HỒI 4
Thành Tế Châu hào kiệt
lập thần,
Sườn Tra Thụ Đường công gặp cướp.
Sườn Tra Thụ Đường công gặp cướp.
Thơ rằng:
Tri kỷ không ai, biết thế nào
Đầy trời mây kéo, chẳng trăng sao
Kiếm báu bụi đầy, thời chưa gặp
Than dài quán trọ, khách lao đao.
Bài thơ trên đây có tên là "Bảo kiếm thiên", nói cảnh người tài mai một, có cũng như không, bởi lẽ thiên hạ vô dạo, chẳng dung nổi kẻ hào kiệt, đến nỗi kẻ có tài như Lý Uyên, triều đình cũng không dùng. Lại còn bao kẻ anh hùng ở đầm ruộng, mấy người biết đến, lăn lóc giữa đám bụi đời, chờ thời mà hành động.
Một trong những anh hùng đó là Tần Quỳnh, hiệu Thúc Bảo, người Lịch Thành, thuộc Sơn Đông, ông nội là Tần Húc làm tới Vũ vệ đại tướng quân nhà Bắc Tề, cha là Tần Di làm tới Vũ vệ đại tướng quân nhà Bắc Tề, mẹ là Ninh Thị. Lúc Tần Quỳnh ra đời, ông nội là Tần Húc nói:
- Nay nhà Bắc Tề, phía nam thì đánh phá nhà Trần, phía Tây thì chiếm đất nhà Chu, việc binh đao không lúc nào ngừng, làm sao mà ông con cùng cháu nhà ta dựng được cảnh thái bình cho giang sơn.
Nhân thế, mới đặt tên tự cho cháu là Thái Bình.
***
Lại nói, lúc Tần Quỳnh mới ba tuổi, vua Tề sai Tần Di đi giữ Tế Châu, Tần Di đem theo cả gia quyến đến nơi nhậm chức. Tần Húc thì hộ giá vua Tề ở Tấn Dương. Vua Tề hà khắc, dân chúng nổi dậy, nhà Chu kéo quân sang đánh, quân Tề thua to, vua chạy về Tế Châu sai Tần Húc và Cao Đình Tôn ở lại giữ Tấn Dương, cầm cự được khá lâu, nhưng rồi thành bị hạ, Cao Đình Tôn bị bắt, Tần Húc hy sinh trong lúc đánh nhau. Sử thần có làm thơ ca ngợi:
Quyết chiến khói lửa mù
Nhẹ thân báo quốc thù
Nuốt Ngô còn ôm hận
Dẫu chết chí không từ.
Vua Tề tới được thành Tế Châu, sợ có ngày quân
- Triều đình sợ một mình Di này binh ít, lực mỏng, mới sai thừa tướng cùng coi giữ. Thời nào cũng vậy, việc giữ thành thì chính là phải biết cầm cự, làm quân địch nhụt chí. Thừa tướng vốn là bậc đại thần của triều đình, sao lại có thể ham sống mà sinh hai lòng?
A Na đáp:
- Tướng quân chưa quen nhìn thời thế. Quân nhà Chu đến, thế như chẻ tre, Tinh Châu, Nghiệp Châu thành trì kiên cố là thế, mà cũng chẳng giữ được, huống chi mấy bức tường mỏng này. Ta chịu ơn sâu của triều đình, nhưng còn có chữ tòng quyền thì sao, xin tướng quân đừng cố chấp quá thế!
Tần Di cương quyết:
- Cha con Tần Di này thề chết vì giang sơn.
Rồi sai phái quân lính quyết giữ thành. Tần Di nói với Ninh phu nhân:
- Nay chúa thượng sai Cao A Na cùng ta giữ thành, không ngờ A Na lại thành giặc bên trong, thế lớn đã hỏng. Ta thề chết với thành, mong được thấy tiên nhân dưới suối vàng, dòng dõi họ Tần sau này, chỉ trông cậy vào phu nhân.
Vừa nói xong thì đã thấy bên ngoài vào báo:
- Cao thừa tướng đã mở cửa thành đón quân nhà Chu vào.
Tần Di vội xách hỗn thiết thương chạy ra, đã thấy quân địch như một dòng sông dữ tràn vào. Tần Di kéo khoảng vài trăm quân tinh nhuệ, làm sao đương nổi, đánh cho đến khi máu thấm mấy lần áo bào, thương tích đầy người, quân lính mười không còn lấy một, Tần Di nhìn cảnh chiến trường thét lớn:
- Sức ta kiệt rồi!
Tay liền rút đoản đao, giết thêm mấy tên lính nhà Chu nữa, rồi Tần Di mới đâm vào cổ mà tự vận.
Cửa quan trăm lính chết
Tử chiến tướng không sờn
Thành quách rồi đổ hết
Nghĩa khí dậy giang sơn !
Lúc này Ninh phu nhân thu thập gia tư, chạy khỏi Tế Châu, nhưng quân dân chạy loạn tắc nghẽn tất cả các đường mọi lối, kẻ hầu người hạ đều kinh sợ bỏ trốn cả, một mình phu nhân ẵm Thái Bình. Giữa lúc không biết chạy đâu thì may lạc vào một phố vắng, mọi nhà đều đóng chặt cửa, nhưng nghe trong nhà có tiếng trẻ con khóc, biết là có người. Ninh phu nhân liền gõ cửa, một người đàn bà ra mở, trong nhà còn thấy một đứa trẻ ba tuổi nữa. Người đàn bà ấy tự xưng là vợ góa của Trình, con nhỏ tên là Nhất Lang, chỉ có hai mẹ con, không còn ai khác.
Ninh phu nhân xin ở nhờ qua cơn loạn lạc, yên ổn rồi, nhờ mang theo được ít vàng bạc, Ninh phu nhân tìm mua được một ngôi nhà nhỏ, cũng ở một ngõ hẻm gần nhà họ Trình, hai nhà vẫn đi lại thường xuyên. Nhà Tề mất, nên chẳng ai đoái hoài đến vợ con kẻ tử tướng, sống lẫn lộn trong đám dân Tề. Hai đứa trẻ càng lớn càng khỏe mạnh, nghịch ngợm, đến năm hai mươi ba tuổi, thì suốt ngày sinh sự đánh nhau ngoài phố. ít lâu sau, nhân năm mất mùa, mẹ con Trình Nhất Lang về quê cũ Đông A, còn Ninh phu nhân cùng Thúc Bảo thì về ở Lịch Thành.
Đến tuổi trưởng thành Tần Thúc Bảo cao lớn khác thường, mắt to miệng rộng, đầu hổ, hàm én, rất nhác đọc sách, chỉ thích múa côn luyện kiếm, đánh quyền đấu vật, khắp thành đều nổi tiếng vì chuyện bênh vực kẻ yếu, trừng trị lũ ngang ngược, hành hiệp dù chết cũng không quản.
Ninh phu nhân thường vừa khóc vừa khuyên con:
- Ba đời họ Tần, còn mỗi mình con, múa thương luyện quyền, vốn nghiệp tướng nhà ta, mẹ cũng không cấm, nhưng không thể khinh thường tấm thân, cậy sức mình, mà phải giữ hiếu đạo, nối nghiệp họ Tần.
Vì vậy dù sinh sự ngoài phố, chỉ nghe mẹ gọi một tiếng, Thúc Bảo liền vứt cả mọi sự trở về nhà. Mọi người thấy Thúc Bảo có sức lực võ nghệ hơn người, thừa nghĩa khí, lại rất có hiếu với mẹ, rất giống với Chuyên Chư người nước Ngô thuở xưa, nên đều gọi Thúc Bảo là Trại Chuyên Chư. Tần lấy người vợ họ Trương, nhà cũng có ít nhiều vốn liếng, Thúc Bảo thường lấy tiền bạc kết giao bạn bè, giúp đỡ kẻ khó khăn, hoạn nạn.
Lúc đầu thì làm bạn với những kẻ hào kiệt trong vùng: một người giữ chức đô đầu, chuyên việc bắt trộm cướp của thành Tế Châu, tên là Phàn Hổ, tự Kiến Uy; một anh học trò trong thành là Phòng Ngạn Tảo, một người có cửa hàng bán yên cương ngựa Giả Nhuận Phủ. Họ thường xuyên gặp nhau, khi thì cùng luyện võ nghệ, khi thì bàn binh Pháp, lại cùng nhau thăm tìm, tiếp đãi các bậc anh hùng ở nơi xa, chuyện này đâu phải chỉ một lần. Thường thì những kẻ không có bản lĩnh, vì đồng tiền mà quen biết nhau, anh thấy bạn hơn mình đã không chịu tiến cử bạn, mà còn dùng đủ thủ đoạn để chèn ép, bạn bè sẽ chê anh ta là hẹp hòi, chẳng ai phục, tên tuổi anh ta vì vậy cũng chẳng bao giờ có người biết đến.
Nói đến bản lĩnh của Thúc Bảo, ngoài chuyện cưỡi ngựa bắn cung, múa giáo thông thường, thì từ xưa tổ tiên họ Tần truyền lại một đôi lưu kim giản*, nặng tới một trăm ba mươi cân, Thúc Bảo múa đôi giản đó lúc đầu như một đôi mãng xà uốn xuống lượn lên, sau như một đám tuyết phất phới bay, thật chẳng thể ai bằng. Còn về chuyện kết giao, thì Thúc Bảo hết lòng giúp đỡ kẻ anh hùng lỡ vận, người hào kiệt gặp bước long đong, ngay cả Ninh phu nhân và con dâu Trương Thị đều là những phụ nữ sẵn sàng cắt tóc mình bán lấy tiền đãi bạn bè, mỗ thịt ngựa tiếp khách của con của chồng. Cho nên, khi nói đến võ nghệ của Thúc Bảo, cả một vùng Hà Bắc đều tôn xưng hàng đầu, khi nói đến đạo đức Thúc Bảo, ai ai lại cũng hết lời ca ngợi thực tình. Chính là:
Kỳ tài thiên hạ sợ
Trung nghĩa thế gian nghiêng
Đừng buồn không tri kỷ
Bên trời toàn đệ huynh.
* Giản: Binh khí Cổ bằng kim loại, thanh dài có bốn cạnh, có thể có cán.
Một hôm Phàn Kiến Uy tìm gặp Thúc Bảo nói:
- Gần đây cả một vùng Tề Lỗ mất mùa đói kém, trộm cướp như ong, không tài nào dẹp hết. Hôm qua, thứ sử Tế Châu gặp tiểu đệ bàn chuyện lập đội chuyên bắt trộm cướp, tiểu đệ có tiến cử đại ca, võ nghệ hơn người, anh hùng cái thế, nguyện xin nhường đại ca làm đô đầu tiểu đệ làm phó. Thứ sử bằng lòng ngay, bảo tiểu đệ đến mời đại ca.
Thúc Bảo đáp:
- Hiền đệ, thân không phải có làm quan mới quý. Ta vì theo nghiệp tướng nhà, đắc chí thì cầm đầu một đội người ngựa, trảm tướng đoạt cờ mở mang đất nước, để vinh phong phụ mẫu, ấm tử phong thê. Nếu bất đắc chí đã sẵn mấy ruộng xấu, vài gốc lê táo, có thể phụng dưỡng mẹ già, nuôi đủ vợ con. Lại sẵn mấy gian nhà nát, đủ rượu chè gà lợn, để cùng bạn bè tri kỷ cười đùa, đàm luận. Còn chí bay nhảy anh hùng, nếu chưa nguôi hẳn được, thì tạm ngâm thơ làm phú, đánh trống dạo đàn, vớ thương kiếm múa một hồi giải khuây, cũng đủ một đời. Việc gì phải cúi đầu làm tay chân cho bọn phú huyện ăn bẩn, phải nghe theo chúng sai phái. Bắt được cướp thì công của chúng cả, tìm lại được của thì chúng vơ vét, thành mình chỉ lao tâm khổ lực, làm giàu cho chúng. Không bắt được bọn trộm cướp, lại bị chúng vu cho tội thông đồng. Nếu cùng vào hùa với bọn phủ huyện thì lại thành phường giá áo túi cơm, phản nước hại dân. Làm làm gì, ta không đi!
Kiến Uy nói:
- Đại ca, làm quan thì cũng phải từ thấp rồi mới cao. Lập công thì cũng có nhỏ rồi mới có lớn. Ban đầu Hàn Tín cũng chỉ từ người lính mà nên. Đại ca không học cầm bút, thì sao có thể làm thơ viết phú. Đại ca quên rằng, các bậc tiền bối của nhà ta, không cần vào sự che chở của cha ông dòng dõi, mà chỉ cần một thương một đao làm nên sự nghiệp. Thậm chí chỉ để mưu sống thì cũng vẫn phải làm kia mà.
Buồn chẳng văn chương, tuyết, nguyệt, hoa
Đành theo đao kiếm nối nghiệp nhà
Ngọc lành ẩn núi ai người biết
Gặp vận rồi ra rạng sơn hà.
Đang nói chuyện, thì thấy Ninh phu nhân từ nhà trong ra, nói chuyện nhỏ to với Kiến Uy rồi bảo Thúc Bảo:
- Con quá khí khái. Nhưng Phàn đại ca của con cũng có lý đấy, con suốt ngày chỉ rong chơi không có việc gì nên hồn, cái này không thể lâu dài. Nếu nhận một chức quan nào đó, chí ít cũng có được một ràng buộc, chẳng còn thì giờ mà lêu lổng. Bắt cướp trừ trộm, lập ít công danh buổi đầu cũng là tốt. Ta từng nghe kể, ông nội con từ chức vệ sĩ của Đông cung mà làm nên. Con đừng câu chấp quá thế.
Thúc Bảo vấn hiếu thuận, nghe mẹ nói thế, đành phải nghe theo không dám cãi. Ngày hôm sau, cùng Kiến Uy đến gặp thứ sử. Viên thứ sử này họ Lưu, tên Phương Thanh, thấy Thúc Bảo:
Hiên ngang mây hiện đủ màu
Lẫm liệt tuyết phơi phong độ
Lưng hùm tay gấu vẻ uy nghi
Hàm én tai voi thân tuấn tú
Đôi mắt lấp lánh chi sao sa
Khác gì Quan Vũ chi bạch diện.
Lưu thứ sử hỏi:
- Anh là Thúc Bảo à? Công việc này của anh cũng phải nói cho rõ. Kiến Uy có xin nguyện nhường chức đô đầu cho anh, ta cũng nghĩ anh là một tay được việc, vậy nên ta xếp cả hai giữ chức đô đầu. Anh nên tận tâm mà làm việc.
Hai người tạ ơn lui ra, Kiến Uy nói:
- Đại ca, bọn trộm cướp ở châu này xem ra đều là bọn cưỡi ngựa giỏi, mình chỉ chạy bộ thì không bao giờ tóm được bọn chúng. Đại huynh cần phái sắm một con ngựa thật tốt mới được.
Thúc Bảo đáp:
- Nếu thế ngày mai hiền đệ đi cùng ta đến cửa hàng của Giả Nhuận Phủ xem.
Hôm sau Thúc Bảo gói một đùm bạc, cùng Kiến Uy tìm về phía tây thành, gặp ngay Nhuận Phủ ở nhà. Chào hỏi xong, Kiến Uy nói:
- Đại ca Thúc Bảo vừa ra nhận chức đô đầu, muốn đến đây để cho đôi chân thêm mạnh.
Nhuận Phủ nói với Thúc Bảo:
- Xin mừng đại ca được bổ chức này. Đó thật là chỗ có thể hái ra bạc, nhưng cũng nhiều chuyện rầy rà, đổi sống lấy chết, vu tội cướp của. Việc này, đáng ra đại ca không nên nhận mới phải. Còn nếu nhận, thì sợ rồi sẽ không còn nâng nổi đôi giản gia truyền của họ Tần nữa đâu!
Thúc Bảo gạt đi:
- Chuyện cũng rắc rối lắm, ta không bàn nữa. Không biết ở đây hiền đệ có con ngựa nào tốt không?
Nhuận Phủ đáp:
- Vừa dịp hôm qua bọn lái ngựa vừa dắt đến mươi con.
Mọi người cùng ra chuồng ngựa sau nhà, thì thấy nào là thanh tổng, tử lưu, xích thố, Ô truy, nào là hoàng phiêu, bạch dực, ngũ hoa, con hí, con nhảy, con cúi, con ngẩng, con ăn cỏ, con uống nước, chẳng khác gì một đám mây sắc màu sặc sỡ, thật đúng là:
Lá trúc hai tai dựng
Gió lùa vó nhẹ bay
Trận tiền nề sống thác
Muôn dặm tựa tầm tay.
Kiến Uy xem một hồi, chỉ một con vừa cao vừa to, khỏe mạnh nói:
- Con này tốt, con này tốt!
Rồi chọn con tử lưu màu đỏ. Thúc Bảo lại ưng con hoàng phiêu màu vàng. Nhuận Phủ khuyên:
- Xin mời hai đại ca cưỡi thử xem!
Hai người bèn dắt ngựa ra khỏi chuồng. Kiến Uy cưỡi con tử lưu, Thúc Bảo cưỡi con hoàng phiêu, rồi phóng ra khỏi cửa, bụi bay mù.
Xem ra con tử lưu có vẻ khí thế, hoàng phiêu có vẻ bình tĩnh hơn.
Đến lúc quay về, tử lưu có vẻ mệt, dưới chân có một lớp bụi, hoàng phiêu vẫn nhởn nhơ, chân không hề có bụi, lại vẫn thuần thục.
Nhuận Phủ nhận xét:
- Thì ra hoàng phiêu lại hay hơn.
Thúc Bảo quyết định lấy con hoàng phiêu. Lái ngựa đòi một trăm lạng bạc, Thúc Bảo trả bảy mươi lạng. Nhuận Phủ đứng giữa bàn giá tám mươi lạng, lái ngựa vẫn không chịu. Nhuận Phủ phải lấy tiền của mình cho thêm, giá cả mới xong, làm văn khế, rồi sửa soạn tiệc rượu ngay ở hàng Nhuận Phủ, uống nửa say nửa tỉnh, mọi người mới giải tán. Từ đấy về sau, công việc của Thúc Bảo đều có sức lực của con hoàng phiêu.
Ít lâu sau, phủ Tế Châu bắt được một nhóm cướp đường, bọn này tuy chưa cướp được của, giết được người, nhưng theo hình luật, cũng phải tội sung quân, một nửa đi Lộ Châu, một nữa đi Trạch Châu, đều thuộc phủ Bình Dương. Lưu thứ sử sợ sinh chuyện, nên cử hai đô đầu làm hai đội trưởng dẫn bọn tội phạm đi, Kiến Uy đi Trạch Châu, Thúc Bảo đi Lộ Châu. Thúc Bảo chuẩn bị hành lý, từ biệt Ninh phu nhân và Trương Thị lên đường, trước tiên về qua bộ Binh ở Trường An lấy công văn, sau cả hai cùng lên đường đi Sơn Tây.
Con đi nghìn dặm thẳm
Mẹ già một cửa trông
Níu áo ân cần dặn
Cá nhạn đừng thong dong.
Không nói chuyện Thúc Bảo phải đi giải bọn tội phạm nữa. Hãy nói chuyện Lý Uyên nhận thánh chỉ về làm Hà Bắc đạo hành đài Thái Nguyên quận thủ, Thánh chỉ thật chẳng khác gì lệnh xá tội, Lý Uyên vội thu thập hành trang lên đường. Trước tiên, Lý cho gọi tất cả gia đinh, tụ tập ngay dưới thềm đài bán nguyệt, mọi người đều kéo tới bằng hết, Lý ngồi ngay trên thềm, nhìn thuộc hạ quen thân một lượt nghĩ đến cả bọn lâu nay lao dao, vất vả, Lý rơi nước mắt mà nói:
- Ta thực cũng chỉ mong làm quan ở Trường An thì còn giúp được các ngươi mở mang mày mặt với dời. Không ngờ có những lời đồng dao, nên ta phải quay về quê cũ. Các ngươi lâu nay vẫn ở dưới trướng ta, nay thì tùy lựa chọn.
Lý Uyên ngày thường đãi mọi người rất ơn nghĩa, nên gia đinh nghe nói thế, ai cũng sụt sùi, giọt ngắn giọt dài. Lý thấy vậy nước mắt cũng khó cầm, nhưng rồi Lý cố nén, khuyên mọi người:
- Các người không nên thở than làm gì. Nay ta không ở chức cũ nữa, có đem tất cả đi cũng chẳng biết giao việc gì cho xứng cả. Nay ta có hai đường, tùy các ngươi: hoặc ở lại Trường An, lãnh ruộng nương của ta mà cày cấy, sinh sống qua ngày, nếu đã có nhà cửa. Còn nếu ở Trường An mà không có nhà cửa thân thích, thì hãy cùng ta về Thái Nguyên, giơ thì cao, hạ thì thấp, thế nào rồi cũng có cách sinh sống.
Trong số tay chân, có nhiều kẻ muốn theo, nghe thấy Lý Uyên nói thế, liền thưa lớn:
- Chúng con đều tình nguyện đi theo đại nhân.
Đông người cũng phiền, không rõ ai muốn đi, ai không. Lý Uyên vốn mưu lược, đời nào lại chịu bó tay trước chuyện nhỏ này, bèn lên tiếng:
- Giờ ta chia làm hai nhóm. Nhóm đi Thái Nguyên thì đứng về phía bên đông. Nhóm ở lại Trường An đứng sang bên phía tây, đâu vào đấy rồi, ta còn có chuyện muốn nói.
Lý Uyên miệng thì nói thế, còn trong lòng thầm nghĩ: "Bọn theo về Thái Nguyên, cuối cùng cũng chẳng bao nhiêu”. Nào ngờ phần lớn đều nguyện đi Thái Nguyên, có kẻ đã đứng bên phía tây rồi, nghĩ thế nào rồi lại chạy sang phía đông, so ra thì số ở thềm đông nhiều gấp hai số ở thềm tây. Bọn còn lại ở thềm tây lúc này không khỏi băn khoăn tính toán: ở lại Trường An, không còn được sự che chở của Lý đại nhân, nhưng về Thái Nguyên, thì thân bằng cố hữu, quen thuộc lâu nay, chỗ buôn bán, nơi công việc, làm sao mà đem theo được. Lý Uyên hỏi nhóm này:
- Các người đều muốn ở lại Trường An sao?
Một viên quan nhỏ tiến lên thưa:
- Tiểu nhân ơn được đại nhân nâng đỡ, cũng mong được tiến thân.
Những kẻ khác, kẻ thì kể có vốn liếng, có cửa hiệu buôn bán ở Trường An, người thì xin nhận ruộng nương của Lý Uyên ở Trường An, hàng năm nạp hoa lợi. Lý nghe xong, sai đem sổ sách, rương hòm ra, không kể nam nữ, già trẻ, cứ một người phát cho hai tấm vải, một đỉnh bạc. Thưởng xong, còn dặn dò thêm:
- Ta không còn ở Tràng An, các ngươi ở lại cũng nên cẩn thận, im hơi lặng tiếng, giữ lề thói sinh hoạt lâu nay. Hãy nhớ kỹ lời dặn của ta.
Bọn này lạy tạ ra đi. Lý Uyên lại quay về phía bọn đứng ở thềm phía đông hỏi:
- Các ngươi quyết theo ta về Thái Nguyên cả sao?
Tất cả kéo lại vây quanh Lý Uyên thưa:
- Tất cả chúng tôi cùng vợ con đều nguyện theo đại nhân về Thái Nguyên.
Lý Uyên lại sai giở sổ sách, phát cho mọi người lương thực, quần áo, tiền bạc, đầy đủ hành trang đi đường, lại dặn không được sách nhiễu dân chúng, mua bán phải sòng phẳng, nếu để dân chúng kêu ca, sẽ trách phạt không tha. Sắp đặt xong xuôi, Lý mới quay vào nhà trong, thì đã thấy Đậu phu nhân đến nói với chồng:
- Giờ được về quê, thì quả là may mắn. Nhưng chỉ ngại thiếp đã đến tháng thứ sáu rồi, đường núi dốc đèo, xe ngựa lên xuống, sợ không yên ổn, phu quân chờ cho dăm hôm, nửa tháng nữa có được không?
Lý Uyên giảng giải:
- Phu nhân thử tính xem: Chúa thượng da nghi, xung quanh lại nhiều bọn đơm đặt, lúc nào cũng gào đòi giết sạch họ Lý. Ở lại lúc nào là như ở trong hang cọp lúc ấy. May được thế này, dẫu có chết cũng về quê mà chết. Phu nhân không nhớ chuyện Lý Hồn sao, cả nhà Lý Hồn chỉ mong được về quê mà bây giờ đành về trời cả rồi.
Đậu phu nhân yên lặng không nói, chuẩn bị hành lý lên đường, Lý Uyên từ biệt bạn bè, đồng liêu, vào từ tạ vua Tùy, rồi cùng Đậu phu nhân và con gái cành vàng lá ngọc vừa mười sáu tuổi, ngồi xe có đệm êm lên đường. Có em họ Lý Uyên, Lý Đạo Tôn và con trai cả Lý Kiến Thành cưỡi ngựa kèm sau xe. Gia đinh khoảng trên bốn chục người, đều là những kẻ khỏe mạnh, can đảm quê vùng Quan Tây, cung giương sẵn, kiếm tuốt khỏi vỏ, khí thế oai nghiêm theo hộ vệ.
Trông Trường An, nhớ những ngày
Thân danh chìm nổi, trời đầy mây đen
Người đời rặt kẻ bon chen
Gió tung mưa táp, nhiều phen sững sờ.
Lúc này là giữa tiết thu, Lý Uyên chọn ngày tạnh ráo ra khỏi cửa thành, lên đường rất sớm. Kẻ đưa tiễn cũng không nhiều, chỉ vài người bạn thân uống mấy chén rượu tiễn hành, Lý cũng không dám nói gì đến chuyện quốc gia, chỉ ngắn ngủi vài lời cảm tạ bạn bè rồi từ biệt lên đường. Người ít, ngựa khỏe, nên chẳng bao lâu đã cách Trường An hơn hai mươi dặm. Quãng này vốn có tên là sườn Tra Thụ, người qua kẻ lại, khói bếp ngày càng thưa vắng, xa xa thấy một vách núi, chen chúc rừng cây rậm rạp, đầy vẻ âm u, nguy hiểm.
Vợ chồng Lý Uyên buộc phải thận trọng, không thể đi nhanh hơn, mấy chục gia đinh cưỡi ngựa, hộ vệ chung quanh không dám rời một bước. Đạo Tôn cùng Kiến Thành đi trước với mấy gia đinh, cách xa cả đoàn khoảng trên dưới một dặm, Kiến Thành đội mũ tử kim, khoác áo bào đỏ. Đạo Tôn thì đội mũ vải cứng màu lục, mặc áo bào màu đen bằng vải gai, phía trước có thêu một đóa hoa mẫu đơn lớn, vai lại khoác thêm một tấm khăn choàng, thêu cảnh chim cắt cổ long kim đang tha một con thỏ, chân mang giày trắng.
Phía chân núi bỗng thấy một người dáng to lớn khỏe mạnh, lấp ló rồi mất hút vào rừng cây. Nếu không có bọn Đạo Tôn đi trước, mà Lý Uyên với gia quyến cùng một lúc chui vào rừng, không có chuẩn bị vừa phải trông coi hành lý, vừa phải giữ gìn gia quyến, thì không sao tránh khỏi tổn thất, mấy người đi trước đã báo động được cho cả đoàn.
Vốn là Vũ Văn Thuật sai sẵn người ngựa, từ giờ dần* đã ra khỏi kinh thành, chờ lâu mới thấy một đoàn người ngựa tiến vào rừng, có người mặc áo bào ra dáng quan viên, thêm một chàng trai trẻ đúng vẻ công tử con quan đại thần, đinh ninh là gia quyến Lý Uyên, nên sau một tiếng thét lớn làm lệnh, cả bọn xông ra, ai nấy đều khăn trắng trùm kín đầu, mực đen bôi đầy mặt, người hùng hổ, ngựa dữ tợn, cầm toàn thương dài, đao lớn, gào thét ầm ĩ.
- Thằng khốn không râu kia, đem ngay tiền mãi lộ ra đây!
*Giờ dần: trong khoảng 3 đến 5 giờ sáng.
Kiến Thành thấy vậy sợ quá, thúc ngựa quay chạy thẳng. Đạo Tôn tuy cũng giật mình, nhưng vẫn cố ý giữ bình tĩnh lên tiếng quát:
- Chúng bay có lẽ đã được uống mật gấu, hai tai vểnh lên như hai cái gầu tát nước, đến nỗi không biết ông nội chúng bay là người Lý phủ ở Lũng Tây hay sao mà dám ngăn đường chặn lối.
Nói rồi rút dao lớn bên lưng mà chém tới, mấy gia đinh cũng giơ cao đoản đao xông vào đánh. Còn Kiến Thành nằm rạp trên mình ngựa bỏ chạy, vừa thấy xe ngựa của Lý Uyên đã vội la lớn:
- Nguy to rồi, nguy to rồi! Bọn cướp phía rừng đang vây kín thúc phụ rồi!
Vừa mừng thân thoát khỏi hang hùm
Thì khổ chân sa vào ổ sói.
Lý Uyên nghe xong tức tối:
- Sao còn trong đất kinh thành mà đã có cướp là làm sao?
Rồi nhảy xuống xe, Lý sai phái:
- Các người chia làm hai đội, một nửa chạy lên tiếp viện cho Đạo Tôn, một nửa giữ gìn gia quyến, xe ngựa, đưa về phía sau, chỗ có làng xóm dân chúng mà đóng giữ.
Lý Uyên tự mình cất mũ Trung Tĩnh, thay bằng một mũ vải cứng, cởi y phục đi đường, mặc áo vải gai, bên phải có ống đựng tên, bên trái dắt cung, tay giơ thiên phương họa kích, cưỡi ngựa bạch long, dẫn hơn hai mươi gia đinh, phi như bay về phía rừng, thì đã thấy bốn năm chục tên cướp, vũ khí trong tay đang vây kín Đạo Tôn. Đạo Tôn cùng mấy gia đinh, đều cầm đoản đao, cố chống đỡ. Lý Uyên muốn bắn, nhưng lại sợ trúng người nhà, nên đành phải thúc ngựa xông vào thét lớn:
- Lũ cướp này ở đâu, sao coi thường cái chết mà đón đường quân quan ta.
Mới nghe, bọn cướp cũng hoảng sợ, đã vội dồn lại thành một vòng, Lý Uyên cùng gia đinh lập tức xông vào cùng Đạo Tôn kết thành một khối. Đến khi nhìn ra, bọn cướp thấy viện quân kéo tới cũng chỉ hơn hai chục người ngựa, bọn này lấy lại được tinh thần. Vả lại việc chủ lệnh là hại Lý Uyên, nay thấy Lý tới, lẽ nào lại bỏ chạy ngay, vì vậy chúng lại giơ thương múa bổng vào, vây Lý cùng bọn gia đinh vào giữa. Chính là:
Hạng Vương cậy sức nâng nổi đỉnh
Nhưng ách Ô Giang liệu thoát không?
Không biết Lý Uyên làm thế nào mà thoát khỏi vòng vây, xin xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI 5
Tần Thúc Bảo giữa đường
cứu Lý công,
Đậu phu nhân trong chùa sinh thế tử.
Đậu phu nhân trong chùa sinh thế tử.
Từ rằng:
Trời đất vô tình
Nam nhi hữu chí
Xưa ôm mộng vá trời lấp biển
Ứng, chiên* giữ chí xông tầng biếc
Loan phượng cánh rù trong gai góc
Tình rầu rầu
Hận thăm thẳm
Hai mái đầu
Lửa lòng nào biết thuở nào nguôi
Thân hèn những muốn dâng tri kỷ
Tha hương chẳng ngại chợ Hàm Dương
Rửa phấn sơn khôn rửa tiếng danh
Bất bình bao thuở sạch can trường
Hận chừ xuôi
Chí chừ lặng
Lòng chừ nguôi
Theo điệu "Thiên thu tuế dẫn"
*Ửng, chiên: tên hai loại chim dữ, mạnh, chuyên bắt các chim khác ăn thịt. Thường được nuôi làm chim để săn.
Chuyện sống chết, lợi hại trên đất trời này chẳng gì không phải số mệnh, lẽ trời vẫn có nhưng không hình thù, sấm sét đùng đùng giận dữ, bất ngờ khó đương nổi, những lúc ấy đành phải chờ kẻ anh hùng đội trời đạp đất, cứu khốn phò nguy.
Lúc đầu Đường Công cũng nghĩ đây chỉ là lũ cướp đường tầm thường, thấy Đường Công xuất hiện thế nào bọn chúng cũng kinh sợ mà chạy biến. Không ngờ chính lại là lính tâm phúc của Đông cung do Vũ Văn Thuật sai đi, đều được chọn kỹ trong đám tinh thông võ nghệ, sẵn sàng xả thân vì chủ. Bọn cướp đường tầm thường, nếu thấy không lợi thế thì cứ thế bỏ chạy chẳng gì ràng buộc, nhưng bọn này vâng lệnh Vũ Văn Thuật mà hành động, nếu không giết được Đường Công cùng gia quyến, thì trở về biết thưa với họ Vũ ra sao, vì vậy chúng phải liều mạng xông vào. Chỉ tính riêng về quân số chúng cũng đã đông gấp hai lần số gia đinh của Đường Công, nhất tề vây kín Đường Công và gia đinh vào giữa, cứ thế lăn xả vào đâm chém.
Bốn mặt mây sầu mù mịt
Đầy trời sương lạnh giăng giăng
Trống nện rầm rầm, pháo nổ ran
Trời soi rõ mặt, giáo sáng loáng
Tướng đối tướng, như thiên thần địa quỷ tranh giành
Ngựa đấu ngựa, như rồng biển, hổ núi đoạt miếng
Ngựa cưỡi là: ngàn giải trãi, ngũ hoa thông, tủ sất bát, hỏa long câu, lục truy thông, lưu kim quai, chiến dạ bạch, ngọc đào dủ, mãn tiêu mã, đích lư mã
Con nào cũng như rồng thiêng nhẹ cưỡi, ngựa thần cất vó
Sắc trắng như vạn đóa hoa lê nổi sóng
Sắc đỏ như nghìn bông hồng hạnh đua tươi
Sắc xanh như sương mù giăng núi
Sắc vàng như mây nổi che trời
Tay múa kiếm là: tùng văn đao, tang môn kiếm, hòa tiêu thương, phương thiên kích, ngũ minh san, tuyên hoa chỉ, sâm kim chùy, tất ngạn qua, lưu kim đảng, đảo mã độc
Cái nào cũng: kiếm sắc như gươm, mũi giơ sáng tuyết
Phất phới như vạn ngọn thần đao cùng múa
Cuồn cuộn như muôn trùng sóng cả đều dâng
Ráng bay chớp giật, kiếm kích ngang trời
Sao rời nguyệt lặn, qua mâu chói mắt
Khác nào biển lật trời nghiêng
Chỉ để tao thua mày được.
Hai bên quần nhau từ giờ thìn* cho mãi đến lúc mặt trời sắp ngả về tây. Đường Công trong lòng càng lo cho vợ con, nên quyết mở một đường máu thoát khỏi vòng vây, nhưng đánh phía đông thì lũ giết người che kín phía đông, trở phía tây, lũ chúng lại kéo đầy phía tây mình tuy chưa mang một thương tích nào, nhưng thân thì khó thoát, thỉnh thoảng lại thầm nhắc gia đinh giữ gìn vợ con, không được liều mạng. Dù cẩn thận, giữ gìn thì bọn Đường Công càng ngày càng yếu thế, thế nguy như ngay trước mặt vậy thôi.
Nhưng số họ Lý vốn có kẻ cứu mạng. Lúc ấy, Tần Thúc Bảo và Phàn Kiến Uy từ Trường An giải bọn phạm nhân vừa kịp đến cửa Đồng Sơn, đang đi qua Tra Thụ Cương, cả hai nghe trong rừng tiếng hò hét, tiếng binh khí chiêng trống rầm trời, vội trèo lên gò cao nhìn, thì thấy năm bảy chục lũ giết người đang vây kín Đường Công vào giữa.
* Giờ thìn: khoảng từ 7 - 9 giờ.
Họ Tần bèn nổi với họ Phàn:
- Thật là vùng núi hoang này, trông về phía Hà Nam Sơn Đông đều mờ mịt, quả là chốn đắc địa cho bọn cướp, mặc dù chỉ mới cách kinh kỳ chưa quá hai mươi dặm đường. Thế mới biết bọn này thật to gan lớn mật.
Họ Phàn chi đám Đường Công trả lời:
- Đám người đang bị vây kia, dáng cũng là quân quan gì đấy, nhưng "quả bất địch chúng" xem ra có vẻ mệt mỏi, yếu thế. Trong sáu phủ của tỉnh Sơn Đông ta, thường ca ngợi là Trại chuyên chủ, nào phải chỉ vì chuyện bất bình ở vùng Sơn Đông mà ra tay. Nay giữa đường gặp việc nghĩa, sao nỡ bỏ qua. Xin đại huynh hãy dùng bản lĩnh cao cường của mình, giúp họ một trận, để thiên hạ một phen thấy vẻ trượng phu ở đại huynh.
Thúc Bảo đáp:
- Hiền đệ, ta cũng có ý đó. Nhưng chỉ sợ hiền đệ không chịu giúp ta.
Họ Phàn hỏi:
- Tiểu đệ đã khuyên đại huynh ra tay, sao đại huynh còn nói chuyện giúp đỡ gì nữa.
Thúc Bảo đáp:
- Nếu đã như vậy, hiền đệ phải giải mấy phạm nhân xuống núi, ra tận ngoài cửa quan, tìm chỗ nào đó ngồi chờ ta.
Họ Phàn hỏi:
- Tiểu đệ ở đây, còn có thể giúp đại huynh một tay, sao đại huynh lại bảo tiểu đệ đi trước?
Thúc Bảo đáp:
- Một mình ta cũng có thể dẹp tan đám cướp này, hiền đệ cũng muốn giúp ta một tay nữa, thì đám phạm nhân kia, lấy ai trông coi?
Họ Phàn đành trả lời:
- Xin đại huynh hãy thận trọng.
Nói rồi, Kiến Uy giải đám phạm nhân đi trước. Còn Thúc Bảo buộc thật chặt lại chiếc mũ Phạm Dương, xem lại giải áo, thắt lưng, nhảy lên ngựa, giơ cao giản, lựa theo đường núi lao xuống. Chẳng khác gì "Mãnh hổ mới rời hang, gầm vang trăm thú sợ", Thúc Bảo vừa phi như bay, vừa thét lớn.
- Lũ cướp không được vô lễ, có ta tới đây!
Tiếng thét dữ dội khác nào sấm mùa xuân, sắc nhọn khác nào ánh chớp phóng tới. Thấy chỉ một người một ngựa, nên bọn giặc cướp cũng chẳng hoang mang, mà Đường Công cũng không tin là có thể giúp được gì cho mình. Bọn cướp đang say sưa vây Đường Công, chờ cho Thúc Bảo tới gần, mới thấy có hai tên ra đối địch. Bọn này vì đánh nhau từ sáng đã mệt mỏi, gặp phải đối thủ như Thúc Bảo, bản lĩnh cao cường dũng mãnh, khí thế đang hăng hái, vũ khí lợi hại, nên vừa mới vài hiệp, cả hai tên lính đều ngã ngựa. Thấy vậy, cả bọn cướp la thét ầm ĩ, bỏ Lý Uyên, vây lại đánh Thúc Bảo. Thúc Bảo không chút sợ hãi, cứ điềm nhiên múa tít hai ngọn giản.
Đao qua thương lại giằng co
Ngựa mỏi người mệt trời chiều
Ngựa mới đến
Cướp chạy tứ phía
Giản mới giương
Núi sông lạnh gáy
Mịt mù bụi bay che mặt trời
Rồi tung ngựa chạy cày đất núi
Giao long rời vực thẳm
Hồ thỏ trốn hang sâu.
Trước đó bọn cướp ỷ đông người, bắt nạt Đường Công cùng bọn gia đinh, hết sức hùng hổ dữ tợn, đến giờ Thúc Bảo xuất hiện, bọn này hết trốn đường đông lại chạy đường tây, núp đường nam lẩn đường bắc, nhiều đứa trốn theo khe núi mà chạy. Đường Công lúc này mới dừng ngựa, sai phái bọn gia đinh hỗ trợ Thúc Bảo. Bọn cướp thì kẻ thức thời đã bỏ chạy hết, những đứa cố chấp vẫn ham đánh thì không ít đứa gãy tay, gãy chân, mang đầy thương tích trên mình, chẳng khác nào:
Khác gì lá rụng gió bão cuốn
Giống như băng mỏng nắng trời tan.
Có thằng bị giản đánh trúng lăn xuống ngựa, bọn gia đinh túm lấy giải tới trước mặt Đường Công. Đường Công quát:
- Bọn lang sói chúng bay sao dám tụ tập đón đường giết người cướp của, lại dám đụng đến bậc quan quân chúng ta? Đem ra chém quách cho xong!
Thằng này run rẩy thưa:
- Bẩm ngài, chúng con không phải kẻ cướp, mà là lính tâm phúc của Đông cung, lệnh của Vũ Văn Tướng công truyền rằng ngài với Đông cung vốn có thù lớn, sai chúng con ra đây chờ đón đường ngài. Đó là lệnh trên, không phải lỗi ở chúng con.
Đường Công nói:
- Ta với Đông cung nào có thù hằn gì. Mày bịa ra điều này để hòng thoát chết. Đáng ra nên chặt quách cái đầu chó của mày, nhưng lại thương mày vốn cũng là kẻ nghèo khổ, sống cũng chẳng hại dược ai nên cũng tha cho cái mạng mày, mau tìm đường mà xéo!
Thằng này nghe Đường Công nói thế vội bỏ chạy như bay.
Đường Công nhìn ra kẻ hảo hán đến cứu mình vẫn đang hăm hở đuổi đánh bọn cướp, bèn sai gia đinh:
- Mau mời tráng sĩ lại đây gặp mặt.
Một gia đinh cưỡi ngựa phi theo sau Thúc Bảo gọi lớn:
- Tráng sĩ? Đại nhân mời tráng sĩ lại gặp mặt.
Thúc Bảo quay lại hỏi:
- Đại nhân là ai?
Gia đinh thưa:
- Là Đường Công Lý đại nhân.
Thúc Bảo dừng ngựa, trù trừ, lại thấy gia đinh cho ngựa lại gần nói tiếp:
- Xin tráng sĩ lại ngay cho, Lý đại nhân chúng tôi nhất định sẽ tạ ơn tráng sĩ rất hậu.
Thúc Bảo thấy nói tới chuyện tạ ơn, liền cười ha hả nói rằng:
- Ta cũng chỉ vì "giữa đường thấy sự bất bình", cũng không nghĩ đó là đại nhân nhà ngươi, cũng không nghĩ đến chuyện tạ ơn của chủ ngươi đâu!
Nói rồi quay ngựa theo đường lớn đi thẳng.
Bình sinh lòng nghĩa hiệp
Cứu nạn chẳng lưu danh
Sống chết đều một kiếp
Nghĩ gì đến nghìn vàng.
Đường Công thấy gia đinh không mời được tráng sĩ liền hối hận nói:
- Đáng ra ta phải thân lại tạ ơn mới phải, bây giờ làm sao mời được tráng sĩ quay trở lại được. Chuyện này đúng là lỗi ở ta.
Nói rồi dặn bọn gia đinh:
- Chúng bay thu dọn xe ngựa, hành lý lại để chuẩn bị lên đường, ta tự đuổi theo tạ ơn mới xong.
Rồi giật mạnh dây cương, Đường Công rượt theo Thúc Bảo, gọi lớn:
- Xin tráng sĩ dừng ngựa, cho Lý Uyên tôi được vái chào một lần.
Thúc Bảo vẫn không muốn xuất đầu lộ diện lần nữa, nên vẫn cho ngựa ruổi dài. Đường Công phóng theo sau không chịu dừng:
- Tráng sĩ, cả nhà ta chịu ơn cứu mạng của tráng sĩ, xin tráng sĩ hãy cho biết tính danh, còn chuyện báo đức đền ơn xin để sau này thưa lại cũng chưa phương hại gì.
Cả hai đuổi theo nhau có đến hơn mười dặm. Thúc Bảo nghĩ: Kiến Uy chờ phía trước, thế nào người ta cũng hỏi ra họ tên, chi bằng cứ nói, để người ta khỏi đuổi theo. Thúc Bảo bèn quay đầu lại đáp:
- Lý đại nhân không cần đuổi theo làm gì. Tiểu nhân họ Tần, tên Quỳnh, thế là được rồi.
Vừa nói vừa giơ cao tay, xòe đủ năm ngón tay vẫy qua vẫy lại, ra roi, như một mũi tên lao thẳng. Chính là:
Sắc núi khó truyền lòng nghĩa hiệp
Nước khe khôn tả hết hùng tâm
Chữ ơn chưa tạc đồng ghi đá
Tên tuổi đã truyền suốt cổ câm.
Đường Công ý vẫn còn muốn đuổi theo, nhưng đánh nhau cả ngày, người ngựa đều mỏi mệt, một mình một ngựa chạy trên đường, lỡ ra gặp một tên cướp còn sống sót nào đó, thừa cơ sinh chuyện, vả lại chỉ chạy đuổi theo sau mãi cũng chẳng ích gì. Trong lúc gió rít bên tai, lẫn tiếng nhạc ngựa, Đường Công chỉ nghe được mỗi một tiếng “Quỳnh", lại thấy tráng sĩ xòe năm ngón tay vẫy vẫy, Đường Công nghĩ thầm rằng tráng sĩ ra hiệu tiếng "Ngũ", nên đinh ninh nhớ kỹ trong lòng tên "Quỳnh Ngũ", cũng chẳng lường được bao giờ mới báo được ơn. Trong lúc phóng ngựa trở về, thấy một đám bụi mù mịt trước mặt, ló ra một người ngựa phi tới, Đường Công nghĩ: "Lại rắc rối rồi đây, hãy chờ thằng này lại gần, sẽ biết tay ta". Rồi nhẹ nhàng lên dây cung, tên vừa bay khỏi, đã thấy người kia ngã lăn xuống ngựa.
Nhìn kỹ lại chỗ đám bụi lúc nãy, chính lại là gia quyến của mình, Đường Công bèn kể lại cho mọi người nghe mọi chuyện, nhắc mãi ơn lớn của “Quỳnh Ngũ” , thì thấy mấy người dáng vẻ phu khiêng kiệu, lẫn với mấy người dân làm ruộng ở một trang trại ấp nào đó cũng kéo đến trước ngựa Đường Công khóc lóc, kể lể:
- Thưa đại nhân, không biết ông chủ chúng tôi có việc gì xúc phạm đến đại nhân, mà vừa bị đại nhân bắn chết!
Đường Công ngạc nhiên đáp:
- Ta chưa từng bắn chết chủ nhân các người.
Bọn người này khóc thưa:
- Chúng tôi vừa nhổ mũi tên ở yết hầu, thấy rõ có ghi họ tên đại nhân.
Đường Công nghĩ ngợi:
- À vừa rỗi dẹp xong lũ giặc cướp, thấy một kẻ phi ngựa lại, ta chắc rằng du đãng của bọn này, mới bắn một mũi, không ngờ lại làm chết chủ của các ngươi, rõ là ta nhầm. Chủ các ngươi tên gọi là gì, quê quán ở đâu?
Bọn này đáp:
- Chủ chúng tôi là Nhị Hiền trang thuộc Lộ Châu, họ Đơn tên Đạo hiệu Hùng Trung, trên đường từ Trường An bán lụa về vừa đến đây.
Đường Công đành an ủi:
- Thôi thì người chết làm sao sống lại được, bảo ta phải làm gì bây giờ. Dù có đem đến quan nha nữa chỉ là chuyện ngộ sát, cũng phải đến lo liệu ma chay mà thôi. Ở Nhị Hiền trang các ngươi, hiện còn những ai?
Bọn này thưa:
- Thưa còn Nhị viên ngoại Đơn Thông, hiệu Hùng Tín.
Đường công giảng giải:
- Các ngươi về thưa lại với viên ngoại, ta nhân đánh cướp, lỡ tay bắn chết chủ các ngươi, thực là không cố ý. Nay ta đưa tạm năm mươi lạng bạc, gọi là làm phí tổn khâm liệm, các ngươi đưa linh cữu về quê đợi ta cũng về quê quán xong xuôi, sẽ sai quan tới Lộ Châu, tìm nhà viếng lễ.
Bọn này đều nghĩ: "Nghèo không thi với giàu, giàu không đấu với quan”. Vả lại chuyện giữa đường hai bên đều nhường nhịn cho xong, nên cuối cùng ai lo phận ấy.
Đường Công nói như thế nhưng không nỡ bỏ mặc, cũng lại coi sóc cho bọn người nhà Đơn Hùng Trung lo liệu cho chủ, dềnh dàng mai mới đi được cách Trường An khoảng năm sáu mươi dặm. Vùng này lại không có quán dịch, chỉ thấy cổ một ngôi chùa, chữ đề "Vĩnh Phúc Tự”, Đường Công tính gia quyến đông, khó có một nhà dân thường nào chứa hết, nên sai gia đinh vào chùa xin nghỉ lại.
Sư cụ trụ trì có đạo hiệu là Ngũ Không nghe thấy thế, vội cho thỉnh chuông lớn, tụ tập chúng sư tiểu, xuống núi tiếp đón. Một mặt cho quét dọn phương trượng, sắp xếp bếp củi, sau đó khoác cà sa, dẫn các vị cao tăng ra làm lễ chào hỏi. Đường Công cho xếp đặt gia quyến, xe tạm ngoài cửa chùa, rồi tự mình vào trước, chỉ thấy:
Nền móng nghìn năm kiên cố
Điện các vạn tuế nguy nga
Cửa chùa tả hữu, gió hòa mưa thuận tứ thiên vương
Điện phật trong ngoài, quá khứ vị lai Tam Đại sĩ
Lụa thắm cửa son, chạm khắc quỳ lựu khéo tay
Tường mờ rêu biếc, tranh vẽ núi sông đậm nhạt
Quan âm cao bệ, ngói đồng cổ lớp lớp sen vàng
La Hán điện tôn, bát bạch ngọc long lanh sắc nước
Vượn núi, thú rừng, nghe "Kim cương kinh” đều được siêu thăng
Hươu nội, hoa ngàn, nghe "Pháp ngữ lục" thảy thoát nghiệp chướng
Ánh sáng muôn luồng xông mây bức
Khí lạnh nghìn đạo ngự từng không.
Lại có người làm thơ ca ngợi:
Phật điện trông vàng son lấp lánh
Như Lai ai dám sánh công lao
Tháp ngoài nghìn trượng vươn cao
Điện trong đèn nến như sao sáng ngời
Càn khôn từ thuở chuyển rời
Công đây quả đấy muôn đời còn ghi.
Ở trên điện, tả hữu đã sắp sẵn giường đệm, sư tiểu lần lượt lên chào Đường Công. Sau đó, Đường Công dẫn gia đinh xem xét phương trượng, các tăng phòng xung quanh, người nhà chùa tạm thời di chuyển nơi khác, sau đó đưa gia quyến vào nghỉ ngơi, rồi lại đóng cửa cài then. Đâu vào đấy rồi, Đường Công lại trở về ngồi ở tiền điện ngẫm nghĩ: "Nếu chỉ là bọn cướp bình thường, thì bị đánh đến thế, không thể nào còn dám tới. Nhưng nếu đúng là lính tâm phúc của Đông Cung sai đi, chưa chắc chúng đã chịu yên, sớm muộn chúng còn xuất hiện". Vì vậy, Đường Công lệnh cho gia đinh, tuần tiễu canh gác trong ngoài, đề phòng bất trắc, còn mình cũng nai nịt gọn ghẽ, kiếm đeo bên mình, ngồi dưới đèn xem sách. Có ngờ đâu rằng, bọn này ở trong rừng, chùi bỏ hóa trang thay quần áo, hội họp nhau lại, ngay sẩm tối hôm đó kéo nhau về Trường An, còn đâu nữa mà tới. Về phía Vũ Văn Thuật với Thái tử, kế tuy không thành, nhưng còn mừng khi Lý Uyên không biết, chưa bị vạch mặt làm trò cười cho thiên hạ, lại thêm bọn tay chân đi về, tô vẽ thêm giết bao nhiêu mạng, đâm bao nhiêu gia đinh, thân thuộc của Lý Uyên, làm bọn họ tả tơi chạy dài ra sao cũng thấy hả dạ, nên coi như cho chuyện đó ra ngoài cửa. Nhưng Đường Công như con chim vừa phải tên, vẫn phấp phỏng lo sợ mà thôi.
Ngồi cho mãi tới canh hai, Đường Công bỗng thấy một mùi thơm lạ lùng, nhìn kỹ mấy lò hương thì đã tro lạnh khói tàn từ bao giờ. Lúc dầu hương thơm còn thoang thoảng, càng lâu hương càng thơm nức, sai người đi xem ở các cửa điện khác, đều trở về thưa các lò hương không nơi nào đốt. Đường Công lấy làm lạ, ra sân nhìn trời, thấy mây đẹp rực rỡ, sao sáng lấp lánh, khí ấm điềm lành đầy đất.
Vốn là lúc ở hậu tự, sao tử vi đến giờ giáng hạ trấn thế, mới rời khỏi cung Đâu Xuất nên hương lành đầy trời đất, mừng tử vi đầu thai. Đương lúc ngửa nhìn trời, bỗng thấy bọn gia đinh gác đêm đến báo phu nhân vừa mới sinh được hai thế tử. Lúc này chính là năm đầu của triều Nhân Thọ, tháng tám ngày mười sáu, giờ tý* vậy, Đường Công vội vàng đến bên cửa sai người hỏi rõ sức khỏe của phu nhân và hai thế tử. Người nhà thưa rằng nhân giữa đường gặp bọn cướp trong lòng không khỏi kinh sợ, sau may gặp được bậc hào kiệt ra tay, lại tìm được chỗ trú chân yên ổn, nhưng phu nhân do đi lại nhiều vì vậy mới sinh sớm ít nhiều, may thay mẹ con đều bình yên. Đường Công nghe nói thế mới đỡ lo lắng.
* Giờ tý: khoảng 11 giờ đến 1 giờ đêm
Chờ đến sáng ngày, Đường Công lên điện, tạ ơn Như Lai, khắp gia quyến đều có mặt. Sau đó lại tới phòng phu nhân vấn an. Sư cụ Ngũ Không, dẫn chúng tăng, đem câu đối, viết trên giấy hồng đều đến mừng. Đường Công băn khoăn nói:
- Thưa trưởng lão! Ta vốn ở nhờ nhà chùa, lại gặp việc khai hoa này, chỉ sợ làm ô uế sự thanh tịnh của cửa thần, tội đều ở hạ quan này, có gì vui đâu mà dám nhận lời mừng của quý vị chúng tăng.
Bèn sai gia đinh lấy mười lạng bạc ra gửi sư cụ, nhờ nhà chùa sắm các loại trầm hương, tốc hương, đàn hương, để đốt ở khắp các điện, giải trừ uế huyết. Đường Công lại hỏi sư cụ:
- Ta trông cảnh chùa tuy có tráng lệ, nhưng đã thấy có nhiều chỗ đã đổ nát hư hỏng, cũng muốn sửa sang ít nhiều. Không biết ý trưởng lão thế nào?
Sư cụ thưa:
- Bần tăng từ lâu đã định làm việc này, nhưng chỉ cần sửa chữa nhỏ cũng phải có hàng nghìn lạng bạc, sửa lớn thì không thể dưới vạn lạng, nếu không gặp được bậc đại thí chủ, mà chỉ là những khách đàn việt bình thường, bần tăng nào dám kêu ca, nên cũng không nghĩ đến chuyện hưng công tu tạo được.
Đường Công nói:
- Ta sẽ làm đại thí chủ cho trưởng lão. Cũng chằng cần trưởng lão kêu ca, ngay khi về đến Thái Nguyên, ta sẽ sai người đem tiền bạc tới.
Liền sai người đem nghiên bút, sư cụ bảo mấy chú tiểu giăng ra một tấm lụa hồng lớn, có thêu kim tuyến. Đường Công cầm bút, nhúng đẫm mực viết một hàng chữ lớn: "Tín quan Lý Uyên, nguyện dâng cho vạn lạng bạc trùng tu Vĩnh Phúc Tự, tái tạo kiên thân điện tượng". Sư tiểu đứng nhìn, không ai là không lắc đầu lè lưỡi, cùng nhau bàn tán:
- Có mua sắm bao nhiêu vật liệu, rồi thuê thợ làm vẽ vời hoa lá đi nữa, cũng chẳng tài nào hết chừng ấy bạc.
Lại có người nói:
- Ta tính nhà chùa một ly cũng chẳng có, cứ chờ quyên giáo từng tiền, từng lạng, thì đừng nói một vạn lạng, mà ngay chỉ khoảng năm sáu trăm lạng cũng chẳng bao giờ có được.
Nói chuyện linh tinh một hồi, ngày hôm sau, sư cụ lại sắm đủ đèn nến, trầm hương đủ loại quý giá, mời Đường Công tới các điện dâng hương, chuông trống rộn ràng, kẻ trước người sau chật lối. Từ hôm ấy, Đường Công ngồi nhàn trong chùa, chờ phu nhân đầy tháng sẽ lại khởi hành.
Không biết sự thể ta sao, xin xem hồi sau phân giải.
HỒI 6
Ngũ hoa trận, Sài Tự
Xương chùa núi đính hôn,
Không bạc tiền, Tần Thúc Bảo đường cùng mất vía.
Không bạc tiền, Tần Thúc Bảo đường cùng mất vía.
Thơ rằng:
Lưu lạc đừng than thở
Tài cao vận hội mở
Loan phượng đậu đài cao
Khổng tước trên tranh vẽ
Ngọc lành nên duyên đẹp
Đàn lạ thành khúc hay
Sống mái rồi gặp gỡ
Rồng mây sẵn có ngày.
Thế gian hợp tan vốn ở duyên may phận rủi, cố mưu đồ thì thất bại, chẳng để tâm thì lại nên duyên phận. Đường Công vốn là bề tôi giỏi của nhà Tùy, Đậu phu nhân cũng dòng dõi nhà Chu. Khi vua Tùy cướp ngôi nhà Chu, phu nhân mới bảy tuổi, mà đã nhiều phen vật vã trên giường than thở: "Thân này sinh ra sao không phải là nam nhi, để cứu nạn cho cậu, dựng lại nhà Chu!". Một cặp vợ chồng như thế, nhất định con cái sẽ hơn người.
Lý tiểu thư, con gái đầu của Đường Công và Đậu phu nhân, năm nay tuổi vừa mười sáu, rất giống Tôn phu nhân của Lưu Huyền Đức, em gái Tôn Quyền thời Tam Quốc, chẳng ham thêu thùa kim chỉ, riêng thích giương cung múa kiếm. Vợ chồng Đường Công thấy tính tình con gái khác thường như thế, nên cũng lưu tâm tìm một chàng rể giỏi giang.
Kẻ dạm hỏi không thiếu, Đường Công đều chê là phường tục tử, chưa thấy đám nào vừa ý. Chuyện gia thất của Lý tiểu thư vì vậy vẫn còn canh cánh bên lòng.
Giai nhân theo việc anh hùng
Tuổi vừa đôi tám, bạn cùng cung thương
Phượng loan chẳng chịu thói thường
Lẽ nào đứng sánh với phường quạ đen.
Hàng tháng nay, Đường Công cả ngày ngồi nhàn ở chùa Vĩnh Phúc, cho nên dẫu có lo toan chuyện gì, cũng là chưa phải lúc hành sự. Bạn bè không ai, thỉnh thoảng lọt bên tai vài lời qua lại thì thầm của người nhà chùa, của bọn gia đinh. Đường đường là một bậc đại nhân, nhất cử nhất động đều có người phục dịch, hầu hạ tận nơi, sư trụ trì Ngũ Không, ngày ít nhất cũng một lần tới thăm hỏi, hầu chuyện. Khoảng vài ngày một lần, nhà chùa lại đèn hương, trống mõ rộn rã, Đường Công thong thả dạo quanh, xem cảnh tăng ni đi lại, công việc; quan sát phép tắc nhà chùa, nghe cầu kinh, xem sách Phật. Thấp thoáng từ xa, Đường Công vẫn nhận ra những ánh mắt tò mò, chăm chú của các nhà sư trẻ, của các chú tiểu. Dạo chán, Đường Công lại tìm đến sư trụ trì nói chuyện. Đường Công đi trước Ngũ Không theo bên, trên những lối vườn rải đá, che kín bóng cây để đến dãy nhà phía đông cửa tam quan. Đường Công nói:
- Thưa trưởng lão, chỗ này nhà cửa quanh co sân vườn yên tĩnh, sạch sẽ, thật không nhiễm chút bụi trần.
Sư trụ trì thưa:
- Đây là trai phòng của bần tăng. Xin mời đại nhân vào dùng trà .
Đường Công thấy Ngũ Không ân cần liền bước vào phòng rộng, không một chút bụi bám, vài cửa sổ nửa khép nửa mở. Trà nước xong, Ngũ Không đứng dậy, mở rộng cửa sổ khiến Đường Công nhìn rõ bảo tháp ngoài vườn, vàng son rực rỡ chói mắt, nổi giữa vườn cây xanh, lấp loáng nắng trời, thật là những cảnh đẹp hiếm có. Nhìn lên bình phong trước tháp, thấy đề một câu dối.
Tháp quý chọc trời, đưa mắt giang sơn, một vùng thanh tĩnh
Đèn vàng thay nguyệt, mười phương thế giới, đâu cảnh sáng trong.
Dòng lạc khoản ghi rõ: "Sài Thiệu Huân, người Phần Hà, trai giới kính đề".
Đường Công thấy lời lẽ hiên ngang, chữ viết thoáng đạt, gật gù khen, rồi hỏi sư trụ trì:
- Thưa trưởng lão, Sài Thiệu Huân là ai thế?
Ngũ Không thưa:
- Công tử họ Sài này, vốn người Phấn Hà, con trai Lễ bộ thượng thư triều trước, lâu nay ở trong chùa đọc sách, thấy quang cảnh góc này, lấy làm ưng ý, tự tay viết tặng bần tăng. Từ lúc viết đến giờ, quan viên qua lại, nhiễu người khen lắm.
Đường Công gật gù, đứng dậy:
- Ta xin cáo từ. Trưởng lão cứ tự nhiên.
Về đến phòng mình, trăng vừa nhô khỏi núi xa, lặng lẽ soi qua thảm lá. Đường Công vì ngổn ngang tâm sự, công việc trong triều ngoài trấn, muôn chuyện phải theo dõi, toan tính, hành động, nay bất ngờ phải ngồi chờ ở giữa cánh rừng xa vắng, nên giấc ngủ càng khó đến. Đường Công lại trở dậy, tìm đến phòng Ngũ Không, gõ cửa:
- Trưởng lão đã đi nằm chưa?
Ngũ Không vội thưa:
- Đại nhân còn chưa yên chỗ, bần tăng đâu đã dám yên thân.
Cửa mở, Đường Công vào phòng, tiếp:
- Trăng sáng, cảnh đẹp, ta cũng đừng nên phụ đất trời.
Ngũ Không bàn:
- Bổn chùa có nơi sườn núi dốc vừa phải, ngắm trăng rất hợp, xin mời đại nhân ra xem.
Đường Công tán đồng:
- Thế thì tốt lắm!
Ngũ Không gọi chú tiểu cầm đèn đi trước.
Đường Công gàn:
- Trăng sáng thế này, cần gì đèn đèn.
Ngũ Không thưa:
- Chỉ sợ lối trúc quanh co, đại nhân lại chưa quen đường.
Đường Công đáp:
- Bọn ta đã từng dọc ngang chinh chiến. Đêm tối, mưa gió đi lần giữa rừng núi là thường. Đây chỉ là lối hoa ngõ trúc, chỉ cần trưởng lão dẫn đường, cũng chẳng cần kẻ hầu hạ theo sau làm gì.
Ngũ Không đi trước, Đường Công theo sau, men theo đường trúc quanh co, ra khỏi một cổng nhỏ phía nách chùa thì tới sườn núi. Vầng trăng hiện rõ giữa không trung, không cây che, chẳng mây khuất. Bên dưới đồi núi, nhà cửa nhấp nhô, núi cao thấp thoáng, rừng cây miên man, người không cảnh vắng, tiếng chó sủa từ thôn xa vẳng lại, như điểm thêm sự thanh vắng của cảnh đất trời. Đường Công nhìn ngắm một hồi, đang định quay về thì bỗng thấy trong đám trúc phía tay phải, ánh đèn le lói, nghe như có tiếng đọc kinh, bèn hỏi:
- Trường lão quá giờ đọc kinh buổi tối chăng?
Ngũ Không thưa:
- Vì sợ phu nhân mệt, cần yên tĩnh, việc đọc kinh, giảng đạo buổi tối, bần tăng cho tạm nghỉ đã mấy tuần nay.
Đường Công gật đầu, nhưng đến dãy nhà phía tay phải lại hỏi:
- Tiếng gì như tiếng đọc kinh vậy?
Ngũ Không đáp:
- Nhà này là nơi Sài công tử đọc sách. Câu đối buổi ngày đại nhân xem, chính là công tử đề đấy, thưa đại nhân!
Nghe giọng đọc trong trẻo, Đường Công dắt tay Ngũ Không, nhẹ nhàng bước tới thư phòng, nhìn qua cửa sổ thấy một thanh niên, mặt mũi khôi ngô da trắng như thoa phấn, môi đỏ như bôi son. Kiếm quý đặt ngang bàn, thánh thót đọc một chương nào đấy của sách binh thư Ngô Khởi, hoặc Tôn Vũ mà Đường Công cũng chưa kịp nhận ra. Đọc xong, thanh niên lại lấy kiếm múa vài đường, xem như xung quanh không có ai. Đặt kiếm xuống bàn, thanh niên cao giọng gọi:
- Sài Báo đâu rồi! Đem trà ra cho ta!
Rồi cất giọng sang sảng ngâm:
Anh hùng đầy uất khí
Cô độc biết hỏi ai?
Cánh bèo là tri kỷ
Vỗ gươm than ngắn dài.
Đường Công nghe xong, lặng lẽ trở ra, lòng mừng thầm nghĩ: “Thời bình chuộng văn, thời loạn chuộng võ, giờ mà ngồi đọc "Tử viết,Thi vân"* thì phỏng ích gì. Phải là tài kiêm văn võ, lên ngựa đuổi giặc xuống ngựa thảo hịch, mới xứng với con gái ta. Có việc cần kíp, chàng rể loại này còn có thể giúp một tay!” .
*"Tử viết, Thi vân": Khổng Tử nói rằng, kinh thi có câu... cách học thưởng xuyên của nhà nho.
Gần đến phòng mình, Đường Công nói với Ngũ Không:
- Ta xem Sài công tử, tài mạo khác thường, mai kia hẳn làm nên. Ta có một con gái, tuổi vừa cập kê, đoan trang thùy mị, chưa kiếm được rể hiền, phiền trưởng lão làm mai mối, đem việc tốt đến cho cả hai họ.
Ngũ Không nghiêng mình thưa:
- Đại nhân đã dạy, bần tăng này xin "cầm búa chặt cây”*. sáng mai sẽ xin đưa Sài Công tữ tới gặp mặt, để đại nhân xem công tử ăn nói ra sau.
* Kinh Thi có câu: "Phạt kha như hà, phi phủ phất khắc. Thủ thê như hà, phỉ môi bất đắc” . Chặt cây thế nào, không búa không xong. Lấy vợ thế nào, không mối chẳng xong. Vì thế người ta gọi việc làm mối là "chấp kha phạt mộc", cầm búa chặt cây!
Đường Công đáp:
- Thế thì tốt lắm. Xin đa tạ trưởng lão!
Đường Công về đến phòng, sư cụ cũng lui gót.
Hôm sau, trời vừa rạng sáng, sư cụ Ngũ Không vì đang có việc phải lo, đã vội trở dậy, rửa mặt thay áo, đến phòng Sài Tự Xương.
Công tử hỏi:
- Đã mấy ngày nay không được gặp trưởng lão.
Sư cụ đáp:
- Bần tăng mấy hôm nay phải bồi tiếp Đường Công, nên thất lễ với công tử.
Sài Công tử hỏi:
- Thưa trưởng lão, Đường Công đến đây có việc gì?
Sư cụ đáp:
- Đại nhân có thánh chỉ hồi hương, ngày mười lăm vừa rồi đến chùa, vừa dịp phu nhân khai hoa, vì vậy phải ở lại, chờ phu nhân khỏe mạnh, lại mới đi tiếp về Thái Nguyên được.
Công tử tiếp:
- Tôi nghe Đường Công có tiếng hiền đức, sự thực thế nào, thưa trưởng lão?
Sư cụ đáp:
- Bần tăng đã thấy nghìn thấy vạn, nhưng chưa thấy người nào đức hạnh hơn đại nhân. Bởi phu nhân khai hoa ở chùa, e sự sinh nở ô uế đất Phật chăng, đại nhân liền đưa ngay mười lạng bạc, sai sắm hương đèn thắp khắp các điện; lại nguyện cúng một vạn lạng bạc xây lại nhà chùa, mở mang cảnh Phật. Trưa hôm qua đại nhân tới phòng bần tăng uống trà, trông thấy câu đối của công tử, khen ngợi không ngớt. Tối đến lại cùng bần tăng ngắm trăng, thấy công tử đọc sách, đại nhân đứng ngoài cửa sổ nhìn vào xem xét mãi.
Công tử nói:
- Lúc ấy đồ đệ này đang làm gì?
Sư cụ đáp:
- Công tử xem sách xong, cầm lấy kiếm múa mấy đường.
Công tử tiếp:
- Lúc ấy mới canh một, phải không trưởng lão?
Sư cụ đáp:
- Bấy giờ đã nghe trống canh lần thứ nhất rồi.
Công tử lại hỏi:
- Đường Công nói những gì, xin trưởng lão cho nghe lại.
sư cụ đáp:
- Bần tăng đặc biệt đến báo tin mừng.
Công tử vội hỏi:
- Tin mừng gì thế?
Sư cụ đáp:
- Đại nhân có một quận chúa, nghe nói tuổi độ mười sáu, đoan trang ít nói, chưa kén được rể hiền, nhờ bần tăng "chấp kha phạt mộc" đem sự lành đến cho cả hai họ Sài, họ Lý.
Công tử cười thưa:
- Hôn nhân là chuyện lớn, không thể coi nhẹ. Nhưng từ lâu tôi đã ngưỡng mộ danh tiếng của Lý tướng quân, nếu được làm tôi con dưới trướng, để được thường ngày gần gũi học hỏi, thật là chuyện may mắn cho kẻ hậu sinh này.
Sư cụ tiếp:
- Giờ đại nhân muốn gặp công tử ngay, vậy mời công tử lên Phật điện, ý công tử thế nào?
Công tử đáp:
- Đại nhân là bậc trưởng quan, sao lại có thể đến đường đột được. Xin cho đến ngày mai, sửa soạn lễ nghi cẩn thận, mới dám tới bái kiến đại nhân được.
Sư cụ khuyên:
- Đại nhân ái mộ công tử, không chấp nệ lễ tiết, bần tăng xin đi cùng công tử.
Công tử nhận lời:
- Nếu đã như thế, đồ đệ xin mời trưởng lão cùng đến.
Công tử mặc áo lễ, sư cụ dẫn lên Phật điện bái kiến. Đường Công thấy công tử quả thật là:
Mày như trăng khuyết, một tựa sao đêm
Mũi tạc thợ trời, răng như ngọc dát
Dáng thần lanh lẹ, ngoài trắng cốt trong
Khí phách hiên ngang, rồng bay hổ nhảy
Kiếm ẩn cung tàng, ra hình khanh tướng, chửa đến thời
Giỏi văn tài võ, thật kẻ anh tài, chưa gặp hội.
Đường Công lấy lễ chủ khách ra tiếp. Sài Tự Xương hai ba lần khiêm nhường, xin lấy lễ thấy trò ra đãi. Đường Công hỏi chuyện gia thế, đủ vẻ gần xa. Tự Xương thưa gửi đâu ra đấy, tiếng như ngọc rót.
Đường Công thấy thế bằng lòng lắm, giữ lại uống trà xong mới cho về, còn mình thì tìm đến phương trượng nói chuyện cho phu nhân hay. Phu nhân bàn:
- Việc này tôi với phu quân đều bằng lòng rồi. Nhưng hôn nhân là việc lớn trăm năm, cũng phải nói lại cho con xem nó có bằng lòng.
Đường Công đáp:
- Hôn nhân là bởi ở cha mẹ, con cái trong nhà, sao có thể tự quyết.
Phu nhân cãi:
- Phu quân lầm rồi. Hiểu con gái không ai bằng mẹ, hiểu con trai chẳng ai bằng cha. Con gái tôi, tôi biết lắm, nó không phải là đứa tầm thường. Tôi xem xét hàng ngày, mỗi việc nó đều có ý riêng đúng đắn, khác hẳn mọi người. Hãy chờ tôi nói chuyện với nó, xem ý nó thế nào, nếu nó yên lặng thì phu quân cứ việc mình mà làm, nếu nó tỏ ý không bằng lòng, thì đành phải chờ ít lâu nữa. Xem ra cậu này, chưa chắc đã có ai gọi đến làm rể đâu, cho nên nếu chưa xong được ngay thì hãy cứ về Thái Nguyên rồi lo liệu sau cũng chưa muộn gì.
Đường Công bằng lòng.
Nói xong, Đường Công đi khỏi phương trượng, phu nhân cũng ra phòng ngoài, tiểu thư đón vào. Phu nhân đem chuyện Đường Công kén Sài Tự Xương làm rể kể tỉ mỉ. Tiểu thư ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nghiêm trang thưa:
- Có cha mẹ ở trên, nói đến chuyện này, làm con gái trong nhà vốn không nên nhiều lời, nhưng là việc hôn phối trăm năm, vinh nhục đều từ đó, nếu quá vội vàng, sau hối không lại. Cứ như mẹ nói, diện mạo thế là được rồi, tài năng thế cũng xong. Nhưng thời thế bây giờ chỉ trông vào diện mạo là không đủ để đánh cướp dẹp loạn. Nếu gặp nạn binh đao, cái lũ người nhai văn nhá chữ chỉ có việc ngồi chờ chết, chẳng dùng được việc gì.
Phu nhân cướp lời:
- Chính như cha con đã nói. Cậu ấy múa kiếm giỏi lắm, nhìn dưới đèn, chẳng khác gì hoa tuyết phơi phới, nhất định cũng có ít nhiều bản lĩnh.
Tiểu thư thấy mẹ nói thế, khẽ cười thưa:
- Nếu quả như thế, xin hãy cho con nghĩ lại xem sao, đừng trả lời họ vội, đợi khoảng hai ngày nữa, con xin quyết ý có được không?
Phu nhân thấy con nói thế, ra tìm kể lại với Đường Công.
Tiểu thư nghe mẹ nói xong, băn khoăn trăm đường. Cũng muốn đi nhìn trộm Tự Xương xem mày mặt thế nào, nhưng lại thấy không phải phép, đúng lễ nên không dám, phần vẫn băn khoăn lỡ làng chuyện cả đời, nên phân vân không định được điều gì. Bỗng thấy Hứa Thị, vú nuôi bước vào, đến trước tiểu thư hỏi:
- Vừa rồi phu nhân nói thế, ý tiểu thư liệu đường nào?
Tiểu thư đáp:
- Ta cũng đang nghĩ nên thế nào cho phải.
Hứa Thị thưa:
- Chuyện này thì có khó gì. Chỉ yên lặng làm thế này, tiểu thư cứ gọi cậu ta đến thử thách một hồi, hay dở tất biết.
Tiểu thư gật đầu khen hay. Chính là:
Bạch lạp sáng bừng soi yến tước
Ngọc tiêu vang điệu họa uyên ương.
***
Lại nói Sài công tử từ hôm gặp Đường Công, thấy Đường Công đối xử với mình rất tử tế, vừa khiêm tốn, vừa chân tình nên trong lòng rất vui, chuyện nhân duyên, bởi chưa thấy tiểu thư lại chả biết việc sẽ đến đâu, tự mình không thể quyết đoán, nên lại càng thắc thỏm. Lúc ấy đang ngồi xem sách dưới đèn, công tử bỗng nghe thấy bên ngoài có tiếng ho khẽ, rồi mở cửa ra, ngẩng đầu nhìn lên thì thấy một phụ nữ mắt to, lông mày rậm, người cao, chân to, tuổi chưa nhiều. Công tử đứng dậy hỏi:
- Bác là ai. Đến đây có việc gì?
Người này đáp:
- Ta là bảo mẫu của tiểu thư ở Lý phủ. Nhân phu nhân có chuyện định kén công tử làm khách đông sàng vỗ bụng*. Tiểu thư ta vốn tài sắc song toàn, chỉ thích đọc binh pháp Tôn Ngô, lục thao tam lược không gì không hiểu thấu đáo sâu xa. Thế chỉ sánh với người giỏi võ tài văn, túc trí đa mưu. Vừa rồi nghe đại nhân rất khen văn tài diện mạo công tử, lại nói công tử giỏi múa kiếm. Cứ thế mà suy, đại nhân ta rất bằng lòng. Nếu quả thực công tử thực lòng ước nguyện nhân duyên với tiểu thư, không hề thay trước đổi sau, thì xin hãy đi theo hành lang phía tây, ra sau Quan Âm các, bên vườn rau, xem tiểu thư bày thế trận, công tử mà hiểu được thì Tần Tấn mới đẹp duyên.
*Khước Giám đến nhà họ Vương kén rể, con trai họ Vương ai cũng ra vẻ tốt đẹp riêng Vương Hy Chi vẫn vỗ bụng nằm trên giường phía đông ăn bánh. Khước Giám thấy thế cười lớn: "Người ấy mới là rể quý của ta". Rồi gả con gái cho. Về sau Vương trở thành danh sĩ nổi tiếng đời Trần, văn hay, chữ cực tốt
Công tử nghe xong, khẳng khái đáp:
- Nếu vậy, lúc nào hết canh một, bác đến đón, dẫn ta đi xem thế trận có được không?
Hứa Thị bằng lòng, quay trở ra.
Họ Sài ăn tối xong, nghe ở ngoài, lính tuần điểm canh lần thứ nhất, ánh trăng như sáng hơn mọi ngày. Đọc được mấy hàng binh thư, lại ra sân nhìn trăng, bất giác trống canh đã điểm lần hai, công tử thầm nghĩ lời nói bảo mẫu chưa chắc đã đáng tin, đang định quay trở vào lên giường, bỗng có tiếng ho khẽ, rồi thấy bảo mẫu đứng từ đằng xa, vẫy tay làm hiệu. Công tử gọi Sài Báo, mở hòm lấy ra chiếc áo chẽn thêu rồng năm màu, lại lấy thắt lưng lụa quấn chặt, đeo bảo kiếm, rồi bảo Sài Báo khóa cửa phòng, cả hai cùng đi theo bảo mẫu ra phía vườn rau. Vốn ở sau Quan âm các, có một vùng đất hoang rộng, xa tít đầu kia là ngọn núi đất, men theo sau Quan Âm các là một dãy tường thấp, bên nách có một cửa ra vào nhỏ. Công tử trông một hồi, đang định đi qua cửa, thì Hứa Thị ngăn lại:
- Tiểu thư ta dặn, hai bụi trúc này coi như cửa viên môn, công tử hãy đứng chờ đó, đợi bày xong trận thế hãy ra xem.
Công tử nghe theo, rĩ tai Sài Báo mấy câu. Chỉ thấy một cô gái tiến lại, tóc đen búi cao, mặc áo thêu ngắn, gài thoa vàng, những chuỗi ngọc rũ che kín mặt, ống tay áo bó sát, cầm một lá cờ nhỏ, dừng lại trên một gò đất. Công tử hỏi:
- Đấy có phải là tiểu thư không?
Hứa Thị đáp:
- Tiểu thư có phải dễ thấy thế đâu. Đó chỉ là giáo nữ chuyên bên cạnh phục dịch tiểu thư, được phái đến để bày trận thế.
Lời chưa dứt, chỉ thấy giáo nữ vẫy cờ lệnh, đội nữ binh xuất hiện, một người y phục màu đỏ, đi với người y phục màu trắng, một người y phục màu xanh, đi với người y phục màu vàng, đều chít khăn, áo gọn gàng, tay cầm giáo dài sáng loáng, tất cả có một trăm hai mươi người. Đội bên hữu kéo đi, đội bên tả quay lại, bày thành hình chữ nhất, Hứa Thị hỏi:
- Công tử có biết thế trận này không?
Công tử đáp:
- Đây là “Trường Xà trận”, chẳng lấy gì làm lạ.
Lại thấy nữ giáo phất cờ hiệu, đám nữ binh quay thành bốn vòng, phân làm năm nhóm, mỗi nhóm thêm bốn người, vác giáo đứng kề phía sau. Công tử đứng nhìn kỹ, chỉ thấy:
Một điểm đỏ, một điểm trắng
Chẳng khác gì tuyết trắng hoa hồng phơi phới
Một vòng xanh, một vòng vàng
Chẳng khác oanh vàng thúy biếc chập chờn
Đừng lầm Tôn Võ Tử dạy nữ binh
Những tưởng Cố phu nhân dàn trận thế.
Thấy đội nữ binh hình chữ nhất yên vị, Hứa Thị hỏi. Công tử cười trả lời:
- Giờ là "Ngũ hoa trận".
Hứa Thị lại hỏi:
- Công tử biết thế, có dám vào phá trận không, vào được, ra được mới biết bản lĩnh công tử.
Công tử đáp:
- Cái ấy thì có khó gì. Hãy xem đây!
Công tử liền nịt chặt áo, tuốt bảo kiếm giơ cao bước tới. Hai hàng nữ binh thấy thế, giáo dài múa tít, ánh thép loang loáng đâm tới, công tử vội múa kiếm đỡ.
Năm đội nữ binh, thấy công tử xông về phía đông, họ lại kéo tới ngăn lại, không được, công tử lại quay sang phía tây, họ đã xông về phía tây trước ngăn lối. Công tử trù trừ nghĩ cách thoát khỏi cảnh tuyệt lộ, làm sao đánh lui được 120 nữ binh này, đem kiếm quý ra đương, nhưng sợ tổn thương thiện ý đối phương.
Thêm hai đội vây đến, hai nữ binh đi đầu, cầm dây lụa đỏ dài, chờ lúc công tử quay sang phía sau, tung dây lụa ra, nhằm thẳng đầu rơi xuống. Trước nguy cơ bị giải lụa cuốn chặt, công tử chỉ còn cách vung kiếm múa tít đỡ nhưng vẫn không tài nào thoát khỏi trùng vi. Công tử nhìn ra xung quanh, thấy từ cửa sổ đằng xa, treo hai cây đèn lồng màu hồng rực rỡ, ở giữa ẩn hiện một khuôn mặt tựa phật Quan âm tạc bằng ngọc trắng, chỉ thấy nửa phần trên của thân hình.
Bấy giờ nữ giáo vẫn đứng ở gò đất ban đầu, vội vã phất cờ lệnh về phía sau, từ phía đó liền xuất hiện bốn năm mươi nữ binh mặc toàn áo trắng, vác giáo dài, ùn ùn kéo ra. "Ngũ hoa trận" bỗng biến thành "Lục hoa trận". Công tử lại múa tít bảo kiếm, che chở toàn thân, vừa lui về phía viên môn để mong thoát khỏi vòng vây. Sáu đội nữ binh, nhất tề như bay tới, bốn năm giải lụa tung ra, khiến cho tầng không nhằng nhịt muôn màu. Tình thế thật nguy nan, công tử vội quát lớn:
- Sài Báo đâu rồi!
Sài Báo nghe gọi, rút ngay trong ống tay áo một chiếc pháo hoa, đánh lửa châm ngòi, rồi nhằm đám nữ binh mà ném tới. Bọn nữ binh nghe trên đầu mình một tiếng nổ lớn, lửa khói mịt mù, thuốc pháo nồng nặc. Sài công tử đang chăm chú nhìn, chỉ thấy tiếng gió rít, quay lại, một mũi tên bay tới, cắm nhẹ lên vành khăn. Công tử giơ tay rút nhẹ, thì ra "Hoa lệnh tiễn , không bịt nhọn, lại có buộc một quả cầu ngũ sắc xinh xắn. Nhìn về phía chùa, thì giai nhân đã biến mất, hai cánh cửa sổ đã đóng chặt. Quay lại đám nữ binh, thì họ cũng đã rút từ lúc nào, hương thừa quanh quất. Lắng nghe ra, trống canh tư đã điểm. Chủ tớ cả hai, vội quay về thư phòng, lăn ra ngủ kỹ.
Mặt trời đã lên cao, Sài công tử vẫn còn đang đóng cửa ngủ, thì sư trụ trì Ngũ Không đã tới gọi. Sài công tử bàng hoàng ra mở cửa, sư trụ trì hân hoan bảo:
- Mới sáng ra, Lý đại nhân đã gọi bần tăng tới lệnh chọn ngày tốt chuẩn bị nghi lễ, nhận công tử làm rể.
Sài công tử cha mẹ đều mất sớm, ruộng vườn nhà cửa đều giao cho họ hàng cai quản, không một chút vướng bận gì, liền theo Đường Công về Thái Nguyên làm lễ thành thân. Về sau, khi Đường Công khởi binh đánh Trường An, có cả một đội nữ binh, đó chính là quân bản bộ của vợ chồng họ Sài.
Trời vì họ Lý gây đế nghiệp
Người xui hào kiệt hóa đông sàng.
***
Không nói chuyện Đường Công về Thái Nguyên, lại tiếp chuyện Thúc Bảo đuổi ngựa theo kịp Phàn Kiến Uy. Phàn hỏi:
- Đại huynh lo chuyện bất bình, kết cục ra sao rồi?
Thúc Bảo trả lời cặn kẽ, Phàn không giấu nỗi kinh ngạc. Ngày hôm sau, ăn sáng xong, chia đôi hành lý, mỗi người giải hai phạm nhân, rồi người nào đi đường người ấy, Phàn về Trạch Châu, Thúc Bảo tới Lộ Châu, Thúc Bảo tìm đến quán trọ ngay trước cổng phủ, buộc ngựa vào cọc, đưa hai phạm nhân vào, nói với chủ quán:
- Đây là hai phạm nhân, nhờ bác chủ trông coi cẩn thận cho, có phòng nào khóa chắc chắn không?
Chủ quán đáp:
- Quý khách có việc quan trọng giao cho, xin hãy cứ tin ở tiểu nhân.
Thúc Bảo lên phòng trọ ngồi, dặn chủ quán:
- Nhờ bác chủ mang hộ hành lý trên ngựa vào cho, rồi cởi yên cương, nhưng đừng cởi chăn phủ, sợ ngựa bị lạnh, dẫn vào tàu ngựa, cho thức ăn tốt cho. Sau đó hãy cho ta một phòng nào sạch sẽ để nghỉ ngơi.
Chủ quán làm vẻ chiếu cố:
- Thưa quý khách, có mỗi một phòng nhỏ ở trước cửa, chuyên dành cho các bậc quan chức dưới các huyện có việc về phủ, nên ít khi phải mở, nay mời quý khách hãy tạm thời nghỉ ở đấy.
Thúc Bảo đáp:
- Thế thì tốt! Xin đa tạ bác chủ!
Chủ quán cầm đèn, đem hành lý vào, bày trà nước, rồi cơm rượu, ân cần đứng bên rót rượu, cười nói vui vẻ:
- Xin quý khách cho biết cao danh quý tánh để tiểu nhân ghi vào sổ trọ.
Thức Bảo đáp:
- Ta họ Tần, là công sai của phủ Tế Châu, tỉnh Sơn Đông, đến trình công văn ở phủ đây. Thế còn bác họ gì?
Chủ quán đáp:
- Tần quý khách, quý khách không nhìn thấy biển hàng ở ngoài cửa sao: "Thái Nguyên Vương điếm", cả họ tên là Vương Thị, Thị là cáo thị ấy mà.
Thúc Bảo nói:
- Tôi với bác là chỗ chủ khách, ai lại dám gọi tên húy của bác.
Chủ quán cười đáp:
- Các quan khách vãng lai, lấy chữ Thị tên tiểu nhân đảo ngược, gọi là Vương Tiểu Nhị *.
* Chữ thị, nghĩa là bày ra, gồm trên chữ thị, dưới chữ tiểu, nên khách hàng “chiết tự" thế.
Thúc Bảo nói:
- Đó cũng là cách đùa lý thú đấy. Thường thì ai mở quán trọ, người ta hay gọi là Tiểu Nhị, như kẻ làm bà mối, gọi Vương bà vậy thôi. Ta gọi bác là Tiểu Nhị là gọn hơn cả. Cho ta hỏi bác chủ, Sái thái thú nhận phát công văn vào những ngày nào?
Tiểu Nhị đáp:
- Tần quý khách không phải lo lắng gì chuyện đó. Sái thái thú chúng tôi rất là tài hoa. Sáng mai vào công đường nạp công văn, đến sáng ngày hôm sau thì vào lĩnh công văn. Quý khách ở quán trọ này chỉ phải hai ngày chờ đợi. Chỉ sợ Tần quý khách còn phải đi thăm bạn bè, hoặc mua sắm ít sản vật địa phương thì mới phải tính toán, còn việc công đường thì chẳng có gì đáng ngại.
Thúc Bảo nghe xong những lời dài dòng rồi đi ăn chiều, sau đó đóng cửa ngủ kỹ.
Sáng hôm sau, Thúc Bảo dậy rất sớm, rửa mặt, thay quần áo, chuẩn bị đầy đủ, vào phủ đường nạp công văn có gắn niêm phong cho Sái thái thú, giải phạm nhân vào. Thái thú sai mở công văn xem xong, truyền mở công khóa, hẹn Thúc Bảo ngày mai vào lĩnh công văn trở về. Rồi giao hai phạm nhân xuống nhà ngục thu nhận, Thúc Bảo mới xách gông khóa về quán trọ, ăn cơm trưa, ra phố xem chợ búa, chùa chiền, trời vừa kịp tối, thế là hết ngày hôm đó. Ngày mười bảy vậy.
Sáng ngày mười tám, Thúc Bảo vào phủ lĩnh công văn, lúc này mặt trời đã cao bằng ba cây sào, vào khoảng giờ tỵ*, cổng phủ vẫn chưa mở, người ra vào vẫn chẳng thấy một ai, các dãy nhà cửa, công đường vẫn lặng như tờ. Gần cổng rất nhiều quán rượu lớn hôm qua còn thấy đông đúc huyên náo, hôm nay cũng thấy đóng cửa, ngay cả cánh cửa treo ở cổng phụ cũng chẳng thèm kéo lên. Có một quán rượu, cửa nửa đóng nửa mở, Thúc Bảo bước vào thấy cạnh quầy, mấy gã thanh niên đang cười đùa, Thúc Bảo chắp tay hỏi:
- Chào các bạn trẻ, sao đến giờ mà vẫn chưa thấy Sái thái thú ra công đường các bạn?
* Giờ tỵ: Khoảng từ 9 giờ đến 11 giở sáng, theo cách tính thời gian của Trung Quốc.
Một thanh niên trong đám đông hỏi:
- Ông anh hình như nói không phải tiếng vùng Lộ Châu chúng em.
Thúc Bảo đáp:
- Tiểu đệ vốn là công sai của Sơn Đông.
Thanh niên kia tiếp:
- Ông anh không biết Sái thái thú có việc đã đi rồi sao!
Thúc Bảo hỏi:
- Đi đâu kia?
Thanh niên kia đáp:
- Đi phủ Tinh Châu, thuộc Thái Nguyên này.
Thúc Bảo hỏi tiếp:
- Có việc gì mà phải đi Thái Nguyên hở bạn trẻ?
Thanh niên kia đáp:
- Đường Công Lý đại nhân vừa được thánh chỉ cho về quê là Đạo hành Hà Bắc, trông coi các châu, huyện thuộc Hà Bắc, tỉnh đường Thái Nguyên vừa có văn thư xuống, đòi các quan đứng đầu phủ, châu huyện về dự lễ mừng. Quan thái thú được báo tin vào lúc canh ba, đã lập tức lên đường đi Thái Nguyên mừng Lý đại nhân rồi.
Thúc Bảo thầm nghĩ: "Đây chính là Lý đại nhân mà mình đã cứu thoát bọn cướp ở Đồng Sơn đây". Chàng hỏi tiếp:
- Xin làm ơn mách cho tiểu đệ, bao giờ thì thái thú mới về.
Thanh niên kia đáp:
- Còn lâu. Lý đại nhân danh vị lớn, lại nhân hậu, quan viên lớn nhỏ tới mừng, nhỏ thì có lẽ không được dự tiệc, quen biết thì chẳng mấy khi gặp gỡ, nhất định là yến ẩm chuyện trò. Đường lại xa, nên lâu cũng phải hai mươi ngày, chóng ra thì cũng phải nửa tháng mới trở về được.
Thúc Bảo nghe thấy thế, nghĩ cũng chẳng còn hỏi gì thêm nữa, quay ra về quán trọ, ngày ba bữa ăn rồi chờ đợi quan thái thú trở về.
Người ta ở nhà mình, ngày ngày vô sự, ăn rồi là xong, nhưng Thúc Bảo là khách trọ, cơm hàng cháo chợ, đã hơn mười ngày trời, Vương Tiểu Nhị phải cung đốn. "Thái Nguyên Vương điếm” lại là nơi bọn công sai lui tới nhiều hơn cả, lúc này quan phủ không làm việc, chẳng ai đến công đường làm gì, cho nên biển hàng, đèn lồng ngoài cửa, Tiểu Nhị cũng chẳng buồn treo. Tiểu Nhị bàn bạc với vợ ở nhà trong:
- Mình xem, ông khách họ Tần này đúng là tướng tinh con hổ trắng hãm tài. Từ ngày ông ta đến đây, có mỗi một ông thái thú cũng bỏ công đường đi mất, được vài ba lạng bạc vụn, chui tất vào bụng của ông khách quý này rồi. Hôm qua, ông ta đi đâu chán rồi về ăn, canh rau không thèm đụng tới, xô bàn vứt bát đứng dậy. Tôi cũng đã định mở miệng đòi ít tiền. Mình lâu nay vẫn thường chê trách tôi không biết ăn nói, để đến nỗi khách khứa ghét mặt, tìm sang các quán khác cả, nay mình hãy mở miệng hỏi ông ta lấy mấy lạng bạc. Lời của đàn bà, dù nặng dù nhẹ, ông ta cũng còn chịu nổi chăng?
Vợ Vương Tiểu Nhị là Liễu Thị, vốn hiền lành, biết điều, lại chịu khó, yên lặng nghe chồng nói xong mới nhẹ nhàng khuyên giải:
- Mình chẳng cần hỏi. Vào phòng ông ta, nhìn sự thể ra sao, nét mặt thế nào là biết ngay thôi mà. Xem ra ông khách họ Tần này cũng không phải không có tiền đâu. Từ tận Sơn Đông tới đây công cán, chờ lấy được công văn trở về, ông ta sẽ tính toán đầy đủ thôi.
Hai ngày nữa nặng nề qua đi. Tiểu Nhị dành phải tìm cách hỏi tiền ông khách trọ. Chờ đến lúc Thúc Bảo sắp ăn trưa, Tiểu Nhị chưa dọn ăn vội, mà tự mình bưng một ấm trà nóng vào phòng, rồi quay ra, đứng dựa vào cửa sổ, cười nói với Thúc Bảo:
- Tiểu nhân có điều muốn nói, xin Tần quý khách đừng giận.
Thúc Bảo đáp:
- Ta với bác chủ là quan hệ chủ khách, chẳng có gì mà phải giận, dù chỉ là một câu cũng vậy.
Tiểu Nhị làm ra vẻ từ tốn:
- Mấy bữa nay quán kiếm không ra tiền, lãi đã không mà có ít vốn cũng hao hụt, đến rau canh cũng không dám mua nhiều, định nói với Tần quý khách chi cho ít nhiều để lấy cái mua bán, không biết có được hay không?
Thúc Bảo đáp:
- Chuyện này thì đúng quá, sao bác chủ còn phải giữ ý mãi thế. Ta cũng quên mất, chưa từng đưa cho bác đồng nào bác lấy đâu ra vốn nhiều mà cung đốn ta mãi được. Nhờ bác vào trong hòm, mang hành lý của ta ra đây, ta sẽ lấy bạc đưa bác.
Tiểu Nhị chỉ còn chờ đến thế, chạy ngay vào phòng, mở hòm ở đầu giường Thúc Bảo, lôi ngay gói hành lý ra, bưng cẩn thận đến trước mặt Thúc Bảo. Rõ là: "Đầu giường tiền của hết, tráng sĩ ngẩn ngơ hồn".
Lúc này Thúc Bảo trong lòng thầm nghĩ: "Tiếng tăm của cải đáng ra là không bao giờ nên rời khỏi thân mình. Bây giờ bao nhiêu tiền đi đường, đều để Phàn Kiến Uy mang đi Trạch Châu cả, làm thế nào bây giờ?".
Vì sao có chuyện tiền bạc của Thúc Bảo lại bị Kiến Uy mang đi? Vốn cả Tần lẫn Phàn, đều là những kẻ hào kiệt ở phủ Tế Châu, khi cả hai được điều đi giải bốn tên phạm nhân đến Trạch Châu, Lộ Châu xung quân, lệ phí đều nhận ở viên thư lại coi kho trong phủ, viên này cũng vốn biết tình thân giữa Phàn với Tấn, nên y cân bạc luôn một lần phát cả cho Phàn. Sau mấy ngày đi cùng, đến chỗ phải chia hai, hành lý, công văn thì nhớ chia cẩn thận, nhưng đến tiền bạc thì lại quên không chia, vì vậy, bao nhiêu tiền đi đường Phàn mang đi Trạch Châu mất cả. Giờ lục tìm đồ đạc trong túi, Thúc Bảo mới nhớ ra, lại đã trót nói với Tiểu Nhị, giờ biết làm thế nào, Thúc Bảo lúng túng, máu dồn cả lên mặt đỏ bừng.
Tiểu Nhị thấy Thúc Bảo cứ khoắng tay mãi trong túi, y sinh nghi tự hỏi: "Không biết trong đó tiền nhiều ít, ông ta đưa cho mình bao nhiêu, mà mãi không thấy lấy ra được thế kia?". Không rõ rồi Thúc Bảo làm thế nào để qua được chuyện này với Vương Tiểu Nhị, xin xem hồi sau phân giải.
Nguồn maxreading.com.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét