- Xin mời!
- Xin mời!
Hai kiếm sĩ quay
ngược lưỡi kiếm, tay phải cầm cán kiếm, tay trái úp lên tay phải, cúi mình hành
lễ.
Hai người đứng
chưa yên vị, đột nhiên một làn ánh sáng trắng nhấp nháy, tiếp theo một tiếng
“coong”, lưỡi kiếm chạm nhau, hai bên cùng lùi lại một bước. Những người chung
quanh ai nấy đều “ồ” lên một tiếng.
Kiếm sĩ áo xanh
liên tiếp tung ra ba chiêu, kiếm sĩ áo gấm đều gạt ra được. Người áo xanh rú
lên một tiếng dài, trường kiếm từ góc bên trái chém xuống, thế mạnh và nhanh.
Kiếm sĩ áo gấm thân thủ nhanh nhẹn, nhảy vọt về phía sau, tránh được nhát kiếm.
Chân trái y vừa chấm đất, thân hình đã vọt lên, liên tiếp đâm luôn hai kiếm,
công kích đối thủ. Kiếm sĩ áo xanh không chuyển động, nhếch mép cười gằn, vung
kiếm gạt ra.
Kiếm sĩ áo gấm
đột nhiên tung mình chạy quanh đối thủ, mỗi lúc một nhanh. Người áo xanh chăm
chú theo dõi mũi kiếm địch, mỗi khi địch động thủ lập tức vung kiếm gạt ra.
Người áo gấm bất thần lúc chuyển qua trái, lúc chuyển qua phải, thân pháp biến
huyễn bất định. Kiếm sĩ áo xanh chăm chú theo một lúc đã thấy mắt hoa, quát lên:
- Ngươi muốn tỉ
kiếm hay muốn bỏ chạy?
Y lách cách đâm
ra hai kiếm thẳng vào địch thủ. Thế nhưng người áo gấm chạy rất nhanh, khi kiếm
tới nơi thì y đã ra nơi khác, chung qui mũi kiếm vẫn cách y khoảng một thước.
Kiếm sĩ áo xanh
thu kiếm về che bên hông, chân phải hơi rùn xuống. Người áo gấm thấy ngay chỗ
hở, vung kiếm đâm vào vai trái kẻ địch. Nào ngờ đó chỉ là dụ chiêu của người áo
xanh, nên chỉ thấy kiếm vung lên một vòng, mũi kiếm nhanh nhẹn tuyệt luân đã
đâm thẳng vào yết hầu. Kiếm sĩ áo gấm sợ hãi khôn tả, trường kiếm vuột khỏi tay
phóng thẳng vào tâm oa địch thủ. Đó chẳng qua là kế sách chẳng đặng đừng hai
bên cùng chết, nếu như địch vẫn tiến tới, ngực ắt trúng kiếm. Trong tình thế
đó, đối phương ắt chỉ còn cách thu kiếm về đỡ, và y mới có đường thoát được
cảnh ngộ khó khăn.
Nào ngờ kiếm sĩ
áo xanh không không né tránh, cổ tay chỉ hơi động, xoẹt một tiếng mũi kiếm đã
đâm thẳng vào cổ họng địch thủ. Lại nghe keng một tiếng, trường kiếm người kia
ném ra đâm vào ngực y đã rơi xuống đất.
Kiếm sĩ áo xanh
cười hắc hắc mấy tiếng, thu kiếm về. Nguyên lai ngực y có mang một tấm hộ tâm
kính nên mũi kiếm tuy có trúng nhưng không hề bị thương. Yết hầu người áo gấm
máu vọt ra có vòi, thân thể dãy dụa không ngừng. Trong đám đồng bọn lập tức có
kẻ chạy ra khiêng thi thể đi và lau chùi vết máu.
Kiếm sĩ áo xanh
cho kiếm vào bao, tiến lên hai bước, cúi mình hành lễ với một vị vương gia ngồi
trên một chiếc ghế bọc gấm ở hướng bắc. Vị vương gia đó mặc áo bào màu tía,
hình dạng quái dị, cổ rất dài, mỏ nhọn như chim, mỉm cười, tiếng như ngựa hí:
- Tráng sĩ kiếm
pháp tinh diệu, ban cho mười cân vàng.
Người áo xanh quì
chân phải xuống, cúi mình tạ lễ:
- Tạ thưởng!
Vị vương gia đó vung tay một cái, từ bên phải y một vị quan cao gầy, trạc ngoài bốn mươi, hô lớn:
- Kiếm sĩ hai
nước Ngô Việt, tỉ thí lần thứ hai!
Từ phía đông
trong phe người áo gấm, một hán tử thân hình to cao, tay cầm một thanh đại kiếm
bước ra. Thanh kiếm dài đến hơn năm thước, thân kiếm rất dày, hiển nhiên nặng
nề khác thường. Phía tây cũng bước ra một kiếm sĩ áo xanh, người tầm thước,
trên mặt đầy những vết sẹo ngang dọc tính ra phải đến mười hai mười ba nhát
chém, chỉ mới nhìn cũng biết hẳn là tay đã từng trải qua không biết bao nhiêu
trận đấu. Hai người hướng về vị vương gia quì xuống hành lễ, rồi chuyển mình
đứng đối diện nhau, cúi mình chào.
Người áo xanh
đứng thẳng người, nhếch mép cười một cách ác độc. Mặt y vốn dĩ đã mười phần xấu
xí, nay điểm thêm nụ cười, trông lại càng khó coi. Kiếm sĩ áo gấm thấy hình
dáng y như ma quỉ, không khỏi lạnh người, thở hắt ra một tiếng, từ từ đưa tay
trái ra nắm lấy chuôi kiếm.
Kiếm sĩ áo xanh
đột nhiên rú lên một tiếng dài, nghe như tiếng cho sói tru, vung kiếm nhắm địch
thủ đâm tới. Người áo gấm cũng hú lên một tiếng, vung thanh đại kiếm nhắm kiếm
của địch gạt ra. Kiếm sĩ áo xanh nghiêng người né tránh, trường kiếm đảo từ
trái sang phải một vòng. Người áo gấm hai tay cầm kiếm múa lên khiến có tiếng
kêu vù vù. Thanh đại kiếm đó ít ra cũng phải nặng đến năm mươi cân, nhưng chiêu
số của y hết sức nhanh nhẹn.
Hai người ra sức
chiến đấu thoắt đã trên ba mươi chiêu, kiếm sĩ áo xanh bị thanh đại kiếm trầm
trọng áp đảo phải liên tục lùi bước. Hơn năm mươi người áo gấm đứng ở phía tây
lộ vẻ mừng ra mặt, xem ra trận đấu này bên họ ắt sẽ thắng.
Chỉ nghe thấy
kiếm sĩ áo gấm quát lên một tiếng như sấm sét, vung thanh đại kiếm chém ngang.
Kiếm sĩ áo xanh không cách nào tránh né, đánh vung trường kiếm hết sức gạt ra.
Chỉ nghe keng một tiếng, hai thanh kiếm đụng vào nhau, nửa thanh đại kiếm gãy
văng ra ngoài. Nguyên lai thanh kiếm của gã áo xanh sắc bén vô tỉ, đã chặt đứt
kiếm đối phương thành hai đoạn. Thanh kiếm tiếp tục đi thêm một vòng chém xuống
vạch một đường dài đến hai thước cắt từ yết hầu cho tới tận bụng dưới người áo
gấm. Kiếm sĩ áo gấm rống lên từng hồi, lăn quay ra đất. Người áo xanh cúi nhìn
thân hình to lớn của nạn nhân một hồi rồi tra kiếm vào vỏ, quì xuống hướng về
vị vương gia hành lễ, trên mặt không dấu được vẻ đắc ý.
Viên quan kế bên
vị vương gia nói:
- Tráng sĩ kiếm
đã sắc bén mà nghệ thuật lại tinh tường, đại vương ban cho mười cân vàng.
Kiếm sĩ áo xanh
tạ ơn lui về.
Bên cánh phía tây
đứng một hàng tám người kiếm sĩ áo xanh, đối phó với hơn năm chục người kiếm sĩ
áo gấm, hai bên nhân số chênh lệch thấy rõ.
Viên quan đó lại
chậm rãi nói:
Kiếm sĩ hai nước
Ngô Việt, tỉ đấu lần thứ ba!
Trong hai đội
kiếm sĩ, mỗi bên lại có một người bước ra, hướng vào vị vương gia cúi đầu hành
lễ xong đứng đối diện nhau. Đột nhiên một ánh sáng xanh chói mắt, ai nấy đều
cảm thấy một hơi lạnh phả vào người. Trong tay kiếm sĩ áo xanh đã thấy một
thanh kiếm dài chừng ba thước, rung động không ngừng, trông chẳng khác gì một
giải lụa xanh lấp lánh. Viên quan khen ngợi:
- Kiếm tốt lắm!
Kiêm sĩ áo xanh
hơi khom mình tạ ơn khen ngợi. Viên quan lại nói tiếp:
- Một người đánh
một đã xem qua hai trận, lần này đánh đôi!
Trong đội áo gấm
một người nữa bước ra, rút kiếm ra khỏi vỏ. Thanh kiếm đó sáng loáng như nước
mùa thu, mới trông cũng biết là sắc bén. Trong đội áo xanh cũng bước ra thêm
một người. Bốn người sau khi hướng về phía vị vương gia hành lễ, quay lại chào
nhau. Chỉ thấy kiếm quang lấp lánh, trận đấu đã bắt đầu.
Trận đấu đôi này,
kiếm sĩ cùng bên có thể phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau. Chỉ mới vài hiệp, nghe keng
một tiếng, một thanh kiếm của phe áo gấm đã bị địch thủ chém gãy. Thế nhưng
người đó vẫn rất hùng hổ, vung nửa thanh kiếm còn lại nhảy xổ vào địch thủ.
Trường kiếm của gã kiếm sĩ áo xanh lại lấp lánh, chỉ nghe xoẹt một tiếng, cánh
tay bên phải của y bị chém đứt đến tận vai, tiếp theo thêm một kiếm đâm ngập
vào giữa tâm oa.
Hai người bên kia
vẫn đấu liên tục không ngừng, không để ý đến kiếm sĩ áo xanh đắc thắng đứng
rình bên cạnh. Bỗng dưng trường kiếm của y vung ra, xoẹt một tiếng chém đứt làm
đôi thanh kiếm trong tay người áo gấm. Thanh kiếm đó lại đâm thẳng tới ngập
thẳng vào ngực, xuyên qua tới tận sau lưng.
Vị vương gia cười
ha hả, vỗ tay:
- Kiếm đã sắc mà
kiếm pháp cũng rất hay! Mau thưởng rượu, thưởng vàng! Để bốn người đấu bốn
người xem thế nào!
Hai bên mỗi đội
lại bước ra bốn người, hành lễ xong rút kiếm đấu. Bên phe áo gấm thua liền ba
trận, chết mất bốn người nên kỳ này bốn người ra đấu hết sức liều mạng, nhất
quyết phải thắng một lần. Chỉ thấy hai người áo xanh phân hai bên tả hữu giáp
công một người áo gấm, còn lại ba người áo gấm xông vào tấn công khiến hai
người áo xanh phải liên tiếp đỡ gạt. Hai người áo xanh chỉ toàn thế thủ, chiêu
số nghiêm mật nhưng không đánh trả chiêu nào khiến cho ba người áo gấm không
cách gì giúp đỡ lẫn nhau. Còn lại hai người áo xanh đánh một, chỉ trong mươi
chiêu đã giết được đối thủ, rồi lại tiếp tục tấn công một người áo gấm khác.
Hai người áo xanh kia vẫn theo kiểu cũ, chỉ thủ mà không công, cầm chân hai
người áo gấm, để cho đồng bọn hai người đánh một giết chết kẻ địch.
Hai tay nâng hộp
kiếm lên để cho Câu Tiễn đặt vào, lùi lại mấy bước, quay lại đi đến trước mặt
một kiếm sĩ áo gấm, cầm kiếm ra, nó:
- Sư phụ người là
Âu Trị Tử từng phụng mệnh tiên vương đúc ra năm thanh kiếm. Năm thanh kiếm đó,
tốt xấu thế nào nói ta nghe thử xem nào?
- Đại vương quả sáng suốt có thể nhìn xa vạn dặm. Phong
sư huynh sau cùng thưa thật với Ngũ Tử Tư là y không có tài cán gì ngoài tài
đúc kiếm, nay được đãi đằng hậu như thế xin đúc vài thanh bảo kiếm dâng tặng.
Những người áo
gấm đứng xem thấy bên mình chỉ còn có hai người, ai thắng ai thua đã thấy rõ,
nên thảy đều cất tiếng la ó, rút kiếm định xông vào chém chết cả tám người áo
xanh.
Viên quan vội lớn
tiếng:
- Những người học
kiếm phải biết tuân theo kiếm đạo!
Thần khí và âm
thanh của y có một uy lực khiến cho phe áo gấm lập tức phải lắng ngay xuống.
Bấy giờ mọi người ai nấy đền thấy rõ, bốn người kiếm sĩ áo xanh, kiếm pháp
không đồng, hai người thủ thế hết sức nghiêm nhặt, còn hai người công thế lại
hết sức độc địa, chia hai bên tấn công vào. Kẻ thủ chỉ cốt cầm chân đối phương,
giữ được một người đều cho người giữ thế công lấy nhiều thắng ít, theo lối tằm
ăn dâu. Cứ theo cách thức ấy thì dù đối phương võ công có cao bao nhiêu, phe áo
xanh cũng khó mà thắng được. Không nói gì bốn người đánh bốn người, mà lấy bốn
đánh sáu, đánh tám họ cũng có thể thắng. Hai người giữ thế thủ thi triển kiếm
chiêu trông như một mạng lưới, dù phải đối phó với năm, sáu người cũng vẫn
không sao.
Lúc đó trên đấu
trường, hai người kiếm sĩ áo xanh đang dùng thế thủ để cầm chân một người áo
gấm, còn bên kia hai người áo xanh khác nhanh nhẹn công kích giết thêm một
người áo gấm thứ ba, lập tức quay lại giáp công người còn lại. Hai người vốn
thủ thế lập tức lui ra đứng một bên quan sát. Người áo gấm còn lại tuy thấy
chắc chắn sẽ thua, nhưng không buông kiếm đầu hàng mà lại hết sức chiến đấu.
Đột nhiên bốn người kiếm sĩ áo xanh cùng hét lên một tiếng, bốn thanh kiếm cùng
đâm ra, phân ra trên dưới, trái phải, cùng trúng vào kiếm sĩ áo gấm.
Người áo gấm bị
đâm bốn nhát lập tức chết ngay, nhưng mắt vẫn mở trừng trừng, mồm há hốc. Bốn
người áo xanh cùng rút kiếm ra, giơ chân trái lên chùi kiếm vào giày cho sạch
vết máu, nghe cách một tiếng đã tra kiếm vào vỏ. Những động tác đó xem ra rất
nhanh nhẹn, nhưng phải nói cái khó là làm sao họ làm thật đều, cùng giơ chân
trái lên, cùng chùi vết máu, cùng tra vào bao, tất cả đều chỉ nghe một tiếng mà
thôi.
Vị vương gia cười
ha hả, vỗ tay:
- Hảo kiếm pháp,
hảo kiếm pháp! Kiếm sĩ của thượng quốc nổi danh thiên hạ, hôm nay quả thực cho
chúng ta được mở mắt. Ban cho bốn vị kiếm sĩ, mỗi người mười cân vàng.
Bốn người kiếm sĩ
áo xanh đồng loạt cúi mình tạ ơn. Cả bốn khom lưng, bốn cái đầu thành một đường
thẳng, không người nào cao, người nào thấp, không biết họ phải mất bao nhiêu
công phu mới luyện được đều như thế.
Một người áo xanh
tiến lên, bưng một chiếc hộp dài thếp vàng, nói:
- Vua bên tệ quốc
đa tạ hậu lễ của đại vương, sai thần dâng lên một thanh bảo kiếm để đáp lại.
Kiếm này tệ quốc mới đúc, mong đại vương thưởng ngoạn.
Vị vương gia nọ
cười đáp:
- Xin đa tạ. Phạm
đại phu, nhận lấy đưa ta xem nào!
Vị vương gia đó
là Việt vương Câu Tiễn. Viên quan đó là Việt quốc đại phu Phạm Lãi. Những kiếm
sĩ áo gấm là vệ sĩ trong cung của Việt vương, còn tám người kiếm sĩ áo xanh là
sứ giả của Ngô vương Phù Sai đưa lễ vật sang. Trước đây Việt vương bị Phù Sai
đánh bại, nằm gai nếm mật, rắp tâm báo cừu, tuy ngoài mặt đối với Ngô vương
mười phần cung thuận, nhưng ngày đêm không ngừng huấn luyện sĩ tốt, chờ cơ hội
đánh nước Ngô. Để thám thính quân lực Ngô quốc, y liên tiếp sai cao thủ trong
đám vệ sĩ ra đấu kiếm với kiếm sĩ nước Ngô, không ngờ mới có mấy trận đã chết
mất tám tay hảo thủ. Câu Tiễn vừa sợ, vừa tức, tuy mặt không động thanh sắc,
vẫn phải lộ vẻ tán thưởng tài ba kiếm khách nước Ngô.
Phạm Lãi tiến lên
mấy bước, đón lấy cái hộp vàng, chỉ thấy nhẹ bổng, giống như hộp không, lập tức
mở ra xem. Những người chung quanh không ai thấy được trong hộp có gì, chỉ thấy
mặt Phạm Lãi thoáng một ánh màu xanh mờ mờ phủ, đều kêu “a” lên một tiếng, lộ
vẻ kinh dị. Hiển nhiên là kiếm khí chiếu lên mặt khiến cho râu tóc, chân mày
đều mang sắc biếc.
Phạm Lãi bưng hộp
đến trước Việt vương, cúi mình tâu:
- Xin mời đại
vương xem!
Câu Tiễn thấy hộp
trong lót gấm, đặt một thanh kiếm dài chừng ba thước, thân kiếm thật mỏng, mũi
kiếm lóng lánh, biến huyễn vô chừng, buột miệng khen:
- Kiếm tốt thực!
Việt vương cầm
lên xem, chỉ thấy mũi kiếm liên tiếp rung động, tưởng chừng như chỉ lắc nhẹ một
cái, kiếm sẽ gẫy ngay, bụng nghĩ thầm:
- Kiếm này mỏng
manh như thế, chắc chỉ cầm chơi, không dùng được vào việc gì!
Người đứng đầu
toán kiếm sĩ áo xanh rút trong bọc ra một mảnh lụa mỏng, tung thẳng lên trời
rồi nói:
- Xin đại vương
giơ ngang kiếm ra, lưỡi kiếm hướng lên. Đợi cho lụa rơi trên kiếm, sẽ thấy kiếm
này không phải như kiếm thường!
Chỉ thấy mảnh lụa
mỏng từ lưng chừng không vật vờ bay, Việt vương giơ tay ra, lụa rơi ngay trên
thanh kiếm. Nào ngờ miếng lụa không ngưng lại mà tiếp tục rơi, nhẹ nhàng đậu
trên mặt đất. Hóa ra vuông lụa đã bị cắt thành hai, kiếm sắc như thế không ai
có thể ngờ được. Điện trên điện dưới tiếng hoan hô vang động.
Kiếm sĩ áo xanh
nói tiếp:
- Kiếm này tuy
mỏng mảnh thật, nhưng đụng với kiếm nặng nề khác không bị gãy đâu!
Câu Tiễn nói:
- Phạm đại phu,
đem ra thử xem nào!
Phạm Lãi đáp:
- Vâng!
- Rút kiếm ra thử
coi!
Kiếm sĩ cúi mình
hành lễ, rút kiếm đeo trên mình ra, giơ lên trên cao không dám hạ thủ. Phạm Lãi
hét to:
- Chém xuống!
Kiếm sĩ áo gấm
thưa:
- Vâng!
Gã vung thanh
kiếm ra trước mặt. Phạm Lãi giơ kiếm ra gạt, chỉ nghe keng một tiếng nhỏ,
trường kiếm của kiếm sĩ áo gấm đã đứt làm đôi. Nửa thanh kiếm rơi xuống tưởng
như văng vào Phạm Lãi. Phạm Lãi nhẹ nhàng nhảy qua tránh được. Mọi người ai nấy
đều ồ lên một tiếng, không hiểu tán thưởng thanh kiếm sắc bén hay khen ngợi
thân thủ nhanh nhẹn của Phạm đại phu.
Phạm Lãi đặt lại
kiếm vào hộp, cúi mình đặt xuống bên chân Việt vương. Câu Tiễn nói:
- Xin mời kiếm sĩ
thượng quốc ra ngoài ăn yến lãnh thưởng!
Tám người kiếm sĩ
áo xanh hành lễ xuống điện. Câu Tiễn vung tay một cái, các kiếm sĩ áo gấm cùng
tất cả thị vệ lập tức lui ra, chỉ còn lại một mình Phạm Lãi.
Câu Tiễn nhìn
thanh kiếm dưới chân, lại nhìn máu tươi còn loang đầy mặt đất, xuất thần hồi
lâu mới hỏi:
- Nghĩ sao?
Phạm Lãi nói:
- Kiếm thuật võ
sĩ nước Ngô không phải ai cũng tinh thông như tám gã này. Binh khí võ sĩ nước
Ngô, không chắc ai ai cũng đã sắc bén như vậy. Tuy nhiên cứ xem đây cũng đủ.
Cái đáng lo nhất là thuật chiến đấu đông người của bọn họ, biết áp dụng Tôn tử
binh pháp một cách khéo léo, thần xem hiện nay quả là vô địch thiên hạ.
Câu Tiễn trầm
ngâm rồi nói:
- Phù Sai sai tám
người này sang dâng bảo kiếm, đại phu thử nghĩ y có ý định gì?
Phạm Lãi tâu:
- Y muốn cho mình
thấy khó khăn mà nản lòng, không để tâm xâm phạm nước Ngô báo cừu.
Câu Tiễn giận dữ,
cúi mình lấy thanh bảo kiếm trong hộp ra, vung tay một cái, chỉ nghe một tiếng
soạt đã chém đứt một bên ghế ngồi, lớn tiếng nói:
- Dù có muôn vàn
khó khăn thì Câu Tiễn này cũng không vì sợ khó mà lùi bước. Rồi sẽ có ngày ta
bắt được Phù Sai, dùng ngay thanh kiếm này chém đầu nó!
Nói xong lại vung
kiếm lên chặt làm đôi một cái ghế bằng gỗ đàn khác.
Phạm Lãi khom
lưng nói:
- Xin chúc mừng
đại vương, chúc mừng đại vương!
Câu Tiễn ngạc
nhiên:
- Trước mắt thấy
đám võ sĩ nước Ngô tài nghệ như thế, có gì mà mừng mà vui?
Phạm Lãi nói:
- Đại vương nói
là dù có muôn vàn khó khăn cũng không lùi bước. Nếu như đại vương quả có quyết
tâm như thế, đại sự sẽ thành. Việc khó khăn trước mắt ngày hôm nay, nên mời
thêm Văn đại phu đến cùng nhau thương nghị.
Câu Tiễn nói:
- Hay lắm, ngươi
ra truyền lệnh mời ngay Văn đại phu đi.
Phạm Lãi đi ra
khỏi điện, truyền lệnh cho thái giám đi mời đại phu Văn Chủng, tự mình đứng
ngay bên cửa để chờ. Chẳng mấy chốc, Văn Chủng đã phi ngựa đến cùng sánh vai
với Phạm Lãi vào cung.
*
* *
Phạm Lãi vốn
người đất Uyển nước Sở, tâm tính phóng khoáng không nệ tiểu tiết, làm gì cũng
không ai đoán nổi ý tứ, người xứ đó ai cũng gọi y là "gã Phạm khùng".
Khi Văn Chủng làm huyện lệnh đất Uyển, nghe tên Phạm Lãi, nên sai bộ thuộc đến
thăm. Gã bộ thuộc gặp Phạm Lãi rồi về trình:
- Tên này là tên
khùng nổi tiếng ở vùng này, ăn nói lung tung chẳng đâu vào đâu.
Văn Chủng cười:
- Người nào hành
sử không giống người khác, ắt bị người đời chê cười là phá rối, có ý kiến cao
minh hơn người thì bị chê là hồ đồ. Các ngươi làm thế nào mà hiểu nổi Phạm tiên
sinh được.
Rồi tự mình đến
thăm Phạm Lãi. Phạm Lãi tránh mặt không gặp nhưng liệu rằng Văn Chủng sẽ quay
lại lần nữa nên mượn áo khăn của anh, ăn mặc chỉnh tề ngồi đợi. Quả nhiên chẳng
bao lâu Văn Chủng lại đến. Hai người gặp nhau, đàm luận hồi lâu về đạo vương
bá, tâm đầu ý hợp, cứ tiếc là gặp nhau quá trễ.
Hai người biết
rằng đất trung nguyên tình hình ngày càng thêm căng thẳng, nước Sở tuy lớn
nhưng loạn, trước mắt thấy làm nên nghiệp bá ắt tại đông nam. Thành thử Văn
Chủng từ quan, cùng Phạm Lãi đến nước Ngô. Lúc ấy Ngô vương đang trọng dụng Ngũ
Tử Tư, nói gì nghe nấy, thế nước đang thời hưng vượng.
Phạm Lãi và Văn
Chủng lưu lại kinh thành Cô Tô mấy tháng, thấy các chính sách của Ngũ Tử Tư đưa
ra trị quốc hết sức trác tuyệt, xét ra mình không dễ gì hơn được y. Hai người
thương nghị với nhau, nhận rằng nước Việt ở ngay cạnh nước Ngô, phong tục tương
tự, đất đai tuy nhỏ hơn, nhưng cũng có thể đủ chỗ thi thố tài năng, nên rủ nhau
đến đó. Câu Tiễn gặp hai người, sau khi đàm luận tỏ ra kính phục, nên đều phong
họ làm đại phu.
Nhưng Câu Tiễn
không nghe lời Văn Chủng, Phạm Lãi khuyên nhủ đem quân đánh Ngô, dùng Thạch Mãi
làm tướng, bị đại bại trên bờ sông Tiền Đường. Câu Tiễn bị vây ở Cối Kê toan tự
vận. Trong khi nguy cấp, Văn Chủng, Phạm Lãi hiến kế đem tiền mua được Thái Tể
nước Ngô là Bá Hi để thay Việt vương trần tình. Ngô vương Phù Sai không nghe
lời Ngũ Tử Tư, thuận cho Việt vương cầu hòa, chỉ bắt Câu Tiễn về nước Ngô nhưng
sau cũng thả. Từ đó Việt vương nằm gai nếm mật, quyết chí phục hận, thi hành
chín chính sách do Văn Chủng thảo ra để diệt Ngô.
Chín chính sách
đó thứ nhất là tôn trời đất, kính quỉ thần để Câu Tiễn nung nấu cái tâm tất
thắng. Thứ hai là đem tiền bạc, của cải đem cống tặng vua Ngô để cho vua Ngô
quen thói xa xỉ mà quên việc đề phòng nước Việt. Thứ ba là qua nước Ngô vay
lương, sau lấy thóc đã nấu chín đem trả. Ngô vương thấy thóc tốt nên phát cho
dân làm giống, gieo không nảy mầm khiếm dân Ngô bị đói. Thứ tư là đem hai mỹ
nữ, Tây Thi và Trịnh Đán dâng lên Phù Sai, để cho vua nước Ngô mê luyến nữ sắc,
không lo gì đến chính sự. Thứ năm là cống những thợ khéo để khiến cho Ngô vương
hao tài tốn của trong việc xây cất cung thất, điện đài. Thứ sáu là đút lót cho
bọn gian thần, tay chân Ngô vương để họ làm bại hoại triều chính. Thứ bảy là
tìm cách ly gián Phù Sai với các trung thần, để đến nỗi sau này Ngô vương ép
Ngũ Tử Tư tự sát. Thứ tám là tích súc lương thảo, làm cho dân giàu nước mạnh.
Thứ chín là rèn đúc võ khí, huấn luyện sĩ tốt, chờ cơ hội đánh nước Ngô.
Tám thuật trên
đều thành công, riêng có việc thứ chín nay gặp khó khăn. Trước mắt thấy Ngô
vương sai tám kiếm sĩ sang, binh khí đã sắc bén, kiếm thuật lại tinh tường,
kiếm sĩ nước Việt khó mà thủ thắng.
Phạm Lãi đem cuộc
tỉ kiếm vừa qua kể lại cho Văn Chủng. Văn Chủng nhíu mày nghĩ ngợi:
- Này Phạm hiền
đệ, kiếm sĩ nước Ngô, kiếm sắc thuật tinh, đã khó đối phó nhưng nếu họ lại còn
biết đem binh pháp Tôn Tử áp dụng vào quần đấu, cái đó mới thực là khó khăn.
Phạm Lãi đáp:
- Chính thế, thời
trước Tôn Võ Tử phò tá Ngô Vương, cầm quân phá Sở, đánh vào Dĩnh Đô, dùng binh
như thần, thiên hạ không ai bì kịp. Nước Tề, nước Tấn tuy lớn mà cũng không
nước nào dám chống lại Ngô. Binh pháp Tôn Tử có viết: Ngã chuyên vi nhất, địch
phân vi thập, thị dĩ thập công kỳ nhất dã, tắc ngã chúng nhi địch quả. Năng dĩ
chúng địch quả giả, tắc ngô chi sở dữ chiến giả, ước hĩ (Nếu như ta tập trung
làm một mà địch chia ra thành mười, ta lấy mười chống một, tức là ta đông mà
địch ít. Ta dùng nhiều chống ít, người nào đánh với ta ắt phải ở thế nguy)[1].
Bốn người bên Ngô đánh với bốn người bên mình, họ lấy hai chống một, tức là lấy
đông đánh ít, làm gì mà không thắng.
Hai người còn
đang bàn luận thì đã đến trước mặt Việt Vương. Chỉ thấy Câu Tiễn tay vẫn còn
cầm thanh kiếm mỏng như lá lúa, bần thần như người mất hồn.
Một hồi lâu, Câu
Tiễn mới ngửng lên hỏi:
- Này Văn đại
phu, trước đây nước Ngô có vợ chồng Can Tương, Mạc Tà, giỏi nghề đúc kiếm. Nước
Việt ta cũng có Âu Trị Tử là thợ giỏi, tài cũng chẳng kém gì. Thế nhưng ngày
nay, cả ba người Can Tương, Mạc Tà, Âu Trị Tử chẳng ai còn sống. Nước Ngô có
cao thủ đúc kiếm tài giỏi như thế, chẳng lẽ nước Việt ta từ khi Âu Trị Tử chết
đi, không còn ai nữa à?
Văn Chủng đáp:
- Thần nghe Âu Trị
Tử có hai người đồ đệ, một người là Phong Hồ Tử, một người là Tiết Chúc. Phong
Hồ Tử nay ở nước Sở, Tiết Chúc vẫn còn ở nước Việt ta.
Câu Tiễn mừng
quá, nói:
- Đại phu mau mau
mời Tiết Chúc đến đây, lại phái người sang nước Sở mang tiền bạc đón Phong Hồ
Tử trở về nước Việt.
Văn Chủng tuân
lệnh lui về.
Sáng sớm hôm sau,
Văn Chủng vào triều báo tin đã sai người sang Sở, Tiết Chúc cũng đã được lệnh
vào chầu. Câu Tiễn vừa gặp Tiết Chúc, liền hỏi:
Tiết Chúc khấu
đầu:
- Tiểu nhân từng
nghe tiên sư nói là trước đây phụng mệnh tiên vương đúc năm thanh kiếm, gồm có
ba thanh kiếm lớn, hai thanh kiếm nhỏ. Thanh thứ nhất tên là Trạm Lư, thanh thứ
hai là Thuần Quân, thanh thứ ba là Thắng Tà, thanh thứ tư là Ngư Trường, thanh
thứ năm là Cự Khuyết. Hiện nay Trạm Lư đang ở nước Sở, Thắng Tà, Ngư Trường ở
nước Ngô, Thuần Quân, Cự Khuyết đang ở trong cung của đại vương.
Câu Tiễn gật đầu:
- Chính thế!
Nguyên lai trước
đây khi nghe tin Việt vương Doãn Thường đúc được năm thanh kiếm, Ngô vương hay
tin sai người sang đòi. Doãn Thường thấy nước Ngô mạnh, đành phải đem ba thanh
Trạm Lư, Thắng Tà, Ngư Trường đem cống. Về sau Ngô Vương Hạp Lư đem thanh Ngư
Trường đưa cho Chuyên Chư hành thích Vương
Liêu. Thanh kiếm Trạm Lư bị rơi xuống nước, sau Sở vương tìm được. Vua nước Tần
nghe tin đòi không được nên đem quân đánh Sở nhưng Sở vương nhất định không
giao.
Tiết Chúc bẩm:
- Tiên sư từng
nói là trong năm thanh kiếm thì thanh Thắng Tà là hạng nhất, Thuần Quân, Trạm
Lư là thứ hai, rồi đến Ngư Trường. Cự Khuyết đứng hạng chót. Khi đúc thanh Cự
Khuyết, vàng và đồng không hợp được với nhau nên Cự Khuyết chỉ sắc bén chứ
không phải là bảo kiếm.
Câu Tiễn nói:
- Thế ra hai
thanh Thuần Quân, Cự Khuyết của ta không địch được với Thắng Tà, Ngư Trường của
vua Ngô ư?
Tiết Chúc sợ hãi:
- Tiểu nhân nói
thẳng, đáng chết, xin đại vương thứ tội.
Câu Tiễn trầm
ngâm không nói, nhưng cứ như lời Tiết Chúc thì hai thanh kiếm nước Việt không
thể so được với hai thanh kiếm nước Ngô.
Phạm Lãi chen
vào:
- Tiên sinh học
được nghệ thuật của tôn sư, vậy thử xây lò đúc kiếm, đúc vài thanh bảo kiếm, lẽ
gì không sánh được với kiếm nước Ngô.
Tiết Chúc nói:
- Xin thưa với
đại phu, tiểu nhân không đúc kiếm được.
Phạm Lãi hỏi:
- Chẳng hay vì cớ
gì?
Tiết Chúc đưa hai
bàn tay ra, chỉ thấy cả hai bên ngón tay cái và ngón tay trỏ đều cụt lủn, hai
bàn tay chỉ có sáu ngón tay. Tiết Chúc điềm nhiên nói:
- Muốn có kình
lực đúc kiếm phải có sức của hai ngón cái, ngón trỏ. Tiểu nhân là kẻ tàn phế
không thể làm được.
Câu Tiễn ngạc
nhiên hỏi:
- Bốn ngón tay
ngươi phải chăng bị kẻ thù chặt đứt?
Tiết Chúc đáp:
- Không phải kẻ
thù, mà chính là sư huynh của tiểu nhân chặt đấy.
Câu Tiễn lại càng
lạ lùng:
- Sư huynh của
ngươi là Phong Hồ Tử phải không? Tại sao y lại chặt đứt tay ngươi? A, chắc là
thuật đúc kiếm của ngươi trội hơn y, nên y mang lòng đố kỵ, chặt ngón tay ngươi
để ngươi không thể đúc kiếm được nữa.
Tiết Chúc không
muốn nói về chuyện của sư huynh, chỉ im lặng không đả động gì đến lời suy
nghiệm của Câu Tiễn. Câu Tiễn nói tiếp:
- Quả nhân bản
tâm muốn sai người sang Sở đón Phong Hồ Tử về. E rằng y sợ ngươi báo thù nên
chắc không chịu về.
Tiết Chúc thưa:
- Xin đại vương
lượng xét, Phong sư huynh hiện nay đang ở nước Ngô chứ không phải ở nước Sở.
Câu Tiễn giật
mình, hỏi:
- Y … y ở nước Ngô ư? Tại Ngô làm gì thế?
Tiết Chúc thưa:
- Ba năm trước đây, Phong sư huynh có đến nhà của tiểu
nhân, đưa cho coi một thanh bảo kiếm. Tiểu nhân vừa nhìn thấy liền giật mình,
hóa ra đó là một thanh kiếm báu mà tiên sư Âu Trị Tử trước đây đúc tại nước Sở,
tên là Công Bố, trên thân kiếm có văn như dòng nước chảy, từ cán đến tận mũi,
chỉ một đường không đứt đoạn. Tiểu nhân đã từng nghe tiên sư nói qua nên thoạt
trông đã biết ngay. Hồi đó tiên sư phụng mệnh Sở vương đúc ba thanh kiếm, một
là Long Uyên, hai là Thái A, ba là Công Bố. Sở vương thích lắm, không hiểu vì
sao lại lọt vào tay sư ca.
Câu Tiễn nói:
- Chắc là Sở vương ban cho sư huynh ngươi đó!
Tiết Chúc thưa:
- Nói là Sở vương ban cho thì cũng không sai, nhưng đã
qua tay hai người rồi. Theo lời Phong sư huynh, sau khi tướng nước Ngô đem quân
phá Sở rồi, Ngũ Tử Tư đào mả Sở Bình vương lên lấy roi đánh vào tử thi, mới
thấy trong mộ có thanh kiếm này. Khi về lại nước Ngô, nghe đến danh Phong sư
huynh, nên y mới đem kiếm này tặng cho, nói là vốn của tiên sư đúc nên nay đưa
cho Phong sư huynh gìn giữ.
Câu Tiễn giật mình:
- Ngũ Tử Tư dám đem kiếm báu cho người khác, quả thực khí
độ anh hùng, quả thực anh hùng!
Bỗng dưng cười ha hả:
- May là Phù Sai trúng kế của ta, ép được y tự sát, ha
ha, ha ha!
Câu Tiễn cười không ai dám lên tiếng. Một hồi lâu sau, y
mới hỏi:
- Ngũ Tử Tư đem thanh Công Bố tặng cho sư huynh ngươi để
sai y làm gì?
Tiết Chúc thưa:
- Theo lời Phong sư huynh thì khi đó Ngũ Tử Tư chỉ nói là
vì ngưỡng mộ tiên sư, chứ không đòi gì cả. Phong sư huynh được thanh bảo kiếm,
trong lòng cảm kích, nghĩ là Ngũ tướng quân dám đem một vật báu hi hữu thế gian
đem tặng cho mình, không thể không tự mình đến gặp mặt tạ ơn. Cho nên y mới
sang nước Ngô, đến nhà Ngũ Tử Tư, được Ngũ tướng quân dùng lễ thượng tân đãi
đằng, lưu lại trong dinh, hết sức nồng hậu.
Câu Tiễn nói:
- Ngũ Tử Tư khiến cho người khác phải đem tính mạng ra hi
sinh cho mình, đều dùng thủ đoạn đó. Trước đây y sai Chuyên Chư hành thích
Vương Liêu, ắt cũng như thế.
Tiết Chúc nói:
- Đại vương liệu sự như thần. Thế nhưng Phong sư huynh
nào biết được âm mưu của Ngũ Tử Tư, sau khi thụ ân hậu hĩ như vậy, trong lòng
hết sức cảm kích, mới hỏi xem mình có thể làm được việc gì. Ngũ Tử Tư trước sau
chỉ nói: “Các hạ nhọc lòng đến nước Ngô, là khách quí của nước Ngô, không dám
nhờ nhõi gì cả”.
Câu Tiễn chửi:
- Tên già gian xảo, y lấy thoái làm tiến đấy mà.
Tiết Chúc thưa:
Câu Tiễn vỗ đùi nói:
- Có thế chứ!
Tiết Chúc nói tiếp:
- Ngũ Tử Tư lại nói là nước Ngô bảo kiếm cũng đã nhiều,
chẳng cần đúc thêm làm gì nữa. Đúc kiếm cực kỳ hao tổn tâm lực, ngày xưa Can
Tương, Mạc Tà đúc kiếm không thành, Mạc Tà phải nhảy vào trong lò đúc, bảo kiếm
mới đúc xong. Cái thảm sự đó nhất định không để cho lại xảy ra nữa.
Câu Tiễn lạ lùng:
- Y quả thực không mong Phong Hồ Tử đúc kiếm cho y ư? Thế
thì lạ thật.
Tiết Chúc thưa:
- Lúc đó Phong sư huynh cũng lấy làm lạ. Một hôm, Ngũ Tử
Tư lại đến tân quán cùng Phong sư huynh nhàn đàm, mới nói tới chuyện nước Ngô
cùng các nước ở phương Bắc như nước Tề, nước Tấn tranh bá đồ vương, tuy chiến
sĩ nước Ngô dũng khí có thừa, ngặt là dùng xe chiến đấu lại có chỗ chẳng kịp,
nếu như xảy ra bộ chiến, kiếm kích đang dùng cũng chẳng sắc bén bằng. Lúc đó
Phong sư huynh mới cùng y đàm luận về thuật đúc kiếm. Hóa ra cái việc mà Ngũ Tử
Tư muốn đúc, chẳng phải chỉ là một hai thanh bảo kiếm mà là hàng nghìn, hàng
vạn thanh kiếm sắc.
Câu Tiễn lúc đó mới tỉnh ngộ, không nhịn nổi phải kêu lên
“Oái chà” một tiếng đồng thời liếc mắt nhìn Văn Chủng, Phạm Lãi. Văn Chủng lúc
ấy mặt đầy nét lo, còn Phạm Lãi thì ngơ ngẩn như người mất hồn, bèn hỏi:
- Phạm đại phu, ý ngươi thế nào?
Phạm Lãi đáp:
- Ngũ Tử Tư tuy diệu kế đa đoan, không nói y đã chết rồi
mà nếu như có còn tại thế, cũng không thoát khỏi bàn tay đại vương.
Câu Tiễn cười:
- Hắc hắc, chỉ e quả nhân không phải đối thủ của Ngũ Tử
Tư đâu.
Phạm Lãi nói:
- Ngũ Tử Tư đã bị đại vương dùng xảo kế trừ đi rôi, không
lẽ y còn làm hại nước Việt được sao?
Câu Tiễn ha hả cười:
- Điều đó cũng
chẳng sai. Tiết Chúc, sư huynh ngươi nghe lời Ngũ Tử Tư, giúp y đúc kiếm chăng?
Tiết Chúc thưa:
- Chính thế. Thế
rồi Phong sư ca đi theo Ngũ Tử Tư đến xưởng đúc kiếm ở Mạc Can sơn, thấy hơn
một ngàn thợ đương rèn kiếm, nhưng phép tắc chưa thật là hay, nên đứng ra chỉ
điểm, thành ra từ đó kiếm nước Ngô sắc bén không nước nào bì kịp.
Câu Tiễn gật đầu:
- Hóa ra là như
thế!
Tiết Chúc nói
tiếp:
Đúc kiếm được một
năm, Phong sư ca làm việc quá độ nên tinh lực hao mòn, mới đem tên của tiểu
nhân nói cho Ngũ Tử Tư hay. Ngũ Tử Tư liền sửa soạn lễ vật, sai Phong sư ca đến
mời tiểu nhân qua nước Ngô, giúp Phong sư ca đúc kiếm. Tiểu nhân mới nghĩ rằng
thế hai nước Việt Ngô vốn dĩ thù nhau lâu đời, nước Ngô đúc được kiếm sắc,
chẳng cứ gì giết người Tề, người Tấn, mà còn giết luôn cả người Việt mình nữa,
nên mới khuyên Phong sư ca đừng trở lại nước Ngô nữa.
Câu Tiễn nói:
- Chính thế,
ngươi quả là người hiểu biết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét