Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

18 thg 12, 2013

Những người phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam (1)

Quốc mẫu Âu Cơ


Theo truyền thuyết Việt Nam, Âu Cơ  là tổ mẫu của người Việt. Tương truyền, Âu Cơ là con gái của vua Đế Lai. Trong khi đi tuần thú phương Nam, ông đã để Âu Cơ lại trên một cái động. Khi Lạc Long Quân đi đến đây thì thấy nàng xinh đẹp nên đã đem lòng yêu mến và đem về làm vợ. Hai vợ chồng Lạc Long Quân và Âu Cơ đã sống với nhau và sinh ra 100 người con . Sau đó vì thủy thổ tương khắc nên hai người phải chia con ra 50 con theo cha về biển, 50 con theo mẹ về núi và chia nhau cai quản các vùng. Đây là tổ tiên của người Bách Việt.


Công chúa Quế Mỵ Nương

Thời Hùng Định Vương, vị Hùng Vương thứ 16 (có nơi kể là Hùng Vương thứ 6) có một người con gái là công chúa Quế Mỵ Nương vô cùng xinh đẹp. Nhiều vương công quân tử đã đến cầu hôn nhưng nàng đều khước từ, chỉ thích du ngoạn khắp nơi, vừa ngắm xem phong cảnh, vừa thăm thú đời sống dân gian. Có một ngày, Quế Mỵ Nương đến vùng núi non phía tây Yên Tử, thấy cảnh đẹp kì thú, cây cối rậm rạp xanh tươi, nhưng ruộng đồng dưới chân núi lại khô nẻ vì hạn hán, dân tình đói rách mệt mỏi vì thiếu ăn thiếu mặc. Công chúa rất đau lòng, nàng cùng đoàn tùy tùng lên núi Huyền Đinh tìm nguồn nước. Núi dốc đứng, đường đi rất khó khăn. Bỗng nhiên một trận gió lớn nâng công chúa lên, đưa đến nguồn suối Mỡ bây giờ thì hạ xuống. Công chúa phải bấm năm đầu ngón chân xuống đá cho khỏi ngó. Bỗng nhiên từ vết lõm của các ngón chân nàng, nước mát tuôn chảy róc rách, rồi ngày càng chảy mạnh tạo nên 5 dòng thác nước chảy ầm ầm, tung bọt trắng xóa. Nước từ trong lòng núi cũng bị tiếng động đó đánh thức cùng đua nhau tuôn trào thành dòng, thành suối. Dòng suối tươi mát đó tưới cho đồng ruộng quanh năm xanh tốt, người dân nơi đây nhờ thế mà no ấm giàu có hơn lên. Nhớ ơn Quế Mỵ Nương, dân gian đặt tên cho con suối là suối Mẫu. Rồi do húy kị mà từ tên suối Mẹ, suối Mẫu người dân nơi đây đó gọi chệch là Suối Mỡ như hiên nay. 


Công chúa Tiên Dung


Vua Hùng thứ 18 có nàng công chúa Tiên Dung, dầu đã tới tuổi cập kê, nhưng chỉ thích dùng thuyền du ngoạn đó đây. Cũng vào thời ấy, có chàng Chữ Đồng sống vất vưởng bên bờ sông, nghèo đến nỗi không có cái khố che thân.
Một hôm Chữ Đồng thấy thuyền của công chúa ghé vào nơi chàng ở, nên sợ hãi vùi mình dưới cát. Không ngờ đó lại là nơi Tiên Dung vây màn để tắm. Khi nước làm cát trôi, Tiên Dung phát gíac ra Chữ Đồng, và rồi hai người kết duyên với nhau.
Từ đó Tiên Dung đem tiền của để lập phố xá. Chữ Đồng thì ra biển đi buôn. Ở biển, Chữ Đồng học được phép thần thông, rồi trở về dạy lại cho dân chúng. Nhờ vậy, đời sống trong vùng trở nên sung túc khác thường.
Nhưng cuộc sống phồn thịnh đó đã làm vua quan nghi ngại. Do đó, Chữ Đồng và Tiên Dung hóa phép đem cả dân chúng và làng thôn phố xá về trời.

Công chúa Mỵ Nương

Vua Hùng thứ 18 có một Công chúa đã đến tuổi cập kê, rất xinh đẹp tên là Mỵ Nương.
Vua mới ban truyền trong nhân gian tìm nhân tài kén làm phò mã. Vua nước Tây Âu mang cau vàng trầu bạc đến dạm hỏi. Vua Hùng bèn hỏi ý các Lạc Hầu. Họ đáp: “Vua Tây Âu là người hung bạo, lại tuổi già, hình dạng xú quái, làm sao xứng với Mỵ Nương được”. Vua y theo Lạc Hầu mà làm, vì thế mà Văn Lang và Tây Âu hiềm khích từ đó.
Sau có hai chàng trai đến xin hỏi cưới. Cả hai đều rất tài giỏi. Một là Sơn Tinh (Thần Núi Tản Viên – Thánh Tản), hai là Thủy Tinh (Thần Nước). Sơn Tinh chỉ tay đến đâu núi rừng mọc lên đến đấy, muông thú đầy đàn. Thủy Tinh vẫy tay thì nước dâng lên cao, ba ba, thuồng luồng nổi đầy mặt nước.
Nhà vua không biết nên chọn ai, bèn quyết định chỉ gả Mỵ Nương cho người nào đến trước với sính lễ là một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Hôm sau, trời vừa hửng sáng, Sơn Tinh đã đến trước cổng thành với tất cả lể vật cầu hôn công chúa. Vua Hùng rất mừng bèn gả Mỵ Nương cho Sơn Tinh. Thủy Tinh đến trễ, và ngỡ ngàng khi biết Mỵ Nương đã theo chồng là Sơn Tinh. Thần lập tức đuổi theo và kêu binh tướng đánh Sơn Tinh để đòi lại Mỵ Nương.
Hai thần đánh nhau trời long đất lở. Thủy Tinh làm phép dâng nước định dìm chết Sơn Tinh, Sơn Tinh làm phép cho núi dâng cao cản nước. Thủy Tinh càng làm nước dâng cao, Sơn Tinh càng làm núi mình cao hơn. Cuối cùng Thủy Tinh đánh không lại, chịu thua. Từ đó, Sơn Tinh và Mỵ Nương sống vui vẻ bên nhau.
Tuy nhiên, hàng năm cứ vào khoảng tháng 7 âm lịch, Thủy Tinh lại nhớ đến thù xưa và dâng nước lên đánh Sơn Tinh.
Sơn Tinh – Thủy Tinh là một truyền thuyết nổi tiếng, lý giải về hiện tượng lũ lụt và chống lại lũ lụt hàng năm của người Việt Nam xa xưa.


Mẫu Thượng Ngàn

Mẫu Thượng Ngàn chính là công chúa La Bình, con gái của Sơn Tinh và công chúa Mỵ Nương. Khi còn trẻ, Mẫu Thượng Ngàn là 1 cô gái đức hạnh, lại tài sắc vẹn toàn, được cha mẹ đặt tên là La Bình.
La Bình thường được cha cho đi cùng, đến khp mi nơi, t min núi non hang đng đến min trung du, đi bãi. Khi Sơn Tinh và M Nương, theo lnh ca Ngc Hoàng Thượng đế tr v tri thành 2 v thánh bt t thì La Bình cũng được phong là công chúa Thượng Ngàn, thay cha đm nhn công vic dưới trn, trông coi tt c 81 ca rng từ miền núi non hang động đến miền trung du đồi bãi trập trùng của nước Nam.
Trở thành chúa tể của miền núi non và trung du, công chúa Thượng Ngàn vẫn luôn luôn chăm chỉ, hàng ngày hết sức làm tròn các trọng trách của mình.
Bà bảo ban các loài cầm thú phải biết sống hòa hợp với nhau. Rồi công chúa lại dạy chúng đừng ăn những loài quả độc, nấm độc, biết tránh khỏi những cây cối đổ, những cơn lũ quét… La Bình công chúa cũng dạy bảo con người cũng thật chu đáo, tỉ mỉ. Những gì cha bà đã dạy, bà đều đem ra áp dụng. Khi tiếp xúc với các tù trưởng, bà cũng học thêm ở họ được nhiều điều.
Thế là bà lại đem những điều hiểu biết mới đi truyền bá ra mãi. Bà cải tiến và hoàn thiện thêm những gì mà trước kia, ở cha bà mới chỉ là bắt đầu. Làm nhà không những đã chắc chắn, lại còn phải biết chạm trổ cho thật đẹp đẽ.
Ở mũi các thuyền độc mộc cũng thế, có khắc cả hình 2 đầu rồng chạm hẳn vào nhau. Cách nấu nướng thức ăn, chẳng những chỉ có kho, luộc mà còn chế thêm ra được nhiều món mới. Rồi công việc đồng áng, bà dạy mọi người cách lấy ống bương để dẫn nước từ khe núi xuống.
Lại đi phân phát hạt giống, cho nên nơi nào cũng có cơm dẻo nếp thơm. Trong các con vật nuôi trong nhà, bà đem về thêm nhiều giống gia súc mới. Lại trồng thêm nhiều giống cây ăn quả. Rồi trồng cả những hoa thơm cỏ lạ lấy từ trên rừng núi về …
Thấy La Bình công chúa thực hiện rất tốt công việc của mình nên Ngọc Hoàng Thượng đế đã ban tặng cho bà thêm nhiều phép thuật thần thông, đi mây về gió.
Từ đó, La Bình công chúa trở thành vị Thánh bất tử để luôn luôn gần gũi, gắn bó với cõi trần, vĩnh viễn ở miền trung du và núi non hùng vĩ




Công Chúa Mỵ Châu

Là con gái của vua Thục An Dương Vương, nàng vì nước nên phải tuân lời vua cha kết hôn với Trọng Thủy, con trai của tướng Triệu Đà – lợi dụng nhà Tần thất bại, khi nhà Tần bị nhà Hán tiêu diệt. Triệu Đà lập tức đánh chiếm cả Quế Lâm và Quận Tượng lập ra nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung, lập một nước riêng không chịu thần phục nhá Hán và xâm lăng nước Âu Lạc của vua Thục.

Vua An Dương Vương đóng đô ở thành Cổ Loa, trên đất Văn Lang cũ, thuộc huyện Đông Anh – Phúc Yên, nay thuộc Hà Nội. Loa Thành là một công trình kiến trúc vĩ đại, từ ngoài đi vào thì xoáy trôn ốc nên có tên gọi thế, gồm ba vòng trong ngoài cao rộng, có sông Hồng chảy qua thuận lợi cho việc đi lại trong vùng, xuôi sang sông Cầu và sông Thái Bình. Thành lũy có nhiều vọng gác là nơi đóng quân kiên cố. Vua Thục dùng tướng Cao Lỗ sáng chế ra Nỏ Liên Châu, bắn một lần nhiều phát tên có mũi bằng đồng, được dân gian gọi là Nỏ thần.
Sau nhiều lần tấn công thất bại, biết không thể chinh phục nước Âu Lạc bằng vũ lực, Triệu Đà xin giảng hòa với vua Thục và xin cầu hôn công chúa Mỵ Châu cho Trọng Thủy và cho con trai sang ở rể tại kinh thành Cổ Loa. Trọng Thủy đã đánh cắp các bí mật quân sự, làm mất uy thế, làm suy yếu lực lượng quốc phòng nước Âu Lạc. Sau đó, Triệu Đà khi được tin báo của Trọng Thủy, lập tức tiến quân xâm lược Âu Lạc, vua Thục thất bại, vội chạy ra biển, nhận rõ con gái phản bội, giết đi, rồi nhảy xuống biển tự tử.
Do sai lầm chủ quan của mình mà An Dương Vương đã bắt công chúa Mỵ Châu hy sinh cuộc đời con gái để vô tình mang tội phản quốc, tình yêu dang dở. Thật là tội nghiệp cho nàng công chúa Mỵ Châu!



Hai Bà Trưng

Hai Bà Trưng dấy binh khởi binh chống lại quân Hán, lập ra một quốc gia với kinh đô tại Mê Linh và tự phong là Nữ vương. Hình ảnh hai bà được khắc họa trong cuốn Khâm định Việt sử thông giám cương mục như sau: “Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng những mặt dày thẹn chết lắm!”


Chiêu Dung Công chúa - Lý Thị Ngọc Ba

Bà có tên gọi khác là Lý Thị Ngọc .Bà kết duyên cùng tù trưởng Đặng Công Thànhxã Thiên Lộc, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang xưa (nay là xã Hoàng Diệu, huyện Chương Mỹ, Hà Nội ). Ông bà sinh được 5 người con trai.
Sau khi chồng mất bà ở vậy một mình nuôi dạy các con trưởng thành.Sống trong chế độ tàn bạo của quân nhà Hán, bà sớm nuôi ý chí yêu nước và truyền dạy tấm lòng yêu nước cho các con. Khi các con đã khôn lớn, mẹ con bà đã vận động nhân dân trong vùng xây dựng đồn binh, ngày đêm luyện tập quân sỹ, tích luỹ quân lương. Khi nghe tin Thái thú Tô Định đem quân về đàn áp bà đã cùng các con lãnh đạo quân sỹ chiến đấu tiêu diệt hàng trăm quân giặc. Do không cân sức mẹ con bà đã phải lui quân về chùa Hương, khôi phục lại lực lượng.
Nghe tin Hai Bà Trưng dấy binh khởi nghĩa, bà cùng các con cất quân về tụ nghĩa. Thấy mẹ con bà có khí phách phi thường thì Hai Bà Trưng mừng lắm và phong cho bà là Lý Thị Ngọc Ba – ý muốn tôn sùng lãnh tụ khởi nghĩa đứng đầu là Trưng Trắc, sau là Trưng Nhị và thứ ba là Lý Thị Ngọc Ba.
Trưng Trắc xưng vua, Trưng Nhị được phong là Bình Khôi Công chúa và bà Lý Thị Ngọc Ba được phong là Chiêu Dung Công chúa. Sau chiến thắng, bà được Hai Bà Trưng thưởng tiền và phong cho vùng đất Kim Cốc làm đất thang mộc.
Từ đó, bà cùng các con tổ chức cho nhân dân trong vùng làm ăn xây dựng quê hương. Tương truyền, vào một hôm (ngày 6 tháng chạp) trời đất bỗng mây mù kéo đến, gió cuộn lên cả một vùng sông Đáy, người ta thấy mẹ con bà xuống thuyền. Khi sóng yên, gió lặng chờ mãi không thấy mẹ con bà trở về, biết mẹ con bà đã hoá, Hai Bà Trưng vô cùng cảm kích nên lệnh cho dân trong vùng lập miếu, xây đình để thờ phụng mẹ con bà.
Kể từ đó, để tưởng nhớ đến công lao của bà và các con nhân dân trong vùng lấy ngày mùng 6 tháng chạp hàng năm là ngày giỗ cùng là ngày hội của dân làng Kim Cốc. Dưới thời Lê Trung Hưng, vua đã từng cử đại thần về đây làm lễ dâng hương để tưởng nhớ công lao của bà và các con.


Lê Chân -“Thánh Chân công chúa”


Nữ tướng Lê Chân quê ở một làng nhỏ là An Biên, huyện Đông Triều, Quảng Ninh. Với dung mạo xinh đẹp, giỏi võ và thơ phú, bà nổi tiếng khắp vùng. Nghe tiếng Lê Chân, thái thú Tô Định đã ép bà về làm thiếp. Buộc lòng, bà phải trốn đến vùng sông Cấm, khai đất khẩn hoang lập nghiệp tạo nên một vùng đất trù phú, tiền thân của thành phố Hải Phòng ngày nay.

Không những thế, bà Lê Chân còn truyền bá nghề trồng dâu, nuôi tằm, đánh bắt thủy sản cho nhân dân, giúp họ có cuộc sống ấm no. Bà còn chiêu mộ trai tráng, huấn luyện thành đoàn binh tinh nhuệ về thủy chiến. Khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa vào năm 40, Lê Chân đã mang quân gia nhập, góp sức đánh đuổi quân Đông Hán giành nền độc lập cho nước ta. Trong các trận chiến, bà thường được cử làm Tướng tiên phong và lập được nhiều chiến công hiển hách.
Vì thế, bà Lê Chân đã được Trưng Nữ Vương phong là Thánh Chân công chúa. Sau khi Hai Bà Trưng trầm mình tại sông Hát, bà Lê Chân rút quân về lập căn cứ địa ở Lạt Sơn, thuộc Hà Nam ngày nay, để củng cố lực lượng, chờ cơ hội phản công chống lại quân Đông Hán giành độc lập.Tuy nhiên, lực lượng ta thế yếu, Mã Viện là một vị lão tướng nham hiểm với đông quân lính, nên để bảo vệ danh tiết, bà trầm mình xuống sông Hát như hai chủ tướng của mình.

Thương tiếc người con gái tài hoa, sau này , vua Trần Anh Tông phong bà Lê Chân là Thành hoàng xã An Biên. Hiện nay Hải Phòng nhớ ơn công lao thành lập vùng An Biên, nay là Hải phòng, nên lập Đền Nghè ờ trung tâm thành phố cùng với bức tượng bà Lê Chân mặc áo giáp oai phong đứng trên bệ cao ngất ngưởng, tọa lạc gần nhà Hát lớn của thành phố, nhìn ngắm Hải Phòng rạng rỡ công đức của nữ tướng Lê Chân tức Thánh Chân công chúa mãi mãi.


Lê Thị Hoa (2 TCN- 43 SCN)

Bà Lê Thị Hoa sinh ngày 15 tháng 11 năm Mậu ngọ (2 TCN), con gái ông Lê Thái và bà Dương Thị Tạo ở thôn Thượng Linh, xã Cảo Linh, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, đạo Nam Sơn (nay là Hà Nam). Tương truyền lúc mới sinh ra bà có khuôn mặt trắng như trứng gà bóc và nụ cười như hoa nên được đặt tên là Lê Thị Hoa. Năm 18 tuổi (16) bà kết hôn cùng ông Mai Tiến (19 tuổi) người cùng huyện là người văn võ, toàn tài.
Bà cùng ông Mai Tiến sinh được 3 người con là Mai Đạt (sinh năm Mậu Dần 18), Mai Thỏa (sinh năm Canh Thìn 20), Mai An (sinh năm Nhâm Ngọ 22). Sau đó cả gia đình chuyển sang huyệnGia Lâm khi ông Mai Tiến ra làm quan huyện. Ở Gia Lâm bà sinh hạ thêm người con thứ tư là Mai Trí (năm Ất Dậu 25).
Năm 34 nhà Đông Hán cử Tô Định sang làm Thái thú ở Giao Chỉ. Mai Tiến làm quan hết sức thanh liêm, thương dân như con nên được nhân dân tôn kính, song điều đó lại trái với chính sách cai trị của phong kiến đô hộ phương bắc. Đây là nguyên nhân khiến ông bị Thái thú Tô Định một kẻ tàn bạo và háo sắc âm mưu hãm hại, bắt giết vào năm Bính tuất. Ngay trong đêm đó bà Lê Thị Hoa đã cùng 4 người con và những người thân tín rời khỏi huyện Gia Lâm tới Thượng Linh - Phú Cốc (quê ngoại của bà) với lòng quyết tâm trả thù cho chồng. Tại đây bà chiêu mộ nghĩa sĩ chống lại Tô Định, nhưng do lực lượng còn mỏng nên phải rút về phủ Trường An lấy vùng đất Yên Nội (nay thuộc huyện Nga Sơn - tỉnh Thanh Hoá) là nơi khởi nghiệp trả thù cho chồng và đánh đuổi quân xâm lược.Ở vùng đất Yên Nội bà cùng 4 người con trai lúc đó đã trưởng thành (Mai Đạt 22 tuổi, Mai Thoả 20 tuổi, Mai An 18 tuổi, Mai Trí 15 tuổi) tập hợp, kêu gọi nhân dân khai phá vùng đất mới và luyện tập chiến trận chuẩn bị khởi nghĩa với số quân lên đến 2000 người. 
Cùng thời gian này ở vùng Hát Môn - Mê Linh (nay là Vĩnh Phúc) Hai Bà Trưng đã nổi dậy khởi nghĩa chống lại Tô Định. Theo lời hiệu triệu của Trưng Nhị bà Lê Thị Hoa đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa lớn này. Năm Canh tý (40) , Trưng Vương lên ngôi vua phong tước, thưởng thực ấp cho tướng sỹ có công. Riêng nữ tướng Lê Thị Hoa từ chối nhận tước mà chỉ nhận thực ấp nhỏ ở vùng Yên Nội (Nga Sơn)và cho dân được miễn tô thuế, binh dịch trong hai năm.
Năm Quý Mão (43), Mã Viện đem đại binh sang đàn áp, bà đã mau chóng tập hợp lực lượng để chiến đấu chống quân thù một cách quyết liệt, nhưng sau thất bại, bà đã tử trận ngay trên đất Nga Sơn mà bà đã giàu công khai khẩn, thọ 45 tuổi.Tấm lòng trung trinh với dân với nước và sự hy sinh anh dũng của bà Lê Thị Hoa, ngay từ thuở ấy, nhân dân Nga Sơn đã lập đền thờ bà tại xã Nga Thiện (Nga Sơn) vẫn còn đến ngày nay.




Bà Hoàng Thiều Hoa


Bà Hoàng Thiều Hoa người huyện Gia Hưng, tỉnh Thanh Hoá (có sách chép là tỉnh Sơn Tây ngày nay). Không rõ năm sinh, năm mất. Bà là một nữ tướng tài giỏi của Hai Bà Trưng, giữ nhiệm vụ huấn luyện đoàn Nương tử quân. Khi Hai Bà Trưng đánh đuổi xong giặc Hán đô hộ, lên ngôi vua, đã phong tước cho bà là Thiều Hoa Công Chúa. Hiện nay đền thờ Công Chúa Thiều Hoa ở làng Hiếu Quan, huyện Tam Nông. Hàng năm lễ hội kỷ niệm vào các ngày 12, 13 tháng giêng âm lịch.

Bát Nàn Tướng Quân

Bát Nạn (Đinh Sửu 17 – Quí Mão 43) Công chúa, cũng gọi là Bát Nàn, có sách chép là Bát Não. Theo truyền thuyết và thần tích làng Tiên La, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình, cùng thần tích thờ miếu ở xã Phượng Lâu, huyện Phù Ninh, nay thuộc Vĩnh Phú (thần tích do danh thần thời hậu lê là Hàn Lâm đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn): Bát Nạn công chúa là vị anh hùng như thời Trưng Vương, Bà Vốn là con của Võ Công Chất và Hoàng Thị Mầu. Thân phụ bà là hào trưởng ở Phượng Lâu khi bà chào đời cha mẹ đặt tên là thục. Về sau bà nổi tiếng tài sắc, tục gọi là Thục nương. Bà có chồng là Phạm Danh Hương (có sách chép là vị Lạc hầu Trương Quán) quê ở Đức Bác (tức Liệp Trang, huyện Lập Thạch). Vợ chồng bà đều có lòng yêu nước, ngầm lo việc cứu nước giúp dân.
Bấy giờ có tên hào mục là Trần căm tức vì không cưới được Thục nương có ý “làm phản”, nên bắt giết đi.
Năm Kỉ Hợi 39, khi Đặng Thi Sánh bị giết ở Châu Diên, thì chồng bà cũng bị giết ở Duyên Hà. Quân Tô Định vây dinh trại, chồng bà bị hại, nửa đêm bà cầm dao sông đao, mở đường máu chạy đến làng Tiên La, vào chùa ẩn thân. Từ ấy, nặng nợ nước thù nhà bà quyết chí báo phục, đêm ngày chiêu tập hào kiệt dựng cờ khởi nghĩa.
Năm Canh tí 40, tháng 3, Hai Bà Trưng lãnh đạo quân dân toàn quận phát động cuộc khởi nghĩa. Bà theo giúp cùng với nữ tướng Lê Chân thống lãnh quân tiên phong.
Cứu quốc thành công, nước nhà độc lập, Trưng vương phong bà làm Bát Nạn đại tướng quân Trinh thục công chúa. Bà từ chối tước lộc, chỉ xin đem đầu giặc tế chồng một tuần. Tế xong, bà cởi bỏ nhung trang trở lại chùa làng Tiên La. Nhưng chẳng bao lâu nghe tin Mã Viện kéo binh sang, bà dấn chân cứu nước lần nữa. Chị em Trưng vương tuẫn quốc trong ngày 6 tháng 2, bà cũng tử tiết trong ngày 16 tháng 3 năm Quí mão 43.
Các triều đại sau đều có truy phong bà làm thần:
+ Đời Lê Thánh tông, sắc phong: Ý đức đoan trang Trinh thục công chúa.
+ Đời Minh Mạng nhà Nguyễn sắc phong: Dực bảo trung hưng linh phù chi thần.
+ Đời Khải Định sắc phong: Dực bảo trung hưng linh phù thượng đẳng thần.
Vì khi cầm binh đuổi giặc, từ cửa sông Đáy về ngã ba sông Nông, bà thường cai quản những 18 cửa ngàn, nên tục gọi bà là Thượng ngàn. Và ngôi chùa mà bà ở tu, sách chép là chùa Nam Liên ở trên núi, nên tục cũng gọi bà là sư nữ Nam Liên.

Nàng Giã đại thần

Nàng Giã tên thật là Dương Thị Giã, người làng Chuông (Nhã Nam). Vào thời Hai Bà Trưng chống quân Hán (năm 40 sau công nguyên), Nàng Giã tập hợp lực lượng những người yêu nước trong vùng đứng lên chống giặc, gìn giữ mảnh đất quê hương. Rồi từ đây đoàn quân của bà tiến về Mê Linh nhập vào hàng ngũ của nghĩa quân Hai Bà Trưng, bà được phong làm nữ tướng và lập nhiều chiến công hiển hách. Có thời gian Nàng Giã cho quân về vùng núi Đót (xã Yên Lý) chờ thời cơ thuận lợi tiến công, nghĩa quân phải nếm mật nằm gai, ăn cơm nắm, cơm lam, nhân dân không ra đồng để chờ lệnh đánh giặc.
Trong một trận quyết chiến ác liệt, vì lực lượng yếu nên bị thất thủ, dù thương tích đầy người nhưng bà vẫn một mình một ngựa phá vòng vây của giặc để về nhà, đến núi Đót bên cạnh giếng Hà (làng Lý Cốt, xã Phúc Sơn ngày nay) thì trẫm mình tuẫn tiết, khu vực này hiện vẫn còn phần mộ của bà. Để tưởng nhớ công lao Nàng Giã, nhân dân trong vùng đã lập nghè thờ và lấy ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch (ngày giỗ của bà) làm lệ làng. Vào ngày này, người dân 4 thôn trên có tục "cấm lửa" và "cấm đồng", theo đó không ai ra đồng, không ai đốt lửa mà chỉ ăn cỗ nguội, cơm nắm, bánh dày tế thần nấu từ hôm trước.


Ngọc Phượng công chúa (nàng Ả Chạ)

Hồi đó vợ chồng ông bà Lê Hoàn và Nguyễn Thị Kim sinh được hai người con gái xinh đẹp, đặt tên là Ả Chàng và Ả Chạ. Ả Chàng lớn lên bị quân cai trị Tàu bắt về làm tiểu thiếp, buồn bực mà chết. Ông bà Lê Hoàn thương con, ít lâu cũng chết. Nàng Ả Chạ được cậu nuôi cho đến khi khôn lớn, lấy tên là Lê Ngọc Trinh.
Lê Ngọc Trinh thương sót cha mẹ và chị, nên quyết chí trả thù. Nàng được người cậu bày vẽ, giúp đỡ, xóm làng tin yêu, nên lập được một toán quân nhỏ để chống nhau với giặc Hán. Toán quân sau đó kéo về qui phục dưới trướng hai bà Trưng, đánh thắng nhiều trận. Bà Trưng lên ngôi, phong cho Ngọc Trinh làm đại tướng quân, lại cho hiệu là Ngọc Phượng Công Chúa.
Nhưng bọn Hán lại kéo sang. Tên chủ tướng Mã Viện quyết diệt quân ta, sai phó soái Lưu Long mở trận bất ngờ, vây chặt trại Đàm Luân, nơi mà Công Chúa Ngọc Phượng quản lĩnh. Nàng không hề sợ hãi, xông vào giao chiến, tả xung hữu đột suốt cả ngày trời. Giặc bị giết nhiều nhưng chúng cứ ào ào liều mạng. Lê Ngọc Trinh đánh mãi đến nổi mẻ cả thanh gươm, rồi lỡ tay, gươm rớt xuống đất. Nàng lập tức cởi ngay dải yếm, bọc đá ở đầu, tung múa bốn phía. Dải yếm vùn vụt vây tỏa trên dưới dọc ngang làm cho giặc kinh hải, chạy dạt cả ra. Tên chủ tướng Mã Viện thấy vậy nổi nóng, thúc quân sấn vào. Ngọc Trinh cố cầm cự được lúc lâu, dải yếm bị đứt, đá văng ra. Nàng đành phóng ngựa lui về Đầm Sen mà hóa. Nhân dân kinh phục uy vũ, thờ nàng làm thần, hàng năm cúng tế. Sau trận ấy, dải yếm của nàng bay về địc phận Hòa Loan, nên Hòa Loan có tục kéo co. Còn hòn đá bọc trong dải yếm văng xuống thôn Lũng Ngoại. Vì vậy trò hú đáo được tổ chức ở đây.


Ả Chàng (hay Ngọc Trinh Công Chúa)

Ngọc Trinh cũng tức là Lê Ngọc Trinh hay Ả Chàng. Hai tên gọi đầu có lẽ là do người đời sau kính cẩn đặt cho, chứ tên gọi phổ biến nhất vẫn là Ả Chàng. Theo thần tích ở đền Lũng Ngoại (cũng tức là đền Lũng Ngòi, nay thuộc xã Lũng Hoà, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc) thì Ả Chàng là em ruột của Ả Chạ (còn có tên khác là Ngọc Thanh). Hai chị em cùng nổi tiếng xinh đẹp và khoẻ mạnh.

Cha mẹ chẳng may nối nhau qua đời sớm, Ả Chạ vì có nhan sắc hơn người nên bị quan đô hộ ở địa phương bắt về làm thiếp và sau đó chưa được bao lâu thì mất, Ả Chàng tức giận, tập hợp lực lượng để chống quan lại nhà Hậu Hán. Binh sĩ Tô Định hễ đi qua khu vực Lũng Ngoại thì thế nào cũng sẽ bị Ả Chàng bất ngờ tấn công. Giặc phải bao phen thất trận, lòng rất oán ức nhưng chưa biết đối phó bằng cách nào.
Khi được tin Hai Bà Trưng phát động khởi nghĩa ở Hát Môn, Ả Chàng liền đem quân theo về. Nhờ lập được nhiều công lao nên sau khi dẹp yên Tô Định, Ả Chàng được Trưng Nữ Vương phong làm Công Chúa, chức Đại Tướng. Khi Mã Viện đem quân sang đàn áp, Ả Chàng đã chỉ huy cuộc chiến đấu rất dũng cảm tại Gò May (nay cũng thuộc xã Lũng Hoà, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc).
Tương truyền, có lần đang hăng hái xông trận thì thanh gươm bị rơi, Ả Chàng liễn cởi ngay dải thắt lưng, cột đá vào một đầu để làm vũ khí, vung lên đánh cho cả đám giặc đông phải hoảng sợ mà bỏ chạy tán loạn. Nhưng rồi sức tàn lực kiệt, Ả Chàng đành phải nhảy xuống đầm sen lớn ở Gò May mà tuẫn tiết. Năm đó Ả Chàng 20 tuổi. Nhân dân địa phương đã cùng nhau tôn tập đền thờ Ả Chàng tại Lũng Ngoại như đã nói ở trên. 

Khâu Ni công chúa  (Nàng A)


Nàng A là người họ Quách, quê ở vùng này ngày nay là ngã ba Bạch Hạc. Đến mười sáu tuổi thì ba mẹ mất cả, làng xóm bị giặc Hán giày xéo. Nàng bỏ nhà ra đi, vào một ngôi chùa ẩn náo, tu hành.
Bề ngoài là đi tu, nhưng bề trong nàng A rắp tâm rèn luyện để có thể ra làm việc nghĩa. Nhìn cảnh đất nước bị giặc thù giày xéo, nàng không thể nào yên tâm. Nhưng muốn hành động phải có tài có đức, thu phục được lòng dân.
Ở trong chùa, nàng A học thuốc để chữa bệnh, luyện tập võ nghệ, bắn cung, múa kiếm, ném lao. Có lần, một con cọp trở dạ, oằn mình ở sau chùa, nàng A bạo dạn ra buộc thuốc cho cọp. Cọp mẹ cảm động làm hiệu như biết tạ ơn. Đẻ xong, cọp tha con đi và không bao giờ quấy nhiễu làng xóm nữa. Dân chúng biết chuyện càng thêm kính phục nàng A. Người theo càng ngày càng đông đúc. Dân làng gọi nàng là sư cô Khâu Ni. Bấy giờ nàng Khâu Ni mới nói rõ chí nguyện của mình. Mọi người nô nức tán đồng. Nàng Khâu Ni còn tỏ rệt biệt tài về chiến đấu. Nàng chỉ dẫn mọi người tập luyện các môn võ nghệ và trận pháp, cả đánh bộ lẫn đánh thủy.
Nghe chị em Trưng Trắc khởi nghĩa ở Mê Linh, nàng Khâu Ni đem cả bản bộ đi theo, được bà Trưng giao cho chỉ huy một bộ quân thủy. Khi ra trận, nàng Khâu Ni thường chỉ huy quân bằng một chiếc trống lệnh rất lớn. Tiếng trống đánh lên làm vang động cả núi sông, phía quân địch nghe cũng hoảng hồn khiếp vía, mất cả tinh thần.
Trận đánh ở Luy Lâu, tên thái thú Tô Định phải bỏ chạy là nhờ công rất lớn của nàng Khâu Ni. Hai bà Trưng lên ngôi, phong nàng A là Khâu Ni Công Chúa, cho cai quản ấp Nhật Chiêu, nay là xã Liên Châu, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phú. Nàng Khâu Ni lập đồn trại, sửa sang lại ngôi chùc cũ, treo trống ở chùa, vì thế chùa ấy có tên là chùa treo trống (Huyền Cổ Tự).
Sau khi nàng Khâu Ni mất, nhân dân tôn làm thần, lập đền thờ ở Nhật Chiêu. Khi cúng tế, mọi người kiêng mặc áo đỏ áo vàng vì đó là màu y phục của Khâu Ni khi nàng ra trận. Còn có tục tế trâu thui cả con, khi hạ cỗ, dân làng và người qua đường già trẻ lớn bé được phép mỗi người một con dao, xẻo thịt ăn tại chỗ. Lại còn có các trò cướp cầu, cướp cờ, bơi chải rất nhộn nhịp.
Công Chúa Khâu Ni sau này còn hiển linh, giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn, giúp các vua Lê Đại Hành, Trần Thái Tông đánh giặc Tống, giặc Nguyên. Các triều đều có sắc phong tặng.


Bà Chúa Bầu

Ngày xưa ở huyện Lập Thạch (Vĩnh Phú) ngày nay, có một bà cụ già trồng dược một cây bầu rất lạ. Cây bầu lớn lên nhưng không thấy ra hoa kết quả gì cả, dây bầu cứ nở dài lan ra, lan mãi. Dây lan ra rất dài, bò lên cả núi đồi, cứ thế mà lan đến tận huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, rồi leo lên tận núi cao ở đó. Từ đó thì dây bầu mới bắt đầu trổ hoa và kết thành một trái bầu. Rồi từ trong trái bấu ấy, nở ra một cô gái, chỉ vài ngày sau đã lớn thành một thiếu nữ xinh tươi. Cô gái lần theo dây bầu về đến gốc cây, gặp bà già trồng bầu, nhận bà làm mẹ. Mọi người thấy sự lạ, gọi ngay cô gái là cô Bầu. Và ngọn núi Tuyên quang cũng được gọi là núi Bầu.
Hai mẹ con nương náo nhau qua ngày, được ít lâu thì bà cụ mất. Nàng Bầu đem mẹ lên sườn núi chôn. Khi đào đất để chôn mẹ, nàng bắt được một cái chuông, đem về nhà. Điều kỳ lạ là, mỗi khi nàng gõ vào chuông thì mọi người xa gần khi nghe tiếng chuông đều chạy đến bên nàng, xin nàng thu phục cho làm quân bản hộ. Một vài lần gõ chuông như thế, nàng Bầu đã có một số đông thủ hạ. Lúc ấy nàng mới nói rõ ý nàng muốn cứu nước diệt thù. Ai nấy đều cức lòng, xin vâng theo lệnh.
Nàng Bầu đem quân qui phục dưới trướng cờ Hai Bà Trưng, được giao việc chống quân Tô Định. Bà lập được nhiều chiến công hiển hách, được Trưng chúa phong làm công chúa. Vì vậy ai cũng gọi là bà Chúa Bầu.
Khi Trưng Vương bị thua ở Cẩm Khê, đội binh của Chúa Bầu cũng lâm nạn. Không chống cự nổi với thế giặc quá lớn, Chúa Bầu phải chạy về vùng Đạo Trù. Thấy khó lòng lập lại cơ đồ, Chúa Bầu vứt chuông xuống vực sâu mà hóa. Ngày nay dân chúng gọi vực đó là vực Chuông.
Ở làng Bầu cũng như những vùng quanh núi Bầu, dân chúng lập đền thờ. Các triều đình đều có phong chức tặng cho vị nữ thần có công lao cứu nước.


Đệ Bát Vị Đông Cung Công Chúa Xuân Nương

Châu Đại Man (phần đất thuộc huyện Tam Nông, Thanh Thủy, Cẩm khuê, tỉnh Vĩng Phú ngày nay) , hồi đó do một vị quan lang tên Hùng sát quản lĩnh. Ông có một người tên vợ là Đinh Thị Hiên Hoa, sinh được nhiều người con, trong đó có một cô gái đạt tên là Xuân. Nàng Xuân mới được ba tháng thì mẹ mất, hơn ba năm sau thì cha cũng mất, Xuân về ở với các anh. Người anh trưởng tên là Hùng Thắng, đã bí mật liên kết với Thi Sách để ngầm chống lại tên thái thú Tô Định. Giặc phát hiện được âm mưu ấy, bắt giết Hùng Thắng cùng mấy người em nữa. Nàng Xuân phải bỏ trốn, đi lang thang mãi, sau mới vào ở trú trong một ngôi chùa. Ở đây, nàng Xuân ngày đêm luyện tập, dố chí báo thù nước, thù nhà. Nàng rủ được nhiều hào kiệt trong vùng , các làng, các mường, lập được một nhóm nghĩa quân để chờ cơ hội nổi lên.
Cơ hội đã đến. Bà Trưng khởi nghĩa, sai em là bà Trưng Nhị đi tập hợp lực lượng khắp nơi. Bà Trưng Nhị gặp nàng Xuân, và thu nạp nàng làm thủ hạ của Trưng chúa. Từ đó, nàng Xuân được bà Trưng giao cho quản lĩnh một dinh trại lớn, lấy địa điểm xã Hương Nha ngày nay làm đồn chính. Nhân dân các bản mường đều hưởng ứng, nô nức về với nàng Xuân. Họ hào hứng cùng quân lính tập luyện, tổ chức những cuộc vui: múa mo, múa gáo, tung còn, té nước, rộn ràng khắp một dải rừng núi.
Nàng Xuân lập được nhiều chiến công, vua Trưng rất khen ngợi, đứng chủ hôn cho nàng kết hôn với Thi Bằng là em của Thi Sách. Hai vợ chồng phò tá vua Trưng để giữ gìn cơ đồ cho bền vững.
Tướng nhà Hán là Mã Viện đem quân sang tấn công, khí thế rất hùng hổ. Quân ta chống lại anh dũng như thất thế nên bị núng thế. Tướng quân Thi Bằng đã ngã giữa trận tiền. Nàng Xuân mặo áo chiến nam trang, kéo binh ra trả thù. Song lúc này nàng có thai năm tháng, ngồi trên mình ngựa suốt từ sáng tới trưa, cự địch liên tiếp với nhiều tướng giặc, nên sức khỏe không được như trước nữa. Một lưỡi gươm vút tới, đứt một mảng áo giáp của nàng. Giặc thấy tướng đàn bà, liền xoay chước cởi trần, ùa vào hò hét như phường điên dại. Nàng Xuân vừa giận vừa thẹn, đánh liều, mở một đường máu, rút ra. Quân sĩ phù nàng chạy đến bến Nam Cường thì nàng bị động thai, kiệt sức. Tạm nghỉ một đêm, nàng Xuân biết lực mình đã tận, dặn dò tướng sĩ, rồi một mình vượt gío mưa về chùa Hương Nộn, gieo mình xuống sông Thao tử tiết.
Nhân dân lập đền thờ nàng tại các xã Hương Nộn, Hương Nha. Những ngày tế tự hàng năm đều mở hội. Hội ở Hương Nha làm cổ chay, diễn trò trình nghề, đánh vật, kéo quân hát đối đáp. Hội ở Hương Nộn có hát Xoan. Dân địa phương kiêng tiếng Xuân để tỏ lòng kính trọng nữ thần. Hội Lam Sơn khởi nghĩa, thần đã âm phù cho quân ta đánh thắng giặc Minh. Vua Lê Lợi lên ngôi, tặng phong nàng Xuân là: Đệ Bát Vị Đông Cung Công Chúa.

Ngọc Quang Thiên Hương Công Chúa.

Thưở ấy, ở khu Cự Lại, xã Sơn Dược, động Hoa Lư, phủ Trường Yên, có vợ chồng ông Vương Khôi, hiền lành nhân đức, nhưng mãi đến đứng tuổi mà vẫn chưa có con. Ông bà ngày đêm cầu khẩn. Bổng một đêm bà nằm mộng, thấy được dẫn đến một cung điện nguy nga. Vị tiên trên điện bảo bà rằng trời xét đến lòng thành của hai vợ chồng nên đã cho một tiên nữ ở Ngọc Quang bảo điện về đầu thai. Tỉnh dậy, vợ chồng bàn bạc với nhau, lấy làm cảm tạ.
Quả nhiên ít lâu, bà Vương sinh được một người con gái, đặt tên là Vương Thị Tiên. Nàng Tiên lớn lên, nết na đức hạnh, lại thông giỏi văn võ, tiếng đồn khắp cả Trường Yên. Năm nàng 16 tuổi, cha mẹ đều mất. Nàng cư tang báo hiếu đầy đủ, rồi lại chăm lo học hành rèn luyện. Lúc đó nước ta đang bị nhà Hán cai trị, đầy đường tiếng khóc lời than. Nàng Tiên đã ngầm ngầm có ý muốn diệt quân sài lang kia thì mới hả dạ. Được tin ở đạo Sơn Tây có chị em nàng Trưng đứng lên khởi nghĩa. Nàng Tiên mừng lắm, vội vàng đem một số thủ hạ của mình kéo đến sông Hát để xin yết kiến.
Đêm hôm trước, nàng Trắc đã nằm mộng thấy một vị thánh sứ đến dặn phải tiếp đón và dung nạp người tiên ở điện Ngọc quang. Sáng mai tỉnh dậy, nàng Trắc đang nghĩ ngợi về giấc mộng thì được tin báo có Vương Thị Tiên xin về tụ hội. Tin là mộng triệu được ứng nghiệm, nàng Trắc vui vẻ đón tiếp, phong ngay cho làm Ngọc Quang tướng quân. Khi đuổi được Tô Định, bà Trưng lên ngôi, Ngọc Quang tướng quân được cai trị vùng Châu Ái, lấy phủ Trường yên làm thực ấp.
Giặc Hán do tướng Mã Viện cầm đầu lại kéo sang. Trưng Vương chia quân ra chống cự, sai người vào gọi Ngọc Quang nữ tướng ra tiếp ứng. Trong trận đánh ở Khê Thành, Trưng chúa bị thua, phải rút chạy. Ngọc Quang nữ tướng xông pha để bảo vệ nữ chúa, trong mình bị hơn mười vết thương mà vẫn cầm cự với giặc. Cuối cùng quân lính bị tan hết, bộ hạ chỉ còn 14 người, Ngọc Quang nữ tướng đánh mở một đường máu, chạy về địa phận xã Mã Phan, huyện Lập Thạch. Giặc cố rượt theo, các gia thần, tùy tướng đều bị giết hết. Một mình, Ngọc Quang nữ tướng cố sức men theo bờ sông, về đến địa đầu xã Hữu Bị, huyện Mỹ Lộc, phủ Thiên Trường thì người ngựa đều mõi mệt, rã rời. Phía sau, giặc vẫn ùn ùn kéo đến. Ngọc Quang nữ tướng ngữa mặt lên trời mà than rằng: "Vì kiệt sức không thể chống được giặc nữa, nhưng không thể để rơi vào bọn hôi tanh, xin phó mặc thân này cho sông nước. Cầu xin trời đất cho trôi về bản quán, đừng cho lủ giặc vớt được, mà cũng đừng chìm vào bụng cá dạ tôm." Khấn xong, nàng gieo mình xuống nước. Lúc đó là ngày 12 tháng hai.
Mấy hôm sau, nhân dân khu Cự Lại, thấy người và vật không được yên ổn, lấy làm lo lắng, thì được tin báo là bên bờ sông có xác người trôi dạt vào. Xem kỹ, biết đúng là Ngọc Quang nữ tướng, dân làng vớt lên mai táng, lập miếu thờ, tôn hiệu là Ngọc Quang Công chúa.
Đến đời vua Lý Thái Tông, có năm hạn hán lớn, nhà vua lập đàn cầu mưa, mộng thấy một nàng công chúa, liền hỏi chuyện. Nàng thưa rằng: "Thiếp là thần ở thôn Cự lại, tên Tiên họ Vương, vâng lệng trời xuống làm mưa theo lời cầu khẩn của nhà vua." Vua Thái Tông tỉnh dậy, nhìn ra ngoài trời, quả nhiên mưa như trút nước. Nhà vua cho tra lại tích cũ, giáng chỉ cho dân địa phương thờ phụng theo nghi lễ đầy đủ hơn và tặng thêm hai chữ trong duệ hiệu, thành: Ngọc Quang Thiên Hương Công Chúa.


Phật Nguyệt Công Chúa

Vùng đất ven bờ sông Thao bấy giờ có gia đình ông Đinh Văn Bôn và bà Phi Thị Vang sanh được một nàng con gái, đạt tên là Phật Nguyệt. Trước khi có thai, bà Vang đã mộng thấy có thần cho bà một cành hoa. Ông bà vui mừng, tin chắc là con gái sau này sẽ nên người xứng đáng.
Nhưng Khi Phật Nguyệt 15 tuổi thì cha mẹ mất cả. Nàng sống một mình, được bà con chú bác giúp đỡ. Tuy thế, nhân dân chịu đang cơ cực dưới ách đô hộ của nhà Hán. Nhà ai cũng bị bóc lột hành hạ, chẳng lấy gì cho no đủ tươi vui. Phật Nguyệt càng lớn càng thấy rõ sự tàn bạo của kẻ thù. Nàng quyết tâm tìm cách cứu dân cứu nước. Gặp gỡ bà con thôn xóm, nàng thường tỉ tê câu chuyện diệt thù. Dần dần ai cũng thấy rõ chí nguyện người con gái anh hùng này nên cảm phục, cùng xin tề tựu bên nàng. cả nhừng người nơi xa cũng tìm đến nàng Phật Nguyệt.
Phật Nguyệt không những tỏ ra là người có chí, lại có cả tài. Ờ gần bên sông Thao, nàng biết khai thác khả năng của mọi người, khuyến khích họ luyện tập thành thạo trên sông nước. Đội nghĩa quân dưới sự chỉ huy của nàng Phật Nguyệt đã thành một đội thuỷ binh. Nghe tin bà Trưng dựng cờ ở Mê Linh, Phật Nguyệt đem bản bộ đến qui thuận. Bà Trưng cũng giao cho nàng lĩnh quân thủy để chống với Tô Định ở vùng thượng sông Thao.
Khi quân ta toàn thắng, Trưng Vương lên ngôi, phong nàng là Phật Nguyệt Công Chúa. Nàng vẫn đuợc giao việc kinh lý sông Thao, dựng đồn trại, luyện tập thủy quân. Nàng chọn làng Yển để mở bến, mở chợ, lập đồn Gò Voi ở trang Thanh Cù và đào một con ngòi, đặt tên là ngòi Cái để tiện việc giao thông.
Trong cuộc tấn công sau này của Mã Viện, tên phó tướng Lưu Long đem thủy quân xuôi sông Thao, tiến về Bạch Hạc, đã gặp sức chống trả dữ dội của đội thủy binh do nàng Phật Nguyệt chỉ huy. Hắn chật vật mãi không sao thắng nổi, phải dốc một lực lượng lớn và lập kế phục binh, mới phá được đồn thủy của quân ta. Phật Nguyệt thất thế, phải vỡ vòng vây, rút khỏi đại đồn. Giặc thừa cơ đuổi theo. Nàng phóng ngựa chạy theo mạn sông, định tìm cách sang bờ bên kia, thì bổng dưng có phù kiều nổi lên, đón nàng biến mất. Lúc đó vào ngày 10 tháng chạp. Ngày nay tại các xã Thanh Vân, Phương Lĩnh đều lập đền thờ, lấy ngày ấy làm ngày lễ tế vị nữ thần ở sông Thao anh dũng.

Thánh Thiên công chúa

Thánh Thiên là một nữ tướng quê ở Kinh Môn tỉnh Hải Dương, có cậu ruột tên Nguyễn Huyến là tri huyện Yên Dũng xứ Kinh Bắc. Bà vốn là con nhà võ tướng, ham học và am thông võ nghệ. Lớn lên gặp lúc quân Nam Hán xâm chiếm nước ta, bà phất cờ khởi nghĩa từ đất Kinh Môn, kéo quân phối hợp với cậu và lập nhiều chiến công ở vùng Ngọc Lâm - Yên Dũng rồi cùng về tụ nghĩa ở cửa sông Hát Môn. 
Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, nghĩa quân Yên Dũng - Kinh Môn của Thánh Thiên đã theo về cùng nghĩa lớn, được Hai Bà Trưng tin tưởng giao cho những trọng trách lớn. Mùa xuân Canh Tý năm 40, quân Hai Bà Trưng tiến đánh Mê Linh rồi tiếp tục đánh vào thành đô Luy Lâu ở huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Trong trận quyết chiến này, Thánh Thiên được Trưng nữ vương phong Nguyên soái, Bình Tây đại tướng quân, lĩnh chiếu tiên phong dẫn quân tiến đánh Châu Thành. Bà đã nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ, sau đó đoàn nghĩa binh Yên Dũng- Kinh Môn lại theo Hai Bà Trưng thu về trọn vẹn 65 thành trì trong cả nước. Khi Trưng Trắc lên ngôi đã phong bà làm Đại tướng quân đóng quân vùng Hợp Phố án ngữ phía Bắc.
Sau 3 năm đất nước được yên bình, năm 42 đại quân Mã Viện sang đánh nước ta, Thánh Thiên được lệnh vua đánh trận tập kích mở đầu lập được công lớn. Cuộc chiến diễn ra từ sông Mã đến khắp các vùng sông Hát, sông Thương, sông Cầu, sông Nhị Hà… Cuối cùng quân nghĩa của Hai Bà Trưng bị Mã Viện đánh cho tiêu hao dần. Hai Bà Trưng chạy về sông Hát tự vẫn, còn Thánh Thiên công chúa dẫn quân về sông Nhật Đức chống giặc và lẫm liệt hy sinh tại đó. 
Cảm khí tiết oanh liệt của nữ tướng Thánh Thiên, nhân dân Ngọc Lâm - nơi Thánh Thiên đóng quân xưa kia đã lập đền thờ bà để nghìn năm hương hoả. 

Ả Nang công chúa

Ả Nang cũng tức là Trần Nang. Đầu Công nguyên, do quan đô hộ của nhà Hậu Hán là Tô Định quá tham lam và tàn ác nên ai ai cũng đều oán hận. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ, trong đó, lớn mạnh nhất là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Theo thần tích ở đền Tuyền Liệt (nay thuộc huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc) thì lúc bấy giờ, Ả Nang đã cùng chồng là Hùng Bảo tập hợp được trên hai trăm người và chia làm hai đội quân, tình nguyện chiến đấu dưới ngọn cờ của Hai Bà Trưng. Sau khi đánh đuổi được Tô Định, Trưng Nữ Vương phong cho Hùng Bảo làm Hộ Quốc Công còn Ả Nang được phong làm Công Chúa. Hai người cùng nhau về lại đất Tuyền Liệt và tổ chức khai hoang mở mang điền sản. Lúc Mã Viện đem quân sang đàn áp, cả hai vợ chồng Hùng Bảo và Ả Nang đã nhận lệnh Trưng Nữ Vương, trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh lớn, gây cho giặc nhiều tổn thất nặng nề. Nhưng sau khi Trưng Nữ Vương thua trận ở Lãng Bạc, Hùng Bảo và Ả Nang cũng phải chịu thất bại. Hai vợ chồng đã anh dũng hi sinh ở khu vực cách Tuyền Liệt không xa lắm.  

Đào Nương Công Chúa

Đào Nương Công Chúa cũng tức là Đề Nương Công Chúa hay Hồ Đề, người trang Đông Cao (nay thuộc xã Đông Cao, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc), sau di cư đến động Lão Mai (nay cũng thuộc huyện Mê Linh). Theo thần tích ở trang Đông Cao thì Đào Nương là người nổi tiếng xinh đẹp và võ nghệ cao cường, chưa đầy hai mươi tuổi đã có thể thuần phục được lũ ngựa bất kham và bắt sống được cả voi trắng chéo ngà rất hung dữ ở động Lão Mai.
Nhân lòng oán giận của nhân dân đối với chính quyền đô hộ nhà Hậu Hán, lại thù Tô Định đã giết hại cha mình, Đào Nương đã rời trang Đông Cao đến cư ngụ ở động Lão Mai. Tại đây, được nhân dân động Lão Mai và các vùng lân cận hết lòng ủng hộ, Đào Nương đã tập hợp lực lượng để cùng nhau đánh đuổi quân đô hộ. Nghĩa quân Đào Nương từng đánh cho Tô Định nhiều trận hiểm hóc, khiến cho Tô Định rất căm tức.
Đến năm 40, hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng. Đào Nương đã đem quân theo về. Nhờ giàu tài năng và lòng dũng cảm hiếm thấy, Đào Nương được Trưng Nữ Vương phong làm Đào Nương Công Chúa và trao chức Phó Nguyên Soái. Sau khi Trưng Nữ Vương qua đời, Đào Nương Công Chúa vẫn còn tiếp tục cầm quân chiến đấu thêm một thời gian nữa. Một hôm. Đào Nương Công Chúa bí mật về thăm mộ Trưng Nữ Vương, chẳng ngờ bị Mã Viện phát hiện và truy đuổi ráo riết. Đào nương Công Chúa phóng ngựa chạy mãi đến sồng Nguyệt Đức (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh) rồi tuẫn tiết ở đó.


Nái Sơn (hay An Bình Công Chúa)

Theo thần tích đền Liễn Sơn (nay thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc) thì Nái Sơn còn có tên khác là nàng Quý Loan. Nàng vốn quê ở khu vực nay thuộc huyện Chí Linh (tỉnh Hải Dương), sau mới di cư đến trang Tinh Luyện (nay thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc). Nái Sơn nổi tiếng xinh đẹp, nết na, hiểu biết nhiều và rất khoẻ mạnh, lại giỏi võ nghệ.
Nghe tin Hai Bà Trưng đang chiêu mộ lực lượng để chuẩn bị khởi nghĩa đánh đuổi quân đô hộ nhà Hậu Hán, Nái Sơn đã hồ hởi vượt đường xa dặm dài tìm đến Mê Linh. Tại đây, Nái Sơn dược Hai Bà Trưng tiếp đãi rất ân cần và sau đó là kết nghĩa làm chị em. Hai Bà đã giao cho Nái Sơn chiêu dụ các bậc hào kiệt và tuyển mộ quân sĩ. Tương truyền Nái Sơn đã mời gọi dược bốn bậc hào kiệt và đã tuyển mộ được 500 nghĩa dũng. Trước khi khởi nghĩa, Hai Bà Trưng đã tin cậy trao cho Nái Sơn chức Nội Thị Tướng Quân, ngày đêm hầu cận Hai Bà. Sau khi Tô Định bị nghĩa quân ta đánh cho tan tác, chính Trưng Nữ Vương đã đứng ra tác hợp cho Nái Sơn với Đinh Tướng Quân nên vợ nên chồng, tình chị em kết nghĩa nữa Nái Sơn với Trưng Nữ Vương vì thế mà càng trở nên sâu sắc. Bấy giờ, Nái Sơn được Trưng Nữ Vương phong làm An Bình Công Chúa. 
Lúc Mã Viện đem quân tới đàn áp, Nái Sơn đã sát cánh chiến đấu bên cạnh Trưng Nữ Vương ở Lãng Bạc rồi ở Cấm Khê và tương truyền, Nái Sơn là người đã chôn cất Trưng Nữ Vương trước khi đến lượt mình tuẫn tiết vì nước. Đến thờ Nái Sơn được dựng lên ở hầu khắp các địa phương Nái Sơn từng sống và chiến đấu.


Nàng Nội (hay Bạch Hạc Thuỷ Công Chúa)

Theo thần tích đền Minh Nông (còn có tên gọi khác là đền Kẻ Lú), xã Minh Phương, huyện Hạc Trì (nay thuộc thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ) thì Nàng Nội là cháu gọi Thi Sách (chồng của Trưng Trắc) bàng chú ruột. Vì căm giận ách thống trị tàn bạo của quân đô hộ nhà Hậu Hán, thân sinh của Nàng Nội và Thi Sách dự tính sẽ tổ chức nhân dân nổi dậy đấu tranh, nhưng vì kế hoạch bị bại lộ nên cả hai anh em đều bị Tô Định giết hại. Để tránh sự trả thù, hai mẹ con Nàng Nội buộc phải tạm lánh sang phía hữu ngạn sông Hồng. Nhưng, đến đó chưa được bao lâu thì thân mẫu của Nàng Nội cũng vì lo lắng và buồn rầu nên đã qua đời.
Khi nghe tin Hai Bà Trưng phát động khởi nghĩa, Nàng Nội đã hăm hở xin theo. Nhờ dũng cảm, mưu trí và có tài tổ chức. Nàng Nội nhanh chóng được Hai Bà Trưng tin cậy, giao cho chỉ huy một lực lượng khá lớn. Binh lính dưới quyền chỉ huy của Nàng Nội đã đánh thắng giặc nhiều trận lớn ngay tại quê hương của mình, khiến chúng phải kính nể gọi Nàng Nội là "Nữ thần Bạch Hạc”. Dưới thời Trưng Nữ Vương, Nàng Nội được phong làm Nhập Nội Bạch Hạc Thuỷ Công Chúa và được Trưng Nữ Vương tin cậy giao phó nhiều trọng trách khác nhau trong triều đình. Truyền thuyết vùng Bạch Hạc kể rằng chính Nàng Nội đã có vinh dự được cùng với Trưng Nhị chỉ huy việc xây dựng khá nhiều thành luỹ tại khu vực Bạch Hạc.
Khi Mã Viện đem quân sang đàn áp, Nàng Nội là tướng chỉ huy quân đội của Trưng Nữ Vương ở khu vực Bạch Hạc. Bà đã chiến đấu rất ngoan cường và gây cho giặc rất nhiều tổn thất nặng nề nhưng cuối cùng cũng đành phải chịu thất bại. Bà đã anh dũng hi sinh tại Bạch Hạc lúc tuổi đời mới vừa đôi mươi. Để mãi mãi tôn vinh và ghi nhớ công đức to lớn của Bà, nhân dân địa phương đã cùng nhau lập đền thờ Bà tại Minh Nông.

Nàng Nước (hay Trung Dũng Đại Tướng Quân)

Theo thần tích đền Hoàng Xá (nay thuộc xã Kiêu Kị, huyện Gia Lâm, Hà Nội) thì Nàng Nước là con của một Ni cô, thế danh là Đào Nương. Đào Nương vốn quê ở làng Kiệt Đặc (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Vì Đào Nương chẳng may mất ngay khi Nàng Nước vừa mới chào đời, cho nên, Nàng Nước được một người phụ nữ tốt bụng ở làng Hoàng Xá đem về nuôi dưỡng. Bà chính là người phụ nữ đã tìm thày truyền dạy cho Nàng Nước tinh thần thượng võ và ý chí đánh đuổi quân xâm lăng, giành lại độc lập cho đất ước Khi Nàng Nước vừa đến tuổi trưởng thành thì mẹ nuôi cũng qua đời. Bấy giờ, đất nước điêu linh, dân tình khốn khổ, quân đô hộ nhà Hậu Hán thì tác oai tác quái khắp nơi.
Nhân lòng người oán hận sục sôi, Nàng Nước đã kêu gọi nhân dân cầm vũ khí đánh đuổi quân thù. Khi Hai Bà Trưng phát động khởi nghĩa, Nàng Nước liền đem toàn bộ lực lượng của mình về hợp sức với Hai Bà để cùng chống kẻ thù chung. Nhờ can đảm và mưu lược, Nàng Nước đã liên tiếp lập được nhiễu công lao, do đó, được chính quyền Trưng Nữ Vương phong làm Trung Dũng Đại Tướng Quân. 
Khi Mã Viện đem đại binh tới đàn áp, Nàng Nước đã sát cánh chiến dấu liên tục bên cạnh Hai Bà Trưng, từng có mặt trong trận ác chiến ở Lãng Bạc rồi sau đó lại có mặt trong trận ác chiến thứ hai ở Cấm Khê. Cuối cùng, vì quân tan thế yếu. Nàng Nước đã tuẫn tiết cùng với Hai Bà Trưng tại Cấm Khê.

Nàng Quỳnh (hay Quỳnh Nương Công Chúa) và Nàng Quế (hay Quế Nương Công Chúa)

Theo thần tích Miếu Cây Quân và Miếu Cây Sấu (nay thuộc huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang) thì Nàng Quỳnh và Nàng Quế là hai chị em sinh đôi, cả hai đều rất khoẻ mạnh và xinh đẹp. Lúc mới hơn mười tuổi, hai chị em đã rất giỏi cung kiếm. 
Bấy giờ, nhân dân khắp cõi đều rất thống khổ bởi ách thống trị tham lam và tàn bạo của nhà Hậu Hán, ai ai cũng chỉ chờ có cơ hội thuận tiện để cùng nhau vùng dậy đánh đuổi quân thù. Lúc bấy giờ, ngay trên quê nhà của Nàng Quỳnh và Nàng Quế cũng có một cuộc khởi nghĩa nhỏ do một người con gái tên là Nàng Xuân phát động và lãnh đạo. Cả hai nàng đã cùng hăng hái tham gia cuộc khởi nghĩa này.
Khi Hai Bà Trưng kêu gọi nhân dân đứng lên đánh đổ chính quyền Tô Định, Nàng Xuân đã cùng với Nàng Quỳnh và Nàng Quế hồ hởi dẫn quân theo về. Nàng Quỳnh và Nàng Quế đã chiến đấu rất gan dạ, lập được nhiều công lao, được Trưng Nữ Vương phong làm Công Chúa, Tiên Phong Phó Tướng (Chánh Tướng lúc ấy là Công Chúa Thiều Hoa).
Lúc triều đình nhà Hậu Hán sai Phục Ba Tướng Quân Mã Viện đem đại binh sang đàn áp, cùng với Công Chúa Thiều Hoa, Nàng Quỳnh và Nàng Quế đã được Trưng Nữ Vương giao trách nhiệm chỉ huy một lực lượng quân sĩ đánh giặc ở khu vực Luy Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Tại đây, cánh quân của Nàng Quỳnh và Nàng Quế đã chiến dấu rất ngoan cường và đã liên tiếp gây cho Mã Viện những tổn thất rất to lớn. Theo lời kể của truyền thuyết dân gian thì sau đó, Nàng Quỳnh và Nàng Quế đã anh dũng hi sinh nhưng chưa rõ là ở vị trí cụ thể nào.

Nàng Trăng (hay Nguyệt Điện Công Chúa)

Theo ghi chép của thần tích đền Tây Cốc (nay thuộc huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ) thì Nàng Trăng là một cô gái đẹp người và đẹp nết, khoẻ mạnh và linh lợi, võ nghệ cao cường và lắm cơ mưu, thiên hạ khó ai bì kịp. Với người nghèo khổ và bị ức hiếp, Nàng Trăng luôn sẵn lòng che chở, với kẻ bất nhân và bạc ác, Nàng Trăng quyết không dung tha. Tuổi tuy còn rất trẻ nhưng Nàng Trăng đã thực sự là chỗ dựa tin cậy của dân cả một vùng rộng lớn. (Trong tờ thần tích nói trên, cũng có chỗ chép Nàng Trăng là Đàm Ngọc Nga. Nhưng họ và tên đầy đủ này ắt hẳn là do hậu thế vì yêu kính mà tự ý đặt cho).
Bấy giờ, quan đô hộ của nhà Hậu Hán là Tô Định khét tiếng tham lam và tàn bạo, dân khắp cõi phải chịu cảnh lầm than, Nàng Trăng ngày đêm lo nghĩ cách cứu giúp dân lành. Nàng tự mình chiêu tập được trên hai trăm tráng sĩ, hễ nơi đâu có tiếng kêu oan là lập tức nàng có mặt để trừng trị kẻ ác. 
Được tin Hai Bà Trưng dựng cờ xướng nghĩa ở Hát Môn. Nàng Trăng liền đem tất cả tráng sĩ của mình về với Hai Bà. Nàng được Hai Bà tin cậy, phong làm Tiền Đạo Tả Tướng Quân, lại ban cho hiệu là Nguyệt Điện. Nàng Trăng và đội quân do Nàng chỉ huy đã chiến đấu rất dũng cảm. góp phần to lớn vào thắng lợi chung của cuộc khởi nghĩa. Nhưng rất tiếc là sau ngày đại thắng, Nàng Trăng đã lâm bệnh và qua đời. Để bày tỏ lòng đặc biệt kính trọng và thương tiếc không nguôi, nhân dân các địa phương nay thuộc hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ đã xây dựng khá nhiều đền thờ Nàng Trăng.

Quách Ả Đê

Quách Ả Đê là con gái ông Quách Toàn và bà Bạch Thị Nguyên ở đạo Tuyên Quang, châu Đại Man. Ả Đê là em sinh đôi với Ả Lự. Cha giữ chức chủ bộ, nhưng giàu lòng thương người, một đời làm việc thiện giúp người. Ả Đê là người con gái thông minh xinh đẹp, nhiều tài, nức tiếng cả vùng.
Bấy giờ Quản bộ Hoàng Gia là một kẻ khét tiếng tham tàn, hiếu sắc. Nghe tiếng Ả Đê thông minh tài sắc, đến cầu hôn nàng, nhưng bị khước từ, Quản bộ Hoàng Gia căm tức kéo quân đến đánh. Gia đình Ả Đê bị đánh tan tác, bố mẹ qua đời. Hai chị em Ả Đê và Ả Lự chạy thoát được phải về ẩn dật ở trang Hoàng Xá. Sau đó Ả Đê cùng chị dấy binh, dần dần trở thành đội quân hùng mạnh, trở về quê đánh đuổi Hoàng Gia trả thù cho cha mẹ, giành quyền cai trị Châu Mường.
Sau khi đánh tan quân Lương xâm lược, Lý Nam Đế nghe tiếng hai chị em Ả Đê, Ả Lự bèn mời về thử tài mới hay: "Võ tinh thông trai e khó vượt; nét hiền ngoan gái chẳng ai bằng", bèn lập hai chị em làm cung phi.
Đầu năm 543, vua Lương lại huy động binh mã sang xâm lược nước ta. Ả Đê cùng chị xin Lý Nam Đế cầm quân. Hai nàng kết tóc vấn khăn, cải trang thành nam nhi, hùng dũng chỉ huy tướng sĩ lên đường chống giặc. Đánh một trận trên bộ, giặc thua tan tác, phải bỏ chạy theo đường thủy. Ả Đê lại cùng chị phối hợp truy đuổi theo đường thuỷ, quân Lương mười phần chết bảy, tám, sau đó Ả Đê hy sinh ở bến Lương Giang. Nhà vua nghe tin vô cùng thương xót, cảm phục đức tài của hai nàng, bèn phong tước hậu và chuẩn cho địa phương lập miếu phụng thờ. Nàng được phong là Ả Đê công chúa, tặng Gia Thuận Trang Ý công chúa, xếp và hàng Thượng đẳng phúc thần.
Triệu Quang Phục lên ngôi, nhớ ơn nàng tặng thêm là Từ Huệ Phổ Đạt đại vương.

Lã Ả Lư

Thời Lý Nam Đế, ở trang Trung Hậu, tổng Đa Lộc, phủ Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên (nay là tỉnh Vĩnh Phúc) có một người con gái tên là Lã Ả Lư. Cha là ông Lã Hoà và mẹ là bà Dương Thị Nguyệt. Ả Lư là người thông minh mẫn tiệp, năm lên 7 tuổi, cha mẹ cho nàng đi học. Chỉ 3 năm sau, Ả Lư đã trở thành một người văn võ kiêm toàn. Cha mẹ bèn đặt cho tên mới là nàng Ngô. Ít lâu sau cha mẹ già yếu qua đời. Lớn lên nàng lấy một người tướng quân họ Triệu của Lý Nam Đế, đóng quân ở đầm Dạ Trạch và được phong là Nhị phu nhân.
Nhân một dịp về thăm quê, thấy dân đang buổi đói kém, Ả Lư xin phép chồng chuẩn cấp cho dân. Hồi đó tướng nhà Lương là Trần Bá Tiên đem quân sang xâm lược nước ta. Thấy chồng lo lắng, nàng khuyên: "Nước có biến đâu chỉ nhờ chí nam nhi, hà không cần đến tấm lòng của thiếp này ư?".
Rồi cùng chồng, nàng tiến về đầm Dạ Trạch vừa làm lễ cầu đảo, vừa cổ vũ tinh thần của tướng sĩ. Nàng bày binh bố trận để chống giặc. Nàng vấn tóc, hai tay hai kiếm, cưỡi ngựa trắng kéo quân vây chặt dinh của Trần Bá Tiên, rồi đột nhập vào thành, vừa đánh vừa hô to "Ta là Triệu nương phu nhân". Quân Lương thấy phụ nữ nước Nam khí tiết thế, lại nhìn thấy bốn bề cờ xí rợp trời, hốt hoảng bỏ chạy. Nàng cho quân đuổi theo bắt được cả tướng giặc. Triệu Công sung sướng nói: "Đúng là Triệu nương phu nhân đó, giặc Lương đã biết chưa?".
Nàng còn đoàn kết binh sĩ, lập nên một đội quân trên dưới đồng lòng làm nên chiến thắng vẻ vang. Khi Triệu công lên ngôi xưng là Dạ Trạch Vương, sau đổi là Triệu Việt Vương.
Năm Tân Mão (571) Lý Phật Tử phản trắc, bất ngờ đem quân đánh Triệu Việt Vương. Vì không phòng bị, Triệu Việt Vương thua phải chạy về của Đại Nha cùng đường gieo mình tự vẫn. Bà Ả Lư già yếu lui về quê ngoại rồi mất ở đó.
Sau này khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi phong bà là Ả Lư Nàng Ngô đế phi đệ nhị. Lê Đại Hành phong bà là Thượng đẳng phúc thần, lại gia phong là Triệu Vương Thiên tử Ả Lư Ngô Nương, tặng phong Duyên Bình công chúa Trinh thục phu nhân. Nối tiếp 3 đời sau bà đều được phong mỹ tự.

Dương Khoan Khoáng (?-546)

Bà quê ở trang Báo Văn, xứ Hồ Kì (tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay), được xem là nữ tướng nổi tiếng, có công lớn cùng Lý Nam Đế lập nước Vạn Xuân. Khi thành Gia Ninh vỡ, vua Lý Nam Đế vào miền Khuất Lão tập hợp lực lượng, nữ tướng Dương Khoan Khoáng vẫn cùng đạo quân của mình đánh giặc, chiến đấu dũng cảm trong suốt hai năm (545-546) cho đến khi bị trọng thương và hy sinh trong trận chiến tại Yên Lạc. Sau khi bà mất, nhân dân nhớ ơn Khoan Khoáng, nhiều nơi lập đền thờ. Các triều đại sau này truy phong bà làm “Đệ nhị á nương Khoan Khoáng đại vương mỹ mạo linh dung”.



Hoàng hậu Phạm Thị Uyển

Bà  Phạm Thị Uyển, vốn quê ở quận Nam Xương. Theo thần tích của đình làng Hòa Mục (Cầu Giấy, Hà Nội) nơi bà được thờ làm thành hoàng thì song thân của bà là ông Phạm Huyên, hiệu là Minh Dực và bà Phùng Thị Thảo hiệu Diệu Hoa. Gia đình Phạm Công ăn ở phúc đức mà muộn đường con cái nên ông bà ngày đêm đến chùa cầu cúng. Một ngày kia ông bà được báo mộng có người nối dõi. Từ đấy bà mang thai và đồng sinh một gái hai trai.
Phạm Thị Uyển là chị cả, dưới còn Phạm Miện và Phạm Huy. Hai người em bà sau này đều là các danh tướng trong cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng. Năm Phạm Thị Uyển 18 tuổi lấy Mai Thúc Loan. Khi Mai Thúc Loan khởi nghĩa chống nhà Đường thắng lợi lên ngôi hoàng đế, Phạm Thị Uyển trở thành hoàng hậu. Quân Đường thua trận nhưng không chịu bỏ mộng xâm lăng. Bởi vậy nhà Đường sai Dương Tư Húc mang 10 vạn quân sang đánh. Thế giặc mạnh làm cho đội quân gồm những nông dân khởi nghĩa phải lui dần rồi bị tan vỡ.
Trong trận quyết chiến ở phủ thành Tống Bình, hoàng hậu Phạm Thị Uyển cũng dẫn đầu một cánh quân thủy giao chiến ác liệt với quân địch trên dòng Tô Lịch. Bấy giờ sông Tô còn là một nhánh của sông Hồng và là mặt án ngữ phía tây của thành Đại La. Thế giặc mạnh, quân ta bị đuối dần. Thế cùng lực kiệt nhưng quyết không để rơi vào tay giặc, hoàng hậu Phạm Thị Uyển đã nhảy xuống sông Tô Lịch tự vẫn.
Xác bà trôi dạt đến địa phận trang Nhân Mục (nay là làng Hòa Mục) thì được nhân dân lén vớt lên chôn cất rồi lập đền thờ. Đó chính là đền Dục Anh ngày nay nằm trên đường Nguyễn Ngọc Vũ, quay mặt ra sông Tô Lịch ở đoạn gần cầu Trung Hòa.
7 thế kỷ sau, vào thời nghĩa quân Lam Sơn tiến lên tổng công kích quân Minh, một lần Lê Lợi nghỉ đêm ở miếu Dục Anh được thần báo mộng sẽ âm phù cho quân khởi nghĩa diệt giặc. Vậy là mối thù hơn 7 thế kỷ trước của bà đã có dịp trả khi bà phù giúp Bình Định Vương Lê Lợi đánh tan giặc phương Bắc. Cũng nhờ đó, sau này khi lên ngôi vua, Lê Lợi đã sắc phong cho bà là Khiêm Sung đại vương.



Triệu thị Trinh

Triệu thị Trinh sinh ngày 2 tháng 10 nǎm 226 (Bính Ngọ) tại huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hoá trong một gia đình hào trưởng. Triệu thị Trinh là một phụ nữ có tướng mạo kỳ là, người cao lớn vú dài nǎm thước. Bà là người tính tình vui vẻ, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, trí lực hơn người. Truyền thuyết kể rằng, có lần xuất hiện một coi voi trắng một ngà phá phách ruộng nương, làng xóm, lầm chết người. Triệu Thị Trinh dũng cảm cầm búa nhảy lên đầu giáng xuống huyệt làm con voi lạ gục đầu xin qui thuận.

Khi nhà Ngô xâm lược đất nước gây nên cảnh đau thương cho dân chúng, khoảng 19 tuổi Triệu thị Trinh bỏ nhà vào núi xây dựng cǎn cứ, chiêu mộ nghĩa quân đánh giặc. Khi anh trai nhắn về nhà chồng, bà đã trả lời tỏ rõ khí phách của mình mà đến nay không mấy người Việt Nam là không biết: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá Kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng là tì thiếp người ta". Truyền thuyết kể rằng, nǎm 248 khi Triệu Thị Trinh khởi nghĩa trời đã sai đá núi loan tin tập hợp binh sĩ trong vùng. Đêm khuya từ lòng núi đá phát ra rằng: "Có Bà nữ tướng. Vâng lệnh trời ra. Trị voi một ngà. Dựng cờ mở nước. Lệnh truyền sau trước. Theo gót Bà Vương". Theo đó dân chúng trong vùng hưởng ứng nhiệt liệt, có người mang theo cả bộ giáp vàng, khǎn vàng.... dâng cho bà. Anh trai bà là Triệu Quốc Đạt được tôn làm Chủ tướng. Bà Triệu là Nhuỵ Kiều tướng quân (Vị tướng yêu kiều như nhuỵ hoa). Khi ra trận Bà mặc áo giáp vàng, chít khǎn vàng, đi guốc ngà, cưỡi voi một ngà. Quân Bà đi đến đâu dân chúng hưởng ứng, quân thù khiếp sợ. Phụ nữ quanh vùng thúc giục chồng con ra quân theo Bà Vương đánh giặc. Cho đến nay nhân dân vùng Thanh Hoá và lân cận còn nhiều câu ca, lời ru con nói về sự kiện này.

Sau hàng chục trận giao tranh với giặc, trận thứ 39 anh trai bà là Triệu Quốc Đạt tử trận, Bà Triệu lên làm chủ tướng và lập nên một cõi giang sơn riêng vùng Bồ Điền khiến quân giặc khó lòng đánh chiếm. Biết bà có tính yêu sự sạch sẽ, ghét tính dơ bẩn, quân giặc bố trí một trận đánh từ tướng đến quân đều loã thể. Bà không chịu được chiến thuật đê hèn đó phải lui voi giao cho quân sĩ chiến đấu rồi rút về núi Tùng. Bà quì xuống vái trời đất: "Sinh vi tướng, tử vi thần" (Sống làm tướng, chết làm thần) rồi rút gươm tự vẫn. Sau khi bà mất dân vùng Bồ Điền, Phú Điền vẫn nghe trên không trung tiếng cồng thúc quân, voi gầm, ngựa hí. Bà còn phù hộ cho nhiều thủ lĩnh sa này đánh tan quân xâm lược đất nước. Có người sau này lên làm ngôi vua, như Lý Bô, đã xây đền, lǎng mộ để ghi nhớ công ơn của Bà.

Đến nay chuyện Bà Triệu từ thế kỷ thứ II vẫn còn hằn đậm trong tâm thức mỗi người Việt Nam với lòng ngưỡng mộ và tự hào. Lǎng và đền thờ Bà vẫn còn mãi với thời gian tại huyện  Hậu Lộc tỉnh Thanh Hoá là di tích lịch sử quan trọng của quốc gia là bằng chứng về niềm tự hào một người phụ nữ liệt oanh của Dân tộc Việt Nam.



Phạm Thị Toàn

Vào thời giặc Lương đô hộ nước ta, ở trang Vân Lộng xứ Đông (nay là làng An Ninh, xã An Bình, huyện Nam Sách, Hải Dương) có ông Phạm Lương là người có chí khí, vợ mất sớm, ông ở vậy nuôi người con gái tên là Phạm Thị Toàn lớn khôn và luôn nhắc nhở con về nỗi đau mất nước.
Năm Tân Dậu (541), khi nghe tin hào trưởng Lý Bí ở đất Thái Bình dựng cờ khởi nghĩa, lãnh đạo nhân dân nổi dậy đánh đuổi bọn đô hộ, cha con ông Phạm Lương liền bán tài sản, nhà cửa để mộ quân tham gia ứng nghĩa cùng với hào kiệt, tù trưởng, thủ lĩnh các địa phương.
Phạm Thị Toàn, trong các trận chiến đánh giặc, tuy là phận nữ nhi nhưng luôn dũng cảm xông pha tên đạn, không quản gian khổ hiểm nguy và trở thành một nữ tướng nổi danh được quân dân mến trọng còn kẻ thù nghe tiếng nàng đã kinh hãi.
Khi đã ổn định được tình hình đất nước, tháng giêng năm Giáp Tý (544) Lý Bí lên ngôi tự xưng là Nam Việt Đế; ông chính là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử nước ta (sử quen gọi là Lý Nam Đế) và lấy niên hiệu là Thiên Đức,đặt quốc hiệu là Vạn Xuân Về chuyện hôn nhân, nghĩ đến người con gái xinh đẹp, nết na, lại giỏi văn chương, côn quyền từng lập không ít công trạng, Lý Nam Đế liền cho người đón Phạm Thị Toàn vào cung định lập làm vương phi nhưng nàng một mực chối từ mà nói rằng:
“Vì sự nghiệp phục quốc mà phận gái liễu bồ nghĩ cũng phải góp phần gánh vác, đó là tâm nguyện lớn lao không mong gì hơn. Nay việc lớn đã thành, chỉ xin cho thiếp ở lại chốn quê hương chăm sóc phần mộ cha mẹ, vui với cảnh ruộng đồng, hàng ngày nghe câu kinh tiếng kệ!”.
Biết khó lay chuyển ý định của nàng, Lý Nam Đế không muốn làm chuyện gượng ép nên đã chấp thuận thỉnh nguyện của Phạm Thị Toàn; từ đó bà ở lại quê nhà lập chùa tịnh tu cho đến khi mất. Sau khi bà qua đời, người dân đã lập đền thờ tôn bà làm thành hoàng.
Năm Quý Mùi (1103) niên hiệu Long Phù thứ 3 đời vua Lý Nhân Tông đã ban sắc phong cho Phạm Thị Toàn là “công chúa ni cô”, tương truyền bà rất linh thiêng, từng hiển linh giúp cho quân tướng nhà Trần đánh thắng giặc Nguyên Mông.
Còn ngôi chùa do bà lập ra còn tồn tại cho đến tận ngày nay, chùa có nhiều tên gọi khác nhau như chùa Vĩnh Khánh, chùa Trăm Gian, chùa An Ninh và là một danh tích nổi tiếng của xứ Đông.


Đệ tứ cung phi Ngọc Nương

Theo dã sử và thần tích xã Trâm Nhị (nay thuộc huyện Ân Thi, Hưng Yên) thì Ngọc Nương tên thật là Nguyễn Thị Ngọc, sinh ngày 15 tháng 7 năm Đinh Tỵ,  cha là Nguyễn Bộ, vốn dòng dõi hào trưởng ở trang Bảo Đài, huyện Lôi Dương, châu Ái (nay thuộc huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa), mẹ là Đặng Thị Châu (thường gọi là Châu Nương), quê ở giáp Đường, trang Đặng Xá, huyện Đường Hào, xứ Đông Hải (nay thuộc huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên).
Tương truyền rằng một đêm bà Châu Nương nằm ngủ, mộng thấy bay lên trời, đến cung Quảng bẻ được một cành quế đỏ và hái được một bông hoa lan, giật mình tỉnh dậy biết là nằm mộng, sau đó có thai rồi sinh được một người con trai tướng mạo hùng vĩ, khác thường đặt tên là Nguyễn Chiêu (thường gọi là Chiêu Công).
2 năm sau, bà Châu Nương lại có mang, trước khi chuyển dạ chợt thấy một con chim xanh bay vào trong phòng màu sắc sặc sỡ, kêu lên 3 tiếng rồi bay mất, kế đó sinh ra một bé gái xinh xắn, đặt tên là Nguyễn Thị Ngọc (thường gọi là Ngọc Nương).
Từ nhỏ cho đến khi trưởng thành, Chiêu Công đã nổi tiếng văn hay, võ giỏi, nhiều người theo phục; còn Ngọc Nương thông minh học một biết mười, đức hạnh và nữ công không gì không có, là một thiếu nữ nhan sắc khuynh thành.
Lại nói về Triệu Việt Vương, sau khi quét sạch giặc ngoại xâm, ông đi thăm một số vùng miền để tìm hiểu đời sống dân chúng. Một hôm xa giá ngự đến huyện Đường Hào thì dừng lại nghỉ ngơi, đêm ấy, vua nằm mơ thấy có một nam, một nữ đến nói là hai anh em ruột quê ở Bảo Đài đến xin giúp nước, anh tên là Chiêu, em tên là Ngọc.
Sáng hôm sau, Triệu Việt Vương đến giáp Đường, trang Đặng Xá thì người dân kéo đến đầy đường để bái chào và xem mặt vua, Ngọc Nương cũng tò mò ra xem. Trong đám đông ấy, vua bất chợt nhìn thấy một cô gái dung mạo giống hệt người trong mộng đêm trước bèn gọi đến hỏi chuyện.
Khi Ngọc Nương trả lời cho biết tên họ, quê quán, Triệu Việt Vương vừa vui mừng vừa kinh ngạc không rõ đây có phải là cô gái trong giấc mơ của mình không, ông liền hỏi: “Phải chăng nhà nàng còn có một người anh tên là Chiêu?”.
Lúc này thì đến lượt Ngọc Nương ngạc nhiên trả lời đúng là có người anh như vậy, nhà vua liền cho truyền gọi Chiêu Công đến thì thấy giống hệt người thanh niên trong mộng. Cho là điềm báo tốt lành, Triệu Việt Vương ban thưởng cho dân trang Đặng Xá 3.000 quan tiền và nói với mọi người rằng:
“Chiêu Công, Ngọc Nương thực là thần nhân chốn nhân gian, được trời cho giáng xuống ở đất này, nay trẫm ban thưởng cho dân chúng được làm hộ nhi nơi Chiêu Công ở”.
Sau đó, vua cho 2 người đi theo về kinh rồi phong Chiêu Công làm Quản lĩnh thủy bộ tướng quân, còn Ngọc Nương được phong làm Đệ tứ cung phi, mỹ hiệu là Xuân Hoa.
Trước khi theo vua, 2 anh em về nhà lạy tạ cha mẹ, sửa sang nhà cửa, ban tặng vàng bạc cho người dân xây dựng một hành cung để có chỗ nghỉ ngơi mỗi khi trở lại thăm quê.
Ngọc Nương, sống trong cung cấm, được vua sủng ái nhưng suốt 10 năm liền nhưng không sinh được người con nào bèn xin xuất gia tu Phật, Triệu Việt Vương biết khó giữ được người đẹp đành đồng ý cho nàng về quê gốc ở trang Bảo Đài, huyện Lôi Dương, châu Ái tu hành tại một ngôi chùa.
Ít lâu sau, vua lại cấp tiền bạc cho Ngọc Nương sửa sang ngôi chùa ở giáp Đường, trang Đặng Xá để làm nơi tu hành, lại còn truyền đặt pháp hiệu là Diệu Phương, tên tự là Pháp Tuân.
Năm Canh Dần (570), Triệu Việt Vương do chủ quan không phòng bị, khi quân của Lý Phật Tử tiến đánh đã thua trận nhanh chóng, ông chạy đến cửa biển Đại Nha thì tự tử.
Ngọc Nương, dù ở chốn cửa thiền, xa rời cuộc sống trần tục nhưng bà vẫn quan tâm đến tình hình đất nước, nghe tin chồng rồi anh đều mất, lòng đau xót vô cùng bèn tắm gội sạch sẽ, ngồi tụng kinh niệm Phật sau đó uống thuốc độc tự vẫn mà chết, người dân giáp Đường thương tiếc người phụ nữ trung trinh đã tổ chức an táng chu đáo, lại dựng miếu thờ cúng.
Đến thời Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân có làm lễ khấn tại nơi thờ anh em Chiêu Công, Ngọc Nương xin âm phù thắng trận thấy linh ứng.
Sau khi nhà Đinh thành lập, tướng Đinh Điền dâng sớ tâu xin phong mỹ tự cho 2 thần, vua Đinh Tiên Hoàng đã sắc phong cho Chiêu Công làm Thượng đẳng phúc thần, hiệu là Phong Hiển linh ứng thông, Chiêu Thánh đô úy khang tiết đại vương; Ngọc Nương là Đoan Trinh quảng đức Diệu Phương, Pháp Tuấn từ bi Xuân Hoa công chúa”.



Cảo Nương


Triệu Việt Vương có người con gái tên là Cảo Nương rất xinh đẹp nên Lý Phật Tử đã cậy người mai mối, xin hỏi Cảo Nương về làm vợ cho con trai mình là Nhã Lang (cũng tức là Bát Lang). Vì quý trọng người cùng họ với Lý Nam Đế, lại thấy hai bên đã tổ chức ăn thề hoà hiếu với nhau, Triệu Việt Vương đã không chút nghi ngờ, gả ngay Cảo Nương cho Nhã Lang, hơn thế nữa. còn chấp nhận cho Nhã Lang được đến ở rể ngay trong thành Long Biên. Sự kiện này xảy ra trong năm 557, tức là ngay sau khi năm trận ác chiến giữa đôi bên vừa kết thúc. Và, kịch bản hiểm độc cũ của Triệu Đà đã được Lý Phật Tử cho tái diễn gần như nguyên vẹn : Triệu Việt Vương hoàn toàn tin ở con rể, tin ở thông gia, tin ở con gái... tin đến mức hoàn toàn mơ hồ và mất hết cả cảnh giác. Triệu Việt Vương bị thất bại, chạy đến cửa Đại Nha 6 và nhảy xuống biển tự tử. Kể từ đó, Lý Phật Tử nắm quyền cai trị toàn cõi.



Khúc Thị Ngọc

KhúcThị Ngọc (còn gọi là công chúa Quỳnh Hoa), con gái Tiên chúa Khúc Thừa Dụ, là em gái Trung chúa Khúc Hạo, quê ở Cúc Bồ trang, đất Hồng Châu, nay thuộc đất Cúc Bồ, Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tinh Hải Dư­ơng.
Tư­ơng truyền, thuở nhỏ  Khúc Thị Ngọc thông minh,  ư­a hoạt động, quảng giao và ý chí mạnh mẽ hơn ngư­ời, sớm bộc lộ biệt tài về đầu óc tổ chức. Tuy con nhà gia thế nh­ưng nàng ham bơi lội, đua thuyền . Trong thời gian cùng sống với cha tại phủ Tống Bình, công chúa Quỳnh Hoa  đ­ược tham gia bàn kế an dân giữ n­ước.
Từ khi Tiên chúa Khúc Thừa Dụ qua đời, Khúc Hạo thay cha trị vì đất nư­ớc, nàng đã xin ngư­ời anh cho mình đ­ược để tâm tìm m­ưu kế phát triển dân sinh.
 Tuy là con nhà cành vàng lá ngọc, sống trong nhung lụa nh­ưng công chúa Khúc Thị Ngọc lại là ng­ười thuần hậu, th­ương dân. Bà tự nguyện dời cảnh lầu son về vùng nông thôn, giúp dân nghèo khai phá ruộng sình lầy phía nam thành Đại La trở thành ruộng v­ườn, làng mạc, chợ búa sầm uất đông vui. Bà thân đi  bảo ban, hư­ớng dẫn dân chúng xây chùa, tu nhân tích đức  sống l­ương thiện; dạy dân học cách làm nghề canh cửi, tầm tang làm nên cuộc sống an lạc, mà ng­ười cha từng chủ trư­ơng xây dựng đất nư­ớc tự chủ bấy giờ.Quỳnh Hoa  Công chúa đã hết lòng vì cuộc sống yên bình của muôn dân, cho đến khi sức kiệt, trút hơi thở trên cánh đồng làng Vĩnh Mộ, thuộc huyện Thư­ờng Tín, Hà Tây ngày nay. Dân trong vùng th­ương tiếc bà, đã lập đền thờ tôn là Thánh Mẫu. Rằm tháng Ba hàng năm dân chúng quanh vùng đều tổ chức lễ rư­ớc linh đình. Cũng vì ngư­ỡng vọng bà, nên trong dân gian còn để lại câu chuyện truyền thuyết rằng: Khi ở phủ Tống Bình,  một hôm bà đi thuyền dạo chơi Tây hồ, gặp mư­a to, bèn vào chùa Trấn Quốc thỉnh chuông niệm Phật. Tiếng chuông ngân lên thì từ hồ Tây có con trâu vàng hiện lên năn nỉ xin theo hầu.
Bà Khúc Thị Ngọc dời chùa, xuống thuyền theo dòng Kim Ng­ưu, con trâu vàng rẽ n­ớc băng lên phía tr­ớc dẫn lối. Kỳ lạ thay, thuyền bà l­ớt tới đâu, thì lạch n­ước thành sông, bãi lầy thành đồng ruộng. Các làng xóm, chợ búa mọc lên theo. Đến khi thuyền dừng lại thì vào một nơi có phong cảnh đẹp. Gặp một làn nứơc trong mát, bà xuống tắm. Xong rồi bà đi lên gò cao, trút bỏ xiêm y rồi biến.  Dải yếm đào bà  để lại, đã hoá thành một dải ruộng đồng  dài hàng cây số từ thôn Vĩnh Mộ qua thôn Cổ Chất đến thôn Ph­ượng Cù ngày nay.
Đền thờ bà chúa dựng trên gò đất cao tại đầu làng Vĩnh Mộ, gần sông Nhuệ, thuộc xã Nguyễn Trãi, huyện Thư­ờng Tín, tỉnh Hà Tây (Hà Nội bây giờ). Ban đầu, đền chỉ là túp lều tranh, dựng sơ sài, xung quanh là đồng chiêm trũng. Đến khi vua Lý Thái tổ lên ngôi, dời đô từ Hoa Lư­ về La Thành, đổi tên là Thăng Long, vua bèn ban sắc chỉ cho dân chúng trong vùng tôn tạo xây đình chùa, và nhân đó ba làng Vĩnh Mộ, Cổ Chất, Ph­ương Cù công đức xây thành ngôi miếu lộ thiên hình ngai để thờ Bà.

Trần Nương

Sứ quân Trần Lãm có 2 người em trai là Trần Thăng, Trần Nguyên Thái và một người con gái “sắc nước hương trời”, “chim sa cá lặn” tên là Trần Nương.
Ngay từ khi Đinh Bộ Lĩnh đến doanh phủ họ Trần ở Bố Hải Khẩu (cửa Bố), Trần Nương đã đem lòng yêu mến, rồi tình cảm giữa hai người nảy nở, “trai anh hùng, gái thuyền quyên”, họ quấn quýt thề thốt đá vàng ân nghĩa.
Một hôm, bất ngờ Trần Lãm gọi hai người đến trước trướng quân rồi nói rằng đã biết chuyện và ông rất vui mừng nếu đôi trẻ nên duyên vợ chồng. Sau lễ thành hôn được tổ chức long trọng, Trần Lãm lại nói với Đinh Bộ Lĩnh rằng:
“Ta phận mỏng, phúc sơ, không có con trai nối dõi. Việc quân binh ngày một khó nhọc gian nan, trong khi nước nhà vô chủ, bốn phương nổi dậy xưng hùng xưng bá, đánh giết lẫn nhau.
Tướng quân tuy là giai tế (con rể) của ta nhưng ta coi như con đẻ của mình. Ta nay đã già, sức không cáng đáng nổi việc binh nhung nên mới quyết định trao lại toàn bộ binh quyền cho con thống lĩnh, định đoạt việc quân cơ, còn ta lui về vui thú điền viên”.
Tiếp đó Trần Lãm cho nổi trống hiệu, hội các tướng lại cùng tế cáo trời đất và tuyên đọc bài cáo trao ấn kiếm, cờ hiệu cho Đinh Bộ Lĩnh rồi cùng một toán gia nhân thân cận đi chu du thiên hạ.
Có được quân binh của Trần Lãm trao cho, thế lực của Đinh Bộ Lĩnh được gia tăng nhanh chóng, nhưng nhận thấy Bố Hải Khẩu ba mặt là đồng ruộng, sông dài, giáp biển lớn mênh mông, không có thế công, thế thủ nên mới bàn với Trần Nương rồi quyết định đem toàn bộ quân trở về quê cũ Hoa Lư, lấy đây làm căn cứ bởi nó vùng núi rừng hiểm yếu, lại có sông Hoàng Long dễ ngược xuôi bằng đường thủy.
Lại nói về Trần Nương, kết duyên với Đinh Bộ Lĩnh được hơn một năm thì mang thai, đủ ngày tháng bà sinh hạ một người con trai đặt tên là Đinh Liễn.Đây là con trưởng của Đinh Bộ Lĩnh, càng lớn Đinh Liễn càng khôi ngô, tuấn tú, thông minh sáng láng hơn người, lại oai phong hùng dũng để rồi trở thành trợ thủ đắc lực, theo vó ngựa của cha đi chinh chiến, lập nhiều công trạng.

Thái Hậu Dương Vân Nga

Thái Hậu Dương Vân Nga là vợ vua Đinh Tiên Hoàng. Sau khi vua Đinh mất (năm 979, bị Đỗ Thích ám hại), tự quân còn nhỏ lại được tin nhà Tống muốn thừa cơ sang chiếm nước ta, Bà đã đồng ý với tướng Phạm Cự Lượng và binh sĩ tôn Lê Hoàn lên ngôi thay Đinh Tuệ để chống lại sự xâm lăng của nhà Tống. Bà đã tự tay lấy áo hoàng bào khoác lên vai Lê Hoàn, và trở thành Hoàng Hậu của triều Tiền Lê.
Dương Vân Nga là con gái của ông Dương Thế Hiển quê ở Nho Quan, Ninh Bình. Vân Nga là tên ghép của 2 làng quê mẹ là Vân Lung (Gia Vân, Gia Viễn) và quê cha là Nga My (Gia Thủy, Nho Quan, cũng là quê ngoại Đinh Bộ Lĩnh)
Bà tên thật là Dương Thị Cảnh (?) (theo Hoàng Công Khanh), cũng có sách chép là Dương Thị Lập (theo Từ Điển NVLSVN), không rõ năm sinh năm mất. Theo Hoàng Công Khanh (Sách Hoàng Hậu Hai Triều Dương Vân Nga), bà mất năm 1000, (trước vua Lê Đại Hành 5 năm; Lê Đại Hành mất năm 1005) thọ 58 tuổi.
Xét về đạo đức theo Nho giáo, “Trai trung không thờ hai chúa, gái ngoan không lấy hai chồng”, việc làm của bà Dương Vân Nga tuy được dân chúng “bỏ qua”, nhưng thường bị các nhà Nho phê phán.
Đối với chúng ta ngày nay, quan niệm “ở vậy nuôi con” không còn hợp thời nữa, mà phải tùy trường hợp, mà châm chước. Kể cả ngày xưa cũng vậy, tùy hoàn cảnh mà xử lý, không thể áp dụng lý thuyết “tam tòng” một cách cứng ngắc được.
Cũng theo Hoàng Công Khanh, có câu hát ru con theo truyền thuyết ở vùng Hoa Lư như sau:
“Nín đi thôi! Nín đi thôi!”
“Một mai gánh vác cả đôi sơn hà”
“Vạc Đinh đã trở về Lê”
“Nàng Dương chăn gối lại trở về chính cung”
Cuộc đời của bà Dương Vân Nga gặp nhiều sóng gió. Tuy nhiên Bà là một người đàn bà sắc sảo, quả cảm, ý chí cương quyết khi hành động nhưng chan chứa tình cảm.
Hoàng Hậu hai triều Dương Vân Nga được người đời sau nhắc nhở bằng mấy câu thơ sau (theo Hoàng Công Khanh)
“Hai vai gồng gánh hai vua”
“Hai triều, Hoàng hậu tu chùa Am tiên”
“Theo chồng đánh Tống bình Chiêm”
“Có công với nước, vô duyên với đời”




 Nguyễn Thị Hoa Nương

 Nguyễn Thị Hoa Nương, quê ở trang An Lạc, đất Quảng An thuộc Ái châu (nay là huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa).
Tương truyền rằng cha mẹ cô là ông Nguyễn Nhân và bà Hoàng thị, ăn ở hiền lành, tu nhân tích đức, ham làm việc thiện, họ lấy việc cấy cầy làm nghề nghiệp, cuộc sống tuy không đầy đủ nhưng rất an hòa, hạnh phúc, chỉ hiềm một nỗi mãi không sinh được mụn con nào.
Một hôm, vào giữa trời tháng 6 rất nóng nực, oi bức, bà Hoàng thị mới ra ngồi hóng mát trên một cái gò đất nhỏ trong làng có hình một con rùa, thường được gọi là gò Kim Quy; được một lát thì bỗng thấy trong người bàng hoàng, bụng đau ngâm ngẩm.
Từ đó bà có mang, đủ 9 tháng 10 ngày, đúng giờ Ngọ ngày 12 tháng 2 năm Canh Tuất (950) bà Hoàng thị sinh hạ một người con gái, bấy giờ hương thơm ngào ngạt lan tỏa khắp nhà, ai ai cũng cho đó là điềm lạ, phúc lành. Hai vợ chồng ông Nguyễn Nhân đều rất vui mừng, họ đặt tên con là Hoa Nương và nâng niu, chăm sóc cô bé chu đáo, cẩn thận.
Thời gian dần trôi qua, cô bé Hoa Nương ngày nào càng lớn càng trở nên xinh đẹp lạ thường, tóc dài đen nhánh, mắt phượng mày ngài, môi đỏ như son, miệng cười tươi như hoa chúm chím nở.
Dân làng ai cũng yêu quý nàng, nhớ đến chuyện lạ về mùi hương thơm khi Hoa Nương sinh ra, họ đồn rằng có lẽ cô là một nàng tiên nữ giáng xuống trần gian. Chuyện kể rằng vào năm Hoa Nương tròn 16 tuổi, một hôm vào giữa trưa nắng gắt, khi cô gái đang thả trâu ăn cỏ ở bãi ven sông thì bỗng đâu xuất hiện một người đàn ông mặc quan phục tiến đến nói rằng:
“Ta với nàng có nhân duyên tiền định, chẳng bao lâu sẽ được gặp nhau”. Nói xong thì người đó biến mất, Hoa Nương cho là điềm quái gở, lấy làm lo sợ bèn về kể lại cho cha mẹ biết rồi làm lễ cúng giải hạn.
Hai năm sau, khi bước vào tuổi 18, nhan sắc của Hoa Nương lại càng lộng lẫy, kiêu sa, biết bao chàng trai xa gần nghe tiếng đồn về cô gái xinh đẹp, tài giỏi đã tìm đến làm quen, xin cầu hôn nhưng nàng không nhận lời ai cả.
Vẻ đẹp của Hoa Nương còn đồn đến tận kinh đô Hoa Lư, vua Đinh Tiên Hoàng lúc đó dù đã lập 5 hoàng hậu là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ Quốc và Ca Ông, chưa kể các phi tần khác nhưng cũng muốn có thêm một mỹ nhân trong chốn hậu cung của mình.
Nhà vua cho người mang lễ vật đến tận trang An Lạc mời vợ chồng ông Nguyễn Nhân về triều, ngỏ ý muốn tuyển con gái họ vào làm vương phi. Được hoàng đế để mắt đến, khác nào nhận được vinh dự lớn lao, vợ chồng ông Nguyễn Nhân mừng rỡ trở lại quê nhà thuyết phục, rồi cố gò ép nhưng Hoa Nương nhất quyết từ chối.
Nàng nói rằng: “Con quen vui sống cảnh thôn quê, khó mà chịu được những gò bó, lễ nghi trong cung đình; sống như thế khác nào cảnh chim lồng, con nguyện ở vậy để chăm sóc, phụng dưỡng song thân cho đến tuổi trời, chứ không vì phú quý mà đem thân mình vào chốn nhung lụa lắm thị phi”.
Chẳng còn cách nào khác để con gái thay đổi chủ ý, cha mẹ Hoa Nương đành viết đơn gửi về triều xin nhận tội nhưng vua Đinh có lẽ hiểu được tâm sự của cô gái nên không nhắc đến chuyện đó nữa.
Còn Hoa Nương, sợ rằng vì mình mà cha mẹ bị vua trừng phạt nên đã tìm đến cái chết để kết thúc sự khúc mắc, khó xử khi ấy. Một đêm nàng ra sau nhà ngửa mặt than trời rồi tự vẫn; sáng hôm sau cha mẹ và hàng xóm đi tìm thì thấy Hoa Nương vẫn ngồi như lúc còn sống.
Mọi người ai cũng lấy làm xót thương, liền đưa thi hài cô gái hồng nhan mà mệnh bạc về táng trên gò đất Mộc Tinh ở làng. Đúng ba tháng sau, dân làng thường nghe văng vẳng tiếng Hoa Nương ca hát, vui cười trên không, biết là nàng hiển linh, mọi người mới bàn nhau lập miếu thờ phụng gọi là miếu bà Chúa tối linh.
Đến thời Lê Hoàn thay triều Đinh trị nước, một lần vua thân cầm quân đi đánh giặc quấy nhiễu biên cương phương Nam có qua miếu bà Chúa, bèn sắm hương hoa, làm lễ cầu khấn thần âm phù tế độ cho quan quân thắng trận.
Sau đó quân đi đến đâu, giặc tan vỡ đến đó, cho là được bà Chúa phù hộ, trên đường trở về Hoa Lư, vua Lê Hoàn đã cho lập đàn tạ lễ, lại ban tiền bạc để tu sửa miếu và sắc phong bà chúa Hoa Nương mỹ hiệu là:
“Hiển tế Anh linh Tiên thiên Thánh nữ Hiển ứng Thượng đẳng tối linh Công chúa”. Các triều đại sau này cũng cấp tiền và miễn tạp dịch cho dân làng An Lạc một vài năm để tu sửa miếu mạo và lo việc tế tự bà chúa.

Bà Phạm Thị Trân -  Tổ nghề hát chèo.

Bà Phạm Thị Trân, sinh năm 926, mất năm 976, quê quán: Hồng Châu (ngày nay gọi là tỉnh Hải Dương và Hưng Yên). Bà vốn là một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh vào thế kỷ 10. Bà luôn giữ vai trò chủ chốt trong các nhóm, các đoàn đi múa hát và làm trò thời đó. Vua Đinh Tiên Hoàng đã cho mời bà về Hoa Lư (kinh đô của Việt Nam lúc đó) và phong cho bà chức Ưu bà - chịu trách nhiệm dạy quân lính múa hát, đánh trống, gẩy đàn, diễn các tích trò, lúc đó gọi là hát trò nhời hay gọi là hát chèo.
Lời ca tiếng hát của bà được các quan khách và người dân lao động hết lời ca ngợi, người xem bà múa hát đã thốt thành thơ:
 Múa hát như muốn hát bàn đào
Hát giục mây bay, giục gió ào
Tiếng hát kinh hồn quân bạc ác
Lời than làm nhỏ lệ đồng bào.
Đồng thời những lời ca tiếng hát của bà cũng chứa đầy tinh thần thượng võ, yêu nước. Trong sách "Đả cố lục” còn ghi lại: cách rước trống chèo nhà Đinh của bà Phạm Thị Trân đã có sức cổ vũ lớn đối với tinh thần chiến đấu của quân sĩ. Nghệ thuật hát chèo manh nha từ thời đó. Cả vùng quê rộng lớn Hải Dương, Hưng Yên phát triển hát chèo. Cũng chính nơi đây sau này đã cung cấp cho ngành hát chèo Việt Nam những nghệ nhân ưu tú, tài ba và góp phần truyền thụ cho thế hệ sau thừa kế một nền nghệ thuật dân tộc độc đáo đã đi vào đời sống của nhân dân Việt Nam hàng ngàn năm nay.
Ngày nay vào dịp tháng giêng, tháng hai sau vụ gặt lúa, nhân dân vùng Hải Dương, Hưng Yên lại tổ chức hội làng, trong đó hát chèo giữ một vai trò quan trọng và ngày 18-2 âm lịch hàng năm, người dân 2 vùng này lại tổ chức giỗ bà Phạm Thị Trân – bà tổ nghề hát chèo. Trong các nhà thờ, chùa của các làng bài vị thờ bà thường đặt chính giữa.

Bà Chúa Tó- Đô Hồ Phu Nhân

Bà Chúa Tó - một người con gái đã vận động nhân dân vùng Hữu Thanh Oai đóng thuyền, vùng Tả Thanh Oai góp lương thực cho quân Lê Hoàn đánh trận - còn chính bản thân mình lại làm ra loại bánh dùng làm lương khô cho quân lính - đó chính là loại bánh chè lam - đặc sản trong ngày hội làng... Người được vua phong thứ phi- một trong năm hoàng hậu của Lê Hoàn. 
Tương truyền: Một hôm, qua ấp Hoa Xá ở Tả Thanh Oai, tạm dừng quân để lấy binh lương, giờ Ngọ, nhà vua trông thấy một người con gái cùng gánh gạo trong đám dân công. Cô đội nón lá, mặc áo vải thô, mắt sáng, mày thanh, mặt xinh như ngọc, miệng cười tươi như hoa. Trong phút nghỉ ngơi, cô xuống sông vốc nước rửa tay. Trên trời có đám mây năm sắc che thân. Nhà vua cho rằng người con gái đó không phải bình thường. Rồi đem lòng thầm ước nhưng mặt ngoài còn e.  
Ít lâu sau, thiên hạ thái bình. Quân sĩ reo ca khải hoàn rước vua về kinh đô Hoa Lư. Nhà vua mở tiệc thưởng người có công. Các đình thần tôn tặng vua Lê mỹ hiệu “Minh càn ứng vận thần vũ thăng binh, trí nhân, quảng hiếu Đại Hành hoàng đế. Lê Hoàn chọn ngày ngự giá Bắc tuần, thăm hỏi dân làng. Ngày về tại ấp Hoa Xá: bên tả giang, mời già trẻ trong ấp cùng đến dự yến. Rồi cho vời nàng Đô Hồ, ban quần gấm áo ngự, phong làm quý phi. Sai bà tắm gội, thay áo mũ, cùng sánh xa giá về kinh. 
Lúc đó bà con, họ hàng và dân ấp đều vui mừng lấy làm vinh hiển.  Vua Lê lại cấp ruộng đất, tiền của để bà đóng thuyền thả sông và lập cung điện ở vườn cũ, gọi là “Đô Hồ phi cung”.  Khi vua băng hà “dân ấp Hoa Xá có lập đền thờ để tưởng nhớ ơn đức giúp dân, ghi tạc công lao phá Tống của ngài”.  

Lúc thánh phi mất, dân làng hàng năm cúng giỗ. Nơi ở cũ của bà dựng lầu Minh Ngự. Nhà cung phi sửa thành miếu điện.  Từ đó, miếu - đình Hoa Xá là nơi phối thờ hai vị và hồn thơm hiển ứng, đời đời linh thiêng giúp cho dân làng”.


Chi hậu Diệu Nữ

Ngoài 5 hoàng hậu, vua Lê Đại Hành còn có nhiều phi tần khác và bà Chi hậu Diệu Nữ là một người trong số đó. Bà là thân mẫu của Lê Trung Tông và Lê Ngọa Triều.
Điều đáng quan tâm là xuất thân của bà, trong sách Việt sử lược chép bà là “sơ hầu di nữ” (con gái người hầu gái người Di), còn sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chú thích rằng bà là con gái quan Chi hậu, tên là Diệu, không rõ họ gì .Đây là một điều rất lạ vì khi nhắc đến thân mẫu của các vị vua, sử sách thường chép họ và thân thế, nhưng ở đây lại không cho biết họ, xuất thân mà chỉ viết kèm theo tên một chức vụ trong nội cung là Chi hậu và tên bà có thể là Diệu.
Có quan điểm cho rằng, bà Diệu Nữ là người Chiêm, bà sinh hoàng tử Lê Long Việt năm Quý Mùi (983) sau khi Lê Đại Hành ở ngôi được ba năm và sau khi vua chinh phạt Chiêm Thành trở về với chiến công được sử sách mô tả như sau: “Chiêm Thành thua to, bắt sống quân sĩ không biết bao nhiêu mà kể; bắt được kỹ nữ trong cung trăm người và một nhà sư người Thiên Trúc, lấy các đồ quý đem về, thu được vàng bạc của báu kể hàng vạn” (Đại Việt sử ký toàn thư). Nếu đúng bà Diệu Nữ là một cung nữ bị bắt về nạp vào trong cung từ năm Nhâm Ngọ (982) thì có thể nói hai vua Lê Trung Tông và Lê Ngọa Triều mang trong mình một nửa dòng máu Chiêm Thành và có lẽ đây là nguyên nhân dẫn đến những xáo trộn trong cung đình nhà Tiền Lê.
Theo dã sử, bà Chi hậu Diệu Nữ sau một lần đi cầu tự, lúc trở về cung nằm mơ thấy hai con rồng từ trên trời bay xuống hóa thành hai đứa bé trai tranh nhau mặt trời, một đứa nói: “Ta là anh, sao dám tranh giành với ta?”, đứa bé kia ngần ngừ một lát rồi trao trả mặt trời sau đó quay đi, nhưng suy nghĩ một lát nó chạy lại cầm dao đâm anh gục xuống mà nói: “Mặt trời là của báu của thiên hạ, anh thì anh ta cứ giành cho được”, sau đó cướp lấy mặt trời chạy đi.
Bà Diệu Nữ giật mình tỉnh giấc, lòng lo lắng bất an. Ít lâu sau bà có mang, đến năm Quý Mùi (983) sinh một người con trai, nhớ lại giấc mơ rồng giáng hạ mới đặt tên con là Long Việt; năm Bính Tuất (986) sinh thêm một người con trai nữa đặt tên là Lê Long Đĩnh. Hai người con sau này đều làm vua, đó chính là Lê Trung Tông và Lê Ngọa Triều, bà được truy tôn hiệu là Hưng Quốc quảng thánh Hoàng thái hậu, và bi kịch em giết anh cướp ngôi đã diễn ra đúng như trong giấc mộng năm xưa của bà.



Công chúa Phất Kim

Sử sách chép rằng, trong số ba công chúa của Vua Đinh Tiên Hoàng thì Phất Kim mang số phận tủi buồn nhất. Cô được vua cha sắp xếp gả cho sứ quân hàng đầu dòng dõi quý tộc Ngô Nhật Khánh nhằm thu phục dưới trướng.
"Tướng quân Ngô Nhật Khánh là người thao lược vào bậc nhất nhưng chưa thực sự tận trung vì sự nghiệp của cha, giặc Tống và Giặc Chiêm đang lăm le bờ cõi, nếu được Nhật khánh giúp thêm vây cánh thì Đại Cồ Việt ta còn gì bằng... Cha muốn con ưng thuận lời thỉnh cầu của Nhật Khánh, để lấy tình phu phụ thuyết phục Nhật Khánh giữ trọn đạo hiếu trung”, Vua Đinh dạy bảo công chúa.
Tuy nhiên, theo sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nhật Khánh là bà con của Ngô Tiên Chúa (tức Ngô Quyền), lúc nào cũng nuôi chí phục thù, mong dựng lại cơ đồ nhà Ngô... Một hôm, sau khi nhận được mật thư của vua Chiêm thông báo sẵn sàng chu viện binh lính đánh Đại Cồ Việt, Ngô Nhật Khánh đem vợ chạy sang Chiêm Thành.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết: "Ngô Nhật Khánh dẫn vợ là công chúa của Đinh Tiên Hoàng đi trốn. Tới cửa biển Nam Giới (tức là cửa Sót, nằm ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay), hắn rút dao bên mình ra, xẻo má vợ mà kể tội: Cha mày đã lừa gạt để ức hiếp mẹ con ta. Ta có đâu lại vì mày mà bỏ qua tội ác của cha mày. Thôi, mày hãy trở về, ta sẽ một thân một mình đi tìm ai có thể cứu được ta đây...". Nói xong, vị phò mã của vua Đinh sang thuyền chiến cạnh đó hối thúc quân chèo, bỏ lại lâu thuyền công chúa và những nữ hầu.
Phất Kim được đưa về kinh thành Hoa Lư chạy chữa thuốc men, tuy vết thương trên mặt đã lành, nhưng vết sẹo trên má không bao giờ có thể làm nguôi được nỗi đau đớn, tủi nhục trong lòng của một người vợ có chồng là tướng quốc, là phò mã, mà lại theo giặc ngoại bang để chống lại vua cha. Cuối cùng, công chúa út đã xuống tóc, đi tu trong một ngôi chùa ở Kinh thành Hoa Lư.
Thế nhưng, họa vô đơn chí! Trong lúc nỗi đau đớn tuyệt vọng lên đỉnh điểm thì vua cha và anh cả Đinh Liễn lại bị nghịch thần là Đỗ Thích sát hại. Lê Hoàn cùng hoàng hậu Dương Vân Nga lên làm nhiếp chính. Giữa lúc ấy, Phất Kim lại nghe tin Ngô Nhật Khánh và vua Chiêm Thành dẫn hơn một nghìn chiến thuyền thuỷ quân xuất chinh theo hai cửa biển Đại Ác và Thần Phù vào đánh Đại Cồ Việt thì bị phong ba nổi lên, nhận chìm hết cả thuyền bè và bị chết đuối. Công chúa càng trở nên đau đớn, xót xa và tủi nhục đến tuyệt vọng. Bà nhảy xuống giếng nước lầu Vọng Nguyệt, phía tây bắc kinh thành Hoa Lư tự vẫn.

Hoàng hậu Lập Giáo 

Hoàng hậu Lập Giáo  tên là Lê Thị Phất Ngân, là công chúa của Lê Đại Hành. Đến tuổi trưởng thành, bà được phụ hoàng gả cho Lý Công Uẩn. Đến ngày 26 tháng 6 năm Canh Tí (1000), bà đã hạ sinh cho Lý Công Uẩn một người con trai, đặt tên là Lý Phật Mã.
Tiếp nhận thành công ngai vàng nhà Tiền Lê, vấn đề đặt ra trước hết cho Lý Thái Tổ là phải thu xếp hoàng tộc nhà Tiền Lê như thế nào để vừa giữ được ngai vị vừa không để lại di họa về sau. Lý Thái Tổ có cách nghĩ rất cao minh. Cách hành xử của ông cũng cao minh không kém. Ông đã dựa vào địa vị là con rể của cựu triều, thông qua việc đối đãi với đích phu nhân để làm yên lòng những người thuộc hoàng tộc họ Lê. Bằng cách vượt lên trên điển lễ, dành cho hoàng hậu Lập Giáo quy chế xe kiệu, áo mũ vượt hơn các hoàng hậu còn lại, Lý Thái Tổ đã cùng lúc đạt được hai mục đích:
Thứ nhất, bày tỏ cho thiên hạ biết ông là người hiếu nghĩa. Lập Giáo là công chúa nhà Lê, đối xử đặc biệt với Lập Giáo cũng tức là chứng tỏ được lòng biết ơn to lớn của ông đối với tiền triều, nơi mở đầu hoạn lộ và đế nghiệp của ông.
Thứ hai, dành cho Lập Giáo nghi vệ hơn hẳn bình thường và lập con bà làm Thái Tử, Lý Thái Tổ đã xoa dịu và đẩy lùi được nỗi oán giận của hoàng tộc nhà Lê đối với tân triều, giúp ông có điều kiện dồn tâm lực xây dựng vương triều và đất nước. Còn Lập Giáo hoàng hậu cũng không phải bận tâm về tương lai của dòng họ mình .
Khi Lý Thái Tổ quyết định dời đô, Hoàng hậu Lập Giáo  đã xin ở lại để thờ phụng phần mộ của Vua Lê Đại Hành vì các anh của bà đều đã bị giết và bỏ trốn khỏi Hoa Lư. Cuối đời bà tu hành tại chùa Duyên Ninh và khuyên dạy cho nhiều đôi lứa nên chùa Duyên Ninh trở thành ngôi chùa cầu duyên từ đó.
Năm 1028, Lý Thái Tổ mất. Thái Tử Lý Phật Mã nối ngôi đã phong Lập Giáo hoàng hậu làm Linh Hiển Hoàng Thái Hậu.

Thượng Dương hoàng hậu


Dương Hồng Hạc vốn là con của Dương Đức Uy và là cháu gọi hoàng hậu Thiên Cảm, vợ vua Lý Thái Tông, bằng cô. Khi hoàng hậu Thiên Cảm được vua Lý Thái Tông sủng ái, cha của bà là Dương Đức Thành được phong làm Tể Tướng. Từ đó thế lực họ Dương được hình thành như: Dương Đạo Gia, Dương Đức Uy, Dương Đức Thao, Dương Đức Huy… ba thế hệ lần lượt nắm giữ các chức vụ quan trọng trong triều. Để tạo thêm thế lực cho họ Dương, hoàng hậu Thiên Cảm đã đem đứa cháu gọi bằng cô ruột là Dương Hồng Hạc gả cho con chồng là thái tử Lý Nhật Tôn để khi Nhật Tôn lên làm vua thì Hồng Hạc trở thành hoàng hậu.Tuy nhiên, trước khi lấy Hồng Hạc, thái tử Nhật Tôn đã được cảnh giác về việc họ Dương lộng quyền có thể dẫn đến cướp ngôi vua , vì vậy Nhật Tôn không muốn gần gũi với Hồng Hạc vì lo sợ nếu có con sẽ trúng kế họ Dương. Mặc dù làm vợ thái tử nhưng Dương Hồng Hạc không hề được chồng đoái hoài tới
Sử sách cho biết bà không có người con nào ( vô sinh ). Theo đó, bà thường chăm sóc các con gái của Thánh Tông là Động Thiên công chúa, Thiên Thành công chúa, Ngọc Kiều công chúa thay ông.
Gặp khi Thánh Tông nạp phi tần mới, chính là Ỷ Lan phu nhân, bà cũng không phản đối gì mà đối đãi với phu nhân rất hậu. Ỷ Lan có tài trị nước, khi Thánh Tông đánh Chiêm Thành thì Ỷ Lan được trao quyền trị nước, lâm triều chấp chính.
Khi Nhân Tông được sinh ra, gọi bà là đích mẫu, còn Ỷ Lan nguyên phi là sinh mẫu.
Khi Thánh Tông băng vào năm 1072, bà được Lý Đạo Thành phò trợ trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính cho Lý Nhân Tông lúc còn nhỏ, nhưng sau đó bị Linh Nhân thái hậu mưu đoạt cùng Lý Thường Kiệt, phế truất và giết hại.


Nguyên phi Ỷ Lan


Ỷ Lan là vợ vua Lý Thánh Tông trong lịch sử Việt Nam. Tên thật là Lê Thị Yến, cũng có sách ghi tên bà là Lê Thị Yến Loan hay Lê Thị Khiết, cô thôn nữ vùng Thổ Lỗi, sau này đổi là Siêu Loại (thuộc xã Dương Xá, huyện Gia Lâm- Hà Nội ngày nay). Ỷ Lan nghĩa là dựa vào cây lan, đó là hình ảnh khi nhà Vua ngự giá đến trang Thổ Lỗi, thấy một cô thôn nữ xinh đẹp vẫn điềm nhiên hái dâu bên cạnh gốc lan. Lý Thánh Tông lấy làm lạ, cho người gạn hỏi. Người con gái đối đáp thông minh, cử chỉ đoan trang dịu dàng. Đó chính là Yến Loan. Vua truyền lệnh tuyển cô gái ấy vào cung, rước về Lan Cung thuộc đất làng Kim Cổ, huyện Thọ Xương của kinh thành Thăng Long. Lý Thánh Tông phong Yến Loan là Ỷ Lan phu nhân, cũng có ý kỷ niệm hình ảnh cô gái đứng tựa bên gốc lan.

Bà có rất nhiều đóng góp tích cực vào cơ nghiệp của nhà Lý, bà đã hai lần làm nhiếp chính. Năm Kỷ Dậu 1069, Lý Thánh Tông thân chinh cùng Lý Thường Kiệt mang quân đi đánh Chiêm Thành, trao quyền nhiếp chính cho Ỷ Lan. Cũng năm ấy, nước Đại Việt không may bị lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi sinh loạn. Nhưng nhờ có kế sách trị nước đúng đắn, quyết đoán táo bạo, loạn lạc đã được dẹp yên, dân đói đã được cứu sống. Cảm cái ơn ấy, cũng là cách suy tôn một tài năng, nhân dân đã tôn thờ Ỷ Lan là Quan Âm Nữ, lập bàn thờ Ỷ Lan. Năm Nhâm Tý 1072, Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, hoàng thái tử Lý Càn Đức mới 7 tuổi lên nối ngôi (tức hoàng đế Lý Nhân Tông), bà được tôn làm Hoàng thái phi, rồi Hoàng thái hậu. Triều đình rối ren, Ỷ Lan đã coi triều chính, điều khiển cả quốc gia, cùng tể tướng Lý Thường Kiệt chủ trương đánh quân Tống xâm lược. Hai lần quân Tống sang xâm lược (1075 và 1077), vua Lý Nhân Tông chưa quá 10 tuổi, Ỷ Lan đã bỏ qua hiềm khích cũ, điều Lý Đạo Thành từ Nghệ An về, trao lại chức Thái sư, cùng Lý Đạo Thành lo việc binh lương chuyển ra tiền tuyến.

Là người rất am hiểu và hâm mộ đạo Phật, Hoàng Thái hậu Ỷ Lan có công xây dựng hàng trăm ngôi chùa. Chính nhờ câu chuyện giữa bà và các vị sư thời Lý , mà đến nay mới biết được gốc tích sự truyền bá đạo Phật vào Việt Nam.


Bà Lý Nhũ Thái Lão - Tổ sư nghề thuốc nam


Bà Lý Nương trong một lần ghé qua Phù Ninh, thấy người dân nơi đây chỉ biết làm ruộng làm nương, không có nghề phụ nên cuộc sống người dân vất vả, lam lũ tứ mùa, lại hay đau ốm, bệnh tật. Bà đã dạy cho dân cách trồng và biến cây thành những thang thuốc để chữa bệnh cứu người. Sau khi bà mất, người Ninh Hiệp dựng am thờ bà và được Vua Lý phong bà danh hiệu "Lý nhũ thái lão - Dược tiên thần linh". Từ đó, nghề thuốc ở Phù Ninh phát triển cả y và dược, đặc biệt, ngành dược buôn bán phát đạt. Hầu hết những nhà khoa bảng, nhà nho trong làng Nành thuở xưa đều biết cắt thuốc chữa bệnh. 


Trần Ngọc Hoa 

Trần Ngọc Hoa là con gái của Trần Ngọc Tường, mới 9 tuổi cô bé đã nhờ ông  nội mình làm nghề thợ mộc ở trang Đại Bi (sau đổi thành Đại Yên) là một trong "thập tam trại", vốn là bạn thân cũ của quan Thái úy, dắt mình đến phủ đệ của Thái úy Lý Thường Kiệt  ở phường Thái Hòa để xin  được ra trận.
Thái úy nghe người bạn già nói và nhìn gương mặt thanh tú nhưng kiên quyết, cặp mắt sắc sảo lanh lợi của cô gái, thì biết cháu bé là người quả cảm, mưu trí, Thái úy Lý Thường Kiệt hỏi cháu: Cháu có biết chiến trường là nơi chết chóc, đầu rơi máu chảy không? Việc ra trận là bổn phận của người lớn, còn các cháu còn nhỏ tuổi, lại là con gái, các cháu phải lo tránh giặc và học để giúp ích cho đời. Thái úy nói chứ dứt lời, Trần Ngọc Hoa đã dõng dạc trả lời: Thưa Thái úy, nếu giặc tràn vào thì chúng đâu có tha người già trẻ con. Vì thế, không kể già, trẻ, lớn bé đều phải đánh giặc, cúi xin Thái úy cho cháu được ra trận.
Trước quyết tâm của hai ông cháu, quan Thái úy đành chấp nhận cho cô bé được ra trận.
Trần Ngọc Hoa giả làm trai đến quân doanh. Cô cũng được phát quân phục như mọi người, hành quân nếu mệt mỏi được ưu tiên cưỡi ngựa. Vốn là con nhà nghèo, lam lũ từ nhỏ, đã quen chịu đựng gian khổ, nên trên đường hành quân cô vẫn theo kịp đoàn quân.
Đến vùng quân Chiêm Thành đóng quân, Thái úy hạ trại cử người đi trinh sát. Nhưng giặc canh phòng hết sức nghiêm ngặt. Trần Ngọc Hoa xin với Thái úy cho được đóng vai đứa trẻ nhà nghèo đi bán thuốc lào, trầu cau, hoa quả để lọt vào doanh trại giặc. Thái úy hơi lo ngại, nhưng cô bé đã vạch ra kế hoạch cụ thể và rõ ràng, ông đành chấp nhận.
Với nụ cười có duyên, lời mời chào khéo léo, bọn giặc cho phép cô vào bán thuốc, mặt khác chúng cũng nghĩ rằng cháu bé vì nghèo nên đi bán hàng, không biết gì chuyện quân cơ. Trong khi đó, trong doanh trại đang thiếu thốn đủ thứ, nên chúng để mặc cho cô bé đi lại tự do. 
Với sự thông minh và trí nhớ, cháu bé đã ghi vào tấm bản đồ những chấm son đỏ nơi chúng bố phòng đặt vũ khí và đóng quân, những kho lương thực, thuốc súng, đạn dược... và những đường đi lối lại...
Trên cơ sở tấm bản đồ, Thái úy Lý Thường Kiệt đã họp các tướng và giao nhiệm vụ rồi định giờ xuất quân. Ngọc Hoa được Thái úy khen ngợi và giao cho nhiệm vụ dẫn đường.Trận đó quân ta đại thắng.
Trên đường khải hoàn, Trần Ngọc Hoa không bệnh mà hoá. Thái úy cho phép tướng quân Trần Ngọc Tường đưa thi hài Ngọc Hoa về an táng tại làng Đại Bi. Thái úy tâu với nhà vua công trạng của Ngọc Hoa, vua sắc phong thần hiệu cho Ngọc Hoa là "Ngọc Hoa công chúa" cho dân Đại Bi lập đền thờ. Nhân dân làng Đại Bi tôn Ngọc Hoa làm thành hoàng làng.


Diệu Nhân ni sư (1041–1113)

Tên thật là Lý Ngọc Kiều, người hương Phù Đổng huyện Tiên Du, là con gái đầu của Phụng càn vương, được vua Lý Thánh Tông (1054-1072) nuôi dạy ở trong cung từ nhỏ. Khi đến tuổi trưởng thành, vua đem gả cho người họ Lê làm châu mục châu Chân Đăng. Chồng chết, bà không chịu tái giá, bèn cắt tóc đi tu,, được Thiền sư Châu Không ở hương Phù Đổng chỉ bảo và đặt pháp danh cho là Ni sư Diệu Nhân, trở thành người đứng đầu thế hệ thứ mười bảy, dòng thiền Nam phương. 
Bà mất ngày 1 tháng Sáu năm Quý Tỵ, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ tư (tức ngày 15 tháng Bảy năm 1113), thọ 72 tuổi. 
Bà và Ỷ Lan là hai nữ sĩ đời Lý. Tác phẩm còn một bài kệ  Thị Tịch nói về bốn nổi khổ trong một đời người theo quan niệm nhà Phật. Bài kệ bình thường của Ni sư Diệu Nhân từ thời Lý-Trần là bài ca về giá trị nhân sinh của dân tộc Việt Nam ở mọi thời đại.


Nguyễn Thị La

Ông Nguyễn Diệu, người Ái Châu, Thanh Hóa, cùng vợ  tới kinh thành Thăng Long làm ăn buôn bán. Hai vợ chồng cùng nhau mở xưởng dệt, công việc ngày càng phát đạt. Vài năm sau, ông bà sinh được một cô con gái đặt tên là Nguyễn Thị La. Lớn lên nối nghiệp cha.
Với đôi bàn tay khéo léo, vải cô dệt đã bền lại đẹp, ai thấy cũng phải thán phục. Năm 18 tuổi, La kết hôn cùng Trần Thưởng người Hồng Châu, Hưng Yên. Vài năm sau, Trần Thưởng thi đỗ và làm quan hộ. Với mong muốn được mở mang nghề dệt, Trần Thưởng xin vua cho lập một phường dệt ở ven Hồ Tây. Nàng La chuyển về đó lo đảm đương việc dạy cho dân làng nghề dệt vải.
Từ đó, nghề dệt vải ở đây được phát triển, danh tiếng vang xa. Trong một lần cầm quân ra trận, Trần Thưởng không may tử trận. Được tin, nàng La liền tự vẫn theo chồng. Vua Huệ Tông thương xót cho lập miếu thờ nàng ở phường Nhược Công, phong cho nàng làm Thụ La công chúa. Ghi nhớ công ơn dạy nghề của bà, dân chúng gọi bà là Bà tổ nghề dệt..



Trần Thị Dung


Trần Thị Dung vốn có tên Trần Thị Ngừ, là con gái của Trần Lý, em gái kế của Trần Thừa và Trần Tự Khánh, tức là cô ruột của vua Trần Thái Tông; đồng thời là mẹ nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam là Lý Chiêu Hoàng.
Theo sử sách, cuộc đời của bà luôn gắn chặt với giai đoạn cuối của vương triều Lý và thời kỳ đầu của nhà Trần, từ việc lấy Hoàng tử Sảm để dọn đường đưa họ Trần vào triều đình nhà Lý, cho đến khi bị giáng xuống làm Thiên Cực công chúa và lấy Trần Thủ Độ... Song, vẫn còn một ấn tượng không mấy tốt về bà là chuyện nhẫn tâm gây điều ác với "cốt nhục" sinh ra.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép, sau khi nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, Lý Chiêu Hoàng được phong Chiêu Thánh Hoàng hậu và có cuộc sống vợ chồng hạnh phúc. Nhưng 7 năm sau (1232), Chiêu Thánh 14 tuổi, hạ sinh con trai là thái tử Trịnh nhưng không may Trịnh mất ngay. Từ đó, Chiêu Thánh đau ốm liên miên, không sinh được người con nào với Trần Thái Tông nữa.

Đến năm 1237, Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung (lúc đó là công chúa Thiên Cực) đã ép Trần Cảnh phải bỏ Chiêu Thánh để lấy chị dâu (vợ Trần Liễu, chị gái Chiêu Thánh) là công chúa Thuận Thiên đang có thai 3 tháng. Trần Cảnh lúc đầu phản đối, bỏ ngôi vua lên chùa Phù Vân ở Quảng Yên. Trần Thủ Độ vừa dỗ vừa gây sức ép, cuối cùng cũng phải chịu nghe theo. Không còn chỗ bấu víu, Chiêu Thánh bị giáng xuống làm công chúa.

Vậy là, mới 19 tuổi, Chiêu Thánh đang từ ngôi cao hạnh phúc lâm vào cảnh mất ngôi, mất chồng, không con cái, bị chính người mẹ dứt ruột đẻ ra thông đồng với Trần Thủ Độ ép uổng, nặng nề hơn là mang trọng tội không giữ được ngôi vua mà dòng họ Lý gìn giữ hơn 200 năm qua...

Lý Chiêu Hoàng – Nữ hoàng duy nhất trong lịch sử


Bà là con vua Lý Huệ Tông, tên húy Phật Kim, tước hiệu Chiêu Thánh công chúa. Cả cuộc đời công chúa Phật Kim trải qua những vị trí cao trong triều đình, hưởng thụ vinh hoa phú quý, nhưng đến khi nhắm mắt vẫn không tan hết nỗi niềm tâm sự ray rứt riêng.

Mới lên 6 tuổi, Công chúa Phật Kim được vua cha truyền ngôi, niên hiêu là Lý Chiêu Hoàng, trở thành vị Nữ hoàng duy nhất của nước ta (Trưng Nữ Vương là vị Nữ Vương đầu tiên của đất Việt vì Trưng Trắc tự xưng vương). Dù ngồi trên ngôi vua, nhưng bà không có thực quyền, sau một năm, bà bị ép nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, sau khi lên ngôi, tức là vua Trần Thái Tông, lúc đó bà trở thành Chiêu Thánh hoàng hậu.

Sau 12 năm là hoàng hậu nhưng không sinh được con nối dõi, Lý Chiêu Hoàng một lần nữa bị buộc nhường ngôi hoàng hậu cho chị gái . Bà sống âm thầm cho đến năm 1258, vua Trần Thái Tông, tức chồng cũ, mang gả bà cho bề tôi của mình là Lê Phụ Trần.

Sau này, khi qua đời, Lý Chiêu Hoàng không được thờ chung với dòng họ Lý, vì vị dòng tộc phán là có tội do để mất ngôi vua về tay nhà Trần.



Phụng Dương công chúa

Công chúa sinh năm Giáp Thìn (1244), là con của tướng quốc Thái sư Trần Thủ Độ và mẹ là bà phu nhân Bảo Châu. Từ nhỏ, công chúa đã nổi tiếng là thông minh và rất mực hiền hậu. Công chúa được người anh con nhà bác là vua Trần Thái Tông yêu mến đưa về cung nuôi dưỡng, nhận làm nghĩa nữ, phong hiệu là Phụng Dương. Từ đó, nàng Phụng Dương trưởng thành trong Hoàng cung như nàng công chúa đích thực.
Lớn lên, nàng được gả cho Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, con thứ hai của vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh), em vua Trần Thánh Tông (Trần Hoảng), tức là cô lấy cháu. Nghi lễ được tổ chức đúng tục lệ như con gái vua đi lấy chồng. 
Nhưng thật không may với nàng, bởi lúc ấy Thái sư Trần Quang Khải đang say mê sắc đẹp của một người thiếp nên tỏ ra lạnh nhạt với vợ mới cưới. Chuyện đến tai Trần Thủ Độ khiến ông cả giận cho gọi con gái về hỏi han cặn kẽ rồi quyết định không cho phép Quang Khải được làm như thế. 
Song công chúa vẫn luôn một mực can gián cha đừng nóng nảy giận trách Quang Khải. Nàng nói: "Con về làm vợ Thái sư có hòa hợp được không là do mệnh ý của cha mẹ, con cái cố nhiên không được cưỡng lại. Nhưng còn "cái nghĩa lớn phải theo chồng" thì làm thế nào?".
Nghe biết việc này, Trần Quang Khải tỉnh ngộ, yêu quý nàng hơn. Ở phủ Tể tướng, Quang Khải có nhiều thê thiếp, nhưng về danh nghĩa thì công chúa Phụng Dương là Chánh phi phu nhân. Tuy thế, công chúa lúc nào cũng bao dung, ân cần đối xử tốt đối với các thứ thiếp. 
Công chúa luôn quan tâm chăm sóc, chỉ bảo cho họ cách tề gia, cư xử và cách làm ăn. Mỗi khi họ lầm lỡ điều gì khiến Quang Khải la mắng thì Phụng Dương lại nhẹ nhàng khuyên giải để họ biết lỗi mà sửa. Hoặc khuyên can Quang Khải bớt nóng giận đối với họ. Trần Quang Khải bận việc nước, công chúa lo quán xuyến việc nhà, cư xử với người già, người trẻ đều có khuôn phép, công việc được sắp xếp đâu ra đấy, việc chi tiêu đúng lúc, đúng chỗ, không xài phí nên tiền tài không hao phí mà còn sinh lợi khiến chồng rất hài lòng.
Mặc dầu xuất giá, nhưng Phụng Dương lúc nào cũng quan tâm săn sóc, phụng dưỡng cha mẹ rất mực chu đáo. Khi cha qua đời (tháng giêng 1264), bà đích thân lo cơm nước hầu hạ mẹ hệt như cô gái con nhà thường dân nết na hiếu thảo.
Chung sống với Quang Khải, nàng đã sinh được bảy người con. Con trưởng mất sớm, vợ chồng thương xót không nguôi nên nuôi quan Nội hầu Quốc Công thay con. Người con thứ hai là Văn Túc vương Trần Đạo Tái, con thứ ba là Vũ Túc vương Đạo, kế tiếp là các công chúa Quỳnh Huy, Quỳnh Tu, Quỳnh Bảo và Quỳnh Thái.
Cuối năm Giáp Thân (1284), đại quân Nguyên Mông sang xâm lược nước ta lần thứ hai. Thái sư Quang Khải và bà Phụng Dương xuôi thuyền cùng triều đình về Thiên Trường. Thình lình nửa đêm có chiếc thuyền bốc cháy. Nghe tiếng hoảng loạn, ai nấy thảy đều tưởng giặc đã đến nơi rồi. Bà bình tĩnh đánh thức chồng dậy, tự tay đưa lá mộc chắn cho chồng và còn lấy thân che chở cho chồng. Việc làm của bà luôn thể hiện: "Vợ ngoan làm quan cho chồng", thực sự được Thái sư yêu quý cảm phục: Người đương thời bình luận: "Lòng dũng cảm như vậy, Phùng Phụ đời xưa cũng không hơn được. Đó là công chúa biết việc nghĩa và chí dũng cảm".


An Tư Công Chúa


Là con gái của vua Trần Thái Tông, nàng công chúa cành vàng lá ngọc An Tư lại có một số phận bi hùng. Năm 1285, trong hoàn cảnh thành Thăng Long bị quân Nguyên vây hãm, vua Trần thực hiện “mỹ nhân kế”, đem An Tư xinh đẹp dâng cho tướng giặc là Thoát Hoan để tạm cầu hòa chờ cơ hội phản công.
Tuy nhiên, sau khi chiến thắng quân Nguyên, vua Trần luận công khen thưởng hậu hĩ cho các tướng sĩ có công lao, nhưng tuyệt nhiên không nhắc đến An Tư công chúa. Không những thế, sau khi Thoát Hoan thua trận, trốn về nước, số phận của công chúa về sau cũng chẳng ai rõ. Có giả thuyết cho rằng An Tư cũng bị bắt về Tầu nhưng cũng có người bảo rằng nàng đã chết trong đám loạn quân.

Mãi gần đây, cuộc đời và công lao của công chúa với quê hương mới được ghi nhận, nhờ nhiều tác phẩm nghệ thuật văn chương và sân khấu. Điển hình là cuốn tiểu thuyết “An Tư” của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.


Bà Chúa Kho (Lý Thị Châu )


Lý Thị Châu sinh ngày 12 tháng 2 âm lịch tại phường Võ Trại trong kinh thành Thăng Long (nay là phường Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam).
Cha bà là Lý Quýnh, quê ở làng Cổ Pháp (nay thuộc xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), làm chức Điện hộ binh lương đời nhà Trần, chuyên giữ gìn kho lương cho quân lính. Khi đến đóng quân trong kinh thành, ông cưới vợ ở phường Võ Trại, rồi bà ra đời sau đó.
Thuở nhỏ, Lý Thị Châu theo học ở phường Bích Câu. Theo sử liệu thì bà là người vừa có tài văn võ lại vừa có nhan sắc.

Năm bà 18 tuổi, cha bà mất. Đến năm 22 tuổi, bà nhận lời về làm vợ một viên Thái bảo họ Trần (không rõ tên), làm chức Đốc bộ ở Châu Hoan (nay là Nghệ An & Hà Tĩnh).

Tháng 2 năm 1285, một đạo quân Nguyên do tướng Toa Đô chỉ huy từ nước Chiêm Thành tràn vào cướp phá Châu Hoan. Thái bảo Trần đem quân chống ngăn không được, đành phải rút quân về giữ Diễn Châu (thuộc xứ Nghệ An) và củng cố lại lực lượng.
Trước tình thế khó khăn này, Lý Thị Châu tự nguyện đứng ra chỉ huy quân sĩ bảo vệ kho lương, lo việc hậu cần cho binh si, để chồng yên tâm ra trận mạc.
Cuối tháng 5 năm 1285, quân đội nhà Trần đánh đuổi được quân Nguyên ra khỏi cõi bờ, hai vợ chồng bà được triệu về kinh. Thái bảo Trần nhận chức Tiền quân duệ thành có nhiệm vụ cai quản đạo quân bảo vệ kinh đô, còn bà thì được cử coi sóc kho phủ Phụng Thiên.
Cuối tháng 12 năm 1287, sau khi chỉnh đốn lực lượng, quân Nguyên lại chia làm 3 cánh tiến đánh Đại Việt.
Nhận thấy thế và lực của đối phương quá mạnh, vua quan nhà Trần quyết định rời khỏi Thăng Long để bảo toàn lực lượng. Ngay sau đó, Thái bảo Trần được lệnh phải cố chặn quân Nguyên ở phía sông Hồng, và ông đã tử trận sau nhiều ngày cầm cự để vua quan cùng quân sĩ rút lui được an toàn.
Nghe tin chồng đã mất, kinh thành sắp thất thủ, Lý Thị Châu cố nén đau thương để làm nhiệm vụ của mình. Ngay lập tức, bà sai quân chuyển kho, cất giấu của cải và lương thực.

Khi mọi chuyện đã thu xếp xong, bà lấy khăn hồng thắt cổ tự vẫn.

Huyền Trân Công Chúa – Mở mang bờ cõi


Phật Hoàng VN Trần Nhân Tông sau khi lãnh đạo chiến thắng giặc Nguyên, trong thời bình, nhà vua thực hiện chủ trương “Khoan sức dân”, với tầm nhìn xa trông rộng, ngay cả sau chiến thắng và khi đã nhường ngôi cho con để làm Thái Thượng hoàng (năm 1290), Trần Nhân Tông vẫn tham gia chính sự, trực tiếp điều binh khiển tướng củng cố vùng biên giới phí Tây và phía Nam đất nước. Ngay cả khi đã xuất gia, sáng lập phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, ông đã bôn ba hoằng dương Phật pháp ở phương Nam xa xôi, ông lại còn đóng thêm vai “Ong mai, ông mối”, dù chỉ có một con gái duy nhất, vậy mà vì vùng phên dậu phương Nam quan trọng, vì xã tắc muôn đời, ông sẵn sàng chịu để cho người đời chê trách. Ông có nghe câu:

Tiếc thay cây Quế giữa rừng
Để cho thằng Mán , thằng Mường nó leo?
Ông biết nhưng ông tin cuộc đời sẽ hiểu, con cháu sau này sẽ mãi tri ân. Chính nhờ Huyền Trân công chúa gả cho chúa Chiêm thành (Champa, tên một loài hoa đại) là Chế Mân, mà bờ cõi nước Nam có thêm hai châu Ô, châu Lý sau đổi là châu Thuận, Hóa, chạy dài tới tân đèo Hải Vân.

Công chúa có dung mạo xinh đẹp, mới 19 tuổi, nàng vâng lênh vua cha về làm dâu nước Chiêm. Bất hạnh cho Huyền Trân là bà chỉ làm hoàng hậu được gần một năm thì Chế Mân chết. Theo tục lệ Chiêm, hoàng hậu phải lên giàn hỏa thiêu theo chồng về thế giới bên kia. Vì thế nhà Trần đã cho tướng Trần Khắc Chung sang tìm cách đưa Huyền Trân công chúa trở về nước Nam, chuyến hải trình kéo dài hơn một năm cho đôi trai tài gái sắc lãng mạn, dù tuổi tác hai người có thể khá so le (Chúng ta liên tưởng tới mối tình lãng mạn của mỹ nhân Tây Thi và tướng Phạm Lãi khi hai người tái ngộ sau khi quân Việt Câu Tiễn thắng quân Ngô Phù Sai).



Nguyễn Thị Điểm Bích




Nguyễn Thị Điểm Bích, thường quen gọi là Điểm Bích người làng Hoạch Trạch huyện Đường An, lộ Hồng Châu , không rõ năm sinh năm mất. Theo sách Tam tổ thực lục, Điểm Bích là kết quả của mối tình "gặp gỡ giữa đường" giữa một cô gái nghèo họ Nguyễn ở Đường-an và một chàng trai mà nàng không tường tên họ. Điểm Bích lớn lên trong gia đình bố mẹ nuôi là một hào phú trong làng. Sau được tiến làm cung nhân vua Trần Anh Tông (1293-1314). Điểm Bích thông minh, có tài "xuất khẩu thành chương" và đặc biệt giỏi thơ quốc âm. Nàng từng được vua Anh Tông giao nhiệm vụ lên Yên Tử thử đạo hạnh của Huyền Quang, vị tổ thứ ba phái Thiền Trúc lâm đời  ấy.Vua chỉ dụ cho Điểm Bích phải lấy được ít nhất một nén vàng trong số 10 nén vàng mà nhà vua đã tặng Huyền Quang, để làm bằng chứng. Điểm Bích vâng lệnh nhà vua đi Yên Tử tìm gặp Huyền Quang.
Tại Yên Tử, Điểm Bích đã sử dụng đủ các chiêu trò sắc dục để mê hoặc thiền sư, nhưng đều thất bại. Lo sợ bị vua trừng phạt, cô không dám về báo với vua mà bịa ra một câu chuyện gia đình bi thảm để lợi dụng lòng từ tâm của Huyền Quang... Kế này cuối cùng đã thành công, Điểm Bích lấy được vàng mà vua đã giao cho thiền sư.
Khi trở về cung, Điểm Bích dựng lên câu chuyện Huyền Quang phá giới. Nhà vua tức giận, liền sai mở hội Vô Già ở phía Tây đô thành và sai sứ đi Yên Tử mời Huyền Quang về làm án pháp.
Huyền Quang về kinh đô, thấy bày biện vàng lụa, các món mặn, liền biết mình đã bị thử thách. Thiền sư thở dài, lên xuống đàn ba lần rồi bái vọng ra mười phương, khấn: "A di đà Phật! Xin Trời, Phật chứng giám, phù hộ độ trì. Kẻ đệ tử này có điều gì bất chính, xin chư Phật cho đày xuống âm ty địa ngục, còn nếu không, thì xin cho lụa vàng bay đi và những cỗ mặn kia hóa thành cỗ chay tất cả".
Ngay lúc ấy, một đám mây đen xuất hiện, gió nổi lên, các tạp vật bay đi hết, chỉ còn lại đèn nhang và đồ cúng chay. Đến đây, Điểm Bích phải thú nhận với nhà vua sự gian dối của mình. Tuy vậy, do thiền sư Huyền Quang xin vua tha tội nên cô đã không bị trừng phạt…



Nguyễn Thị Bích Châu


Nguyễn Thị Bích Châu là con gái cưng của một cận thần dưới triều Trần, từ thời niên thiếu đã nổi tiếng xinh đẹp, lại thông tuệ, giỏi văn chương, âm nhạc. Năm 16 tuổi (khoảng 1372) bà vào cung, được vua Trần Duệ Tông rất đỗi thương yêu, phong là ái phi.
Được vưa ưu ái gọi là Ái Phi nhưng Bích Châu không hề kiêu căng, lộng quyền, ngược lại bà rất chú trọng đến việc đối nhân xử thế. Phận nữ nhi nhưng khi thấy được điểm yếu của vua Diệu Tông trong việc xử lý triều chính, sợ nước vì thế mà vong, bà đã hao tâm tổn trí soạn thảo “Kê minh thập sách” – 10 kế sách trị nước dâng lên vua. Bà mongcó thể thức tỉnh Diệu Tông trong việc an bang nước nhà. Trong 10 kế sách của bà nổi bật nhất là việc trừng trị kẻ sâu dân mọt nước làm hại dân lành để yên dân, được dân chúng truyền tụng. Tuy nhiên, tâm ý của Bích Châu nhanh chóng rơi vào quên lãng bởi vua Diệu Tông không hề thực hiện bất cứ một sách lược nào.

Năm 1376, Đại Việt liên tục bị quân Chiêm Thành gây hấn. Vua Duệ Tông nổi giận ngự giá thân chinh đi dẹp giặc. Bích Châu thấy bất an, khuyên can vua không được, đành xin đi theo hộ giá.

Khi đoàn thuyền chiến vừa đến cửa biển Kỳ Hoa (Kỳ Anh, Nghệ Tĩnh) trời bỗng nổi bão lớn. Đoàn thuyền chiến va vào nhau, nhiều cái bị đứt dây, dạt vào đá vỡ toang, quân lính chết vô số… Vua Duệ Tông nhất quyết đợi bão tan sẽ tiến binh tiếp.

Bích Châu rất lo lắng. Bà chợt nhớ về truyền thuyết thần biển đòi mỹ nữ và nghĩ đến việc liều mình để giúp đất nước. Bà liền xin vua được hiến thân cho thần biển để thần phù hộ nhà vua chiến thắng.
Vua còn sững sờ thì Bích Châu đã quay ra truyền lệnh sửa soạn lễ vật cúng thần biển. Mặc những lời can ngăn, bà vẫn một mực xin thực hiện ý nguyện của mình. Vua quan đành nén đau thương chấp thuận.

Sau khi tiến hành các nghi lễ và từ biệt nhà vua, Bích Châu ngồi vào chiếc thuyền nhỏ nhắn có cắm đại hoàng kỳ. Không lâu sau khi được thả xuống biển, chiếc thuyền lập tức bị sóng dữ nhấn chìm
Sau hài khi bão ngớt và đoàn chiến thuyền của vua Trần Duệ Tông đã đi khá xa, thi hài Bích Châu mới nổi trên mặt biển và trôi dần vào bờ. Bà được dân làng rước đi an táng tại làng Kỳ Hoa. Đến nay, ngôi làng này vẫn thờ thần phi Bích Châu.






Nguồn Vietnamnay.com ; Vtc.vn ; newvietart.com ; petrotimes.vn ; baodanang.vn ; kenhsinhvien.net ;kyluc.vn ; phunutoday.vn; maihoa.vn; vinhaonline.com; trieuxuan.info; vanhoabacgiang.vn; baobacgiang.com.vn; vanban.hanoi.gov.vn; vnpost.vn; giacngo.vn; thivien.net; vietbao.vn; hoilhpn.org.vn; nguyenthaihocfoundation.org;vnmilitaryhistory.net; tapchisonghuong.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved