vào càng xe, vào chân hòm lớn nhằm làm vướng ngã Thúc Bảo. Giờ chỉ cần một người có gan vào phòng dụ Thúc Bảo ra. 

Chủ quán họ Trương từ lúc thấy bạc của Thúc Bảo bày trên bàn, trong lòng đã nghĩ: "Của này ở đâu ra, ai mà khảo được, chi bằng xông vào trước cướp lấy mấy thỏi, sợ gì tay này". Họ Trương bèn nói với bọn lính: 
- Xin các bác thư thả. Các bác vốn không quen đường ra cửa vào của quán, hãy đợi tôi xông vào trước, dụ hắn ra có tốt không? 
Bọn lính vốn dày dạn, đáp ngay: 
- Vâng, xin nhường bác vào trước! 

Họ Trương nguyên đã uống tới hai ba bát rượu hâm nóng, hùng hổ đạp mạnh cánh cửa. Cửa quán vốn đóng mở đêm ngày, lại cũng đã lâu nên chỉ cần họ Trương đạp nhẹ cũng gãy nát, Trương lập tức xông vào. Thúc Bảo hoàn toàn bất ngờ, thấy có kẻ đột nhiên xuất hiện, cướp bạc của mình, nổi giận đùng đùng, hai tay đấm tới tấp, nghe bịch, bịch liên tiếp mấy cái, đã thấy họ Trương bắn ra tường, chỉ kịp rú lên một tiếng khủng khiếp, đầu đã vỡ nát, óc bắn tung tóe khắp phòng. 
Chính là: 

Những tưởng bạc vàng vào túi cạn 
Nào ngờ tính mạng gửi trời cao. 

Bên ngoài cảnh tượng càng nhốn nháo, tiếng la hét ầm ĩ: 
- Kẻ cướp đánh lính, giết người! 

Cả nhà họ Trương thi nhau gào khóc. Thúc Bảo thoáng nghĩ: “Thôi đã lỡ tay đánh chết người, nếu vào thành thú tội, nợ không biết bao giờ gỡ cho xong. Ta lại chưa khai họ tên gì với chủ quán, chi bằng vứt quách hành lý, bỏ trốn là hơn." Lập tức Thúc Bảo lao thẳng ra khỏi cửa, không ngờ vướng ngay dây, ngã lăn quay ra đất. Bọn lính xúm lại dùng câu liêm vừa chặn vừa kéo, lại vác năm sáu cây thủy hỏa côn, nện tới tấp. Thúc Bảo chỉ còn cách nằm co dúm lại, hai tay ôm chặt lấy đầu, mặc cho bọn lính đánh, cán dao gãy, đoản côn nát, chúng lại lấy roi sắt, gậy, đây xích quật tiếp, thì ra: 

Hổ lọt hang sâu khôn giơ vuốt 
Rồng trong lưới sắt khó bay cao. 


Khi khắp người Thúc Bảo đã đầy thương tích, chúng cởi hết quần áo, lấy dây trói chặt, đem giấy bút lại, bắt Thúc Bảo ký nhận là cường đạo. Thúc Báo chối: 
- Các bác xem lại. Tôi đâu có phải là cường đạo. Mà là công sai của phủ Tế Châu, dưới trướng Lưu thái thú. Tháng tám năm ngoái phải giải phạm nhân, đem công văn tới phủ Lộ Châu, không may bị ốm đau, được bạn bè chu cấp tiền về quê. Nào ngờ các bác nhận nhầm người là cường đạo, đến nỗi lỡ tay đánh chết người, xin các bác cứ giải lên quan xét xử rõ ràng. 

Bọn lính đâu dễ tin, chúng thu thập tất cả tiền bạc, đồ đạc, khai rõ từng tang vật, trói Thúc Bảo lên lưng ngựa. Vợ con Trương Kỳ nhờ người trong thôn viết sẵn đơn kiện, rồi cả bọn rời khỏi rừng Tạo Giác đi về phủ Lộ Châu. Đây là lần thứ hai, Thúc Bảo đến thành Lộ Châu. 
Đến cổng thành thì đã canh ba, cả bọn gào gọi lính gác: 
- Rừng Tạo Giác bắt được giặc cướp, đánh lính, giết người, nhờ báo hộ với quan Thái thú! 

Lính gác vào trình, Sái thái thú lập tức sai lính ra mở cổng thành, đưa cả đoàn vào phủ, cho gọi tham quan tới xét hỏi. Tham quân Lộ Châu vốn là Hộc Tư Khoan, người Liêu Tây, đang ngủ say bị gọi dậy, rượu lại chưa tỉnh, liền gọi bọn lính hỏi trước, nghe xong, nôi ngay: 
- Thu được hơn bốn trăm lạng bạc, có ngựa khỏe, có vũ khí nặng thì rõ là kẻ cướp rồi còn gì nữa! 
Rồi cho giải Thúc Bảo vào, quát: 
- Tên kia, họ tên gì, quê quán ở đâu? 
Thúc Bảo vội thưa: 
- Trình quan lớn, tiểu nhân không phải kẻ cướp, mà là Tần Quỳnh, công sai của phủ Tế Châu. Tháng tám năm ngoái đến đây, có giấy tờ của Lưu thái thú nhận thực hẳn hoi. 
Tham quân họ Hộc hỏi: 
- Giấy tờ đâu? 
Thúc Bảo thưa: 
- Thưa đã gởi bạn cầm về trước cả rồi! 
Họ Hộc lại nạt: 
- Lại nói láo rồi! Tại sao mày đến phủ này từ tháng tám, giờ vẫn còn ở đây, nhất định lại ẩn náu ở sào huyệt gần đây hẳn thôi! 
Thúc Bảo thưa: 
- Tiểu nhân bị ốm đau nên chưa về được! 
Họ Hộc lại truy: 
- Số bạc lớn này lấy đâu ra? 
Thúc Bảo thưa: 
- Của bạn bè cho ạ! 
Họ Hộc lại quát: 
- Nói láo, thời buổi bây giờ, một đồng cũng khó kiếm, ai có mà cho mày một lúc bấy nhiêu. Nhưng sao lại dám chống cự lại lính, đánh chết Trương Kỳ? 
Thúc Bảo thưa: 
- Chiều tối ngày mười chín, tiểu nhân vào trọ quán Trương Kỳ, bỗng dưng Trương Kỳ dẫn người xông vào phòng trọ cướp bạc của tiểu nhân. Tiểu nhân lỡ tay, Trương Kỳ đâm đầu vào tường chết. 
Họ Hộc lại truy tiếp: 
- Đánh lính, giết người, tội đã rõ. Lúc này đem công văn tới Đây, ăn ngủ ở đâu. Nếu thật có ốm đau nữa, thì nằm ở đâu, ai trông nom, khai rõ tên từng người, ta sẽ cho gọi tất cả lên đối chứng rõ ràng, phải có phải, trái có trái, rồi sẽ kết tội cũng chưa muộn. 
Thúc Bảo chỉ còn cách khai Vương Tiểu Nhị, Ngụy Trưng, cùng Đơn Hùng Tín, tham quân họ Hộc ghi tất cả vào biên bản, kiểm tra tang vật, cho nhốt ngựa vào chuồng, chờ gọi đủ nhân chứng đến thẩm vấn, đưa Thúc Bảo xuống giam trong nhà ngục. 
Chính là: . 

Bỗng không thân rơi vòng tù tội 
Nghìn miệng khó chối nỗi tai ương. 


Ngày hôm sau, Hộc Tham quân trình với Sái thái thú: 
- Phạm nhân hôm qua đại nhân cho đưa xuống, tên gọi Tần Quỳnh, phạm tội chống lính giết người, khai là công sai của phủ Tế Châu, nhưng không có công văn làm bằng cứ, lại có rất nhiều bạc, kèm cả khí giới ngựa khỏe, rất đáng khả nghi. Việc đánh chết Trương Kỳ đã có xác thực, nhưng còn chờ khám nghiệm tử thi, thẩm vấn tội phạm, cùng can phạm, lúc đó mới có kết luận trình đại nhân. 
Sái Thái thú nói: 
- Việc này lớn, phiền tham quân lưu ý tra xét cẩn thận cho. 
Họ Hộc trở về phòng, xem xét lại giấy tờ, cho gọi Vương Tiểu Nhị, Ngụy Trưng, Đơn Hùng Tín vào phủ đối chứng. 
Vương Tiểu Nhị ở ngay trước cửa phủ, chưa cháy hết cây hương đã tới. Y khai quán trọ của mình vốn là nơi ăn ngủ của công sai các phủ, ngoài ra không biết gì khác. Phủ đường Lộ Châu ai cũng biết tên tuổi, tâm địa y, nên được tha ngay. Ngụy Trưng bị gọi đến, bởi có chứa chấp Thúc Bảo, cũng bị dọa nạt ít nhiều, phải mất một thỏi bạc lớn mới được tha về. Còn Hùng Tín sai đầy tớ mang theo hàng nghìn lạng bạc sớm tối tự mình cùng đầy tớ đi khắp nơi trong phủ, lại vốn quen biết Đổng Hoàn, hiệu Bội Chi và Kim Giáp hiệu Quốc Tuấn, đều là những bậc đàn anh trong đám nha lại của phủ Lộ Châu. Hùng Tín giao cả số bạc lớn đó cho hai người này lo lót các nơi trong phủ. 

Đông Kim vì thế tìm vào tận ngục gặp Thúc Bảo nhiều lần, bàn cách khai báo cho khớp. Cho tham quân họ Hộc cũng được lo lót trước tiên, vì thế những vụ liên can đến Ngụy Trưng cũng được nhẹ nhàng, trôi chảy. Việc khám nghiệm tử thi ở Tạo Giác, Bội Chi cùng Quốc Tuấn đã đút lót cho bọn tay chân, đổ cho Trương Kỳ đập đầu phải tường mà chết. Bọn lính ở đội bắt cướp lần đó, vì cũng đã được lót tay rất hậu, nên cũng không tên nào kêu ca gì. Còn số bạc nhiều đến thế, cả bọn đã dặn Thúc Bảo khai là của Bồ Sơn Công Lý Mật và Vương Bá Đương cho. Từ đó, Thúc Bảo không bị hành hạ, đánh đập gì nữa. 

Tờ thẩm vấn được viết lại như sau: 

Thẩm tra Tần Quỳnh, công sai phủ Tế Châu, có công vụ tới Lộ Châu, công vụ đã xong, công văn trở về đã nhận. Nhân vì ốm đau, chưa về ngày được. Lần lửa nơiquán trọ. Trương Kỳ thấy bạc nhiều, đã vội nghi ngờ, xông vào làm dữ. Tần Quỳnh trong lúc hốt hoảng, ra sức chống trả, khiến Trương Kỳ dập đầu vào tường mà chết. Nếu ghép tội cố sát thì cũng quá nặng, chỉ nên định tội ngộ thương là đúng. Số bạc hiện có, cả hai lần tra, đều khai là của Lý Mật và Vương Bá Đương cho. Bởi không thể gọi bọn Lý Mật đến cửa quan đối chất, tạm coi như của bị cáo vậy. 

Vì được ghép tội ngộ thương, nên Thúc Bảo chỉ phải xung quân. Cũng vì các triều vua, luật pháp khác nhau, nếu không phải của ăn cướp thì tiền bạc hành lý của phạm nhân hoặc được trả lại, hoặc đưa vào kho cất giữ. Thúc Bảo do còn lo đỡ bị tội nặng, nên tiền của, vũ khí, cho đến cả ngựa đều phải nạp vào kho phủ Lộ Châu. Bắt người, đánh đập, vu cho là cướp, đáng cũng phải xử tội nhưng đám lính đều đổ lên đầu Trương Kỳ đã chết, phía Thúc Bảo cũng không dám làm găng chuyện này, nên bọn lính chẳng những không bị tội tình mà còn được chấm mút ít nhiều. 

Hôm xét xử ở công đường, tham quân họ Hộc giảng giải hồi lâu. Sái Thái thú bằng lòng, mọi chuyện xong xuôi. Thúc Bảo thoát tội chết, phải phát phối xung quân dưới trướng tổng quản U Châu. Đến hôm giải đi, Hùng Tín lại lo lót để Bội Chi, Quốc Tuấn làm luôn việc công sai giải Thúc Bảo. Nên chỉ vừa mới ra khỏi thành, cùm tay đã được cởi, các hình cụ được bỏ hết, lại còn được vào trang Nhị Hiền, gặp Hùng Tín để tạ ơn cứu mạng. 

Hùng Tín từ tạ: 
- Chuyện này là chính Hùng Tín này làm lụy đến hiền huynh còn tạ ơn nỗi gì. 
Thúc Bảo thưa: 
- Cũng vì tiểu đệ đang hồi vận hạn mới gặp phải vạ này, nếu không được Đơn nhị ca thủy chung lo trọn thì cũng đã làm ma trong nhà ngục rồi. 

Hùng Tín lại xin Bội Chi, Quốc Tuấn ở nhà với vợ con vài hôm, để Thúc Bảo được ở lại Nhị Hiền trang vài ngày, tắm rửa, thay quần áo nghỉ ngơi, rồi chuẩn bị hành lý, gói thêm một trăm lạng bạc cho Thúc Bảo. 
Vài ngày sau, theo hẹn, Bội Chi, Quốc Tuấn kéo đến, Hùng Tín bày tiệc rượu tiễn hành. Ăn uống no say, Hùng Tín lấy ra một phong thư đưa cho hai người, dặn dò: 
- Xin hai vị nhớ cho, nếu ở Sơn Đông, Hà Nam thì Thúc Bảo đây bạn bè rất nhiều. Nhưng ở U Châu, Hà Bắc thì lại ít người quen thuộc. Chỉ sợ mai kia, có việc phải lo liệu mà lại "tứ cố vô thân" nhưng thêm khốn khổ, nên Hùng Tín viết thư này giới thiệu Thúc Bảo và các vị với Trương Công Cẩn, ở thôn Thuận Nghĩa, thuộc Trác Quận, vốn là bậc hào kiệt trong vùng, cùng Hùng Tín này là quan hệ “bát bái chi giao". Nhờ Công Cẩn cùng đi với các vị đến U Châu, việc đi lại ở cửa công, Công Cẩn sẽ giúp thêm một tay với các vị. 
Hai người đáp: 
- Chúng tiểu đệ nhớ rồi! 
Từ biệt Hùng Tín, cả ba rời Nhị Hiền trang. 
Chính là: 
Dặm dài vui đón xuân về 
Liễu điều vội rũ tóc thề xanh xanh. 


Cả ba vừa đi vừa trò chuyện, tình thân càng thêm gắn bó. Bất giác mấy ngày sau đã tới Trác Quận, khoảng giờ tỵ thì đến thôn Thuận Nghĩa. Giữa thôn là một đường lớn, quây quần xung quanh là bốn năm trăm nóc nhà. Phía đầu đường thứ hai thấy có một quán trọ khá tươm tất, Thúc Bảo dừng lại, nói:
 
- Hai vị, vào tìm Trương Công Cẩn đưa thư, mà bụng đã đói, lẽ nào lại đòi ăn ngay. Người đời thường bảo: "Vào nhà quen, chẳng bằng lên quán trọ". Ta hãy vào quán này ăn bữa trưa, sau đó hãy tìm đưa thư cũng chưa muộn. 
Bội Chi, Quốc Tuấn đều đáp: 
- Đại huynh nói có lý lắm! 
Chủ quán đon đả bày chè nước, rồi sau đó cơm rượu. Ăn uống xong, Thức Bảo cùng Bội Chi, Quốc Tuấn ra cửa quán đứng nhìn. 
Chỉ thấy vô số thanh niên, phụ lão, có kẻ cắp côn, người cầm giáo kéo đi lũ lượt, chuông trống rộn rã. Trên ngựa lớn, một người to khỏe, đầu chít khăn chữ vạn, đính hai đóa hoa bạc, y phục toàn bằng lụa màu sặc sỡ, giải bay phấp phới. Theo sau là một đoàn tráng đinh gươm giáo tuốt trần. Thúc Bảo hỏi chủ quán: 
- Hảo hán được đón rước kia là ai? 
Chủ quán thưa: 
- Thôn Thuận Nghĩa chúng tôi lâu nay được đón Thái tuế về mở Đả lôi đài (1) 
1 Thái Tuế: từ của phép tử vi, bói toán, chỉ sự vận hạn hung dữ. 
Thúc Bảo hỏi tiếp: 
- Sao lại gọi bằng cái tên khác thường này? 
Chủ quán đáp: 
- Quý khách không biết. Ông này vốn họ Sử, tên kép Đại Nại, nguyên là tướng Phiên, vào trung nguyên rồi không về nữa. Gần đây đầu quân dưới trướng La Thái thú ở U Châu. La Thái thú thấy Sử Thái tuế có tài, nhưng cũng muốn xem bản lĩnh thực hư ra sao, mới lệnh cho thôn Thuận Nghĩa chúng tôi mở Đả lôi đài trong ba tháng, nếu không có ai thắng nổi, sẽ cho thực giữ chức kỳ bài quan. Từ mùa đông năm ngoái đã dựng đài, nay là tiết thanh minh. Lúc đầu một vài hảo hán gần đây, sau cũng thêm vài hào kiệt xa tới, đấu đã nhiều trận, nhưng chưa ai thắng nổi Thái tuế, một trận hòa cũng không. Hôm nay đón Thái tuế lên đài ngày cuối. 
Thúc Bảo hỏi: 
- Hôm nay có còn đấu nữa không? 
Chủ quán đáp: 
- Dạ, thưa còn đấu một ngày hôm nay nữa. Ngày mai thì vừa hết hạn ba tháng. 
Thúc Bảo lại hỏi: 
- Chúng ta đi xem có được không? 
Chủ quán đáp: 
- Đừng nói xem, quý khách muốn lên đài dự đấu cũng xin cứ tự tiện. 
Thúc Bảo dặn: 
- Chủ quán trông coi hành lý cho chúng ta ra "Đả lôi đài" xem, về sẽ thanh toán tiền nong sau. 
Nói rồi rủ Bội Chi, Quốc Tuấn, giắt theo ít bạc cẩn thận vào lưng áo ra đi. 
Ba người ra khỏi quán, đi theo dòng người tấp nập kéo về phía bắc đường lớn, ngay ở miếu Linh Quan. Võ đài được dựng trên mấy mẫu ruộng bỏ hoang trước miếu, cao tới chín thước, chu vi tới hai mươi tư trượng, xung quanh đài xúm xít hàng mấy nghìn người. Sử Đại Nại đang vênh vang bước lên đài. Ba người chen vai thích cánh mãi mới vào được cạnh cánh gà, vẫn chưa thấy ai lên thách đấu. Lại thấy ở đầu cánh gà bên trái có hai hàng lan can sơn đỏ, có đến chục người xung quanh. Ở trong lan can, đặt một cái hòm lớn, trên hòm có một cái cân treo, lại có mấy người cân bạc bỏ vào hòm. Ba người chen lại gần lan can. Thúc Bảo hỏi: 
- Võ đài là nơi tỷ thí võ nghệ, đặt hòm và cân ở đây làm gì quý vị? 
- Quý vị không biết. Sử Thái tuế chúng tôi thu lệ phí lên đài. 
Thúc Bảo hỏi: 
- Thì ra đấu võ để kiếm lời à? 
Người kia đáp: 
- Quý vị không biết. Lúc đầu đã làm gì có chuyện này. Lập đài xong, "Một tiếng sấm vang trời đất biết, Ngũ hồ bốn biển thảy đều nghe". Anh hùng hào kiệt quần tụ dưới đài. Sử Thái tuế chúng tôi vốn cẩn thận, sợ những kẻ võ nghệ tầm thường dễ bị trọng thương, rồi chẳng có bằng cứ gì để xem xét, nên người nào muốn lên đài, đều phải viết một giấy nhận thực, khai rõ họ tên, tuổi tác, quê quán, sau đó cam đoan dẫu bị thương, chết chóc cũng không tranh kiện. Những việc khai báo này nhiều vị không thích. Trong lúc đua tranh hơn kém, ai chẳng muốn phần thắng, nhưng thua thì tên tuổi, quê quán trong giấy khai, rửa đến bao giờ cho sạch. Cho nên, Sử Đại Nại không bắt làm giấy nhận thực nữa, mà lại lập thêm cái quầy này, của vốn liền người, ai muốn lên đài thì đến đây nộp bạc là xong. 
Thúc Bảo tiếp: 
- Nạp bao nhiêu? 
Người kia lại đáp: 
- Không nhiều. Mỗi người chỉ năm lạng. Không kể nhiều hay ít người, cứ giao đủ số bạc. Sử Đại Nại sẽ phất lệnh lên đài. Người thứ nhất đã lên đài rồi, người thứ hai làm thủ tục. Đã xuống đài thì không được lên nữa, cứ thế đến người khác. Trong lúc thi đấu, ai đánh được Sử Đại Nại một đòn, sẽ được gấp mười lần bạc. Ai thắng được một trận, sẽ được năm mươi lạng bạc. Nếu thắng được vì dùng “song phi cước" sẽ được một trăm lạng, vì dùng "vạn dịch thôi quý" làm đối phương ngã ngửa, sẽ được một trăm năm mươi lạng. Ngược lại nếu bị đánh đến tàn tật cũng không được oán thán. Từ khi khai mạc "Đả lôi dài" đến giờ, đã có tới hơn hai trăm vị bị Sử Thái tuế đánh bại. Chỉ trong vòng một tháng, thu được hơn nghìn lạng bạc. Những kẻ có tiền mà không có bản lĩnh, vì vậy cũng không dám tham dự. Kẻ tự cho mình là có bản lĩnh nhưng không có tiền cũng có cớ để không lên đài. Cho nên hai tháng sau, kẻ đấu ít hẳn. Hôm nay, ngày kết cục, chúng tôi lại bày mọi thứ ra đây; may ra có bậc hào kiệt nào đến vào ngày hôm nay chăng. 
Thúc Bảo cười nói với Bội Chi, Quốc Tuấn: 
- Kẻ hào kiệt cũng phải giỏi cả những việc tính toán như vậy, phải không hai vị? 
Bội Chi thăm dò Thúc Bảo: 
- Đại huynh thử lên một chuyến. Biết đâu lại mở được đường tiến chức thăng quan. Bản lĩnh của đại huynh, chúng tiểu đệ đây đều rõ cả rồi. Lại được thêm một trăm năm mươi lạng bạc, đến nha môn U Châu cũng thêm tiền chi dụng. 
Thúc Bảo nói: 
- Hiền đệ ạ! Hơn thua đều có mệnh. Thời vận của tiểu đệ chưa đến. Tiền bạc của Đơn nhị ca cho, cũng chả có phúc cầm, nên mới xảy ra chuyện ở rừng Tạo Giác, rồi lại chuyện đày đọa ở Lộ Châu vừa rồi. Nếu thắng người, được từng nấy bạc, cũng hay đấy. Nhưng chưa đến thời, thì hãy biết đứng dưới mà xem là tốt hơn cả. 
Bội Chi ý muốn lên, bèn nói: 
- Hội này ít gặp, tiểu đệ phải lên mới xong. 
Bội Chi, Quốc Tuấn vốn không phải loại tiểu tốt vô danh, mà cũng là bậc hào kiệt ở phủ Lộ Châu. Việc đi lại giữa Thúc Bảo với hai người cũng chưa lâu, chẳng qua do việc quan, được Đơn Hùng Tín manh mối mà quen biết nhau, lại chưa từng cùng nhau thử sức, đọ tài. Thấy Bội Chi cao hứng, Thúc Bảo khuyến khích: 
- Hiền đệ "phùng trường tác hí" là chuyện đáng khích lệ. Tiểu huynh xin thay hiền đệ nạp đủ năm lạng bạc lệ phí. 
Thúc Bảo nạp xong, Bội Chi lên đài. Đài cao chín thước chia làm mười tám bậc. Bội Chi mới lên lưng chừng, thì hàng nghìn người phía dưới đã hò reo vang dội, khiến Bội Chi như thấy gân cốt rã rời. Thực ra, người xem hàng tháng nay, ít thấy người lên đài thách đấu, hôm nay ngày cuối cùng, thấy Bội Chi xuất hiện, khán giả đều hò hét cổ vũ. Bội Chi không nhận ra cử chỉ thân thiện đó của mọi người, nên có vẻ mất tinh thần chỉ yên lặng bước tiếp. Phía dưới, nhiều người gào to, khuyến khích: 
- Hảo hán! Hãy mạnh dạn lên! 
Về phía Sử Đại Nại, giữ đài đã ba tháng nay, chưa từng gặp một địch thủ tương xứng, nên càng "mục hạ vô nhân". Thấy kẻ vừa lên có vẻ do dự, Đại Nại đã coi thường, dáng như sư tử đứng trấn trước cửa, không cho người qua lại, dù bay phía trên, dù chui phía dưới. Bội Chi thấy đối thủ cao to, khó lòng đánh từ phía dưới, nên Bội Chi từ xa tung mạnh hai chân, rơi từ trên cao xuống trước mặt Đại Nại. Thấy vậy họ Sử dùng ngay thế "Vạn địch thôi quỳ", quét ngang chân Bội Chi, thành một đường dài sát mặt đất. Bội Chi nhún chân nhảy thoát. Rồi tay tả dưới thấp, tay hữu giơ cao, định túm mặt Đại Nại. Đại Nại chuyển sang "Chức nữ xuyên thoa", từ phía sườn cụt bên phải, chuyển sang tấn công vào sau lưng đối phương, nhanh như chớp, đã túm được giải thắt lưng lụa của Bội Chi, nạt lớn: 
- Ta không thèm chấp cỡ ngươi. Hãy cút đi cho khỏi bẩn mắt ta. 
Rồi chỉ với một tay, Đại Nại giơ đối thủ từ trên đài thả xuống. Từ dưới đài nhìn lên, chẳng khác gì chim yến ngậm sáp thả từ trên cao, khiến Bội Chi ngã lăn quay, mặt mày xám như bùn, hổ thẹn lủi ngay xuống đám đông. 
Thúc Bảo thấy thế, lửa giận bừng bừng, quát vang cả võ trường: 
- Hãy đợi đấy! 
Họ Tần định xông lên, nhưng bị ngay bọn phục dịch ngăn lại. 
- Xin tráng sĩ hãy nạp thêm bạc đã. Năm lạng lúc nãy thua hết rồi còn gì? 
Thúc Bảo không cãi nửa lời, lấy ngay ra một đỉnh bạc, vứt ngay vào trong quầy: 
- Còn thừa bao nhiêu, đấu xong ta sẽ xuống tính toán với các anh sau. 
Rồi từng bước, từng bước thoăn thoắt lên đài. Họ Sử ngước nhìn, lòng đã không dám coi thường. 
Đi vài đường "Tứ bình quyền " 
Đá mấy vòng "Song phi cước" 
Xương sườn nhô cao 
Bụng thời thóp sát 
Hai mắt sư tử giương to xanh biếc 
Hai chân đuôi cá quẫy mạnh tít mù 
Như hổ đói vồ mồi 
Như giao long rỡn nước 
Một tay Quan âm giơ thấp 
Hai chân La Hán nhún cao 
Đưa đường quyền dài tự nhiên trông đã sợ 
Quét đường quyền ngắn lo đỡ cũng chẳng xong. 

Trông không giống hai địch thủ đánh nhau, mà chẳng khác gì đôi hổ dữ tranh mồi, võ đài huyên náo lạ thường. Mẫu đơn tuy đẹp, cũng nhờ lá xanh nâng đỡ, Đại Nại ba tháng giữ đài ở thôn Thuận Nghĩa, chưa từng gặp đối thủ, một mình đóng vai hảo hán như một hổ một núi, lại cũng vì ở thôn Thuận Nghĩa có bậc chủ nhân Trương Công Cẩn, mới có dịp cho Thúc Bảo tìm tới đưa thư, để đến chuyện anh hùng tương ngộ. 
Bấy giờ Công Cẩn cũng đang ở Linh Quan miếu, trông coi nhà bếp chuẩn bị rượu thịt, chỉ chờ dỡ rạp là ăn mừng Sử Đại Nại. Lại có cả Bách Hiển Đạo, một bậc hào kiệt trong vùng, vốn là bạn rượu lâu nay của Công Cẩn. Cả hai đang ngồi trước bàn, sai bọn đàn em bưng mấy đĩa hoa quả trên điện xuống, cùng một vò rượu lạnh uống suông cho đỡ sốt ruột đợi chờ, thì thấy hai gã trai hoảng hốt chạy vào: 
- Hai vị đại huynh ơi! Sử Thái tuế coi chừng mất hết công lao mấy tháng nay mất! 
Công Cẩn vội hỏi: 
- Chỉ còn hôm nay nữa là xong công quả. Sao lại còn chuyện gì nữa? 
Một trong hai gã tranh nói trước: 
- Mới đầu Thái tuế thắng một trận rất nhẹ nhàng. Sau đó một khách lạ khác lên đài. Cả hai quần nhau đến ba bốn mươi hiệp vẫn không phân thắng bại. Chúng tôi ở dưới nhìn lên, thấy Thái tuế chân tay bắt đầu loạn xạ, không đương nổi địch thủ nữa, nên vội về báo hai vị đại huynh, liệu có cách nào đối phó chăng? 
Công Cẩn nói: 
- Lại có chuyện thế nữa sao? Trèo cây đã sắp tới ngày hái quả rồi, thì lại gặp miếng khó gặm. Biết đối phó thế nào bây giờ? 
Rồi rủ Hiển Đạo: 
- Bạch Hiền đệ, chúng ta hãy bỏ vò rượu đó đã, ra đài xem sao! 
Ra khỏi miếu, rẽ đám đông vào, thấy trận đấu vẫn đang lúc gió thảm mưa sầu, trời long đất lở. 
Chính là: 
Trùy nặng đấu với cọp đen 
Thần thông sức quỷ thử xem thê nào 
Thanh thiên đối mặt đài cao 
Yếu thua khô rách tránh sao bây giờ! 

Công Cẩn thấy trận đấu đang lúc dữ dội, không thể lên đài, bèn hỏi người xem bên cạnh: 
- Vị này ở đâu tới thế? 
Người xem bèn chỉ Bội Chi, Quốc Tuấn nói: 
- Vị từ đầu chí thân đầy bùn đất, là vừa mới thua ở trên đài xuống. Vị quần áo còn đang sạch sẽ kia thì chưa từng lên đài. Cứ hỏi hai vị đó, thì biết ngay vị đang đấu trên đài là ai. 
Công Cẩn vốn cũng bậc hào kiệt, danh uy một cõi, nên cũng nhã nhặn, đường hoàng, chấp tay thi lễ rồi hỏi Bội Chi: 
- Quý hữu, vị đang đấu trên đài là ai thế? 
Bội Chi trong lòng đang bực bội, vừa lau sạch bụi đất trên mặt, nhưng tay chân, quần áo vẫn đầy bùn đất, lại hăm hở theo dõi Thúc Bảo đang thắng thế, nên chẳng còn lòng nào chuyện trò: 
- Quý hữu, hỏi chuyện lôi thôi làm gì, cứ xem họ đánh là đủ. 
Công Cẩn đáp: 
- "Tứ hải chi nội, giai huynh đệ dã", chỉ sợ bạn bè đụng độ, hối lại không kịp. 
Quốc Tuấn chưa lên đài, bình tĩnh hơn, tiến lại vái chào, trả lời: 
- Quý hữu, chúng tôi cũng đều là những người có tên tuổi, cũng muốn lên đài tỷ thí xem sao, nhưng cũng không muốn bàn bạc dài dòng, nhỡ có thua trận, ở thôn Thuận Nghĩa này cũng lại còn bạn bè quen biết. 
Công Cẩn hỏi: 
- Chư huynh quen biết ai trong thôn? 
Quốc Tuấn đáp: 
- Đơn nhị ca ở Nhị Hiền trang thuộc Lộ Châu có thư, gửi tới đại ca Trương Công Cẩn ở Nghĩa Thuận, nhưng cũng chưa kịp tới nhà đưa thư. 
Công Cẩn cười ha hả. Bạch Hiển Đạo chỉ Công Cẩn: 
- Đây chính là Trương đại ca. 
Quốc Tuấn vội vàng: 
- Thì ra Trương đại ca, chúng tôi thật đắc tội. 
Công Cẩn hỏi: 
- Thưa hai vị, xin cho biết quý tính, cao danh. 
Quốc Tuấn đáp: 
- Tiểu đệ là Kim Giáp, vị này Đổng Hoàn. 
Công Cẩn tiếp: 
- Thì ra là hào kiệt ở Lộ Châu. Còn vị trên đài là ai thế? 
Quốc Tuấn đáp: 
- Chính là Tần Thúc Bảo người Lịch Thành, Sơn Đông. 
Công Cẩn vừa giơ tay vừa vẫy vừa gào lớn: 
- Sử hiền đệ hãy dừng tay ngay, đấy chính là đại huynh Tần Thúc Bảo vẫn thường nghe. 
Thúc Bảo và Đại Nại cùng thu quyền. Công Cẩn dắt Bội Chi, Hiển Đạo kéo Quốc Tuấn, cả bốn lên đài, nói cười vui vẻ. Sáu bạn gặp nhau, vái chào nhận lỗi. Công Cẩn nói lớn: 
- Xin mời chư vị khán giả giải tán thôi. Chẳng phải người xa lạ mà phải so tài cao thấp, nguyên đều là bạn bè đến thăm hỏi nhau cả thôi. 
Rồi phân phó tay chân đem hòm xiểng vào miếu Linh Quan, mời Thúc Bảo xuống đài, trải chiếu làm lễ giao bái, chắp tay mời nhau vào chỗ ngồi. Công Cẩn giơ tay hỏi:
- Xin quý vị cho biết hành lý hiện nay đang ở đâu? 
Thúc Bảo đáp: 
- Ở quán trọ, nhà thứ hai ở đầu đường vào. 
Công Cẩn sai tay chân đi lấy hành lý về, lại lấy hai đỉnh bạc lớn trong hòm trả lại Thúc Bảo. Thúc Bảo giở hành lý, lấy thư Hùng Tín ra. Công Cẩn xem xong nói: 
- Hà! Thì ra đại huynh có việc ở U Châu, cái này thì tiểu đệ xin cáng đáng. Giờ chỉ là có chén rượu nhạt, để mừng Sử đại ca. Còn phải mời đến tệ trang nữa đã. 

Sáu người uống luôn mấy chén, bất giác đã chiều tối. Công Cẩn đưa mọi người về nhà, quát đầy tớ đốt nến sáng trưng, rồi đỉnh trầm nghi ngút tỏa thơm, mời Thúc Bảo cùng mọi người vào nhà, lúc này mới chính thức lạy chào nhau nhận bạn bè, ngôi thứ. Xong xuôi, tiệc rượu dọn ra, uống mãi tới canh năm ngày hôm sau. 

Sáng ra, Sử Đại Nại, phải về soái phủ U Châu phúc trình tổng quản, Bạch Hiển Đạo cũng phải đi với bạn, nên Trương Công Cẩn sai dắt ra sáu ngựa tốt, kén mười gia đinh, cùng là hành lý, bạc tiền lên đường đi U Châu.
 Không biết sự thể đến U Châu ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.


Nguồn maxreading.com 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved