Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

3 thg 4, 2014

Những người phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam (6)

I. Mỹ nhân Việt nửa đầu TK XX

1.Nguyễn Thị Liễu

Có một vài sự khẳng định không giống nhau về năm tháng của sự việc. Có người nói cuộc thi hoa hậu đầu tiên mở tại Sài Gòn vào năm 1937 , nhưng người khác khẳng định cái mốc “đầu tiên” ấy lùi rất xa vào năm 1864 (cách đây những 146 năm)! Lại cũng có người bảo vào năm 1865! Người thì nhớ mang máng “đâu vào thời… Ngô Đình Diệm!”.
Có tài liệu cho rằng cuộc thi hoa hậu đầu tiên đã diễn ra tại vườn Ông Thượng tức vườn Tao Đàn hiện thuộc địa bàn quận 1, TP.HCM vào năm nói trên. Đứng ra tổ chức cuộc thi (gọi theo tiếng Pháp là Concours élégantSaigon) là một nhóm công chức với sự kết hợp và hỗ trợ của một số nhà kinh doanh lúc bấy giờ đang hoạt động ở Sài Gòn.
Tuy mở trên đất “Bến Nghé xưa” song phạm vi “tuyển sinh” lan đến tận những vùng xa hơn, đến các thành phố và nông thôn ngoại vi Sài Gòn, nên đã có 19 cô gái vừa là “dân Bến Nghé” vừa là hoa khôi ở lục tỉnh được chọn để bước vào tầm ngắm của làng đẹp xứ ta. Nói “xứ ta” vì có người bảo rằng đây không những là cuộc thi hoa hậu đầu tiên của Sài Gòn, của Nam Bộ, mà của cả ViệtNam nữa. Một trong những đặc điểm cuộc thi là thí sinh mặc toàn áo dài ViệtNam do nhà may Phúc Thịnh thiết kế có lẽ theo mẫu mã thời thượng lúc ấy. Vải may áo thì do ông Lê Trương Biểu sản xuất và cung cấp. Có nghĩa là cuộc thi hoa hậu này từ người đẹp đến trang phục đều là nội hóa “rất ViệtNam”. Kết quả, người đẹp được nhận danh hiệu hoa hậu đầu tiên vào năm 1937 là cô gái 25 tuổi tên là Nguyễn Thị Liễu, và cuộc thi hoa hậu này còn có tên Concours Elegant Saigon (thi tuyển người lịch sự Sài gòn) vào năm 1937.
Nguyễn Thị Liễu sinh năm 1912, quê ở Hóc Môn. Nguyễn Thị Liễu lấy chồng năm 17 tuổi nhưng chỉ được 6 tháng thì chồng cô vắn số qua đời, cô hoa hậu bất đắc dĩ sống cuộc đời góa bụa. Đến nay vẫn chưa tìm thấy chân dung của hoa hậu Nguyễn Thị Liễu.

2.Cô Ba Xà Bông

Đứng hàng đầu trong danh sách những người đẹp vang bóng trên đất Sài Gòn vào cuối thế kỷ 19 và những thập niên đầu thế kỷ 20 phải kể đến “cô Ba Xà Bông”
Có tài liệu cho rằng cuộc thi hoa hậu đầu tiên ở Việt Nam do người Việt Nam tổ chức thì vào năm 1865 và mang tên cuộc thi Miss Sài Gòn dành riêng cho các người đẹp Việt Nam. Lần này điều lệ được phổ biến không chỉ ở phạm vi Sài Gòn mà còn lan ra nhiều vùng phụ cận nên sau đó đã có gần 100 cô gái đăng ký dự thi với kết quả người đoạt vương miện Hoa hậu “là cô Ba, con gái của ông Chánh, làm nghề thư ký. Trước vẻ đẹp rực rỡ của cô Ba, nhiều người Pháp đã đề nghị cô chụp ảnh để đăng báo ở chính quốc. Họ rất muốn chụp cô trong trang phục áo tắm nhưng cô không đồng ý. Chân dung cô sau đó được vẽ rồi in thành tem với số lượng phát hành lớn chưa từng có. Một thời gian sau đó, cô Ba lấy chồng Việt Nam bình thường và sống giản dị, bỏ lại đằng sau ánh hào quang phù phiếm và không bị ảnh hưởng bởi lối sống ngoại lai.
Sở dĩ gọi “cô Ba xà bông” vì hình của người đẹp này được in nổi trên các sản phẩm nổi tiếng của Hãng xà bông Việt Nam do ông Trương Văn Bền lập ra. Các hình ấy xuất hiện cùng lúc với các mẫu xà bông hình vuông nhiều cỡ, nặng 250 gr, 500 gr hoặc chỉ 125 gr, về sau thêm loại lớn và dài nặng gần 1 kg đúc thành cây mua về cắt từng miếng nhỏ xài dần. Mỗi loại như thế đều có sự “hiện diện” của cô Ba, lưu hành đến các nơi đô hội dần dần đến tận các chợ miền xa ngoài Sài Gòn và lục tỉnh. Như thế cô Ba đã nghiễm nhiên trở thành “người mẫu” đầu tiên gắn liền với một thương hiệu Việt Nam mới ra đời đầu thế kỷ 20. Sự ra đời này cùng với hình ảnh cô Ba, theo một số nhà quan sát, đã nhấn mạnh sự có mặt của sản phẩm Việt và chấm dứt sự thao túng gần như độc quyền của Hãng xà bông Marseille của Pháp đối với người tiêu dùng Việt Nam lúc bấy giờ.
Cô Ba là ai mà được ông Trương Văn Bền chọn làm biểu tượng bên hương thơm xà bông Việt? Điều này tác giả Sài Gòn năm xưa đề cập đến một cách rõ nét, rằng: “Trong giới huê khôi, nghe nhắc lại, trước kia, hồi Tây mới đến có cô Ba, con gái thầy thông Chánh là đẹp không ai bì, đẹp tự nhiên, không răng giả, không ngực keo su nhơn tạo, tóc dài chấm gót, bới ba vòng một ngọn, mướt mượt và thơm phức dầu dừa mới thắng, đẹp không vì son phấn giả tạo, đẹp đến nỗi Nhà nước in hình vào con tem Nhà Thơ Dây Thép (Bưu điện)”. 
Cạnh cô Ba, tác giả nhắc đến một số hoa khôi khác như Tư Nhị, Sáu Hương, Hai Thời… vốn là những người đẹp đã làm nghiêng ngả nhà cửa ruộng vườn của nhiều tay hiếu sắc. Theo đó, các cô mỗi chiều ngồi trên xe Delage để mui trần, có tài xế riêng, hoặc ngồi trên xe Hoa Kỳ mới cáu cạnh để lượn đi lượn lại quanh các đường phố chính của Sài Gòn từ chợ Bến Thành qua đường Bonard (đường Lê Lợi ngày nay) vòng qua trường Chasseloup – Laubat (trường Lê Quý Đôn ngày nay), xuống khu Chợ Lớn, khoe sắc trên đường nhựa “để lên Thủ Đức ăn nem hoặc đến tắm suối Xuân Trường… Tối lại dưới bóng đèn, các cô như bướm tề tựu đủ mặt cạnh sòng bài sòng me, hoặc năm ba người gầy mâm hút có đờn ca giúp vui, báo hại các cậu con chủ điền muốn lên mặt với chị em đành phải trốn về bán lúa vay bạc Chà, cố cầm sự nghiệp ông bà để lại” mà chạy theo cho kịp nếp ăn chơi của các hoa khôi đương thời.
Nhưng nếp sống ấy dường như không phù hợp với cô Ba xà bông. Có người bảo vì cô sinh ra trong một gia đình công chức nên không quen sống buông thả, người khác cho rằng bản tính của cô vốn vậy từ lâu. Gần đây, vào giữa tháng 6.2006, trong bộ sách mới nhất quanh nội dung Hỏi đáp về Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh của nhiều tác giả do NXB Trẻ ấn hành, đã cho biết cô Ba là “người đã dám cầm súng bắn chết tên biện lý Jaboin, bị Tòa đại hình Mỹ Tho kết án ngày 19.6.1893 và bị xử tử ngày 18.1.1894 tại Trà Vinh”. Người đẹp lừng lẫy Sài Gòn một thời, người mẫu đầu tiên của thương hiệu Việt nổi tiếng, đã có một kết cục cuối đời như thế.

3.Cô Ba Trà

Một nhan sắc khác cũng nức tiếng toàn cõi Namkỳ là Cô Ba Trà (Yvette Trà). Những người quen biết và từng giao thiệp với Yvette Trà đều xem đó là niềm vinh dự để chứng minh đẳng cấp, đủ để hiểu ngoài việc xinh đẹp cô còn là một thương hiệu hiếm có, có lẽ do thông minh và hiểu tâm lý đàn ông!
Sinh năm 1906, được mệnh danh là Étoile de Saigon” (ngôi sao Sàigòn). Với nhan sắc hiếm có cộng với trí thông minh của mình, cô lần lượt “đốn ngã” hàng loạt những tay chơi hào hoa giàu có bậc nhất Sàigòn như lưỡng vị Hắc – Bạch công tử, công tử Bích (người dám một lúc tặng cho cô 70.000 đồng trong lúc vàng 60 đồng một lượng).
Những tay trí thức, máu mặt chốn quan trường thời Pháp thuộc cũng đổ gục vì cô: Quan tòa Trần Văn Tỷ, trạng sư Dương Văn Giáo, bác sĩ Lê Quang Trinh, Nguyễn Văn Áng, chủ sòng bạc Paul Ngọ tức Sáu Ngọ…
Cô ba Trần Ngọc Trà còn được mệnh danh bà hoàng vũ trường, sòng bài Sài Gòn hồi cuối thế kỷ XIX. Những bậc “máu mặt” đều biết rất rõ, cô Ba Trà chỉ thích chia cho mỗi ngưòi một mảnh tình gặm chơi đỡ buồn, chứ đừng ai mong lấy được Ngôi sao Sài Gòn làm của riêng hay làm người yêu vĩnh viễn vì cô Ba đã lập gia đình vài ba lần và rồi tan vỡ.
 Nhưng tuổi thơ của người đẹp này lại vô cùng cay đắng, tủi nhục. Cha của cô đem lòng nghi ngờ sự chung thủy của vợ, ông không thừa nhận Trà là con đẻ. Và cũng vì quá ghen tuông nên cha cô đã qua đời vì thổ huyết. Bà nội của cô đau buồn nên cũng mất theo. Người bác ruột của cô vin vào cớ đó đã sỉ nhục, đánh đuổi mẹ con cô ra khỏi nhà.
Vì quá đau khổ, nhục nhã nên được bao nhiêu uất ức, mẹ cô đều trút lên vai đứa con nhỏ dại. Những trận đòn roi vô cớ liên tục ập xuống đầu cô nhiều đến nỗi, cô không còn thấy đau đớn. Chính điều này đã làm cho cô Ba Trà sau này luôn nhìn đời bằng một con mắt lạnh lùng, vô cảm.
Tình duyên, hôn nhân của cô cũng rất lận đận. Cô bắt đầu kết hôn ở tuổi 14, và đã trải qua 4 cuộc hôn nhân lần lượt là: viên quan ba người Pháp, con rai tỷ phú đất Phan Rang, bác sĩ Trần Ngọc Án, và cuối cùng là 1 triệu phú trẻ tuổi, nhưng tất cả đều tan vỡ. Kể từ đó, cô lao vào ăn chơi, cặp kè hết người này đến người khác và dấn sâu vào con đường bài bạc
Những canh bạc lớn đã đốt sạch gia sản của người đẹp. Khi còn trẻ, cô Ba Trà được nhiều người săn đón bao nhiêu thì đến lúc già, cô lại cô độc bấy nhiêu. Kể cả người tình nghĩa hiệp Lâm Kỳ Xuyên cũng ra đi không một lần ngoái lại. Đến cuối đời, hoa khôi Trần Ngọc Trà lâm vào cảnh nợ nần, túng bấn và phải đi làm công ở một cửa tiệm tồi tàn để sinh kế. Cuộc đời của đóa hoa đẹp nhất Sài Gòn lúc bấy giờ đã khép lại bằng những nốt trầm buồn bã.

4.Marianne Nhị (Tư Nhị)

Nối gót Yvette Trà chính là Marianne Nhị hay còn gọi là Tư Nhị, cô có nhan sắc đậm đà và hoang dã hơn YvetteTrà. Marianne Nhị là “đứa con hai dòng máu”, cha gốc Khơ-me, mẹ Việt (quê Sa Đéc), gia đình sinh sống lâu năm ở Nam Vang.
Lớn lên, Marianne Nhị về ViệtNam, một mình dấn thân vào chốn đô hội ở Sàigòn với hai bàn tay trắng. Để có chỗ nương thân, Nhị lúc đầu xin làm em nuôi dưới trướng của chị Ba Phò và sống trong nhà chị ấy ở khu vực chợ Thái Bình.
Sau này, Marianne Nhị được Yvette Trà dìu dắt, từ đó, cô lao vào cuộc chơi với giới thượng lưu Sàigòn và nhanh chóng trở thành tình nhân của Fanchini, một trùm giang hồ gốc đảo Corse chuyên buôn thuốc phiện toàn cõi Đông Dương và tậu được một căn biệt thự khang trang ở đường Verdun (tức đường Cách Mạng Tháng Tám bây giờ).
Với bản tính man dại và chủ trương cạnh tranh với bà chị đỡ đầu Yvette Trà, Marianne Nhị lao vào các cuộc chơi như một con thiêu thân. Người tình của Tư Nhị thay xoành xoạch và thú hút thuốc phiện đã nhanh chóng đẩy Marianne Nhị vào bi kịch. Sau vài năm, trong lúc Yvette Trà vẫn còn là một bông hoa đầy hương sắc, thì Marianne Nhị bỗng dưng biến mất.
Một người lịch lãm ở Sàigòn thời ấy tình cờ gặp Marianne Nhị trong một quán ăn ở đường George Guynemer vào năm 1946 với tình cảnh hoàn toàn khác xưa. Người này sau bữa điểm tâm, trả tiền xong định quay về, bỗng nghe tiếng gọi giật ngược: “Anh Ba!”. Ngoái lại, biết tiếng kêu ấy phát ra từ trong đám hành khất rách rưới, định bước đi, lại nghe gọi đến mình thống thiết lần nữa, lần này đượm vẻ bi ai hơn trước. Rồi một người đàn bà trong đám ăn mày tách ra, đến trước mặt anh Ba, thảng thốt nói: “Em là Tư Nhị đây”.
Nhìn kỹ một lúc, không nói nên lời, vì người đàn bà ấy trước kia là hoa khôi lừng lẫy một thời, giờ đây môi thâm đen, đôi chân nõn nà quấn quanh mấy lớp vải dính máu mủ với đám ruồi bu đen không ngớt, trông dơ dáy, não nề, không dám nhìn lâu, bỏ nhẹ 20 đồng bạc xưa vào tay Nhị rồi quay đi.
Biết chuyện, một bạn thơ muốn mượn hai câu lục bát của cụ Nguyễn Du, đó là câu mở đầu và câu kết thúc truyện Kiều ghép làm một, để nói về một đời nhan sắc phù hoa: Trăm năm trong cõi người ta. Mua vui cũng được một vài trống canh…

5.Cô Sáu Hương

Chỉ sau cô Ba Trà, cô Tư Nhị vài năm, thì cô Sáu Hương nổi lên. Cô này được dân phong lưu thời đó tả lại:"Đẹp như Tây Thi! Cô có nước da trắng ngần, đôi mắt lá liễu sáng ngời, bờ môi mọng lúc nào cũng ươn ướt và luôn mĩm cười...". Sáu Hương cũng là người có học, xuất thân trường áo tím (trường Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay) và có thời được tôn là "Hoa Khôi trường Áo Tím". Vào đời, cô may mắn quen biết với một Pháp kiều già, vốn là quản lý nhà hàng continental nổi tiếng, và được giúp đỡ vốn liếng. Có một giai thoại kể rằng, lúc mới quen Sáu Hương, vì quá mê nhan sắc của cô, nên lão Pháp kiều đã mạnh dạn hứa hẹn sẽ nhượng nhà hàng Continental cho cô Sáu.

Thời ấy, nhà hàng Continental là một trong hai nhà hàng khách sạn bậc nhất của Saigon (cái kia là Majestic) nên trước việc lão Tây buông ra lời hứa như thế, chẳng ít người đã cười vào mũi lão ta cho là nói phét, nhưng lão này quả quyết:"Các người không nhớ là ngày trước, khi công tước Duc de Mongtpensier mới sang Saigon, ông đã mời bà Công tước Comtesse de B. đến ăn và hứa rằng sẽ mua nhà hàng Continental làm lễ cầu hôn và ông ta đã làm được chuyện đó.

Lời hứa của lão Pháp già chưa được thực hiện, không phải lão không có tiền, mà do lão chết đột ngột! Từ đó, cô Sáu Hương chẳng cần đến cái nhà hàng Continantal mà cũng giàu và nổi tiếng. Bởi vì cô quá đẹp, đẹp đến nổi những tay chơi, những triệu phú đều say mê, đeo bám  xung quanh cô, họ thi nhau cung phụng cho người đẹp không thiếu một thứ gì, từ nhà lầu xe hơi cho đến những trương mục trong ngân hàng. Người ta đồn rằng, trong số những mỹ nhơn thời đó, chỉ có Sáu Hương là giàu nhất! Tuy vậy, cô chỉ vang danh khoảng 10 năm, rồi sau rút vào im lặng... Chừng như biết dừng lại đúng lúc, trước khi nhan sắc phai tàn. Có người nói, về sau cô Sáu Hương sống sung túc với người thân ở một ngôi biệt thự gần vùng chợ Bà Chiểu...

6.Đốc Sao 

Tại Việt Nam, thế kỉ XX ghi dấu ấn đậm nét về kỹ nữ tài sắc bậc nhất Hà thành Đốc Sao. Nhan sắc mặn mà, đa tình của cô đã làm điêu đứng biết bao chàng công tử. Cô có làn da trắng, đôi mắt biết nói và đặc biệt là khuôn mặt đậm chất phồn thực. Một tờ báo thời bấy giờ từng viết rằng: “Khi nhìn mặt Đốc Sao, người ta sẽ không thể nghĩ những điều tốt đẹp hơn”.
Tuy được nhiều người theo đuổi song cô lại chỉ chung tình với duy nhất nhà báo nghèo Hoàng Tích Chu, người đã giúp cô trong việc mở và phát triển nhà hát có phòng khiêu vũ đầu tiên trên đất kinh kì. Cô Đốc tình nguyện chăm sóc cho Chu trong đời sống, lo cho tờ báo của ông. Đến khi Hoàng Tích Chu mất vào năm 33 tuổi, cô Đốc đã in trên danh thiếp của mình là: “Bà góa phụ Hoàng Tích Chu”. Sự chung tình của một danh kĩ như Đốc Sao đã khiến nhiều người phải cúi đầu thán phục.

7.Lý Lệ Hà

Lý Lệ Hà vốn xuất thân là một cô gái nông thôn nghèo quê ở Hải Phòng, được mọi người quen gọi là Thông. Năm 1932, cô bắt đầu sống bằng việc “buôn hương bán phấn” nổi tiếng với sắc đẹp quyến rũ. Khoảng 1934 (1935?), cô trú tại một nhà hát cô đầu ở khu phố Quán Bà Mau ở đất Cảng. Năm sau, cô lên Hà Nội và tiếp tục làm gái nhảy cho một vũ trường ở phố Khâm Thiên của cô Đốc Sao. Cùng với cô Đốc Sao, Lý Lệ Hà trở thành một trong hai vũ nữ nổi tiếng bậc nhất Hà Thành khi đó.
Về việc Lý Lệ Hà trở thành người tình của Bảo Đại có nhiều giai thoại khác nhau. Nhưng cuối cùng, nhan sắc tuyệt trần với hàm răng trắng như ngọc của Lý Lệ Hà đã khiến cho Bảo Đại say mê. Không những vậy, với kinh nghiệm tình trường dày dạn, Lệ Hà liên tục có các chiêu tấn công độc đáo khiến ông hoàng Bảo Đại luôn luôn bị động, lúng túng và gục ngã vô điều kiện.
 Sau khi chính thức là người tình của Bảo Đại, vũ nữ Lệ Hà và ông hoàng lúc nào cũng đi cùng với nhau. Sách “Bảo Đại hay những ngày cuối cùng của Vương quốc An Nam” có ghi lại rằng: Bảo Đại quan hệ công khai với Lý Lệ Hà, đêm đêm đi dạo, ăn nhậu, lui tới các nơi ăn chơi, tiệm nhảy bất chấp dị nghị của dân chúng đang sống khắc khổ đạm bạc.
 Mối tình của Bảo Đại và Lý Lệ Hà đã khiến cho Nam Phương hoàng hậu cũng như thứ phi Mộng Điệp vô cùng buồn lòng. Sau năm 1946, Lý Lệ Hà cùng Cựu vương Bảo Đại sống lưu vong tại Hồng Kông.

 Nhưng cuối cùng, cuộc tình giữa Lý Lệ Hà và Bảo Đại cũng kết thúc vì Bảo Đại vốn là một người đàn ông đẹp trai, thông minh nhưng cũng vô cùng đa tình. Ông hoàng Bảo Đại đã tự động rời bỏ cô vũ nữ xinh đẹp để tiếp tục đeo đuổi những mối tình khác.

8.Vũ nữ Cẩm Nhung

Một nhân vật mà  những người từng sống ở miền Nam qua thời cái gọi là đệ I và đệ II Cộng hòa trước 1975 đều biết hoặc nghe nhắc tới- vũ nữ Cẩm Nhung, mỹ nữ số một Sài Gòn. Là một gái nhảy chuyên nghiệp, cô đã làm rất nhiều công tử hào hoa đất Sài gòn phải chết mê chết mệt. Cuối cùng cô cặp hẳn với trung tá Thức Công Binh. Vào thời Diệm-Nhu, cấp bậc trung tá không nhiều. Sống với nhau theo kiểu già nhân ngãi non vợ chồng được một thời gian, sau khi đã cắt đi hầu hết những quan hệ tình ái phức tạp khác, Cẩm Nhung nghĩ rằng mình có thể trở thành trung tá phu nhân .
Mọi việc đến tai bà Năm Ra đô, ("hỗn danh" vùng nhà lô Cô Bắc dành cho chính thất của trung tá Thức). Một kế hoạch tiêu diệt tình địch được tiến hành. Hai tên giang hồ có cỡ được thuê với giá 2 lượng vàng. Một ca acid đậm đặc được tạt thẳng vào gương mặt Cẩm Nhung. Có lẽ đây là vụ tạt acid đầu tiên của Việt Nam. Lãnh trọn ca acid, Cẩm Nhung gục ngay tại chỗ. Từ một mỹ nữ bậc nhất Sài Thành, Cẩm Nhung mang trên mình khuôn mặt của quỷ dữ. Những người đàn ông từng vây quanh cô giờ đây xa lánh, bỏ mặc cô. Cuộc đời Cẩm Nhung xuống dốc không phanh vì ngập ngụa trong thuốc phiện và rượu rồi kết thúc khi cô tiêu tán hết tài sản và phải đi ăn xin sống cho qua ngày.

9.Bà Hà?

 Bà Hà là vợ của một trung tá không quân giải ngũ do sức khỏe, bà tìm đến bạn bè của chồng để "giao dịch làm ăn". Bà đẹp đến độ trong tất cả mệnh phụ phu nhân và cả nhân tình nhân ngãi của giới tướng tá Sài Gòn khi ấy không ai sánh nổi. Vốn là tiểu thư gốc Hà Nội ăn nói duyên dáng thanh lịch cộng thêm nhan sắc đẹp não nùng, chỉ trong thời gian ngắn, chẳng ai không biết đến bà và cũng chẳng ai nhớ đến ông chồng hom hem của bà đang nằm nhà đợi ngày quy tiên. Những cuộc chiêu đãi của đệ nhất phu nhân Kim Anh - vợ Nguyễn Văn Thiệu và bà đại tướng Trần Thiện Khiêm, lúc nào cũng thấy bà bên cạnh những nhân vật chóp bu của quân đội Sài Gòn. Sau khi trở thành Phó Chủ tịch Hội Bảo trợ gia đình binh sĩ và là "nhân tình nhân bánh" của hơn hai chục tướng lãnh, bà Hà bắt đầu "làm ăn". Chiêu thức rủ hùn hạp thầu rác Mỹ xem ra hiệu nghiệm. Một ngày nọ, mỹ nhân biến mất không tăm tích sau khi thu hoạch khoảng gần 200 triệu đồng (khi ấy 32.000 đồng/lượng vàng) và một số quý kim, hột xoàn của các bậc mệnh phụ phu nhân đương thời. Điều lạ lùng là ngay cả mạng lưới tình báo của cảnh sát đặc biệt và phủ đặc ủy trung ương tình báo của chế độ cũ cũng bó tay không tìm ra mỹ nhân lừa đảo!

10.Kiều Chinh


 Kiều Chinh (sinh năm 1937, tên thật là Nguyễn Thị Chinh) là một nữ diễn viên nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Bà đã từng tham gia các phim như Hồi chuông Thiên Mụ, Mưa rừng, Bão tình, Chiếc bóng bên đường, Hè muộn... Bà vừa là diễn viên chính và là người sản xuất bộ phim phản chiến Người tình không chân dung (1971).

Trong thập niên 1960, Kiều Chinh cũng xuất hiện trong nhiều cuốn phim của Mỹ. Sau năm 1975, Kiều Chinh sang định cư ở Mỹ và tiếp tục tham gia đóng phim. Năm 2012, bà trở lại với điện ảnh Việt Nam qua một vai diễn rất ấn tượng trong bộ phim Ngọc Viễn Đông.





11.Ca sĩ Kim Loan

Ca sĩ Kim Loan theo học nhạc sĩ Nguyễn Đức từ năm 8-9 tuổi, bắt đầu sự nghiệp ca hát năm 1966 và nhanh chóng được chú ý bởi vẻ đẹp khá Tây. Vẻ đẹp ấy luôn sáng rực khi bước lên sân khấu.
Trong một lần giúp vui cho quân đội, Kim Loan lọt vào mắt xanh của Nguyễn Văn Thiệu. Sau đó, Kim Loan được các sĩ quan mai mối với Thiệu và trở thành vợ bé của Thiệu một cách hết sức bí mật được khoảng gần một năm.
Vợ Thiệu phát hiện và dọa sẽ cho người "thịt" tình địch, Thiệu hoảng sợ và bèn sắp xếp cho Kim Loan sang định cư ở Tây Đức. Sự nghiệp của ca sĩ - người đẹp chấm dứt vào năm 1969.




12.Nguyễn Thị Mai Anh

Người đẹp Nguyễn Thị Mai Anh là con gái thứ bảy trong một gia đình lương y truyền thống nổi tiếng ở thành phố Mỹ Tho. Là người Công giáo toàn tòng nhưng bà Mai Anh ảnh hưởng khá lớn nề nếp, gia phong của một gia đình phong kiến. Phong thái, cung cách ứng xử, phẩm hạnh của bà thể hiện rất rõ nét tinh hoa của Khổng giáo.
Năm 1951, Mai Anh cưới thiếu tá Nguyễn Văn Thiệu. Cô không biết biết rằng 14 năm sau, chàng rể thiếu tá được thăng hàm trung tướng rồi đăng cơ Quốc trưởng, đứng đầu Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia rồi trở thành Tổng thống. Cô dâu Nguyễn Thị Mai Anh nết na, nhu mì thuở nào trở thành Đệ nhất phu nhân của miền Nam Việt Nam.



13.Ca sĩ Minh Hiếu

Xuất thân từ gia đình một ông hớt tóc nghèo hèn, ca sĩ Minh Hiếu nổi danh khắp miền Nam vì vừa có tài lẫn nhan sắc mặn mà hiếm có. Nhờ vẻ đẹp mong manh cuốn hút và giọng hát đắm say lòng người, cô nhanh chóng trở thành ngôi sao sáng tại các phòng trà và là mục tiêu theo đuổi của không ít tay chơi khét tiếng.
Do giao du nhiều, đời tư của người đẹp này xảy ra rất nhiều biến động, được báo chí khai thác triệt để như vụ "đại úy Ngô Bằng cưỡng hiếp ca sỹ Minh Hiếu", vụ tự sát bằng cách uống nguyên một lọ hơn 20 viên thuốc ngủ Euquinol (nhưng được cứu sống kịp thời). Sau nhiều giai thoại tình trường, Minh Hiếu đã trở thành vợ của Vĩnh Lộc - người thuộc dòng dõi hoàng tộc Nguyễn, uy quyền không kém vua Bảo Đại.



14.Thẩm Thúy Hằng


Thẩm Thúy Hằng tên thật là Nguyễn Kim Phụng, sinh năm 1941 tại Hải Phòng, sau đó theo gia đình di cư vào Nam. Khi mới 16 tuổi, vượt qua hơn 2.000 cô gái đẹp khác, Nguyễn Kim Phụng đã đoạt giải nhất trong cuộc thi tuyển diễn viên của một hãng phim lớn tại Sài Gòn.


Sau cuộc thi này, cô bắt đầu lấy nghệ danh là Thẩm Thúy Hằng và được gửi sang Hong Kong dự lớp đào tạo diễn xuất ngắn ngày. Thẩm Thúy Hằng nhanh chóng trở thành nữ “minh tinh màn bạc” nổi tiếng, được coi là biểu tượng nhan sắc phụ nữ một thời ở Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung.
Sau Giải phóng, bà tiếp tục thành công trong sự nghiệp điện ảnh - sân khấu. Có thể nói, Thẩm Thúy Hằng là một người đẹp toàn tài bởi ngoài khả năng diễn xuất, quản lý hãng phim, bà còn gặt hái được không ít thành công trong lĩnh vực kịch nói, cải lương, tân nhạc.




15.Cô Phượng Hàng Ngang

Vương Thị Phượng là thiếu nữ Hàng Đào, được liệt vào nhóm Hà Thành tứ mỹ. Người Hoa kiều ở Hàng Ngang nói rằng, cặp lông mày của cô “yên my“ (lông mày như mây khói), cặp mắt là “bán thụy phượng hoàng“ (con phượng hoàng nửa thức nửa ngủ, nghĩa là mắt mơ màng say đắm. Đối tượng nhìn vào đôi mắt ấy tự thấy mình như một chiếc lá vàng rơi… 
Cô Phượng ăn mặc rất nền, khi thì chít khăn nhiễu tam giang, khi thì chít khăn nhung đen, đuôi gà vắt qua mái tóc. Cô hay mặc yếm hoa hiên, quần lĩnh tía cạp điều thắt lưng quan lục. Tất cả những màu sắc ấy ánh lên qua chiếc áo dài vải phin trắng may sát vào thân hình nở nang”. Và đã có không ít văn nhân - ký giả đương thời khi được diện kiến cô Phượng đã phải thốt lên: “Tây Thi khiếp vía, Hằng Nga giật mình”. Nhiều thanh niên, nhà ngay sát chỗ làm, nhưng hàng ngày vẫn bốn lần đi về theo đường vòng để qua phố Hàng Ngang, để được ngắm cô Phượng từ xa. Nếu hôm nào không một lần được thấy cô, họ thấy bồn chồn, bứt rứt, đứng ngồi không yên. Khi tàu điện chạy qua phố Hàng Ngang, không ai bảo ai, tất cả hành khách đều hướng mắt về phía dãy nhà mang số chẵn, nơi có một mỹ nhân góp phần làm cho vẻ đẹp Hà Nội thêm rực rỡ. 


Nhiều người "thèm" muốn như vậy, nhưng Thị Phượng lại lấy chồng - hạng công tử “tốt mã giẻ cùi” ở Hàng Ngang. Chồng cô suốt ngày rong chơi, chỉ coi vợ như một thứ đồ đắt tiền, xinh xinh, chỉ để ngắm nghía, canh chừng, chứ không phải để tâm tình, cùng nhau vươn tới những khát vọng xa xôi. Thậm chí, vì nghiện cờ bạc rượu chè và có tính ghen tuông, chồng thường đánh cô và đòi ly dị. Cô sớm hiểu ra thân phận người phụ nữ lúc đó nên đã phản kháng bằng cách bỏ chồng đi theo tiếng gọi của một anh chàng nhà báo trẻ đầy tài hoa, tên là Hoàng Hồ, bút danh Hoàng Tích Chu, con trai một ông Huyện ở Bắc Ninh. Hai người yêu nhau say đắm, thực là một đôi trai tài gái sắc! Vào khoảng cuối năm 1927, cả Hà Nội chấn động trước tin cô Phượng mất tích. Mãi sau này, mọi người mới biết cô Phượng đã theo Hoàng Tích Chu vào Sài Gòn. Cô đâu có biết rằng đó là một chuyến đi định mệnh. Hoàng Tích Chu đã quyết chí sang Pháp học nghề làm báo và hoàn cảnh không cho phép Chu đem theo người tình. Lúc đó, Chu bảo với Phượng về Bắc gặp cha, đem theo một bức thư cầu khẩn rất cảm động để ông nhận Phượng làm con dâu trong khi đợi Chu du học về. 
Vốn là người có quan niệm cổ về lễ giáo, ông Huyện cho là gia đình Phượng không môn đăng hộ đối với gia đình ông, nên sai người đưa Phượng về xin lỗi chồng để trở lại, nhưng bị từ chối. Thế là cô Phượng đành phải làm nghề buôn bán nuôi thân. Sau nhiều lần vào Nam ra Bắc, đôi khi cô phải nương tựa vào người khác để tồn tại. Có người bạn giới thiệu Phượng cho một người tên Lưu - cũng là người phong nhã lịch thiệp. Nhưng Lưu đã có vợ nên phải thuê một căn nhà nhỏ bên Gia Lâm cho Phượng ở. Lưu đã vạch kế hoạch để hai người trốn sang Hồng Kông nhưng kế hoạch không thành. Phượng phải về nương náu tại một ngôi chùa ở Hưng Yên ý muốn đi tu, nhưng vì nghiệp trần vẫn nặng, cô vẫn phải chịu đựng kiếp hồng nhan. Một hôm, có người đàn ông tên Bách làm Tham tán ở tòa Sứ đến vãn cảnh chùa gặp Phượng. Bách mê mẩn vẻ đẹp mặt hoa da phấn của Phượng bèn mượn người đến đánh tiếng với Phượng và xin với sư bà cho Phượng về làm vợ lẽ. Vợ cả của Bách đến đón Phượng về làm chị làm em rất quý hóa ngọt ngào. Ít lâu sau, Tham tán Bách được chuyển đi Lai Châu; vợ cả lại cho Bách và Phượng đi trước, còn mình sẽ lên sau. Ai ngờ bà cả đã ngầm sai người đầu độc Phượng bằng một loại thuốc gì đó làm cho cô hóa điên lúc tỉnh lúc mê, lúc cười lúc khóc, gầy rộc đi. Tham tán Bách đành sai người đưa cô về Chợ Bờ (Hòa Bình), nhưng sau đó Phượng về lại Gia Lâm tìm đến bà hàng xóm cũ, trong người chỉ còn có 15 đồng bạc. Bà hàng xóm tốt bụng nhưng nhà quá nghèo trông nom cô như con đẻ. Bệnh ngày một nặng, bà đành phải đưa cô vào nhà thương làm phúc. Một tuần sau, cô Phượng qua đời. Đám tang Phượng chỉ có một người tình cũ rủ lòng thương, khắc cho cô một tấm bia đề: "Mộ người bạc mệnh Vương Thị Phượng". Mộ của cô đối diện với cổng chính Bệnh viện Bạch Mai. Đường thẳng từ ngôi mộ đến cổng Bệnh viện chừng 150 m.

16.Đỗ Thị Bính

Giai nhân Hà thành Đỗ Thị Bính (sinh năm 1915) là người may mắn hơn cả trong "tứ mỹ". Cô sống ở ngôi nhà số 37 Hàng Đẫy, bây giờ đổi tên thành số nhà 67, phố Nguyễn Thái Học.
Đỗ Thị Bính là một trong 19 người con của nhà tư sản Đỗ Lợi, nhà thầu khoán thuộc hàng lớn nhất Hà Nội trước những năm 1930 và là một trong những thành viên của dòng họ Đỗ "Bá Già" (thôn Tiên Lữ, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc). Vì có thói quen mặc đồ đen, giai nhân được nhà thơ đa tài Nguyễn Nhược Pháp thầm yêu trộm nhớ và đặt tên là “người đàn bà áo đen”. Thế nhưng, tuyệt nhiên hai người chưa một lần gặp mặt, dẫu rằng tình trong như đã… Và những vần thơ tuyệt vời trong tập “Ngày xưa” đã ra đời từ đó. Các bài thơ như “Sơn Tinh, Thủy Tinh”, “Tay ngà”, “Chùa Hương”… đều phảng phất bóng dáng giai nhan Đỗ Thị Bính. 



Người đẹp cũng hiểu được tình cảm của công tử Pháp, nhưng tình thì có, nhưng duyên thì không; Nguyễn Nhược Pháp đã sớm ra đi ở tuổi 24 vì bệnh lao vào năm 1939. Sau khi Pháp mất được một năm, gia đình thuyết phục cô Bính lấy một chàng kỹ sư phong lưu mã thượng học ở Pháp về, tên Bùi Tường Viên - em trai út của Luật sư nổi tiếng Bùi Tường Chiểu thời bấy giờ. 16 tuổi, Bùi Tường Viên sang Pháp du học về ngành silicat và là một kỹ sư của Việt Nam. Sau đó, Bùi Tường Viên giữ vai trò Hiệu trưởng trường Mỹ nghệ Đông Dương (tiền thân của Đại học Mỹ thuật công nghiệp Hà Nội). Năm 1992, người đẹp Đỗ Thị Bính qua đời, hưởng thọ 77 tuổi. Bà Bùi Thị Mai, con gái ruột của giai nhân Đỗ Thị Bính, kể lại: Mặc dù là người có vẻ đẹp nhất nhì Hà thành khi đó, thế nhưng người đẹp không hề có tính kiêu sa của những tiểu thư khuê các. Trái lại, Đỗ Thị Bính nhất mực hoà đồng, giản dị và gần gũi với mọi người. Thuở ấy, người đẹp cũng ý thức được nhan sắc của mình, cũng hiểu được vẻ đẹp ấy đã làm mê đắm biết bao nhiêu trái tim đắm đuối. Thế nhưng, ý thức của một người có học vấn, lại được sống trong một gia đình khoa bảng nền nếp, được dạy dỗ tam tòng tứ đức, công dung ngôn hạnh ngay từ nhỏ..., cách ứng xử của người đẹp cũng rất mực ý tứ. 
Giai nhân Bính không coi vẻ đẹp của mình như là một thứ "vũ khí"... Đấy cũng là một trong những điều làm nên nét thanh lịch của người Tràng An văn vật.

17.Cô Síu ở phố Cột Cờ, gọi là cô Síu Cột Cờ.

18.Cô Nga ở phố Hàng Gai, gọi là cô Nga Hàng Gai.

19.Bạch Thược

Bạch Thược sinh ra trong một gia đình tiểu tư sản ở Hà Nội. Bố bà là cụ Phạm Hữu Ninh, từng là tham tán phủ toàn quyền nhưng đi theo tiếng gọi của Cách mạng, cụ đã bỏ việc về mở trường tư. Trường tư thục Thăng Long ngày đó nổi tiếng bởi đã quy tụ được nhiều nhà giáo lớn như Hoàng Minh Giám, Bùi Kỷ, Võ Nguyên Giáp…
Tên của bà bắt nguồn từ một loài hoa rất lạ, tương truyền khi xưa, danh y Hoa Đà được tặng một loại cây trồng trong nhà nhưng không biết đó là cây thuốc quý. Mùa xuân đến, cây ra những bông hoa rất to, trắng muốt và mùi hương quyến rũ như hoa hồng. Hoa Đà nghĩ rằng đây là một loài hoa đẹp nhưng không quý nên ông không để ý đến nó nữa. Một đêm thu, Hoa Đà đang ngồi đọc sách, bỗng nghe bên cửa sổ tiếng một người con gái khóc thút thít. Sau nhiều lần tìm hiểu, ông mới biết đó là tiếng khóc oan ức của một loài hoa quý bị bỏ quên, đó là hoa Bạch Thược…
Là con thứ tư trong một gia đình toàn con gái nhưn thuở nhỏ, Bạch Thược không sống theo những nền nếp, khuôn phép cũ. Bà mặc quần áo con trai, chơi đánh bi, đánh đáo, và không hề biết đến thêu thùa, nấu ăn như nhiều thiếu nữ Hà Nội xưa. Thậm chí, Bạch Thược còn mặc cả quần áo con trai nên nhiều người nhầm tưởng bà là con trai.
Lớn lên được vào học trường Tây và tham gia vào phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Hà Nội, Bạch Thược ngày càng chứng tỏ được sự thông tuệ của mình. Vẻ đẹp thuần khiết, mang nhiều cá tính của một cô gái Hà Nội đã khiến bao chàng trai ngày đó mê mẩn. Bạch Thược lại có năng khiếu văn nghệ, bà tham gia diễn nhiều vở kịch của trường, như “Quán Thăng Long”, “Lý Chiêu Hoàng” nên càng được nhiều người biết đến.
Nhan sắc của chị em Bạch Thược làm nức lòng khắp các tỉnh gần xa. Trong năm chị em gái, thì nhà Bạch Thược có 3 người đẹp, được kế thừa nhan sắc của mẹ (xưa là giai nhân của đất Nam Định). Chị gái đầu của bà - Phạm Thị Ngọc Trâm cũng là một nhan sắc nổi tiếng của phố cổ đã kết duyên cùng cháu đích tôn của quan thượng thư tỉnh Hà Đông. Người chị thứ hai của Bạch Thược, bà Kim Thoa, kết hôn với một bác sỹ khá nổi tiếng ngày đó, và thoát ly theo gia đình chồng, để lại một tình yêu dang dở và sau này trở thành mối lương duyên của cuộc đời Bạch Thược.
Chồng của Bạch Thược - Vũ Sơn học cùng trường với chị gái thứ hai của bà. Ông rất mê bà Kim Thoa, hàng ngày vẫn đến nhà Bạch Thược chuyện trò với các cụ. Bạch Thược hồi đó còn nhỏ tuổi, nên chỉ biết láng máng về ông. Đến khi chị gái Bạch Thược đột ngột quyết định lấy chồng, một bác sỹ từng công tác ở Phnom Penh và là bạn thân của Shihanuk thì Vũ Sơn buồn chán và thất vọng vô cùng. Bố của Bạch Thược rất quý Vũ Sơn, ông động viên chàng trai này tham gia kháng chiến và hứa hẹn sẽ gả cô con gái thứ tư cho ông.
Sau khi Vũ Sơn tham gia kháng chiến, Bạch Thược đã rơi vào tình yêu đầu đời với một chàng bác sỹ quân y, nhưng vì lời đính ước đã có với Vũ Sơn nên bà đã chia tay mối tình này. Sau này, khi gặp lại người cũ ở trên đất Pháp, bà cũng thấy chạnh lòng vì cuộc sống riêng của người đó không được như ý muốn.
Nhưng sau nhiều thăng trầm của cuộc sống, bà vẫn không hối hận về những quyết định của mình. Cuộc đời của một nhan sắc thuộc vào loại nhất nhì Hà thành xưa có thể gọi là bình yên bên người chồng bà đã chọn. Và cho đến cái tuổi mà người đời thường gọi là “xưa nay hiếm”, giai nhân một thời vẫn giữ được nét đẹp bí ẩn như cái tên của một loài hoa quý mà bà đã được đặt.

20.Quách Thị Tẻo
Trong số những Hoa hậu Mường thì người được nhắc đến nhiều nhất là Hà Thị Tẻo (sau đổi thành Quách Thị Tẻo). Không chỉ bởi cô có nhan sắc làm sáng núi sáng rừng, làm chao đảo trái tim si tình của bao quan Lang, quan Pháp, lại từng là mỹ nhân được tiến vua, mà cô còn được nhắc nhớ bởi cuộc đời đầy khuất khúc, truân chuyên, lên bổng xuống trầm.
Hà Thị Tẻo sinh năm 1917. Bố người Việt gốc Hoa, mẹ là người Hà Nội. Bố cô là đầu bếp cho Quách Vị, Chánh quan Lang xứ Mường. Thấy Tẻo xinh đẹp, thơ ngây, Quách Vị đem lòng yêu mến và mua làm con nuôi. Từ đó, Tẻo đổi theo họ của bố nuôi thành Quách Thị Tẻo.
Quách Vị, là dòng dõi quan Lang lớn đã nhiều đời ăn lộc xứ Mường. Cả một cõi mênh mông rộng lớn, thượng ngọn cây hạ ngọn cỏ đều của nhà họ Quách. Sống trong tột cùng nhung lụa, Tẻo càng lớn càng xinh đẹp. Tuy là con nuôi nhưng cô được Quách Vị cưng chiều. Không chỉ được cho ăn học đàng hoàng, tử tế, mà còn được bố nuôi đón thầy về tận nhà để dạy cả tiếng Pháp. Dần dà, Tẻo trở thành một thiếu nữ Mường tài sắc sắc vẹn toàn.
Năm 1932, khi vừa bước sang tuổi 16, Tẻo đã rực rỡ như đóa hoa rừng. Nhân chuyến vào Huế yết kiến Vua Bảo Đại, Quan chánh Lang Quách Vị đã xênh xang ngựa xe võng lọng mang theo cả cô con gái nuôi xinh đẹp. Quách Vị định mang Quách Thị Tẻo làm “món quà tiến vua” để mong được hưởng thêm nhiều bổng lộc cho mình. Nhưng, vì vua không có ý định tuyển thêm tỳ thiếp nên Tẻo lại theo cha trở về. Và một năm sau đó, trong cuộc thi hoa hậu đầu tiên của xứ Mường, Quách Thị Tẻo đã được vinh danh nhờ tài sắc vượt trội của mình.

Quách Thị Tẻo (bên trái)

Kể từ ngày đăng quang, tên tuổi Quách Thị Tẻo ngày càng bay xa. Khắp xứ Mường rộng lớn, đâu đâu cũng ca tụng nhan sắc con gái nhà Chánh quan Lang Quách Vị. Nhiều người đàn ông hào hoa phong nhã, nhiều công tử con nhà Lang danh giá, từng gặp Tẻo, đã thầm thương trộm nhớ. Thế nhưng, trái tim mới lớn của “Hoa hậu xứ Mường” lại chỉ rung động trước một người. Oái oăm thay, đó lại là Quách Hàm, con trai cả của Quách Vị.
Quách Hàm hào hoa phong nhã, lại là con trai trưởng của bà vợ cả. Theo tập tục, đó sẽ là người thừa kế chính thức dòng Lang, bổng lộc, gia tài của Quách Vị. Hàm từng về Hà Nội học trường Tây, nói tiếng Pháp, tư tưởng thông thoáng. Mới ngoài 20 tuổi, Hàm đã được bổ làm Tri châu Lạc Sơn, và hy vọng có ngày thay bố làm Chánh Lang. Tuy đã có đến 3 vợ, nhưng đứng trước vẻ sắc nước hương trời của cô em gái nuôi, Quách Hàm đã không khỏi si mê tới độ mất ăn mất ngủ.
Khi biết tin con trai cả yêu đứa con gái nuôi mà mình hết mực cưng chiều, Quách Vị đã nổi cơn thịnh nộ. Ông tìm đủ mọi cách để cấm cản mối tình ngang trái đó, bởi nó không chỉ phạm luật nhà Lang, mà riêng việc để con trai mình lấy con gái nuôi của mình, cũng đã đủ khiến Quan chánh Lang lừng lẫy tiếng tăm bị mất mặt trong thiên hạ, mất mặt với các con dân xứ Mường mà dòng họ Quách nhà ông đời đời ăn lộc. Thế nhưng, ông càng cấm cản thì tình yêu của đôi trẻ càng thêm mãnh liệt…
Dường như muốn đẩy bố vào thế “sự đã rồi”, Quách Hàm đã rước Quách Thị Tẻo về sống như vợ chồng trong dinh thự ở Lạc Sơn. Không còn cách nào khác, Quách Vị đành phải đồng ý cho Hàm lấy Tẻo. Từ đó, hai vợ chồng Hàm sống trong ngập tràn nhung lụa và quyền lực. Cuộc sống như thế tưởng sẽ viên mãn, tròn đầy đối với Quách Thị Tẻo đến cuối đời.
Thế nhưng, chỉ một thời gian sau chế độ nhà Lang bắt đầu suy vi, tàn lụi. Cũng kể từ đây, cuộc sống vương giả của Quách Thị Tẻo cũng dần lui vào dĩ vãng. Người ta kể rằng, những ngày cuối đời, bà phải sống trong nghèo khó, đớn đau và nghiện ngập.
Cũng có nhan sắc, cũng được vinh danh Hoa hậu xứ Mường và cũng có số phận bổng trầm, buồn đau về phía cuối đời như Quách Thị Tẻo là người đẹp Đinh Thị Nụ. Cô Nụ sinh năm 1925 (quê ở xóm Cời, xã Tân Vinh, huyện Lương Sơn, Hòa Bình), đăng quang tại cuộc thi Hoa hậu xứ Mường năm 1942. Cha cô là ông Đinh Công Chung - em trai Tuần phủ Đinh Công Thịnh. Nhờ nhanh nhạy lại có mối giao thiệp rộng nên ông Chung được người dân khắp vùng biết đến như một thương gia thành đạt. Hàng hóa của ông chủ yếu là thuốc phiện. Đàn ngựa nhà ông có lúc lên đến hàng trăm con, chỉ dành riêng cho việc vận chuyển thuốc từ Mai Châu đổ xuống Hải Phòng.
Nụ lớn lên được cha cho ăn học đàng hoàng, giao tiếp với toàn tầng lớp quý tộc, chơi với con cái dòng dõi quan Lang. Năm 16 tuổi, nhan sắc của Nụ đã nức tiếng khắp Mường. Nhan sắc của nàng từng làm ngỡ ngàng, đắm say bao vị quan người Pháp cai trị hay kinh lý xứ Mường. Người ta vẫn kể câu chuyện rằng, mỗi lần nàng Nụ lội suối hay tắm suối thì đàn cá ngừng bơi, giương cặp mắt to tròn, ngơ ngác; mỗi khi nàng Nụ cười thì chim chóc ngừng bay, thôi hót để lắng nghe…
Được sự động viên của một người bạn là Tri châu Đàm Quang Vinh, năm 1942, khi người Pháp tiếp tục tổ chức cuộc thi Hoa hậu xứ Mường tại Lương Sơn, ông Chung đã cho con gái mình đi thi. Và ở cuộc thi đó, nàng Nụ đã vượt lên hàng trăm thiếu nữ Mường xinh đẹp khác để đăng quang. Sau khi nhận hoa và vương miện từ chính tay Quan chánh sứ người Pháp Regniere, Nụ còn được ông ban thưởng cho một chuyến du ngoạn về Hà Nội thăm thú các danh lam, thắng cảnh bằng xe ô tô riêng của mình.
Hình ảnh thiếu nữ Mường với nhan sắc thơ ngây, áo quần, khăn khố, mũ mão đều kiều diễm đã hút hồn một thương gia ở phố Hàng Khay. Vượt qua rất nhiều công tử con quan khác, thương gia đã cưới được nàng Nụ về làm vợ. Người ta đồn rằng, chỉ tính riêng số tiền ông bỏ ra để sắm sanh lễ vật cầu hôn cũng đủ xây mấy tòa nhà biệt thự. Đám cưới của ông và Hoa hậu Đinh Thị Nụ lúc bấy giờ còn được coi là một sự kiện văn hóa, thu hút hàng nghìn người tham dự. Khắp xứ Mường rộn rã, đâu đâu cũng vang lừng tiếng chiêng, tiếng trống, người ta mở tiệc ròng rã suốt mấy ngày trời để tiễn biệt “người đẹp núi rừng” về đất Hà Nội.
Cuộc đời của Đinh Thị Nụ tưởng rằng thoát khỏi cảnh “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, không phải gánh nhiều nỗi truân chuyên như đàn chị Quách Thị Tẻo, nào ngờ cô cũng phải hứng chịu vô vàn đớn đau và bi kịch. Tất cả khởi đi từ chuyện cô không thể một lần làm mẹ.
Vợ chồng trẻ, hương nồng lửa đượm, nhưng chẳng biết làm sao suốt mấy năm trời Nụ không thể mang thai. Dù chồng cô vời đến đủ thầy tây, thầy Ta rồi nhang đèn cúng bái, cô vẫn không thể sinh cho gia đình nhà chồng lấy một mụn con. Cực chẳng đã, họ chia tay trong tiếc nuối. Đinh Thị Nụ trở về xứ Mường nơi mình đã được sinh ra.
Mặc dù đã một đời chồng nhưng nhan sắc của Đinh Thị Nụ vẫn không hề phai nhạt. Vây quanh cô vẫn không ít bậc “vương tôn, công tử” con nhà danh giá ở xứ Mường. Thậm chí có người còn năm lần bảy lượt nhờ người mai mối, Nụ vẫn lắc đầu từ chối. Những tổn thương từ cuộc hôn nhân đầu tiên vẫn còn ám ảnh, làm cô hoảng sợ.
Mấy năm sau, Nụ đi bước nữa. Người đàn ông ấy đã có một đời vợ và hai đứa con riêng. Nụ lại lần nữa rời xứ Mường về Hà Nội. Không xênh xang váy áo, không rình rang tiệc tùng như lần lên xe hoa trước, Nụ âm thầm về nhà chồng ở phố Hàng Bài. Nhưng với người chồng thứ hai, Hoa hậu xứ Mường Đinh Thị Nụ cũng không thể có được niềm vui làm mẹ.
Sau khi chồng mất, mặc dù hai người con riêng nhất mực giữ bà ở lại phụng dưỡng, bà vẫn dứt áo về lại Mường Cơi. Năm 2006, Hoa hậu Đinh Thị Nụ nhắm mắt xuôi tay, khép lại cuộc đời một nhan sắc lộng lẫy, thơ ngây và nhiều nước mắt…


21.Nghiêm Thúy Băng

Bà Thúy Băng được thừa hưởng nhan sắc từ người mẹ, cũng là con của một đại tư sản ngày đó. Cuộc sống giàu sang và nhan sắc rực rỡ của Thúy Băng đã khiến bao chàng trai tốt nghiệp bác sĩ, kỹ sư bên Pháp về si mê và cho người đến dạm ngõ, nhưng Thúy Băng vẫn không rung động trước một ai.

Một thời gian sau, những biến cố gia đình đã làm thay đổi cuộc sống của một tiểu thư xinh đẹp như Thúy Băng. Đó là khi bố bà bị bắt vì bọn Pháp phát hiện ra nhà in bí mật ở gò Đống Đa chuyên in tài liệu cho Việt Minh. (Những số báo Độc lập đầu tiên cũng ra đời từ xưởng in nhà Thúy Băng). Sau đó ba tháng, ông cụ mất. Đó là năm Thúy Băng vừa tròn 16 tuổi. 
Năm 17 tuổi, khi đứng bán sách ở quầy sách nhỏ của gia đình, lần đầu tiên Thúy Băng nhìn thấy chàng nhạc sĩ Văn Cao đến in bài hát ở xưởng in nhà mình. Ngày đó, Thúy Băng đã nghe Thiên thai, Suối mơ, và không nghĩ có lúc lại được gặp chàng nhạc sĩ tài hoa mà mình từng ngưỡng mộ ấy.

Những ấn tượng về Văn Cao đã làm trái tim Thúy Băng lần đầu tiên đập những nhịp đập khác thường. Ông Nguyễn Thành Lê, một người bạn của anh trai Thúy Băng, như thấy duyên kỳ ngộ của đôi trai tài gái sắc nên đứng ra làm mai mối. 

Đối với nhạc sĩ Văn Cao, Thúy Băng không chỉ là vợ mà còn là một người bạn, một tri kỷ biết nuôi dưỡng tâm hồn nghệ sĩ của ông. Bà trở thành cảm hứng sáng tạo của những bức chân dung rất đẹp về phụ nữ Hà Nội xưa trong các sáng tác của ông.

22.Phạm Thị Hồng 

Bà Phạm Thị Hồng là vợ của nhà lão thành cách mạng Nguyễn Kim Cương và là chị gái của phu nhân cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. 

Căn nhà đã đi vào lịch sử, số 37 Cầu Gỗ là nơi bà Phạm Thị Hồng cất tiếng khóc chào đời. Bố của bà Phạm Thị Hồng là cụ Phạm Quang Hưng, một công chức giỏi thời Tây, nhưng có tinh thần yêu nước nồng nàn. Gia đình bà có 12 người con, thì có đến 7 chị em gái, mỗi người đều mang tên một loài hoa, Hồng, Nga, Lan, Na, Mai, Cúc, Thu. Nhưng có lẽ, hoa Hồng vẫn là bông hoa có nhiều hương sắc và là chúa của các loài hoa… nên nổi trội hơn cả.
Mẹ mất khi cô bé Hồng mới chỉ vừa 12 tuổi. Bắt đầu cho những tháng ngày tự lập và bươn chải với cuộc sống để lo cho các em nên từ bé, bà Hồng đã biết sống cho người khác. 

Dù không được đến trường một cách danh chính ngôn thuận, nhưng bà Hồng không an phận thủ thường với điều đó. Cuộc sống với bà là sự vươn lên, sự học hỏi không ngừng. Và từ những chiêm nghiệm về cuộc đời, về những vui buồn trong cõi nhân sinh, bà Hồng làm thơ, những câu thơ tự nhiên hồn hậu như chính cuộc đời của bà vậy… 
Nhưng có một điều lạ lùng, và có lẽ con gái Hà Nội xưa là vậy, càng gian nan vất vả, vẻ đẹp của bà Hồng càng tỏa sáng, mặn mà. Nhiều thanh niên hồi đó, là bác sĩ kỹ sư đến nhà bà dạm ngõ nhưng bà Hồng đều từ chối. Và cuộc tình duyên của bà với nhà hoạt động cách mạng Nguyễn Kim Cương có lẽ là duyên số. Chỉ có duyên số mới khiến một cô gái Hà Nội gốc xinh đẹp nền nã như bà về làm dâu tận xứ Nghệ An xa xôi, nghèo khó.

Căn nhà 37 Cầu Gỗ của cụ Phạm Quang Hưng ngày đó là nơi tá túc trong những ngày gian khó của những chiến sĩ tù Côn Đảo, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Kim Cương, Lê Thanh Nghị, Ba Ngọ, Đinh Nhu, Nguyễn Tuấn Thức… và trở thành "địa chỉ đỏ" thời kháng chiến chống thực dân Pháp ở Thủ đô Hà Nội. Thậm chí gia đình bà Hồng còn nằm trong "danh sách đen" của sở mật thám Pháp, trong đó có bức ảnh chụp sáu chị em bà Hồng, và những dòng chữ được viết bằng tiếng Pháp ở phía sau tấm hình như một lời chú thích: Những đối tượng thân cộng sản theo số thứ tự:  Phạm Thị Nga (số 1), Phạm Thị Mai (số 2)… đặc biệt có một dòng chữ đậm ở cuối: "Phải theo dõi chặt chẽ nhân vật số 6 - Bông Hồng bên Hồ Gươm", tức Phạm Thị Hồng.

Đến khi giải phóng Thủ đô, bà lại trở về căn nhà 37 Cầu Gỗ. Sau này, ông Kim Cương đảm nhận những cương vị cao, Thứ trưởng Phủ Thủ tướng, bà Hồng vẫn luôn giữ nếp sống thanh lịch, giản dị và nho nhã của người Hà Nội, hóa giải mọi nỗi vui buồn trong cuộc đời bằng sự thông minh, dí dỏm của mình. 

23.Hoàng Minh Hồ

Bà Hoàng Minh Hồ cũng là giai nhân của Hà Thành xưa, quả phụ của nhà tư sản Trịnh Văn Bô, năm nay 100 tuổi. Bà sinh ra trong một gia đình giàu có bậc nhất Hà Thành ngày đó. 

Bà Minh Hồ là con thứ 9 của cụ Hoàng Đạo Phương, một nhà Nho yêu nước từng tham gia trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục. Bà sớm bộc lộ những tư chất thông minh hơn người, nên được cụ Phương gửi gắm nhiều hy vọng, dù bà chỉ là con gái, phận nữ nhi thường tình. 
Bà Hồ đã có một cuộc đời đúng theo một kiểu mẫu chuẩn mực của những cô gái Hà Nội xưa. 15 tuổi, Minh Hồ đã vấn khăn, nhuộm răng đen. (Sau này lấy chồng được ba năm, bà mới cạo đi lớp răng đen được coi là vẻ đẹp chuẩn mực thời con gái ấy). Ở bà toát lên vẻ đẹp của thiếu nữ Hà Nội xưa dịu dàng và duyên dáng trong tà áo dài, guốc mộc hay giày cao gót. 

Ngày đó, bà Minh Hồ với gương mặt thanh tú, nước da trắng, mũi cao, được xếp vào hàng những giai nhân. Một khuôn mặt tròn đầy, phúc hậu mà chắc hẳn nếu bất cứ ai khi nhìn vào đó cũng cảm thấy được ấm lòng. Xinh đẹp, nền nã, bà Hồ có đến hàng chục đám hỏi, toàn con nhà bề thế, gia giáo. Nhưng dù là một phụ nữ mạnh mẽ, sớm bươn chải với cuộc sống thì bà Hồ vẫn nương mình theo những khuôn phép xưa.

18 tuổi, theo sắp xếp của cha mẹ, bà Hồ lên xe hoa về nhà chồng, một gia đình môn đăng hộ đối với nhà bà. Chàng rể không ai khác chính là Trịnh Văn Bô, cậu quý tử của nhà họ Trịnh giàu có, lừng lẫy cả đất kinh kỳ.

Tên tuổi của người phụ nữ này từ đó gắn liền với nhà tư sản nổi danh Trịnh Văn Bô. Nhưng làm vợ một nhà tư sản, bà Hồ vẫn giữ nếp sống giản dị, trong sáng.

Cuộc đời của giai nhân ấy đã không đóng kín trong gia đình bé nhỏ của mình, trong bốn bức tường của ngăn cách như những thiếu nữ Hà Nội xưa, mà đi theo tiếng gọi của cách mạng, bằng tấm lòng thiện của chính mình.

Số tiền vợ chồng bà ủng hộ cho Cách mạng có thể tính đến hàng ngàn lượng vàng. Rồi 9 năm trường kỳ kháng chiến, bà theo chồng, từ bỏ cuộc sống nhung lụa, giàu sang, lên núi rừng Việt Bắc, ăn cơm vắt với măng củ…

Cuộc đời bà, cuộc đời của một người đẹp Hà Thành xưa đã đi qua những biến động của thời cuộc nhưng cho đến bây giờ, bà Hồ vẫn sống lặng lẽ, không vương vấn đến tiền bạc hay sự giàu sang. Và mỗi buổi sáng thức dậy, bà Hồ vẫn ngồi thưởng thức hương vị trà do chính mình ướp, để cảm nhận, thời gian dường như đang lắng đọng lại trong ký ức của một cuộc đời, một người đẹp có tấm lòng thiện.

24.Đặng Tuyết Mai


Là người gốc Hà Nội và là một trong bốn nữ tiếp viên đầu tiên của Hãng Air Vietnam, bà Đặng Tuyết Mai là Hoa khôi Sài Gòn nổi tiếng về nhan sắc và trí tuệ trước 1975.


Không chỉ sở hữu dáng vóc thon thả, khuôn mặt sáng đẹp điển hình của người phụ nữ Phương Đông, Đặng Tuyết Mai còn thông thuộc cả hai ngôn ngữ Anh - Pháp.  Tài sắc của Mai đã làm siêu lòng tướng Nguyễn Cao Kì để viết nên một "thiên tình sử" lãng mạn.
Giai thoại khó quên về mối tình Mai – Kỳ là chuyện “rước nàng về dinh” làm tốn bao giấy mực của báo giới thời đó. Ông Nguyễn Cao Kỳ chơi trội tới mức dùng máy bay trực thăng riêng đậu trên sân thượng khách sạn Carvelle để tỏ tình, cầu hôn cô tiếp viên hàng không Đặng Tuyết Mai, rồi đưa bà đi ăn tối ở Singapore, ăn sáng ở Đà Lạt…


25.Trần Lệ Xuân


Trần Lệ Xuân là vợ yêu của Ngô Đình Nhu, em trai ruột Ngô Đình Diệm. Đương thời, bà cùng chồng và các anh em nhà chồng tạo nên một thế lực gia đình trị khuynh đảo chính trường miền Nam Việt Nam. Dư luận thời ấy cho rằng phu nhân họ Trần khá lộng quyền và thường xuyên có những phát ngôn thiếu cân nhắc, nhưng họ lại rất kiêng nể bởi quyền lực chính trị và quyền lực nhan sắc khác người của bà.

"Đệ nhất phu nhân" của Ngô gia chính là người khởi xướng kiểu áo dài cổ thuyền, khoét sâu tạo nên làn sóng thời trang áo dài hở cổ mới. Loại áo dài đó vẫn thịnh hành cho đến ngày nay. Năm 1963, sau khi chế độ độc tài gia đình trị bị lật đổ, Trần Lệ Xuân sang Mỹ lưu vong. Cuối tháng 4/2011, Trần Lệ Xuân mất tại Rome - Ý, thọ 87 tuổi. Xét ở khía cạnh nào đó, cái tên "Đệ nhất phu nhân" Trần Lệ Xuân không để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng công chúng Việt Nam ngày nay, song nhan sắc thuở xuân thì khiến nhiều người ghen tỵ của người đàn bà quyền lực ấy vẫn khiến người ta nhắc nhớ...

26.Thanh Nga

Bà tên thật Juliette Nguyễn Thị Nga, sinh ngày 31 tháng 7 năm 1942, quê quán ở Tây Ninh. Cha của bà là Nguyễn Văn Lợi, mẹ của bà là Nguyễn Thị Thơ, tức bà bầu Thơ, trưởng đoàn hát Thanh Minh Thanh Nga nổi tiếng một thời. Thanh Nga là một Phật tử, có pháp danh Diệu Minh.


Thanh Nga kết hôn hai lần, lần đầu với ông Nguyễn Minh Mẫn (sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa), lần sau làm vợ thứ (không chánh thức) với ông Phạm Duy Lân tức hiệu là Đổng Lân vì ông đã từng giữ chức Đổng Lý Văn Phòng cũa Bộ Thông Tin trong Đệ Nhị Cộng Hòa cũa miền nam VNCH (luật sư). Bà có 1 con trai (với ông Lân) là Phạm Duy Hà Linh (sinh 1973, nay là nghệ sĩ hài kịch)
Bà bị sát hại cùng chồng ngày 26 tháng 11 năm 1978 tại nhà ở đường Ngô Tùng Châu, quận nhất (nay là đường Lê Thị Riêng) TP. Hồ Chí Minh, được an táng tại nghĩa trang Chùa Nghệ Sĩ [3]. Bà được Nhà nước truy tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú năm 1984 


27.Mộng Tuyền

Mộng Tuyền tên thật là Huỳnh Thị Kim Loan sinh năm 1947 tại Cần Thơ, quê hương của những "người đẹp Tây đô" nức tiếng xứ An Nam bao đời. Là một nghệ sỹ cải lương nổi tiếng khắp các sân khấu miền Nam thời trước giải phóng. Với cải lương, Mộng Tuyền là một "hoa khôi", hội đủ thanh và sắc.


Nghệ sỹ Mộng Tuyền theo gia đình lên Sài Gòn từ năm 10 tuổi và bắt đầu ca hát từ đó. Vai Huyền trong vở "Nhà chợ một đêm" là vai diễn đầu đời đưa cô đào hát nhỏ xinh đẹp Kim Loan bước ra ánh sáng sân khấu. Năm 16 tuổi, chị được trao tặng HCV giải Thanh Tâm nhờ khả năng trình diễn xuất sắc khi thủ vai vũ nữ Thu Lan trong vở "Phu tử tòng tử".
Khả năng ca diễn của Mộng Tuyền rất đa dạng, chị có thể đảm nhận được nhiều loại vai từ đào mùi, đào lẳng đến đào độc. Nhờ làn hơi ca truyền cảm nên Mộng Tuyền hát được những bản cổ nhạc lẫn tân nhạc. Những năm 1967-1968, Mộng Tuyền là giọng ca tân cổ giao duyên ăn khách nhất, được mệnh danh là "Nữ hoàng trẻ" của làng đĩa nhựa.
Năm 25 tuổi, Mộng Tuyền nhận giải Ảnh hậu qua vai diễn chính trong phim "Gánh hàng hoa" của báo Trắng đen. Chị trở thành một ngôi sao điện ảnh ở giai đoạn đầu thập niên 1970. Giai đoạn những năm cuối thập niên 1970, đầu 1980, chị vẫn là một gương mặt sáng giá của điện ảnh trong nhiều phim nhựa. Mộng Tuyền đoạt giải Nữ diễn viên xuất sắc của LHP Việt Nam qua vai bác sỹ Mai Trâm trong bộ phim "Tình yêu của em" (ĐD tài danh Lê Mộng Hoàng).
Ở lĩnh vực sân khấu, chị cũng đoạt HCV Hội diễn sân khấu toàn quốc với vai Vân trong phim "Bóng tối và ánh sáng". Nghệ sỹ Mộng Tuyền cũng góp mặt trong những vai diễn mới ở các bộ phim truyền hình Việt Nam thời gian gần đây, vai bà Hạnh trong "Tôi là ngôi sao" là một vai diễn mang đậm cá tính cũng như tài sắc của tài nữ Mộng Tuyền.
Nhưng số phận một tài nữ danh ca nhiều đa đoan trắc trở cứ ám vào con người chị. Ở cái tuổi 65, Hoa hậu cải lương Mộng Tuyền, giai nhân tuyệt sắc của "Sài Thành tứ mĩ" vẫn như chưa trả hết nợ đời. Trải qua 3 cuộc bể dâu, ở khúc cuối của cuộc đời, người đàn bà hương sắc một thời vẫn đau đáu một nỗi niềm riêng...


28.Phùng Há



Phùng Há, tên thật là Trương Phụng Hảo (30 tháng 4, 1911 - 5 tháng 7, 2009) là một nghệ sĩ nổi tiếng của Việt Nam. Bà được xem là một trong những vị tổ của bộ môn nghệ thuật cải lương Việt Nam. Hầu hết cuộc đời bà gắn bó với bộ môn nghệ thuật này và để lại dấu ấn với nhiều vai diễn khác nhau cũng như đào tạo ra nhiều môn sinh xuất sắc. Một trong những ấn tượng sâu đậm trong lòng người hâm mộ là điệu hát của vai Lữ Bố trong vở Phụng Nghi Đình.

29.Xuân Quỳnh 

Xuân Quỳnh (1942-1988), là một nhà thơ nữ Việt Nam. Bà được xem là nữ thi sĩ nổi tiếng với nhiều bài thơ tình được nhiều người biết đến như Thuyền và Biển, Sóng, Thơ tình cuối mùa thu...
Bà tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh tại làng La Khê, xã Văn Khê, thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Đông (nay thuộc quận Hà Đông, Hà Nội). Xuất thân trong một gia đình công chức, mẹ mất sớm, bố thường xuyên công tác xa gia đình, bà được bà nội nuôi dạy từ nhỏ đến khi trưởng thành.


Tháng 2 năm 1955, Xuân Quỳnh được tuyển vào Đoàn Văn công nhân dân Trung ương và được đào tạo thành diễn viên múa. Bà đã nhiều lần đi biểu diễn ở nước ngoài và dự Đại hội thanh niên sinh viên thế giới năm 1959 tại Viena (Áo).
Từ năm 1962 đến 1964, Xuân Quỳnh học Trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ (khoá I) của Hội Nhà văn Việt Nam. Sau khi học xong, làm việc tại báo Văn nghệ, báo Phụ nữ Việt nam. Xuân Quỳnh là hội viên từ năm 1967, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá III. Năm 1973, Xuân Quỳnh kết hôn với nhà viết kịch, nhà thơ Lưu Quang Vũ, trước đó, Xuân Quỳnh kết hôn lần đầu tiên với một nhạc công củaĐoàn Văn công nhân dân Trung ương và đã ly hôn. Từ năm 1978 đến lúc mất Xuân Quỳnh làm biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới.
Xuân Quỳnh mất ngày 29 tháng 8 năm 1988 trong một tai nạn giao thông tại đầu cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương (nay là thành phố), tỉnhHải Dương cùng với chồng Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ mới 13 tuổi.
Xuân Quỳnh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.

30.Công Thị Nghĩa 

Ngày 20/2/1955, chính quyền Ngô Đình Diệm lần đầu tiên tổ chức cuộc thi tìm người đẹp tại Sài Gòn. Do trước đó, ở Việt Nam chưa từng có cuộc thi mang tên hoa hậu nên có thể xem đây là cuộc thi hoa hậu đầu tiên ở nước ta.


Người đăng quang HH là Công Thị Nghĩa, sinh năm 1932, bà là con gái gốc Bắc, di cư vào Sài Gòn sinh sống trước 1945. Sau khi bước lên ngôi vị cao nhất, cuộc đời Công Thị Nghĩa bước sang một trang mới đầy vinh quang nhưng cũng nhiều ô nhục.

Năm 1950, Công Thị Nghĩa tham gia Việt Minh, làm điệp báo tại Sài Gòn. Tháng 7 năm 1952, bà bị thực dân Pháp bắt giam ở bót Catinat – nay là Sở VH,TT&DL TP.HCM. Sau đó, bà bị chuyển qua Khám Lớn Sài Gòn – nay là Thư viện tổng hợp TP. HCM.
Trong phiên tòa tháng 6 năm 1953, bà được luật sư Nguyễn Hữu Thọ bào chữa, giải thoát dưới sự chứng kiến của bà Nguyễn Thị Châu Sa (sau này là Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình).
Ra tù, bà học thêm và trở thành nhà báo. Chính mối duyên trong những lần bà đi gặp các nhân vật tầm cỡ thời bấy giờ để phỏng vấn đã mở đường cho bà đến với cuộc thi hoa hậu và trở thành người phụ nữ đẹp nhất Việt Nam thời bấy giờ. Phần thưởng cho ngôi vị hoa hậu ngày đó là chiếc Lambretta sang trọng.
Năm 1956, Công Thị Nghĩa dấn thân vào con đường điện ảnh, vai diễn đầu tiên của bà trong phim Chúng tôi muốn sống (đạo diễn Vĩnh Noãn), vào vai Kiều Nguyệt Nga trong phim Lục Vân Tiên (đạo diễn Tống Ngọc Hạp).
Có lẽ chính Hoa hậu Công Thị Nghĩa cũng không ngờ, những hào quang trong giới showbiz chế độ cũ đã biến bà thành người đàn bà bất hạnh. Năm 1957, Công Thị Nghĩa cùng đạo diễnTống Ngọc Hạp đem Lục Vân Tiên sang Nhật Bản lồng tiếng, âm nhạc và tham dự Đại hội điện ảnh châu Á.
Chuyến đi đó đã khiến Công Thị Nghĩa không giữ được mình, bà biến thành tình nhân củaTống Ngọc Hạp và có thai ngay trong tháng đầu tại Tokyo.
Trở về Việt Nam với cái bụng bầu, Công Thị Nghĩa chịu rất nhiều áp lực từ búa rìu dư luận, vợTống Ngọc Hạp không lên tiếng nhưng xã hội đã thay bà vùi dập Nghĩa xuống bùn đen.
HH Công Thị Nghĩa đặt tên con là Tống Ngọc Vân Tiên và tiếp tục sống tại Sài Gòn dưới chế độ cũ.
Tháng 10 năm 1959, bà bị bắt giam hai tháng. Đến năm 1961, bà trốn sang Pháp và đi theo con đường học vấn, trở thành tiến sĩ sử học tại Đại học Paris VII với đề tài Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp.
Các nghiên cứu sử học về Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc từ các văn khổ lưu trữ tại Pháp của bà đã được in thành sách và tái bản tại Việt Nam. Sau này, Công Thị Nghĩa về nước nhiều lần giảng dạy ngành du lịch tại nhiều trường đại học.
Bên cạnh việc được biết đến như kẻ thứ ba phá vỡ hạnh phúc gia đình đạo diễn Tống Ngọc Hạp, nhiều người đồn đại Thị Nghĩa từng là người tình của thi sĩ Bùi Giáng sau khi bà sinh con. Bài thơ “Mắt buồn” là Bùi Giáng viết về Công Thị Nghĩa, sau này Trịnh Công Sơn phổ thành ca khúc 'Con mắt còn lại'.
Do khi còn là nhà báo, Công Thị Nghĩa lấy bút danh là Thu Trang, bởi thế trong bài thơ viết cho người tình, Bùi Giáng dành tặng cho bà những lời lẽ vô cùng thiết tha: “Trang của tờ giấy cũ/Của vầng tóc ban đầu/Trang của hồi vàng tụ/Về mệt mỏi mai sau/Anh nhớ em vô cùng/Đất sầu không xiết kể/ Anh kêu gọi mông lung/Trang ồ Trang rất tệ”.


31.Mộng Cầm

Mộng Cầm tên thật là Nghệ, là cháu gọi nhà thơ Bích Khê bằng cậu ruột. Mộng Cầm làm thơ khá sớm, năm 17 tuổi lúc đang học trường Nam Phan Thiết đã có thơ đăng trên báo Công luận. Hàn Mặc Tử  và Mộng Cầm  đã có thư từ trao đổi với nhau về chuyện văn thơ suốt 5, 6 tháng khi Hàn Mặc Tử đang làm ở Sở đạc điền Quy Nhơn. Khi đã vào Sài Gòn làm báo, Hàn Mặc Tử vẫn tìm địa chỉ của Mộng Cầm. Hàn nhiều lần đi xe lửa đến Phan Thiết tìm gặp Mộng Cầm và mối tình đẹp đẽ ấy kéo dài được gần 2 năm trời. Hai người đã có nhiều kỷ niệm đẹp đẽ thơ mộng ở Mũi Né nơi Mộng Cầm đang học nghề thuốc, ở Lầu Ông Hoàng những đêm trăng huyền ảo. Mối tình ngọt ngào được thi sĩ ghi lại trong nhiều bài thơ. Và chính Mộng Cầm cũng có nhiều vần thơ đẹp về cuộc tình này. Hạnh phúc ngập tràn khi chính Tử nghe Mộng Cầm thổ lộ tình cảm nồng nàn với mình khi nàng viết thư chia buồn với Tử về cái chết của anh trai Bá Nhân, chính Mộng Cầm đã nói nàng sẽ là "em dâu" của người đã mất. Mộng Cầm đã cho Tử những tháng ngày hạnh phúc, những đêm ngày hy vọng, nhưng cũng chính Mộng Cầm đã gây cho Tử một nỗi tuyệt vọng đến bầm gan. Nàng đã quên lời thề dưới trăng. Nàng sang ngang khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh chưa đầy 1 năm. Việc Mộng Cầm đi lấy chồng chưa trách vội, nhưng điều đáng trách là nàng đã "từ chối một sự thật của lòng mình" và tuyệt giao hẳn với Hàn Mặc Tử khi chàng lâm vào cảnh bất hạnh. Cái tin Mộng Cầm đột ngột vu quy đã làm cho Hàn Mặc tử đau đớn, tê dại. Kẻ dứt áo ra đi không biết có đau khổ nhưng chàng thi sĩ bất hạnh thì như chết nữa con người. Chàng vật vã trước nổi mất mát không gì bù đắp được:
Họ đã xa rồi khôn níu lại
Lòng thương chưa đã , mến chưa bưa
Người đi một nữa hồn tôi mất
Một nữa hồn tôi bỗng dại khờ.

32.Mai Đình


Mai Đình là người thứ ba trong bước đường tình ái gian truân của Hàn Mặc Tử. Người con gái ấy, vóc nhỏ mình gầy, không thuộc lớp người nhan sắc, nhưng Đình có một tâm hồn rất đẹp. Mai Đình là con gái một tuỳ viên người Thanh Hoá, vì yêu thơ Hàn nên đã trốn nhà tìm gặp bằng được người trong mộng. Từ Phan Thiết chị ra Quy Nhơn nhờ một người quen là Trần Kiên Mỹ - bạn văn của Hàn Mặc Tử đưa tới giới thiệu. Mai Đình yêu thơ Tử một cách kỳ lạ và hình như chị cũng đã khá rõ mối tình đau khổ của Hàn Mặc Tử với Mộng Cầm. Trong hoàn cảnh buồn đau cô đơn, Hàn Mặc Tử hết sức cảm kích trước mối tình của chị nhưng lúc đầu anh nghỉ rằng đó cũng chỉ là một mối tình vô vọng. Về sau, trước tấm lòng vị tha gần như hy sinh của Mai Đình, anh đã đáp lại mối tình ấy. Lúc đó bệnh phong đã và đang từng ngày hành hạ Tử, những mảng ửng đỏ trên gò má, lông mi rụng hết trên đôi mắt đã không làm cho Mai Đình xa lánh. Kể cả những lúc bị Hàn hắt hủi do tâm lý của người mắc bạo bệnh, Đình vẫn một lòng an ủi và gần gủi anh. Không nên thần thánh hoá tình yêu của Mai Đình nhưng phải thừa nhận rằng chị có một tấm lòng thật cao quý. Thời gian gần gủi chưa bao lâu thì Mai Đình phải từ giã người mình yêu do một lý do phía gia đình. Sau này Mai Đình đã phải trải qua những tháng ngày gian nan trong cuộc sống, chị đã có một gia đình và công tác ở ngành ngân hàng. Năm 1955 chị là "chiến sĩ thi đua toàn quốc của ngành ngân hàng".


33.Lệ Hải

Chỉ là một trong những bóng hồng ngắn ngủi đi qua cuộc đời tướng cướp Đại Cathay nhưng nhờ xinh đẹp, nhiều mưu mô thủ đoạn và máu lạnh, Lệ Hải nổi lên thành một nữ tướng cướp sát thủ.
Danh tiếng của thị chẳng thua gì “tứ đại thiên vương” du đãng của Sài Gòn trước 1975 là: Lê Đại, Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái, Nguyễn Kế Thế. Với đàn ông, cô đích thị là một “yêu nữ” ma mị có khả năng sai khiến các đại ca giang hồ chỉ bằng một ánh nhìn.

Có thể nói Lệ Hải là “nữ quái” may mắn không phải ngồi tù, cũng không bị thời gian đào thải. Thế nhưng, những năm tháng ở Anh quốc, thị phải sống trong cô độc, không chồng con, không một người thân thích. Cũng có tin đồn, sau ngày 30/4/1975, “yêu nữ” dính vào một tổ chức phản động, bị bắt đưa đi cải tạo mấy năm. Sau khi về lại đời thường, Lệ Hải lấy một thiếu tá chế độ cũ rồi xuất cảnh.

34.Người đàn bà tham lam - Lệ Thanh
Người đàn bà thứ hai làm cả 2 tay giang hồ dữ dằn nhất Sài Gòn (trước 1975) mất mạng trong cùng một ngày là Lệ Thanh. Là gái snack bar, Lệ Thanh vốn tham lam vô độ như cái thế giới mà cô sống khi đó.
Khi quân dù được phân công luân phiên về đóng ở vườn Tao Đàn và dinh Độc Lập để chống đảo chánh, băng sĩ quan lực lượng dù bắt đầu bung ra hoạt động tại Sài Gòn. Đứng đầu là trung úy Hợi, kế tới là Kha, thiếu úy Thanh, Hồ Tường, Ngọc Tường… Mục tiêu béo bở nhất Sài Gòn chính là khu vực Tự do (Đồng Khởi bây giờ) với hàng loạt snackbar, vũ trường, restaurant… gần như chỉ dành riêng cho quân Mỹ và quân các nước Đồng minh.
Ngặt một nỗi, khu vực này nằm trong tay của lực lượng người nhái thuộc hải quân. Nhờ là cận vệ cho Nguyễn Cao Kỳ, Châu Nhị được xem là thủ lãnh của nhóm người nhái gồm: Trọng Tấn, Tầm, Tòng bác sĩ, Vincent… Cuộc đàm phán nhanh chóng kết thúc với việc phân chia quyền lợi vui vẻ cả hai bên.
Tuy nhiên Lệ Thanh, vốn xuất thân ngay vùng tranh chấp mờ mắt vì quyền lợi đã thỏ thẻ với Hợi "điên" (kẻ đang sống già nhân ngãi-non vợ chồng với thị): "Băng người nhái đang ngán cánh lính dù của anh, tội gì phải chia chác… Trải đệm (từ lóng, có nghĩa là thanh toán, xử lý) toàn bộ người nhái, thâu tóm luôn cho rồi!". Hợi nghe lời nhân tình bèn tổ chức một cuộc gặp với Châu Nhị. Trước giờ hẹn, Hợi, Kha, Thanh… ập vào, xả sạch đạn của 3 khẩu súng CAR 15 lên người Châu Nhị.
Sau khi hạ thủ, Hợi chạy ra cửa tẩu thoát. Không hổ danh lực lượng tinh nhuệ binh chủng người nhái, Trọng Tấn chụp súng ruleau bên cạnh nã luôn 4 phát vào gáy Hợi "điên", vì biết chắc Hợi luôn mặc áo giáp chống đạn. Chỉ trong một ngày, hai cọp dữ mất mạng vì lời nói của một mụ đàn bà!
35.Nga Sou
Cũng thời kỳ đó, tại Sài Gòn rộ lên những băng nhóm nữ quái hoạt động dữ dội không thua gì cánh đàn ông. Đứng đầu là băng Lamour với thủ lĩnh là Nguyệt Lamour. Những mỹ nhân xinh đẹp dưới trướng có thể nhắc đến Nga Sou.
Vốn là một cô gái dân chơi theo cách yêu cuồng sống vội của phong trào hippy, Nga nhanh chóng hòa vào thế giới thượng lưu và chơi khá thân với Cao Văn Dũng, con trai đại tướng Cao Văn Viên. Là công tử thuộc dạng nhất nhì miền Nam, các thể loại giang hồ làm sao dám động đến Nga, cục cưng của Dũng.
Nga đẹp và sống xả láng nên nổi danh trong giới quý tộc Sài Gòn. Với phong cách bạt mạng ấy, cộng thêm nhan sắc rực rỡ của các thành viên, chỉ trong một thời gian ngắn, băng Lamour nổi như cồn. Những cuộc chơi thâu đêm suốt sáng mặc cho lệnh giới nghiêm và các cuộc thanh toán như phim găng tơ Mỹ đã làm các băng cạnh tranh phải rụt rè khi nghĩ đến chuyện va chạm với băng Lamour.
Thế nhưng ngoài Nga Sou và chục cô có nhan sắc khác, những "mỹ nhân ma chê quỷ hờn" cũng nhào vào "tìm nơi giải trí và tá túc". Nổi bật trong băng Lamour theo kiểu "có nhan sắc của một gã đàn ông xấu trai" có thể kể đến Sương Lamour. Theo đóm ăn tàn một thời gian và được "quý tử Dũng" bảo kê khỏi bị pháp luật sờ gáy, Sương trở về với bảng thành tích dày cộp những vụ đâm chém. Lấy chồng để an phận nữ nhi thường tình? Không! Sương lấy một gã giang hồ khác cũng thuộc diện số má là Đức năm nghệ và từng một thời tung hoành cùng với Minh Samasa ở Vũng Tàu.
Trở lại chuyện Nga Sou, mỹ nhân số một của băng Lamour, sau khi kết hợp được với 2 mỹ nhân "mặt gạch" khác là Tâm và Sương (một người khác) đã thống trị toàn bộ giang hồ nữ quái. Do có nhan sắc và cũng sẵn sàng nói chuyện với những kẻ không ưa bằng dao lê, Sương khét tiếng thời bấy giờ mà ngay cả những "nam tử Hán" cũng e ngại khi phải đối đầu!
Đến tận ngày cuối cùng của chế độ cũ, Nga Sou và 2 bóng hồng sát thủ vẫn tiếp tục tổ chức những vụ cướp tiền vàng của hàng loạt người di tản để thỏa mãn cơn nghiện ma túy trót dính vào từ thời còn xuân sắc. Sau ngày giải phóng, băng Lamour tất nhiên tan rã, kẻ vào tù người đi kinh tế mới. Bây giờ, để gặp lại Nga Sou chỉ cần đến gần góc đường Trần Quang Khải - Hai Bà Trưng, quận 1, sẽ nhìn thấy một phụ nữ gầy gò lui cui sắp xếp từng bao thuốc lá vào tủ cho con gái ngồi bán. Chẳng ai ngờ đó lại là một mỹ nhân một thời làm điên đảo giới "giang hồ khoác áo lính" của miền Nam…
36.Chị Ba Jacqueline
Đã kể đến những mỹ nhân giang hồ, không thể không kể đến hàng loạt nữ quái khác, tuy không phải là "nhất tiếu khuynh nhân" nhưng hễ nhắc đến tên thì không ai trong giới giang hồ miền Nam không biết. Đó là chị Ba Jacqueline.
Chị Ba là một người mà khi thoạt nhìn chẳng ai phán đúng về giới tính và hết sức trung thành với chiếc xe Goebel lúc nào cũng tinh tươm cáu cạnh. Khá giỏi võ và xuất thân từ môi trường snackbar nên Ba Jacqueline hết sức “gấu”. Nhậu nhẹt, hút thuốc, đánh nhau và sẵn sàng đi cướp nếu có ai đó đề nghị, Ba Jacqueline là người phụ nữ đầu tiên được giang hồ Sài Gòn thuở ấy xem như đàn ông!
Nhưng có một phụ nữ khác, Ba Jacqueline tự xem như "dưới màu": Hai Ba Vạn. Trong một gia đình có đâm chém trừ cơm, Hai Ba Vạn không đi lăng quăng nhậu nhẹt quậy phá mà chủ yếu chỉ "động dao động thớt" khi biết chắc có tiền. Chính vì vậy, từ Hai Ba Vạn, Sáu Ba Vạn đến đám con cháu lóc nhóc mãi sau này, đều chọn nghề "đâm thuê, chém mướn" đặc biệt là… đi đánh ghen giùm với giá cả phải chăng!
Một nhân vật khác hết sức đặc biệt mà các tướng tá quân đội Sài Gòn cũ hay đem ra làm câu chuyện trêu chọc lẫn nhau: bà Năm Tốt!
Vốn là chủ một động mại dâm "deluxe" của Sài Gòn chuyên phục vụ theo đơn đặt hàng của các tướng lãnh miền Nam, bà Năm Tốt nổi tiếng hơn cả hoa hậu khi ấy. Dưới tay có hàng trăm cô gái xinh đẹp và nhìn vẻ ngoài hết sức sang trọng, quý phái, bà Năm Tốt đã trở thành "nhân vật không thể thiếu" của giới thượng lưu Sài Gòn.
Nhưng nếu chỉ có vậy thì cụm từ "Bà Năm Tốt" làm sao có thể trở thành một phương ngữ của giới chóp bu Sài Gòn? Tất cả phát xuất từ viên tướng tư lệnh đội quân dù khét tiếng Dư Quốc Đống! Không phải truyền thuyết mà là sự thật, tướng Đống có một "kích thước quá khổ". Để có thể giải tỏa cho mình, với kích thước ngoại cỡ đó, Đống phải xuất ngoại thường xuyên định kỳ. Hiểu rõ điều đó và để nắm lấy viên tướng hung hãn chỉ huy lực lượng đặc biệt tinh nhuệ này, Nguyễn Văn Thiệu tự trích quỹ đen ra đài thọ cho Đống đi Âu châu định kỳ.
Một lần nọ, lên Đà Lạt chơi với các bạn cũng đang là tướng tá, Đống được giới thiệu với bà Năm Tốt, đang chuẩn bị mở thêm "chi nhánh" trên vùng Tuyên Đức. Điều bất ngờ xảy ra: Đống chết mê chết mệt bà Năm Tốt. Từ đó, những chuyến du lịch ngắn ngày đi Âu châu của Đống không còn cần thiết cho đến tận ngày giải phóng. Bà Năm Tốt nổi tiếng là vì vậy!?

37."Nữ quái" Thu chuột và Hồng mẫu
Sau giải phóng, giang hồ miền Nam im hơi lặng tiếng. Đến thập niên 80-90, một số nữ quái ngóc đầu dậy. Những năm tháng ấy, giang hồ nữ "rớt" vào trại tạm giam Công an quận 1, được biết tới bằng cụm từ trại Mạc (đường Mạc Đĩnh Chi), không ai không biết Thu chuột và Hồng nẫu.
Thu chuột rất đẹp và trước khi chuyển vùng hoạt động qua nhà ga Sài Gòn (Công viên 23-9 bây giờ), Thu đã có hàng trăm (không ngoa) cuộc tình với giang hồ các loại, các kiểu, các đẳng cấp. Đổ vỡ hàng… trăm lần, Thu bèn xăm một bầy chuột từ gót chân lên đến tận trên bắp vế và thế là thành biệt danh. Thu vẫn đẹp, dù bắt đầu bước qua độ tuổi "nghe những tàn phai".
Chính vì vậy vẫn hàng tá giang hồ số má cộm cán vây quanh ra sức và đổ máu giúp thị làm ăn. Thu sống bằng một nghề mà bây giờ đã mất tích: cho thuê quần áo, phấn son, giày dép… mà khách hàng là các cô gái bán hoa quanh vùng nhà ga Sài Gòn, công viên Quách Thị Trang, bến xe bus Hàm Nghi.
Thu chuột đẹp nhưng cánh đàn ông vẫn e dè khi tiếp xúc. Nghe đâu cô ta thỉnh thoảng lên cơn rút dao múa lung tung trước khi tự rạch vào tay một phát. Hồng nẫu điềm đạm hơn, nên dù không đẹp bằng nhưng nhân tình luôn là những tên máu mặt nhất nhì vùng chợ Sài Gòn và Tân Cảng. Cả hai, Hồng nẫu và Thu chuột khét tiếng ở trại Mạc chỉ vì sự tàn ác với các bạn nữ đồng cảnh ngộ. Cả hai đều sáng tạo ra những cách tra tấn, đánh đập và khủng bố tinh thần xuất sắc đến độ, những cô gái lỡ dại "rớt" vào trại Mạc, cho vàng cũng không dám để bị sa vào đó lần thứ 2.
Những phương pháp, không tiện kể ra, nhưng là bài bản được nhân rộng từ trại Mạc lên trại tạm giam Chí Hòa và hàng loạt trại giam khác! Bây giờ, nạn đại bàng đã bị tiêu diệt hẳn ở các trường trại, nhưng ký ức về những trận đòn thù mà Thu chuột, Hồng nẫu sáng tạo ra vẫn là một ám ảnh kinh hoàng cho bất kỳ nữ phạm nào của Sài Gòn thuở ấy!


38.Thanh Thanh Hoa 

Thanh Thanh Hoa (tên khai sinh: Nguyễn Thị Anh, 1943- 20 tháng 9, 2009) là nghệ sĩ cải lương người Việt Nam. Bà sinh ra tại Sài Gòn. Bà bắt đầu sự nghiệp ca hát từ năm 12 tuổi. Bà cùng thế hệ với Thanh Nga, Thanh Hiền, Văn Dũng, Văn Xí.

Bà nổi danh cùng các tác phẩm:Tiếng trống sang canh , Sầu quan 
ải, Cây quạt luạ hồng, Cát Dung Phương Tử




39.Trương Ánh Loan

Bước vào nghề từ đoàn tuồng cổ Bầu Thắng, rồi trải qua những sân khấu Mai Lan Phương- Ngọc Chiếu, Thanh Tao, Hữu Tâm, Minh Hùng- Như Ngọc, đều là những đoàn hát nghiêng về thể loại tuồng màu sắc, hương xa sôi nổi tiếng, mà nữ diễn viên chính phải có nét đẹp sắc sảo, vũ đạo công phu. Hai yếu tố này thì Trương Ánh Loan có thừa. Cô đẹp từ gương mặt đến hình thể và mua rất giỏi.
 Trương Ánh Loan lên sân khấu là toả ngay sức gợi cảm cuốn hút người xem. Bởi vậy, khi Trương Ánh Loan về đoàn cải lương Thủ Đô năm 1961 thì cô đã là một hiện tượng sân khấu với nhiều vai diễn hấp dẫn khán giả bằng giọng ca, điệu múa. Trương Ánh Loan là một trong những nghệ sĩ trụ cột đưa đoàn cải lương Thủ Đô đi lên (với Ngọc Hương, Thanh Thanh Hoa, Như Ngọc là những bạn diễn ăn ý).
ân khấu đoàn Thủ Đô cũng là nơi đưa tên tuổi Trương Ánh Loan vào vùng hào quang rực sáng, với HCV giải Thanh Tâm năm 1963. Ngoài vẻ đẹp  và vũ điệu ngoạn mục, Trương Ánh Loan còn có  đặc điểm thu hút khán giả bằng những lớp diễn buồn sâu lắng. Chính làn hơi chất chứa nhiều rung cảm của cô đã đưa nhân vật sân khấu vào lòng người xem, gây ấn tượng khó quên trong từng vai diễn.

Sau năm 1975, Trương Ánh Loan hát ở đoàn Hoa Anh Đào. Tình cảm riêng tư của Trương Ánh Loan cũng có nhiều biến đổi như các nhân vật của cô trong tuồng hát, nhưng không tình yêu nào cuốn hút cô hơn ánh đèn màu và tiếng nhạc lời ca. Gắn bó với nghiệp cầm ca đến năm 1979, nghệ sĩ Trương Ánh Loan đã mất trên hành trình cùng đoàn hát ở Châu Đốc, để lại nỗi tiếc thương cho bao khán giả với bao hình tượng sân khấu đậm nét trong lòng người xem cùng một nổi oan tình sâu sắc của mình. Ngoài nghệ thuật biểu diễn, Trương Ánh Loan còn góp công đào tạo những tài năng kế thừa như nghệ sĩ Vũ Linh, một diễn viên xuất sắc.


40.Cô Ba Thanh Loan


Nghệ sĩ Thanh Loan, tên thật là Nguyễn Thị Ba, sinh ngày 12 tháng 1 năm 1917, tại làng Phong Thới, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. 
Sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo, từ nhỏ chị phải lam lũ vất vã phụ giúp cha mẹ để kiếm sống. Chị có giọng hát hay và ước ao được vào đoàn hát, nhưng ước ao đó mãi đến năm chị 23 tuổi tức là năm 1940 chị mới thực hiện hiện được. Chị được đoàn Tân Hí Ban nhận cho theo học nghề và bước đầu được đóng những vai nữ tỳ trong các tuồng hát. 
Giai đoạn này đối với chị rất là gay go và lắm phen tủi nhục nhưng với lòng yêu nghề, chị đã kiên nhẫn học tập. Ông Sáu Lăng (phó TTK Hội sân khấu thành phố Hồ Chí Minh nay đã mất) kể lại rằng: “lúc học làm tỳ nữ, trong một đêm diễn, cô múa trật và bị ông bầu gánh đánh, đến nổi phải mang bệnh điếc một bên tai cho đến chết”. Khi đã thành thục những vai tỳ nữ, đoàn mới bắt đầu phân cho cô đóng những vai đào con. Cho đến năm 1946 – 1947 thì cô mới chính thức ở cương vị đào chánh, tên tuổi Thanh Loan từ đó mọi người mới biết đến. Năm 1948, chị về công tác với đoàn Việt kịch Năm Châu. Ở đoàn này chị được cố nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Thành Châu và Trần Hữu Trang ân cần rèn luyện thêm nên nghề nghiệp của chị ngày càng tấn tới. Hai vai diễn nổi bật của chị được người xem mến mộ trong khoảng thời gian này là vai Tiểu Lan trong vỡ “Hồn bướm mơ tiên” (1948) và vai cô con gái trong vỡ “Vó ngựa truy phong” (1949). 
Năm 1953, nghệ sĩ Thanh Loan về hát cho đoàn Nam Tình với vai diễn để đời: Chị Bếp trong vỡ “Nổi lòng Chị Bếp”. Năm 1954 chị lại về hát cho đoàn Phước Chung trong vỡ “Trường hận Dương Quý Phi” mà chị đóng vai Dương Quý Phi. Năm 1957, theo yêu cầu của nghệ sĩ Phùng Há (chủ gánh Vân Hảo) chị về hát cho đoàn này và đảm nhiệm các vai chính trong một số vỡ: “Tập làm chồng”, “Đêm không ngày” (1957). Nơi mà cô để lại nhiều vai diễn nhất là sân khấu Thanh Minh. Ở cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60, sân khấu Thanh Minh là một trong những sân khấu ăn khách nhất với loại tuồng xã hội. Ngoài thanh, sắc vẹn toàn của cô đào Thanh Nga, khán giả luôn chú ý và yêu thích diễn viên chuyên đóng vai mụ (tức vai lão) của đoàn Thanh Minh, diễn viên ấy là Thanh Loan. Qua các vỡ “Đời cô Lựu”, “Tô Ánh Nguyệt”, “Lan và Điệp”, “Nữa đời hương phấn”, “Áo cưới trước cổng chùa”, “Lỡ bước sang ngang”, “Kiếp hoa tàn”, “30 năm sau”. . . của những thập niên 50, 60 với những vai lão độc đáo, tên tuổi của nghệ sĩ Thanh Loan lên đỉnh cao và được liệt vào hàng nghệ sĩ tiền phong của sân khấu cải lương miền Nam. 
Nói đến Thanh Loan không chỉ nói đến một nghệ sĩ trên sân khấu mà còn là một chiến sĩ cách mạng. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống cách mạng, trong một quê hương Vũng Liêm có truyền thống chống giặc ngoại xâm, bản thân đã từng chứng kiến những ngày sục sôi của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ anh dũng, lòng chị cũng nung nấu một tình cảm cách mạng thiết tha. Năm 1946, chị trở thành một cơ sở cách mạng được tổ chức bố trí hoạt động trong giới văn nghệ sĩ giữa thành phố Sài Gòn. Bằng tài năng và danh tiếng của một nghệ sĩ đang lên, bằng sự đôn hậu và cuộc sống mẫu mực, Thanh Loan đã góp phần xây dựng tổ chức văn nghệ sĩ cách mạng, hoàn thành được nhiệm vụ thông tin liên lạc, che dấu cán bộ và giữ vững thế hợp pháp của mình trong một thời gian dài. 
Cuối năm 1961, giữa lúc ngôi sao Thanh Loan đang tỏa sáng, do một bộ phận tổ chức cách mạng trong giới nghệ sĩ bị địch phát hiện, chị được lệnh rút ra vùng giải phóng. Sau đó, chị được đưa ra Bắc để trị bệnh, được đi tham quan, nghiên cứu nghệ thuật các dân tộc ở Bungari và ở một số trung tâm hoạt động nghệ thuật trong nước. Sau khi bệnh tình ổn định (chị bị giải phẩu một lá thận), chị xin trở về Nam để hoạt động. 
Về Nam, chị được biệt phái xuống T3 (tức khu 9 cũ) để làm cố vấn xây dựng phong trào văn nghệ cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Trong thời gian từ năm 1964 – 1975, đoàn cải lương của Trung ương Cục được điều động về đây phục vụ bà con. Cùng một lúc chị làm 2 nhiệm vụ song song: vừa chỉ đạo nghệ thuật cho đoàn cải lương Trung ương Cục, vừa xây dựng phong trào văn nghệ quần chúng. Năm 1970, chị được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam. 
Sau giải phóng (1975) chị về Thành phố Hồ Chí Minh, làm cố vấn chỉ đạo nghệ thuật cho nhà hát cải lương Trần Hữu Trang và tham gia giảng dạy ở trường nghệ thuật sân khấu II. Chị được nhân dân thành phố tín nhiệm bầu làm đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – khóa 4. 
Ngày 13 tháng 10 năm 1982, nghệ sĩ ưu tú Thanh Loan qua đời tại bệnh viện Thống Nhất sau một thời gian bệnh nặng. 
Qua nhiều năm biểu diễn trên sân khấu cải lương, nghệ sĩ ưu tú Thanh Loan đã đảm nhận hàng chục vai diễn, trong đó có nhiều vai gây ấn tượng khó quên trong lòng người mộ điệu. 
Sau khi thoát ly ra vùng giải phóng và ở Bắc về, Thanh Loan không còn làm công tác diễn viên mà chị chuyên sâu công tác chỉ đạo nghệ thuật, đạo diễn dàn dựng và giảng dạy. Chị đã dàn dựng vở “Phụng Nghi Đình” và vở “Rừng cao su nhuộm máu” cho đoàn cải lương Nam Bộ, dựng vở “Trần Quốc Toản ra quân” cho nhà hát Trần Hữu Trang. Chị đã góp phần mình đào tạo nhiều lớp ca nhạc cổ và sân khấu cải lương, bồi dưỡng tài nghệ cho một số nghệ sĩ nổi tiếng như cố nghệ sĩ Thanh Nga, nghệ sĩ Thanh Vy. 
Hơn bốn mươi năm hoạt động không mệt mỏi trên sân khấu, nghệ sĩ Thanh Loan đã được Nhà nước phong tặng: 
- Danh hiệu nghệ sĩ ưu tú. 
- Huân chương chiến thắng hạng I. 
- Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng I. 
- Truy tặng huân chương lao động hạng III. 
- Huy chương chiến sĩ văn hóa.




41.Cô Năm Phỉ (1908 – 1954)
Tên thật là Lê Thị Phỉ, sinh năm 1908, tại làng Điều Hòa (tỉnh Mỹ Tho cũ) trong một gia đình công chức. Thân phụ là cụ Lê Tấn Công, một trí thức Tây học nhưng chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo sâu nặng. 
Trong số 11 người con của cụ Lê Tấn Công thì có 5 người là nghệ sĩ nổi tiếng như: cô Ba Danh, cô Năm Phỉ, cô Bảy Nam, cô Chín Bia, cô Mười Truyền. Hậu duệ của cô Bảy Nam là Nghệ sĩ ưu tú Kim Cương.

Ngay từ nhỏ cô Năm Phỉ đã có giọng ca thiên bẩm. Chất giọng trời cho ấy được ông Hai Cu, một thợ bạc ở cùng dãy phố với gia đình cô phát hiện. Ông Hai Cu có người con trai tên Hai Giỏi, lớn hơn cô Năm vài tuổi, cũng có giọng ca rất truyền cảm. 
Do ham mê nghệ thuật nên ông Hai Cu vận động giới thợ bạc ở Mỹ Tho đóng góp tiền bạc để lập gánh hát Nam Đồng Ban cho Hai Giỏi làm kép chánh và cô Năm Phỉ làm đào chánh. Vậy là sự nghiệp cải lương của cô Năm bắt đầu từ đó.
Ba vai tuồng đặc sắc ghi lại dấu ấn của cô
·        Điêu Thuyền trong vở Phụng Nghi Đình.
·        Bàng Quý Phi trong vở Xử án Bàng Quý Phi.
·        Lan trong vở Lan và Điệp.



Cô mất năm 1954 để lại trong lòng công chúng và người hâm mộ nỗi thương tiếc không nguôi.



42.Bảy Nam


Nghệ sĩ Bảy Nam tên thật là Lê Thị Nam sinh năm 1913 tại Mỹ Tho, Tiền Giang trong một gia đình có 12 người con, mà phân nửa theo nghề hát cải Lương, nổi bật nhất là bà Bảy Nam và chị là bà Năm Phỉ.
Nghệ sĩ tiền phong 
Bảy Nam vang bóng một thời, bà là thân mẫu của kỳ nữ Kim Cương và là em của nghệ sĩ Năm Phỉ lừng danh tên tuổi thời thập niên 1930. Câu chuyện dưới đây do bà kể lại vào khoảng giữa thập niên 1960, hôm ấy nhằm bữa ban tuyển chọn giải Thanh Tâm họp để chấm điểm tuyển chọn nghệ sĩ triển vọng và diễn viên xuất sắc (nghệ sĩ Bảy Nam từng được mời tham gia ban tuyển chọn giải Thanh Tâm, là một trong những thành viên giám khảo từng chấm giải diễn viên xuất sắc cho nghệ sĩ Thành Ðược, Thanh Nga, Bạch Tuyết, Lệ Thủy...
Vào nghiệp cầm ca từ năm 1926, nghệ sĩ 
Bảy Nam phục vụ sân khấu cải lương suốt bốn thập niên, và trong cuộc đời nghệ thuật, những năm đầu thập 1930 đã làm bầu gánh hát và cũng gian nan vinh nhục với nghiệp làm bầu. 




43.Út Bạch Lan 

Út Bạch Lan tên thật là Đặng Thị Hai là nghệ sỹ cải lương ưu tú. sinh năm 1935, tại ấp Lộc Hóa, xã Lộc Giang, Đức Hòa, Long An. Bà được mệnh danh là giọng ca sầu nữ
Bà sinh ra trong gia đình nghèo khó, sự khởi nghiệp Bà cùng danh cầm Văn Vĩ. Nhờ nhân duyên mẹ của hai người sống trong trạm gác cũ, kết nghĩa chị em hai. Văn Vĩ đánh đàn bà hát, nhờ một ông lão tốt bụng mở cho một lớp để hai người dạy đàn ca võng cổ. Một hôm cô Năm Cần Thơ tìm tới mời hai người lên đài phát thanh Pháp Á để thu bài "Trọng Thủy – Mỵ Châu" rồi được ký luôn một hợp đồng làm việc cho đài. Từ đó bà chính thức bước vào nghề hát, vào những của thập niên năm mươi, cặp diễn viên Út Bạch Lan – Thành Được đã làm rạng rỡ sân khấu Kim Chưởng. Bà và Thành Được đã làm nên thương hiệu của đoàn Thanh Minh Thanh Nga, sau đó kết hôn với nghệ sỹ Thành Được. Một thời gian thì cuộc tình cũng chia tay, bà phải nuôi bốn đứa con của chồng. Là thế hệ kế tiếp của nghệ sĩ Bảy Phùng Há bà vẫn đang tiếp tục sự nghiệp của mình. Những năm tháng còn lại của đời bà đã chọn vào cửa Phật, không phải xuống tóc quy y mà đêm gỏ mõ tụng kinh, ngày chọn sân chùa làm sân khấu, hát trích đoạn những vở tuồng về Phật để lấy tiền trùng tu, sửa chữa chùa chiền.



44.Thanh Hương

Đây là một danh ca lừng lẫy một thời với Út Bạch Lan, giọng đồng của nữ (có pha một chút hơi thổ) Thanh Hương ca chân phương, mạnh mẽ nhưng cũng rất ngọt, rất mùi, thường ca chung với Hữu Phước tạo thành một liên danh ăn khách trên các hãng dĩa. Thanh Hương là giọng ca độc nhất vô nhị, cho tới bây giờ cải lương chưa có giọng ca nữ nào được như bà, cách ca của Thanh Hương hoàn toàn đối lập với Út Bạch Lan. Nếu Thanh Hương mộc mạc, âm vực rộng thì Út Bạch Lan mềm mại, dịu dàng, trữ tình. Hai người như một văn (Út Bạch Lan), một võ (Thanh Hương). Rất tiếc sau này Thanh Hương lập đoàn hát đi lưu diễn các tỉnh miền Tây rồi qua đời năm 1975 tại An Giang nên không xuất hiện nhiều trên băng dĩa. Dấu ấn để lại không nhiều với lớp nghệ sĩ trẻ nhưng với những nghệ sĩ thành danh thập niên 60-70, Thanh Hương là một giọng ca hàng đầu của SKCL ngang hàng với Út Bạch Lan, Hữu Phước, Thành Được, Thanh Hải…




45.Hồng Nga


Nghệ sĩ Hồng Nga sinh năm 1946 tại Sài Gòn. 12 tuổi học ca cổ nhạc, 13 tuổi đi hát múa trong quán bar Lệ Liễu, 14 tuổi đi đoàn tỉnh, lớn hơn thì chuyển về đoàn Thanh Hương - Hùng Minh, Thống Nhất Út Trà Ôn, Dạ Lý Hương. Sau giải phóng về Sài Gòn 2, Sài Gòn 3, Thanh Minh, Nhà hát Trần Hữu Trang. 20 năm nay gắn bó cùng sân khấu kịch.

Những vai diễn ấn tượng: vợ cai tổng Dần (Ánh lửa rừng khuya), bà mẹ của Chơn (Tiếng hò sông Hậu), cố mẫu (Dương Vân Nga), bà mẹ (Tình nghệ sĩ, Mẹ yêu, Đón con về, Xóm gà)...



46.Kiều Mai Lý

Nhà ở Bà Chiểu, ngay từ thời còn đi học, cô bé Nguyễn Thị Lý đã mê hát cải lương. ở gần nhà có ông Năm Đồng, biết ca, nhưng không biết đởn. Thấy bé Lý có giọng ca hay, ông nhận Lý làm đệ tử, dạy cô bé phân nhịp bằng cách Lý hát ông gõ tay lên bàn. Đình Cây Quéo thời đó có nhiều đoàn cải lương về hát, một hôm đi học về, Lý ghé qua coi đoàn Thanh Hương - Hùng Minh tập tuồng. Từ đó Lý có ý định đi hát, gia đình có người thuận ý, có người không, vậy là Lý lén nhà đi theo đoàn hát.

Cuộc đời đi hát của nghệ sĩ Kiều Mai Lý trầm lặng, bình thường, ít biến động giống như tánh nết hiền lành, giản dị của chị. Ởlứa tuổi này nhiều bạn bè của chị đã giã từ sân khấu, riêng chị vẫn tung tăng bay nhảy trên sân khấu, vẫn hồn nhiên, tươi tắn. Kiều Mai Lý là một trong số ít nghệ sĩ vẫn giữ được phong độ của mình. Chị là người rất được đồng nghiệp, bạn bè thương mến.





47.Diệu Hương 

Diệu Hương (tên thật Lê Thị Diệu Hương; sinh vào năm 1955) là một nữ nhạc sĩ Việt Nam hiện sống ở Mỹ.
Diệu Hương sinh ngày 26 tháng 10 năm 1955 tại Huế trong một gia đình có 13 người con mà cô là con gái duy nhất. Năm 5 tuổi, Diệu Hương theo cha là một sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa, cùng với gia đình chuyển vào Đà Nẵng. Tại đây cô theo học trường Sacré Coeur. Sau khi hoàn tất bậc trung học, Diệu Hương lên Đà Lạt theo học trường đại học Chính trị Kinh doanh và từng được bầu là trưởng ban văn nghệ trong những năm đại học. Trước đó Diệu Hương đã từng theo học piano với các dì phước cũng như từng hát và đóng kịch trên sân khấu nhà trường và tham gia những hoạt động hướng đạo. Tại Đà Lạt, Diệu Hương cũng ở nội trú với các dì phước, trong thời gian đó, Diệu Hương tập guitar rồi về Sài Gòn học tiếp tục với một người bạn.
Sau biến cố tháng 4 1975, Diệu Hương rơi vào cảnh buồn bã "đời sống lúc đó không có chi nữa hết" và cô viết bản nhạc đầu tay Tôi muốn hỏi tại sao vào năm 1977. Cô còn tiếp tục sáng tác một vài ca khúc khác.
Sau nhiều lần vượt biên không thành, cuối cùng Diệu Hương và gia đình sang Mỹ vào năm 1990 theo diện HO. Tại Mỹ trải qua nhiều công việc, rồi Diệu Hương theo học ngành thiết kế đồ hoạ.
Nhạc phẩm đầu tiên Diệu Hương sáng tác tại hải ngoại là bản Mùa thu nơi đây viết năm 1990, ngay sau khi đặt chân đến Hoa Kỳ, diễn tả tâm trạng của một người xa quê hương, nhớ về thành phố cũ trong khung cảnh một mùa thu.
Năm 1997, cô viết Lặng nhìn ta thôi và ca khúc này đã được đưa vào CD do Lệ Thu trình bày với một số ca khúc khác của Diệu Hương. Tiếp đó ca khúc Mình ơi mang đậm nét dân ca do Ý Lantrình bày đã đưa tên tuổi Diệu Hương đến với đông đảo công chúng yêu nhạc. Đến nay Diệu Hương đã phát hành 5 CD Ở lại ta đi, Giòng lệ khô, Khắc khoải, Cho dòng sông cuốn trôi  Hư ảotrong đó có nhiều bài hát nổi tiếng được các ca sĩ trong nước và hải ngoại trình bày. Đặc biệt Vì đó là em với tiếng hát ca sĩ Quang Dũng đã giành được giải Mai Vàng 2003.






48.Bích Thuận

Qua nhiều thập niên trình diễn, nghệ sĩ Bích Thuận đã trở thành một tài danh huyền thoại trong mọi thể loại thi ca, nhạc, kịch, quan họ, hát bội, cải lương và cả điện ảnh; được báo giới và khán thính giả Miền Nam bầu chọn là nghệ sĩ đẹp nhất và được nhiều mến mộ nhất hồi năm 1953, và được ban tặng Đệ Nhất Đẳng Bội Tinh Tâm Lý Chiến năm 1959 và Đệ Nhất Đẳng Văn Hóa Giáo Dục Bội Tinh năm 1971. Sau khi định cư tại Pháp Quốc, năm 1988, nghệ sĩ Bích Thuận được mời tham dự và trình diễn nghệ thuật văn hóa Việt Nam tại Quảng Trường Thánh Phêrô ở Roma nhân dịp Lễ Phong Thánh cho 117 vị tử đạo Việt Nam, và được vinh dự tiếp kiến Đức Giáo hòang Gioan Phao Lồ Đệ Nhị. Vào những năm 1983 và 1988, tên tuổi Bích Thuận được ghi trong Tự điển tiểu sử các nhân vật quốc tế ở Cambridge, Anh Quốc, và trong danh sách 5.000 nhân vật trên thế giới. Nữ nghệ sĩ tài danh này đã góp phần bảo tồn nền thi ca, vũ, nhạc, kịch Việt Nam qua buổi trình diễn tại Trung Tâm Văn Hóa LHQ UNESCO ở thủ đô Paris, Pháp Quốc hồi 1999. Và cuộc đời cùng quá trình hoạt động nghệ thuật đó đã được trình bày qua tập hồi ký của nghệ sĩ Bích Thuận tựa đề Từ Làng Vân Hồ Đến UNESCO.



49.Bích Sơn
Bích Sơn là cháu của nghệ sĩ tài danh Bích Thuận ở đoàn hát Kim Chung. Có năng khiếu nghệ thuật từ nhỏ, lại được dì dẫn đắt, nên khoảng năm 1955-1956, Bích Sơn đã có những vai diễn sinh động trên sấn khấu Kim Chung.
Nét đẹp cô gái miền Bắc của Bích Sơn người ta nhớ nhất là mái tóc dài như suối phủ bờ vai, cặp mắt mơ mộng với nụ cười ẩn chứa nổi buồn man mác trên đầy đặn, bầu bỉnh như búp bê. Giọng ca Bích Sơn truyền cảm, và đặc biệt là cô ngâm thơ rất hay. Qua những bài thơ trữ tình như : “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” của Kiên Giang, giọng ngâm của Bích Sơn thật cuốn hút, chất chứa những rung cảm. Bởi vậy, nét đẹp của Bích Sơn nổi danh “Kiều nữ”, còn giọng ca ngâm của cô hấp dẫn bao khán giả đương thời. Sau những vai mở đầu nghiệp diễn ở đoàn hát Kim Chung, Bích Sơn nổi bật trên sân khấu đoàn cải lương Thuý Nga trong vở “Khi hoa anh đào nở” của đôi tác giả Hà Triều – Hoa Phượng, qua vai cô gái Nhật. Vẽ đẹp của Bích Sơn thích hợp với một mỹ nhân Phù Tang, giọng hát trầm bổng nhịp nhàng với tiếng đàn samisen thấm vào lòng khán giả. “Khi hoa anh đào nở” đã thắp sáng tên tuổi của Bích Sơn. Tiếp đến là giải Thanh Tâm năm 1960 trao cho Bích Sơn chính là bệ phóng đưa cô lên tâm cao nghệ thuật.
Sau sân khấu đoàn Thuý Nga, Kiều nữ Bích Sơn qua những đoàn khác: Trăng mùa thu, rồi Thanh Minh – Thanh Nga. Cô có nhiều vai diễn ấn tượng trong vở “Tâm tình cô gái thượng”, “Tóc em chưa úa trăng thề”, “Mối duyên thiên lý”, “Hoa mùa gió loạn”,…Kiều nữ Bích Sơn còn là một diễn viên diện ảnh nổi tiếng, vai diễn người mẹ của cô trong phim “Bụi Đời” của đạo diễn Lê Mộng Hoàng là một dấu ấn đẹp trong điện ảnh.
Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, Bích Sơn hát ở đoàn Thanh Minh với những vai sắc nét: Nữ Tướng Thánh Thiên trong “Tiếng trống Mê Linh”, Cố Mẫu Thái Hậu Dương Vân Nga”, Nhũ Mẫu trong “Truyền tuyết về tình yêu”,…Tuổi đã cao, nghề đang đi vào xế chiều, Cô đã rời cánh màn nhung để ra nước ngoài đoàn tự gia đình, nhưng khán giả vẫn còn nhớ hình ảnh một Kiều nữ ngày nào trên sân khấu cải lương với giọng ca trầm và đôi mắt đẹp buồn diệu vợi.



50.Nghệ nhân Bạch Huệ

Nghệ nhân Bạch Huệ, quê Cần Thơ, con của vợ chồng nghệ sĩ cải lương nổi tiếng Sáu Tửng - Kim Liên, nên từ 13 tuổi bà đã thuộc lòng nhiều bài bản và có mặt trong hầu hết các chiếu đờn ca tài tử miệt sông nước Hậu Giang.
Khi lên Sài Gòn bà nhanh chóng nổi danh, hát ở Đài phát thanh Sài Gòn và trình diễn khắp các sân khấu, được mời thu âm cho các hãng đĩa nổi tiếng như Asia, Hoành Sơn, Pathé…
Sau 1975, bà giảng dạy trong Viện Nghiên cứu âm nhạc TP.HCM, Trường Sân khấu - Điện ảnh TP.HCM, làm cốvấn cho Trung tâm văn hóa TP.HCM. Hơn 60 năm theo nghiệp, bà đã hướng dẫn cho biết bao người trẻ tìm đến với đờn ca tài tử.

Cuối đời, bà sống trong Viện Dưỡng lão nghệ sĩ (Q.8, TP.HCM) và  mất vào sáng 12.10.2013, thọ 80 tuổi.


51.Nữ nghệ sĩ Kim Lan (1926- 2000)

Nữ nghệ sĩ Kim Lan tên thật là Huỳnh Thị Kim Lan, sinh năm 1926, con của nghệ sĩ cải lương tiền phong Bảy Nhiêu (Huỳnh Năng Nhiêu). Kim Lan là em của nữ nghệ sĩ Kim Cúc (vợ của nghệ sĩ Năm Châu, tác giả kiêm diễn viên lừng danh trong giới cải lương, thoại kịch và phim ảnh Việt Nam).

Từ trái qua: KIM CÚC- BẢY NHIÊU- KIM LAN

Đầu những năm 1960, nghĩa là khi đang ở đỉnh cao danh vọng thì bổng dưng cô gái đầu lòng của bà thọ bệnh và mất. Nổi buồn quá lớn nên ít lâu sau, Kim Lan quyết định rời xa sâu khấu, xa môi trường mà ở đó hàng đêm bà khóc cười với nhiều số phận khác nhau. Bà  thu mình trở về với cuộc sống đời thường. Tất cả đồ nghề tự trang bà dành để biểu diễn bà mang tặng tất cả cho đồng nghiệp, không giữ lại một chút gì để còn thấy và luyến lưu sân khấu.

52. Tôn Nữ Thị Ninh

Tôn Nữ Thị Ninh  sinh ra tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế, là hậu duệ của hoàng tộc nhà Nguyễn

Bà từng là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam bên cạnh Liên minh châu Âu và tại Bỉ. , Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam. Bà có vai trò tích cực trong lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam.

Tháng 2 năm 2013, bà được Chính phủ Cộng hòa Pháp tặng huân chương Bắc đẩu Bội tinh.







II.Những giọng ca nữ vang bóng một thời


1. Thái Thanh 

Thái Thanh " Một ca sĩ của dân tộc ". Thái Thanh " Một tiếng hát dâng hiến tâm tình " Thái Thanh đã hát cho bao nhiêu thế hệ chúng ta, từ đầu thập niên 50, khi mới 17 tuổi, từ Bắc vào Nam, hơn 20 năm với quê hương chinh chiến. 
Tên tuổi Thái Thanh trở nên lẫy lừng từ thập niên 1950 cho đến những ngày cuối của miền Nam Việt Nam. Tiếng hát của bà ngự trị trên khắp các chương trình ca nhạc truyền thanh cũng như truyền hình. Cùng với Thái Hằng, Hoài Bắc, Hoài Trung, Phạm Duy, Khánh Ngọc (vợ nhạc sĩ Phạm Đình Chương) lập nên ban hợp ca Thăng Long nổi tiếng. 
Với 1 giọng ca trong trẻo, cao vút cùng một cách hát và nhả chữ không thể nhầm lẫn, tiếng hát Thái Thanh đã sống cùng trái tim yêu nhạc của bao người qua nhiều thế hệ. Tên tuổi Thái Thanh gắn liền với âm nhạc Phạm Duy & Phạm Đình Chương cùng những ca khúc sống mãi với thời gian: Ngày xưa Hoàng Thị, Đôi Mắt Người Sơn Tây, Dòng Sông Xanh, Nửa Hồn Thương Đau.... 





2. Khánh Ly 

Nhắc đến âm nhạc Trịnh Công Sơn, người ta nhớ ngay đến tiếng hát Khánh Ly. Nghe nhạc Trịnh với giọng ca của Khánh Ly để suy ngẫm về cuộc đời, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của âm nhạc, để thông cảm với một tâm hồn... quá hay, quá đẹp. 
Tiếng hát Khánh Ly và nhạc Trịnh Công Sơn đã đi liền với nhau như một định mệnh. Nhạc Trịnh Công Sơn là những bài tình ca cho đất nước, cho dân tộc, và cho tình yêu. Bằng tiếng hát Khánh Ly, và có lẽ chỉ bằng tiếng hát Khánh Ly, những bài hát của Trịnh Công Sơn đã thấm sâu vào tâm hồn mọi người Việt Nam. Ðã mấy chục năm trôi qua từ ngày cô bé Khánh Ly đi chân đất, hát trước hàng ngàn sinh viên Việt Nam và gây xúc động mạnh mẽ với một thứ âm nhạc lạ kỳ. Ngày nay, nhạc Trịnh Công Sơn qua tiếng hát Khánh Ly đã trở thành một phần của tâm hồn người Việt chúng ta. 





3. Lệ Thu 

Lệ Thu, một cái tên tiền định hát bằng nước mắt đau thương, bàng bạc như tơ sương của khung trời mùa Thu đất Bắc, như một lời giới thiệu mở đầu ... tèng teng teng...Chiều chưa đi màn đêm rơi xuống, đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông,... Rồi một buổi trưa hè nào đó bên nhà hàng xóm văng vẳng xa vắng Gọi Nắng trên vai em gầy đường xa áo bay,...Chỉ một mỹ từ duy nhất để diễn tả về Lệ Thu thôi "Đẹp", Lệ Thu là một tiếng hát Đẹp. Thưởng thức tiếng hát Lệ Thu như là thuởng thức một Dung Nhan đẹp đẽ và rắn rỏi. 
Ở Lệ Thu, cái đẹp còn ở lối phát âm tiếng Việt khi hát. Nghĩ đến Lệ Thu là mường tượng ngay ra được Vẻ đẹp của tiếng Việt, Nhẹ nhàng, Uyển chuyển và rất tròn vành rõ chữ. 





4. Bạch Yến 

Với 50 năm góp mặt trong lãnh vực nghệ thuật, Bạch Yến rất xứng đáng được coi là một nữ nghệ sĩ có quá trình hoạt động lâu dài nhất cho đến ngày hôm nay. Với những thăng trầm trong cuộc sống cũng như trong nghề nghiệp, tên tuổi của chị vẫn là một tên tuổi lớn trong việc giới thiệu nền văn hoá Việt Nam với khán giả năm châu qua nhạc dân ca cổ truyền hiện nay cũng như từng góp mặt trong giới "show business" tại Hoa Kỳ trong một thời gian dài. 
Giọng hát trầm đặc biệt đó cũng đã trở nên quen thuộc với khán giả Việt Nam từ rất nhiều nãm qua, mặc dù âm sắc rất trầm nhưng giọng hát chị thuộc loại "mezzo soprano", đã góp phần không ít trong việc tạo cho nhạc phẩm "Ðêm Ðông" trở thành bất hủ. 






5. Hoàng Oanh 


Tiếng hát mật ngọt Hoàng Oanh trải qua nhiều năm tháng, không thể lẫn lộn với bất cứ giọng ca nào. Nó đi sâu vào lòng người, ngất ngây như uống phải thứ men say và gợi nhớ muôn trùng một vùng trời kỷ niệm, đầy ắp thương yêu. Hoàng Oanh là một tài năng đa diện. Với một làn hơi ngọt ngào, nồng nàn tình cảm, Hoàng Oanh đã có khả năng trình bày tất cả các loại nhạc cũng như lối ngâm. Từ những nét sang trọng, dịu dàng, quý phái của nhạc tiền chiến đến những bản dân ca ba miền, những bài tình tứ quê hương, từ những câu Hò mái đẩy miền Trung đến bài vọng cổ miền Nam hay câu Sa mạc, hát ví của miền Bắc... 
Tiếng hát cũng như giọng ngâm của Hoàng Oanh có chút gì thật sâu đậm, buồn man mác nhưng thật tình tứ, đã chinh phục được đa số thính giả. 





6. Hà Thanh 

Có một loài chim khi cất tiếng hót thánh thót vang vọng giữa trời mây sông nước, không gian như lắng đọng để hoà nhập trong âm điệu du dương: Hoàng Oanh. Mang âm hưởng đó, có tiếng ca ngọt ngào, truyền cảm như làn gió nhẹ, như tiếng reo của thuỳ dương, như tơ vương giăng mắc, như sương khói lững lờ, như lời tình tự giữa trăng thanh, như ru ta vào cõi mộng mơ, dìu ta lạc bước vào đất thần kinh với hoàng thành cung điện, với đền đài lăng tẩm, với sông nước hữu tình, với nhạc điệu trầm bỗng, thướt tha: Hà Thanh. 
Tên tuổi Hà Thanh đã được giới yêu thích âm nhạc ái mộ với làn hơi trong sáng, êm ái, ngọt ngào, cao sang, mượt mà, bóng bẩy, tình tự quê hương, có nét độc đáo trong âm điệu đất thần kinh. Tuy yêu nghề nhưng chưa dấn thân vào nghiệp, Hà Thanh vẫn tiếp tục con đường học vấn, chỉ hát ở Huế nhưng những ca khúc được trình bày đã vang xa khắp bốn phương trời qua lán sóng phát thanh của Đài phát thanh Huế, đánh dấu sự chờ đợi, hẹn hò của các trung tâm phát hành đĩa nhạc ở Thủ đô Sài Gòn. 





7. Phương Dung 

Cô nổi tiếng năm 17 tuổi sau khi trình bày thành công bài hát "Nỗi buồn gác trọ" của Mạnh Phát và Hoài Linh vào năm 1962, sau đó tiếng hát của cô đã đi vào lòng người với bài hát "Những đồi hoa sim" năm 1964, Dzũng Chinh phổ thơ của nhà thơ Hữu Loan. Năm 1965, với bài hát "Tạ từ trong đêm" của nhạc sĩ Nhật Trường - Trần Thiện Thanh, Phương Dung đã nhận được giải huy chương vàng giành cho nữ ca sĩ trong năm, và người nhạc sĩ của bài hát được giải Bài hát xuất sắc nhất trong năm. 
Tên tuổi Phương Dung được chắp cánh thêm với mỹ danh "Con Nhạn Trắng Gò Công" mà thi sĩ Kiên Giang Hà Huy Hà tặng cho cô. Từ đấy con nhạn trắng Phương Dung bay không mệt mõi trong vùng trời âm nhạc. Hiện nay tuy đã có tuổi nhưng giọng ca của Phương Dung vẫn không phai dần theo năm tháng, vẫn còn đó lối hát tâm tình, cứ như trăn trở về một dĩ vãng ngày xưa. Tiếng hát Phương Dung ngọt ngào mà chơn chất như người con gái Gò Công, luôn được khán thính giả yêu mến tới nay. 





8. Bích Chiêu 

Là người chị cả trong gia đình nhạc sĩ trứ danh Lữ Liên gồm có các danh ca nổi tiếng khác: Tuấn Ngọc, Khánh Hà, Anh Tú, Lưu Bích, Lan Anh & Thúy Anh. 
Bích Chiêu: Cô không đẹp nhưng có duyên. Cô có hàm răng vẩu và lưỡng quyền hơi cao. Nhưng vẻ thông minh tinh quái chiếu sáng chan hòa khuôn mặt cô. Đã vậy, cô rất hồn nhiên, không che đậy khuyết điểm của mình. Thân hình của Bích Chiêu khá nồng nàn và khá cân đối. Đã vậy cô biết hóa trang và ăn mặt nên trên sân khấu cô có nét gợi cảm và thu hút riêng. Giọng Bích Chiêu phong phú và hơi khàn. Chuỗi ngân cô rập rờn và óng ả. 

Bích Chiêu hát rất trội, rất ngậm ngùi những ca khúc tình ái như "You Don't Know Me" hay "I Went To Your Wedding" dễ làm say lòng người. Tôi còn nhớ Nguyên Sa có câu thơ "trải dài đại lộ bằng tiếng hát Bích Chiêu". Bích Chiêu vẫn là thần tượng lộng lẫy của giới trẻ vào cuối thập niên 50 và 60. 





9. Thanh Thúy 

Trong kiếp cầm ca, tiếng hát được nhiều cây bút tên tuổi xuất thủ với ngôn từ độc đáo, tuyệt vời được dàn trải với tha nhân thưởng ngoạn, bồng bềnh theo hình bóng qua bốn thập niên của hậu bán thế kỷ XX, tiếng hát đó đã gói trọn tình khúc, vượt thời gian và không gian, đi vào ký ức, đi vào chiều dài lịch sử trong làng ca nhạc Việt Nam: Thanh Thuý.

Thanh Thúy qua ca khúc trữ tình, lãng mạn của nhiều nhạc sĩ tài danh được mô tả bằng tiếng hát lơ lửng với khói sương, nhấp nhô cùng sóng nước, đam mê theo cung bậc, thì thầm với kẻ tình si, du dương trong tĩnh lặng, vỗ về với yêu thương. Thanh Thuý: Tiếng Hát Liêu Trai, Tiếng Hát Khói Sương, Tiếng Hát Lúc Không Giờ, Tiếng Sầu Ru Khuya, Tiếng Hát Lên Trời, Tiếng Hát Khói Sương Chiêu Niệm... qua nhiều cây bút với ngôn ngữ văn chương không ngần ngại hạ bút để viết về tiếng hát. 





10. Ngọc Lan 

Nhắc đến các giọng hát Việt Nam hải ngoại, đặc biệt những giọng hát của các ca sĩ trẻ, mới xuất hiện ở ngoài Việt Nam sau 75, chúng ta không thể không ghi nhận giọng hát Ngọc Lan. Ngọc Lan, một giọng hát mà người thưởng ngoạn có thể tìm thấy ở đó, hoặc cả một khung trời mất mát, sầu muộn, nuối tiếc. Hoặc cả một vùng hào sáng, có tuổi xuân đang lớn, đam mê và cuồng nhiệt. 

Với chất giọng ngọt ngào, trữ tình, Ngọc Lan nhanh chóng được khán giả biết đến và đã được các trung tâm mời ghi âm . Ngọc Lan đạt được đỉnh cao của tiếng tăm từ khi cộng tác với trung tâm nhạc Mây trên những chương trình Hollywood Nights . 
Ngọc Lan được yêu thích qua nhiều nhạc phẩm nước ngoài lời Việt, như Mưa trên biển vắng... Cô cũng trình bày nhiều ca khúc tiếng Pháp, những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên... Cô hát ở rất nhiều thể loại nhạc và dòng nhạc, hiện nay theo một số người sưu tầm nhạc, cô đã trình bày trên 800 ca khúc và trên 40 video clip. 
Sau một thời gian dài bị chứng bệnh đa thần kinh hóa sợi hành hạ, Ngọc Lan trút hơi thở cuối cùng vào hồi 8 giờ 25 sáng ngày 6 tháng 3 năm 2001 tại bệnh viện Vencor, Huntington Beach, Nam California.




11.Thiên Hương

Thiên Hương tên thật là Tôn Nữ Thiên Hương. Cô còn có nghệ danh là Tiny Yong.
Vì cha làm nghề Y phải đi nhiều nơi, cô được sinh ra ở Nam Vang, học tiểu học ở Couvent Des Oiseaux (Đà Lạt), học trung học ở Marie Curie (Sài Gòn). Năm 1958 cô theo gia đình định cư ở Pháp.
Đầu thập niên 70 cô về Việt Nam cộng tác với chương trình Jo Marcel một thời gian ngắn nhưng không thành công. Cô trở lại Pháp hát nhạc Pháp và tên tuổi Tiny Yong chói sáng với nhiều albums đã phát hành tại Paris.



12.Trúc Mai

Hồi còn cộng tác với phòng trà Hòa Bình, Trúc Mai nổi tiếng qua bản “Bambino”, một bản ruột của danh ca Dalida. Bản này cũng đã được Kim Vui và Tuyết Hương hát, vậy mà chỉ có Trúc Mai được khán thính giả tán thưởng và được báo chí nói tới dù tiếng hát của Kim Vui rất là vang lộng. Có lẽ khi hát bản nầy, ngoài giọng hát dễ thương ra, Trúc Mai còn có dáng dấp tươi trẻ, khuôn mặt thật xinh xắn dễ thương chăng? Tiếng hát của Trúc Mai thanh thanh và mỏng nhẹ. Cách trình bày các bản nhạc khác ngoài bản “Bambino” rất thờ ơ uể oải, ngay cả các bản Việt Nam. Có lẽ cô tin tưởng ở tiếng hát của mình vốn đã có sẵn tính chất gợi cảm rồi, cô cần chi than van nức nở, cần chi ưỡn ẹo làm nũng làm duyên với khán thính giả. Cô cũng ngân nga; chuỗi ngân kéo dài tới đâu cô cũng chẳng quan tâm. Khán thính giả sở dĩ yêu mến giọng hát của cô ở chỗ thanh ngọt như nước cam vắt pha mật ong, không một dấu vết điệu đà nũng nịu nào. Và khi cô hát, cô cũng không cười cầu tài với khán giả, cũng chẳng liếc tống tình phe râu mày, cũng chẳng làm mặt đưa đám ma khi hát một bài ai oán não nùng. Cô chỉ tạo một niềm vui đằm thắm, một chút ánh sắc linh hoạt trên khuôn mặt điềm đạm của mình mà thôi. Dường như cô hát cho cô, chứ không nhắm vào một đối tượng nào, một thành phần nào để hát. 



13.Tam Ca Đông Phương

Tam Ca Đông Phương được thành lập vào năm 1970 gồm Tuyết Hằng, Thu Hà và Hồng Vân.
Cả 3 ca sĩ được sinh trưởng tại 3 miền của quê hương Việt Nam 
đều có chất giọng hài hòa và âm lực rất rộng nên các nhạc sĩ viết hòa âm được rộng tay để sáng tác. Đúng lúc phong trào dân ca đang cần được khôi phục, sự ra đời của Tam Ca Đông Phương đáp ứng được nhu cầu của khán giả nên chỉ sau vài lần trình diễn Tam ca Đông Phương đã thành công vang dội vì đã mang đến cho khán giả một sắc thái đặc biệt trong phong cách và bài bản trình diễn.
Tam Ca Đông Phương cũng là một ban dân ca đầu tiên được mời cộng tác thường trực để trình diễn trên sân khấu phòng trà Đêm Mầu Hồng, một nơi chốn mà khi nhắc đến, khán giả chỉ liên tưởng đến các loại nhạc như nhạc ngoại quốc, nhạc kích động hoặc tân nhạc.




14.Trang Mỹ Dung

Ca sĩ Trang Mỹ Dung sinh năm 1951 tại Phan Thiết trong một gia đình không có ai hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật. Năm 6 tuổi, chị theo gia đình vào Sài Gòn và cũng từ đây, chị bắt đầu đam mê âm nhạc. Năm 1967 (16 tuổi), Đài Truyền hình Sài Gòn mở cuộc thi tuyển chọn ca sĩ, được sự ủng hộ của gia đình và bạn bè, chị đã mạnh dạn dự thi. Cũng chính từ cuộc thi này, nhạc sĩ Anh Bằng đã phát hiện ra chất giọng lạ của chị nên khuyên chị tham gia vào lớp nhạc Lê Minh Bằng (gồm Lê Dinh - Minh Kỳ - Anh Bằng) để phát triển nghề nghiệp. Cùng học với chị lúc đó có Giáng Thu, Tài Lương và nhiều bạn trẻ khác. Đang học, chị may mắn được nhạc sĩ Anh Bằng giới thiệu thu âm cho hãng đĩa Asia Sóng Nhạc - một trong những hãng đĩa nổi tiếng thời đó. Ca khúc Hai mùa mưa của nhạc sĩ Anh Bằng là ca khúc đầu tiên chị trình bày trong băng đĩa nhưng đã trở thành một ca khúc làm nên tên tuổi của Trang Mỹ Dung. Gần như lúc ấy, đi đến đâu cũng nghe ca khúc Hai mùa mưa. Cũng từ đó, chị bắt đầu được các hãng băng đĩa khác như: Việt Nam, Continental, Nhạc Ngày Xanh, Hồng Hoa, Capitol… mời thu âm liên tiếp những ca khúc Hoa nở về đêm, Loài hoa không vỡ, Hoa đào thương nhớ, 8 điệp khúc, Hai chuyến tàu đêm… Đỉnh cao nghề nghiệp của chị là vào năm 1971, tên tuổi của chị rực sáng.
Cuối năm 1973, khi sự nghiệp ca hát đang ở đỉnh cao thì trong một đêm đi diễn ở Huế, chị bị tai nạn giao thông phải gián đoạn việc ca hát một thời gian. Năm 1997, đang diễn tại một phòng trà, chị nhận được tin mẹ mất trong lúc đang trình bày ca khúc Lòng mẹ của nhạc sĩ Y Vân. Những giọt nước mắt lăn dài trên gương mặt phúc hậu. Còn khán giả thì nghĩ chị cảm xúc với ca khúc. 

Thời gian qua, Trang Mỹ Dung giống như một vì sao lặng lẽ, khép mình vào một thế giới riêng giữa một thị trường âm nhạc rộn ràng đầy sắc màu. Không hát nhiều, thỉnh thoảng chị chỉ nhận lời hát ở những phòng trà nghiêm túc, các chương trình được dàn dựng công phu. Nhưng nhiều nhất vẫn là các chương trình ca nhạc từ thiện, chương trình Phật giáo. Không một chương trình ca nhạc nào của Phật giáo tổ chức mà thiếu Trang Mỹ Dung, cho dù chương trình đó có tổ chức ở một nơi xa xôi, hẻo lánh. 



15.Lan Ngọc 

Là một nữ ca sĩ nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam thời gian trước 1975, người đã qua nhiều trải nghiệm với các ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, song lại ít được biết đến hơn các bạn đồng nghiệp trong việc chuyển tải những tâm tư của nhạc sĩ họ Trịnh tới công chúng. Với sự nghiệp của mình, bà được xem là biểu tượng của "hương sắc vẹn toàn" đất Sài Gòn. Lan Ngọc là một thành viên trong nhóm "Những Người Bạn", cùng với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và các nhạc sĩ khác như Tôn Thất Lập, Thanh Tùng, Trần Long Ẩn, Từ Huy, Nguyễn Văn Hiên, Nguyễn Ngọc Thiện. Họ đã khởi xướng một chương trình với tên gọi "Nhạc Việt cho người"..



15.Giao Linh


Ca sĩ Giao Linh  tên thật là Đỗ Thị Sinh, sinh ngày 08/09 là một người yêu mến nghệ thuật bẩm sinh.Giao Linh đã học nhạc ngay từ khi còn rất nhỏ. Mặc dù cha cô không đồng ý nhưng mẹ cô vẫn lén mời thầy về nhà dạy nhạc cho Giao Linh. Năm lên 9 tuổi, cô vào trường tiểu học Nguyễn Bá Tòng. Năm 1966, cô thắng huy chương vàng trong cuộc thi Kim Hoàng tại Air Viet Nam.
Những năm sau đó, dưới sự hướng dẫn của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, cô dự một cuộc thi tại nhà hát Quốc Thanh. Cô đã được giới thiệu như một ca sĩ và nhận được rất nhiều tán thưởng từ phía khán
thính giả khiến cô ngỡ rằng họ giận dữ la hét. Giao Linh được mô tả làmột ca sĩ với một tài nghệ tuyệt vời. Cô xuất hiện lần đầu tiên trên đài truyền hình năm 1969. Lần xuất hiện này mang đến cho cô mệnh danh "Nữ Hoàng Sầu Muộn"bởi vì giọng hát trầm buồn và những nhạc phẩm cô trình bày. Giao Linh làm cho một số nhạc phẩm nổi tiếng như Lòng Mẹ, Mùa Sao Sáng, Tiếng Xưa, Màu Tím Pensee.
Năm 2003, sau gần 2 năm liên tục đi về giữa Việt Namvà Hoa Kỳ để biểu diễn, sau cùng Giao Linh đã chọn quê hương là nơibiểu diễn và kinh doanh. Hiện cô mở một quán phở và bánh cuốn do đầu bếp ở Canada nấu, tại gần CLB Lan Anh, đây cũng là một niềm vui của ca sĩ một thời vang bóng tại SaiGon này.



16.Hương Lan


Hương Lan là ca sĩ hải ngoại đầu tiên trở về quê hương, được cấp giấy phép biểu diễn cũng như phát hành băng đĩa trong nước.
Hương Lan tên thật là Trần Ngọc Ánh, sinh năm 1956 tại Sài Gòn và lớn lên tại đây cho đến khi sang Pháp vào năm 1978. Cô là con cả trong một gia đình có 5 người con, ngoài một người con riêng của thân phụ cô là nghệ sĩ Hữu Phước với người vợ không chính thức trước đó, khi ông còn là một giáo viên tiểu học. Một người em gái cô là Hương Thanh cũng hoạt động trong lãnh vực nghệ thuật, hiện đang cộng tác với nhạc sĩ Nguyễn Lê, nổi tiếng trong ngành dân nhạc tại Châu Âu. Thời gian Hương Lan mới mở mắt chào đời , gia đình cô ở trong một hoàn cảnh túng thiếu nên rất vất vả về mặt kinh tế. Lúc đó, thân phụ cô mới đi hát được vài năm, tiếng tăm chưa có là bao. 
Năm 1961, khi Hương Lan chỉ vừa tròn 5 tuổi, cha cô là cố nghệ sĩ Hữu Phước đã mang cô lên sân khấu và vở cải lương 'Thiếu Phụ Nam Xương' ghi dấu đầu tiên trong cuộc đời ca hát của cộ Năm 1966, Hương Lan bắt đầu chuyển sang hát tân nhạc và bài hát đầu tiên của cô là 'Ai Ra Xứ Huế' của Duy Khánh. Giọng hát ngọt ngào và lối trình diễn điêu luyện của cô đã làm bao nhiêu người ngưỡng mộ. 



17. Mai Lệ Huyền

Mai Lệ Huyền sinh năm 1946, tên thật là Nguyễn Thu Cúc. Ít ai biết, cô ca sĩ có thân hình vệ nữ và giọng hát có thể “đốt cháy” mọi vũ trường này lại chảy trong mình hai dòng máu Việt – Lào. Bởi thế, Lệ Huyền mang một vẻ đẹp rất lạ. Đôi mắt to và sâu thăm thẳm, gương mặt tròn như búp bê với làn da bánh mật, nụ cười lúng liếng ưa nhìn. Cùng với những điệu nhảy “bốc lửa”, cách ăn mặc tân thời, Mai Lệ Huyền đã trở thành biểu tượng đệ nhất sexy có sức phủ sóng rộng rãi trong làng âm nhạc thời bấy giờ.

Để tiện cho việc ca hát, Mai Lệ Huyền quyết định rời Bình Long về cư trú ở Gia Định, Sài Gòn. Tuy còn ngồi trên ghế nhà trường, nhưng “búp bê lửa Mai Lệ Huyền” đã tạo ra “sóng gió” ở các bar nhạc Sài Gòn. Không chỉ được biểu diễn cùng các ban nhạc nổi tiếng như ban nhạc: Huỳnh Anh, Taming Piano, Huỳnh Háo, Đoàn Châu Nhi (guitar), Anh Trổ, Anh Hạnh... Mai Lệ Huyền còn được mời hát chung với các ca sĩ lừng danh như: Trần Văn Trạch, Khánh Hà, Elvis Phương trong các đêm đại nhạc hội.



18. Giáng Thu 

Giáng Thu bước vào làng âm nhạc và được biết đến vào những năm cuối của thập niên ‘60. Cô được đào tào từ lớp dạy nhạc của nhóm Lê Minh Bằng, cùng thời với Trang Mỹ Dung, Nhật Thiên Lan, Hải Lý ...
Gíáng Thu có thu âm nhiều bản nhạc cho hãng đĩa Sóng Nhạc, đơn ca hoặc hát chung với nam ca sĩ Mạnh Quỳnh. Cô cũng thường song ca với Giang Tử tại các Đại nhạc hội và trong các chương trình của đài truyền hình đương thời.
Sau 30/4/75 Giáng Thu sang định cư tại Pháp và có góp mặt trong vài cuốn băng video đầu tiên của trung tâm Thúy Nga. “Giáng Thu có nét đẹp của cô gái Ấn bên sông Hằng. Sống mũi cô thanh tú, cặp mắt huyền của cô thật thăm thẳm, cặp môi đẹp với nét mỉm cười thật thùy mị, thật đằm thắm. Giọng hát của cô thanh tao vang lộng. Cũng như Phương Anh, cô không biết ngân nga....”



19.Phương Hồng Quế

Tên thật là Nguyễn Thị Quế sinh ngày 19/06/53 tại Sài Gòn, trong một gia đình có 5 người con gái.
Gia cảnh hiện tại: Vẫn còn độc thân ‘vui tính’, sống cùng 2 con (một trai & một gái) tại Foutain Valley, California
Ngay từ khi còn nhỏ khoảng 9, 10 tuổi, Phương Hồng Quế đã rất thích ca hát và có thể hát trong bất cứ hoàn cảnh nào như cô nói. Cô theo học nhạc cùng nhạc sĩ Nguyễn Đức năm 1963, nhạc phẩm đầu tiên PHQ trình bày mang tên Một Nguời Đi (sáng tác: Mai Châu), được phát thanh trên băng tần truyền hình số 9 vào năm 1968.
Trước 75, tiếng hát của Phương Hồng Quế đã là một trong những tiếng hát trẻ trung được ưa thích nhất, đặc biệt là qua những lần xuất hiện của cô trên những chương trình truyền hình. Cũng do đó cô đã được khán thính giả yêu mến tặng cho danh hiệu Ti Vi Chi Bảo. Nhất là đối với những người ở trong quân ngũ vào thời đó thì những nhạc phẩm mang nội dung liên quan đến đời lính đã là những nhạc phẩm điển hình cho tiếng hát của như "Giờ Này Anh Ở Đâu" hoặc "Vườn Tao Ngộ", v.v...
Theo một tờ báo trong nước thì chồng PHQ là một trung tá tỉnh trưởng miền tây, tên Sơn. Sau năm 1975, Sơn đi học tập cải tạo ở trại Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam Ninh. Quế ra thăm chồng thường xuyên nhưng vì thói ghen tuông nên mỗi lần vợ chồng gặp nhau là một lần gây lộn dữ dội. Kết cục, hai người chia tay vào giữa thập niên 80. Ông Sơn làm thủ tục để Phương Hồng Quế xuất cảnh sang Mỹ theo diện HO-RD1. Ngoài ra, PHQ suýt làm đám cưới với Năm Cam, một trùm xã hội đen, trước khi Năm Cam bị bắt. Nhưng PHQ hoàn toàn phủ nhận có liên hệ với Năm Cam.
Sang định cư tại Hoa Kỳ tháng 03 năm 1991 theo diện đoàn tụ gia đình. Lúc đầu vì muốn bảo đảm cho cuộc sống gia đình nên PHQ đã mở một tiệm bán hoa trang trí, đám cưới.., mang tên Melody tại thành phố Westminster, sau đó PHQ được vài trung tâm mời cộng tác như Thuý Nga, Giáng Ngọc, …



20.Thanh Lan

Thanh Lan tên thật là Phạm Thái Thanh Lan, sinh ngày 1 tháng 3 năm 1948 tại thành phố Vinh. Thuở nhỏ, Thanh Lan học tại trường trung học Marie Curie, sau đó cô theo học Đại học Văn khoa Sài Gòn và tốt nghiệp năm 1973. Sau 1975, Thanh Lan ở lại Việt Nam tiếp tục ca hát và đóng phim. Cuối năm 1993, cô sang định cư tại California, Hoa Kỳ.




21Nguồn Zing News

21.Thanh Tuyền

Thanh Tuyền tên thật là Phạm Như Mai, sinh ở Đà Lạt, đến năm 17 tuổi mới về sống ở Sài Gòn. Khi ở Đà Lạt, chị theo học trường Bùi Thị Xuân cho đến khi thi xong Trung Học. Tại Sài Gòn, tiếp tục học trường Lê Văn Duyệt tới hết lớp 12. Thanh Tuyền có khiếu về ca nhạc từ khi còn nhỏ với sự chỉ dẫn căn bản về nhạc lý của người cậu và qua một số giờ học nhạc ở trường. Chị đã tham gia nhiều buổi văn nghệ do trường tổ chức, cũng chính vì vậy mà khi mới lên 10 tuổi, với ước vọng trở thành ca sĩ, Thanh Tuyền được mọi người gọi là "thần đồng" với tên thật là Như Mai sau khi đi dự giải "thần đồng" của Đà Lạt năm 1959. Cuộc thi này được diễn ra ngay tại sân vận động thành phố với rất đông khán giả tham dự và cô bé Như Mai đã oanh liệt chiếm được hàng đầu với nhạc phẩm "Nắng Đẹp Miền Nam". Thanh Tuyền gặp được nhiều may mắn khi đến với lãnh vực nghệ thuật vì chỉ 3 tháng sau, vào mùa hè 1964, sau khi về đến Sài Gòn là tên tuổi chị được biết đến. Hãng dĩa nhạc Continental của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đã mời chị ký giao kèo độc quyền ngay sau khi chân ướt chân ráo từ Đà Lạt về.
Từ mùa hè năm 1964 cho đến đầu năm 1965, tên tuổi Thanh Tuyền đã nổi bật, một phần do giọng hát thiên phú, một phần do giám đốc hãng đĩa Continental là nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đã dồn mọi nỗ lực trong việc "lăng xê" giòng suối trong của Đà Lạt này trên báo chí cũng như trên đài phát thanh, nên từ thành thị đến thôn quê, đâu đâu người ta cũng nhắc nhở tới tên Thanh Tuyền. Một điều khá lý thú là mặc dù tên tuổi của Thanh Tuyền đã nỗi như cồn nhưng chị rất ít được khán giả biết mặt, ngoài một vài hình ảnh đăng tải trên báo chí, vì thời đó phương tiện truyền hình còn phôi phai. Từ năm 1967, 1968 một hiện tượng được nhắc nhở đến rất nhiều, đó là sự xuất hiên của Chế Linh bên cạnh Thanh Tuyền để trở thành một cặp song ca cho đến nay vẫn được nhắc nhở đến. Thanh Tuyền có tất cả 4 người con đều thích âm nhạc, trong số chỉ có Shayla theo nghiệp của mẹ. Con trai cả của chị năm nay 29 tuổi hiện đang phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ, chị kế của Shayla theo học ngành dược và người con trai út 16 tuổi của chị còn đang đi học. Gia đình chị, ngoài chị và cô em Sơn Tuyền - lần đầu tiên được chị đưa vào hát trong băng nhạc "Thanh Tuyền 6" - chị còn có một người em gái khác tên Ngọc Tuyền có một giọng hát hay và đã từng đi hát tại Việt Nam, nhưng chẳng may Ngọc Tuyền bị mất sớm cách đây 4 năm, khi mới được 31 tuổi. 
Trải qua hơn 30 năm, giọng hát của Thanh Tuyền hiện nay tại hải ngoại vẫn như một dòng suối trong ngọt ngào của Đà Lạt ngày trước đối với những người yêu nhạc.



22.Phương Hồng Hạnh

Phương Hồng Hạnh lúc đầu là thành viên trong ban nhạc em bé Việt Nhi do nhạc sĩ Nguyễn Đức thành lập và hoạt động tại các Đài Phát Thanh. Về sau trở thành thế hệ ca sĩ thứ năm (theo nhạc sĩ Phạm Duy) của phòng trà hay sân khấu cùng thời với Phương Hoài Tâm và Phương Hồng Quế.





23.Phương Hoài Tâm





24.Thái Hằng 

Ca sĩ Thái Hằng (1927-1999), tên thật là Phạm Thị Quang Thái, sinh tại Hà Nội. Bà xuất thân trong một gia đình âm nhạc, cha của bà là ông Phạm Đình Phụng.
Nữ danh ca thời tiền chiến Thái Hằng là vợ của nhạc sĩ Phạm Duy và là thân mẫu các ca sĩ Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo và nhạc sĩ Duy Cường. Tên tuổi nữ danh ca Thái Hằng gắn bó với Phạm Duy và ban hợp ca Thăng Long thành một gia đình nghệ sĩ hàng đầu đã có những đóng góp lớn lao cho âm nhạc Việt Nam. Thái Hằng bắt đầu sự nghiệp ca hát trong những năm kháng chiến chống Pháp. Trong những năm ấy, bà cùng các anh em là nhạc sĩ Phạm Đình Chương, ca sĩ Thái Thanh... theo các đoàn văn công đi khắp các chiến khu. Năm 1947, ca sĩ Thái Hằng kết hôn với nhạc sĩ Phạm Duy. Sau này bà còn hát trên các đài phát thanh Sài Gòn và tham gia Ban Hoa Xuân hát trường ca Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam.
Vào mùng 1 Tết Âm lịch năm 1999, nhạc sĩ Phạm Duy thấy bà ho mãi không dứt nên gia đình liền đưa bà đi bệnh viện và phát hiện bà bị ung thư phổi giai đoạn cuối. Bà sống được thêm 7 tháng thì qua đời vào thứ Bảy, 14/8/1999 tại nhà riêng, thị trấn Midway City, miền Nam tiểu bang California, hưởng thọ 73 tuổi.



25.Huệ Phương

Là ca sĩ trước 1975 trình diễn trong băng nhạc Họa Mi của nhạc sĩ Mặc Thế Nhân. Ca sĩ Huệ Phương cũng có thu âm trong băng nhạc Kim Đằng của ca sĩ Chế Linh.




26.Thiên Trang

Ca sĩ Thiên Trang sinh năm 1957 có giọng ca rất êm ái, mượt mà, đã nghe 1 lần là muốn nghe mãi.
Sau năm 1975 vẫn còn đi hát và thu âm mạnh mẽ trong các băng nhạc Làng Văn, Diễm Xưa. Trước 1975 cô hát trong băng nhạc Loan Mắt Nhung của hai nhạc sĩ Tuấn Khanh và Tâm Anh.Ngoài ra cô còn thu âm trong băng Thương Ca (tác phẩm Không Còn Là Thư Cuối).




27.Sơn Ca     


Sơn Ca tên thật là Nguyễn Thị Tuyết Nga, sinh năm 1953 tại Sài Gòn. Cha mẹ Sơn Ca là người miền Bắc, vào miền Nam lập nghiệp từ năm 1945 và cô là chị lớn nhất. Cô theo học một thời gian tại trường Quốc gia Âm nhạc, song song với việc học văn hóa. Khi đang theo học Đại học Luật, vì lý do sinh kế, Sơn Ca đã tìm đến nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ để nhờ giúp đỡ bước vào đường ca hát. Và bước đầu với giọng hát trong trẻo và những ca khúc mộc mạc vui tươi mang âm hưởng dân ca của NS Hoàng Thi Thơ, cô đã nhanh chóng được biết đến tên tuổi qua những chương trình truyền thanh và truyền hình.
Sơn Ca bắt đầu thu băng nhạc (dưới dạng cassette) vào năm 1973. Băng nhạc đầu tiên của cô do hãng Continental của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông thực hiện dưới tên "Sơn Ca/Continental 6" với những nhạc phẩm Mùa Thu Cho Em, Bây Giờ Tháng Mấy, 3 bài Hòn Vọng Phu và một số bài về quê hương. Cô thường được đặc biệt yêu mến qua những bài hát song ca với Bùi Thiện (người luyện giọng cho cô tại trường Quốc Gia Âm Nhạc). Cuốn băng Sơn Ca 8 với giọng hát của cô đã thành công. Những nhạc phẩm đi liền với tên tuổi Sơn Ca là những sáng tác của Hoàng Thi Thơ đã sáng tác riêng cho cô như: Đám Cưới Trên Đường Quê, Rước Tình Về Với Quê Hương, Tình Ca Trên Lúa, Gạo Trắng Trăng Thanh vv... và một vài ca khúc của các nhạc sĩ khác như Cô Thắm Về Làng (Giao Tiên), Gánh Lúa (Phạm Duy), Duyên Nước Tình Trăng (Hoàng Nguyên), Tàu Về Quê Hương (Hồng Vân)...
Sau ngày Việt Nam thống nhất, cô cộng tác với đoàn ca kịch Kim Cương. Cô lập gia đình năm 1976 và vượt biên, sau đó định cư tại San Jose, Mỹ từ năm 1980. Từ năm 1984 đến 1990, cô thực hiện một loạt băng nhạc "Tiếng hát Sơn Ca hải ngoại" do Trung tâm Thanh Lan phát hành và đi lưu diễn nhiều nơi.
Từ năm 1995, cô cư ngụ tại thành phố Brisbane, tiểu bang Queensland ở Úc. 




28.Họa Mi

Nữ ca sĩ Họa Mi từng chọn ở lại Pháp hồi năm 1988, trong một chuyến lưu diễn hiếm hoi của cô (cùng với đoàn văn công cộng sản) ở các nước Tây Phương, sau khi mất miền Nam Việt Nam, sau Tháng Tư 1975, hiện sống ổn định và hạnh phúc trong vùng ngoại ô Paris, thủ đô Pháp.
Trong một cuộc tiếp xúc với nữ ca sĩ Họa Mi- mà tên thật là Trương Thị Mỹ - hồi Tháng Chín 2007 vừa qua tại Little Saigon, Nam California, nơi cô được Trung Tâm Thúy Nga mời sang đóng góp trong Ðại Nhạc Hội "Chân Dung Người Phụ Nữ Việt Nam", cô và chồng Ðặng Thái Khanh, một kỹ sư người gốc Sa Ðéc, mà hai người đã có với nhau một con, cho biết rằng, để sinh sống tại Pháp hiện nay, vợ chồng cô có một hãng kem "nho nhỏ" làm kem và bánh ngọt, chuyên bán sỉ, bỏ mối cho các cửa tiệm trong vùng ngoại ô Paris.




29.Khánh Hà


Khánh Hà là một ca sĩ rất nổi tiếng khi còn ở Việt Nam. Cô sanh ra tại Đà Lạt nhưng chỉ vài tháng sau cùng với gia đình dọn vào Sài Gòn.
Trong thời gian ở Sài Gòn, cô cùng với gia đình thay đổi chỗ ở nhiều lần. Lúc còn nhỏ cô học ở trường Charles De Gaulle, một thời gian sau vào nội trú tại trường tiểu học ở Thủ Đức cùng với Lan Anh và Thúy Anh. Lên trung học, cô theo học trường Nguyễn Bá Tòng đến năm đệ Tam, và cùng một lúc theo học ở Centre Culturel Francais và Hội Việt Mỹ. Khánh Hà đi hát lần đầu tiên khi lên 16 tuổi trong một chương trình văn nghệ phụ diễn Xổ Số Kiến Thiến Quốc Gia tại rạp Thống Nhất với bài "Chiến Sĩ Của Lòng Em" và đó là kỷ niệm đáng nhớ nhất của cô.
Vào năm 69, cô xuất hiện lần đầu tiên với loại nhạc trẻ trong chương trình "Hippies À GoGo" do Trường Kỳ tổ chức hàng tuần tại vũ trường Queen Bee trên đường Nguyễn Huệ, Sài Gòn. Cũng trong năm đó, cô chính thức đến với nhạc trẻ cùng Anh Tú, sau khi được tay trống Dũng khuyến khích và đã gia nhập ban nhạc The Flowers đi trình diễn tại các club Mỹ. Vào cuối năm 69, cô gia nhập The Blue Jets cùng với Anh Tú và Thuý Anh. Sau đó, cô cùng một số anh em thành lập ban nhạc The Uptight vào năm 72. Khánh Hà qua Mỹ trong một trường hợp khá đặc biệt, thời kỳ cô hát tại night club "Đêm Màu Hồng" trên đường Nguyễn Huệ, vào đầu năm 75, trong số những người khách Hoa Kỳ thích giọng ca của cô có một ký giả tên George, mà cô gọi là một "quý nhân" cho biết là tình hình Việt Nam rất nguy ngập nên đã đề nghị làm giấy tờ để cô rời khỏi Việt Nam với tư cách một du khách. Khánh Hà nhận lời và đến Hoa Kỳ ngay từ tháng 03 năm 75.
Vào những năm 86-87, Khánh Hà khai thác một chương trình ca nhạc riêng ở các nơi như Sea Palace, Cafe Tùng ở Monterey Park và sau đó là vũ trường "Chez Moi". Cô chính thức chuyển qua nhạc Việt Nam từ năm 80, đánh dấu sự ra đời của băng nhạc "Gợi Giấc Mơ Xưa", phát hành vào năm 81 do chính cô thực hiện với sự giúp đỡ về kỹ thuật của Tùng Giang. Khánh Hà xuất hiện lần đầu tiên trong Video "Hè 90" do Tô Chấn Phong và Lưu Huỳnh thực hiện, chính trong dịp này Khánh Hà và Tô Chấn Phong quen biết nhau và đã sống chung với nhau cho đến hôm nay. Ngoài những video do chính trung tâm Khánh Hà thực hiện, cô đã cộng tác lần đầu tiên với chương trình Thúy Nga còn hoạt động ở Paris. Hiện nay Khánh Hà vẫn thường xuyên xuất hiện trên băng Thúy Nga, Asia và bận rộn điều hành trung tâm Khánh Hà. Tên tuổi Khánh Hà đã bước lên hàng đầu của nền ca nhạc hải ngoại cho nên ước muốn "nghỉ hát sớm" của cô có thể sẽ còn rất lâu mới thành sự thật.



30.Vy Vân

Vào gần cuối thập niên 60 tại Sài Gòn, trong thời kỳ phát triển mạnh mẽ của phong trào Nhạc Trẻ Việt Nam, người ta ghi nhận một sự xuất hiện đặc biệt của một thiếu nữ còn rất trẻ, chỉ khoảng 15 tuổi, nhưng có một giọng hát rất đặc biệt. Cô bé đó mang tên Cảnh Vân, lúc đó đang học lớp đệ tứ tại trường Nguyễn Bá Tòng, sau khi đã từng là học sinh chương trình Pháp của các trường Thiên Phước và Les Lauriers. Nhờ một giọng hát mang nét độc đáo của loại nhạc Blues và Soul của các nữ ca sĩ da đen nên Cảnh Vân, sau đó đổi tên là Thùy Vân đã được một số các ban nhạc trẻ vào thời đó mời cộng tác để đi trình diễn tại các câu lạc bộ dành riêng cho quân nhân Hoa Kỳ đồn trú tại Việt Nam. Những ban nhạc trẻ như The Black Bees, The Beat và The Blue Jets đã một phần lớn nhờ vào tiếng hát của cô để được các quân nhân Hoa Kỳ dành cho nhiều cảm tình. Cho đến năm 70, cô ca sĩ còn rất trẻ tuổi này đã chính thức đi hát một cách chuyên nghiệp tại vũ trường Baccara để thay thế cho nữ ca sĩ Thiên Nga, lên đường sang Pháp. Từ đó cô chính thức đổi tên là Vy Vân, một cái tên rất quen thuộc đối với khán thính giả ưa thích nhạc trẻ cũng như những người thường lui tới các vũ trường và phòng trà Sài Gòn. Đặc biệt hơn cả là đối với những người trẻ tuổi thường tham dự những chương trình nhạc trẻ “Hippies À GoGo” thì ít nữ ca sĩ nào có thể sánh nổi với cô qua các nhạc phẩm như You Don′t Have To Say You Love Me và Chains Of Fool. 

Chỉ một thời gian ngắn sau khi về cộng tác với vũ trường Baccara, tên tuổi của Vy Vân đã nổi bật hơn nữa khi cô cùng hai nữ ca sĩ Tuyết Hương và Tuyết Dung thành lập ban tam ca Ba Trái Táo (The Apple Three) , rất mới lạ đối với khán thính giả hồi đó. Ban Tam Ca này đã trình diễn nhiều lần tại Baccara, trước khi ba người cùng nhau đứng ra khai thác một vũ trường riêng của họ trên đường Tự Do có tên là Eve Club. Trong suốt hơn hai năm trước khi tan rã vào năm 73, Ba Trái Táo với giọng hát chính là Vy Vân dã làm say mê người nghe với những nhạc phẩm mà cho đến nay ít ai quên như những ca khúc của The Supremes, The Fifth Dimension và nhất là những nhạc phẩm Soul nổi tiếng của Aretha Franklin. Trong thời kỳ này Ba Trái Táo còn có sự tăng cường của các nam ca sĩ như Jimmy Joseph và Công Thành trong những chương trình ca nhạc tại các vũ trường Baccara, Tự Do và Eve Club. Sau khi Ba Trái Táo chia tay nhau mỗi người một ngả thì Vy Vân vẫn tiếp tục hoạt động với tính cách độc lập cho đến khi rời khỏi Việt Nam vào năm 75 cùng với con gái là nữ ca sĩ Phi Phi sau này.

Sau khi qua đến Mỹ vào năm 75, Vy Vân đã được một ban nhạc Mỹ mời cộng tác và đi trinh diễn ở tiểu bang Ohio. Hơn nửa năm sau cô được một người bạn rủ về Cali hát tại một phòng trà ở Burbank và một số dancing của người Trung Hoa và Nhật ở Los Angeles. Vào năm 76, Vy Vân có dịp gặp lại Tuyết Dung và Tuyết Hương để thành lập lại 3 Trái Táo để hát tại một vũ trường của người Trung Hoa với ban nhạc Trung Nghĩa, nhưng chỉ sau một tuần, vũ trường này bị cháy nên dự định tái lập ban tam ca cũng tiêu tan, để mãi cho đến năm 85 họ mới có dịp họp mặt tại đại hội nhạc trẻ tại Long Beach do cơ quan công giáo Hoa Kỳ tổ chức, và gần đây nhất tại đêm Hội Ngộ Nhạc Trẻ, tổ chức tại Nam California vào khoảng cuối năm 2000.

Trước khi cư ngụ tại San Jose từ năm 81 cho đến năm 99, Vy Vân đã từng ở nhiều nơi như Washington DC và Houston, tiểu bang Texas. Sau khi người chồng sau của cô tên Vinh, cũng là một nhạc sĩ, qua đời Vy Vân quyết định dời xuống miền nam Cali để gần gũi với con cháu và nhất là để vơi đi nỗi buồn. Tại San Jose Vy Vân đã từng đứng ra khai thác một vũ trường lấy tên là Baccara trong một thời gian và đã từng thực hiện riêng cho mình một số băng nhạc. Trong băng nhạc đầu tiên Tiếc Một Người, Vy Vân đã trình bày một số nhạc phẩm Việt Nam xen kẽ với những nhạc phẩm lời Anh và Pháp đã đưa tên tuổi cô đến với thính giả như If You Go Away, Without You và Demain Tu Te Maries. Sau đó là một số băng nhạc và CD khác được tung ra thị trường như You Don′t Have To Say You Love Me, Làm Sao Quên Được Tình Yêu và I′ll Be There,...

Vy Vân cho biết thật sự cô rất thích trình bày nhạc phẩm Việt Nam, nhưng vì tên tuổi cô dính liền với loại nhạc trẻ ngoại quốc nên phần nhiều cô thường trình bày những nhạc phẩm lời Anh như cô nói...

Giờ đây sau hơn 30 năm đi hát, đã tạo cho mình được một tên tuổi và một chỗ đứng vững vàng trong làng ca nhạc, nhất là trong giới nhạc trẻ, Vy Vân cho biết vẫn muốn tiếp tục con đường nghệ thuật của cô. Tuy không còn hoạt động mạnh mẽ như ngày xưa, nhưng tên tuổi của Vy Vân luôn xứng đáng được coi như một tên tuổi lớn của làng ca nhạc Việt Nam với một giọng hát vẫn được coi như có một sắc thái đặc biệt.


31.Ngọc Bích

Ngọc Bích là con gái của cặp nghệ sĩ cải lương Việt Hùng - Ngọc Nuôi. Năm 1968, đoàn cải lương Việt Hùng - Minh Chí bị giải thể, gia đình Ngọc Bích rơi vào cảnh khốn cùng phải bán nhà cửa, đồ đạc dời về một chung cư để sinh sống. Anh trai thứ ba sau khi chữa bệnh bại liệt từ Tây Đức trở về. Ngọc Bích bỏ học sau đó (13 tuổi) và cùng anh trai thành lập ban nhạc The Crazy dogs gồm 5 thành viên: Việt Năng (trống), Bảo (guitar), Thanh (bass), Lân (keyboard) và Ngọc Bích - ca sĩ duy nhất, hoạt động tất cả các nơi từ nhà hàng, quán bar, vũ trường...
Sau ngày 30/4/75, Ngọc Bích ở lại Việt Nam. Cô sang Hoa Kỳ cùng mẹ và con trai năm 1990.
Năm 1997 Ngọc Bích về Việt Nam hát trong chương trình từ thiện Về nguồn. Sau đó năm 2001, Ngọc Bích hát cho một số phòng trà ở TP HCM và cuối năm 2003 là chương trình Một thoáng Sài Gòn.


32.Mộc Lan

Ca sĩ Mộc Lan là ca sĩ tài danh cùng thời với : Thái Thanh, Tâm Vấn, Kim Tước…cách đây hơn nửa thế kỷ; bà nổi tiếng với nhiều bài hát, trong đó có "Em đi chùa Hương" do nhạc sĩ Trần Văn Khê chuyển thành ca khúc, rất được giới sành điệu thời ấy ưa thích.
Mộc Lan làm vợ nhạc sĩ Châu Kỳ một thời gian ngắn ở Huế. Sau đó Châu Kỳ phải lòng cô nữ sinh Gia Long tên là Kha Thị Đàng và và ở với cô này cho đến cuối đời. Còn Mộc Lan thì lấy Trương Minh Đẩu.
Bây giờ bà về dung thân ở một căn nhà có diện tích rất nhỏ, cuối tận cùng con hẻm, đi ngang qua nhà họa sĩ Lưu Nhữ Thụy trên đường Trương Minh Giảng cũ. Bà hiện hữu rất cô độc, càng cô độc hơn khi sống bên cạnh bà là người con gái ngoài 50 tuổi có cân não không bình thường. 




33.Ánh Tuyết 


Ánh Tuyết tên thật là Trần Thị Tiếc, nhưng lúc làm giấy tờ bị ghi sai thành Trần Thị Tiết.
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật, cha là thày dạy nhạc, các anh đều là những nhạc công giỏi nghề, Ánh Tuyết đã "nhiễm" máu nghệ thuật từ nhỏ. Lên 3 tuổi, bé Tiếc (tên thật của Ánh Tuyết) đã len lỏi, học ké những giờ dạy nhạc của ba, ngày nào cũng ê a theo mẹ ca những bài hát của Phạm Duy, Hoàng Giác... và 8 tuổi đã có thể hát thành thục Tình hoài hương, Tình cố đô. Nhưng chỉ vì tội... quá gầy nên Trần Thị Tiếc luôn bị cô giáo từ chối, không cho tham gia bất kỳ cuộc thi âm nhạc nào. Chỉ một lần nắm được cơ hội hiếm hoi tại Hội thi Văn nghệ của Hướng đạo VN tại Đà Nẵng, đại diện cho nhóm hát Tuổi thơ, Tiếc đơn ca bài Quê hương của Hoàng Giác và đăng quang trong sự thán phục tuyệt đối của Hội đồng giám khảo.
Kể từ đó và suốt những năm 1970, ở thị xã Hội An, ngay cả người lớn cũng phải nghiêng mình trước giọng hát trong trẻo, cao vút của "Bé Mèo". Bạn bè cùng trang lứa thấy chị xuất hiện trong cuộc thi hát nào cũng đùa: "Mấy đứa khác khỏi thi cho mất công".Chặng đường ca hát chuyên nghiệp của Ánh Tuyết thực sự bắt đầu từ năm 1969. Tới năm 1978, chị đầu quân về đoàn ca múa nhạc Đà Nẵng. "Thời gian này, ai yêu cầu gì, hát đó. Cứ lên sân khấu 2 bài thì một bài đằm thắm và một bài giựt", chị kể. Một năm sau, Ánh Tuyết quyết định đầu tư cho nghề nghiệp của mình một cách nghiêm túc bằng học vấn và khăn gói ra học Nhạc viện Huế. Khi đã có trong tay tấm bằng thanh nhạc, chị đầu quân về đoàn Hải Đăng của Khánh Hoà. Suốt thời gian này Ánh Tuyết luôn là "vơ đét".
Những ngày vật vã với nghề hát của chị chỉ bắt đầu khi bước chân vào TP HCM, năm 1990. Chạm ngõ Sài thành, thay vì theo những trào lưu nhạc sôi động đang thịnh hành, Ánh Tuyết chọn chất trữ tình của dòng nhạc tiền chiến. Tên tuổi Ánh Tuyết lúc bấy giờ không ai biết, những ông chủ phòng trà cũng không thèm để ý đến một giọng ca trẻ không mặn mà lắm về nhan sắc. Vậy là những ngày xa nhà của Ánh Tuyết thường xuyên lâm vào cảnh thiếu tiền và... đói. "Rồi cũng được hát, nhưng không phải thường xuyên. Có những ngày phải đi bộ đến tụ điểm, đứng chờ mỏi mòn cuối cùng được thông báo "hết chỗ rồi". Thế là đi bộ về nhà trong bụng trống rỗng. Cũng may dễ nuôi nên còn sống sót", chị ôn nghèo kể khổ bằng giọng vui vẻ.
Ánh Tuyết đến với nhạc Văn Cao như duyên trời định. Tháng 7/1993, chị được mời hát trong chương trình riêng của ông. Vốn nằm lòng từng câu, từng chữ và thấm nhuần cái hồn Thiên Thai, Buồn tàn thu... từ nhỏ, Ánh Tuyết hát như rút ruột. Chị đâu ngờ, hôm đó cũng có Văn Cao ngồi nghe. Ông đã vui đến trào nước mắt vì có người hát nhạc của mình hay đến vậy. Báo chí sau đó đồng loạt viết về Ánh Tuyết như một hiện tượng trong làng âm nhạc Việt Nam, đặc biệt với những ca khúc của Văn Cao.
Một năm sau, chị mới có dịp gặp người đã có những nhạc phẩm chắp cánh cho giọng ca của mình. Ánh Tuyết còn nhớ như in câu nói đùa của nhạc sĩ: "Đầu đời, nhạc Văn Cao có Kim Tiêu... nhưng lại bị "tiêu" quá sớm. Không ngờ cuối đời nhạc Văn Cao lại có Ánh Tuyết". Lúc đó, chị "sướng cả người" song chỉ dám e dè: "Nhưng thưa chú, Ánh Tuyết thì cũng chỉ mới ánh thôi, tuyết rồi thì cũng sẽ tan". Văn Cao vỗ đầu khen: "Con bé này khéo nói lắm".
Nhiều năm sau, Ánh Tuyết thấy câu nói này quả đã linh nghiệm với cuộc đời mình. Bao nhiêu lận đận vẫn đến, dù giọng ca của chị đã được nhiều người biết đến và yêu mến. Chị nói: "Mặt trời thì chỉ chiếu sáng ban ngày, trăng chỉ tròn đúng một lần mỗi tháng, nên tuyết muốn ánh đành phải tự ngoi lên trước khi bị lớp tuyết khác vùi lấp". Và mặc mọi sóng gió, chị quyết tâm đi đến tận cùng niềm đam mê.Gom góp số tiền có được sau 30 năm đi hát, tháng 5/2001, chị quyết định thành lập phòng trà ATB và ban nhạc cùng tên. Từ đây, Ánh Tuyết có chỗ đi về và những khán giả yêu mến tiếng hát của chị cũng có một không gian ấm cúng để thưởng thức nhạc. Ánh Tuyết nói rằng, chỉ "làm" phòng trà để phục vụ niềm đam mê, tâm huyết của chị. Nhưng sau này khi phòng trà bắt đầu rộ tại TP Hồ Chí Minh, mọi người mới ý thức rằng Ánh Tuyết còn làm được nhiều hơn vai trò của một bà chủ phòng trà. Chị đã tạo một nơi "sống" cho anh chị em đồng nghiệp, có cùng quan điểm, chí hướng với mình. Cũng từ đây mà những giọng ca trẻ như: Xuân Phú, Đức Tuấn, AC&M... đến được với khán giả một cách đầy đủ và trọn vẹn hơn.
Chị cũng đã có nhiều chương trình biểu diễn riêng gây được tiếng vang như: Hội Trùng Dương, Suối Mơ đến Thiên Thai, 35 năm sống và hát.




34.Khánh Ngọc

Những năm ở thập niên 50-60 thế kỷ trước, Khánh Ngọc là một trong những ngôi sao thuộc thế hệ đầu tiên sáng chói trong làng âm nhạc Sài Gòn. Bên cạnh là một danh ca, bà còn là một tài nữ điện ảnh nổi tiếng trước cả những Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, Trang Thiên Kim, Kiều Chinh...
Từ nhỏ, Khánh Ngọc đã rất thích ca nhạc. Năm 12 tuổi, bà đã theo học nhạc với nhạc sỹ Dương Thiệu Tước và Minh Khang. Cuộc đời nghệ thuật của danh ca Khánh Ngọc bắt đầu từ đó. Ca khúc đầu tiên Khánh Ngọc trình diễn là bài hát "Tiếng hát lênh đênh" của nhạc sỹ Từ Pháp. Những năm niên thiếu, ca sỹ Khánh Ngọc hát ở các Đài Phát thanh và trong các chương trình Đại nhạc hội Sài Gòn các tỉnh, Đà Lạt, nhiều lúc ra tận miền Trung.
Một thời gian sau, bà gia nhập ban nhạc Gió Nam trong đó có các giọng ca nổi tiếng đương thời như: Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung và Hoài Bắc. Miền Bắc có Trần Văn Trạch, nhạc sỹ Võ Đức Thu và ban ca nhạc nhảy múa là: Lưu Hồng, Lưu Bình. Chính trong khoảng thời gian này, Khánh Ngọc đã gặp gỡ, yêu thương và kết hôn với vị nhạc sỹ tài danh Phạm Đình Chương (tức ca sỹ Hoài Bắc).
Khánh Ngọc chính là tình yêu lớn, là nguồn cảm hứng nghệ thuật bất tận, là nỗi đau tột cùng... để tạo nên cảm hứng cho nhạc sỹ Phạm Đình Chương sáng tác ra những ca khúc vang danh, bất hủ, những bản tình ca da diết, đau nhức, buốt giá tâm can: "Nửa hồn thương đau", "Đêm cuối cùng", "Thuở ban đầu", "Người đi qua đời tôi"... Tình yêu nghệ sỹ ấy lớn lao bao nhiêu, hạnh phúc bao nhiêu thì cũng trắc trở và sầu đau chừng ấy!
Duyên điện ảnh đến với Khánh Ngọc nhờ tài năng và danh tiếng của một danh ca. Vai diễn đầu tiên của bà là một vai nữ chính trong bộ phim "Ánh sáng miền Nam" 1955 - Đoàn làm phim ngoại quốc Mỹ - Phi. Với vai diễn này, Khánh Ngọc đã đoạt giải Oscar của Đại hội Điện ảnh Phi Luật Tân năm 1956. Vinh quang điện ảnh đến với nàng danh ca một cách bất ngờ và liên tiếp sau đó, bà tham gia, tạo nên danh tiếng mới cùng các bộ phim khác như: "Đất lành", "Ràng buộc"...
Sau cuộc tình duyên tan vỡ với nhạc sỹ Phạm Đình Chương, danh ca tài nữ Khánh Ngọc kết hôn với một lưu học sinh Việt Nam tại Mỹ nhân một chuyến lưu diễn họ quen biết nhau, và có với nhau 3 người con. Hiện bà đang sống tại Los Angeles - Hoa Kỳ, vẫn đi hát và làm từ thiện đều đặn. Danh ca Khánh Ngọc vẫn một lòng luyến cố hoài hương, mong một ngày gần nhất được trở lại Việt Nam!





35.Lưu Hồng

Lưu Hồng là tên thật của người nữ ca sĩ tuổi Song Nam với ngày sinh nhật là 27 tháng 5, rời Việt Nam từ năm 75. Người đã dìu dắt Lưu Hồng đi vào con đường nghệ thuật chính là bạn của song thân cô và cũng là cha nuôi của cô. Lưu Hồng cho biết “nhờ trời thương yêu nên trong bước đầu mọi sự đều trôi chảy và may mắn” khi cô chính thức bước chân vào làng ca nhạc. Sở trường của Lưu Hồng là trình bày những nhạc phẩm tình cảm theo thể diệu Bolero, Rhumba và Tango. Vào năm 1965, cô cùng với gia đình đi nghe nhạc tại vũ trường Queen Bee và đã lên hát giúp vui theo lời yêu cầu của mọi người trong nhà qua hai nhạc phẩm “Sang Ngang” và “Tuổi Đá Buồn”. Nhờ giọng ca truyền cảm và quyến rũ, Lưu Hồng đã được vũ trường này mời cộng tác ngay sau đó, để rồi một thời gian sau cô đã được mời hát tại nhiều nơi khác. Lưu Hồng cho biết những nhạc phẩm cô trình bày ưng ý nhất là: Bướm Trắng, Sang Ngang, Tuổi Đá Buồn, Cà Phê Đắng, Lời Đắng Cho Một Cuộc Tình. Trong những năm đầu tiên ở Hoa Kỳ, Lưu Hồng là một trong những giọng hát được nhiều người ưa thích nên cô đã được mời đi lưu diễn ở khắp Âu Châu và nhiều thành phố tại Canada, và theo cô thì “chuyến nào cũng luôn được khán giả thương mến và ủng hộ”.Vào đầu thập niên 90, Lưu Hồng đứng ra chủ trương trung tâm sản xuất băng nhạc và CD Lưu Hồng Enterprises và đã tung ra được một số tựa mà chạy nhất là những CD: Hận Tình Trong Mưa, Cà Phê Đắng và Nhạc Vàng Chọn Lọc. Lưu Hồng cũng đã từng xuất hiện nhiều trên video do các trung tâm Thúy Nga, Giáng Ngọc,vv...thực hiện. Vào khoảng năm 94, 95 Lưu Hồng tạm thời ngưng hoạt động, không còn cộng tác với các vũ trường cũng như đi show vì bận bịu việc gia đình cũng như công ăn việc làm Hơn nữa đối với cô “ca hát chỉ là nghề phụ, ngoài ra cũng đi làm một ngày tám giờ như mọi người “ như cô nói.
Sau một thời gian vắng bóng, từ khoảng hơn hai năm trở lại đây, Lưu Hồng đã được trung tâm World mời cộng tác để thu tiếng hát của cô trên CD. Cho đến giữa năm 2001 trung tâm World đã thực hiện được 7 CD với tiếng hát của cô.





36.Kim Tước


Bà tên thật là Nguyễn Kim Tước, sinh năm 1938 tại Nam Định trong một gia đình có 6 người con. Khi còn nhỏ, Kim Tước được theo học chương trình Pháp tại Hà Nội và Huế. Sau đó cô theo học trung học tại trường Lycée Francais De Hue, rồi trường Marie Curie ở Sài Gòn và đậu tú tài Pháp năm 1957.
Từ khi còn đi học, Kim Tước đã được học về âm nhạc và piano. Trong một cuộc thi tuyển ca sĩ của đài phát thanh Hà Nội, Kim Tước ghi tên và đạt giải nhất của giọng ca nữ. Sau đó Kim Tước tiếp tục học thanh nhạc với một nữ giáo viên người Pháp trong Hội khuyến nhạc. Năm 14 tuổi, cô bắt đầu bước vào ca hát chuyên nghiệp.
Năm 1954, Kim Tước cùng gia đình di cư vào Huế và tiếp tục hát cho đài phát thanh ở đây. Hơn một năm sau, gia đình cô chuyển vào Sài Gòn, Kim Tước hát trên đài Pháp Á và theo học tại trường Marie Curie. Cô cũng tham gia ban nhạc giao hưởng đầu tiên tại Sài Gòn do nhạc sĩ Nguyễn Phụng thành lập.
Năm 1958, ban nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Phụng giải tán. Một thời gian sau, Kim Tước tham gia ban đại hòa tấu của nhạc sĩ Vũ Thành. Cô cùng với Mộc Lan và Châu Hà hợp thành một ban tam ca nổi tiếng. Bộ ba này đã hợp tác với nhau một thời gian dài trong những chương trình phát thanh và truyền hình - nhiều hơn cả trong chương trình của các nhạc sĩ Hoàng Trọng và Văn Phụng - nhưng ít khi họ trình diễn trên sân khấu. Với khả năng vững vàng về nhạc, Mộc Lan, Kim Tước và Châu Hà đã giữ phần hát bè cho rất nhiều ca sĩ, trong số có Thái Thanh, Khánh Ly, Hoàng Oanh, Thanh Tuyền, Thanh Vũ,... để thu âm. Tuy vậy ban tam ca Mộc Lan, Kim Tước và Châu chưa từng thu thanh chung với nhau trên một đĩa nhạc nào và riêng Kim Tước khi còn ở Việt Nam cũng chỉ thu thanh một vài nhạc phẩm.
Do chuyên trình bày các nhạc phẩm mang âm hưởng cổ điển với phần nặng về kỹ thuật, nên Kim Tước tự nhận xét là tên tuổi của mình không được biết tới nhiều trong tầng lớp khán giả ưa thích loại nhạc phổ thông: "Tôi nhận thấy ở Sài Gòn, tên tuổi tôi không được mến chuộng nhiều trong đại chúng tại vì lối hát của tôi hơi cứng quá và nhất là hơi nặng về vấn đề kỹ thuật. Về sau này những người sau tôi như Hà Thanh hay những người khác, họ hát uyển chuyển hơn cho nên dễ đi vào quần chúng nhiều hơn và dễ được thông cảm hơn."
Ngoài phần cộng tác về nghệ thuật với các đài phát thanh Quân Đội, Sài Gòn, Tiếng Nói Tự Do và Mẹ Việt Nam cho đến khi rời khỏi Việt Nam vào năm 1975, Kim Tước đã từng một thời gian làm biên tập viên cho đài Tiếng Nói Tự Do cùng thời kỳ với các nghệ sĩ nổi tiếng như Từ Công Phụng, Hồ Đăng Tín, Lê Gia Thẩm và Hoàng Quốc Bảo trong thời gian từ năm 1961 đến 1964.
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Kim Tước cùng chồng và hai con rời khỏi Việt Nam định cư ở Hawaii. Một thời gian sau, họ về sống tại California. Ở đây, Kim Tước tiếp tục đi trình diễn tại một số tiểu bang khác ở Hoa Kỳ và tại một vài quốc gia châu Âu khác. Năm 1987, Kim Tước thực hiện CD đầu tiên của mình là Gió thoảng hương duyên. Mười năm sau, Kim Tước thu âm CD thứ hai Sau lũy tre xanh. CD gần đây nhất của Kim Tước là Ngàn năm mây bay, năm 2003.



37.Ngọc Minh

Ngọc Minh người gốc Thái trắng, sinh ở Móng Cái, miền Thượng Du Bắc Việt. Sau khi cùng với gia đình bỏ miền Bắc ra đi vào năm 54, Ngọc Minh vào ở Đà Lạt một thời gian, sau đó về sống ở Kontum vài năm trước khi trở lại Đà Lạt sống cho đến khi thân sinh chị về hưu.
Khởi đầu sự nghiệp ca hát, Ngọc Minh gia nhập Ban Tuyên Vận thuộc Bộ Thông Tin năm 64, và cũng vào năm đó, chị đã ra mắt thính giả lần đầu tiên tại trường Quốc Gia Âm Nhạc với bài “Tình Ca” của Phạm Duy và “Anh Về Một Chiều Mưa” của Duy Khánh và Anh Thy. Trước đó chị đã có dịp theo học nhạc một thời gian ngắn với nhạc sĩ Mạnh Đạt, cho đến khi tương đối tạo được tên tuổi thì chị còn nhận được sự dìu dắt của những nhạc sĩ như Hoàng Nguyên, Nguyễn Hậu và Lan Đài.
Ngọc Minh đến với lãnh vực phòng trà và vũ trường qua sự giới thiệu của nhạc sĩ Đan Phú. Cuộc đời ca hát với tính cách chuyên nghiệp của chị khởi đầu với phòng trà Bồng Lai sau khi lên hát giúp vui lần đầu tiên với một nhạc phẩm về đời lính là “Anh Tiền Tuyến, Em Hậu Phương”. Liền sau đó chị đã nhận được ngay lời mời cộng tác với phòng trà này.
Một thời gian sau, Ngọc Minh được nhạc sĩ Huỳnh Anh mời cộng tác với vũ trường Văn Cảnh, rồi lại được nhạc sĩ Võ Đức Tuyết mời hát tại Olympia, qua đến những night club khác.
Từ khi đài truyền hình Việt Nam bắt đầu hoạt động Ngọc Minh đã góp mặt trong nhiều chương trình ca nhạc cũng như đã từng xuất hiện trong nhiều vở kịch của một số ban.
Ngoài khả năng ca hát, khi còn ở trong nước Ngọc Minh còn là một diễn viên điện ảnh và chính trong lãnh vực này chị đã có những hoạt động mạnh mẽ cùng với những lần xuất hiện trên các chương trình truyền hình trong khi đó không có những hoạt động nào đáng kể trong lãnh vực thu băng nhạc.
Ngọc Minh còn có thêm một khả năng nữa là xướng ngôn viên. Chị từng là người thực hiện kiêm xướng ngôn viên cho một số đài phát thanh ở California với các mục như “Người Yêu Của Lính”, “Phụ Nữ”, “Tình Ca Kỷ Niệm”,vv... Hơn nữa, chị còn có tài viết báo, do đó từng được mời phụ trách những mục phỏng vấn nghệ sĩ hay tâm tình với nghệ sĩ cho một số tạp chí.




38.Quỳnh Giao 

Quỳnh Giao là một nữ ca sĩ Việt Nam, tên thật là Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang, sinh năm 1946 tại làng Vỹ Dạ, Huế, Việt Nam. Quỳnh Giao là con gái của Minh Trang, nữ danh ca của tân nhạc những năm đầu. Năm Quỳnh Giao 5 tuổi, cha của bà qua đời và mẹ bà tái giá với nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.
Ngay từ bé, với tên thật Đoan Trang, Quỳnh Giao đã hát trên đài Phát thanh Quốc Gia Sài Gòn, trong những chương trình Tuổi Xanh của Ban Nhi Đồng Kiều Hạnh. Quỳnh Giao cũng từng tốt nghiệp thủ khoa lớp dương cầm và được bà Robin của Trung Tâm văn Hóa Pháp, Alliance Française, hướng dẫn về thanh nhạc  opera.
Quỳnh Giao thực sự đến với âm nhạc khi 15 tuổi. Đó là năm 1961, bà Minh Trang đang cộng tác với ban Tây Hồ của nhạc sĩ Hoàng Trọng thì mất giọng do căn bệnh hen suyễn nên Quỳnh Giao được mời vào thay thế cho mẹ. Từ đó bà đi hát với nghệ danh Quỳnh Giao và trở thành một ca sĩ quan trọng trong những chương trình ca nhạc của các đài phát thanh Sài Gòn, Quân Đội và Tiếng Nói Tự Do trước năm 1975. Trong những năm đầu 1970 Quỳnh Giao cũng với các em gái Vân Quỳnh, Vân Khanh và Vân Hòa thành lập Ban tứ ca Bốn Phương chuyên hát tại vũ trường Ritz và thâu âm cho các trung tâm Băng nhạc Jo Marcel, Phạm Mạnh Cương và Premier.
Ngày 24 tháng 4 năm 1975, Quỳnh Giao cùng chồng và con rời Việt Nam sang cư ngụ tại thành phố Annandale, tiểu bang Virginia. Trong thời gian ở Annandale, bà gần như ngưng mọi hoạt động về ca nhạc ngoài việc tiếp tục mở lớp dạy dương cầm và thỉnh thoảng thực hiện vài băng nhạc có tính cách lưu niệm do chính bà tự đàn và hát.
Năm 1990, sau khi lập gia đình lần thứ hai, Quỳnh Giao cùng chồng về sống tại California. Từ đó, bà bắt đầu quay lại với âm nhạc và phát hành nhiều CD thành công như Khúc nguyệt quỳnh, Hành trình Phạm Duy... Quỳnh Giao cũng cùng với Mai Hương, Kim Tước lập ban Tiếng Tơ Đồng ở hải ngoại và thu được nhiều thành công.

39.Ý Lan
Ý Lan tên thật là Lê Thị Ý Lan, sinh ngày 1.1.1958 tại Sài Gòn. Thân phụ của Ý Lan là tài tử lão thành Lê Quỳnh (vừa mới qua đời - BT) - và thân mẫu là nữ danh ca Thái Thanh.
Là một trong những nữ ca sĩ được mến mộ nhất hiện nay, Ý Lan rất bận rộn với những buổi quay video của những trung tâm lớn, những lần thu băng cũng như những chuyến trình diễn tại khắp nơi. Vấn đề chọn lựa nhạc phẩm để trình bày đối với Ý Lan rất quan trọng, chị đã đưa ra một số tiêu chuẩn như sau qua lời tâm sự: "Tôi lớn lên trong những giòng nhạc của các bác như Phạm Duy, Phạm Đình Chuơng với loại nhạc được mẹ nhồi cho nghe từ bé như nhạc của Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng... do đó phần lớn loại nhạc tôi trình bày là nhạc tình".
Riêng đối với những nhạc phẩm của Phạm Duy, trong số có nhiều bài ông cho biết được ông soạn ra dường như chỉ để Thái Thanh (em gái vợ nhạc sĩ Phạm Duy - BT) hát. Bây giờ Ý Lan hát lại những bài hát đó. Ngoài việc tiếp nối con đường của thân mẫu, chị còn muốn nhắc nhở thêm về những kỷ niệm của một giọng hát Việt Nam điển hình nhất.
Đối với những nhạc phẩm của một số tác giả mới xuất hiện khoảng vài năm trở lại đây, tiếng hát Ý Lan cũng có được một sự hài hoà đặc biệt. Cách đây chừng hơn 6-7 năm, nhạc phẩm mang âm hưởng dân ca của một tên tuổi mới vào thời đó là Diệu Hương có tựa đề "Mình ơi" đã trở thành nổi bật với tiếng hát Ý Lan. Nhạc phẩm này đã góp phần không ít trong việc gầy dựng tên tuổi cho Diệu Hương, nay đã trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng với nhiều nhạc phẩm đặc sắc. Ý Lan cho là chị đã rất may mắn được tất cả khán giả thuộc nhiều lứa tuổi yêu mến.




40.Ái Vân

Ái Vân sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, Việt Nam. Tài nghệ của cô phần lớn đến từ ảnh hưởng của gia đình, trong đó thân phụ của cô là một ông bầu của gánh hát lấy tên thân mẫu cô là Ái Liên, một diễn viên nổi tiếng trong những năm đầu thập niên 50 ở Hà Nội và là người đã có công chỉ bảo cho cô rất nhiều ngay từ tuổi ấu thơ.
Ái Vân là người con thứ 12 trên tổng số 14 người con. Ngoài 5 người đã mất, hơn một nửa còn lại đều đi theo con đường nghệ thuật. Hai em cô là Ái Thanh và Ái Xuân cũng hoạt động trong lãnh vực sân khấu. Còn 2 người anh, một người theo ngành cải lương và đạo diễn nghệ thuật sân khấu và một người là họa sĩ trang trí sân khấu....
Mặc dù ban đầu Ái Vân thích cải lương hơn, mẹ chị cho rằng giọng chị không thích hợp với cải lương và khuyến khích chị đeo đuổi ca nhạc hiện đại. Ái Vân bắt đầu học nhạc hiện đại từ năm 15 tuổi. Chị trở thành một ca sĩ khá thành công ở Việt nam.
Ái Vân có lẽ là một trong những nghệ sĩ di chuyển nhiều nơi nhất trong nghề ca hát. Cô đã từng đi qua những nơi như Ethiopia, Zimbabwe, và nhiều quốc gia châu Á như Thailand, Myanmar, Nhật bản, ... Năm 1990, trong khi đang ở Đông Đức, chị đã chứng kiến sự sụp đổ của bức tường Berlin. Sau đó Ái Vân sang Tây Đức và sống ở đó một thời gian.
Một năm sau khi Ái Vân sang Đức, thân mẫu cô qua đời, còn thân phụ cô năm nay đã 88 tuổi, đang ở trong tình trạng rất yếu kém về sức khỏe.
Ái Vân sang Mỹ vào tháng 5 năm 1994 và đã nhanh chóng hội nhập vào thế giới của nghệ thuật tại đây. Cô rất bận rộn với những chuyến lưu diễn và đĩa nhạc của mình. Thời gian còn lại, cô chăm sóc cho gia đình và hai con.



41.Kiều Nga

Phạm Thị Kiều Nga là tên thật của cô ca sĩ nổi tiếng với những nhạc phẩm tình cảm lời Pháp này. Cô sinh ngày 22 tháng 5
Ngoài ông anh Elvis Phuong lẫy lừng tên tuổi, cô ca sĩ có tính nghịch ngợm, thích nói thẳng và hơi ngỗ ngáo này còn một người chị là Riri Hoa cũng đã một thời đi hát trong thời kỳ đầu tiên của nhạc trẻ Việt Nam.




42.Julie Quang

Julie sinh năm 1950 mang hai dòng máu Việt và Ấn, nói và hát được thông thạo tiếng Pháp và Anh. Cô là con cả trong một gia đình gồm sáu chị em. Mẹ của Julie là bà Nguyễn Thị Hoài, người đã gây nguồn cảm hứng cho Phạm Duy viết nên bản nhạc Mái Tóc Chị Hoài cho cô hát. Cha cô là lính trong quân đội viễn chinh Pháp
Julie là một ca sĩ nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 và ở hải ngoại sau 30.4.1975. Cô nổi tiếng nhất với bài Mùa Thu Chết, do nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ bản dịch tiếng Việt của Bùi Giáng cho bài thơ tiếng Pháp L'Adieu của Guillaume Apollinaire. Trước năm 1975 có thời gian cô lập gia đình với ca sĩ Duy Quang - người con cả của nhạc sĩ Phạm Duy - và lấy tên là Julie Quang (theo ý của nhạc sĩ Phạm Duy).





43.Trang Thanh Lan

Trang Thanh Lan tên thật là Nguyễn Lệ Liễu, tuổi Tỵ, ngày sinh nhật là 7 Tháng Sáu, thích màu trắng và tím, và con số 9. Cô chuyên trình bày loại nhạc dân ca, ca ngợi quê hương và tình yêu. Nhạc phẩm “Giăng Câu” do cô và Quang Bình trình bày hiện được coi như là một trong những nhạc phẩm được khán giả ưa thích nhất. Trang Thanh Lan xuất hiện trước ống kính video lần đầu tiên tại hải ngoại trong chương trình Paris By Night 20.




44.Thanh Tâm


Ca sỹ Thanh Tâm, vợ của nhạc sỹ Bảo Thu. Nghe nói hát đến 1973 thì ca sỹ này lấy chồng rồi không hát nữa. Giọng ca rất lạ, rất ngọt ngào quyến rũ. Nhưng đôi khi hát lên cao không được ổn lắm.




45.Kim Vui

Nếu nói về vẻ đẹp bốc lửa nhất của các Minh Tinh Điện Ảnh Sài Gòn thì người được cho là “hỏa diệm sơn” nhất không ai khác chính là Cô Kim Vui. Nữ diễn viên Kim Vui là người phụ nữ Miền Nam Việt Nam đầu tiên mặc bikini trên màn ảnh lớn và cô có lẽ cũng là người đầu tiên dám đóng phim có màn khỏa thân 
Trong giai đoạn năm năm cuối của thập niên 50, Kim Vui cùng với Minh Tuyết, Tuyết Hằng…nổi lên như một hiện tượng đợt sóng mới của tân nhạc. Những bài cô hát thành công tại quê nhà như: Tà Áo Xanh, Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay… Giọng hát Kim Vui ngọt và khỏe, lai láng như một trận mưa hè. Chuỗi ngân của Kim Vui cũng tinh luyện khi hát những ca khúc Pháp bằng tiếng Pháp như Bambino, Histoire d’un Amour, Le Gitan đều hay, phát âm tiếng rõ ràng.
Về phim ảnh, Kim Vui đóng ba phim nổi danh nhất là Thương Hận, Chân Trời Tím và Cúi Mặt. Chính nhờ vai Liên trong Chân Trời Tím của cố đạo diễn Lê Hoàng Hoa, Kim Vui đã đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật của Miền nam trước năm 1975. Trong phim này Kim Vui có dịp mặc áo tắm và có dịp khỏa thân trước giá vẽ của nhân vật họa sĩ để phô bày đường cong nét lượn tuyệt mỹ trên thân thể chị. Hùng Cường, bạn đồng diễn của chị trong phim Chân Trời Tím có lần tuyên bố với báo chí rằng về điện ảnh, Kim Vui là bạn đồng diễn lý tưởng nhất của anh.
Đang là minh tinh màn bạc miền nam Việt Nam, Kim Vui cùng gia đình từ trước năm 1975 xuất ngoại và định cư tại vùng Đông Bắc nước Mỹ, chỉ chuyên làm kinh doanh và rất thành công.
Trên đất Mỹ, Kim Vui đã được khá nhiều các công ty điện ảnh, hãng video cũng như băng nhạc, kể cả Việt và ngoại quốc mời hợp tác, nhưng cô đã dứt khoát từ giã con đường nghệ thuật để phát triển con đường kinh doanh, cô buôn bán lâm, hải sản, có cơ sở ở Anh quốc, Pháp quốc và châu Phi (Africa), gần đây người ta thấy cô thường xuyên xuất hiện tại miền Nam California, hỏi ra thì được biết cô đang tiến hành thêm một dịch vụ mới tại đây, đó là mua, bán bất động sản.

46.Bích Hợp

Nổi tiếng là "cô đào thương đất Bắc.Cô đẹp ở ngoài đời cho đến lúc lên sân khấu. Cô đã nhiều phen điêu đứng với các cuộc tình duyên ngang trái của mình.Sau đó cô kết hôn với ông Phương nổi tiếng ăn chơi ,vóc lùn tịt mà bạn bè và nhóm ký giả thân quen gọi là "Phương bi ve",không nghề ngổng gì ngoài cái nghề sống nhờ vợ và lái xe đưa vợ đến rạp hát và từ rạp hát rước vợ về nhà.Nhưng cuộc hôn nhân đó làm cho cô hạnh phúc tuyệt vời. Điều đó làm cho bạn bè cô mừng và chúc lành cho cô. Nhưng cay nghiệt thay,ông Phương từ trần vào năm 1973, làm cho cô đau khổ lắm. Bích Hợp bị chứng ung thư màn não và mất vào năm 1978. 


 47.Mỹ Thể


Mỹ Thể là 1 cô ca sĩ người Huế trước 1975



Nguồn m.blog.tamtay.vn ; vietyo.com ; kienthuc.net.vn ; giaoduc.net.vn ; diendan.phununet.com ;nguontin24h.com ;baomoi.com ; m.nguoiduatin.vn ; tintuconline.com.vn ;ngoisao.vn;yeunhacvang.com; sachxua.net; hoailinhthoai.com; nhaccuatui.com; mp3.zing.vn; danviet.vn; manghoidap.vn; kienthuc.net.vn; m.vietnamnet.vn; yeunhacvang.com; cailuongvietnam.vn; maskonline.vn; maxreading.com; thanhnien.com.vn; tranquanghai.info; tranquanghai.com


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved