Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

30 thg 10, 2013

Tùy Đường diễn nghĩa - Chữ Nhân Hoạch Hồi 17,18

HỒI 17

Tề Quốc Viễn mãi vui cuộc đá cầu gấm,
Sài quận mã cùng bạn xem hội đèn hoa.

Thơ rằng: 
Vũ trụ chiều lâng lâng 
Sóng Ngân trôi lang thang 
Giữa trời treo đĩa ngọc 
Khắp đất sáng mâm vàng 
Thấp thoáng người tiên cảnh 
Vi vu sáo phượng hoàng 
Trăm năm nào mấy dạo 
Đùa vui đừng ngỡ ngàng. 


Người đời thường nói: chơi là vô ích. Ta lại nghĩ rằng: người ta lúc nhỏ, chơi say mê mà không biết đó là điều may mắn lớn, đến khi lớn khôn, hoặc phải tìm danh tiếng, hoặc phải mua lợi lộc, khổ cho thân người, bôn ba vất vả, có mấy khi mà được một giờ một khắc nhàn rỗi? Đến khi công thành danh toại, thì cũng là lúc râu tóc đã bạc trắng cả, dẫu có chơi cũng chẳng còn đâu hứng thú? Vẫn có bao nhiêu người, công bất thành, danh bất toại mà đã qua đời, thế cũng là một kiếp đời sao? Vì vậy gặp hội thì chơi, "Phùng trường tác hí", chính là một cầu chí lý vậy thay? Nhưng lại cũng phải biết tùy lúc mà vui, tùy nơi mà buồn, biết lẽ tới lui, không thể nào như dòng nước chảy về đông quên cả lối về. 

*** 

Lại nói Tần Thúc Bảo nghe Lý Tĩnh nói thế, vội tìm về nhà trọ thì thấy các bạn cơm rượu đã xong, đang chờ Thúc Bảo trở về là tính toán tiền nong với chủ quán. Vừa thấy mặt Thúc Bảo mọi người cùng reo: 
- Đại huynh sao không cho chúng tôi theo vào thành với? 
Thúc Bảo đáp: 
- Mới canh năm mà đã vào thành làm gì. Bây giờ vào là tốt hơn cả. 
Vương Bá Đương lên tiếng hỏi chuyện Lý Huyền Thúy, Thúc Bảo đáp: 
- Đem lễ vật đến nạp, tiểu đệ may lại gặp chính Huyền Thúy hiền huynh thu. Nhưng Huyền Thúy vì công việc bận rộn, nên cũng không được nói chuyện lâu, nghe nói đại huynh cũng ở đây, Huyền Thúy gởi lời tạ lỗi. 
Rồi nói với mọi người: 
- Giờ hãy mau thu nhập hành lý để vào thành. 
Tính số anh em cưỡi ngựa, có bảy người, cộng tất cả là ba mươi người. Chào chủ quán họ Đào, ra khỏi quán trọ. Bá Đương lên ngựa, vừa cười vừa quay lại nói với Thúc Bảo: 
- Tần đại huynh hãy nhìn xem cảnh tượng lôi thôi, nhếch nhác của anh em mình kìa! 
Thúc Bảo hỏi lại: 
- Sao lại thế? 
Bá Đương chỉ mọi người đáp: 
- Chúng ta có bảy người, cưỡi bảy con ngựa. Phía sau kéo theo hơn hai chục người nữa, hành lý quanh người, cứ như thế này mà vào thành thì sẽ thành một hàng dài từ Nam chí Bắc cũng chưa dứt. Anh em lại toàn người phương Bắc xa xôi xuống, rất dễ lạc ngõ lạc phố. Vào đây lại là để xem các trò vui, vào quán rượu, phòng trà, cứ cả một đoàn thế mà kéo, thì làm thế nào mà đi nổi? 

Thúc Bảo nghe Bá Đương nói vậy, trong bụng nghĩ thầm: "Lời của Lý Tĩnh sáng nay, không thể tin cả, cũng không thể ngờ cả. Rõ ràng là với cả đoàn thế này mà vào thành, thì cưỡi ngựa cũng phiền, không cưỡi ngựa cũng dở". Bá Đương cùng Thúc Bảo bàn cãi mãi không xong. Lý Như Khuê bèn góp vào: 
- Hai đại huynh chả cần phải bàn cãi nhiều. Chi bằng cứ theo cách của tiểu đệ đây là hơn. Ngựa chỉ cưỡi tới cổng thành thôi. Bọn thủ hạ của chúng ta đây này, kéo tất cả chúng vào thành làm cái gì? 
Chỉ ở ngoài cửa thành thôi, tìm một cửa hàng vắng nào đó, chất tất cả hành lý vào đó. Ngựa thì tháo hết yên cương, dắt chúng men vào thành gặm cỏ, uống nước, người thì thay nhau ăn uống, nghỉ ngơi. Sài Quận mã có hai viên gia tướng rất nghiêm chỉnh, nói họ cai quản tất cả các thứ hành lý, tiền bạc nào cần thì mang để dùng. Bọn thủ hạ ở ngoài này, lúc nào trời gần tối, lại sang đóng sẵn yên cương, đợi chủng ta quay ra. 
Nghe xong, bạn bè đều nói: 
- Bàn có lý lắm thay! 
Việc vừa bàn xong, thì mọi người cũng vừa đến cổng thành. 
Thúc Bảo sai hai người lính dắt ngựa của mình: 
- Ta với mọi người có sự khác nhau, là đang gánh việc công trên vai, phải mang công văn lẫn thư từ, bỏ vào một cái túi nào đó mà mang theo. Những thứ này đều có quan hệ đến tính mạng. Chờ đến hoàng hôn, mỗi con ngựa của ta đều phải yên cương thật vững vàng, có đeo thêm một cái túi nữa. Các người phải nhớ mà làm cho đầy đủ. 
Thúc Bảo cùng bạn bè, giấu vũ khí trong người, đem theo viên gia tướng của Sài Quận mã đi vào thành. 

Từ các quan đại thần lộc cao vọng trọng, cho đến dân đen trăm họ đều vâng mệnh Thiên tử, ai cũng tùy sức tùy tài, tham dự cuộc hội đèn Nguyên Tiêu năm nay. Nhà nhà đều trang hoàng lộng lẫy, lụa gấm đủ màu, đèn hoa đủ kiểu. Nhưng nổi bật hơn cả trong kinh thành, vẫn là hai nơi: một là phủ đệ của phò mã, hai là phủ đệ của Vũ Văn Thuật. Phủ đệ của Vũ Văn Thuật, vốn là dinh thự của Binh bộ thượng thư, phía sau là một trường bắn, nơi luyện tập ti thí võ nghệ của các võ tướng từ nhỏ chí lớn, thường được gọi là Tiểu giáo trường, là nơi dân chúng kéo đến nhiều hơn cả, một phần cũng bởi sự đua đòi, cổ vũ của đám thiếu niên ăn chơi ở kinh thành. 

Nhưng ai là người dám lấy Tiểu giáo trường của bộ Binh làm nơi vào chơi trong dịp Tết Nguyên Tiêu này? Chỉ có công tử thứ ba nhà Vũ Văn Thuật là Vũ Văn Huệ Cập mới làm được điều này. Vũ Văn Thuật có bốn người con trai: con đầu là Vũ Văn Hóa Cập, hiện giữ chức Trị thư thị ngự sử, con thứ hai là Vũ Văn Sĩ Cập; lấy công chúa Tấn Dương, làm Phò mã đô úy, con thứ ba là Vũ Văn Trí Cập, chuẩn vị nhận chức Thiếu giám. 

Vũ Văn Huệ Cập là cậu con nhỏ nhất, ỷ vào thế lớn của các anh, đương còn ít tuổi nên chưa ra làm quan, mắt chưa từng thấy việc binh đao, trong lòng cũng chưa từng có chữ nghĩa văn chương gì, ngoài thì lụa gấm phủ đầy, ăn thì toàn trân tu bát bảo. Theo sau công tử nếu không phải là hàng đàn bọn du thủ du thực, thì cũng là từng bầy côn quang xiểm nịnh, hướng dẫn, xúi giục Huệ Cặp trong những cuộc chè rượu tối ngày, trai gái đàn hát. Với mồm miệng bọn thiếu niên trai tráng này, thì dù Huệ Cập chưa từng đá được quả cầu nào, cũng được ca ngợi là bậc đá cầu giỏi, đến nỗi Huệ Cập cũng tin điều này là thật, đã thế thì phải là nơi tập trung của các anh tài trong nghề đá cầu mới xứng. Biết rõ rằng trong dịp Tết Nguyên Tiêu náo nhiệt này, mọi người sẽ kéo về Trường An xem hội đèn, công tử bèn lấy Tiểu giáo trường của phụ thân làm thành một sân đá cầu lớn chưa từng có xưa nay. 



Mới chỉ mùng một tháng giêng, tết nguyên tiêu cũng còn tới nửa tháng nữa, đài bán nguyệt của Tiểu giáo trường đã được căng kín gấm vóc đủ màu, một tấm vải lụa hoa sặc sỡ được căng ra làm rạp lớn, tưởng như định che cả mặt trời, chính giữa cổng ra vào cũng kết bằng lụa ngũ sắc, đề ba chữ lớn: “Quan cầu đài” . Công tử ngồi trên đài cao, hai bên là hai mỹ nhân, được mời từ trong đám kỹ nữ nổi tiếng của các xóm cô đào kinh thành, một cô được mang tên Kim Phượng Vũ, một cô được tặng hiệu là Thái Hà Chi (1). Hai bên đông tây đài bán nguyệt, dựng lên hai tòa lầu thấp hơn, bên trong làm những cầu thang vòng vèo lên đến một cái cửa trang hoàng lộng lẫy, gọi là “Thái môn". Những kẻ nổi tiếng trong đám hảo hán giang hồ, không cần phải ăn mặc lôi thôi, không đeo gươm, vác giáo gì hết, đá cầu kiểu gì cũng được miễn là lên được "Thái môn", thì công tử Huệ Cập ngồi trên đài cao, cũng sẽ tặng một tấm lụa, một đỉnh bạc hoa, một thẻ bạc, rồi tùy anh ta muốn tỏ lòng cảm tạ công tử thế nào cũng mặc. Cũng có nhiều anh, đá mãi được lên tới cổng "Thái môn", nhưng còn nhiều hơn nữa, đá chẳng xong, lụa cũng không, bạc cũng không, thẻ chẳng được, mà chỉ làm trò cười cho quan khách. Xung quanh hai tòa lầu này là một trăm hai mươi nơi đá cầu, nơi nào cũng được sắp xếp gọn gàng, đẹp mắt, trồng cột, dựng lan can đầy đủ cả, để đón tiếp thử thách, từ đó mà chọn ra những anh tài, vào thi ở trong lầu. 
1 Kim Phượng Vũ: Chim phượng vàng múa: Thái Hà Chi: đám mây màu ngũ sắc bay. 

Lại nói Thúc Bảo cùng bạn bè, kéo nhau vào trong đám người chen chúc ấy được một lát, nhớ tới lời dặn của Lý Tĩnh, Thúc Bảo nói với Bá Đương: 
- Phàm những việc không cần ganh đua với mọi người, thì phải biết giữ điều vừa phải, nhịn nhục, mới là bậc hảo hán, phải không đại huynh? 
Bá Đương cùng Sài Quận mã theo lời Thúc Bảo, đểu cố gắng giấu kỹ tung tích của mình. Chỉ có Quốc Viễn cùng Như Khuê, lâu nay vẫn quen ung dung mặc sức, nên càng thích cảnh chen vai, đọ cánh, chỗ nào đông cũng xông vào, xô đẩy người khác kỳ xem được các trò vui tận mắt mới thôi. Như Khuê vốn con nhà giàu, còn biết ít nhiều trò chơi, Quốc Viễn thì làm nghề lạc thảo từ nhỏ, chỉ biết riêng chuyện gió to thì đốt nhà, trăng suông thì giết người, làm gì thấy được những trò chơi lạ mắt của kinh kỳ. Ngay cả quả cầu da có tua gấm kia cũng còn không biết là cái gì, phải ghé tai hỏi nhỏ Như Khuê : 
- Lý hiền đệ, cái quả tròn tròn có tua kia gọi là cái gì? 
Như Khuê vừa cười vừa đáp để đùa Quốc Viễn: 
- Đấy là cái túi đựng chì rất nặng, theo tám lần tám độ số của bát quái, là sáu mươi tư cân chì nấu chảy ra mà đổ thành. 
Quốc Viễn vẫn thật thà nói: 
- Cả ba người khỏe mạnh thế kia xúm quanh, thì làm gì mà không đá nó lên trên gác cao để lĩnh thưởng tấm lụa cùng đỉnh bạc cho được. Ta cũng có thể làm được? 

Những lời này bất quá hai người ghé tai nhau mà chuyện trò, nhưng vẫn có một tay trong đội phục dịch tung cầu cho khách chơi nghe được, liền mang ngay quả cầu đến, liến thoắng mời hai người: 
- Xin mời nhị vị quý khách thử một lần để giành phần thưởng cho thêm phần danh giá! 
Như Khuê vỗ vai Quốc Viễn giục: 
- Chính là vị này đây! Hãy làm cho đúng câu "Phùng trường tác hí", hiền đệ! 
Tay tung cầu lôi kéo: 
- Xin mời quý khách thử một keo. Tiểu nhân bắt đầu tung cầu đây xin tận tình hết sức phục vụ quý khách! 

Quốc Viễn lúng túng, chưa biết nên thế nào, thoáng nghĩ: "Ta thử cố đá một lần xem sao". Nhưng với bọn trong đội phục dịch của Huệ Cập này, thì chúng còn thiếu gì những mánh lới xảo quyệt, lập tức chúng tìm ra được quả cầu và cách tung thế nào làm khách chơi không tài nào đá được. Quả cầu mang tên: "Yến ngậm châu bay ra biển" (1) phóng tới, Quốc Viễn đã hoa mất, lại sợ cầu nặng đá không lên, nên lấy hết sức bình sinh, đá một cái, chỉ nghe "bốp!", quả cầu bay tít lên tận trời xanh, rồi bị gió cuốn đi đâu mất hút. Hai tay phục dịch thấy mất quả cầu thì làm ra vẻ quan trọng, kể lể nông nỗi: 
- Không biết chúng tôi mắc tội gì đây mà gặp phải ông khách quý hóa này, thế là bao nhiêu vốn liếng bay theo mây gió cả rồi! 
Quốc Viễn đã đang bực tức vì mình, nay nghe thêm mấy câu trách móc này, tay chân chừng như thấy ngứa ngáy, Như Khuê sợ xảy ra chuyện không hay, vội lại khuyên giải: 
- Anh bạn đây của ta có cả sáu nghề tinh thông trong tay đấy (2). Nhưng mà làm sao mà biết hết mọi thứ được. Huống chi mới học đá cầu lần đầu. Đáng ra, hai cậu nên hỏi khách một câu, đại loại: “Quý khách cao danh quý xứ là gì, ở đâu? Hiện giữ chức tước gì?". 
1 yến hàm châu xuất hải. 
2 Lục nghệ: Sáu nghề mà người đàn ông có văn hóa xưa phải biết: Lễ, nhạc, xạ ngự, thơ, số. 

Nay ta gặp nhau ở kinh đô , mai lại đụng nhau chỗ khác, thì lại đã ra bậc bạn cũ rồi còn gì. Cũng vì giận các cậu không có lý, chẳng có tình, nên anh bạn mới đá bay mất quả cầu đi vậy. Ta đứng ra đền cho các cậu đây! 
Nói rồi rồi rút trong tay áo ra năm lạng bạc, trao cho hai tay phục dịch, vừa kéo vừa nói với Quốc Viễn: 
- Chúng ta đi làm vài chén rượu là hơn cả! 
Cả hai rẽ đám người đi ra ngoài, thì lại thấy ba anh em Thúc Bảo từ ngoài đi vào, hai tên gia tướng đi trước rẽ đường, nhưng cũng nhiều người không chịu, không tránh vì chật không lên nổi, thế là xô xát kẻ xô người ngã tha hồ huyên náo. Thấy Quốc Viễn, Như Khuê đi ra, Thúc Bảo gọi: 
- Hai vị đi đâu bây giờ, hãy cùng vào trong này với chung tôi đã. 
Thế là cả bọn kéo nhau vào. Chỉ trừ Quốc Viễn, cả bọn đều biết chơi cầu. Thúc Bảo là một tay võ nghệ tuyệt vời, nên đá cầu cũng là một môn quen thuộc đã từng học qua, Bá Đương cả đến công danh cũng vứt bỏ, nên thứ trò chơi này cũng từng trải qua, nhưng cả hai đều giữ gìn không muốn xuất đầu lộ diện, xúm vào khuyên Sài Quận mã nên trổ tài cho thiên hạ thấy hết vẻ anh tuấn, hào hoa. Sài Quận mã đáp: 
- Tiểu đệ không dám, còn các đại huynh trước mặt, tiểu đệ đâu dám múa rìu qua mắt thợ. 
Thúc Bảo khuyên: 
- Chúng tôi tuy có biết qua cái trò này, nhưng cách đá không đẹp mắt ở đây trăm mắt trông vào Quận mã có tư thái của bậc văn nhân, chẳng còn ai chê trách gì được. 


Sài Quận mã dẫu sao cũng còn mang vẻ hiếu thắng của bậc thiếu niên, nghe Thúc Bảo khuyên vậy, liền thưa: 
- Tiểu đệ càn rỡ thế này, không khéo lại dẫn đến chuyện phiền toái sau này. 
Hai tay phục dịch nãy giờ đứng chực sẵn, mang cầu lại ngay cạnh, rối rít: 
- Kính mời quý khách, thử chơi một quả! 
Sài Quận mã can: 
- Hai cậu cứ từ từ, hãy giữ lấy cầu đã. Hai mỹ nhân ngồi cạnh công tử kia, liệu có biết tưng cầu cho khách không? 
Một tay phục dịch thưa: 
- Quý quan muốn chơi sang như vậy sao? 
Sài Quận mã đáp: 
- Ta cũng chẳng tiếc gì tiền thưởng đâu. Phiền hai cậu thưa hộ với công tử một câu: Ta muốn mời được hai mỹ nhân xuống cùng tung cầu. 

Huệ Cập cũng vốn là tay ăn chơi có nòi, nghe tay chân thưa lại, lập tức sai hai mỹ nhân xuống đài tung cầu cho Sài Quận mã. Theo sau lại có thêm bốn hầu gái, cầm hai quả cầu có tua ngũ sắc. Hai bên làm lễ trịnh trọng chào nhau, cầu ngũ sắc được tung lên. Huệ Cập cũng vội bỏ ghế ngồi, ra đứng cạnh lan can nhìn xuống chăm chú, cả Tiểu giáo trường các sân cầu đấu ngừng chơi, để đổ xô lại xem hai mỹ nhân tung cầu cho Sài Quận mã. Sài Quận mã trổ hết tài bình sinh, so vai, múa tay, khi cúi, khi ưỡn, quả cầu lúc này chẳng khác gì một thoi ngũ sắc bay lượn, khi cao khi thấp, khi gần khi xa. Các gia tướng, vương tôn công tử đứng trên đài bán nguyệt thi nhau ném lụa nén tiền thưởng xuống, mấy hầu gái theo hầu lúc nãy, giờ tha hồ mà cúi nhặt lụa nhặt tiền. Quốc Viễn vỗ tay, dậm chân vui sướng hét lớn: 
- Quận mã cứ đá nữa đi, đá được đến tận chiều tối mới giỏi! 
Nhìn sang hai mỹ nhân, chỉ thấy: 

Chị này vung tà áo biếc 
Cô kia phất mảnh quần hồng 
Vung tà áo biếc, thon thon măng búp dẻo tay 
Phất mảnh quần hồng, he hé sen vàng nhẹ gót 
Ngửa nghiêng đá thấp đá cao 
Tung lên đập xuống vào vào ra ra 
Ngọc bay tận tượng Phật bà 
Quay đầu uốn gối thướt tha nhịp nhàng 
Trổ tài vớt móc dọc ngang 
Tiếng khen cổ vũ hô vang trong ngoài 
Vóc lụa thấm, phấn son phai 
Mồ hôi đẫm đến mệt nhoài mới thôi. 

Đời sau có người làm thơ tán rằng: 
Trên sân mỹ nữ dáng thần tiên 
Nhờ gió Bồng đưa tới đất liền 
 phấn mồ hôi hoa lỗ đỗ 
Mày ngài bụi bám liễu hoen hoen 
Xanh xanh vạt áo bay tơi tả 
Phấp phới dây quần bước ngửa nghiêng 
Uốn éo cuộc vui tung lại hứng 
Tóc mây búi xổ, lệch về bên. 

Lúc này cuộc cầu ở Tiểu giáo trường đã hết, Thúc Bảo lấy hai mươi tư lạng bạc trắng, bốn tấm lụa, đưa tặng hai mỹ nhân tung cầu, hai cái quạt vàng, năm lạng bạc trắng, đưa tặng hai tay phục dịch ban đầu, đã có công lên tâu Huệ Cập, lại phụ giúp hai mỹ nhân tung cầu. Lúc này Sài Quận mã cũng đã chào đưa hai mỹ nhân về chỗ ngồi. Cả bọn Thúc Bảo, chào Huệ Cập rồi kéo nhau ra khỏi Tiểu giáo trường, qua Lam Kiều, thì đã thấy các phố, dãy dãy đèn hoa huy hoàng. Chính là: 

Tường bốn bề mã não 
Cửa năm sắc doanh bồng 
Ngàn tầm vân mẫu tháp luôn trượng thủy tinh cung 
Mũ giát ngọc san sát 
Áo gấm hoa ung dung 
Rung rinh sông núi biếc 
Lấp lánh thế gian hồng 
Kìa giữa trời cây lửa đơm hoa 
Nọ kín đất sen nở vàng bông 
Vùng vẫy như rồng thiêng rời biển cả 
chập chờn như cánh phượng vút không trung 
Thiên thời vừa ý 
Địa lợi góp công 
Lời hát trong lầu hoa, tóm hết phong lan vạn cổ 
Câu đố giữa cầu vẽ, hãy còn giảng giải bất thông 
Ngàn dâu xanh biếc một vùng 
Đèn soi bốn bể, chín châu sáng lòa 
Mặt người tươi tựa mặt hoa 
Sáng trăng sáng đuốc, đâu là sáng trưa 
Ngựa xe đón, đàn sáo đưa 
Cuộc vui vui suốt canh thừa thừa đôi 
Giọt đồng rơi, giọt đồng rơi 
Thái bình muôn thuở, muôn đời với dân. 

Thúc Bảo khuyên mọi người hãy tìm những phố náo nhiệt nhất mà xem đèn, vì thế tốt hơn cả là phố có dinh Tư mã thì đèn vừa nhiều vừa đẹp hơn cả. Những lầu các treo đèn phần nhiều là cảnh ảo của một đêm, thường được kết bằng những cây lau, cây trúc, rồi bên ngoài khoác lụa hoa gấm màu vào, giả màu phú quý, ở bên trong thì treo nào đèn kỳ lân, trên đèn kỳ lân thì có biển đề bốn chữ lớn, dát vàng lấp lánh: "Vạn thú tề triều” (1), trên cửa lầu cao giăng một câu đối, vế phải viết: 
1 Vạn loài thú đều đến chầu. Kỳ lân là thần thú, tiêu biểu cho đời thái bình. 

Triều Chu gặp điềm lành 
Chúa thánh ra đời, quốc hữu đạo. 

Vế trái viết: 
Nhà Tùy hưởng phúc tốt 
Vua nhân trị nước, thọ vô cương. 

Phía dưới đèn kỳ lân, là nhiều các loại đèn hình thú khác vây quanh. 
Đèn rái cá, miệng há móng giơ 
Đèn sư tử, lờ mờ đôi mắt 
Đèn con cọp, như nhảy lên cao 
Đèn con beo, muốn kêu như sấm 
Đèn hươu gấm, miệng ngậm đóa hoa 
Đèn khỉ già, trèo cây bứt quả 
Đèn ngựa vằn, vó đá như chơi 
Đèn con voi, to như ngôi báu. 


Các đèn hình thú, cái nào cũng đẹp, không thể nào kể hết. Lại còn hình hai vị người xưa, cưỡi hai ngọn đèn hình thú, bên phải là Hạnh Đồng Đế Quân, cưỡi một đèn hình lừa trắng, đang từ từ sa xuống cõi trần, bên trái là Ngọc Thanh Lão Tử, cưỡi một đèn hình trâu xanh, đang đi ra khỏi cửa Dương Quan ở phía tây. Hãy còn bốn câu thơ làm bằng chứng sau đây: 

Đèn thú rung rinh kể đã nhiều 
Lên lên xuống xuống khẽ quay đều 
Kỳ lân là chúa muôn loài đó 
Dẫn hướng sinh linh, mở đại triều. 


Mọi người xem xong khóm đèn kỳ lân ở dinh Tư mã, lại kéo nhau qua dinh Binh bộ thượng thư, rồi sang dinh Dương Tố. Dọc các phố, dân chúng cũng treo những đèn lồng nhỏ, bày bài vị thiên tử, thắp nến đốt hương, sáng chẳng kém gì ban ngày. Chẳng mấy lúc, đã đến cửa lớn của dinh Dương Tố, lầu cao dựng ngay trước cổng, tất cả đều treo các loại đèn hình chim, trên cửa lầu cũng có biển, khắc bốn chữ lớn: "Thiên triều nghi phượng" (1), hai bên là hai câu đối: 
1 chim phượng về chầu thiên tử. Phượng hoàng được coi là vua các loài chim, ý nói Dương Tố quyền ngang vua Tùy. 

Cánh phượng liệng trời Nam, người đều chịu phúc 
Râu rồng nghiêng bể bắc, dân được nhờ ơn.
 
Dưới đèn hình chim phượng hoàng, là hàng loạt đèn hình chim khác: 
Đèn con hạc đậu cành tùng 
Đèn gà gấm, lượn trên từng mây xanh 
Trong rừng liễu, đèn con oanh 
Đèn con công đứng bên cành tường vi 
Vẹt, cuốc, mỏ nhát, le le 
Mỗi loài mỗi vẻ le te theo đòi 
Người ôi! Mở mắt mà coi. . . 

Các hình đèn chim này cũng thế, cái nào cũng lung linh sáng ngời, trăm phần hoa mỹ, kể thật không hết. Hai phía phải trái, cũng có hai hình người xưa cưỡi hai đèn hình chim, vì nhân lễ mừng sinh nhật Dương Tố, phía bên phải là hình Tây Trì Vương Mẫu, cưỡi chim thanh loan, từ Dao Trì bay xuống dự yến, phía trái là hình Nam Cực Thọ Tinh, đang cưỡi chim bạch hạc Hải ốc hạ xuống mừng thọ. Hãy còn bốn câu thơ làm chứng sau đây: 

Đèn chim chen chúc đậu non cao 
Hãnh diện hơn thua được dự vào 
Xanh thẫm từng mây, vua phượng ngự 
Muôn loài vỗ cánh động trăng sao. 


Mọi người xem xong đèn ở cổng Dương phủ thì cũng vừa canh một, ai nấy vội vàng đi về phía cửa đông. Quốc Viễn từ nhỏ sống cảnh lạc thảo, chưa bao giờ đặt chân vào nơi phố phường, chứ đừng nói gì đến kinh đô. Nay lại được vào Trường An giữa tết nguyên tiêu, nhìn cảnh đèn nến huy hoàng, trống chiêng vang trời, Quốc Viễn cũng không biết nói gì với bạn bè, chỉ biết ngẩn mặt ngờ nghệch xoa hai tay, để các bạn túm áo lôi theo mà thôi. Lại thêm dễ mừng, dễ sợ, quay nghiêng, quay ngửa, nhìn ngó khắp nơi, vỗ tay dậm chân, dẫu có nhắc cũng lại quên ngay. 
Thúc Bảo bàn: 
- Giờ ta vào cửa Trường An, đến hoàng thành xem đèn hoa ở cửa cung nữa là xong. 

Đến trước cửa Ngũ Phượng lâu, người đông nghẽn cả lối đi. Trước mặt Ngũ Phượng lâu, dựng thêm Ngự đăng lâu, có hai viên đại thái giám, ngồi trên hai ghế dựa khảm hoa bạc, bên trái là Ty lễ giám Bùi Tịch, bên phải là Nội kiểm điểm Tôn Khánh. Lại có năm trăm quân cấm vệ, mặc áo gấm có thêu hoa tròn, mỗi người đều cầm côn sơn màu đỏ, đứng nghiêm chỉnh trước Ngự đẳng lâu. Tòa lầu này không chỉ làm bằng lụa là, gấm vóc bình thường, mà còn dùng những thứ nguyên liệu, hương liệu của hải ngoại, rồi những thứ châu ngọc, vàng bạc trong cung, cũng được mang ra trang hoàng, thật xứng đáng với tên Ngự đăng lâu vậy. Trên cửa lầu cao, cũng có treo tấm biển, khảm bốn chữ lớn: "Quang chiếu thiên hạ:" Hai bên là hai câu đối khảm vàng: 

Ba nghìn thế giới vang đàn hát 
Mười mấy đô thành mượt gấm nhung. 


Đến cảnh ở Ngự đăng lâu này thì đúng chẳng nơi nào dám sánh, Vương Bá Đương, Sài Tự Xương, Tề Quốc Viễn, Lý Như Khuê đến xem Ngự đăng lâu, hết chỗ này đến chỗ khác, lúc chen vào, lúc lách ra, rồi cũng vào phòng trà, kéo vào quán rượu, hoặc vào nhà ca hát, chẳng nghĩ đến chuyện về. Thúc Bảo đã bao lần khuyên họ ra cổng thành, nhưng chẳng ai chịu nghe. Không biết rồi chuyện sẽ thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ.


HỒI 18

Gái Vương Uyển xem đèn mắc vạ,

Trai Vũ Văn ham sắc bỏ đời.

Thơ rằng: 
Anh hùng đãm lược vốn kỳ tình 
Đâu phải tương tri mới bỏ mình 
Bên chợ ẩn danh thây Nhiếp Chính (1) 
Đập đầu hiển tích mạng Kinh Kha (2) 
Tâm hồn trọng nghĩa phơi xương trắng 
Phong tuyết trừ gian tuốt kiếm xanh 
Đời hỡi, bất bình ta quét sạch 
Không phường khinh bạc lũ hôi tanh. 


1 Nhiếp Chính: Hiệp sĩ, giúp Nghiêm Toại giết Hàn Lỗi là tể tướng nước Hàn, xong sợ liên lụy đến người thân, rạch mặt tự tử, thây bị phơi giữa chợ. Chị vẫn đến khóc nhận em, để em nổi danh. 
 2 Kinh Kha: Hiệp sĩ, giúp thái tử Đan giết vua Tần nhưng không xong, bị quan quân hộ vệ đuổi, phải đâm đầu vào cột mà chết (Sử Ký). 

Trong thiên hạ, việc vô ích kể không hết, chuyện bất bình cũng không phải ít. Việc vô ích chẳng qua như chuyện vui chơi, còn chuyện bất bình kể như việc nổi giận, rút kiếm đâm chém một hồi. 

Cũng phải hiểu rằng chuyện bất bình với chuyện vô ích, có nhiều khi quan hệ chặt chẽ, bất bình thường từ vô ích mà ra, có vô ích mới gọi bất bình. Nhìn việc đời, mắt muốn nổ đom đóm, nghe tâm sự, lòng như muốn đứt từng đoạn. Máu bất bình này, ai ai cũng có, nếu không có được hành động mạnh mẽ, đỡ kẻ yếu, dìm kẻ ác, thì cũng là tấm lòng lo lắng thở than. Ở các bậc nghĩa hiệp, mỗi lần nổi cơn bất bình, nếu không biết tự kiềm chế, thì tai họa sẽ kéo đến. Đây cũng chẳng  phải là anh hùng biết mình biết ta, nếu quả là bậc anh hùng, thì cứ bằng bản lĩnh vốn có của mình, sợ gì bọn vương tôn tử, sợ gì kẻ tiền hô hậu ủng. Hãy cứ xem như trong đám quân trăm vạn, lên ngựa lấy đầu tướng, sao lại có thể giống việc chém cáo trói thỏ cho được. Trừ được những điều oan ức của một thời, khiến cho ai ai cũng thấy rằng kẻ gieo việc dâm ác thì nhất định phải chịu báo ứng. Chính là: 

Lòng trời muốn những trừ dâm ác 
Nên cậy anh hùng giúp một tay. 


Hãy nói với cuộc đời một số phụ nữ ở Trường An này, may ra sinh vào nhà phú quý, quần áo không thiếu, ăn uống đầy đủ, phong cảnh bên ngoài dù đẹp đến đâu, cũng khó làm họ rung động. Chính những phụ nữ nhà nghèo khó, sống lây lất mới qua được năm này sang năm khác, trước ánh trăng sáng, nhìn cảnh đèn hoa huy hoàng, đàn nhạc rộn rã, có người trong số họ, đã là
m những câu thơ sau đây, để ghi lại những cảnh thần tiên ấy: 

Trăng thật tròn, đèn thật xinh 
Đèn trăng trong sáng kinh thành cõi tiên 
Trăng đĩa ngọc đèn hoa sen 
Trăng soi đèn chiếc, muôn nghìn thanh tân 
Đèn phú quý, trăng tinh thần 
Trăng nô đèn rỡn, xa gần thấp cao 
Ai ơi, đêm ấy đêm nào 
Người trăng đèn lẫn người vào đèn trăng. 


Vào những lúc ấy, thì dù đã già, dù còn trẻ, đều muốn ra du ngoạn. Dù là người con gái thật trinh trắng, hoặc là bà già yếu đuối, chẳng cần phải đến lòng rung động, chân đã muốn bước ra cửa, đã muốn trang điểm ít nhiều, để lên cầu, nhìn trăng ngắm nước. Chị bạn họ Trương, kéo tay các bác bán hàng họ Lý. Bà dâu gia họ Triệu, hẹn trước bà hàng họ Tiền, cười cười nói nói, dẫu có giữ cũng chẳng xong. Thôi thì đủ vẻ phong lưu, nếu lại được một hai vương tôn công tử Trường An nào đó, đi theo giữ gìn, rồi mày đưa mắt liếc, thỏ thẻ đôi lời dung dăng trước ánh đèn, ánh trăng, tìm hương kiếm phấn, theo bóng đuổi hình, nào mấy ai chuyên tâm xem đèn, nếu chỉ là chuyện dạo cầu xem trăng như vậy, thì làm sao có chuyện dưới này được. 

Có một người đàn bà góa, tên gọi là Vương Lão Nương, con gái mười tám tuổi tên gọi Uyển Nhi, nhất thời hữu hứng, mẹ con dẫn nhau đi xem hội đèn. Hình dáng Uyển Nhi của Vương Lão Nương rõ là: 

Lưng eo như liễu bên cầu
Mặt tươi như cánh hoa đào đang xuân
Làn da thơm mát trắng ngần 

Bên đèn ai đó bần thần dưới trăng. 

Hai mẹ con để một đứa trẻ nhỏ ở nhà trông nhà, dắt nhau ra phố xem đèn, đi qua cửa lớn. Có một bọn du đãng bám theo sau, nhìn ngó Uyển Nhi, vào tới phố lớn, bọn chúng tốp vây trước, toán theo sau, mẹ con không tài nào thoát đi đâu cho được, Uyển Nhi kinh hoàng, Vương Lão Nương cũng không còn biết làm thế nào. Bọn du đãng này sai phái vài đứa về thưa với công tử Huệ Cập họ Vũ Văn, Huệ Cập nghe báo, vội cùng tay chân đuổi theo, thấy hình dáng Uyển Nhi, Huệ Cập hồn bay phách lạc, lại thấy chỉ mỗi một bà già đi theo, muốn làm gì chẳng dược, Huệ Cập chặn đường lôi kéo Uyển Nhi, Uyển Nhi sợ hãi nhưng không dám kêu, trốn chạy không đường. Vương Lão Nương nào biết mặt mũi công tử con quan thượng thư Vũ Văn là ai, thấy sức mẹ con không thể nào chống trả, chỉ còn cách gào thét kêu cứu. Nhưng Huệ Cập còn mưu mẹo nhanh hơn, y lu loa: 
- Mụ già này thật vô lễ, dám cản đường đánh người sao, chúng bay bắt giải về phủ cho ta! 

Một lời vừa nói, bọn tay chân lập tức tuân theo, chúng lôi dễ dàng cả hai mẹ con Vương Lão Nương về phủ. Lúc này thì cả hai đều kiệt sức, quần áo tả tơi, khắp người bụi đất, mồ hôi, nước mắt, gào không thành tiếng. Hàng phố bốn bên, cũng không ít người rõ chuyện này, mắt thấy tai nghe, nhưng họ đều biết rõ thế lực cùng thủ đoạn của bọn Huệ Cập, nên không ai dám ra mắt ngăn cản. 

Về đến phủ, Vương Lão Nương chẳng còn sức lực đâu mà giãy dụa, chúng bèn giam vào một phòng kín. Còn Uyển Nhi, chúng cũng đem nhốt vào một phòng trống trên sảnh đường. Huệ Cập trở về thư phòng nghỉ ngơi một lát, liền tìm đến phòng Uyển Nhi, bọn gia đinh lập tức bỏ ra ngoài, chỉ còn lại mấy hầu gái. Huệ Cập mới lại gần, Uyển Nhi lập tức chống cự, hai tay cứ mặt Huệ Cập mà đánh. Vật lộn được một hồi, Huệ Cập không tài nào thắng, liền nổi giận lôi đình, quát lũ hầu gái đánh cho Uyển Nhi một trận, rồi khóa kỹ phòng lại, đi ra. Bọn tay chân ở ngoài cửa phủ vào báo: 
- Mụ già chúng con nhốt ngoài kia, lại la hét ầm ĩ, sống chết đòi con, tiểu chủ dạy nên đối phó ra sao đây? 
Huệ Cập cũng có phần bối rối: 
- Ta cũng không ngờ dây vào chuyện lôi thôi thế này. Hãy đợi ta ra xem sao. 

Huệ Cập ra cổng phủ, đến phòng giam Vương Lão Nương quát hỏi tại sao lại la hét ầm ĩ trong phủ đường. Thấy mặt Huệ Cập, Vương Lão Nương lại càng gào thét to hơn, dậm chân đấm ngực. Kêu trời chửi đất, đòi kỳ được con gái. Huệ Cập đáp: 
- Con gái của mụ, đã mất hết với ta rồi. Mụ mau mà xéo cho rảnh, không được phá phách ở nơi này đâu! 
Vương Lão Nương gào lớn: 
- Đừng có mà dọa ta. Dù có chết ta đi nữa thì ta cũng nhất quyết không chịu. Phải trả con gái cho ta. Ta côi cút một thân, được mỗi một mình nó, đã hứa gả cho người ta, chỉ còn ít ngày nữa là cưới, nếu không trả, đêm nay ta nhất định chết ở đây. 
Huệ Cập tức tối: 
- Mặc cho mụ nói, mụ có chết cũng chẳng dọa được ta. 

Rồi quát bọn tay chân đẩy Vương Lão Nương ra cửa. Bọn này đứa lôi đứa đẩy, đứa đánh, đứa tát, lôi Vương Lão Nương ra khỏi cửa và lập tức đóng chặt cửa lại. Huệ Cập vẫn còn say máu, lại kéo một đoàn côn quang ra phố càn quét. Lúc này đã canh hai rồi. Cũng bởi Huệ Cập đã đến lúc tội ác chất đầy, dâm ô dã man, đã đáng tội chết, nên lại mới tìm đến việc này, lúc này. Đại phàm một miếng ăn, một ngụm uống, cũng còn là chuyện tiền định, huống chi chuyện sinh tử lớn lao của người đời, trốn tránh sao được ý trời. 
Chính là: 

Tái ông xưa có lời. 
Ai liệu được lòng trời 
Họa phúc chẳng tìm cửa 
Người tự rước lấy thôi! (1) 


1 Sách: "Hoàn Nam tử": ông già ở gần cửa ải, mất ngựa, mọi người tiếc thay. Ông lão nói: “Biết đâu đó chẳng là điều may mắn! . Vài ngày sau, con ngựa cái ấy rủ được một con ngựa Hồ tốt về. Ai nấy ngỏ lời mừng. Ông già chối: "Biết đâu đấy lại là điều họa!". Con trai duy nhất của ông lão cưỡi ngựa Hồ ngã, què chân. Mọi người an ủi, ông già thản nhiên. "Biết đâu đấy là phúc lớn". Giặc Hồ tràn vào, tất cả trai tráng phải ra chết trận. Riêng con trai ông lão vẫn được sum họp với gia đình. 

Lại nói anh em Thúc Bảo, dạo chơi khắp kinh thành cũng vừa vế đến đây, thấy hàng trăm người đang xúm đen xúm đỏ, ai nấy mới cố lách vào xem, thì thấy một bà già, đầu tóc đã bạc, đang nằm lăn lóc trên mặt đường, Bá Đương hỏi người bên cạnh: 
- Bà già này, có chuyện gì mà khóc giữa phố thế này? 
Người này đáp: 
- Xin các vị đừng quan tâm tới chuyện này mà lôi thôi lớn. Bà già này cũng vì không biết mình biết người, chẳng hiểu thời thế. Có một cô gái đã có người dạm hỏi, đợi ngày về nhà chồng. Mẹ con ra phố xem đèn, lập tức bị công tử Vũ Văn cướp mất con. 
Thúc Bảo hỏi: 
- Công tử họ Vũ Văn nào kia? 
Người này đáp: 
- Công tử con quan Thượng thư bộ binh Vũ Văn Thuật chứ còn Vũ Văn nào nữa. 
Thúc Bảo hỏi thêm: 
- Có phải là công tử vừa đứng ra mở cuộc thi đá cầu ở Tiểu giáo trường chăng? 
Người này đáp: 
- Đúng rồi? 
Lúc này Thúc Bảo đã đem lời dặn dò của Lý Tĩnh vứt sang đất nước Trảo Oa ngoài hải ngoại ngàn dặm (1), lại hiện nguyên hình một kẻ "giữa dường thấy sự bất bình mà tha", chỉ còn nghe thấy thế, lòng đã sôi sục tức giận, hai mắt đỏ ngầu như lửa, lại gần bà già, hỏi: 
1 Trảo Oa: tên gọi của đảo Giava Indonesia hiện nay. 

- Bà tên họ là gì? 
Bà già đáp: 
- Già này họ Vương, ở ngay phía đằng sau phủ đệ của Vũ Văn tướng công. 
Quốc Viễn nói: 
- Bà hãy về nhà đi thôi. Lúc chiều ở Tiểu giáo trường của công tử Vũ Văn, chúng tôi có kiếm được mấy tấm lụa, mấy đỉnh bạc đây, chúng tôi sẽ đi tìm công tử, chuộc con gái về cho bà. 
Bà già tin thực, vái bốn vái, vừa đi vừa khóc về nhà. 
Thúc Bảo còn hỏi kỹ người đứng bên: 
- Chuyện công tử Huệ Cập cướp đàn bà con gái này có thật không quý hữu? 
Người này đáp: 
- Chuyện này đâu phải hôm nay mới có, ngày mười hai vừa rồi làm một lần rồi. Phong tục ở Trường An này, đêm trăng rằm nguyên tiêu này, đàn bà con gái đều lên cầu ngắm trăng, chọn đúng dịp tốt này để hành sự, thì thật là xảo quyệt không lường. Ngày mai, chỉ cần gọi cha mẹ, chồng con gì đó đến phủ, thí cho mấy lạng bạc là xong. Nếu vẫn còn chống cự, công tử đánh chết, vứt xuống hố chân tường lấp lại chẳng ai dám đến đòi tiền, đòi mạng. Ngày mười ba, mười bốn vừa rồi lại tiếp mấy vụ thế này rồi. Tối nay đến lượt mẹ con bà già này thôi. 
Lúc đầu, Thúc Bảo cũng có ý định dùng tiền lụa để tìm cách chuộc lại cô gái cho bà già, nhưng giờ nghe những lời này Thúc Bảo thay đổi ý định. Thúc Bảo lại hỏi thêm về những chuyện của Vũ Văn công tử, có người khuyên can: 
- Các vị là bậc quan nha ở xa kinh thành mới về, có những chuyện chưa tường, nếu gặp gỡ công tử nói chuyện chuộc lại, sợ rằng không thông, công tử đã không vừa ý, các vị sẽ không khỏi bị tổn thương. 
Thúc Bảo lựa lời đáp: 
- Đúng là chúng tôi không biết công tử Vũ Văn ngang ngược đến vậy. Được các vị chỉ giáo cho biết, thế thì chúng tôi tránh mặt là tốt hơn cả, nhưng không hiểu công tử hay có mặt ở những nơi nào, vào những ngày này. 
Có người thông thạo đáp: 
- Công tử có hẳn một dãy lầu riêng trong phủ đệ họ Vũ Văn, chứa chấp toàn bộ côn quang, coi tính mạng chẳng vào đâu, sẵn sàng nhảy vào lửa nóng, băng lạnh. Vào giờ này, cả bọn mặc toàn áo mũ màu đỏ. Mỗi đứa cầm một cây tề mi đoản côn, hàng trăm đứa đi trước mở đường, bọn gia tướng theo sau để sẵn sàng giở đúng mười sáu ban võ nghệ, toàn những tay đao tay thương thuần thục, thế là thành một đoàn vừa hát ca vừa múa võ. Công tử cưỡi ngựa, phía trước, phía sau là một bọn áo thụng xanh, mỗi toán năm sáu tay, đều xách đèn lồng toàn làm bằng lụa hoa, bưng lò hương, giăng thành hàng. Ở Trường An, trong những ngày này, các phủ đệ lớn, đều có lập những ban múa hát, biểu diễn võ nghệ như thế, chúng tôi thường gọi là "xã hý", hay “xã hỏa" cũng thế. Các ban "xã hý" khác, nếu gặp công tử Vũ Văn là lập tức phải dừng lại để múa hát trổ tài nghệ. Nếu hay, công tử bằng lòng, thích chí thì cũng sẽ được thưởng lụa, bạc như đá cầu ở Tiểu giáo trường vậy. Còn không hay thì cứ thế đè ra, dùng côn mà nện. 
Thúc Bảo lên tiếng: 
- Đa tạ quý vị chỉ giáo! 
Thế rồi cả bọn kéo đi ra phía đường ngự đạo của Trường An, nơi bọn Vũ Văn thường xuất hiện để tìm Huệ Cập. 
Lúc này đã canh ba, trăng sáng như ban ngày, giữa lúc đang lang thang tìm, thì gặp bọn Vũ Văn. Quả đúng có tới mấy trăm tay đoản côn, đứa nào cũng đầy vẻ lang sói. Huệ Cập mặc áo thêu sặc sỡ, ngồi trên yên ngựa, bọn tay chân dẫn trước kéo sau. 
Người xưa dã nói: "Bất thị oan gia bất đối đầu”, không có thù oán với nhau thì không gặp nhau. Bọn Thúc Bảo nép mình trong góc phố, thấy Huệ Cập tới liền bước ra, một người lên tiếng: 
- Chúng tôi là gia tướng ở phủ Hạ Quốc Công Đậu đại nhân xin hầu công tử. 
Huệ Cập hỏi: 
- Các anh diễn võ gì? 
Người này đáp: 
- Dạ "Hổ Lao quan, Tam anh chiến Lã Bố" ạ. (1) 
1 "Hổ Lao quan, tam anh chiến Lã Bố”. Ba anh hùng Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi đánh nhau với Lã Bố ở Hổ Lao quan ( Tam Quốc diễn nghĩa). 

Múa xong, công tử khen hay, mọi người xin tiền thưởng. Lúc bấy giờ công tử cho mọi người đi, Thúc Bảo lại bước ra trước mặt công tử, mặt mày đã bôi vẽ khác hẳn, cao giọng thưa: 
- Dạ, trình công tử, còn đám "xã hý” này nữa kia ạ! 
Cả nhóm năm anh em Thúc Bảo, một người mang mặt nạ vẽ mặt chuột, tiến lên thưa tiếp: 
- Chúng tôi xin diễn tích: "Ngũ mã phá Tào", cũng kể chuyện thời Tam Quốc ạ! 

Huệ Cập lúc này mới chợt tỉnh, nhận ra là bọn này chỉ giả trang "xã hý" để giở trò, Thúc Bảo vung đôi giản đồng mạ vàng lấp lánh, Bá Đương múa tít hai thanh bảo kiếm. Tự Xương vung thanh kiếm quý gia truyền, Quốc Viễn tả xông hữu đột với đôi trùy cán vàng, Như Khuê múa tít cây roi thủy ma trúc tiết cương tiên. Tiếng giản, kiếm, roi, chùy va vào nhau nghe lạnh gáy, ánh lửa chói mắt, ai nấy thi nhau múa, đường phố tuy rộng, nhưng họ cứ tiến sát lại Huệ Cập mà múa, gió tạt cả vào mặt, làm Huệ Cập bắt đầu sợ hãi. Hai đầu phố, người xem đứng nghẽn cả lối, khiến Quốc Viễn trong lòng nghĩ thầm: "Giờ đánh nó chết thì cũng chẳng gì khó, nhưng người đứng chật cả hai đầu đường thế kia, không tài nào thoát thân nổi được, trừ phi ta đốt cháy mấy cái gác treo đèn này. Lúc ấy trăm họ sẽ đổ ra cứu hỏa, thì mới không cản trở đường rút chạy của anh em chúng ta được". Nghĩ rồi bèn chạy lên gác. Bọn Huệ Cập vẫn chưa nghĩ là Quốc Viễn lên lầu làm gì, hoặc giả Quốc Viễn chạy lên gác để rồi lại từ trên ấy múa võ xuống chăng, chẳng tay nào trong bọn nghĩ được Quốc Viễn lên để đốt gác, Thúc Bảo thấy gác bắt đầu cháy, liệu thế không thể nào dừng nữa, bèn nhảy ra ngoài vòng theo thế hổ vồ mồi, đến ngay trước ngựa của Huệ Cập, giơ cao đôi giản, giáng xuống đầu. Lúc này Huệ Cập đang ngồi trên yên ngựa, không kịp né tránh, hơn nữa, mỗi chiếc giản của Thúc Bảo nặng sáu mươi tư cân, bổ vào đầu cả đến con ngựa cao khỏe là thế cũng phải khụy xuống. Bọn gia tướng cùng lũ tay chân thấy thế, khủng khiếp gào lớn: 
- Nguy to rồi! Đánh chết công tử rồi! 

Đao, thương, côn bỗng xúm lại xung quanh Thúc Bảo. Thúc Bảo múa tít đôi giản đỡ khắp thân mình, Quốc Viễn từ trên gác cao nhảy xuống, vung mạnh đôi kim chùy, cùng các hào kiệt xông lại. Cả bọn người nào cũng: 

Đầu nóng bừng bừng 
Miệng la oai oái 
Dữ như bò rừng 
Hung như trâu dại 
Đấm cho một mũi tím bầm 
Đá cho trước sau bại hoại 
Phong lưu tài tử, rơi mũ xõa tóc chạy tung 
Mỹ mạo giai nhân, tụt giày, cuống chân ngã đại 
Thây chồng phố lớn, xác kín ngõ cùng 
Hồn lánh cây cao, máu trôi cỏ dại.
 
Đúng là: 
Khí thế đạp phăng dinh phượng đỏ 
Oai phong thét đổ lũ rồng xanh. 

Bọn hào kiệt đành phải mở một đường máu, từ đường phố lớn chạy ra ngõ Minh Đức. Lúc này đã hết canh ba. Bọn lâu la ở ngoài cổng thành gồm hai mươi hai người, chờ chiều, chờ cơm tối, sắm sửa yên cương, hành lý xong xuôi, cùng kéo nhau ra giữa đường lớn đứng chờ chủ. Họ cùng nhau chia làm hai tốp, một nửa ở lại trông nom hành lý, yên cương, một nửa đi về phía cổng thành đón chủ, vừa là xem đèn hoa các phố gần đó, rồi lại quay lại, đổi cho bọn kia vào cổng thành. Đến canh ba, đã đổi nhau được mấy lần như thế rồi, thì thấy trăm họ trong thành, đầu bù tóc rối, chân lành chân què, áo quần tả tơi, hở cả da thịt, mặt mày mồ hôi mồ kê, bụi đất bám đầy, chân sưng trẹo, mặt sưng tím, kẻ gào người khóc, cứ thế mà chạy bán sống bán chết. Bọn lâu la đi vào cổng thành, thấy những chuyện này, cũng vội vàng chạy ra nói với nhóm giữ hành lý, yên cương: 
- Anh em ơi, đúng là các ông chủ của ta đang chém giết gì đó ở trong thành rồi, đánh chết công tử Vũ Văn nào đó. Chi bằng ta hãy để vài người ở đây trông ngựa, đồ đạc, còn tất cả anh em có sức khỏe, hãy chạy nhanh vào cổng thành giữ cho bọn lính gác không được đóng cổng, nếu không cửa thành mà đóng, thì làm thế nào các ông chủ của chúng ta ra được! 
Cả bọn lâu la tán thưởng: 
- Nói có lý lắm! 

Thế là mười tay lâu la lực lưỡng, kéo nhau vào cổng thành. Đến nơi, một bên thì giả vờ vào thành, một bên làm ra vẻ ra thành, gặp nhau giữa cổng, không bên nào chịu nhường bên nào, thế là xô xát, đội lính gác cổng thành, kéo lại dàn xếp không xong. Lúc này Kim Ngô tướng quân cùng Kim triệu phủ doãn (1), nghe báo có bọn người đánh chết công tử con quan thượng thư bộ binh Vũ Văn Thuật, sợ hung thủ trốn chạy khỏi kinh thành, lập tức cho lính cưỡi ngựa truyền lệnh đóng ngay cửa thành, nhưng rồi vẫn chưa đóng được. Bọn hào kiệt cũng vừa ở trong thành chạy ra, thấy cửa thành vẫn chưa đóng, đường sống vẫn còn, lập tức giơ vũ khí, cướp cửa mà chạy. Lũ lâu la, dưới ánh đèn, nhận rõ chủ mình, cũng giáng một đòn vào bọn lính canh cửa rồi rút theo chủ. Ngay bên đường nhận ra người ngựa của mình, anh em Thúc Bảo lên ngựa, lập tức ra roi, kéo mạnh dây cương phóng như tên bắn. 
1 Kim Ngô tướng quân: viên tướng coi việc an ninh canh gác, tuần tra, giờ giấc trong kinh đô. Kim triệu phủ doãn: quan đại thần cai quản kinh thành, tương đương chủ tịch thành phố bây giờ. 

Xé toạc lưới tơ giăng 
Chạy thoát cả vảy gầm 
Chim hồng lướt ngàn dặm 

Mây gió cỡi chín tầng. 

Bảy người cưỡi ngựa, theo sau là một đoàn đi bộ, chạy ra phía đường Đồng Quan, về phía chùa Vĩnh Phúc. Sài Quận mã muốn lưu Thúc Bảo lại, đợi thư của Lý Uyên, Thúc Bảo từ chối: 
- Xin đa tạ Quận mã, nhưng chi sợ có kẻ nhận ra dấu tích thì quả là không tiện. 
Thúc Bảo còn dặn kỹ phải phá ngay "Báo Đức tự", và cả đôi giản đắp giả đừng để người ngoài trông thấy, nói rồi lập tức bái biệt, lên ngựa ra roi. 
Đến gần Thiếu Hoa sơn, Thúc Báo ngồi trên yên cương ngựa nói với Bá Đương: 
- Sang năm ngày hai mươi ba tháng chín, là ngày lục tuần thượng thọ của thân mẫu Tần Quỳnh này, xin đại huynh đến dự lễ cho thêm phần trọng thể. 
Bá Đương đưa mắt nhìn Quốc Viễn cùng Như Khuê rồi đáp thay cho cả bọn: 
- Chúng tiểu đệ thế nào cũng xin có mặt. 
Thúc Bảo không chịu lên sơn trại, hai bên chia tay, Thúc Bảo trở về Tế Châu. Chuyện không nói nữa. 

*** 

Lại nói, cổng thành sau khi thầy trò, bè bạn Thúc Bảo đã ra khỏi mới đóng được. Ở các phố các ngõ, số người chết, bị thương không thể kể hết, nhà cửa trăm họ bị thiêu ra tro cũng tính không xuể. Tối hôm ấy, trong phủ Vũ Văn Thuật, vì được nhà vua ra ơn, ban cho đèn trong tết nguyên tiêu, vì vậy có mỡ tiệc lớn ở đại đường, nến phượng khêu cao, dưới thềm nhã nhạc rộn ràng. Một nhà quyền quý, ơn vua nhuần thấm. Đương giữa lúc này nâng chén, ở ngoài phủ như một đợt sóng người trào vào, mãi không hết, ai nấy đều thi nhau gào to: 
- Tướng công! Tai họa rồi! 
- Đại nhân ơi! Khốn khổ thay? 
Vũ Văn Thuật vội rời khỏi bàn tiệc, chạy ra thềm cao, giơ tay ra hiệu mọi người yên lặng. Lúc này mấy viên gia tướng trong phủ, mới có kẻ bước lên thưa: 
- Tiểu chủ đang xem đèn ở cửa tây kinh thành, có một bọn cướp giả trang làm phường "xã hý", đã giết chết mất tiểu chủ rồi! 
Vũ Văn Thuật vốn rất yêu cậu con trai út này, nghe xong, lục phủ ngũ tạng như điên đảo, gào lớn: 
- Con ta có thù oán gì với bọn cướp đường nào đâu, mà đến nỗi bị chúng đánh chết.
Bọn gia tướng, tất nhiên không dám kể hết tội ác, sự dâm đãng quá quắt của tiểu chủ, chúng bịa thêm những chuyện hoang tưởng để che giấu Vũ Văn Thuật: 
- Tiểu chủ nhân có uống mấy chén rượu, cũng có đùa cợt với con gái Vương Lão Nương, mụ già này mới gào khóc kể lể với bọn cướp kia, bọn cướp mới tìm tiểu chủ để kết liễu tính mạng. 
Vũ Văn Thuật hỏi: 
- Thế mẹ con mụ già đâu rồi? 
Gia tướng thưa: 
- Mụ già không rõ đi đâu mất. Con gái hiện nhốt trong phủ. 
Vũ Văn Thuật đùng đùng giận dữ: 
- Mau lôi con tiện tỳ ra trước nghi môn, đánh kỳ chết cho ta. 
Lại phái gia tướng tìm đến tận nhà Vương Lão Nương, có bao nhiêu người trong nhà, giết cho kỳ sạch mới thôi, còn nhà cửa, đồ đạc phá cho kỳ hết, đốt cho kỳ hết. Gia tướng nghe truyền, lôi ngay Uyển Nhi đánh chết vứt xác vào hố bên tường lấp lại, tìm đến giết kỳ hết mọi người trong nhà Vương Lão Nương. 
Chính là: 

Sắc kia nghiêng nước nghiêng thành 
Chỉ là mối họa, gia đình tan hoang. 


Vũ Văn Thuật vì mối hận khó nguôi, gọi bọn họa sĩ giỏi nhất trong phủ tới, hỏi kỹ bọn gia tướng có tham dự đánh nhau ngoài phố, kể lại thật kỹ diện mạo, quần áo mọi thứ của kẻ đã đánh chết Huệ Cập vẽ thành hình người, để sai tìm bắt kỳ được. Gia tướng đều thưa: 
- Người này thân cao hơn trượng, tuổi khoảng hơn hai mươi, mặc quần áo màu xanh nhạt, múa đôi giản bằng đồng. 
Nghe đến đôi giản bằng đồng, những gia đinh đang đứng hầu bên Vũ Văn Thuật có đứa vốn là đầu mục trong đội hộ vệ của Đông Cung vội quỳ xuống thưa: 
- Trình đại nhân, nếu quả xử đôi giản như vậy, thì cũng dễ tìm ra. Tiểu nhân hồi năm Nhân Thọ thứ nhất, vâng mệnh đại nhân, tại Tra Thụ Cương đón đánh Đường Công, đã từng chạm trán với người này. Lúc ấy cũng chỉ vì có người này, mà chúng tiểu nhân không kết liễu được tính mạng Đường Công cùng gia quyến. 
Vũ Văn Thuật tức tối: 
- Nếu đúng như vậy, thì Lý Uyên biết rõ hồi đó ta tìm cách đón đường giết y, nên cho bọn người này tới đây báo thù. 
Lúc này cả hai con trai Vũ Văn Thuật đểu có mặt. Hóa Cập vội tiếp lời: 
- Thế thì chẳng cần phải nói lôi thôi gì nữa, ngay ngày mai đến tận chỗ Lý Uyên mà đòi mạng xem y trả lời ra sao. 
Trí Cập cũng chửi Lý Uyên không tiếc lời, cũng đòi báo bằng được mối thù giết em này. Chỉ có Vũ Văn Sĩ Cập, có ít nhiều hiểu biết nghĩa lý, liền lặng lẽ phân giải: 
- Cái này thì có chỗ chưa thật thỏa đáng. Thiên hạ thiếu gì người có hình dáng bên ngoài giống nhau, thiếu gì người xử đôi giản đồng như vậy. Nếu Lý Uyên muốn báo thù, việc gì phải chờ cho đến mãi ngày hôm nay. Chẳng bắt được tận tay kẻ giết người, cũng lại chẳng có một chứng cớ nào rõ ràng. Hơn nữa chuyện thấy giống người ở vụ Tra Thụ Cương, liệu có thể nói thẳng ra được không. Nên theo hình vẽ kia mà bắt người là tốt hơn cả thôi. 

Vũ Văn Thuật thấy Sĩ Cập giảng giải như thế, cũng biết không thể đổ tội cho gia đình của Đường Công, nên ngày hôm sau chỉ nói là một kẻ không rõ tên, quê quán, đánh chết Huệ Cập, đốt cháy, cướp bóc nhà dân phố, giết chết nhiều người phải tức tốc bắt ngay.
 Không biết sự việc sẽ ra sao, xem hồi sau phân giải. 

Nguồn maxreading.com 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved