Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

31 thg 10, 2013

Tùy Đường diễn nghĩa - Chữ Nhân Hoạch Hồi 25,26,27

HỒI 25

Lý Huyền Thúy gỡ nguy cứu bạn hiền,

Sài Tự Xương dốc bạc đút quan lớn.

Từ rằng: 
Cao xanh thử thách anh hào 
Vận đỏ chở che nghiệp lớn 
Bó tay tuấn kiệt 
Nhụt chí nam nhi 
Thành đồng bất chấp hiểm nguy 
Dạ sắt xem thường quyền thế 
Quyền thế, hiểm nguy nào xá kể 
Nặng ân tình xem nhẹ thân khu 
Vỗ gươm ca "thực vô ngư”(1) 
Sông chèo gõ nhịp, đêm chờ tiếng kê (2) 


Bến Dịch, Kinh Kha dựng tóc 
Chợ Hàn, Nhiếp Chính phô thây 
Huy hoàng hào khí vân nghê 
Tiền tài phấn thổ, đài mây danh đề. 

Theo điệu "Mãn giang hồng” 
1 Phùng Huyên, làm khách ở nhà Mạnh Thường Quân lúc đầu bị coi thường, Phùng Huyên hát: "Về đi thôi, ăn cơm không có cá..." về sau giúp Mạnh Thường Quân được nhiều việc. Xem thêm chú thích hồi thứ hai mươi tư (Chiến Quốc sách). 
2 Tổ Địch và Lưu Côn là hai bạn thân nghe gà gáy dậy múa gươm để khôi phục đất nước khỏi ách ngoại bang. Tổ Địch qua sông, gõ mạn thuyền hát, tỏ ý cương quyết diệt giặc ngoại xâm.

Xưa này tính mệnh các bậc trung thần nghĩa sĩ, mỗi khi gặp bước gian nan như không còn lối thoát, thì bỗng lại như được trời che đất chở, "tuyệt lộ phùng sinh", cho nên giữa lúc họ chưa tìm thấy đường sống, thì bỗng đâu cứu tinh xuất hiện, người quân tử vẫn hoàn bậc quân tử. 
Thúc Bảo lúc đầu cũng có bao giờ tính đến sẽ có Lý Huyền Thúy, Sài Tự Xương chu toàn cho, mà chính là trời đất chu toàn cho Thúc Bảo, vậy, nên mới dành sẵn hai vị cứu tinh ở đấy. Hôm ấy tiệc rượu cho đến tận nửa đêm, Hùng Tín cùng bạn bè kéo về Giả gia điếm nghỉ ngơi. Từ Hồng Khách thì về Nhan gia điếm chờ Thúc Bảo đưa thư đến, bọn Phàn Kiến Uy cũng ai về nhà nấy. 

Sáng sớm hôm sau, Hùng Tín đã giục Huyền Thúy cùng Tự Xương chạy đi lo chuyện cho Thúc Bảo. Hai người bèn mỗi người mỗi đường. Huyền Thúy đến tìm gặp Lai Tổng quản, nói rõ chuyện đến Tế Châu dự lễ mừng thọ gặp phải chuyện lôi thôi ra sao, nhờ Lai Tổng quản tìm cách kéo ra khỏi đám cháy, tránh khỏi chuyện vạ lây. Nghe xong mọi chuyện, Lai Tổng quản đáp: 
- Thúc Bảo là một võ tướng có khí phách, tiểu đệ cũng rất để ý nâng đỡ, chẳng may gặp phải chuyện này, chỉ riêng chuyện tìm cho ra người ra của cũng không phải là khó, nhưng phủ đường Tế Châu gây đủ chuyện phiền hà. Tiểu đệ cũng có thể kiếm một cớ nào đấy để đòi Thúc Bảo về, nhưng chỉ sợ Tế Châu vẫn không chịu cho về. 
Nghĩ ngợi một hồi, Lai Tổng quản nói tiếp: 
- Có thể vịn vào cớ này là tiện hơn cả: Mới rồi đây Ma Tổng quản đưa công văn đòi tới dưới trướng Ma Tổng quản năm trăm quân tướng, để làm việc đốc thúc xây dựng cung điện ở Lạc Dương, do công trình ngày càng nhiều người, nhiều việc. Nay tiểu đệ bổ nhiệm Thúc Bảo vào việc cầm đầu toán quân này, cấp văn thư cho Thúc Bảo đi ngay. Đây lại là công vụ rất khẩn cấp, Lưu Thái thú vẫn có muốn giữ cũng không dám. Nhược bằng Lưu Thái thú vẫn giữ, tiểu đệ sẽ có cách thương lượng: ban đầu thì bảo rằng Thúc Bảo thông đồng với bọn cướp, nên không chịu làm, sau đã trách phạt đến nơi, bọn cướp vẫn không tìm thấy. Ở phủ đường nguyên có cả hai đô đầu, một đội bắt cướp lâu nay, sao lại còn xin bằng được. Rồi lại tìm cách gây khó dễ cho gia tướng của soái phủ. Vịn cớ là tướng tâm phúc dưới trướng Tổng quản, gọi ngay Thúc Bảo về chuẩn bị nhung trang, hành lý, rồi làm văn thư đi ngay. 
Lai Tổng quản cố giữ Huyền Thúy lại, nhưng Huyền Thúy một mực chối từ: 
- Chỉ xin đại huynh để ý chu toàn cho Thúc Bảo là tiểu đệ cảm tạ muôn phần rồi! 
Tuy thế Lai Tổng quản vẫn nhiệt tâm, khi công việc xong xuôi, mời Huyền Thúy lại soái phủ chơi vài ngày, chuyện trò, Huyền Thúy kiếm cớ từ tạ: 
- Chỉ ngại Lưu Thứ sử có công văn lên thẳng chỗ tổng lý Vũ Văn Khải, họ Vũ Văn tìm cách thẩm tra lại chuyện này, nên tiểu đệ cũng còn có việc phải lưu tâm, không thể ở lâu hơn được nữa. 
Lai Tổng quản bèn sai lấy lễ vật, lại tận Giả gia điếm đáp lễ, cùng đem quà biếu Huyền Thúy lên đường, tặng mấy trăm lạng bạc làm tiền lộ phí. Chuyện này của Thúc Bảo chính là: 

Lưới Thang mở ba mặt 
Khó bắt được chim hồng 
Thợ săn đành trố mắt 
Nhìn chòm mây bềnh bồng. (1) 

1 "Sử Ký": vua Thành Thang nhà ân thấy người bẫy chim đọc chú: "Trên bay xuống, dưới bay lên, ba bề bốn bên, vào lưới tao cả". Bắt bỏ đi ba mặt lưới, chỉ để một và bắt sửa lại cả câu chú . 

Nói chuyện Tự Xương đến gặp Lưu Thứ sử, Thứ sử cũng vì thấy Tự Xương là con rể của quan trực tiếp cai quản mình, nên nhất định bày tiệc rượu khoản đãi.

Trước tiên là Lưu Thứ sử kể chuyện mình cai quản Tế Châu trong sạch như nước thế nào, rồi sau đó đến việc nạp bạc vừa rồi không hề tư túi, cho nên hoàn toàn không một lời kêu ca, phàn nàn, cũng chẳng có chuyện mất mát, trách phạt gì cả. Không ngờ xảy ra chuyện phủ bên mất cướp ra sao, quan trên bắt phủ Tế Châu này bồi thường, bắt cướp thế nào, lâu nay tận tình điều tra, truy lùng mà vẫn không tăm hơi, đêm ngày lo lắng vất vả thật chẳng lúc nào yên. Tự Xương nghe xong, liền nhân đó nói: 
- Chính vì trong số những người bắt cướp có Tần Quỳnh, mà gần đây là công vụ tới Trường An, vốn cùng tiểu nhân đây là bạn bè “bát bái chi giao". Mới rồi đây tiểu nhân tới Tế Châu này để dự lễ mừng thọ Tần mẫu, mới biết chuyện Tần Quỳnh bị dính dáng rất khổ vì chuyện này, nên hôm nay tiểu nhân đặc biệt đến dây, để xin Thứ sử hãy tìm cách giải thoát cho Tần Quỳnh khỏi chuyện phiền toái này. 
Lưu Thứ sử đáp: 
- Nhân huynh ở xa, có điều không rõ, bọn Tần Quỳnh này chuyên thông đồng với tụi cướp, dung túng cho chúng để rồi cùng nhau chia của cướp được cốt tìm mọi cách lên được tới chức kỳ bài quan, lại tìm cách kết giao với bọn lục lâm ở khắp các châu quận xa gần. Tiểu đệ đã hỏi rõ chuyện này, vì thế mới nhất quyết khoác chặt việc bắt bọn cướp vào cổ Tần Quỳnh. Nhược bằng không bắt được bọn cướp thì phải làm bồi thường số bạc. Nếu cứ như lời nhân huynh mà khoan dung cho Tần Quỳnh, thì cướp làm sao mà bắt được, khi đó thì số bạc ba nghìn lạng, tiểu đệ sẽ phải bồi thường. Tiểu đệ định ngày mai làm công văn, giải Tần Quỳnh đi Đông Kinh cho tổng lý Vũ Văn Thuật xử lý. Hôm nay nhân huynh nói thế, tiểu đệ chỉ có thể gia hạn cho Tần Quỳnh để có thêm thời gian bắt cướp tìm bạc mà thôi. 
Tự Xương nói: 
- Tiểu đệ tưởng rằng, Đông Kinh chỉ cần có bạc cho đủ là được, người có hay không, chỉ cần nói rõ trong công văn là được rồi. 
Lưu Thứ sử đáp: 
- Thì cái khó ở chỗ ba nghìn lạng bạc. Tiểu đệ thì lấy đâu ra mà đền. Cứ bổ đầu các huyện đâu phải dễ dàng, tiền bạc là xương máu của dân, họ đâu phải dễ kiếm, dễ nạp. Vì vậy mới phải cố sống cố chết mà bắt cho kỳ được bọn cướp. 
Tự Xương thấy rõ ý của Lưu Thứ sử, chỉ cần bọn Thúc Bảo có đủ số bạc ba nghìn lạng là được, vì vậy Tự Xương cười mà rằng: 
- Thế bọn này lo đền một nửa số bạc thì xong xuôi mọi sự nhé! 
Lưu Thứ sử đáp: 
- Làm sao mà xong được, còn một nửa nữa mới đủ, bảo tiểu đệ lấy đâu ra? 
Tự Xương nói: 
- Còn một nửa, chia đều tất cả trong đội lính bắt cướp có được không? 
Lưu Thứ sử đáp: 
- Bọn này có bồi thường như vậy, thì cũng chẳng sao, chúng đều được bọn cướp lâu nay chia cho chẳng nhiều thì ít, nên có phải bồi thường thay cho chúng cũng đúng thôi.. Hơn nữa không bồi thường, bọn này đều phải giải đi Đông Kinh, mà đã giải đi, mười chết một sống, chỉ cần tiền lộ phí thôi cũng tốn kém không biết bao nhiêu rồi. 
Nay nhân huynh đứng ra thương lượng chuyện này, ngoài chuyện bồi thường như vậy, nhân huynh phải đòi chúng biếu nhân huynh ít ra năm trăm lạng bạc, coi như là tiền tiểu đệ kính lễ nhân huynh. Ngày mai, tiểu đệ sẽ không bắt bọn này đến để đổi trát nữa, mà chờ chúng nạp đủ tiền là được, khi bắt được bọn cướp sẽ theo giấy đó mà hoàn lại bạc vậy. 
Tự Xương khẽ cười đứng dậy: 
- Chỉ sợ bọn này đều nghèo, liệu có bồi thường nổi không đây. 
Lưu Thứ sử đáp: 
- Số bạc công này không thể thiếu được đâu. Chả cần Tần Quỳnh làm giấy tờ, tên nào nạp bao nhiêu, tiểu đệ sẽ theo giấy này mà đòi là xong. Số bạc năm trăm lạng phần nhân huynh cũng thế, đừng có nghe chúng xoen xoét nghèo khổ mà lấy thiếu. 
Tự Xương đáp: 
- Chỉ cần trả xong số bạc ba nghìn lạng. Còn tiểu đệ đã lấy cho phần mình ngay từ đầu. 
Rồi cáo từ ra khỏi phủ đường, Lưu Thứ sử tiễn ra đến tận cửa. 
Chính là: 

Chỉ cần Thứ sử lành ung nhọt 
Mặc kệ ai người róc thịt da. 


Tự Xương về đến Giả gia điếm, thì cũng là lúc Lai Tổng quản đã cho người mang công văn tới, chỉ cho Tự Xương về, để biết tin tức trong phủ cùng đến nhà Thúc Bảo. Huyền Thúy đưa công văn cho Tự Xương xem, rồi nói: 
- Đang chờ đại huynh trở về, ta cùng đến nhà Thúc Bảo, để Thúc Bảo còn lên đường cho kịp. 
Tự Xương xem xong, thở dài mà than: 
- Lâu nay người đời khinh thường bọn võ quan thì giờ này bọn này lại tỏ ra hào hiệp hơn nhiều. Bọn văn quan bẩn thỉu quá chừng. 
Bàn cãi đủ chuyện, kết cục là bắt đội thổ binh phải bồi thường số bạc, cấp cho bọn này giấy biên nhận, sau đó sẽ trả lại nếu bắt được bọn cướp. 
Hùng Tín lên tiếng: 
- Đó cũng chỉ là những chuyện suông thôi. Còn thực là bọn thổ binh này, trừ Thúc Bảo, Kiến Uy, Vạn Nhẫn, Cự Chân ra đều nghèo khổ ngoài cái áo che thân ra còn có gì khác nữa đâu, ăn còn chẳng được no, lấy đâu ra tiền bạc. 
Bá Đương nói: 
- Chính đây mới là chuyện chúng ta phải tính toán giúp cho họ. 
Giảo Kim bàn: 
- Chả cần phải bàn cãi gì lắm. Chuyện này chính tiểu đệ gây ra, thì tiểu đệ xin gánh chịu vậy. Xin Vưu viên ngoại về ngay nhà, tìm cách bù cho đủ số bạc đã tiêu, đem số bạc ấy đến đây để cứu Thúc 
Bảo đại huynh cho kịp. 
Vưu Thông đã đứng lên chuẩn bị lên đường lập tức, thì Tự Xương lên tiếng. 
- Chuyện này tiểu đệ cũng đã nói rồi, tiểu đệ sẽ lo đầy đủ tất cả. 
Công Cẩn băn khoăn: 
- Sao lại đổ cả mọi chuyện lên đầu đại huynh cho đáng. 
Tự Xương đáp: 
- Chẳng còn gì đáng phàn nàn đâu. Đó cũng là tiền của Thúc Bảo đại huynh cả đấy thôi. 
Bá Đương hỏi: 
- Sao tiền của Thúc Bảo mà lại ở chỗ đại huynh được? 
Tự Xương đáp: 
- Chả là dạo Thúc Bảo đại huynh cứu nhạc phụ ở Tra Thụ cương, rồi gặp tiểu đệ ở Báo Đức tự, tiểu đệ có viết thư báo, sau đó nhạc phụ cho người đem thư từ cùng vàng bạc tới Báo Đức tự, Thúc Bảo đã về Tế Châu mất rồi, mãi đến giờ, tiểu đệ mới có dịp mang tới. Đang định sau lễ mừng thọ, sẽ đưa tặng Thúc Bảo, nhưng chỉ sợ Thúc Bảo đường đường một bậc hảo hán, cứu người không vì chuyện đền ơn, sẽ không chịu nhận số bạc này, chi bằng đem quách số bạc đó dùng vào việc này là tiện hơn cả! 
Hiển Đạo, Nhuận Phủ cùng hưởng ứng: 
- Thế thì hay lắm! 
Bội Chi cười: 
- Thế mới biết dạo ấy Giảo Kim hiền đệ có mắt nhìn xa, cứ thế mà xông vào chém giết, cuối cùng có người thay lo ổn cả mọi chuyện. 
Giảo Kim cười ha hả: 
- Thế là tiện cho tiểu đệ cả hai đường. 
Đó là: 

Ông Trương nốc rượu mà ông Lý lại say 
Nước Sở mất con khỉ mà để cháy lây ra cả khu rừng. 
 


Đang lúc chuyện trò, thấy đầy tớ bên ngoài vào thưa: 
- Có Lưu Thứ sử lại thăm! 
Mọi người đều tránh vào nhà trong, chỉ để mình Tự Xương ra tiếp đón, sau khi vái chào chủ khách ngồi uống trà, Lưu Thứ sử lên tiếng: 
- Chuyện này hạ quan đã tính toán kỹ càng. Xin nhân huynh cứ lấy cho kỳ được năm trăm lạng bạc, lúc đó hạ quan mới cho người thu đủ số bạc, viết giấy biên nhận. Nếu không thấy chúng đưa bạc cho nhân huynh, xin nhân huynh đừng nghe, hạ quan sẽ cho giải cả năm mươi tên này lên Đông Kinh, sẽ chẳng còn mong ngày về, mà chỉ có chết! 
Tự Xương đáp: 
- Tiểu đệ cảm tạ thịnh tình của Thứ sử! 
Lưu Thứ sử tiếp: 
- Nhân huynh thấy chúng nạp không đủ, lại cho rằng hạ quan nói lấy lòng nhân huynh. Ở cái đất sỏi đá khổ sở này, nếu không làm cho ra nhẽ như thế thì mình chẳng bao giờ được miếng nào cho ra hồn đâu, xin nhân huynh đừng lưỡng lự. 

Nói xong từ biệt, trèo lên kiệu về. 
Bí quyết làm quan phải rất keo 
Nửa đồng tiền rút chẳng tha đâu 
Rút bòn khố rách quần manh cả 
Để cổ quan bà vàng ngọc đeo. 


Mọi người đều nghe cuộc đối đáp này, nên ai nấy đều căn dặn Tự Xương: 
- Vừa rồi Lưu Thứ sử khuyên đại huynh đừng lưỡng lự nghĩa là thế nào? 
Tự Xương đáp: 
- Thứ sử bảo tiểu đệ đòi Thúc Bảo tạ ơn năm trăm lạng, số bạc này Thứ sử sẽ không đụng đến, chỉ cần tiểu đệ nhận đủ thì báo với Thứ sử để Thứ sử mới làm các việc khác cho Thúc Bảo. 
Huyền Thúy lên tiếng: . 
- Nếu thế đại huynh cứ lấy năm trăm lạng vậy. 
Tự Xương bèn gọi gia nhân đem bạc ra, cùng Hùng Tín, Huyền Thúy, Bá Đương, bốn người ra cửa đến nhà Thúc Bảo. Kiến Uy vì đã được tay chân tâm phúc của Thứsử đến báo cho biết về chuyện đòi tiền bồi thường, và cả năm trăm lạng biếu Tự Xương, đã chạy phần mình, nhưng vẫn còn thiếu ba trăm lạng, không kiếm đâu ra, đến bàn bạc với Thúc Bảo, vừa may gặp lúc bọn Tự Xương. Sau khi chào hỏi xong xuôi, Huyền Thúy đưa công Văn của Lai Tổng quản ra cho mọi người xem, thấy ghi: 

“Khâm sai Tô Châu tổng quản phủ. Lai tướng quân cấp tờ phê sau: 
Theo lệnh của bản chức: Tần Quỳnh, đốc lĩnh kỵ binh của bản châu, gồm năm trăm tên có danh sách  ràng kèm theo, đến giao nộp ở dinh quan lớn họ Ma là khâm sai Hà đạo đại tổng quản, không được gây việc chậm trễ. Đi qua đâu, bất kỳ cửa sông, cửa thành cũng không được cản trở. 
Nay cấp tờ phê này cho lãnh quân hiệu úy là Tần Quỳnh tuân theo như hạn định.
Đại Nghiệp (1) năm thứ sáu, tháng chín ngày hai mươi ba”. 


1 Đại Nghiệp: niên hiệu của Tùy Dương đế, tức năm 610 sau công nguyên. ở Việt Nam là thời kỳ Bắc thuộc, thuộc Tùy. 

Huyền Thúy nói: 
- Lai Tổng quản sẽ cho điểm người ngựa đủ số. Khoảng trong vòng ba ngày, đại huynh đã phải lên đường. 
Thúc Bảo xem xong cũng không ngạc nhiên gì lắm, chỉ có Kiến Uy là kinh sợ hỏi: 
- Xin có lời mừng đại huynh, được cử đi làm việc vinh hạnh này, rời được nơi nước sôi lửa bỏng. Còn chúng tôi thì không biết làm thế nào để có thể bồi thường được đủ ba nghìn lạng bạc. Lại còn năm trăm lạng để đưa cho Sài đại huynh đây nữa. 
Hùng Tín hỏi: 
- Kiến Uy cũng biết rõ chuyện này rồi sao? 
Kiến Uy đáp: 
- Tiểu đệ có rất nhiều bạn bè thân tín ở trong phủ đường. Ngay sau khi Sài đại huynh nói chuyện xong, đã có người ra nói cho tiểu đệ rõ mọi điều. Sau đó Lưu Thứ sử lại sai tay chân ra nói, nên cũng chưa biết nên đối phó ra sao, phải ra bàn với Thúc Bảo đại huynh. 
Bá Đương nói với Kiến Uy: . 
- Kiến Uy đừng hiểu lầm chuyện này, Sài đại huynh không bao giờ lại thèm đến bạc của các bạn đâu. Số bạc ba nghìn lạng kia cũng chính đại huynh sẽ xuất ra. 
Kiến Uy ngạc nhiên: 
- Làm sao lại có chuyện này được! 
Thúc Bảo lên tiếng 
- Có chuyện này nhưng không có lý này. Tiểu đệ không dám để Sài đại huynh bỏ bạc ra, cũng không dám để Kiến Uy phải đóng góp. Nhà nào giàu có thì bỏ ra, nếu chưa đủ thì tiểu đệ sẽ có cách. 
Tự Xương nói: 
- Số bạc này, nguyên là của đại huynh chứ không phải của ai đâu. 
Tự Xương bèn đem thư của Đường Công Lý Uyên ra, rồi sai gia nhân mang túi, mang hòm vào, mở ra. Tự Xương nói: 
- Đây chính là thư của nhạc phụ tiểu đệ gửi tới Báo Đức tự, thì đại huynh đã về Tế Châu. Tiểu đệ đã nhiều lần định mang tới, nhưng chưa có dịp nào, lần lữa mãi tới nay.
Thúc Bảo xem thư thì thấy viết: 
Việc cũ Quan Trung, ơn sâu ghi dạ. Những muốn đền ơn mà chưa thỏa. Vừa tiếp được thư của con rể tới, rất lấy làm mừng rỡ. Nay có ba nghìn lạng bạc, gọi là chút lễ mọn, mừng tuổi tướng quân. 
Hẹn rằng bèo nước, 
Gặp mặt tạ ơn.” 

Thúc Bảo xem xong biến sắc mặt nói: 
- Sài đại huynh, thế này thì lệnh nhạc (1) coi thường tiểu đệ quá. Kẻ trượng phu hành động trên đời nào phải để chờ báo ơn đâu? 
1 Lệnh nhạc: gọi tôn kính bố vợ của người nói chuyện với mình. 
Tự Xương cười nói: 
- Tần đại huynh làm việc đó không phải chờ báo ơn. Nhưng về phía nhạc phụ tiểu đệ phải biết đến chuyện báo ơn đó. Có như thế thì mọi chuyện mới thỏa đáng chứ. 
Hùng Tín nói: 
- Thúc Bảo hiền huynh không khi nào đòi chuyện này khi cứu nguy giữa đường, cũng không có lý nào lại bắt Sài đại huynh mang số bạc này trở về. Nay đang phải cần làm cho xong chuyện này, cứu cho được hơn năm mươi mạng người, cùng với gia đình họ hàng của họ. Còn hiền huynh chẳng mảy may cần đến, cho nên lấy hay không lấy, hiền huynh cũng đừng cố chấp. 
Kiến Uy nói: 
- Đại huynh Thúc Bảo định làm chuyện bán chuông mua đồng. Đây chính là tính mạng cả năm mươi anh em chúng tôi. Sài đại huynh đã bằng lòng, tưởng Tần đại huynh cũng nên bằng lòng mới phải. 
Thúc Bảo vẫn không quyết hẳn. Hùng Tín khuyên: 
- Thúc Bảo cùng Kiến Uy đều đang gánh việc công, cả hai hãy thu lấy số bạc này mà nạp quan cho gọn chuyện đi! 
Bá Đương cũng giục: 
- Trong chuyện tiền bạc này, Sài đại huynh thêm vào một tý, thì mọi người lại bớt ra một tẹo, cũng thế cả thôi mà! 
Mọi người cùng cười. Thúc Bảo vẫn nói: 
- Nhưng riêng tiểu đệ vẫn chưa yên tâm. 
Rồi đi vào nhà trong, đem ra ba trăm lạng bạc, nói với Kiến Uy: 
- Tiểu đệ cũng nghe Lưu Thứ sử định chia phần bắt mọi người phải đền, cũng biết hiền đệ còn thiếu ba trăm lạng, nên đã định đem ba trăm lạng này đưa hiền đệ, để khỏi dính dáng người khác. Chứ cũng không nghĩ là tìm nơi đi cho xong quách đâu. 
Chính là: 

Nghìn vàng xem tựa mây lông 
Nghĩa nhân sáng rực đuốc hồng nghìn thu. 

Kiến Uy đáp: 
- Một mình tiểu đệ cũng lo không nổi, xin đại huynh cứ nhận cho, đợi tiểu đệ gọi Vạn Nhẫn cùng mọi người lại, để họ được thấy nghĩa khí của đại huynh. 

Thúc Bảo bèn thu nhận số bạc, rồi dọn tiệc rượu mời mọi người, Giữa lúc ăn uống, thì thấy Vưu Thông cùng Giảo Kim tới để từ biệt ra về. Lúc đầu Giảo Kim giữa đường đón đánh Sài Tự Xương, rồi đánh bại Bội Chi, Quốc Tuấn, nhưng lại bị Bá Đương đánh bại, trong lòng đã có chỗ không thoải mái, nay thêm chuyện giết người cướp của vỡ lở Giảo Kim càng thấy đứng ngồi không yên. Vưu Thông lại càng lo nghĩ hơn, cũng miễn cưỡng phải dự lễ mừng thọ cho xong để về cho chóng. Giảo Kim lên tiếng. 
- Thấy rõ cảnh lao đao của Thúc Bảo đại huynh, tiểu đệ càng thấy mình không thể làm lụy đến đại huynh. 
Đến khi Tự Xương cùng Huyền Thúy lo lắng được hiểm lớn nữa, thì Vưu Thông, Giảo Kim lại sợ lúc đi đứng, ăn uống, nói năng có điều gì sơ xuất mà lộ chuyện ra, sẽ bị bắt bớ, vì vậy cả hai xin về trước. Nhuận Phủ sợ bị liên lụy, cho nên cũng không giữ. 
Thúc Bảo lưu lại, cùng ngồi tiệc rượu. Vì có Kiến Uy nên cả hai bên đều không nói chuyện gì khác. 
Thúc Bảo nói; 
- Tiểu đệ cũng muốn lưu hai vị lại chuyện trò vài ngày. Chỉ vì ngày mai đã phải lên đường, cho nên cũng không dám giữ. 
Sắp chia tay, Thúc Bảo mới vào nhà trong lấy một ít lễ vật, đưa Giảo Kim đem về biếu Trình mẫu và cả quà của Tần mẫu gửi riêng cho Trình mẫu. Rượu đã say rồi. Vưu Thông, Giảo Kim cùng Hùng Tín về Giả gia điếm. Sáng canh năm. Vưu Thông cùng Giảo Kim lên đường. 

Sương giăng, trăng tỏa sáng đầy thềm 
Eo óc gà đâu rộn cuối đêm 
Lọt lưới kỳ lân nhanh gót thoát 
Cây cong vội tránh nhẹ thân chim. 


Cũng sáng hôm ấy, biết Lưu Thứ sử chỉ cần đến đủ bạc, cũng chẳng để ý gì đến mình, nên Thúc Bảo chỉ đến tạ ơn Lai Tổng quản. 
Lai Tổng quản nói: 
- Ta lúc ấy không giữ được ngươi, đến nỗi ngươi gặp phải toàn chuyện nhục nhã, thôi thì bây giờ ngươi hãy tạm đi. La Tướng quân cùng Lý Huyền Thúy đều đã có lời, đến lúc trở về, ta sẽ thực sự lo lắng chuyện cất nhắc cho ngươi. Ngươi cũng chẳng phải ngồi dưới người khác lâu nữa đâu. 
Thúc Bảo khấu đầu từ tạ ra về. 
Thúc Bảo mở một tiệc lớn, mời khách xa, thêm Kiến Uy, Vạn Nhẫn, Cự Chân. Ba người này hết lời tạ ơn Tự Xương, họ không hiểu rằng, nếu không có Thúc Bảo, thì làm gì Tự Xương chịu xuất ra số bạc đó. Thúc Bảo lại nhờ Huyền Thúy viết luôn ba thư: một cái nhờ Tự Xương đem về cảm tạ Đường Công, một bức thư gửi Uất Trì Nam đem về trình La Tướng quân, cùng với lễ vật về Tần phu nhân, và một thư gửi em con cô con cậu La Thành. Lúc này cả đám bạn bè, hào kiệt mới thư thái uống hết chén này đến chén khác, hết mâm này đến mâm khác, kể chuyện cũ, nói chuyện mới, vui nhộn, thoải mái hơn nhiều. 

Cạn chén trăng gần lặn 
Nghiêng bầu ráng đã hồng 
Chuyện dài đêm quá vắn 
Chim ríu rít ven rừng. 


Mãi sáng ra, tiệc rượu vẫn chưa tàn, thì đã nghe ngoài cửa người ngựa huyên náo, chính là số năm trăm người ngựa được lệnh Lai Tổng quản kéo tới để cùng Thúc Bảo đến dinh Ma Đại tổng quản. Thúc Bảo nai nịt nhung phục, đứng trên thềm nhà gọi các thập trưởng, đội trưởng tới bên. Vừa đủ mười một đội trưởng, năm mươi thập trưởng, đội đội, hàng hàng đứng đầy sân. Điểm đủ quân số Thúc Bảo dõng dạc nói: 
- Lai Tổng quản đã ra lệnh, sáng ngày mai sẽ lên đường. Các anh đã lĩnh lương thực lên đường, hãy về chuẩn bị hành trang chu đáo sáng mai chờ sẵn ở cửa tây để khởi hành. 
Quân sĩ nghe xong nhất tề giải tán. Hùng Tín nói với Thúc Bảo: 
- Ngày trước Hùng Tín này từng đã dặn hiền huynh: "Cầu vinh bất tại chu môn hạ", nếu hiền huynh nghe ra, thì đâu đến nỗi thế này. 
Thúc Bảo đáp: 
- May mà có được Sài, Lý, nhị vị đại huynh nên chuyện họa thành chuyện phúc. 
Huyền Thúy nói: 
- Kẻ đại trượng phu, sự nghiệp chẳng biết thế nào mà lường trước được! 
Ai nấy lại về Giả gia điếm lấy thêm lễ vật lại mừng Thúc Bảo. Thúc Bảo cũng đem lễ vật ra để gửi các bạn ra về, cả hai bên chẳng ai chịu nhận. Bá Đương nói: 
- Thúc Bảo đại huynh mấy ngày vừa qua rất lo lắng, bận rộn. Chúng ta cũng chẳng nên ở mãi quấy rầy, để còn thu xếp hành trang lên đường, lại còn trò chuyện dặn dò bá mẫu cùng tẩu tẩu(1). Ngày mai sẽ ra cửa tây lên đường, chúng ta cũng ở gần đó, sáng mai cùng ra cáo biệt ở ngoài ấy là tiện nhất. 
1 Tẩu tẩu: Vợ bạn, vợ anh. 

Mọi người cùng cười rồi chia tay. 
Thúc Bảo gói ghém đồ đạc, xếp đặt công việc nhà. Gọi Kiến Uy đến nhận số bạc phải bồi thường đem đi, mãi tới sáng mà công việc vẫn chưa xong. Đã thấy đội trưởng tới tận nhà đón mời ra chỗ tập trung, Thúc Bảo đốt vàng, thắp hương khấn vái, từ biệt Tần mẫu cùng Trương Thị, nai nịt gọn gàng, đội mũ lớn, khoác áo ngoài màu hồng có thêu hoa, thắt lưng nạm bạc óng ánh, cưỡi ngựa hoàng phiêu, tập hợp số năm mươi đội trưởng, thập trưởng ở sân nhà, rầm rộ kéo ra cửa, so với lúc mặc áo xanh, đội mũ nhỏ ở châu thì đã khác rồi. 
Có bài thơ "Tập cổ thi” ghi lại cảnh này như sau: 

Ngựa hí mừng vạn dặm 
Gươm sáng chói trời xanh 
Trượng phu trả nợ nước 
Hơn hẳn đời thư sinh. 


Ra cửa tây, đến bên cầu treo, hai bên người ngựa xếp thành hàng dài. Phía đầu phố là chùa Nghênh Ân, Thúc Bảo xuống ngựa, vào chùa. Sợ có kẻ không chịu đến tập trung, Thúc Bảo lấy danh sách, điểm danh từng người. Rồi lấy tiền của mình ra: Đội trưởng thì phát cho ba tiền, thế cũng mất tất cả năm sáu chục lạng bạc. Lại tuyển lấy hai mươi anh trai trẻ, khỏe mạnh làm gia đinh, theo bên để sai phái và cũng thưởng thêm tiền. Xong xuôi, trước tiên đến uống rượu tiễn biệt với các bạn cùng làm kỳ bài quan dưới trướng Lai Tổng quán, ai nấy cùng cạn ba chén rượu rồi chia tay. Sau đó là đến bọn Đơn Hùng Tín, mỗi người cũng nâng đủ ba chén. Thúc Bảo nói: 
- Ơn các bạn ở xa tới, nên hãy còn dịp được ra đi thế này. Chỉ vì có Huyền Thúy đại huynh nghĩ ra chuyện tới Lai Tổng quản, nên tiểu đệ sớm phải lên đường, không được hội ngộ lâu hơn cùng các bạn. 
Lại nói với Tự Xương: 
- Sài đại huynh, xin nhờ đại huynh lo liệu. Nếu công việc chưa xong với Lưu Thứ sử, tiểu đệ đi rồi chỉ sợ lại có việc khổ đến Kiến Uy chăng? 
Tự Xương đáp: 
- Tiểu đệ còn phải lấy giấy biên nhận cho được đã, xin đại huynh đừng lo. 
Thúc Bảo lại nói với Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc: 
- Xin nhờ nhị vị thưa lại với La tướng quân cùng Tần phu nhân, tiểu đệ việc công gấp rút, không thể đến tận U Châu tạ ơn được. 
Lại nói với Bá Đương cùng mọi người khác: 
- Chẳng mấy khi mà anh em hè bạn lại có thể tụ họp thế này, đáng nên phải trò chuyện lâu hơn nữa mới phải, không ngờ đã phải chia tay. 
Rồi nhờ Nhuận Phủ, Kiến Uy. 
- Mẫu thân tuổi cao, xin nhờ nhị vị chăm sóc thường xuyên cho. 
Ai nấy chia tay, lên ngựa, súng nổ ba phát làm hiệu khởi hành. 
Chính là: 
Trông mặt cả cười 
Chưa no con mắt, chưa vơi nỗi lòng 


Cuối thu kia dải rừng phong 
Lá rơi hay giọt lệ hồng chia phôi 
Cầm tay không nói nên lời... 


Thúc Bảo đi rồi, Tự Xương còn ở lại Tế Châu ngày hôm đó để thu xếp xong công việc tiền bạc, rồi cũng lên đường luôn. Nhuận Phủ sắp đủ lễ vật bày tiệc rượu tiễn hành chu đáo, Tự Xương lên đường đi Phần Dương. Anh em Uất Trì, Sử Đại Nại, cả ba người vì còn việc quan không dám lần lữa, nên theo đó Trương Công Cẩn, Bạch Hiển Đạo cũng cùng đi luôn về Ung Châu. Chỉ còn Lý Huyền Thúy, Đơn Hùng Tín, Kim Quốc Tuấn, Đổng Bội Chi cùng nhau một đoàn. 
Không biết về sau thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ .


HỒI 26

Đậu tiểu thư cải dạng lánh quê người,

Hứa thái giám một mình vào ổ cọp.

Từ rằng: 
Cỏ cây quê đầm đìa nước mắt 
Não nùng thay một khúc Dương Quan 
Chia tay luống những bàng hoàng 
Thét roi đầu ngựa ruổi ngàn cây thưa 
Tiếng sấm giật gió đưa lạ hoắc 
Trước mặt sao gai góc đầu đường 
Đêm nay, núi hẻm hang cùng 
Mộng hồn lưởng vưởng tỉnh không mà về! 
Theo điệu "Tích phân phi” 


  
Người ta sinh ra trên đời, tất có lúc thịnh lúc suy, có khi tụ khi tan, gặp thời bình thì an cư lạc nghiệp, cùng nhau yên ổn. Chẳng may gặp phải lúc loạn li, nếu là kẻ sĩ có ít nhiều tài năng, trăn trở để xây dựng cho mình một công nghiệp, thì tránh sao khỏi lúc truân chuyên phiền não, may thì được sum họp một chỗ, chẳng may thì tan nát bốn phương, làm sao lại có thể yên phận "ôm cây đợi thỏ" (1) trong xó rừng, hoặc làm kẻ chết già trong góc cửa cho được. 


1 “Hàn phi tử": Có người nước Tống đang cày ruộng, thấy một con thỏ chạy đâm đầu vào gốc cây mà chết. Anh ta bỏ cày, đến đợi bên gốc cây, mong nhặt được con thỏ khác, cũng đâm đầu như thế chăng! 

*** 


Lại nói trong số năm hào kiệt rời Tế Châu cuối cùng đó, thì Kim Quốc Tuấn, Đổng Bội Chi sợ ở công đường Lộ Châu có việc, nên cũng không thể ung dung thong thả, xin phép lên đường trước để về Lộ Châu. Đơn Hùng Tín, Vương Bá Đương, Lý Huyền Thúy, thân vô câu thúc, trong lòng cũng chẳng có sự gì phải lo lắng, gặp núi thời leo núi, gặp sông thời dong thuyền, nhởn nhơ dọc đường, mãi mới tới được địa phận Lâm Truy, Huyền Thúy nói: 
- Đơn nhị ca, chúng ta gặp nhau lần này, rồi không biết đến bao giờ gặp gỡ. Ý cũng muốn đưa Nhị ca về tận Nhị Hiền trang, nhưng đi lâu ngày, sợ ở nhà có việc gì chăng, cũng xin được cáo biệt nhị ca ở đây. 
Bá Đương cũng nói: 
- Tiểu đệ xa nhà đã lâu, xin hẹn với nhị ca sang năm, không có chuyện gì vướng mắc, lại hẹn xin đến hầu nhị ca. 
Hùng Tín lưu luyến không nỡ rời tay, bèn bàn: 
- Hai vị nếu không thể về cùng Hùng Tín này, thì chẳng còn cách nào khác, nhưng xin hãy tìm một quán rượu nào đó, ta uống với nhau vài chén, rồi sẽ chia tay. 
Bá Đương, Huyền Thúy tán đồng: 
- Nhị ca nói đúng lắm! 
Cả ba giật dây cương lao ngựa về phía trước, Hùng Tín đưa tay chỉ: 
- Phía trước là dãy Báo Sơn, tương truyền là nơi hai bạn thân Quản Trọng cùng Bảo Thúc Nha thường hay chia tiền lời buôn chung ở đấy. Hùng Tín này với hai vị tuy không sánh được với người xưa về tình, nhưng về nghĩa vốn chẳng kém gì. Chúng ta hãy tìm đến đó uống mấy chén được chăng? 
Bá Đương, Huyền Thúy bằng lòng: 
- Hay lắm! 
Cả ba nhìn xem, chỉ thấy: 

Bãi dàn lưng núi 
Lầu tiếp chân mây 
Cây biếc um tùm, văng vẳng đâu nghe cọp thét 
Liễu xanh mườn mượt, chập chờn thoáng thấy oanh bay 

Phải chăng là: 

Chèo bẻo đậu hè xúm xít 
Kinh nghệ nhảy hề loay quay 


Dưới chân Bảo Sơn có khoảng ba bốn chục nóc nhà trong đó có một quán rượu, lá cờ hiệu treo phấp phới trên cây ngay trước cửa. Cả ba xuống ngựa, vào trong quán, thì đã thấy ba con ngựa trong sân của khách đã buộc trước rồi, đang đứng nhai cỏ trong máng. Tiểu nhị vội ra mời khách vào gian phòng tranh chính giữa, rửa mặt, rửa tay. 
Hùng Tín hỏi tiểu nhị: 
- Ngựa thì ngoài kia, còn mấy vị khách đến trước đâu cả rồi tiểu nhị? 
Tiểu nhị giơ tay chỉ: 
- Đang ngồi uống rượu ở gian bên trái sạch sẽ kia, thưa quý khách! 
Hùng Tín đang định chào hỏi, thì thấy cửa sổ của gian bên trái ló ra một cái đầu, nhìn ngang ngửa. Bá Đương trông thấy liền cười xòa: 
- Thì ra là Lý hiền đệ đang ở đây sao? 
Lý Như Khuê vội vã: 
- Xin mời chư huynh ra cửa, đại huynh Bá Đương vừa đến kia. 
Tề Quốc Viễn cùng mọi người ra, bái chào xong xuôi. Bá Đương hỏi: 
- Hai vị có việc gì mà lại tới đây? 
Như Khuê đáp: 
- Chuyện dài lắm. Ở trong phòng có một vị nữa, để tiểu đệ vào mời ra đây rồi cùng nói chuyện một thể. 
Rồi chạy vào trước cửa phòng lớn tiếng: 
- Xin mời Đậu đại ca ra ngoài này. Có đại ca Đơn Hùng Tín ở Lộ Châu mới tới. 
Dứt lời thì thấy một người đàn ông cao lớn, đàng hoàng bước ra. 
Như Khuê giới thiệu: 
- Đây là đại huynh Đậu Kiến Đức ở Bội Châu. 
Hùng Tín đáp lời: 
- Năm ngoái đại huynh Lưu Hắc Thất có đến tiểu trang trại Hùng Tín này có được Lưu huynh nói nghe danh Đậu huynh, vốn người hào hùng, nghĩa hiệp, nay được gặp ở đây, thật là thỏa ước nguyện bình sinh. 
Hùng Tín sai bày tiệc rượu, rồi cả sáu người ngồi vào hàn huyên. Bá Đương nói với Như Khuê, Quốc Viễn: 
- Hai vị sống ở Thiếu Hoa Sơn sung sướng tự tại vậy, sao lại bỏ đi thế này? 
Như Khuê đáp: 
- Sau khi từ biệt các vị, tiểu đệ đi Thanh Hà thăm một người bạn thân thì bị Lư Minh Nguyệt chiếm mất sơn trại. Quốc Viễn một mình đánh y không được đành phải bỏ đi, chuyển sang Đào Hoa Sơn rồi cho lâu la chạy đi Thanh Hà báo cho tiểu đệ biết, mãi đến hôm trước đây, tiểu đệ mới quay về. Quốc Viễn đã được tin từ Đơn nhị ca, về chuyện đi Tế Châu mừng lễ sinh nhật Tần mẫu, Đậu đại ca cũng mộ tiếng Thúc Bảo cùng các vị, nói chuyện này ở Đào Hoa Sơn, Đậu đại ca đang cần đi Tế Châu thăm người nhà, vừa là tìm làm quen với các vị vì vậy cùng lên đường. Chẳng hay ba vị đây đã đi dự sinh nhật về, hay là mới lên đường đi? 
Huyền Thúy đáp: 
- Thúc Bảo đại huynh hiện không có nhà, có công vụ phái đi cách đây mấy ngày rồi. 
Quốc Viễn hỏi: 
- Tần đại huynh hiện đi đâu? 
Hùng Tín đáp: 
- Chuyện dài lắm! 
Thấy tiệc đã dọn xong, Hùng Tín tiếp: 
- Chúng ta hãy cùng uống rượu, rồi Hùng Tín này sẽ kể cho các vì nghe! 
Mọi người ngồi vào bàn, uống rượu dăm chén, Như Khuê lại hỏi: 
- Tần đại huynh đi công vụ ở đâu? 
Bá Đương ngừng chén, đem chuyện hào kiệt chuẩn bị lễ mừng như thế nào, đi Tế Châu ra sao, ở hàng Nhuận Phủ như thế nào, Giảo Kim tự nhận, Thúc Bảo đốt trát, kể ra một lượt. Quốc Viễn khoái quá vỗ tay tán thưởng, dậm chân, đập bàn mà hét. Như Khuê nói: 
- Như Thúc Bảo, như Giảo Kim mới thật là anh hùng, thật là hào kiệt trong thiên hạ mà không kết giao được với hai người này, thì cũng chưa đáng bậc trượng phu. Nhưng rồi chuyện ra sao nữa? 
Bá Đương lại kể tiếp chuyện Huyền Thúy đến gặp Lai Tổng quản, Tự Xương đến gặp Lưu Thứ sử, rồi chuyện ba nghìn lạng bạc của Đường Công tặng Thúc Bảo thế nào kể hết một lượt. Kể xong, chỉ thấy Đậu Kiến Đức đập bàn than: 
- Quốc gia mà còn những loại tham quan như Thứ sử họ Lưu này, thì anh em chúng ta phải giết cho bằng hết! 
Như Khuê nói thêm: 
- Lại động đến tâm sự của Đậu đại ca rồi đó! 
Huyền Thúy lại hỏi: 
- Đậu đại huynh có tâm sự ta sao. Xin được cho nghe. 
Đậu Kiến Đức đáp: 
- Tiểu đệ vốn quê ở Bội Châu, cũng có một ít sản nghiệp. Khi hai thân qua đời, tiểu đệ tính tình thô bạo, phóng túng, chẳng chăm lo gì tới sản nghiệp, với khoảng hai ba nghìn lạng vàng, mà chỉ nghĩ tới chuyện ăn chơi. Năm qua chuyết thê chẳng may qua đời. Cuối thu, tiểu đệ đi Hà Giang thăm người quen, chẳng ngờ bọn triều đình sai bọn hoạn quan đi tuyển cung nữ, trong phủ có gia thuộc một viên quan này, nên những thiếu nữ trong phủ đều được bọn chúng sắp sẵn làm ba hạng: thượng, trung, hạ. Tiểu nữ của tiểu đệ đây, tên Tuyến Nương, tuổi mới mười ba, tài sắc kiêm toàn, lại thích đọc binh thư thao lược, trong khuê phòng mà chỉ lo luyện kiếm, đường kiếm mỗi lần vung lên thì chẳng khác gì rồng cuốn. Tiểu đệ chỉ có mỗi một mình cháu, quý ngang châu ngọc.



Bọn này nghe tiếng, biết chưa thành gia thất, lập tức xếp vào loại thượng đẳng. Tiểu nữ biết chuyện, lập tức bán bớt ruộng vườn, lấy một hai trăm lạng vàng, nhờ người chạy cho thoát. Khốn thay bọn châu quan cùng bọn hoạn quan nhất định không chịu. Tiểu nữ thấy thế, bán hết gia sản, chiêu tập bọn người lang thang, không nhà, định cùng đối chọi một mất một còn với quan quân. May mà trong nhà còn chị dâu góa cùng đứa cháu trai ngăn cản kịp. Tiểu đệ nghe tin vội về, tốn hết hơn một nghìn lạng vàng, mọi chuyện mới yên ổn, cháu mới được tha. Nhưng vẫn lo sinh chuyện lôi thôi, nên phải đưa cháu cùng chị đâu tránh khỏi châu nhà, tạm ở nhà người thân là Trương Thiện Sĩ ở vùng Giới Hưu. Nhân trên đường đi gặp hai vị Tề, Lý, vì vậy cùng đi cho vui vẻ hơn chăng. 
Hùng Tín nói: 
- Hiện nay Thúc Bảo không có nhà, mà cả ba vị đều đang lang thang vô định, chi bằng tới tiểu trang trại của Hùng Tín này ta cùng nhau uống rượu vài ngày cho thư thái, các vị nghĩ sao? 
Lại quay lại nói với Huyền Thúy, Bá Đương: 
- Ý cũng muốn để hai vị về quê, nhưng nay gặp ba bạn mới ở đây, hai vị hãy theo tiếp khách với Hùng Tín này, ta cùng nhau trò chuyện vài ngày. 
Bá Đương, Huyền Thúy không tiện chối từ, nên cũng đành theo Hùng Tín và mọi người về Nhị Hiền trang. Quốc Viễn mừng rỡ nói: 
- Tất cả mọi người cùng đi mới vui, tiểu đệ đang muốn đến Nhị Hiền trang ra mắt Đơn nhị ca, để còn đi lại nhiều về sau. 
Như Khuê nói: 
- Nếu như thế thì xin được ăn no để còn lên đường. 
Ăn xong, Hùng Tín gọi tiểu nhị trả tiền, không quên cả suất cơm rượu mà ba người bạn mới đã ăn từ trước. 
Mọi người ra khỏi quán rượu, nhảy lên ngựa, ra roi phóng thẳng, đi được mấy dặm, thấy quanh vách núi ven đường, có một ông già, nằm co, gối đầu lên tay mà ngủ, vứt cả khăn gói bên cạnh. Kiến Đức trông thấy, có vẻ giống người đầy tớ già Đậu Thành của mình, bèn nhảy xuống ngựa, lại gần nhìn kỹ, thì đúng là Đậu Thành. Kiến Đức vừa ngạc nhiên, vừa sợ hãi, gọi lớn: 
- Đậu Thành, sao lão lại ở đây? 
Ông già tỉnh dậy chùi mắt nhìn, nhận ra chủ nhân, bèn thưa: 
- Tạ ơn trời đất phù hộ cho chủ nhân. Chủ nhân vừa ra khỏi nhà, thì trong châu đã ầm lên rằng vì không kiếm ra được thiếu nữ đẹp xinh để tiến cung, thấy nhà ta bỏ trốn cả, quan châu ra lệnh truy bắt. Tiểu thư biết có tin không lành, nên sai tiểu nhân đi tìm chủ nhân về. 
Lúc này cả năm người đều đã xuống ngựa, đứng cạnh đường. Kiến Đức cầm tay Hùng Tín mà rằng: 
- Ơn nhị ca thương đến, không bỏ kẻ hoạn nạn này, đáng phải theo các vị đây về bái chào ở Nhị Hiền trang mới phải. Nhưng tiểu đệ bây giờ, lòng như tơ vò phải trở về ngay, xem chuyện tiểu thư ra sao. Sau này có dịp, sẽ xin đến hầu nhị ca. 
- Vừa mới quen nhau, đã lại nói xa. Núi xưa có thiêng sao vẫn lặng lẽ nhìn? 
Hùng Tín tiếp: 
- Đây là việc cần kíp của đại huynh. Hùng Tín không dám ngăn trở. Nhưng xin có lời với đại huynh thế này: Triều Tùy tuy dâm ác vô cùng, quyền gian tác quái, nhưng bốn phương nghĩa binh chưa dậy, còn phái nhẫn nại chờ thời đã. Đây chính là lúc tránh loạn vậy. Nếu như vùng Giới Hưu không thể an thân, tốt hơn cả là đại huynh nên mang lệnh ái đến tiểu trang trại, ở cùng với tiểu nữ Hùng Tín này cho vui vẻ, thì chẳng còn chuyện gì phải lo nghĩ cả. Đại huynh có việc bận rộn phải đi xa thì có chuyết thê Hùng Tín này lo liệu rồi. 
Quốc Viễn tán thưởng: 
- Đơn nhị ca không phải là người nói cho vui miệng, dù cho hoàng đế nhà Tùy có đến tận cửa Nhị Hiền trang để đòi thì nhị ca cũng nhất nhất không giao nạp đâu? 
Bá Đương thêm vào: 
- Đậu đại ca, lời Đơn nhị ca là lời gan ruột, đại ca nên tức tốc về ngay Giới Hưu là tốt hơn cả! 
Hùng Tín lại nói với Bá Đương, Huyền Thúy: 
- Bạn bè bốn biển, chỉ cần thêm một bái là đã thành cốt nhục rồi. Hùng Tín phiền hai vị đi đường vòng một chút, cùng với Đậu Đại ca đi Giới Hưu. Hai vị tài cán mẫn tiệp, hơn hẳn sự thô lỗ của Hùng Tín này, xin xem sự thể thế nào, chúng ta cũng mới yên tâm cho được. 
Rồi bảo bọn đầy tớ: 
- Số tiền đi đường lâu này, mang lại đây cho ta. 
Bọn đầy tớ vội mở khăn gói đưa trình Hùng Tín xem còn ít nhiều ra sao, rồi chia đôi cho Bá Đương: 
- Đây có năm mươi lạng bạc, hiền huynh cầm lấy. Ba vị hãy đi Giới Hưu. Nếu thấy Đậu Tiểu thư có thể ở lại an toàn, thì cứ ở lại Giới Hưu, bằng không thì xin cứ đưa ngay về tiểu trang trại Hùng Tín này. 
Mọi người bằng lòng. Kiến Đức cảm tạ Hùng Tín. Như Khuê, Quốc Viễn, rồi cùng Bá Đương, Huyền Thúy lên ngựa đi trước. 
Chính là: 


Vui bạn bè thắm thiết 
Lo cốt nhục hằn thù 
Cũng bởi câu nghĩa khí 
Khác thói đời phù du. 


Hùng Tín thấy ba người đã đi khuất, nói với Như Khuê, Quốc Viễn: 
- Giờ thì chẳng còn việc gì phải vội, xin mời hai vị đến vui tiệc rượu với Hùng Tín này ở tiểu trang trại vậy! 
Như Khuê đáp: 
- Chúng tôi bỏ bọn trẻ ranh một mình ở Đào Hoa sơn quả không an tâm, chi bằng chúng ta chia tay nhau, xin đợi lần khác gặp gỡ vậy. 
Hùng Tín thấy nói thế, cũng không muốn nài thêm bèn chia tay, quay ngựa về Lộ Châu. 
Quốc Viễn trên lưng ngựa nói với Như Khuê: 
- Vừa rồi hai chúng ta cùng Đậu đại ca tới đây, không ngờ Đơn nhị ca lại chọn hai người kia đi với Đậu đại ca, có lẽ sợ chúng ta là người thô lỗ, làm hỏng mọi việc chăng? 
Như Khuê đáp: 
- Tiểu đệ cũng nghĩ như vậy. Hai chúng ta dẫu có thô lỗ đi chăng nữa cũng còn được việc không chừng. Chúng ta hãy về sơn trại sắp xếp công việc rồi cùng đi Giới Hưu nghe xem tin tức Đậu tiểu thư ra sao, nếu ba người kia làm không nên chuyện, mà chúng ta lại lo liệu được để cho Đơn nhị ca sáng mắt ra, thấy rõ bọn Quốc Viễn, Như Khuê này không phải loại người đốt nhà, giết người, mà chính là kẻ được việc. 
Hai người trên ngựa chuyện trò, đi cả ngày lẫn đêm về sơn trại, lo liệu công việc xong xuôi rồi cùng với ba tên lâu la, tìm đường tắt đi về Giới Hưu. 
*** 
Nguyên là Đậu tiểu thư thấy sự thể không ổn, sau khi Đậu Thành ra đi được ba ngày, tự mình cũng cải dạng nam trang, cùng với mẹ con bác gái, trốn khỏi Giới Hưu. May sao giữa đường gặp được phụ thân. Kiến Đức mừng rỡ. Bá Đương cùng Huyền Thúy đều khuyên Kiến Đức đưa tất cả về Nhị Hiến trang. 
Lại nói Như Khuê, Quốc Viễn vừa tới Giới Hưu, lượn quanh ở ngoài cửa thành tìm chỗ nghỉ. Ngày hôm sau vào thành nghe ngóng, chẳng thấy cả Bá Đương lẫn Huyền Thúy đâu cả, cũng chẳng biết Trương Thiện Sĩ ở chỗ nào, chạy đông lại chạy tây nghe trong ngõ ngoài phố, người người thì thầm bàn tán, đều nói chuyện một nhà nào đó, đã mất đến hàng nghìn lạng hạc, nhà khác mất trăm lạng, tới nhà họ Hạ ở Hà Tây, chỉ toàn con gái, mất cả gia cơ điền sản, mới được năm trăm lạng vàng. mà bọn hoạn quan vẫn không chịu nhận cho, tên con gái vẫn phải ghi trong sổ tiến cung mà thôi! Hai người đi vào một ngõ hẻm, sẵn đang mệt mỏi, liền vào một quán rượu ngồi nghỉ. Thấy có hai người đầy tớ già, cũng vào quán ngồi, gõ mặt bàn ra hiệu đòi rượu, miệng thì kể: 
- Thật là cái đời ôn dịch, chẳng báo giờ có những chuyện như thế này. Vịn vào mấy cái thánh chỉ, làm khổ từ nhà giàu cho đến kẻ nghèo đâu đâu cũng thấy cảnh khóc lóc, van xin, ngày đêm không lúc nào yên cho. 
Người kia tiếp: 
- Sổ sách giờ đã cố định rồi. Khá tiếc cho mấy nhà chạy mãi mà vẫn không thoát. Chỉ đáng căm bọn hoạn quan bẩn thỉu, chẳng bao giờ có vợ con cả, thì không hiểu chúng lấy vàng bạc làm gì nhỉ? 
Như Khuê hỏi: 
- Xin hỏi hai bác. Giờ đây sứ giả nhà vua đang ở đâu? 
Một ông già đáp: 
- Vừa mới ở đây, giờ sang châu Vĩnh Ninh rồi! 
Như Khuê thấy nói thế, cúi đầu nghĩ ngợi, rồi kéo Quốc Viễn dậy, trả tiền rượu, ra khỏi quán về ngoài thành gọi lâu la thu lượm hành lý lên đường ngay. Quốc Viễn hỏi: 
- Chưa biết Đậu đại ca tình trạng ra sao, sao lại đã lên đường? 
Như Khuê đáp: 
- Cũng chẳng biết Đậu đại ca ở đâu mà tìm, nay tiểu đệ vừa nghĩ ra một việc hay lắm. Hiền đệ cứ đi theo sẽ biết. 
Rồi ghé tai Quốc Viễn khẽ nói: 
- Cứ như thế. . như thế... mà làm. Thế có xung ý không nào? 
Nay hiền đệ mang theo mấy tên lâu la này, theo đường nhỏ phía tây núi mà xuyên qua huyện Ninh Hương, đến vùng Thạch Lâu có một khu gọi là Thanh Hư các, bọn chúng nhất định nghỉ ngơi ở đấy. Hiền đệ cứ theo dõi cho sát đừng để lộ mình. Tiểu đệ ngày đêm vào ngay sơn trại tuyển mấy lâu la được việc, đem theo một ít đồ đạc cần thiết tới Thạch Lâu, cách Thanh Hư khoảng mười dặm gặp hiền đệ rồi sẽ khởi sự. 
Nói xong tất cả đều lên ngựa, đến ngã ba trước mặt mỗi người mỗi đường. 
Chính là: 
Chưa bằng Gia Cát mưu thần 
Cũng đáng Long Trung mẹo thánh. (1) 

*** 
Lại nói khâm sai chánh sứ Hứa Đình Phụ rời khỏi Giới Hưu, binh lính cờ gióng trống đánh đến châu Vĩnh Ninh. Họ Hứa ngồi xe bịt kín, có mười mấy thổ binh theo hầu, lại thêm mười tên quan binh đi theo bảo vệ, trên đường đi rất chậm, đã hai ngày trên đường, sang tới giờ tý ngày hôm nay vẫn còn cách địa giới Vĩnh Ninh năm mươi dặm, cách Thanh Hư các ba mươi dặm, nhìn chung quanh chỉ thấy: 


Gió lồng dậy đất 
Mây kéo đen trời 
Núi rừng đá lở, ầm ĩ cọp thét rồng ngâm 
Cây đổ cát bay, nhôn nháo vượn kêu thỏ chạy 
Hốt hoảng hát bài "Hành lộ nan " 
Đành để gió Thạch Vưu (2) múa nhảy.
 


1 Gia Cát, tự Khổng Minh, người đất Tùng Dương đời Tam Quốc, ở ẩn ở Long Trung, ra làm quân sư cho Lưu Bị, nổi tiếng là nhà quân sự, chính trị tài giỏi của Trung Hoa cổ xưa (Tam Quốc diễn nghĩa). 
2 Gió Thạch Vưu: vợ họ Thạch, chồng họ Vưu. Chồng tham lời bỏ đi buôn xa. Vợ can không được, ở nhà buồn, ốm sắp chết, thề rằng: “Ta sẽ hóa thành gió, cản thuyền của bọn lái buôn. Cho vợ chồng khác được sum họp" (Từ Hải) 
Một khách đi đường, gặp phải trận cuồng phong bạo vũ này, khắp người ướt sạch, rét lạnh thấu xương, chạy vào Thanh Hư các trú nhờ, nhưng vì cửa đóng, không tài nào vào được. Nguyên do là Thanh Hư các này có tới ba tầng cửa. Phía trên cùng là ba gian các nhỏ, ngoài là ba gian hiên rộng. Sau nữa là một nhà sư già ở trong một nhà nhỏ riêng để trông coi. Lúc này sứ giả của nhà vua đang nghỉ ngơi trên các, còn bọn người tùy tùng thì vừa cởi quần áo ướt, đang đốt lửa sưởi. Trong sân mấy chiếc xe nhỏ, lính tráng của châu xúm quanh, bưng thịt lợn quay, thịt dê nướng, gà, ngỗng, các món nấu khác bánh bao các loại, bày ra mười mấy mâm. Mâm sang nhất được dành riêng cho chánh sứ khâm sai. Các vò rượu lớn cũng được bày cạnh mỗi mâm. Một viên quan tay cầm tờ thiếp, thưa với bọn lính trong đội tùy tùng: 
- Tiểu nhân là dịch thừa các trạm này, lo cả việc đi lại cho quan lại châu Vĩnh Ninh, được lệnh đem tiệc rượu đến để đón tiếp Khâm sai đại nhân. 
Bọn này nghe ra, cửa mở ngay, dẫn viên dịch thừa lên gặp quan khâm sai. Dịch thừa quỳ xuống trình: 
- Tiểu quan là dịch thừa Giả Văn của châu Vĩnh Ninh xin ra mắt khâm sai đại nhân. 
Rồi nâng lễ vật lên trình quan xem xét. Hứa Đình Phủ lên tiếng: 
- Cho đứng dậy! 
Lại hỏi: 
- Từ đây đến châu, đường xa gần ra sao? 
Dịch thừa thưa: 
- Dạ thưa Khâm sai đại nhân, còn bốn mươi lăm dặm nữa. Quan lớn chúng con sợ đại nhân đi đường mệt mỏi, nên phái chúng con ra đón ngài ngoài đây để được ngài sai phái. 
Rồi sai tay chân bưng các thứ đặt lên bàn, khiêng lại gần giường nằm của quan lớn Khâm sai, Đình Phủ lại truyền: 
- Hãy đem đồ ăn thức nhắm ra ngoài kia, các ngươi cùng đội lính cho phép ăn uống no say. 
Mọi người nghe quan lớn truyền, liền xuống các, thấy hai tiểu nội giám đứng hầu sau quan lớn, dịch thừa thưa: 
- Xin mời hai vị xuống dưới này uống vài chén rượu, hạ quan này xin hầu hạ tận tình. 
Hai tên nội giám nghe thấy thế cũng theo xuống. 
Đang ăn uống say sưa, bỗng thấy một người cao lớn bưng một bình rượu đã được hâm nóng, đưa mắt ra hiệu, dịch thừa cầm lấy bình rượu rót ra một chén đầy, bưng lên các, quỳ trước mặt Hứa Đình Phủ thưa: 
- Trình đại nhân, ở bên ngoài gió gào mưa trút, xin đại nhân cạn chén rượu nóng cho ấm lòng. 
Đình Phủ khen: 
- Viên quan dịch thừa này được việc lắm, mai kia bản chức về kinh, sẽ tâu với triều đình, thăng ngươi lên làm quan châu. 
Dịch thừa cúi thưa: 
- Xin đa tạ ơn trời biển của đại nhân! 
Đang thưa trình, thì đã thấy Đình Phủ dốc cạn chén rượu lớn, rồi lắc lư, lắc lư ngã lăn quay ra. Thì ra viên dịch thừa chính là Như Khuê giả trang, Quốc Viễn thì cai quản bọn thủ hạ ở bên dưới, chờ đúng lúc trên các Như Khuê hành sự, dưới này Quốc Viễn cũng dốc rượu trong bình nóng, mỗi một tên lính trong đội bảo vệ cùng hai nội giám, mỗi đứa một chén, cả bọn cùng ngã lăn. Như Khuê gọi bọn lâu la, khiêng Đình Phủ xuống các, cùng với hai nội giám vào một chỗ, rồi trói Đình Phủ vào trong kiệu, hai nội giám thì chất lên lưng ngựa, các thứ khác không thèm đụng đến, cả bọn lên ngựa, đang đêm kéo về sơn trại. 
Hứa Đình Phủ ở trong kiệu, bị thuốc mê mãi tới gần sáng mới tỉnh lại, thấy hai tay bị trói chặt, thân mình cũng bị quấn bằng dây lớn với kiệu, không thể nào cựa quậy gì được, sợ quá, vội la lớn không thành tiếng: 
- Sao lại có chuyện lạ lùng thế này, đứa nào dám đem chúng ta ra làm trò đùa thế này. 
Nhưng bây giờ đã vào giữa rừng núi, dù quan lớn có la hét thế nào nữa, cũng chẳng thấy ai nhòm ngó. Phương đông bắt đầu rạng, mọi người vén rèm, khiêng Đình Phủ ra. Đình Phủ nhìn quanh, thì thấy hai viên tiểu nội giám theo mình, cũng còn bị trói, đang đứng bên cạnh. Cả ba nhìn nhau mặt sắt lại, nhưng cũng không dám nói với nhau một lời nào. 
Chỉ nghe ba tiếng pháo lớn, thấy khoảng ba bốn chục lâu la, kéo Đình Phủ cùng hai viên tiểu nội giám tiến vào sơn trại. Nhìn lên thấy thương đao san sát, sát khí đằng đằng, chính giữa ba gian thảo đường, bày hai ghế dựa trên có trải da hổ. Như Khuê đã vứt bỏ bộ quần áo quan viên, mà mặc một bộ đồ chiến bào màu hồng, ngồi chễm chệ bên trên. 
Đình Phủ ngước mắt nhìn lên, nhận ra viên dịch thừa ngày hôm qua, hồn bay phách lạc, Đình Phủ quỳ lạy xuống. 
Như Khuê lớn tiếng quát: 
- Cái đồ chó thiến kia! Triều đình sai ngươi đi tìm gái đẹp, dù là có khâm lệnh của hoàng đế, thì cũng phải nghĩ tới dân tình, vì sao chỗ thì đòi nghìn lạng, chỗ thì trăm lạng, để đến nỗi nơi xa nơi gần nhà giàu, nhà nghèo đến nhà cửa tan nát, họ hàng lìa tan? 
Đình Phủ thưa: 
- Trình đại vương, chuyện nhũng nhiễu trăm họ này, là chuyện bọn nha quan ở phủ huyện, mượn gió bẻ măng, còn chúng tôi dây chẳng được dính dáng gì đến một đồng, một lạng nào cả. 
Như Khuê nạt lớn: 
- Cái thứ phân rác kia! Ta đã đi khắp nơi, nghe ngóng đầy đủ xác thực, mà mày lại còn già mồm cãi sao. Các con đâu! Hãy đem con chó thiến này cho mấy búa vào đầu cho ta. Còn hãy để hai con gà trống thiến kia lại cho ta, còn có việc cần! 
Đình Phủ nghe tiếng khóc lóc thảm thiết, van xin tha chết. Lại thấy lâu la vào trình: 
- Bẩm đại vương! Nhị đại vương đã về! 
Thì ra Quốc Viễn sau khi giải Đình Phủ về trại, sợ bọn lính tỉnh dậy truy tìm, nên cầm đầu một toán lâu la, mai phục giữa đường rất lâu không thấy gì mới rút cả về sơn trại, thấy các bác quan viên đang quỳ mọp dưới thềm liền lên tiếng: 
- Lý đại ca sao lại giở chuyện đùa nghịch thế này, mai kia mà triều đình chiêu an, chúng ta sẽ bị đánh nát đít mất thôi! 
Như Khuê cười đáp: 
- Hôm qua ở Thanh Hư các, ta cũng phải quỳ hầu nó mãi, lại còn phải dâng rượu mời nó. Hôm nay hãy đùa lại một phen, rồi sẽ bàn chuyện đứng đắn sau. 
Rồi hai người cúi xuống cởi trói cho cả ba, lại đưa vào thảo đường mời ngồi cẩn thận, rồi Như Khuê làm ra vẻ hối hận. 
- Thật có lỗi, thật có lỗi quá! 
Sai lâu la: 
- Mau mau bày tiệc rượu, đề ngài khâm sai uống cho đỡ cơn run sợ. 
Bọn lâu la rối rít bày tiệc rượu, ba người cùng ngồi vào bàn. Đình Phủ lên tiếng: 
- Hai vị hảo hán có điều chi dạy bảo, mà lại đưa chúng tôi về núi như thế này? 
Như Khuê đáp: 
- Có ngài Khâm sai ở trên, hai anh em chúng tôi hùng cứ đã hàng năm ở núi này, đốt nhà cướp của, các phủ huyện lân cận kể đã nhiều phen nhiễu nhương bách tính. Khắp nơi chúng tôi cũng lắm anh em, nên khách thương cũng chẳng còn dám lại qua. Vì vậy sơn trại lương thực thiếu thốn, cho nên muốn vay tạm ngài khâm sai khoảng một vạn lạng vàng, để có thể dư dật về lương thảo. Xin ngài khâm sai chớ chối từ. 
Đình Phủ đáp: 
- Bọn chúng tôi phụng chiếu rời đô, chứ không phải khách buôn để mang theo vàng bạc nhiều đến thể. Nếu được các châu quận quà cáp ít nhiều, thì cũng chỉ có hạn. nếu các vị hảo hán bằng lòng với cỡ trăm lạng, nghìn lạng thì còn khả dĩ xin dâng tặng được. 
Quốc Viễn nghe thế, mắt long sòng sọc nạt lớn: 
- Ngài khâm sai, ta nói thực cho mà biết: nếu ngài mang đủ một vạn lạng tới đây, thì chỉ trong nháy mắt, chúng ta nhìn thấy tiền rồi, sẽ thả ngài ra ngay. Còn chỉ cần nói nửa câu không có, là cái đầu kia sẽ không còn trên cổ nữa đâu. 
Nói xong, rút ngay bên hông một thanh bảo kiếm sáng loáng, vứt lên mặt bàn. Như Khuê tiếp lời: 
- Xin ngài khâm sai đừng sợ, ngài hãy ra bàn chuyện này với hai viên tiểu nội giám kia thì hơn. 
Đình Phủ đứng dậy, cùng với hai viên nội giám ra phía thềm bán nguyệt đài. Trong số hai nội giám, thì một tên nước mắt ngắn dài, một lời cũng không thốt ra được, một tên còn có gan hơn ít nhiều thì bàn: 
- Lúc này khóc lóc cũng chẳng ích gì, bọn cường đạo này chỉ cần tiền bạc, nếu khâm sai bằng lòng đưa chuộc mạng, thì cả ba sẽ yên ổn trở về. Còn như chúng không được thỏa nguyện, thì đừng nói cái đầu mà ngay cả đến nắm xương tàn cũng chẳng ai biết mà thu nhặt. Bọn người này đều là loại giết người không nháy mắt, chẳng có lý gì chúng tha không bọn ta đâu. 
Đình Phủ nghe những lời này, nhìn lại hai tên tay chân một lần nữa, rồi nói: 
- Nếu đã như thế, ta sẽ quay vào nói với bọn chúng, cho các anh về châu thông báo, xem bọn quan lại dưới ấy bàn bạc thế nào, thì đành phải lấy ở số bạc ta gửi ở kho các phủ huyện vậy thôi. 
Nói rồi lại quay vào. Như Khuê sai lâu la dọn cơm rượu cho viên nội giám có gan hơn ăn, lại sai lấy một đỉnh bạc thưởng cho làm tiền lộ phí, rồi hỏi: 
- Anh tên họ là gì? 
Viên nội giám thưa: 
- Thưa đại vương, tên tiều nhân là Chu Đồng! 
Như Khuê tiếp: 
- Được rồi! Đỉnh bạc này cho anh làm tiền đi đường. Hạn cho anh năm ngày, đem tiền đến đây mà chuộc ngài khâm sai. Nếu năm ngày mà vẫn không thấy lại thì hai thầy trò ở đây, đừng nghĩ đến chuyện sống. 
Rồi sai thủ hạ đem con ngựa mà y đã bị buộc ở trên lưng để đến sơn trại để y cưỡi về, cho hai lâu la đưa xuống núi. Còn Đình Phủ cùng tên kia đem giam vào một phòng kín. Đưa rượu ngon, thịt béo vào tận nơi. 
*** 
Lại nói nội giám Chu Đồng, cưỡi ngựa về đến Thanh Hư các, thì thấy các cửa khóa kín, không một bóng người, đành phải tìm đường về tận châu lỵ. 
Bọn quan nha nghe báo có chuyện cường đạo bắt mất chánh sứ khâm sai, thì vô cùng hoảng hốt, liền phi ngựa như bay đến Thanh Hư các khám xét hiện trường. Bắt từ nhà sư, thổ binh, cùng đội lính bảo vệ phủ đường. Đưa công văn đi Phần Châu, quan chủ Phần Châu vội vàng không kể ngày đêm đến Vĩnh Ninh. Lúc này quan nha Vĩnh Ninh đang xét hỏi nhà sư, thổ binh, đội lính bảo vệ, cùng các nhân chứng ở địa phương Thanh Hư các, thì thấy Chu Đồng trở về. Tất cả bọn quan lại đều xúm lại hỏi tình hình. Nội giám Chu Đồng bèn đem chuyện ở Đào Hoa Sơn đầu đuôi thế nào kể hết một lượt. Quan nha nghe xong, ai nấy mặt mày xám như bùn, ngây như tượng gỗ, cho nhà sư cùng bọn nhân chứng về, tất cả ngồi bàn kế sách đối phó. Có kẻ bàn rằng: 
- Việc này phải đưa công văn trình ngay lên quan trên, xin động binh tiễu trừ bằng được. 
Lại có kẻ cãi: 
- Lũ này chỉ đòi tiền thôi. 
Kẻ khác lại giảng giải: 
- Nếu chúng đòi năm trăm đưa năm trăm, đòi một nghìn đưa một nghìn, đòi hai nghìn đưa hai nghìn, thì lấy đâu ra bạc cho đủ. Chi bằng hãy chờ xem một vài ngày thấy chúng ta không chịu đưa bạc tới, chúng làm gì được hai vị của chúng ta nào. Rồi cũng đến phải tha xuống núi mà thôi! 
Phần Châu Thứ sử nói: 
- Không có thể nói liều được, quan chánh sứ khâm sai là sủng thần của triều đình, nếu chẳng may có chuyện tổn thất gì ở địa phận chúng ta, đừng nói đến chuyện cách chức hỏi tội, mà đến tính mạng họ hàng gia quyến của mỗi chúng ta cũng chẳng có gì chắc chắn, đâu chỉ có chuyện giáng cấp, phạt bổng thôi đâu. Chi bằng vay tạm trong kho khoảng vài nghìn lạng đem đi, chuộc quan khâm sai về, để mau chóng dẹp cho yên cái chuyện rầy rà này đi. 

Thế là mọi người cứ theo các kho mà chia lấy hai nghìn lạng vàng, cho người đi cùng với Chu Đồng, mang tới Đào Hoa Sơn. Lý Như Khuê, Tề Quốc Viễn nhất định không chịu. Hứa Đình Phủ đành phải xuất của mình ra ba nghìn lạng nữa, ba bốn lần van xin, Lý, Tề mới cho xuống núi. Từ đó Hứa Đình Phủ hễ xuống châu quận nào, đều phải lo trước việc nai nịt gọn gàng, tiền hô hậu ủng. Nhưng rồi vẫn cố kiếm thêm nhiều vàng bạc, bằng muôn phương nghìn kế. Thế cũng mới thấy bọn cường đạo ở trên đời này, mà có được nghĩa khí như vậy cũng không phải không có. 

Ai rằng núi rừng mới có hùm beo 
Ở đây vườn ruộng rất nhiều sói lang.

HỒI 27

Cùng kiệt sức dân, Dượng Đế đào sông, xây cung điện,
Mong làm quan hoạn, Vương Nghĩa tốt số, nên vợ chồng.

Từ rằng: 
Ngày ba bữa đêm đêm ngon giấc 
Thế đủ rồi đừng ước cao xa 
Lăn lưng vào cảnh phồn hoa 
Giang Nam phú quý, kiêu xa tột cùng 
Rồi đến vận thân vong quốc phá 
Lũ cung phi sa ngã bùn dơ 
Sao bằng thuở trước Thuấn Ngu 
Nhà tranh vách đất, áo thô nước đồng 
Được tiếng tốt mà lòng thanh thản 
Vui như vậy, vui hẳn gì hơn 
Người đời không rõ nguồn cơn 
Tham lam ganh tị oán hờn hại nhau 
Họa trước mắt biết chưa nào? 

Theo điệu "Mãn đình phương” 

Trong thiên hạ, sức của sức người có hạn, mà lòng người thì không cùng, nói đến bậc vua chúa, giàu có bốn biển, thì tổn hại đến trăm họ. Nhưng thực ra không cái gì là không lấy từ dân mà có, không việc gì là không do người dân làm ra. Thử cứ xem những lâu đài đền tạ kia, có cái gì là cái không phải tay người dân. Hoàng đế ở trong chốn thâm cung, không thấy rõ chuyện nay dựng lầu, mai dựng điện, nay xây tạ, mai đào hồ, có cung điện lầu các rồi thì lại phải có kỳ trân, dị vật để trang điểm lầu các, điểm xuyết cung điện, những việc này há khác gì việc thổ mộc trên kia, lại cũng phải nhiễu nhương, tàn hại trăm họ. 

Giờ nói chuyện hoang dâm của Tùy Dượng Đế ngày càng quá quắt. Ban đầu sai bọn quan thái giám Hứa Đình Phủ mười người, tìm người đẹp trong chín châu, sau nữa là phái Vũ Văn Khải, xây Hiển Nhân cung ở Lạc Dương, tiếp đó là cho Ma Thúc Mưu, Lệnh Hồ Đạt khai thông các sông ngòi, để vua có thể dùng thuyền đi chơi Giang Nam, rồi nghĩ đến cả đi chơi Giang Đô, khiến trăm họ thất điên bát đảo chạy đông, trốn tây, chẳng phục dịch dựng xây cung điện, thì lại đem thân xơ xác ra mà đào ngòi khơi sông, cùng nghìn vạn các việc lao lực khác. Các quan nha ở châu quận, chẳng khác nào nước sôi trong vạc. 

Đừng nói nhà giàu muốn làm việc gì cũng đã dễ, huống chi triều đình, bất quá cũng chỉ vài trăm vạn lạng vàng là cùng, còn công sức của trăm họ dân đen cả, cho nên chẳng bao lâu cung Hiển Nhân một tòa lộng lẫy đã xong ở Đông Kinh, vừa cao vừa rộng. Đã vậy Ngu Thế Cơ còn đón được trước ý của nhà vua, dâng một tờ tấu chương: 
"Hiển Nhân cung tuy đã tạo thành, nhưng sợ một mình cung này không đủ thánh thượng ngự du khoái ý. Thần xin chọn đất lành phía tây Hiển Nhân, dựng một ngự uyển, để thêm đẹp cuộc ngự du”. 
Dượng Đế xem xong, lấy làm vui lòng lắm, sắc cho Ngu Thế Cơ như sau: 
"Khanh thật đoán được ý trẫm, cho phép khanh cứ theo ý mà đo đạc dựng xây. Không được qua loa, để phụ lòng tin cậy trông ngóng của trẫm." 

Thế là phía nam thì đào luôn trăm hồ rộng, mỗi hồ có đến mười dặm chu vi, bốn bên đều trồng hoa lạ cỏ kỳ, cạnh đó là đắp những đê dài, trên đê cứ một trăm hộ là một đình, năm mươi hộ là một tạ (1), hai bên đê đều trồng hoa đào, bờ nước thì trồng liễu thành hàng thành lối. Lại đóng nhiều thuyền rồng thuyền phượng, để dùng trong những cuộc phiếm du dọc hai bờ hoa cỏ. Phía bắc đào một hồ rất rộng, gọi là hồ Bắc Hải, chu vi có đến bốn mươi dặm, lại đào sông thông với Ngũ Hồ ở phía Nam, trong hồ đắp luôn ba hòn núi lớn: tòa thứ nhất là Bồng Lai, tòa thứ hai gọi là Phương Trượng, tòa thứ ba có tên Doanh Châu, để bắt chước ba tòa đảo có tiên ở ngoài biển. Trên núi lại cũng đủ làm đài điện các, bốn phía đều chói ngời vàng son, đinh núi cao hơn trăm trượng, có thể nhìn về Tây Kinh, lại có thể nhìn quanh phía hồ biển ở phía nam. Giữa hai vùng hồ nam bắc, quanh co uốn lượn, sông đào tiếp nối với sông lớn, rồi lại thông ra biển lớn, nơi nào cảnh đẹp, lại xây thêm lầu các, cứ thế mà làm tới mười sáu lầu viện khác nhau nữa, chỗ nào cũng có cung nữ coi giữ để sẵn sàng phục dịch khi vua ngự tới. Ngói ở tường ngự uyển, ngói ở các lầu các đều là ngói lưu ly, tường vách đều được quét bằng mẫu phấn tử chi. Ba tòa núi đều tạo những dáng kỳ lạ bằng đủ các loại đá quý hình thú kỳ dị, chất chồng hết lớp này đến lớp khác. Đài tạ đều được làm bằng các vật liệu quý hiếm, mọi chỗ đều khảm bằng vàng bạc lấp lánh, treo gấm rủ lụa màu sắc sặc sỡ, châu ngọc lung linh. Trong vườn đào hoa như suối chảy, sắc lý như mây trôi, mai hoa uốn thành vòng lượn, phù dung ôm lấy thân đê. Hạc quây quần từng bầy, gà gấm từng đôi, vượn trắng hú đài, hươu xanh ngơ ngác lượn quanh, cảnh tượng chẳng khác gì thuở trời đất mới bắt đầu, chẳng biết đã tàn hại biết bao sinh mạng dân nghèo, tốn kém không biết bao nhiêu tiền bạc gạo lương mới được như vậy. Ngu Thế Cơ lập tức dâng biểu, xin nhà vua ngự xem xét. 
1 Đình: lầu nghỉ mát trên đường. Tạ: đài, lầu ở trên mặt nước để chơi mát. 

Dượng Đế xem biểu, biết công việc đã xong, trong lòng mừng rỡ, liền chọn ngày tốt, cùng với Tiêu Hậu, đem theo phi tần cung nữ, lên xe ngự giá Đông Kinh. Chẳng bao lâu đã tới Hiển Nhân cung, đã thấy Vũ Văn Khải, Phong Đức Di chực sẵn tiếp đón, rồi dẫn Dượng 
Đế đi thăm các nơi, bắt đầu từ chính cung mà đi hết nơi này đến nơi khác. 
Chỉ thấy:

Muôn cột chạm mây màu 
Nghìn gian trên sông bạc 
Tinh tú trước sau tường vách 
Nhật nguyệt ngang dọc cung lầu 
Then cài ngọc, khác gì tam đảo cõi tiên 
Thềm lát vàng, không kém cửa trời đế khuyết 
Rèm cuốn liên miên, mây lành rợp che muôn dặm 
Hương bay phảng phất, gió mát thổi khắp một trời. 

Đúng là: 

Hồ Thiên nga đáng bậc phong lưu 
Lầu ô thước rất màu phú quý. 

Dượng Đế trông thấy lầu gác hoa lệ, điện các nhấp nhô, bốn phương tiến cống đủ các kỳ vật, trong lòng vô cùng hoan hỷ, bèn phán: 
- Công lao của hai khanh thật là đáng khen! 
Liền sai lấy vàng lụa, hậu thưởng cho hai người và giữ lại hậu viện cho dự tiệc rượu. 
Chính là : 


Người thiện trời xui tính thiện kề 
Nịnh thần hợp với chúa hôn mê 
Hoang dâm, kiêu xí tàn dân lực 
Xa giá nam du chóng trở về.


Dượng Đế ở Hiển Nhân cung, rong chơi mấy ngày cũng thấy mệt mỏi, liền ngồi kiệu bay, cùng Tiêu Hậu, cung nữ, phi tần tới vườn ngự uyển phía tây; tất nhiên không thể thiếu Vũ Văn Khải, Phong Đức Di đi theo hầu. Vào ngự uyển, chỉ thấy: 
Ngũ Hồ nước lặng như tờ 
Mênh mông Bắc Hải mịt mờ sóng dâng 
Núi Tam Đảo phủ mây hồng 
Mười sáu cung điện gió lồng hây hây 
Bồng Lai tiên cảnh là đây 
Hay miền cực lạc, cung mây điện vàng. 

Về sau, có người làm thơ ca ngợi cảnh đẹp của Ngũ Hồ như sau: 
Ngũ Hồ nước biếc ánh mây trôi . 
Thử hỏi hoa viên hay dặm liễu 
Những sợ đức vua thuyền lạc bến 
Trúc tơ vàng ngọc rộn đất trời. 

Lại có thơ ca ngợi cảnh hồ Bắc Hải thần tiên như sau: 
Bác Hải liền trời một sắc xanh 
Cá rồng rỡn nước, sóng đua nhanh 
Mây lành Tam Đảo chiều tan hợp 
Tiên nữ gần xa thật hữu tình. 

Rồi lại thơ ca ngợi vẻ kỳ lạ của ba ngọn núi đắp giữa hồ Bắc Hải: 
Tam sơn muôn ngọn sóng nhấp nhô 
Ngút mắt gương xa thoáng cảnh lầu 
Những tưởng trời cao ban phúc khắp 
Giàu sang không vận chớ với vào. 

Và đây là thơ ca ngợi cảnh sông đào mỹ lệ: 
Quanh co nước biếc đổ vào ngòi 
San sát nhà hoa, sóng tiếp đuôi 
Khoe đẹp cung nhân tha thướt bóng 
Thuyền rồng thiên tử tiến hay lui. 

Cuối cùng là thơ ca ngợi cảnh diễm huyền của những lâu đài, đình, tạ: 
Mười bước một lầu năm bước đỉnh 
Liễu che hoa giỡn, gấm phơi mành 
Nữa đêm xuống lệnh chong thêm đuốc 
Sáng rực gần xa suốt mấy canh. 

Dượng Đế đi xem khắp cả, mặt rồng rạng rỡ phán: 
- Vườn ngự uyển dựng xây thế này thật vừa lòng trẫm, khanh thật đáng khen! 
Ngu Thế Cơ tâu: 
- Đó chính là phúc lớn của bệ hạ và cũng là sự linh ứng của đất trời, tiểu thần này thì chẳng có tài cán gì đáng kể. 
Dượng Đế lại phán: 
- Ngũ Hồ cùng mười sáu viện đã có tên đặt gì chưa? 
Ngu Thế Cơ tâu: 
- Tiểu thần không dám tự tiện, xin bệ hạ hãy ban thánh ý. 
Dượng Đế lại đến tận các nơi xem xét một hồi cẩn thận, rồi mới đặt tên nhất loạt như sau: 
- Đông Hồ, bởi bốn bề trồng toàn liễu biếc, lại thấy rõ hai ngọn núi xanh, nổi giữa sóng bạc dập dờn, nên đặt là hồ Thúy Quang. 
Nam Hồ, bởi lắm gác cao liền bến, bóng đổ mặt nước lung linh, bèn ban tên hồ Nghênh Dương. 
Tây Hồ, bởi có phù dung soi bóng, cúc vàng đầy núi, lại thêm cò trắng âu xanh, nhởn nhơ đi lại, nên đặt là hồ Kim Quang. 
Bắc Hồ, nhân có nhiều đá trắng kỳ hình dị dạng, cao thấp nhấp nhô, ẩn hiện mặt hồ, gió qua sóng gợn, xao xuyến lòng người nên đặt tên hồ Khiết Thủy. 
Trung Hồ, riêng bốn bề bát ngát, trăng chiếu mặc đầu, trời nước một màu, phải đặt là hồ Quang Minh. 
Viện thứ nhất, gác cao mở hướng nam, gió ấm luôn luôn qua lại, nên ban tên viện Cảnh Minh. 
Viện thứ hai, nhân có lan can màu đỏ quanh co uốn lượn, cửa sổ gấm hàng hàng lối lối, mặt trời mới hé, trăm hoa đua sắc, bèn có tên viện Nghênh Huy. 
Viện thứ ba, bởi có mấy gốc ngô đồng xanh biếc, bóng che thấp thoáng, gió thu qua lá, xào xạc bên tai, phải đặt tên viện Thu Thanh. 
Viện thứ tư, bởi trồng toàn mai Tây Kinh đưa về, hoa nở chẳng khác mây sớm, lấy tên là viện Thần Quang. 
Viện thứ năm, vì huyện Toan Tảo tiến một gốc ngọc lý, loài hoa trắng một màu, hơn cả mây bông, bèn ban tên viện Minh Hà. 
Viện thứ sáu, bởi có mấy cây tùng già, tán tròn như lọng, bóng yên khắp viện, thành tên viện Thúy Hoa. 
Viện thứ bảy, bên bờ nước có phiến bàn thạch, rêu biếc đã in, hoa văn ngang dọc, chẳng khác địa đồ xứng tên viện Văn An. 
Viện thứ tám, vì hạnh vì đào giăng thành bình phong như gấm như lụa, hoa phô thêu nhị, nước chảy tựa đàn, oanh non tấu sáo, nên tên viện Tích Chân. 
Viện thứ chín, nhân bên ngòi, bờ đá nhấp nhô sóng khẽ lăn tăn, ánh nắng dập dờn, mắt nhìn loang loáng, bên gốc còn in, đủ màu ngũ sắc, được đặt tên viện Ánh Văn. 
Viện thứ mười, bốn bề trúc bọc, ở giữa mọc lên một tòa lầu đỏ, chẳng khác gì chim phượng một mình khoe sắc, bèn cho tên viện Nghi Phượng. 
Viện thứ mười một, nhân phía trái là núi, phía phải là nước, lấy ý vui nước, vui non, bèn ban tên viện Nhân Trí. 
Viện thứ mười hai, bởi đá lởm chởm bao quanh, khó tiến khôn lui phải dùng thuyền nhỏ, theo ngòi mà tới, bên trong đúng cành hoa đào trôi theo nước chảy, nước trời riêng một, cõi, phán tên viện Thanh Tu. 
Viện thứ mười ba, tại trồng nhiều cây kỳ, hoa vàng đầy đất, chẳng khác cảnh chùa, phán tên viện Bảo Lâm. 
Viện thứ mười bốn nguyên có suối đào, gác quế, mùa xuân hứng gió ấm áp, tiết hạ hưởng trăng thanh, bảo gọi là viện Hòa Minh. 
Viện thứ mười lăm, lại bởi liễu nhỏ giăng tơ, khác gì la nhuyễn, tiện gọi viện Ỷ Am. 
Viện thứ mười sáu, cũng bởi hoa mai che mai, lầu các mong hơi ấm, lan can dựa xem tuyết trắng nào biết lạnh lùng, đành gọi viện Giáng Dương. 
Sông đào một dải uốn lượn như rồng, lầu các đình tạ, như vẩy kỳ lân, ban tên Long Lân giang. 
Dượng Đế đặt tên xong một lượt. nhân phi tần, cung nga đi theo rất nhiều, chưa định rõ người nào chỗ nào, nên cho phép bọn mười người Hứa Đình Phủ, đưa cung nữ mới tuyển về, chia cho trông coi các viện. 
*** 
Lại nói Đình Phủ, từ ngày bị Lý Như Khuê. Tế Quốc Viễn bắt cóc lên Đào Hoa Sơn, mất hẳn năm ngàn lạng vàng, lại càng thêm tham lam vô độ. Phàm tuyển cung nữ, có nhiều ngọc ngà, vàng bạc đút lót y, thì được xếp vào thượng đẳng, bạc vàng thiếu ít nhiều, thì chỉ được xếp vào loại trung đẳng còn nếu chẳng có gì để quà cáp, thì dù có quốc sắc thiên hương, thì cũng chỉ được xếp vào loại hạ đẳng mà thôi. Lúc này cùng bọn chín thái giám kia gặp gỡ, tuyển được đến hơn nghìn cung nữ, biết được triều đình đang ở Đông Kinh, cả bọn kéo xuống, vào ngự uyển, dâng nạp danh sách cả ba loại cung nữ mới tuyển. Dượng Đế xem qua, thì hơn nghìn người, bèn phán cho Đình Phủ. 
- Hãy đem loại thượng đẳng và trung đẳng về ngự uyển. Còn lại hạ đẳng thì cứ ở hậu cung để sai phái các việc khác. 
Đình Phủ cùng chín thái giám lĩnh ý vua ra khỏi ngự uyển, cứ theo danh sách mà gọi vào. Dượng Đế xem xét cẩn thận, thì thấy đều thuộc loại đào nhường hạnh thẹn, yến cười, oanh xấu hổ, nên rất khoái ý, cùng với Tiêu Hậu, chọn hoa đẹp nhất trong số hoa đẹp, tìm người đẹp nhất trong số người dẹp, lựa được mười sáu người, hình dung yểu điệu, phong thái u nhàn, cử chỉ đoan trang, đều được phong tứ phẩm phu nhân, chia cho cai quản mười sáu viện ở Tây Uyển. Mỗi người đều được ban một ấn ngọc nhỏ, trên có khắc tên viện, để tiện lúc dâng tấu biểu. Lại tuyển ba trăm hai mươi cung nữ, thuộc loại phong lưu, tiêu sái, dáng liễu mày hoa, xung vào hàng mỹ nhân, mỗi viện chia hai mươi người, cho học đánh đàn thổi sáo, ca múa, để hầu yến tiệc, còn thì chia ra các đội mười người, mười hai người, hoặc là đội thuyền rồng, hoặc đội thuyền phượng, hoặc ở các lâu đài, đình tạ.






Bọn ở hậu cung, cũng đều chia thành nhóm, thành đội. Lại phong cho thái giám Mã Thư Trung làm Tây uyển lệnh, cai quản việc ra vào các cửa. 
Không bao lâu đã biến Tây Uyển thành cấm thành, hoa gấm thành hàng, lụa là thành dãy. Mười sáu viện phu nhân, chia nhau cai quản, ai cũng muốn tranh được đức vua riêng yêu. Các viện đều giở cầm kỳ thi họa học đời, cùng đủ sáo phượng sênh loan, chỉ sợ Dượng Đế bất chợt ngự giá. Viện này đốt hương long diên, viện kia thổi trầm phượng não. Viện trước hát khúc Ngô ca, viện sau múa điệu Sở vũ. Viện phía đông làm nem tố giác, viện phía tây ủ rượu quỳnh tương. Trăm thứ khôn nói hết, chỉ cần phô trương để được Dượng Đế chú ý tới, tùy đó mà vui buồn thay đổi, địa vị khác biệt vậy. 
Chính là: 
Cung đình hành lạc thưa mau 
Mua vui một khắc, giải sầu quân vương 
Miệt mài là lượt phấn hương 
Dân tàn nước kiệt, bốn phương mặc đời. 

Lại nói các đảo ngoại quốc, nghe tin vua mới ham thích tham sắc hàng lạ, của hiếm, nên cũng tìm các thứ này để tiến cống, thôi thì đủ kỳ trân, di ngoạn, người đẹp, ngựa hay. Một hôm Dượng Đế coi triều, có châu ở vùng Sở, dâng một người tên gọi Vương Nghĩa, mặt mày sáng sủa, người lùn nhỏ, nhưng hành vi cử chỉ đều rất đẹp mắt. 
Lại thêm mồm miệng lanh lợi, ứng đối lưu loát. Dượng Đế nhìn kỹ rồi hỏi: 
- Người không phải người tuyệt trần, cũng không phải của báu khó hiếm. Thế thì có gì khác lạ tốt đẹp, dám đem tiến cống? 
Vương Nghĩa thưa: 
- Bệ hạ đức cao như Nghiêu Thuấn, đạo vượt cả Thang Vũ, vùng Sở xa xôi cũng được ơn giáo hóa giữ thói kiệm cần, tuy không có được sắc đẹp khuynh thành, chẳng bằng vật báu của kỳ, nhưng thầm ơn thánh đế, nên cũng tiến kẻ hề lùn, để bệ hạ sai khiến. Thần đâu không dám hết lòng trung nghĩa, nguyện xin thánh thượng thu nạp. 
Dượng Đế cười phán: 
- Ta có vô số văn quan võ tướng, còn thần trung sĩ nghĩa, đâu phải chỉ riêng mình nhà ngươi có thôi đâu! 
Vương Nghĩa thưa: 
- Trung Nghĩa là vật báu của nước nhà, một người trung thì vẫn không đủ, sao lại có chuyện sợ nhiều mà rồi vứt bỏ. Huống chi con chó con ngựa trung thành với chủ nuôi, bậc quân tử còn không nỡ vứt bỏ. Thần tuy là người dân hèn mọn ở chốn thảo dã, nhưng vẫn có điều quan hệ đến giáo hóa, sao bệ hạ lại nỡ không nhận? 
Dượng Đế nghe đối đáp thế lấy làm thích ý, bèn trọng thưởng cho người đem dâng, rồi giữ Vương Nghĩa ở cạnh để tiện sai bảo. Từ đó, mỗi lần thiết triều, hoặc du ngoạn các nơi, Dượng Đế đều mang Vương Nghĩa đi theo. Vương Nghĩa lại cẩn thận, chu đáo, cử chỉ nói năng đều rất đáng yêu. Dượng Đế lại càng quý, càng ngày càng quen, lúc nào cũng ở bên vua, nhưng chỉ không được vào cung mà thôi. 
Hôm ấy Dượng Đế thiết triều nhưng không có việc gì, đang định bãi triều để về hậu cung, thì quay lại thấy Vương Nghĩa mặt mày ủ ê. 
Dượng Đế mới hỏi: 
- Vương Nghĩa, sao trông ngươi có chuyện gì mà âu sầu vậy? 
Vương Nghĩa hoảng hốt thưa: 
- Thần đội ơn dày của bệ hạ, ngày ngày đều được gần mặt rồng, thật là thỏa nguyện cả đời. Nhưng chỉ giận cung cấm gang tấc, mà không được ra vào hầu hạ, để đem sức chó ngựa cho thỏa lòng này, cho nên lòng đầy ưu uất, xin bệ hạ rộng lượng hải hà! 
Dượng Đế phán: 
- Ta cũng không lúc nào có thể thiếu ngươi, nhưng chỉ vướng một nỗi là ngươi không phải là kẻ có thể vào cung cấm được. 
Nói xong thì xe rồng đã vào cung từ lúc nào, Vương Nghĩa vẫn tần ngần ở cửa cung, không chịu trở về, cũng không dám vào cung, đứng ngây người hồi lâu. Bỗng sau lưng có người vỗ nhẹ vào vai 
Vương Nghĩa, rồi lên tiếng: 
- Vương Thù Nhu (1), nghĩ ngợi gì ở đây? 
1 Thù Nhu: người lùn xấu xí, chỉ kẻ lùn chuyên làm hề ở trong cung. 
Vương Nghĩa quay lại nhìn, thì ra Trương Thành, Thái giám ở Hiển nhân cung, liền vội đáp: 
- Chào bác Trương. Bác làm đệ giật mình! 
Trương Thành hỏi: 
- Chúa thượng đối với bác rất thương yêu, cái gì cũng chẳng tiếc thế thì còn chuyện gì không vừa ý nữa, mà lại đứng đây nghĩ ngợi? 
Vương Nghĩa vốn đi lại thân với Trương Thành nên đáp thẳng: 
- Thật chẳng giám giấu bác, đệ chịu ơn sâu nặng của thánh thượng được thánh thượng muôn ngàn yêu thương, những mong được đêm ngày hầu hạ, đền đáp ơn sâu, chỉ giận cung cấm cách trở, không thỏa lòng này, cho nên lòng nặng ưu tư, không ngờ lại bị bác bắt gặp. 
Trương Thành cười lớn mà đáp đùa Vương Nghĩa rằng: 
- Vương Thù Nhu ơi! Bác muốn vào cung thì có khó gì đâu, bác cứ thiến quách cái ở đũng quần kia đi, thì làm gì mà chẳng vào cung cấm hầu hạ chúa thượng cho được. 
Vương Nghĩa ra chiều nghĩ ngợi: 
- Đệ nghe nói chuyện này phải làm lúc còn nhỏ, đã lớn rồi liệu có làm được chăng, bác cứ thành thật chỉ cho, đệ không dám quên ơn! 
Trương Thành đáp: 
- Lúc nào cũng làm được tất, chỉ sợ bác không chịu được đau thôi! 
Vương Nghĩa hăm hở: 
- Nếu mà làm được, thì sợ gì đau! 
Trương Thành tiếp: 
- Nếu bác quyết chí, tôi có loại thuốc rất hay, xin biếu bác! 
Vương Nghĩa quyết chí: 
- Làm kẻ trượng phu, há lại nói suông! 
Cả hai cười nói vui vẻ, dắt tay nhau ra khỏi cửa cung, về nhàTrương Thành ngồi, Trương Thành sai bày tiệc rượu, cả hai cùng chén chú chén anh, được vài ba chén, Vương Nghĩa ngỏ lời xin thuốc quý Trương Thành đáp: 
- Thuốc thì vẫn còn đó. Nhưng xin bác hãy nghĩ cho kỹ, tính kế lâu dài. Đừng vì chuyện cao hứng một lúc, mai kia không kiếm được một mụ già nào, không có một mụn con nào, rồi lại oán trách tôi à? 
Vương Nghĩa nghiêm sắc mặt mà nói: 
- Người ta sinh ra trong khoảng trời đất này, được thánh thượng biết đến, dẫu có chết cũng chẳng tiếc thân, sao lại còn nghĩ đến chuyện vợ con làm gì? 
Trương Thành bèn vào trong nhà lấy ra một con dao sắc, mà thổi sợi tóc qua có thể đứt đôi, cùng với hai gói thuốc, vứt ngay trên bàn, rồi chỉ tay: 
- Gói thuốc vàng kia, là thuốc mê, hòa với rượu mà uống thì sẽ không biết đau đớn gì nữa, còn gói màu ngũ sắc, là thuốc cầm máu, liền vết cắt, một loại thần dược, được chế từ các loại thuốc quý toàn là trân châu, hổ phách, các vị kỳ trân, dị bảo cả, tán thật nhỏ mà viên thành từng viên. Còn con dao kia là cái để hành sự. Với ba thứ này của tôi, bác cứ cầm về rồi theo đó mà làm là xong tất thôi mà. 
Vương Nghĩa lại hỏi: 
- Ơn bác chỉ cho, nhưng còn việc làm thì phải làm thế nào? 
Trương Thành đáp: 
- Đến cái khoản này thì cũng khó nói đây! 
Vương Nghĩa cam kết: 
- Bác chẳng còn phải giữ ý, đệ không dám để liên lụy đến bác đâu mà! 
Trương Thành thấy Vương Nghĩa quả tình muốn tự hoạn, liền mang thêm rượu ra, uống thả cửa một hồi, Vương Nghĩa đã gần say. 
Chính là: 
Kể gì tàn phế thân này 
Miễn là được chúa đêm ngày yêu thương. 
*** 

Hãy kể chuyện Dượng Đế thoái triều vào cung, Tiêu Hậu chờ đón, bày yến góp vui, gọi các cung nữ mới tuyển, thay nhau dâng rượu. Được vài tuần, Dượng Đế trông thấy một cung nữ, nhan sắc cũng bình thường, cử chỉ đoan trang. Dượng Đế bèn hỏi quê quán ở đâu. Cung nữ vội vàng quỳ lại, thưa trình mấy câu, nhưng dù chỉ một tiếng thôi, cũng chẳng ai hiểu nói gì. Bọn cung nữ đứng hầu bên cố mà nhịn cười để giữ được vẻ trang nghiêm, kính cẩn. 




Dượng Đế cho cung nữ này đứng dậy, rồi phán: 
- Vương Nghĩa vốn thông minh lanh lợi, ngôn ngữ của bốn phương lại thông thuộc nhiều, chỉ có y mới biết mà thôi! 
Tiêu Hậu khuyên: 
- Sao bệ hạ không gọi ngay y vào đây, để y giảng giải cho, càng thêm vui vẻ chứ sao? 
Dượng Đế bèn sai hai tiểu nội giám, đi triệu Vương Nghĩa vào cung. 
Hai nội giám vội ra khỏi cung cấm, đang định hỏi đến nhà Vương Nghĩa, thì gặp một thái giám chỉ: 
- Vương Nghĩa đi với Trương Thành về nhà Trương Thành rồi. 
Hai viên tiểu nội giám liền tìm tới nhà Trương Thành, tới cửa gọi rối rít. Bọn này lại chẳng vợ con họ hàng gì, lại là nội giám, chẳng có điều gì phải gìn giữ, hai viên tiểu nội giám cứ thế xông vào, đạp hết cửa này đến cửa khác, thì thấy ngay Vương Nghĩa chẳng khố chẳng quần gì cả. Trương Thành đứng bên, đang dùng thuốc xoa xoa vào hạ bộ Vương Nghĩa, rồi lăm lăm cầm dao. 
Thấy hai viên tiểu nội giám xồng xộc tiến vào, Trương Thành vội rụt tay lại, Vương Nghĩa cũng vội vàng bò dậy, kéo quần buộc lại. Hai viên tiểu nội giám, thấy bọn này làm những hành động như vậy, lại trên bàn thuốc men, dụng cụ còn đó, cười rũ rượi rằng: 
- Các người làm cái gì thế này? 
Trương Thành vốn biết rõ hai viên tiểu nội giám này là tay chân thân cận của Dượng Đế, không dám khinh nhờn, chỉ đành đem chuyện Vương Nghĩa tình nguyện làm việc này, nhất nhất kể lại một lượt. Một viên tiểu nội giám nói: 
- May mà chúng tôi tìm đến đây kịp, chỉ cần chậm một chút thôi, thì cái của Vương Thù Nhu đã bị cắt mất rồi. Chúa thượng tại hậu cung, đặc sai hai nội giám chúng tôi, tuyên triệu Vương Nghĩa vào cung, mau mau đi ngay? 
Lúc này Vương Nghĩa đã say đến tám chín phần, thấy nói Dượng Đế cho gọi, vội xin Trương Thành ít nước lạnh, rửa hết thuốc, lau mặt mày cho tỉnh táo hơn, rồi vội theo hai viên tiểu nội giám vào cung. 
Dượng Đế thấy Vương Nghĩa mặt mày hoảng hốt, cúi đầu quỳ dưới thềm, liền hỏi: 
- Nhà ngươi vừa uống rượu ở đâu? 
Vương Nghĩa mọi lần rất nhanh miệng, nhưng lần này không biết thưa gửi ra sao cho phải phép, hai viên tiểu nội giám thì cứ đứng lặng, cố nhịn cười. Dượng Đế thấy chuyện có vẻ lạ lùng, liền quay lại phía hai tiểu nội giám hỏi: 
- Hai người vừa rồi tìm thấy Vương Nghĩa ở đâu? 
Một viên thưa: 
- Tâu bệ hạ, chúng tiểu thần tìm thấy Vương Nghĩa ở nhà thủ cung thái giám Trương Thành! 
Dượng Đế lại hỏi: 
- Uống rượu là chuyện không đáng nói, còn có chuyện gì lạ ở nhà Trương Thành hay sao? 
Viên tiểu nội giám đem những lời Trương Thành cùng những vật những việc thấy ở nhà họ Trương thưa lại một lượt, Dượng Đế nghe xong, chau mày phán: 
- Vương Nghĩa đứng dậy! Trẫm nói cho ngươi rõ, phàm những người phải làm chuyện này, đều là những kẻ phạm tội, phải phạt cung hình, tổn thương đến cha mẹ, dòng họ. Hoặc nữa vì mộ đạo, làm tăng thì mới nguyện làm chuyện này, mong có ngày đắc đạo. Trong nội cung ta có cả một bọn thái giám lão luyện, tính toán độ số, bát quái rồi sau đó mới dám làm. Lại thêm đây là chuyện thường làm lúc còn nhỏ tuổi, ngươi năm nay đã ngoài hai mươi sao lại dám coi thường mà tự làm chuyện này, lỡ có chuyện không may, thì còn gì là tính mạng? 
Vương Nghĩa thưa: 
- Thần đội ơn sâu của bệ hạ, trời cao đất dày, thì dẫu có nát thịt tan xương, cũng chẳng có điều gì đáng tiếc. Huống hồ chỉ là những tổn thương nhỏ thì có gì là phái lo nghĩ, thần xin nguyện cam chịu. 
Dượng Đế phán: 
- Nhà ngươi có lòng trung nghĩa như vậy, trẫm biết lắm rồi. Nhưng ngươi chỉ cần lo chuyện tận trung, tận nghĩa, đừng nghĩ đến chuyện báo đền vội. Cha mẹ sinh ra ngươi, dẫu cho có là man di đi nữa, cũng mong ngươi có vợ có con, nối tiếp dòng dõi ngày càng thịnh vượng, sao lại coi nhẹ tấm thân của cha mẹ để lại làm thương tổn nó, hủy hoại nó, khiến cho trẫm cũng khó mà tránh nổi sự oán thán của linh hồn cha mẹ ngươi sau này, cho nên ngươi không thể làm như vậy. Nếu ngươi vẫn không nghe lời trẫm thì chính ngươi không phải là kẻ trung, kẻ nghĩa mà lại là phường phản nghịch mà thôi! 
Vương Nghĩa nghe xong, không ngăn nổi hai hàng nước mắt ngắn dài, khấu đầu dưới đan trì tạ ơn vương thượng. 
Dượng Đế lại tiếp: 
- Vừa rồi có một cung nữ mới được tuyển vào, ngôn ngữ bất đồng, gọi ngươi vào để hỏi cho rõ, cung nữ này là người ở đâu, gia cảnh thế nào? 
Nói xong, liền cho gọi cung nữ ra trước điện, Vương Nghĩa cùng cung nữ này, người hỏi người đáp, líu lô chẳng khác gì chim họa mi, chim oanh vũ trong đám liễu xanh thánh thót, uyển chuyển rất êm tai, khiến cho Tiêu Hậu cùng đám cung nữ theo dõi rất chăm chú thích thú, cười đùa vui vẻ. Vương Nghĩa nhỏ to một hồi, rồi quay ra thưa với Dượng Đế: 
- Tâu bệ hạ, cung nữ này là người ở Huy Châu, Thiệp Huyện, họ Khuông, cha ông vốn nhà gia thế, tên gọi là Đình Đình, tuổi vừa mười tám, cha mẹ đều mất, gặp phải người anh gian ngoan, tham của, định đem gả em gái để lấy trâu bò. Vừa đúng lúc chúa thượng tuyển cung nữ, Đình Đình lên đến tận châu quận, tự nguyện ghi tên, xin được vào phục dịch trong cung cấm. 
Dượng Đế nghe xong, bèn truyền: 
- Cứ thế này mà suy, thì cũng là một người con gái có chí, từ cử chỉ, diện mạo đến việc làm đều khác thường. Nay trẫm đem người con gái này thưởng cho ngươi làm vợ, làm nên một cặp vợ chồng hiền hậu, hiểu biết, liệu có được không? 
Vương Nghĩa nghe vua nói thế, vội vàng quỳ xuống thưa rằng: 
- Thần mang ơn tri ngộ của bệ hạ, đang những mong quên thân này để đền đáp, sao lại dám nghĩ đến chuyện thất gia. Phương chi, người con gái này được tuyển vào nơi cung cấm, thần thật không dám nhận vậy! 
Dượng Đế vẫn giữ ý: 
- Ý trẫm đã quyết. Người chớ chối từ! 
Vương Nghĩa cũng đã hiểu tính tình Dượng Đế, không dám nói thêm, chỉ cùng Đình Đình dập đầu dưới thềm tạ ơn. Tiêu Hậu lên tiếng. 
- Vương Nghĩa, ngươi đem Đình Đình về, dạy cho ít tiếng chúng ta, dừng để y cứ nói líu lô như chim như thế nữa. Nếu trong cung có việc gì ta sẽ truyền gọi vào sai bảo. 
Rồi Dượng Đế ban cho một ít vàng lụa, Tiêu Hậu cũng cho ít nhiều châu ngọc, Vương Nghĩa đem theo Đình Đình, ra khỏi cung cấm, trở thành vợ chồng. Vương Nghĩa càng cám ơn sâu của Dượng Đế cùng với Đình Đình ngày đêm hương khói, thờ sống Dượng Đế, vợ chồng hòa thuận thương yêu nhau khác thường. 
Chính là : 

Những tưởng dọn mình báo chúa 
Ngờ đâu nên cửa nên nhà , 
Nếu mà tàn phế thân ta 
Chẳng khác cành hoa trong mộng.


Nguồn maxreading.com 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved