Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

31 thg 10, 2013

Tùy Đường diễn nghĩa - Chữ Nhân Hoạch Hồi 28,29

HỒI 28

Bọn cung nhân cắt vải làm hoa,
Hầu phi tử đề thơ tuyệt mệnh

Từ rằng: 
Một đêm vườn ngự hoa như dệt 
Muôn đóa ganh thơm nhuộm trăm sắc 
Tạo hoá khéo tay trời 
Phồn hoa mừng không nguôi 
Hồng nhan thân luống tiếc 
Ơn mây mưa chưa biết 
Nào chỗ khóc hồn oan 
Đau lòng khóc trướng loan. 

Theo điệu: "Bồ tát man" 


Người đàn ông tài tình mẫn tiệp trên thế gian này, cũng như chuyện đẹp trai tuấn tú, là chuyện trời cho, so với số phụ nữ khéo léo cẩn thận thì ít hơn nhiều. Đàn ông làm thơ viết văn, hoặc làm nghệ thuật nói chung, còn có chỗ để học tập đua đòi, khác với phụ nữ mà có trí tuệ, thì sự khéo léo của họ, phần lớn đều do tự họ làm lấy. 

*** 
Lại nói chuyện Vương Nghĩa được nhà vua ban cho cung nữ Khương Đình Đình, sau khi đã thành vợ chồng, càng cảm ơn sâu của Dượng Đế, ngày nào cũng vào triều hầu hạ, càng chăm chỉ, siêng năng. Đình Đình cũng không quên ơn vua, nhưng biết lấy gì báo đáp. 
Một hôm, Vương Nghĩa ở triều về, nói với vợ: 
- Sáng nay trong triều, có một người họ Hà, tên là Điều tự chế được một chiếc xe "Giá ngự nữ xa", đem đến dâng vua, một chiếc xe thật là đẹp lạ lùng, tinh xảo lạ lùng.
Khương Thị hỏi: 
- Làm sao lại gọi là xe "Giá ngự nữ xa"? 
Vương Nghĩa đáp: 
- Xe này ở bên trong rộng rãi, có cả giường, chăn, đệm, gối, bốn bên cùng một loại lụa mịn, gọi là lụa giao làm thành màn, ở bên ngoài nhìn vào không thấy gì cả, nhưng ở bên trong nhìn ra thì lại rất rõ ràng, nên tha hồ mà ngắm sông, ngắm núi bên ngoài. Lại thấy rất nhiều chuông bằng phiến ngọc treo thành màn thưa, lúc nào xe đi, tiếng nghe như nhạc leng keng leng keng, ở bên trong dù có cười nói ầm ĩ, thì bên ngoài cũng chẳng nghe được, chẳng phải giữ gìn kẻ ngoài nhòm ngó, vì vậy mới gọi là "Giá ngự nữ xa". 
Khương Thị nói: 
- Như thế thì chẳng qua học theo lối xe tiêu giao ngày xưa, thêm thắt ít nhiều chứ có gì lạ, rồi lấy đó làm công. Thiếp cảm tạ ơn sâu của chúa thượng, không biết lấy gì đền đáp, trong lòng lúc nào cũng thắc thỏm không yên. Thiếp định làm một thứ lạ để dâng lên chúa thượng, các vật liệu dùng đã có rồi nhưng chưa đủ, vì vậy chưa thể bắt tay vào việc được. 
Vương Nghĩa hỏi: 
- Dùng những vật liệu gì mà làm nên? 
Khương Thị đáp: 
- Chỉ cần tóc xanh của người còn sống, nhưng phải vừa dài vừa nhỏ. Thiếp đã chọn được những sợi đó ở mái tóc của thiếp cùng với tóc một vài thiếu nữ nhưng vẫn chưa đủ. 
Vương Nghĩa hỏi: 
- Tóc trên đầu ta dùng có được không? 
Khương Thị đáp: 
- Chàng là bậc trượng phu, đầu mà không còn tóc, trông khó coi lắm! 
Vương Nghĩa cười nói: 
- Ngày trước, đến cái ở dưới còn chẳng tiếc, định cắt quách đi, chẳng là mấy sợi tóc trên đầu. 
Rồi lôi ngay mũ đội xuống mà rằng: 
- Nhờ hiền thê cứ chọn sợi nào dùng được mà cắt cho kỳ kết, nếu còn thiếu, ta sẽ đi mua để về làm ngay dâng lên chúa thượng. 
Khương Thị thấy Vương Nghĩa nói thế, liền lấy lược chải đầu chồng đâu đấy, rồi chọn những sợi vừa đen vừa dài, cắt kỳ hết, từng sợi từng sợi rớt xuống. 
Chính là: 


Phòng khuê thoăn thoát tay tiên 
Để trong cung cấm ngả nghiêng vui cười. 


Lúc này là vào tiết trọng đông, hoa lá rụng tàn, cành gốc trơ trụi. Một hôm Dượng Đế cùng Tiêu Hậu và các phu nhân, trong ngự uyển uống rượu, Dượng Đế nói: 
- Phong cảnh bốn mùa, duy chỉ có cảnh mùa xuân là đẹp hơn cả muôn hoa đua thắm, vạn loài đua xanh. Màu hồng dễ làm người ta yêu dấu, màu xanh dễ làm người ta tiếc thương. Đến mùa hạ thì sen xanh đầy mặt nước, mùi thơm đầy ắp quanh người. Một vầng trăng trong mùa thu, treo trên cành ngô đồng, lại thêm cành quế đỏ dưa hương, vị thơm tràn cốc rượu, thật là ý vị biết bao. Duy chỉ có mùa đông là lặng lẽ tịch mịch, như chẳng có ý vị gì cả, chỉ có mỗi chuyện nằm trong chăn chờ ngày qua, ra khỏi cửa là chẳng còn hứng thú gì nữa. 
- Thiếp từng nghe, các nhà sư có một loại "thiền sàng", có thể nhiều người cùng nằm. Sao bệ hạ không sai người làm một loại giường như thế, rồi dùng một cái gối thật dài, lấy một cái chăn thật rộng, xếp nhiều cung nữ ở trên, cùng nhau ăn uống, đàn hát có phải hay không? 
Tiết phu nhân ở viện Thu Thanh thưa: 
- Có một cái giường to như thế, một cái chăn rộng như thế, lại phải có cả một bức trướng thêu thật rộng. 
Dượng Đế cười: 
- Các ngươi dù có tưởng tượng đến đâu, cũng không thể bằng quang cảnh mùa xuân được? Liễu rủ mành xanh muôn hoa muôn sắc. Đình đài cung viện, chẳng nơi nào là nơi không phô sắc, gợi tình, chẳng có lúc nào là lúc buồn bã, cô liêu.


Tần phu nhân ở viện Thanh Tu lại thưa: 
- Nếu bệ hạ không thích cảnh tịch mịch thì cũng chẳng có gì khó. Xin chờ đêm nay thiếp lên Thọ Thiên cung, lấy hết những hoa đã nở về ngự uyển này để bệ hạ thưởng thức. 
Dượng Đế cũng coi như một lời nói đùa, bèn trả lời: 
- Nói như thế, thì đêm nay ta chẳng dám quấy rầy các khanh nữa đâu! 
Nói cười một hồi, uống vài chén rượu buổi sáng, rồi cùng Tiêu Hậu lên xe loan về cung. 
Sáng hôm sau, Dượng Đế đang ngự ăn sáng, thì thấy phu nhân mười sáu viện sang mời, Dượng Đế trong lòng cũng ngại không muốn đi. Tiêu Hậu phải hai ba lần thúc giục, Dượng Đế mới miễn cưỡng cùng lên xe với Tiêu Hậu. Vừa tới ngự uyển, thì đã thấy nghìn tía vạn hồng, đào hạnh khoe sắc, chẳng khác gì khắp trời giăng gấm ngũ sắc, Dượng Đế cùng Tiêu Hậu đều vô cùng kinh ngạc, Dượng Đế vội hỏi: 
- Tiết trời lạnh giữa đông thế này, làm sao chỉ có một đêm mà hoa có thể nở đến cả vườn rộng, như vậy được? Thật là kỳ quái! 
Nói chưa xong, đã thấy mười sáu phu nhân ra đón xa giá, theo sau rất nhiều cung nữ, mỹ nhân, âm nhạc rộn ràng, đầy vẻ xuân sang. Cả bọn đến trước xe rồng, tranh nhau lên tiếng hỏi Dượng Đế: 
- Bệ hạ thấy có khác gì cảnh Thọ Thiên cung không nào? 
Dượng Đế vừa thích thú vừa ngạc nhiên hỏi: 
- Các khanh có phép thuật gì lạ lùng mà có thể làm cho tất cả vườn hoa đều nở trong vòng một đêm thế này? 
Mọi người lại đua nhau thưa: 
- Bệ hạ chẳng cần hỏi kỹ làm gì. Chúng thần chẳng có phép thuật gì kỳ lạ cả. Chẳng qua tất cả đều chỉ mất một đêm vất vả mà thôi! 
Dượng Đế vẫn chưa hiểu ra. 
- Một đêm vất vả nghĩa là như thế nào? 
Cung nữ lại thưa: 
- Xin bệ hạ cứ bẻ một cành hoa mà xem sẽ .õ ngay, chẳng cần phải nghe chúng thần trả lời. 
Dượng Đế tin lời, lại gần một gốc hải đường, vịn một cành cây xuống nhìn kỹ, thì mới thấy rõ không phải là hoa thật, mà toàn là hoa gấm, hoa lụa màu cắt thành, rồi đem gắn, buộc vào cây, vào cành mà thôi. Dượng Đế không giấu được vẻ vui sướng, thán phục. 
- Ai là người nghĩ ra chuyện này, làm được những bông hoa thế này, búp lá thế này, chẳng khác gì hoa thật. Dù là bàn tay khéo léo nhưng đúng là hơn cả tạo hóa. 
Chúng phu nhân thưa: 
- Đó chính là do ý của Tần phu nhân, rồi chúng thần cùng cung nữ suốt đêm làm nên, để sáng nay bệ hạ kịp ngự lãm. 
Dượng Đế nhìn Tần phu nhân: 
- Hôm qua trẫm cũng nghĩ là khanh chỉ nói đùa cho hay, không ngờ là khanh đã nghĩ ra cách làm này. 
Rồi cùng Tiêu Hậu, đi chầm chậm từng dãy, từng dãy, chỉ thấy chỗ xanh biếc, chỗ hồng tươi, chẳng cần gì đông hay xuân, lạnh hay ấm, muôn hoa nghìn sắc phô bày, nếu nói kỳ công thì chẳng kém gì Đông quân. 
Thấy những gì nữa? Toàn là: 
Vôn thợ trời nghiêm đặt bốn mùa 
Thợ trần nhào trộn đọ hơn thua 
Lụa là úp mở không chồi gốc 
Dao kéo vun trồng mặc gió mưa 
Muôn đóa khoe màu mai chẳng sớm 
Người hoa đua nở cúc không trưa 
Xuân chưa hỏi, hạnh vội thưa 
Gió đông còn vắng, đào tơ đã cười 
Thược dược thắm, tuyết chưa rơi 
Mẫu đơn ngạo nghễ một trời móc sương 
Tháng ba quế vắt qua tường 
Tháng mười sen đỏ rỡ ràng hồ xanh 
Đỗ vũ tháng giêng son điểm nhị 
Đồ mi năm hết gấm phô cành 
Phất phơ dương liễu thân rung nhẹ 
Lách tách phù dung móc xuống nhanh 
Lan huệ ngọc ngà bay lả lướt 
Hải đường son phấn tuyết long lanh 
Nở ư? Chẳng đợi gió lành 
Rụng ư? Chẳng đợi bướm xanh rập rình 
Trăng lạnh thẹn, náu náu hình 
Khoảnh chơi dì gió phụ tình vãng lai 
Bốn mùa không rụng không phai 
Quanh năm tươi thắm xuân dài cõi tiên 
Càn khôn tạo hóa mất quyền 
Đế vương kim cổ chịu nghiêng mình chào. 
Dượng Đế xem một hồi, mặt hồng rạng rỡ: 
- Cảnh ở Bồng Lai, Lãng Uyển, chẳng qua cũng đến thế này, các khanh thật khôn khéo quá chừng, định đoạt cả quyền hóa công. Thật là một chuyện xưa nay chưa có, rất khoái ý trẫm vậy. 
Bèn sai nội giám đem vàng bạc, lụa gấm, châu ngọc, cùng những đồ chơi kỳ lạ, thưởng cho các viện, các phu nhân, mỹ nữ. Dượng Đế trong lòng vui vẻ, cùng Tiêu Hậu lên lầu, ngắm nhìn từ xa, rồi mới ngồi vào tiệc uống rượu. Chén ngọc, đĩa vàng lấp lánh chói mắt, tiếng tì tiếng trúc rộn ràng bên tai, ai nấy lần lượt rót rượu dâng Dượng Đế. Dượng Đế bỗng cười lớn. 
- Việc làm của Tần phu nhân thật mới mẻ, khác lệ thường, cắt lụa gấm làm hoa, tăng thêm vẻ đẹp của ngự uyển của đất trời đông giá này, mà chúng cung nữ vẫn chỉ hát khúc xưa, đàn điệu cũ, thì thật là không xứng. Ai mà hát được khúc mới, trẩm xin uống luôn ba chén rượu lớn để mừng. 


Nói chưa dứt lời, thì thấy một mỹ nhân, mặc áo lụa tím, buộc một giải thắt lưng màu ngọc bích, thiết tha yểu điệu, bước ra thưa: 
- Tiện thiếp bất tài, cũng xin mạnh bạo dâng chúa thượng một nụ cười mua vui. 
Ai nấy nhìn lại, thì là một mỹ nhân ở viện Nhân Trí, có tên là Nhã Nương. Dượng Đế khuyến khích: 
- Hay lắm! Hay lắm! 
Nhã Nương bước lại gần bàn tiệc, nhẹ nhàng gõ phách, làn môi hồng khẽ động, chẳng khác nào oanh non học hót, hát một bài theo điệu "Như mộng lệnh”, sau đây: 
Chớ nói phồn hoa là mộng 
Một đêm kéo làm hạt giống 
Thức dậy gấm đầy cành 
Cười ngất gió xuân thật vụng 
Chúc tụng, chúc tụng 
Thật đúng, Bồng Lai, tiên động. 
Dượng Đế nghe xong. thích chí khen: 
- Hát hay lắm! Không thể không uống. 
Rồi uống đúng ba chén. Tiêu Hậu cùng các phu nhân mỗi người uống hầu một chén. Tiệc rượu xong, lại thấy một mỹ nhân, mặt mày sáng sủa, tóc chải gọn gàng, hoa nhường nguyệt thẹn, bước ra khỏi hàng quỳ tâu: 
- Tiện thiếp tuy bất tài, cũng xin dâng thánh thượng một bài từ để chúc mừng. 
Dượng Đế đưa mắt nhìn, thì đó là Chu quý Nhi ở viện Nghênh Huy. Dượng Đế cười nói: 
- Nếu là quý Nhi thì nhất định là tuyệt diệu rồi, lẽ nào mà hát không hay, lời không đẹp cho được. 

Quý Nhi rất khoan thai, tay uốn nhịp nhàng, chân bước yểu điệu, cùng hát một bài theo điệu “Như mộng lệnh”: 
Con gái trời sao khéo giỡn 
Khóe khéo gấm mây cắt khéo 
Một tối thẩy đều xuân 
Tô điểm muôn cành thật giống 
Phúc lớn! Phúc lớn! 
Phú quý hoàng gia lồng lộng. 
Quý Nhi hát xong, Dượng Đế vỗ tay khen: 
- Hát hay lắm! Nhất là câu cuối! “Phú quý hoàng gia lồng lộng", vừa hợp với vần của câu "Tô điểm muôn cành thật giống", vừa nói được ý có trước có sau đáng khen lắm? 
Lại cũng uống cạn ba chén nữa, bất giác thấy người ngây ngất, rượu đã quá say, thì thái giám thú uyển Mã Thủ Trung, tiến vào quỳ tâu: 
- Vương Nghĩa ở ngoài cửa ngự uyển, trình rằng đã làm được một thứ rất lạ, xin dâng lên chúa thượng! 
Dượng Đế nghe nói đến Vương Nghĩa liền truyền: 
- Cho phép y vào đây. 
Chẳng bao lâu đã thấy đến Mã Thủ Trung dẫn Vương Nghĩa vào quỳ dưới thềm, Vương Nghĩa dâng một vật lên trước mặt Dượng Đế tâu: 
- Trình chúa thượng, thần thê là Khương Đình Đình cảm ơn lớn của chúa thượng, tự dệt một bức trướng, sai thần đem dâng chúa thượng! 
Dượng Đế sai cung nữ giở ra xem, thì ra đó là một gói nhỏ, bọc bằng gấm, bên trong là một mảnh vải rộng dệt bằng một loại lụa gì đen bóng như sơn đen, mềm nhỏ như sa. Dượng Đế lấy làm lạ, hỏi: 
- Vương Nghĩa, đây là loại vải gì? 
Vương Nghĩa thưa: 
- Thần thê Khương Đình Đình, ngày đêm cảm ơn sâu của chúa thượng, mà không thể nào báo đáp, tự cắt tóc trên đầu xanh của mình, chọn lấy những sợi vừa đen vừa dài. Rồi lấy một loại keo lạ nối lại dệt thành loại vải thì ở trong có thể nhìn rõ cảnh bên ngoài, mà bên ngoài nhìn vào chẳng thấy bên trong. Mùa đông rất ấm, mùa hè lại dịu mát. Mở ra thì vừa rộng vừa dài, mà gấp lại chỉ vừa chiếc gối nhỏ. 
Dượng Đế khen lạ, sai cung nữ mở rộng ra xem kỹ một lần nữa. 
Tiêu Hậu cùng các phu nhân xúm lại xem, thấy mỏng, nhẹ như mây như khói, hương thơm tỏa khắp điện, chăng khắp cả gian lớn. Tiêu Hậu nói với Dượng Đế: 
- Không ngờ Đình Đình lại có thể nghĩ được thế này, lại khéo tay đến thế này. Bệ hạ phải có gì ban thưởng cho họ Khương để bõ công vất vả hàng mấy tháng nay chứ? 
Dượng Đế nghe Tiêu Hậu nói thế, bèn sai nội giám lấy hai tấm đoạn Quảng Lăng, một chiếc áo choàng màu mây ngũ sắc ban cho Vương Nghĩa rồi phán: 
- Vợ ngươi thật hết lòng trung nghĩa mà dệt được tấm vải này, trẫm ban cho hai thứ này để đền công khó nhọc. 
Vương Nghĩa quỳ gối nhận rồi vái lạy ra khỏi ngự uyển. 
Dượng Đế nói với Tiêu Hậu: 
- Hôm vừa rồi, hoàng hậu nói chuyện "thiên sàng", có thể nhiều người cùng nằm. Nay lại có cả tấm trướng này, có thể che thừa cả cái giường nhà chùa đó của hoàng hậu. 
Rồi sai bọn nội thị: 
- Đem ngay cái giường "Hợp hoan" mà nước ngoài tiến cống và kê ngay ở gian của cung Hiển Nhân, lấy mười cái đệm gấm trải lên trên, rồi treo tấm vải rộng Đình Đình vừa dệt làm trướng cho trẫm. 
Sai phái đâu đó, cung nhân, nội giám rối rít vâng mệnh, chẳng mấy lúc, công việc xong xuôi. Dượng Đế nói với Tiêu Hậu và chúng phu nhân: 
- Tần phu nhân thì nghĩ được kế hay, Khương Đình Đình thì có bàn tay khéo léo. Một ngày mà gặp cả được hai chuyện kỳ lạ, thì thật chẳng gì thích hơn nữa. Bởi vậy chúng ta hãy cùng nhau uống rượu say mềm một phen, đêm nay hoàng hậu hãy cùng các phu nhân, kéo lên giường "Hợp hoan" này, vui chơi một tối, liệu có nên chăng? 
Tiêu Hậu cười: 
- Chúng phu nhân, mỹ nhân rất đông đủ kia rồi, thiếp thật không tiện tham dự, xin bệ hạ cho được trở về cung thôi. 
Dượng Đế cười: 
- Hoàng hậu muốn về phải uống đủ ba chén. 
Tiêu Hậu vâng theo, uống ba chén rồi đứng dậy về cung, Dượng Đế cùng các phu nhân, mỹ nhân lại tiếp tục vui vẻ trên giường "Hợp hoan" mới kê . 
Chính là: 
Nguồn đào nhà có xa đâu 
Non Vu, đỉnh Giáp chiêm bao đi về. (1) 


1 Non Vu, đỉnh Giáp: Vua Sỡ đến chơi Cao Đường giữa ban ngày nằm ngủ, thấy một người con gái đến thưa: "Thiếp là thần nữ non Vu, nghe nhà vua tới, xin đến hầu chăn gối". Khi từ biệt thần nữ còn nói: "Thiếp sớm làm mây trên đỉnh Giáp, chiều làm mưa ở chân núi Dương Đài". (Cao Đường phú). 


Lại nói chuyện hậu cung, còn có một cung nhân là Hầu Phi tử, sinh ra đã là thiên hương quốc sắc, trăm đẹp, ngàn xinh, thật đúng nhạn sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn, trời lại phú cho nét thông minh tài văn tài thơ. Từ ngày được đưa vào cung, cậy mình có tài có sắc lại nghe Dượng Đế là kẻ hiếu sắc trọng tài, trong lòng cũng nghĩ sẽ có lúc được như A Kiều ở nhà vàng, Phi Yến ở gác Chiêu Dương. Nhưng rồi đợi đến hết ngày này sang ngày khác, nào ngờ tài mệnh ghét nhau, sắc chẳng gặp thời, tiến cung đã mấy năm nay, mà chưa bao giờ được thấy mặt Dượng Đế dù một lần.




 Cả ngày chỉ đốt hương ngồi một mình, hết hoàng hôn rồi lại đến đêm dài, qua bao ngày đêm trong cảnh gió sương lạnh lẽo, ngày xuân, đêm thu dằng dặc, đến nỗi hồn phách rã rời, cho dẫu là người sắt, dạ đồng, cũng không tài nào chịu nổi. Lại thêm ngày tháng trôi đi, ai người có tài kéo lại, đến khi đèn tàn, mộng tỉnh, thì quả là lệ chảy nghìn hàng. Ban đầu còn tiếc dung nhan, những gượng tô son điểm phấn, để mong có ngày quân vương thấy mặt. Nào ngờ tháng ngày như nước chảy mây trôi, ngày lại ngày, ngày nào cũng đều vô vị như nhau, bất giác sương tuyết hao gầy tuy cũng một vài chị em bạn bè thăm hỏi, nhưng cũng chỉ là người sầu thăm kẻ khổ, quang cảnh càng thêm vẻ thê lương, ảm đạm. 
Một hôm nghe Dượng Đế sai Hứa Đình Phủ vào hậu cung tuyển cung nữ, nhiều người khuyên Hầu phu nhân hãy lấy mấy hạt châu ngọc trang sức của mình mà cho y quách, để y tiến với chúa thượng cho, nhưng Hầu phu nhân nói: 
- Thiếp nghe Chiêu Quân đời Hán, thà chịu hắt hủi, nhất định không chịu đem nghìn vàng ra để mua chuộc họa sư Mạo Diên Thọ. 
Tuy một thời bị vứt bỏ, rồi còn bị gã cho chúa Thiên Vu, đến nỗi chỉ còn mỗi khúc tỳ bà cùng đám cỏ xanh lưu lại ngày nay. Nhưng ngược lại tiếng thơm thì nghìn đời còn đó, ai mà không thương tiếc Chiêu Quân, chẳng bao giờ mất tiếng người đẹp nghìn xưa. Thiếp nay tuy chẳng bằng Chiêu Quân, nhưng nếu phải hối lộ tụi tiểu nhân để được chúa thượng yêu vì, thì thực đáng hổ thẹn. Thiếp chỉ giận thân này bạc phận, nếu không được gặp quân vương, thì cũng thật uổng thân này một kiếp. Chỉ bằng chết quách một đường, làm con ma đáng thương của nghìn đời, cũng là một chuyện cưỡng lại cái thân phận bị cày ải ở chốn hậu cung lạnh lẽo này chăng! 
Về sau lại nghe Hứa Đình Phủ đã kén được một trăm cung nữ để đưa về Tây Uyển, Hầu phu nhân khóc lóc một hồi rồi nói: 
- Thiếp kiếp này thế là chẳng bao giờ được thấy mặt quân vương, muốn được quân vương để ý đến, thảng hoặc sau khi chết chăng? 
Nói xong lại khóc, mấy ngày sau cơm canh trà nước đều bỏ, gượng đến bên giường, sửa sang y phục mày mặt gọn gàng, rồi đem mấy bức hoa tiên, có những hoa văn màu đen, đem những bài thơ thổ lộ nỗi lòng, buồn vui của mình chép lại, gói chặt trong túi gấm, buộc ở bên mình, còn lại những bài thơ phú khác, đều vứt vào lửa đốt.
Một mình một bóng, lặng lẽ đi vòng quanh một hồi thổn thức trước lan can, khóc rồi lại ngắm, đến chiều thì lủi thủi về phòng, thổn thức mãi hết canh hai. Không chịu nổi sự thống khổ quá đáng, bèn lấy một dải-lụa trắng, treo lên xà nhà mà thắt cổ. 
Chính là: 
Hồn thơm tán đứt, sầu thêm lặng 
Mặt ngọc nhòa phai, oán lại sầu. 

Một vài cung nữ thấy quang cảnh khác thường, vội vàng chạy vào phòng giải cứu, thì đã ngọc nát châu chìm, hương gãy bình tan, ô hô! Qua đời rồi! Khóc lóc ầm ĩ một hồi, đợi đến sáng ngày mai, việc không giấu được, đành phải đi báo với Tiêu Hoàng hậu. 
*** 
Lại nói, Tiêu Hậu khi ở Tây Uyển, uống luôn ba chén rượu lớn, Dượng Đế đành cho về cung. Sáng ngày hôm sau, Dượng Đế tỉnh dậy, vội lên xe rồng, về cung sớm, sai cung nữ chuẩn bị yến tiệc chờ sẵn, để đáp lại yến tiệc mà các phu nhân đã thết ở Tây Uyển hôm qua, bỗng thấy cung nữ của Hầu phu nhân tới thưa chuyện. Tiêu Hậu đi theo nội giám tới xem xét. Bọn cung nữ tìm thấy túi gấm bên mình Hầu phu nhân, đưa trình Tiêu Hậu. Tiêu Hậu mở ra xem, thì ra là thơ tuyệt mệnh, liền cứ như cũ bỏ vào túi gấm, sai cung nhân đem đưa trình Dượng Đế. 
Lúc này Dượng Đế đang ngồi ở long sàng, xem cung nữ trang điểm, vừa nói chuyện được mất xưa nay với Sa phu nhân ở viện Bảo Lâm. Dượng Đế nói: 
- Trụ Vương chỉ sủng ái mỗi Đắt Kỷ, Chu U Vương chỉ riêng say đắm Bao Tự, mà bỏ rơi cả thiên hạ, trẫm nay người đẹp đầy trước mặt, mà bốn biển vẫn yên như Thái Sơn, như thế là tại sao? 
Sa phu nhân thưa: 
- Đắt Kỷ, Bao Tự làm sao mà đủ sức phá nghiệp nhà Ân, nhà Chu, chính bởi tại Ân Vương, Chu Vương tham luyến sắc đẹp của Đắt Kỷ, Bao Tự, không nhìn ngó gì đến thiên hạ, vì vậy mà thiên hạ ngày càng lìa tan. Nay thì bệ hạ lúc thì đi tuần phía nam, lúc đi thú phía bắc, lưu tâm vất vả trị nước, làm sao chín châu không yên lành cho được. Nay là lúc nhàn rỗi giữa bao công việc, tự vui với cảnh cung cấm, phi tần tuy nhiều, nhưng đều có thứ tự, phép tắc đúng theo lề phong hóa cổ xưa. 
Dượng Đế cười: 
- Trụ Vương, Chu Vương tuy là hai vị vua không có đức, nhưng đãi Đắt Kỷ cùng Bao Tự như thế cũng là cùng cực, nên cũng có thể nói là có ơn sâu nặng vậy. 
Sa phu nhân thưa: 
- Chỉ trút cả vào một người, thì đó chỉ là tư ái, sủng ái, phải yêu đồng, cho khắp mới là ơn chung ơn lớn vậy. Đó chính là chỗ bại hoại của Trụ Vương, của Chu U Vương, mà cũng là chỗ an hưởng của bệ hạ vậy. 


Dượng Đế vui mừng: 
- Phu nhân bàn luận, thật là hợp ý trẫm. Trẫm tuy có hai kinh, mười sáu viện, cung nữ tuy nhiều, đủ màu xanh đỏ, nhưng trẫm đều đối xử rất tận tình, chưa bao giờ bỏ rơi một người nào, khiến họ không có nơi chốn yên ổn, cho nên trẫm luôn thư thái ung dung tự tại bởi chính có ơn mà không có oán vậy. 
Dượng Đế đang cùng Sa phu nhân sôi nổi bàn cãi thì thấy Tiêu Hậu sai cung nhân đưa trình túi gấm, cùng là trình việc Hầu phu nhân tự tận. Dượng Đế cho rằng đó là một cung nữ tầm thường, dẫu có chết thì chẳng có gì đáng phải hoảng hốt, vẫn cười cười nói nói giở túi gấm ra xem, thấy những tờ hoa tiên cực tinh tế, với những bài từ, bài thơ rất hoa lệ, chữ nào chữ ấy chân phương theo lối chữ khải, nét bút rất tươi tắn, mạnh mẽ, Dượng Đế đã thấy lòng không yên. Lúc này các phu nhân trang điểm đã xong, khăn áo thướt tha xúm lại trước mặt Dượng Đế cùng xem, Dượng Đế mở tờ đầu tiên, thấy hai bài thơ "Xem hoa mai": 
Bài 1: 
Thềm đá không tan tuyết 
Cuối rèm mày bỗng nhăn 
Trước sân mai khéo thương ta lắm 
Lấp lánh đầu nhành một nhánh xuân. 

Bài 2: 
Thương hương tàn sắc lạnh 
Ai biết ấy trời sinh 
Cánh mai là ta, hơi xuân ấm 
Riêng để trăm hoa tươi trước mành. 

Dượng Đế mới xem hết hai bài thơ đã kinh ngạc vô cùng, không ngăn được lời than thở: 
- Sao ở trong cung lại có người đẹp tài giỏi đến thế này? 
Rồi vội vàng mở xem tiểp tờ thứ hai. thấy có chép bốn bài, một bài “Điểm trang xong” và ba bài “Tự cãm” . 
“Điểm trang xong”: 


Điểm trang xong tủi phận 
Mộng đẹp hóa cơn buồn 
Chẳng bằng hoa dương sớm 
Xuân về bay khắp thôn 

“Tự Cảm”, bài một: 
Muốn khóc không còn lệ 
Buồn ca cổ nghẹn lời 
Mà hoa vẫn rực rỡ 
Sao thế hỡi xuân ơi! 

“Tự cảm” , bài hai: 
Trước sân, xe mất vết 
Đất lõm cỏ non chẹt 
Văng vẳng đàn sáo nào 
Ơn vua về đậu hót? 

“Tự cảm” , bài ba: 
Bóng xuân dài dằng dặc 
Một bước một ngẩn ngơ thẹn không bằng cỏ dại 
Mưa móc thấm chan hòa. 


Mở sang tờ thứ ba là một bài cổ phong, ngũ ngôn, gồm hai mươi sáu câu có tên là “Tự thương” . 


Buổi mới lạ vào Thừa Minh điện 
Cảnh thâm nghiêm ẩn hiện không nguôi 
Cảnh dài bảy tám năm trời 
Quân Vương chảng một lần vời lược gương 
Rét xuân buốt thấu xương 
Chiếc bóng lặng buồng không 
Quanh hè hài lệt xệt 
U uất lòng thương lòng 
Đêm khuya bỗng nhớ vòng tuổi trẻ 
Chẳng hơn ai cũng thể khác thường 
Vì đâu tươi hóa nên tàn 
Cái câu bạc mệnh muôn vàn xót xa 
Ơn chúa cao dày nhưng vắng xa 
Bàng hoàng lòng thiếp bóng chiều tà 
Quê hương cốt nhục ai là chẳng 
Tựa cửa chẳng vâng bóng mẹ già? 
Chim đất khách chơ vơ lông cánh 
Cổng tường cao xa lánh được sao? 
Mạng ta nặng nhẹ thế nào 
Nỡ đem cất giữ tháp cao lụa đào 
Kèo cao lụa một giải 
Gan ruột như trào sôi 
Đưa đau vào ngần ngại 
Muôn sợi thắt rối bời 
Lẽ tử sinh tuy hai mà một 
Quê suối vàng nhẹ gót từ đây. 


Dượng Đế đọc chưa hết đã rơi nước mắt nói: 
- Đây chính là lỗi của trầm. Trẫm nào có thương tài ái sắc gì đâu ngay ở trong cung này thôi mà để mất bậc tài hoa thế này. Đau xót thay, tiếc thương thay! 
Nói xong gạt nước mắt, giở sang tờ thứ tư, chỉ có một bài "Di ý". 


Tước run động kín trồng tiên thảo 
Trạm chỗ thâm cung nhốt ngọc nhân 
Diên Thọ phải đem mà chặt thủ 
Sao không vẽ đúng ảnh Chiêu Quân? 


Dượng Đế xem hết, nổi giận đùng đùng: 
- Thì ra có một chuyện dối trá ở đây! 
Sa phu nhân hỏi: 
- Ai dối ai, thưa bệ hạ? 
Dượng Đế đáp: 
- Trẫm trước đây sai Hứa Đình Phủ vào hậu cung tuyển người đẹp sao lại không tuyển Hầu phu nhân? Ở đây nhất định có chuyện dối trá. Bài thơ cuối cùng này là oán Hứa Đình Phủ không tuyển phu nhân, vì vậy ngậm hờn oan mà chết. 
Bèn sai người gọi ngay Hứa Đình Phủ tới. Giả phu nhân ở viện Giáng Dương thưa: 
- Hứa Đình Phủ chỉ biết đến dung mạo thôi, còn làm sao biết được tài mẫn tiệp của Hầu phu nhân thưa bệ hạ? Dù tài năng thế nữa, nhưng không chắc dung mạo đã tương xứng. Bệ hạ sao không sai người đem đến xem. Nếu như nhan sắc bình thường, thì tội Đình Phủ còn có thể tha thứ. Nếu như tài mạo kiêm toàn, hãy sai gọi đến cũng chưa muộn. 
Dượng Đế phán: 
- Nếu không phải là bậc tuyệt thế giai nhân, thì làm sao có được lời hoa gấm như thế này. Nhưng cứ như lời khuyên của các khanh, trẫm hãy tự thân đến xem sao? 
Bèn từ biệt đám phu nhân, lên xe rồng về cung, Tiêu Hậu ra đón, rồi cùng vào hậu cung xem xét, thấy Hầu phu nhân khoảng hai mươi tuổi trở lại, tuy đã chết, nhưng y phục, đầu tóc chỉnh tề, nhan sắc vẫn như lúc sống vậy, má hồng trán trắng mịn, chẳng khác gì đóa hoa đào sắp nở rộ.





Dượng Đế thấy thế, cũng chẳng nghĩ tới tử sinh cách biệt, lại gần vuốt ve trên người Hầu phu nhân, rồi lớn tiếng khóc: 
- Trẫm vốn là một kẻ yêu tài, mến sắc, mà ngay trong cung cũng để mất người tài sắc bậc này. Phu nhân là kẻ tài sắc vẹn toàn, gần nhau trong tấc gang mà không được gặp gỡ. Chẳng phải là trẫm phụ phu nhân đâu, mà chính bởi phu nhân mang số bạc mệnh trong người mình đấy thôi. Không phải phu nhân không được gặp trẫm, mà chính là do trẫm vô duyên. Phu nhân ở tuyền đài, cũng đừng oán trẫm. 
Nói xong lại khóc, khóc xong lại nói, thổn thức rồi thổn thức, cũng chẳng khác gì Khổng Phu Tử khóc con kỳ lân chết vậy, đều mười phần bi thương. 
Chính là: 
Đức thánh khóc đạo 
Người thường thương sắc 
Đau lòng như nhau 
Cách xa trời vực. 

Tiêu Hậu khuyên: 
- Người mất, đàn tan, bi thương cũng chẳng ích gì, xin bệ hạ hãy giữ gìn. 
Dượng Đế bèn truyền lệnh bắt Đình Phủ hạ ngục, hỏi tội cẩn thận, lệnh cho thái giám chuẩn bị y phục, quan tài để hậu táng Hầu phu nhân. Lại sai cung nữ tìm thêm thơ văn của Hầu phu nhân, bọn cung nữ tâu: 
- Trình chúa thượng, Hầu phu nhân làm thơ rất nhiều, trước khi chết một ngày, khóc than rồi đốt hết tất cả rồi. 


Dượng Đế vô cùng tiếc thương, lại lấy những bài thơ trong cẩm nang đặt trên bàn xem một lần nữa, tiếc thương một lần nữa, đọc một lần nữa, muôn ngàn trân trọng. Rồi giao cho các phu nhân để phổ thành nhạc hát. 


Chúng phu nhân đều nghe biết chuyện Dượng Đế hậu tình làm tang lễ Hầu phu nhân, nên cũng kéo đến dự, đem theo cả lễ vật. Dượng Đế tự viết văn tế, trong đó có những câu: 
Năm năm đằng đẵng 
Trắng lạnh hương tàn 
Khanh không gặp trẫm 
Ấy ai thương khanh 
Khanh không gặp trẫm 
Gối chiếc mộng tàn 
Trẫm không gặp khanh 
Ân hận suối vàng 
Trẫm thương khanh mất 
Như thương còn khanh. 

Rồi lại khóc than chua xót, không thể nào nói hết. Dượng Đế làm xong, tự mình ngâm đọc một hồi, đến Tiêu Hậu cũng phải nhỏ nước mắt rồi nói: 
- Bệ hạ hà tất phải tiếc thương sầu thảm đến thế! 
Dượng Đế đáp: 
- Chẳng phải trẫm đa tình đâu. Mà chính là tình đến làm đau lòng, trẫm cố ngăn cũng không được. 


Chúng phu nhân cũng vang lời than khóc, Dượng Đế đứng tế Hầu phu nhân một lễ, rồi đem bài văn tế đốt trước linh sàng, tìm đất mai táng. Lại sắc cho quan huyện, quan quận, hậu tuất cho cha mẹ Hầu phu nhân. Còn Hứa Đình Phủ bị hình quan tra khảo, không thể chối được, bèn đem chuyện đòi hối lộ vàng ngọc thế nào cung khai rõ ràng. Hình quan cứ thế tâu trình, Dượng Đế vô cùng tức giận, đòi đem ra giữa chợ Đông chém ngang lưng. Nhưng rồi được chúng phu nhân xúm lại khuyên giải nhiều lần, nên Dượng Đế bằng lòng cho Hứa Đình Phủ phải tự chết trong ngục. 
Chính là: 
Suốt đời tham lợi cậy quyền 
Nào hay tài lại vần liền với tai 
Chóng chầy một tối một mai 
Cặp kè lũ lượt về nơi... vạc dầu.



HỒI 29

Tùy Dượng Đế hai viện xem hoa,
Chúng phi tần một thuyền chơi biển.

Từ rằng: 
Buồn vừa dứt, vui tiếp ngay 
Nhà trời sớm đã khéo bày trò chơi 
Đào đào lý lý sắc tài 
Giải phiền một chén, u hoài vơi chưa? 
Đá Bắc Hải, liễu Ngũ Hồ 
Xa trông trời nước nào bờ bến đâu? 
Gối tiên chợt tỉnh chiêm bao 
Tựa hồng dựa biếc thì thào riêng tây. 
Theo điệu "Đạp sa hành” 

Con người ta trong chuyện tiền tài, sắc dục, khó ai có một cái nhìn thật sáng suốt, huống chi bậc thiên tử, tột cùng của sự phú quý, giàu có bốn biển, không ai sánh nổi sự xa hoa, thì trong sự hoang dâm thanh sắc, ai là người đứng ra ngăn cản, cho nên Dượng Đế lại càng mặc sức, mặc lòng. Dù điềm trời có thể hiện ở cây cỏ, ở muôn vật nữa, thì tai như không nghe, mắt như không thấy, cho nên chuyện quốc phá, thân vong là điều không thể tránh khỏi vậy. 
** 
Lại quay lại chuyện Dượng Đế đã bắt Hứa Đình Phủ tự vận trong ngục, nhưng vẫn chưa quên ngay được chuyện Hầu phu nhân, mọi người trong cung hết sức khuyên giải, nhưng Dượng Đế vẫn rầu rĩ không nguôi. Tiêu Hậu giảng giải: 
- Người chết chẳng bao giờ có thể sống lại. Có nghĩ ngợi lắm cũng chẳng ích gì. Ví như sau khi Tuyên Hoa phu nhân mất, lại có một loạt phu nhân thay thế. Nay biết đâu ở hậu cung vẫn còn nhiều bậc tài sắc, mà bệ hạ chưa biết đến cũng nên? 
Dượng Đế đáp: 
- Hoàng hậu nói có lý lắm! 

Liền truyền chỉ cho các cung, không kể tài nhân, mỹ nhân, tần phi, thái nữ, ai có sắc có tài, giỏi hát giỏi đàn, hoặc các tài khác lạ, cứ việc tâu tên họ rồi đến Hiển Nhân cung thi tài ngay trước mặt vua cùng hoàng hậu. 
Chỉ ban ra, hết ngày này sang ngày khác, có kẻ giỏi vẽ, kẻ hay hát, đàn hay, đều kéo đến Hiển Nhân cung thi tài. Dượng Đế vui mừng bày tiệc rượu ra ngay điện lớn của Hiển Nhân cung, mời Tiêu Hậu cùng mười sáu phu nhân ở mười sáu viện tới, để cùng lựa chọn. Dượng Đế cùng Tiêu Hậu ngồi trên long sàng, chúng phu nhân ngồi thành hai hàng tả hữu. Lúc xem vẽ vời, lúc nghe thơ phú, rồi lại nghe nhạc, xem múa, nghe đàn, xem các xảo thuật linh tinh. Thôi thì tha hồ cho bút mực tung hoành, âm nhạc du dương, châu ngọc rộn ràng, loan phượng tề minh. Dượng Đế thấy toàn những tài năng, những nhan sắc khác thường, lòng lấy làm vui vẻ, phán rằng: 
- Lần tuyển lựa này, nhất định ta sẽ không còn sót một viên ngọc quý nào nữa. Chỉ thương cho Hầu phu nhân, không sống lại được để mà dự. 
Rồi thưởng cho tất cả mỗi người ba chén rượu, ghi tên họ vào các hạng mục rõ ràng, kẻ thì được phong mỹ nhân, người được thăng tài nhân, cộng tất cả là hơn một trăm người, đều nhất loạt được đưa vào Tây Uyển. Mọi người đã được phân chia đâu đó, vẫn còn một cung nữ chẳng thấy thi thơ văn, cũng chẳng trổ tài họa tranh, viết chữ, chẳng ca, chẳng múa, chỉ đứng một bên. Dượng Đế nhìn kỹ, thì thấy: 
Quả là: 
Vẻ phong lưu, dáng kỳ dị 
Thần thanh tuấn, tướng cao quý 
Không son chẳng phấn khác người 
Thiên tư hiếm có cõi thế 
Dượng Đế vội vàng hỏi: 
- Khanh tên họ là gì? Ai nấy đều trổ tài văn thơ, họa viết, thi khéo thi khôn. Sao khanh vẫn chưa nói năng gì cả, mà lại vẫn đứng ở đây? 
Cung nữ vẫn không hề hoảng hốt, bước lên thong thả thưa: 
- Tâu chúa thượng, thiếp họ Viên, người ở Quý Khê, thuộc Giang Tây, tiểu tự là Tử Yên. Từ ngày, nhập cung đến giờ, chưa từng được thấy thiên nhan. Nay mới được dự tuyển, cũng liều chết để thưa cùng chúa thượng. 



Dượng Đế hỏi: 
- Khanh đã đến đây gặp trẫm rồi, có tài năng cao thấp thế nào, khanh cứ nói xem sao? 
Tử Yên thưa: 
- Thiếp tuy có tài mọn, nhưng lại không thuộc loại múa hay, hát giỏi, mà lại có thể làm người khác không chịu nổi nữa kia! 
Dượng Đế lại hỏi: 
- Nếu không phải tài ca, giỏi múa, thì còn là tài gì nữa kia? 
Tử Yên thưa: 
- Thiếp từ nhỏ đã học được phép xem thiên văn. Cho nên tất cả những việc nữ công, gia chánh đều bỏ không nhìn tới. Nay vẫn chẳng biết gì chuyện đó, chỉ biết xem sao, nhìn trời đất, khí tượng, đoán rõ ngũ hành, tính được vận mạng của bậc thiên tử, của quốc gia mà thôi! 
Dượng Đế vô cùng kinh ngạc: 
- Đó chính là môn học của các bậc thánh nhân. Khanh là hạng đàn bà, tuổi ít, thì làm sao hiểu thấu những chuyện cao siêu huyền bí được? 
Tử Yên thưa: 
- Thiếp lúc nhỏ, may gặp một ni cô già, nói thiếp có đôi mắt ánh sáng khác lạ, có thể nhìn được bầu trời, tinh tú, vì vậy được ni cô dạy xem thiên văn, nào là chuyển cơ, nào là ngọc hạnh đều được xem qua, kể cả ngũ vĩ, thất chính đều được ni cô giảng giải tường tận. Lại luôn luôn khuyến khích thiếp, hãy gắng mà học cho giỏi, mai kia có thể làm thầy bậc đế vương, vì vậy thiếp ngày đêm ra công cũng biết được một đôi điều. 
Dượng Đế phán: 
- Trẫm thuở nhỏ, không sách nào là không xem. Chỉ tiếc rằng các loại sách thiên văn, không được học kỹ càng. Nay các đài quan, ngày ngày trình điềm họa phúc, kể tượng đất trời, tinh tú, trẫm cũng chẳng hiểu gì lắm. Nay mà khanh lại biết được những điếu này, thì trẫm sẽ cho xây ngay đàn trong cung này, rồi phong khanh làm quý nhân, kiêm chức nữ tư thiên giám, chuyên trông coi việc đất trời, cai quản nội tư thiên giám vậy. Như thế thì trẫm lúc nào cũng được ngửa trông thiên tượng, cũng là một việc thích ý vậy. 
Tử Yên vội vàng lạy tạ, Dượng Đế liền cho phép ngồi sau hàng chúng phu nhân. Tiêu Hậu chúc mừng: 
- Lần tuyển chọn này, không những được rất nhiều người tài kẻ sắc lại được cả Viên Quý nhân, biết xem thiên văn, giúp sáng mệnh trời, thật bởi phúc lớn của bệ hạ nên vậy. 
Dượng Đế vui vẻ vô cùng, cùng với các phu nhân uống rượu mãi tới khi trăng lên rồi chẳng chờ cho đến khi đắp được thiên đàn, cùng Viên Quý nhân lên nguyệt đài, sai cung nhân lấy rất nhiều bàn lớn, sập rộng, chất thành một đài cao. Dượng Đế kéo Tử Yên lên, cùng nhau xem bầu trời, hai hàng cung nữ đứng hầu phía dưới. Thoạt tiên, Tử Yên chỉ cho Dượng Đế thấy tam đàn, cùng phân giới của nhị thập bát tú. Dượng Đế hỏi: 
- Những gì thì gọi là tam đàn? 
Tử Yên đáp: 
- Tam đàn là gồm: Tử vi đàn, Thái vi đàn, cùng Thiên thị đàn. Tử vi thì ứng cung khuyết với kinh đô của lộc tiên tử, thái vi thì ứng những chính lệnh của thiên tử với các nước chư hầu, Thiên thị chính là thể hiện quyền hành của bậc thiên tử ở các thành thị, nơi đô hội. 
sao rõ , khí sáng là điềm quốc gia hòa yên, phúc lộc. Sao Tuệ (1) rực rỡ chiếm xâm giới phận khác, là lúc quốc gia gặp phải hồi ly loạn, chiến tranh. 
1 Sao Tuệ, Sao Bột, đều chỉ sao chổi, loại sao ngày xưa cho là điềm chiến tranh, đói kém! 
Dượng Đế lại hỏi: 
- Hai mươi tám vì sao giăng kín bầu trời, chia rõ cương phận ứng với các phần đất, biết thế nào là xấu là tốt được? 
Tử Yên thưa: 
- Giá như Ngũ tinh phạm vào Hà phận, thì biết ngay vùng Hà có hỏa tai, hoặc binh đao, việc táng thất, hoặc thủy tai. Những điểm này đều được biểu hiện bằng màu sắc thanh, hoàng, xích, hắc, bạch, gồm năm màu để phân biệt. 
Dượng Đế lại hỏi: 
- Thế còn vì sao nào thì ứng với bậc đế vương? 
Tử Yên đưa tay chỉ về phía bắc: 
- Trong Tử vi đàn kia, có năm ngôi sao làm thành một dãy liền, ngôi đầu tiên là chỉ về phía mặt trăng, về Thái tử, ngôi thứ hai chỉ về mặt trời, vừa có đủ màu đỏ, vừa lớn nhất, chính là sao đế vị đấy! 
Dượng Đế giương mắt nhìn theo: 
- Làm sao mà đế tinh lại nhấp nhánh thế kia hở khanh? 
Tử Yên thưa: 
- Sao đế dao động, không ổn định, là có ý nói chúa thượng thích đi lại nay đây mai đó. 
Dượng Đế cười đáp: 
- Trẫm quả thích ngao du đây đó thật, đó chi là việc rất nhỏ, tại sao các vì sao đó cũng ứng được những chuyện như vậy. 
Tử Yên đáp: 
- Thiên tử là người đứng chủ thiên hạ, nhất cử nhất động đều ứng với tượng trời đất. Vì vậy các bậc vua chúa xưa nay, không bao giờ tự tiện dám làm điều xằng bậy, phóng túng, chính là vì sợ mệnh trời vậy. 
Dượng Đế lại nhìn ngó cẫn thận một hồi nữa rồi lại hỏi Tử Yên: 
- Trong khu Tử vi đàn tại sao xem ra khí tượng không được sáng rõ? 
Tử Yên thưa: 
- Thiếp quả không dám nói! 
Dượng Đế phán: 
- Thiên tượng thế nào, đã bày cả ra đó. Khanh không chịu nói rõ cho trẫm, chính là khanh đã mắc tội khi quân vậy. Huống chi chuyện hưng vong đều là chuyện mệnh số, khanh có nói cũng chẳng hại gì cả? 
Tử Yên thưa: 
- Tử vi mờ tối, chỉ sợ vận nước không được lâu dài cho lắm! 
Dượng Đế trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi mới cất tiếng hỏi tiếp: 
- Việc này liệu có cách nào để cứu vớt được chăng? 
Tử Yên đáp: 
- Tử vi tuy có mờ tối, nhưng may mà minh đường vẫn thấy còn sáng tỏ, thái gia (1) đều là một. Phương chi chí thành thì có thể thay được mệnh trời. Nếu thánh thượng lo sửa đức lớn, thì có thể sửa được cả tượng trời, có gì phải lo rằng không cứu vớt được thiên mệnh. 
1 Minh đường: tên sao, gồm ba ngôi, chủ về thiên tử. (Đừng nhầm với "minh đường" ở cuối hồi thứ hai mươi tập 1, là nhà lớn đẹp, để thiên tử tuyên giảng đạo đức, đón tiếp chư hầu hoặc tế tự). Thái Giai: đồng nghĩa với từ "tam đàn" ở trên (Nguyên là tam viên, Từ Hải) 
Dượng Đế phán: 
- Nếu còn có cơ vãn hồi được, thì chẳng có điều gì đáng lo cả! 
Hai người xuống đài, trông thấy từ góc tây bắc, một luồng khí đỏ như vẩy rồng thành một đám đài lớn, bốc lên ngùn ngụt. Tử Yên vội giương mắt nhìn theo, không giấu nổi vẻ kinh hoàng, vội vàng thưa: 
- Đó chính là khí thiên tử vậy, làm sao lại ở chỗ ấy cho được? 
Dượng Đế vội quay lại nhìn quả nhiên sắc đỏ bừng bừng, hiện đủ năm màu, che khắp nửa bầu trời, thật mười phần kỳ lạ. Dượng Đế bất giác cũng sợ hãi, mới hỏi: 
- Tại sao khanh lại biết đó là khí thiên tử? 
Tử Yên thưa : 
- Hiện đủ năm màu, có hình dáng như rồng như phượng, làm sao mà không phải cho được. Ở nơi khí bốc lên như thế, nhất định là có bậc khác thường. 
Dượng Đế lại hỏi: 
- Đám khí này ứng với địa phận nào? 
Tử Yên lại giơ tay chỉ: 
- Đây chính là phận Sâm Tĩnh, cũng chẳng đâu xa, có lẽ ở vùng Thái Nguyên chăng?
Dượng Đế phán: 
- Thái Nguyên ở Tây Kinh không xa. Ngày mai trẫm sai người đến lặng lẽ tìm khắp nơi, nếu thấy kẻ nào ra vẻ dị tướng, dị nhân, giết quách đi, thì họa này cũng hết hẳn, chẳng còn sợ gì nữa phải không? 
Tử Yên thưa: 
- Đây chính là ý trời, chỉ sợ sức người không trừ diệt nổi. Chỉ xin bệ hạ giữ gìn cẩn thận, nêu cao đức sáng, thì may ra điềm họa có thể tự tiêu. Nhớ lúc trước, ni cô già có truyền cho thiếp ba câu kệ ngăn sau đây: 
Đuôi trâu, đầu cọp 
Binh đao loạn lạc 
Ai sẽ làm vua, con người thợ mộc. 

Nếu lấy chữ "mộc" với chữ “tử” là con mà đặt chữ “mộc" trên, "tử” dưới thì là chữ "Lý". Nhưng ý trời huyền diệu, thật khó mà suy đoán cho cùng. 
Dượng Đế phán: 
- Ý trời đã định, có lo âu sầu não cũng chẳng xong. Đêm nay đẹp thế này, hãy cùng khanh kịp thời hành lạc đã. 
Rồi xuống đài, cùng với Tiêu Hậu và chúng phu nhân uống thêm mấy chén rượu. Tiêu Hậu dẫn chúng phu nhân ra về, Dượng Đế ở lại Hiển Nhân cung với Tử Yên đêm ấy. 
Sáng hôm sau, khi Dượng Đế trở dậy rửa mặt chải đầu, bỗng thấy Dương phu nhân ở viện Minh Hà sai một nội giám lại thưa: 
- Thưa chúa thượng, dạo trước huyện Toan Tảo có dâng cây ngọc lý, từ bấy đến nay, chưa một lần có hoa. Đêm qua bỗng hoa nở đầy cây trắng cả một vùng lớn, khắp viện tỏa hương thơm ngát, thật là điềm phúc lớn, xin chúa thượng hãy tới thưởng ngoạn. 
Đêm qua Tử Yên nói đến "con thợ mộc", họ "Lý" nay lại thấy nội giám trình như vậy, Dượng Đế trong lòng có phần không vui, trầm ngâm hồi lâu, rồi hỏi: 
- Cây ngọc lý ấy lâu nay không nở hoa, làm sao nay lại bỗng có hoa. Nhất định có điều gì khác thường chăng? 
Nội giám thưa: 
- Quả thật là có chuyện khác thường, thưa bệ hạ. Đêm qua tất cả mọi người trong viện Minh Hà, đều nghe có tiếng thần nhân hàng nghìn người, đứng ở dưới gốc cây ngọc lý mà nói rằng: "Con thợ mộc" đang lúc thịnh thời, chúng ta nên ra tay phù trợ. Chúng con đều không dám tin, không ngờ sáng mai ra, mới thấy hoa lá đầy cành, mười phần tươi tốt. Thế này thì đúng là chúa thượng phúc lớn ngang trời mới sinh ra điềm quý như thế này. 
Dượng Đế nghe thế, lại càng thêm nghĩ ngợi, phân vân không định, thì lại thấy một thái giám tới tâu rằng: 
- Kẻ hèn mọn này được Chu phu nhân ở viện Thần Quang sai tới trình bệ hạ. Số hoa dương mai, dạo trước chuyển ở Tây Kinh về, đêm hôm qua bỗng nở đầy cây, mười phần rực rỡ. Xin mời bệ hạ hãy tới ngự lãm. 
Dượng Đế thấy tâu dương mai cũng thịnh khai, cây này chính hợp với Dương của nhà Tùy mình, mới thấy trong lòng vui vẻ ít nhiều: 
- Dương mai cũng nở rộ, hay lắm, hay lắm! 
Bèn hỏi thái giám: 
- Làm sao chỉ trong một đêm mà lại nở rộ như vậy? 
Thái giám thưa: 
- Đêm qua ở dưới cây hoa, thấy có rất nhiều thần nhân trò chuyện rằng: "Hoa này đã tới lúc khí vận cực điểm, hãy để nở cho kỳ hết". Sáng ra xem, chẳng cây nào là cây không có hoa rực rỡ. 
Dượng Đế phán: 
- Dương mai nở hoa nhiều như thế, so với ngọc lý ở viện Minh Hà thì thế nào? 
Thái giám thưa: 
- Kẻ hèn mọn này chưa thấy hoa ngọc lý. 
Tử Yên đứng bên cạnh thưa: 
- Cả hai loài hoa cùng lúc nở rộ, đúng là có quan hệ đến vận mạng của quốc gia. Sao bệ hạ không tới tận nơi xem sao? 
Dượng Đế nghe lời, liền phán: 
- Trẫm cùng khanh tới vậy! 
Rồi lên xe rồng, có Tử Yên đi theo, đến Tây Uyển, đã thấy Dương phu nhân và Chu phu nhân chờ sẵn, Dượng Đế hỏi: 
- Dương mai đưa ở Tây Kinh về, vốn là những cây lâu đời, nên ra hoa nhiều cũng còn có lý. Còn ngọc lý do huyện ngoài biên mới dâng, bất quá cũng chỉ mới quen đất lạ, sao lại cũng nở rộ cho được. 
Hai phu nhân thưa: 
- Xin thánh thượng tự tới xem sẽ rõ. 
Chẳng mấy chốc đã tới Minh Hà viện, Dương phu nhân mời Dượng Đế ra xem ngọc lý. Dượng Đế không chịu xuống xe rồng mà rằng: 
- Trước tiên hãy tới xem dương mai đã, ngọc lý xem sau. 
Dương phu nhân không dám nài, đành theo xe rồng đi tiếp viện Thần Quang. Dượng Đế vào viện, đến gần dãy dương mai, thì thấy đầy cành hoa gấm, chi chít khắp từ gốc tới ngọn. Dượng Đế cả mừng mà rằng: 
- Đúng là rực rỡ ít thấy. Vận quốc gia đến hồi thịnh vượng, chẳng cần bói toán cũng có thể thấy rõ ràng. 


Chẳng mấy chốc, phu nhân cung nữ các viện nghe nói hai viện nở hoa đầy cành, đều kẻo tới xem, ai nấy đều hết lời ca ngợi. Dượng Đế mười phần hoan hỉ, bèn sai bày tiệc rượu thưởng hoa. Chúng phu nhân do không rõ ý riêng của Dượng Đế đều tâu rằng: 
- Tâu bệ hạ, nghe nói ngọc lý cũng nở hoa rất đẹp, sao bệ hạ không tới ngự lãm? 
Dượng Đế phán: 
- Có lẽ không thể bằng dương mai được? 
Chúng phu nhân thưa: 
- Bằng hoặc hơn có gì khác nhau. Tất cả đều thử đến xem thế nào? 
Dượng Đế bị chúng phu nhân thúc giục, không thể chối được, đành phải cùng đến viện Minh Hà. Vào tới viện, đã thấy hương thơm kỳ lạ xộc vào mũi, hoa lạ đầy cành, nhụy phô lấp lánh. Chẳng khác gì được làm bằng châu ngọc trắng trong, soi sáng cả một vùng Tây Uyển, đúng là phải có bàn tay của quỷ thần phù trợ mới được như thế vậy thật không giống gì với những gốc dương mai. 
Có bài từ "Đạp sa hành" để làm chứng sau đây: 
Mây trắng xuôi, mây xanh kéo ngược 
Hạt mưa rơi đọng ngọc trên hoa 
Một đêm nở rộ sáng lòa 
Chẳng phiền xuân gọi, chẳng qua xuân mài 
Được trời đất tài bồi khéo léo 
Lại quỉ thần toan liệu tinh sao 
Đông hoàng trói buộc được nào 
Hương thiêng chợt thoảng đưa cao hóa rồng 
Hoa hèn đâu dám tranh hùng. 

Dượng Đế thấy hoa ngọc lý mười phần sáng lạn huy hoàng, chẳng giống các loài cây tầm thường mà khác gì cây ngọc cây ngà, cây quỳnh cành dao vậy, thì mắt trừng, miệng cứng, một hồi lâu không thốt ra lời. Chúng phu nhân chẳng rõ nguồn cơn, lại chỉ thi nhau ngợi ca ngọc lý. Bọn nội giám cũng thế, hết lời này khen đẹp, tiếng khác khen thơm, thi nhau ngợi tán sự kỳ lạ. Dượng Đế bỗng lớn tiếng quát: 
- Cái cây ty tiện này, bỗng nhiên nở hoa như vậy, nhất định là do yêu thuật, tà ma, để giống này chỉ mang họa. 
Rồi sai tả hữu, dùng búa chặt tận gốc. Chúng phu nhân vô cùng kinh sợ, thưa: 
- Hoa nở đầy cành, đúng là diễm phúc của quốc gia, làm sao lại là yêu nghiệt, cúi xin bệ hạ nghĩ lại. 
Dượng Đế vẫn phán: 
- Các khanh không thể hiểu được đâu. Chỉ có thể chặt đi là tốt hơn cả thôi. 
Chúng phu nhân khuyên giải trăm đường, nhưng Dượng Đế đời nào chịu nghe. Chỉ có Tử Yên là hiểu rõ đầu đuôi, liền thưa với Dượng Đế: 
- Hoa này tuy nở rất rực rỡ. Nhưng càng nở lắm thì càng chóng tàn, nên chỉ sợ không được lâu đâu. Nay xin bệ hạ hãy lấy rượu mà tưới vào thì yêu nghiệt cũng hết, mà trở nên điềm lành vậy. 
Bọn nội giám đang đứng chờ, chưa nỡ ra tay, thì thấy báo hoàng hậu tới. Nguyên là Tiêu Hậu cũng được tin hai viện hoa nở, nên cũng tới xem. Chúng phu nhân nhất tề ra đón, rồi thưa: 
- Hoa đẹp như vậy, nhưng chúa thượng cho là loài yêu nghiệt, bắt đem chặt đi, xin hoàng hậu khuyên giải cho. 



Tiêu Hậu lạy chào Dượng Đế, rồi ra xem kỹ ngọc lý, thì đúng quả như lời mọi người, Tiêu Hậu trầm ngâm lúc lâu rồi hỏi Dượng Đế: 
- Tại sao bệ hạ lại truyền chặt cây hoa này? 
Dượng Đế đáp: 
- Hoàng hậu là người thông minh, sao lại còn hỏi câu này? 
Tiêu Hậu nói: 
- Đây chính là ý trời, chẳng phải yêu nghiệt gì đâu. Có chặt cũng chẳng có ích gì. Bệ hạ nếu uy đức chưa đủ, thì hãy lấy cái uy đức của cái cây quý này mà thêm vào cho đủ vậy. 
Dượng Đế đáp: 
- Hoàng hậu phân xử thật sáng suốt, nhưng hãy cùng trẫm tới xem dương mai thì hơn. 
Rồi không bắt chặt ngọc lý nữa, cùng với Tiêu Hậu và các phu nhân quay sang viện Thần Quang xem dương mai. 
Tiêu Hậu thấy dương mai cũng rất rạng rỡ, tuy vẫn không sánh nổi ngọc lý, nhưng ít nhiều hiểu được tâm trạng cửa Dượng Đế, nên cũng lựa lời tâu: 
- Dương mai hương thanh, sắc đẹp, hấp dẫn được chính khí của đất trời. Ngọc lý chẳng qua chỉ được vẻ yêu kiều. Cứ theo như ý thiếp, thì dương mai đáng được xếp trên ngọc lý. 
Dượng Đế mới cười nói: 
- Hoàng hậu thật có mắt nhìn hơn người. 
Rồi sai bày lại tiệc rượu thưởng hoa, ai nấy cùng nâng chén mừng. Uống được vài chén, nhưng rượu chẳng làm nên chuyện, trong lòng mọi người đều không thư thái. Dượng Đế cũng thấy thế, nhìn chung quanh một hồi, rồi đứng ngay dậy mà truyền: 
- Cảnh xuân đẹp đẽ nhường nào, chỗ nào cũng như thơ như phú, sao lại ngồi giữa gốc cây này mà uống rượu cho được! 
Tiêu Hậu tiếp lời: 
- Bệ hạ phán đúng quá. Chi bằng đến quách Ngũ Hồ mà ngồi vậy. 
Dượng Đế lại tiếp: 
- Ta ra hẳn Bắc Hải một chuyến, cho tầm mắt được mở rộng nhìn trời đất. 
Chúng phu nhân nghe thế, liền sai nội giám cung nữ đưa mọi thứ lên thuyền rồng, xong xuôi đâu đó, Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, các phu nhân lên thuyền. Thuyền liền rời bến ra Bắc Hải, trời trong, gió thuận, mây nước một màu, so với cảnh trong viện thì khác hẳn. 
Vườn ngự gió đông mượt 
Thổi xuân đầy mặt ngời . 
Rợp bờ hoa đỏ chạy 
Quét mái liễu xanh trôi 
Bóng núi dựa cây đứng 
Tiếng oanh theo nước xuôi 
Sáng nay trời đẹp thế 
Dong buồm Bắc Hải chơi. 

Dượng Đế, Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân trên thuyền rồng cuốn tất cả các rèm gấm lên, nhìn cho rõ ràng cảnh đẹp thần tiên bốn phía, chưa gì đã ra khỏi Bắc Hải, tới gần một trong ba đảo thần tiên, cả bọn kéo nhau lên bờ. Đang lúc trèo lên, nghe một tiếng quẫy mạnh, trên mặt biển thấy một con cá lớn, những cánh vây dương rộng, vẩy sáng lấp lánh trên mặt sóng bạc, bơi đi bơi lại gần bờ đảo, trông thấy Dượng Đế như nhận ra người quen. Dượng Đế định thần nhìn kỹ, thì ra là một con cá chép lớn, dài tới một trượng ba bốn thước gì đấy. Toàn thân là những vẩy vàng đỏ sáng ngời dưới ánh nắng mặt trời, như những đốm sáng lân tinh vậy. Ở trán như có thấp thoáng nét chữ son, lúc tỏ, lúc mờ, trông như chữ "giác", Dượng Đế mới sực nhớ ra buột miệng. 
- Thì ra là con cá này? 
Tiêu Hậu vội hỏi: 
Con cá nào thế? Thưa bệ hạ! 
Dượng Đế đáp: 
- Hoàng hậu không biết được đâu. Dạo trước trẫm cùng Dương Tố câu cá ở Thái Dịch hồ, có một người đánh cá ở sông Lạc Thủy, bắt được một con cá chép vàng đem tới dâng, trẫm thấy cá có tướng lạ, mới lấy bút son, viết hai chữ "giải sinh" ở trán cá, rồi thả xuống hồ. Về sau, Ngu Thế Cơ đào hồ lớn làm nước lưu thông cả với Thái Dịch hồ. Nên chẳng biết từ bao giờ con cá này ra được đây, mà giờ đã lớn đến thế. Nay nhìn kỹ, thì chữ "sinh" đã bị nước rửa sạch, chỉ còn lại nửa chữ giải là chữ "giác" mà thôi (1). Không phải con cá ấy thì còn con cá nào nữa? 
1 chữ "giác" gồm các chữ "giác" ở bên trái, bên phải là chữ "đạo" dưới chữ "ngưu", phần bên phải này cũng bị mờ với chữ "sinh" ngay bên, chữ "giác" còn lại này lại có nghĩa là sừng. Cá chép nguyên chữ Hán là "lý ngư". Chữ “lý”, lại đồng âm với Lý là họ Lý.

Nên Dượng Đế với Tử Yên mới lo sợ. Cá chép là tượng trưng cho họ Lý, cá chép hóa rồng, cá chép có sừng! 
Tiêu Hậu thưa: 
- Cá chép có sừng, thì không phải vật tầm thường! 
Tử Yên cũng thưa: 
- Hãy nhân lúc nó chưa hóa được thành rồng, xin bệ hạ trừ đi, may ra có thể trừ được họa gió mưa sau này chăng? 
Dượng Đế đáp: 
- Khanh nói có lý lắm. 
Rồi gọi cận thần mang ngay cung tên đến. Dượng Đế cầm cung tên, vén tay áo bào, đặt tên vào mũi dây cung, nhằm thẳng vào bụng cá phóng mũi tên ra. Bỗng trên mặt nước, một trận gió lớn nổi lên, làn sóng nổi cao cuồn cuộn, ngập tràn bốn phía, chẳng khác gì có hàng vạn con cá hóa rồng đang nhào lộn giữa sóng; nước tràn sâu vào bờ đảo, đến nỗi Dượng Đế, Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân đều bị ướt cả xiêm y. Cả bọn hoảng kinh, hồn bay phách lạc. Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân vội tìm chỗ tránh. Dượng Đế cũng sợ hãi, chân đứng không vững, Viên Tử Yên vội chạy lại bên Dượng Đế trấn an: 
- Bệ hạ đứng cho vững. Đã có thiếp đây? 
Dượng Đế hoảng sợ định níu lấy Tử Yên, thì thấy Tử Yên lấy trong tay áo ra một vật trông tròn như quả trứng bằng gỗ, tay trái lôi ra một cuộn dây ngũ sắc bằng lụa, xâu sợi dây vào quả trứng gỗ xong. Tử Yên giang tay phải ném mạnh ra phía biển, gần chỗ con cá. Cá trông thấy, quay đầu lặn biến mất. 
Tử Yên thu lại sợi dây, gỡ quả trứng gỗ ra, lúc này Dượng Đế cũng đã trở lại bình tĩnh, lại gần Tử Yên, cầm quả trứng gỗ xem xét. Thì ra đó là một viên ngọc lấp lánh đủ năm màu. Dượng Đế hỏi: 
- Viên ngọc này dùng làm gì, làm sao mà thủy quái cũng phải sợ được? 
Tử Yên thưa: 
- Vật này cũng chính do ni cô già ngày xưa cho thiếp. Dặn thiếp đây là quả cầu "Thái Dịch hỗn thiên", mà lúc còn ít tuổi ni cô đã luyện được, có thể kỵ tà khí, trừ được các loài thủy quái, lúc nào thiếp cũng đem bên mình, để phòng sự bất trắc. 
Đang nói thì Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân kéo tới. Dượng Đế thấy tình cảnh mọi người thì vừa ngạc nhiên, vừa sợ hãi, chả còn hứng thú lên núi chơi nữa. Tất cả lại lên thuyền rồng, trở về Bắc 
Hải. 
Mới lên đến bờ nam, đã thấy trung môn sứ Đoàn Đạt, quỳ dưới đất chờ sẵn, hai tay dâng một tờ tấu chương, tâu rằng: 
- Ở ngoài biên ải có văn thư khẩn cấp, thần không dám trễ nải, xin trình chúa thượng xem tường để còn định đoạt cho kịp. 
Dượng Đế cười phán: 
- Hiện nay bốn biển thanh bình, vạn phương đều đến triều cống, thì có việc gì khẩn cấp, mà các ngươi phải vội vàng tất tưởi đến thế! 
Tả hữu vội vàng vâng lệnh cầm tờ tấu dâng lên Dượng Đế mở ra xem, thì thấy trên viết rằng: 
“Biên ải tâu việc: Từ quận Hoằng Hóa cho chí vùng Quan Tả, mấy năm liền hạn hán, mất mùa. Giặc cướp nổi dậy như ong. Quận huyện không thể trừ nổi, xin sai tướng giỏi, lùng bắt kỳ hết, giữ yên dân tình." 
Dượng Đế xem xong liền phán: 
- Đây là bọn quan lại ở các quận huyện, giả dối bày đặt những chuyện này. Mai kia lại tâu rằng đã dẹp yên để lĩnh thưởng đây mà. 
Tiêu Hậu bàn: 
- Những việc như thế này, không thể tin hoàn toàn, cũng không thể không tin. Bệ hạ chỉ cần phái một viên tướng giỏi đến đó, là yên mọi chuyện thôi mà? 
Dượng Đế lại cầm tờ biểu thứ hai xem sao. Thì ra là hai bộ, bộ lại và bộ binh, tâu rõ về công việc vùng biên ải: 
"Lại, Binh hai bộ, hiệp sức tâu trình rõ thêm về công việc ngoại biên: mười ba quận vùng Quan Tả, lâu nay trộm cướp phát sinh. Quận huyện đều có văn thư xin tướng giỏi. Chúng thần xin tiến cử Vệ úy thiếu khanh Lý Uyên, thao lược hơn người, đảm đương được công việc giữ yên biên ải, đang giữ chức Lưu thú HoằngHóa, cất binh đánh dẹp các đám giặc này. Cúi xin thánh chỉ định đoạt. " 
Dượng Đế xem xong, liền cấm bút ngự phê như sau: 
"Lý Uyên nếu  thực tài như vậy, cho xung chức Lưu thú Hoằng Hóa, Tổng quản binh mã mười ba đạo vùng Quan Tả, tiễu trừ cho kỳ hết giặc cướp, trấn an trăm họ. Chờ có công sẽ ban thưởng. Các bộ phải biết thế!” 
Phê xong, Dượng Đế lại đưa cho Đoàn Đạt. Đoàn Đạt cũng vì việc vùng biên giới gấp rút, không dám trù trừ, lập tức vái lạy đi ra để kịp chuyển cho hai bộ Binh, bộ Lại. Lúc này Dượng Đế mới sực nhớ đến Lý Uyên, thuở xưa lúc đánh dẹp nhà Trần, đã tìm cách giết hại Trương Lệ Hoa như thế nào, hơn nữa là người mang họ Lý, chỉ sợ lại ứng với điềm trời với lời kệ, như thế thì sao lại giao binh quyền cho Lý Uyên. Đắn đo mãi trong lòng cũng muốn đòi lại thánh chỉ vừa đưa cho Đoàn Đạt, nhưng thấy thánh chỉ đã truyền, dẫu có thay người khác, cũng chưa tìm đâu ngay tướng giỏi. 
Âu đây cũng là ý trời vậy. Giữa lúc Dượng Đế do dự, Đoàn Đạt lại mang thêm một tờ biểu mới vào trình. Dượng Đế mở xem, thì ra là vùng Trường An dâng mỹ nhân. Dượng Đế xem ra, trong lòng khoan khoái, quên ngay chuyện phong chức Lưu thú Hoằng Hóa cho Lý Uyên, bèn hỏi ngay Đoàn Đạt: 
- Nếu đã có biểu dâng đây, thì mỹ nhân hiện đang ở đâu? 
Đoàn Đạt tâu: 
- Tâu bệ hạ, mỹ nhân hiện ngoài cửa ngự uyển, bởi chưa có thánh chỉ, không dám thiện tiện vào. 
Dượng Đế bèn sai gọi vào. Chẳng bao lâu, nội thị dẫn mỹ nhân vào. Thấy Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, mỹ nhân hoảng hốt quỳ lạy, lưng ong uốn éo, mặt hoa khẽ cúi. Dượng Đế nhìn kỹ, thì đúng là mười phần yểu điệu thướt tha, dáng dấp thanh cao. 


Có thơ làm chứng sau đây: 
Dáng tuyết hình mày vẻ diễm kiều 
Mười lăm, mười bảy đoán ra sao? 
Trăng non nhàn nhạt mày cong nhẹ 
Ráng sớm long lanh tóc uốn cao 
Đào kém tươi son môi chúm chím 

Lệ thua trong trắng, ngọc xiêu xiêu 
Ấy ai e lệ ngây thơ mấy 
Hớp cả hồn ai chuyện ghét yêu. 

Dượng Đế thấy mỹ nhân mười phần xinh đẹp, trong lòng hoan hĩ, lấy tay nâng dậy hỏi: 
- Khanh năm nay bao nhiêu tuổi, tên là gì? 
Mỹ nhân thưa: 
- Thiếp họ Viên, tiểu tự Bảo Nhi, tuổi vừa mười lăm. Phụ mẫu thiếp nghe nói chúa thượng kén ngự xa nữ (1), nên đem tiện thiếp tiến chúa thượng, xin chúa thượng thu nạp. 
1 Ngự xa nữ: người con gái đánh xe rồng cho vua, hoàng hậu, một cách nói nhún nhường chăng? 
Dượng Đế cười đáp: 
- Khanh hãy yên tâm, yên tâm, nhất định không phải trả về đâu! 
Rồi cùng Tiêu Hậu dẫn Bảo Nhi đến mười sáu viện. Mọi người thấy Dượng Đế vừa có thêm Bảo Nhi, vội vàng bày rượu chúc mừng, uống mãi tới nửa đêm. Tiễn Tiêu Hậu về cung, đêm ấy Bảo Nhi ngủ lại ở viện Thúy Hoa. 
Sáng ngày hôm sau, Dượng Đế ban cho Bảo Nhi làm mỹ nhân, từ đó về sau đi đâu cũng mang Bảo Nhi theo, mười phần yêu dấu. Bảo Nhi không vì được vua yêu mà kiêu ngạo, trái lại vẫn rất nhu mì, lúc nào cũng cười đùa vui vẻ, vì vậy Dượng Đế lại càng thích ý. Phu nhân các viện đều có thiện cảm tính tình Bảo Nhi, tận tình dạy Bảo Nhi ca hát, nhảy múa đi đứng. Bảo Nhi lại thông minh, nên chỉ dạy qua là thuộc.
Một hôm, trong viện, Dượng Đế ngủ trưa, Bảo Nhi từ trong viện đi ra tìm Chu Quý Nhi, Hàn Tuấn Nga, Hạnh Nương, Thỏa Nương tới. Hạnh Nương nói: 
- Ngày xuân như thế này, trăm hoa đua nở, chúng ta hãy cùng nhau chơi đấu cỏ gà có nên chăng? 
Thỏa Nương đáp: 
- Đấu cỏ gà, mà bốn bên đều toàn hoa cả, liệu kiếm đâu ra. Không được đâu, chi bằng hãy đi chơi đu tiên, lại được một trận cười khoái ý. 
Hàn Tuấn Nga cãi: 
- Không đâu! Không đâu! Chơi đu tiên sợ lắm. Tuấn Nga chẳng đi đâu! 
Chu Quý Nhi cất tiếng: 
- Chơi đu tiên đã đành không nên rồi. Chi bằng chúng ta kéo ra cầu Xích Lan câu cá là hay hơn cả. 
Viên Bảo Nhi nói: 
- Không đi được dâu, chẳng khi chúa thượng tỉnh giấc, gọi chúng ta, thì biết làm thế nào? Chi bằng ra hiên sau ca múa một hồi là hay nhất. 
Tất cả bằng lòng: 
- Thế thì hay hơn cả ! 
Rồi kéo nhau ra hiên sau, mở toang các cửa ra vào, cửa sổ, kéo rèm cửa lên, nhìn ra bên ngoài, muôn hồng nghìn tía. 

Ríu rít én về, rèm động bóng 
Ì ồm ếch gọi, cỏ thơm hồ.

Nguồn maxreading.com 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved