Bà Nguyễn Thị Tồn còn có tên là Diệu. Người làng Mỹ Khánh, tổng Chánh Mỹ Thượng (nay thuộc phường Bửu Hoà, thành phố Biên Hoà). Bà là trưởng nữ của Hộ trưởng Nguyễn Văn Lý và là người vợ chính của nhà thơ – vị quan Bùi Hữu Nghĩa.
Khi Bùi Hữu Nghĩa làm quan tri huyện Trà Vang (Trà Vinh), vì cương trực bị quan trên ghen ghét. Nhân sự kiện dân chúng nổi dậy tranh chấp rạch Láng Thé, bọn quan trên ghép tội Bùi Hữu Nghĩa xúi giục, bắt giam rồi giải ông về Gia Định chờ xử tử. Bà Tồn thấy chồng bị oan ức liền từ Trà Vang lên Mỹ Tho rồi quá giang ghe bầu ra Huế để kêu oan cho chồng.
Tại kinh thành Huế, bà gặp được Thượng thư Bộ Lại Phan Thanh Giản để bày tỏ nỗi oan của chồng và được giúp đỡ. Vị minh quan viết tờ trạng và chỉ vẻ cho bà cách trình tấu nơi công đường.
Canh năm, bà Nguyễn Thị Tồn tới Tam pháp ty mạnh dạn đánh ba hồi trống làm kinh động nơi Tam cung lục viện. Vua Tự Đức cho đòi người đánh trống vào chầu. Trước mặt vua và quan triều đình, bà biện bạch nỗi oan khiên của chồng đang gánh chịu. Vua Tự Đức nghe xong, giao cho Bộ Hình xem xét. Sau khi thẩm định minh bạch, nhà vua chung thẩm bản án:”tha cho Bùi Hữu Nghĩa khỏi tội tử hình nhưng phải quân tiền hiệu lực, đái công chuộc tội”.
Sau đó, bà Nguyễn Thị Tồn được vua Tự Đức ban Võng điều có có bốn lọng, nơi đầu võng có gông nhỏ sơn son, ngầm ý khen bà là người trung trinh, gan dạ song cũng thầm trách bà đã làm kinh động đế đô. Hoàng thái hậu Từ Dũ nghe tin, cho bà vào gặp mặt. Cảm kích trước một người phụ nữ dân dã từ xứ Đồng Nai không từ nam vạn dặm lặn lội đến chốn kinh thành minh oan cho chồng, khen gương tiết nghĩa, đáng mặt nữ lưu. Khi bà Nguyễn Thị Tồn về đến quê thì chồng là Bùi Hữu Nghĩa khâm mệnh đi trấn đồn Vĩnh Thông (thuộc Châu Đốc – An Giang).
Tại Biên Hoà, bà Tồn lâm trọng bệnh qua đời. Bùi Hữu Nghĩa vì xa xôi cách trở không về lo đám tang được cho người vợ. Những mất mát chốn quan trường không làm Bùi Hữu Nghĩa than vãn nhưng ông đau đớn tột cùng trước sự ra đi của người vợ hiền, vì ông mà lao tâm khổ tứ. Bùi Hữu Nghĩa đã viết những bài văn tế cho vợ với nỗi niềm sâu sắc, cảm động :
“ Ta nghèo, mình hay giúp đỡ; ta tội, mình biết kêu oan, trong triều ngoài quận đều khen mình mới thật là vợ.
Mình bịnh, ta không thuốc thang; mình chết, ta không chôn cất; non sông cười ta chẳng xứng gọi là chồng…”.
Nhắc đến hành động của vợ đánh trống kêu oan nơi kinh thành, Bùi Hữu Nghĩa tỏ lòng mến phục “…Nơi kinh quốc ba hồi trống gióng, biện bạch này oan nọ ức, đấng hiền lương mắt thấy thảy đau lòng. Chốn tỉnh đường một tiếng thét vang, hẳn hòi lẽ chánh lời nghiêm, lũ băng đăng tai nghe đà khiếp vía”. Trong thời buổi phong kiến bấy giờ, hành động của bà Nguyễn Thị Tồn đáng khâm phục thay. Đất Biên Hòa xưa tự hào về một người phụ nữ như thế.
Bà Ba Cai Vàng
Bà Ba Cai Vàng (1836-1908), tên thật là Lê Thị Miên, còn được gọi là Yến Phi, biệt biệu Hồng Y liệt nữ; là vợ ba của Cai Vàng, thủ lĩnh cuộc nổi dậy chống lại nhà Nguyễn vào năm 1862-1864, dưới thời vua Tự Đức tại miền Bắc Việt Nam.
Quê bà ở thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Tương truyền, trong một ngày hội Lim, có một công tử đang giỡ trò thô lỗ trêu ghẹo những cô gái quê. Bất bình, một chàng trai trẻ xông tới tung quyền cước khiến người vị công tử ngã sóng soài trên mặt đất. Lập tức, những người theo hầu ùa tới. Thất thế, chàng trai vội nhảy phốc lên con ngựa của mình rồi phóng đi mất dạng...
Người ta còn kể rằng, trong một lần thi đấu võ, có thủ lĩnh Cai Vàng chứng kiến, cũng chính chàng trai ấy đã giao chiến với Đốc Đen, một thuộc hạ của Cai Vàng, có tiếng là dũng mãnh. Trong lúc quần nhau dữ dội, bất ngờ cái khăn nhiễu quấn đầu chàng trai bị xổ tung, để lộ ra một mái tóc dài... Người con gái giả trai ấy, chính là Lê Thị Miên, một người có tài văn lẫn võ.
Sau đó, cô Miên đầu quân vào lực lượng của Cai Vàng và sau nữa, cô trở thành người vợ thứ ba của vị thủ lĩnh này, nên còn được gọi là: Bà Ba Cai Vàng.
Và theo bài Vè Cai Vàng (không rõ tác giả là ai), thì kể từ khi làm vợ, Bà Ba Cai Vàng đã cùng chồng, chỉ huy hàng ngàn trai tráng để đánh nhau với quân Nguyễn và đã lập được nhiều chiến công. Sử nhà Nguyễn cũng đã ghi nhận rằng đội quân đông đảo của Cai Vàng đã lần lượt hạ thành Phủ Mộc, thành phủ Lạng Giang, tiến qua vùng Yên Dũng, đánh tới tỉnh thành Bắc Ninh. Thừa thắng, họ đánh tràn qua cả phủ Thuận Thành, chiếm Siêu Loại-Văn Giang, phủ Từ Sơn, rồi xông lên huy hiếp thành Hà Nội...
Dân gian kể rằng, do "có tên đày tớ phản thùng nội công" (Vè Cai Vàng), nên quân triều biết chính xác nơi Cai Vàng đang trú quân, mà trút đạn xuống như mưa, và đã giết chết được ông.Để trả thù cho chồng, mùa xuân năm 1864, Bà Ba Cai Vàng trực tiếp cầm quân đánh vào Nải Sơn (Kiến Thụy, Hải Phòng). Sau 22 ngày chiến đấu liên tục, hao quân hao tướng mà không thắng được, bà cho lui quân. Xét thấy, không còn đủ sức để tiến hành cuộc chiến đấu lâu dài được nữa, ngày 11 tháng 3 năm 1864, bà tổ chức lễ tế chồng cùng các thuộc hạ đã mất, rồi giải tán lực lượng...
Theo truyền thuyết, Bà Ba Cai Vàng mai danh ẩn tích ở chùa Dặn (Đình Bảng, Bắc Ninh). Cũng có người cho rằng, bà đã vào tu tại chùa Hương nơi thôn Tứ Kỳ (nay là thôn Đại Trạch, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), với pháp danh là Đàm Giác Linh. Tại chùa này, bà đã cho dựng miếu Âm Hồn để thờ chồng (Cai Vàng) và các cộng sự đã bỏ mình trong cuộc chiến vừa qua.
Năm 1908, ni cô Đàm Giác Linh (Bà Ba Cai Vàng) viên tịch, thọ 72 tuổi.
Đặng Thị Nhu (? -1909)
Đặng Thị Nhu sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo khó ở Yên Thế (Bắc Giang). Miền đất này đã tạo nên cho bà trở thành thiếu nữ gan dạ tháo vát và giàu lòng yêu nước thiết tha.
Trong cao trào yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta cuối thế kỷ thứ XIX và đầu thế kỷ thứ XX, cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám và nông dân vùng Yên Thế là cuộc đấu tranh vũ trang quyết liệt nhất, kéo dài nhất và cũng làm cho giặc lo ngại nhất. Cuộc khởi nghĩa kéo dài tới 30 năm, trong cuộc khởi nghĩa này, bà Đặng Thị Nhu đã góp phần quan trọng cùng chồng xông pha trận mạc.
Khoảng đầu năm 1894, nghĩa quân Yên Thế ở vào một giai đoạn gay go ác liệt, lực lượng bị tiêu hao sau nhiều trận chiến, nghĩa quân đành phải phân tán, một bộ phận lánh sang Thái Nguyên. Bản thân Hoàng Hoa Thám lúc đó cũng bị địch truy lùng gắt gao nên phải ẩn náu trong núi rừng. Một buổi chiều khi tới làng Vạn Vân, trên đường đi bỗng Hoàng Hoa Thám gặp một cô gái xinh đẹp, khỏe mạnh đó là Đặng Thị Nhu. Đề Thám nói dối với cô Nhu, ông là người đi buôn, bị kẻ cướp lấy hết tiền nong vốn liếng, trời lại sắp tối, sẵn lòng thương người, cô Nhu đưa khách về nhà diện kiến với cha. Cha cô có người con nuôi là Thông Luận là một vị tướng của Đề Thám, hôm ấy cũng về thăm cha nuôi, cũng từ đó, gia đình cô Đặng Thị Nhu trở thành cơ sở của nghĩa quân và cô Nhu trở thành người giúp việc đắc lực cho Đề Thám. Thấy Đề Thám và cô Nhu tâm đồng ý hợp, với sự cho phép của cha già, chẳng bao lâu cô Nhu trở thành vợ ba của Hoàng Hoa Thám, thành hôn Đặng Thị Nhu có tên mới là “Bà Ba Cẩn”. Sát cánh bên chồng bàn định kế hoạch xây dựng lực lượng, bà Ba Cẩn đã đề xuất ý kiến là ta nên tranh thủ sự hòa hoãn, để xây dựng lực lượng, để có thực lực chiến đấu lâu dài. Bà phân tích cặn kẽ, lập luận vững chắc, đã được tướng lĩnh nghĩa quân và thủ lĩnh Đề Thám tán thành.
Đến năm 1907, nghĩa quân của Đề Thám đã lan rộng đến Hà Nội, do sáng kiến và tổ chức của bà Ba Cẩn, Đảng Nghĩa Hưng một tổ chức yêu nước chống Pháp được thành lập ngay ở Hà Nội. Đảng Nghĩa Hưng đề ra kế hoạch đánh úp Pháp và đầu độc lính Pháp tại Hà Nội. Việc tiến hành bị lộ nhưng đã làm bọn Pháp rất hoang mang lo sợ.
Ngày 29-1-1909, quân Pháp tập trung lực lượng đánh vào Yên Thế, bà Ba Cẩn đã chỉ huy nghĩa quân chiến đấu kiên cường, kêu gọi binh sĩ người Việt quay lại với dân với nước. Bà Ba Cẩn đã chiến đấu dũng cảm liên tục 10 tháng trời nhưng thế giặc càng ngày càng mạnh, rồi chẳng may sáng ngày 1-12-1909, bà Ba Cẩn cùng con gái bị giặc bắt cùng một số chiến hữu. Thực dân Pháp đã đem bà đi đày cùng con gái sang Guyane (Nam Mỹ). Dọc hải trình viễn dương, thừa lúc quân canh sơ ý, bà đã nhảy xuống biển tuẫn tiết.
Là một cô gái nông dân, với ý chí căm thù giặc sâu sắc, bà Đặng Thị Nhu đã trở thành vị chỉ huy mưu hoạch chiến đấu oanh liệt và đã anh dũng hy sinh. Tấm gương dũng cảm, bất khuất của bà góp phần làm rạng ngời thêm truyền thống anh hùng của phụ nữ Việt Nam ta.
Bà Chiểu
Bà Lê Thị Điền sanh năm 1835, chiếu âm lịch là năm Ất mùi. Tên song thân của bà đến nay chưa có tài liệu nào ghi rõ, chỉ biết bà có người anh là ông Lê Tăng Quýnh, nhà khá giả, làm Cai tổng ở xã Thanh Ba, huyện Phước Lộc, tỉnh Gia Định (nay là ấp Thanh Ba, xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An).
Ông Lê Tăng Quýnh là người nho học, có mở lớp tại nhà để dạy em cháu và trẻ con trong làng. Bà Lê Thị Điền lớn lên trong hoàn cảnh đó, đã thụ hưởng một nền giáo dục đầy đủ mà người xưa thường dành cho con gái nhà khuê các:cầm, kỳ. thi, họa. Đến năm 15—17 tuổi bà nổi tiếng tài sắc một vùng, biết bao thanh niên nhà quyền quý đến dạm hỏi, nhưng bà đều từ chối khéo.
Ông Lê Tăng Quýnh đã nhiều lần nhắc nhở việc xây dựng gia đình, nhưng bà thung dung đáp: "Việc gì mà vội. Nếu sau này dù gặp người đui mù mà xứng đáng cho em tôn sùng, em cũng cứ vui lòng".
Trước thái độ cứng rắn của em gái, ông Lê Tăng Quýnh đành bỏ qua không bàn đến việc hôn nhân nữa. Rồi nhiều năm trôi qua, bỗng có một người mang đến cho ông Lê Tăng Quýnh bân chép tay tác phẩm Dương Từ — Hà Mậu mà tác giả là một ông Tú mù lòa đang mở lớp dạy học lại làng Tân Thuận (Gia Định). Ông Lê Tăng Quýnh khâm phục văn tài của tác giả bèn đánh đường đến Tân Thuận xem xét. Sau mấy lần tiếp xúc, ông hết sức kính trọng đức độ và tài y thuật của thầy Đồ, nên xin được làm môn sinh của thầy.
Sau đó, cám cảnh thầy đơn chiếc, mù lòa, tuổi đã quá 30 mà chưa có con trai nối dõi, lại nhớ đến lời em gái nói hôm nào, ông quyết định bắc cầu cho trai tài gái sắc gần nhau. Thế rồi, một mặt ông cố thuyết phục cho thầy chịu lấy vợ, một mặt ông đặt thẳng vấn đề với cô em. Ông nói trước rằng: bên trai quả thật đui mù nhưng tài cao đức trọng, ông tôn sùng rồi, còn em có tôn sùng chăng, phải tự xét lẫy, bằng cách theo anh cải dạng nam trang đến Tân Thuận xin làm học trò để có dịp quan sát tận mắt.
Bà Lê Thị Điền chấp nhận đề nghị của anh, đóng bộ giả trai, cắp sách theo anh đi học. Rồi sau một thời gian ngắn dò xét, nhận thấy thấy đồ quả đúng như lời người anh nói, bà mới thuận lòng xây dựng hôn nhân.
Trong gia phả của họ Nguyễn Đình không ghi thầy đồ cưới vợ năm nào, song kết quả cuộc hôn nhân này, năm 1855 người con gái đầu lòng Nguyền Thị Hương ra đời, kế đó, năm 1858 bà sinh người con trai lớn là Nguyễn Đình Chúc.
Trong khoảng thời gian này, thầy đồ Nguyễn Đình Chiểu và bà Lê Thị Điền còn cư ngụ quanh vùng Sài Gòn — Gia Định.
Đầu năm 1859 xảy ra quốc biến, quân Pháp chiếm được thành Gia Định châm lửa đốt cả vùng:
... Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây,
Trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng này, bà Lê Thị Điền lại bế con thơ, dìu chồng lánh nạn về quê lại Thanh Ba (Cần Giuộc), sống nương náu với anh là ông Lê Tăng Quýnh, nhà ở cách chùa Ông Ngộ (tức chùa Tôn Thạnh, một địa điểm trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) khoảng một cây số.
Về sau gia đình Nguyễn Đình Chiểu dời về sát gần chùa để động hữu hiệu cho công cuộc kháng Pháp và sáng tác thơ văn. Bề ngoài thầy đồ mở lớp dạy học trò và làm thuốc bên trong dưa mưu bày kế cho nghĩa binh kháng chiến, thầy làm cố vấn trong Bộ tham mưu chống Pháp của Trương Công Định. Nhận thấy thầy đồ được nhiều người mến mộ, nên các vị lãnh đạo chống Pháp mong muốn thầy Đồ cho ra đời một tác phẩm có thể phổ biến để dành ngay trong vùng địch chiếm đóng và nghĩ binh trong công tác tuyên truyền sẽ mượn tấm bình phong đó để gây lại niềm tin trong dân chúng. Thế là tác phẩm Lục Vân Tiên được hoàn tất. Chính thầy đồ đã đọc cho bà Lê Thị Điền chép tay áng văn bất hủ này.
Bà Lê Thị Điền lúc bấy giờ không những là "thơ ký văn chương" cho chồng mà còn góp phần vào cuộc kháng chiến cứu nước. Năm 1861 bà sinh người con gái thứ tư là Nguyễn Thị Kim Xuyến. Đến năm 1862, Pháp chiếm xong ba tỉnh miền Đông, một lần nữa thầy Đồ Nguyễn Đình Chiểu lại lánh nạn đến Ba Tri, một nơi còn ở ngoài vòng chiếm đóng của Pháp.
Tại Ba Tri, năm 1864 người con gái thứ năm là Nguyễn Thị Ngọc Khuê ra đời. Năm 1869 sanh người con thứ bảy là Nguyễn Đình Chiêm, và sau đó người trai út là Nguyễn Đình Ngưỡng (người con thứ sáu chết lúc còn nhỏ).
Nhìn lại cuộc đời cụ bà Lê Thị Điền, chúng ta thấy rằng: Thời con gái. Tuổi thanh xuân đã mở lối cho bà bước đến một Cuộc sống vàng son, nhưng bà đã ngang nhiên khước từ. Phải chăng ngay bấy giờ bà đã nhận thức được rằng: giàu sang không phải là chân giá trị của hạnh phúc. Những chàng công tử còn nhà quyền quý kia chì có thể đem lại cho bà cuộc đời nhung lụa nhưng ích kỷ, không có ý nghĩa gì đói với đất nước, xã hội. Gặp Nguyễn Đình Chiều, bà đã tim được người cùng chung lý tưởng thanh cao, một người đồng chí. Dù mù lòa nhưng chính ông mới là người đem lại cho bà hạnh phúc chân chính.
Thời kỳ làm vợ, vì lấy chồng mù, bà phải săn sóc chu đáo từ thức ăn giấc ngủ, manh quần tấm áo cho chồng. Thầy đồ có mở lớp dạy học và làm thuốc, song không vì kế sinh nhai mà vì lý tưởng cứu dân tá quốc. Phần lớn, sự sống trong gia đình đều do tài đảm đang của bà. Ngoài ra, bà đã góp công rất nhiều trong việc ghi chép và phổ biến thơ văn của thầy đồ đến nhân dân, như Lục Vân Tiên, Tứ thư (diễn nôm), Gia huấn ca Tam thập lục nạn, Ngũ kinh v.v...
Với nhiệm vụ làm mẹ. Cụ bà Lê Thị Điền đã sanh được bảy người con: 4 trai, 3 gái. Trong số các người con thành danh, thì bà Nguyễn Thị Kim Xuyến nổi danh về âm nhạc ở đất Ba Tri. Bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê mà lịch sử văn chương biết qua tên Sương Nguyệt Ánh, là người đàn bà Việt Nam đầu tiên ra làm báo, chủ bút tờ Nữ giới chung năm 1918. Ông Nguyễn Đình Chiêm bút hiệu Trọng Vĩnh, tác giả tuồng truyện Phấn Trang lần, Sam Tống trinh trung v.v...
Bà Lê Thị Điền là tấm gương sáng cho các thế hệ phụ nữ Việt Nam vẽ tinh thần yêu nước dũng cảm, về tinh thần tận tụy hy sinh cho chồng con. Trong giai đoạn mà đầu cuộc kháng Pháp ở Nam Bộ, từ năm 1861 bà xứng đáng là người phụ nữ tiên phong của đất Đồng Nai nói riêng và của cả nước Việt Nam nói chung.
Bà Bang Nhãn (1853
-1927)
Bang Nhãn là gọi theo tên
chồng, bà tên là Lê Thị Liễu (1853-1927), quê làng Phụng Trì, nay thuộc xã Đại
Đồng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Khi bà cất tiếng khóc chào đời vừa mới 5
năm thì thực dân Pháp đã nổ súng bắn vào cửa biển Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lăng
đất nước ta, từ đó cho đến suốt cuộc đời bà phải sống trong cảnh nước nhà bị
chìm đắm trong nô lệ.
Chồng bà là ông Phan Quỳ, một
người nổi tiếng hay chữ ở đất Quảng Nam, quê làng Gia Cốc, nay thuộc xã Đại
Minh cùng huyện với bà. Ông Quỳ làm chức Bang tá, con đầu đặt tên Nhãn. Ngày
trước, người ta thường lấy tên con đầu để gọi cha mẹ nên ông Quỳ được gọi là
ông Bang Nhãn. Lúc ông còn sống, chưa ai biết bà có tài làm thơ, chỉ sau khi
ông qua đời bà mới thường hay xướng họa thơ văn với các danh sĩ đương thời và
nổi tiếng khắp tỉnh. Theo Quách Tấn, tiếng tăm của bà khiến nhiều người nghi
ngờ, thêu dệt những câu chuyện không hay về bà. Người cho rằng hồn ông Quỳ đã
nhập vào bà giúp bà làm thơ, người lại làm câu đối để mỉa mai bà:
"Phụng
hoàng đua, bìm bịp cũng đua,
Mâm thau nhịp, mo nang cũng nhịp"
"Trau
tria lông cánh theo ngàn nhẫn
Chung chạ thanh âm đủ bốn nghề".
Họ muốn ám chỉ bà là kẻ tầm
thường, là thứ "bìm bịp”, "mo nang”, kém tài mà cũng đua đòi làm thơ
hầu có cơ hội gần gũi, chung chạ với các tao nhân mặc khách. Để xua tan những
lời ong, tiếng ve đó và khẳng định tài năng, bản lĩnh cứng cõi của mình, bà đã
đáp lại bằng câu:
"Trâu
nghé không sợ cọp
Non nớt mới nhô sừng bắp chuối
Hung hăng nào ngại vện tàu cau".
Nhưng dư luận rồi cũng qua đi
như làn gió thoảng, chỉ có những giá trị đích thực mới tồn tại lâu dài, vượt
qua những sự sàng lọc của công chúng để tồn tại với thời gian. Thơ của bà Bang
Nhãn đã đạt được những điều đó nên có sức sống lâu bền. Cũng như bà Huyện Thanh
Quan, bà Bang Nhãn rất nổi tiếng về thơ quốc âm. Bà sáng tác nhiều nhưng đến
nay chỉ còn lưu lại 2 bài, đó là bài "Qua cửa Hàn" và bài "Vịnh
Ngũ Hành Sơn".
Bà Tú
Xương
Bà họ Phạm, người tỉnh Hải Dương, là hiền thê nhà thơ trào
phúng Trần Tế Xương (1869-1907) tức Tú Xương.
Bà là người mẹ hiền tiêu biểu cho những bà mẹ
quê Việt Nam
chỉ biết một đời tận tụy cho chồng, cho con, không nề hà gì đến chính bản thân
mình, đúng như lời thơ của Tú Xương đã diễn tả:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông”
“Nuôi-nấng năm con với một chồng”
“Lặn-lội thân cò khi quãng vắng”
“Eo-sèo mặt nước, buổi đò đông”
Bà Tú Xương quả đúng là một Hiền phụ Việt Nam.
Thái
Thị Huyên (1886-1936)
Bà tên thật là Thái Thị Huyên vợ nhà Cách Mạng yêu nước
Phan Bội Châu (1867-1940), người làng Diên Lân, tỉnh Nghệ An. Bà làm dâu nhà họ
Phan năm 23 tuổi, đã hết lòng giữ trọn đạo dâu hiền.
Chồng thi đỗ Giải Nguyên, bà vẫn giữ nếp nhà,
sống đời bình dị, lo cho chồng cho con. Chồng bà xuất dương cứu nước hơn 20
năm, bà vẫn giữ lòng chung thủy, vò võ nuôi con.
Khi ông Phan Bội Châu bị bắt về nước năm 1925,
bà được gặp mặt chồng nửa tiếng đồng hồ tại Nghệ An rồi lại xa cách cho đến lúc
mãn phần. Trong mấy lời chia tay, bà đã nói: “Vợ chồng ly biệt nhau hơn 20 năm,
nay được một lần giáp mặt Thầy, trong lòng tôi đã mãn túc rồi. Từ đây trở về
sau, chỉ mong Thầy giữ được lòng xưa”.
Bà Phan Bội Châu là tấm gương sáng của người Phụ Nữ Việt Nam, một lòng
trung trinh tiết hạnh, thờ chồng nuôi con, giúp cho chồng con giữ vững tinh
thần trên bước đường dấn thân cứu nước.
Hiền Phụ Thái Thị Huyên mất ngày 1 tháng 4 âm
lịch (21-5-1936), thọ 70 tuổi.
Lê Thị Đàn
Bà là người xóm Chỉ, làng Thế Lại, tỉnh Thừa
Thiên Huế, xuất thân trong một gia đình khá giả, có tinh thần yêu nước. Thuở
nhỏ bà nổi tiếng về văn thơ, hiếu học nhưng do hoàn cảnh bị tù đày của cha vì
liên quan đến phong trào Cần Vương, mẹ lại mất sớm, có nhiều mối lo toan vất
vả, bà phải chấp nhận làm vợ viên thông ngôn của toà Khâm sứ Trung kỳ. Khi
chồng đổi vào làm việc, bà không chịu đi theo, quyết ở lại chăm sóc cha và lo
hương khói cho mẹ.
Năm 1903, cụ Phan
Bội Châu vào Huế tìm đầu mối liên lạc với các nhân vật có tiếng ở kinh thành để
chuẩn bị thành lập Duy Tân hội. Cụ đã được Võ Bá Hạp (1876- 1948) tiến cử Lê
Thị Đàn, vận động bà vào hội Duy Tân. Đây là nữ đồng chí đầu tiên mà cụ Phan kết
nạp vào hội.
Trong suốt 7 năm
hoạt động, bà đã cáng đáng nhiều công việc hệ trọng, là người làm cầu nối đảm
nhiệm việc vận chuyển tiền bạc, thư từ, tài liệu từ Quảng Nam- Quảng Ngãi qua
Huế rồi ra Nghệ An, Hà Tĩnh, Hải Phòng để đưa ra nước ngoài cho những học sinh
đang du học tại Nhật Bản. Có thời kỳ bà khoác áo cà sa để làm nhiệm vụ liên lạc
giữa các cơ sở bí mật khắp Bắc-Trung-Nam. Bà được các đồng chí trong Duy Tân
hội hết sức khen ngợi bởi tính cương nghị, trung tín, giỏi tài ứng xử trước
quân thù.
Bên cạnh hoạt động
ở hội Duy Tân, bà còn tham gia các cuộc đấu tranh chống lại sự chèn ép của nhà
nước phong kiến và của thực dân Pháp. Năm 1908 Lê Thị Đàn cùng một số nhân vật
trọng yếu ở Thừa Thiên - Huế như các ông Khoá Mãnh, Khoá Mộng kêu gọi nhân dân
tham gia phong trào kháng thuế; cùng nhân sĩ Nguyễn Đình Tiến cổ vũ học sinh bỏ
trường thi trong kỳ thi khoá sinh ở huyện Hương Trà để phản đối chính quyền
thống trị.
Năm 1910 bà bị thực
dân Pháp bắt giam và tra tấn dã man nhưng vẫn không khai báo điều bí mật nào
của hội Duy Tân. Bà đã tự kết liễu đời mình bằng một dải lụa trắng ở trong nhà
lao, để lại một bài thơ tuyệt mệnh được viết bằng máu thấm đẫm tinh thần yêu
nước, kiên trung bất khuất của mình.
Bài thơ chỉ có ba khổ, được viết bằng chữ Hán,
mang đậm tình yêu non sông đất nước, là bài ca về tấm lòng của người phụ nữ đã
biết hy sinh thân mình cho dân tộc. Chính vì lẽ đó mà cụ Phan Bội Châu đã đặt
tên cho bà là Ấu Triệu ( Bà Triệu nhỏ) để tỏ lòng kính trọng một tấm gương nhi
nữ kiên cường.
Nguyễn Thị Khánh
Bà là con gái đầu của quan Khâm sai Chánh thống Vân Trường Hầu Nguyễn Cửu Vân. Trương Vĩnh Ký trong sách Souvenirs
historique sur Saigon et ses environs (1885) lại ghi là Nguyễn Thị Canh vì phiên âm Latinh từ chữ Khánh.
Trịnh Hoài Đức cũng ghi chép về nhân vật này: “Có chồng là thư ký mỗ, nên người
đương thời gọi
là Bà Nghè mà không xưng
tên. Sở dĩ có tên ấy là do khi đầu bà khai hoang đất ở,
bắc cầu
ngang qua để tiện việc
đi lại, nên dân gọi là cầu Bà Nghè, cũng gọi sông ấy là sông Bà Nghè (Gia Định thành thông chí).
Đại Nam quấc âm tự vị
của Huỳnh Tịnh Của
thì chú: “Trên cầu
qua làng Phú Mỹ,
ở gần
thành cũ Gia Định,
lấy trước
một bà làm nên cây cầu ấy
mà đặt”.
Thái
Văn Kiểm cũng gọi là “rạch Thị Nghè” hay “rạch
Bà Nghè” (Đất Việt
trời Nam)
Huỳnh
Minh trong Gia Định
xưa và nay chép: “Dân chúng địa phương
gọi là Bà Nghè theo chức tước
của chồng
bà là một vị quan văn trong Phiên trấn”
Trần Thị Trâm (1860-1930)
Bà Trần Thị Trâm , tục gọi là bà Lụa. Con gái Tiến sĩ Trần Hữu Dực, làm quan
Tri phủ Vĩnh Tường, là vợ của
liệt sĩ đánh Pháp Hồ Bá Trị hy sinh lúc bà mới hơn hai mươi tuổi.
Bà cũng là mẹ của chí sĩ Hồ Học Lãm
(tức Hồ Xuân Lan). Phong trào Đông du do Phan Bội Châu khởi xướng, Hồ Học Lãm
tức Hồ Xuân Lan hăng hái tham gia và trở thành một yếu nhân.Ông có
công lớn giúp Hồ Chí Minh xây dựng phong trào, đặc biệt là cơ sở cách mạng Việt
Nam tại Trung Quốc. Là chủ nhiệm Biện Xử Xứ Việt Minh tại hải ngoại giúp Bác Hồ
thoát khỏi sự giam cầm của chính quyền Tưởng Giới Thạch.
Bà còn là một
nhà hoạt động nổi tiếng từ thời Cần Vương, một cánh tay đắc lực của cụ Phan
Đình Phùng trong cuộc khởi nghĩa Vụ Quang. Bà Lụa đã cùng với chí sĩ Thân Sơn
Ngô Quảng sang Xiêm La (Thái Lan) mua súng cho nghĩa quân kháng Pháp.
Khi phong trào
Cần Vương bị rã tan, bà Lụa tham gia
phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng. Và bà chính là cầu nối gắn
phong trào này với cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám ở phía Bắc. Bà được cụ Phan Bội Châu đặt danh hiệu là “nữ
kiệt đất Hồng Lam”, là “Tiểu Trưng” .
Sương Nguyệt Anh (1864 - 1921), tên thật là Nguyễn Thị Khuê (theo “Nguyễn chi thế phổ”), tuy nhiên tên khắc trên bia mộ của bà lại là Nguyễn Ngọc Khuê, tự là Nguyệt Anh. Ngoài bút hiệu Sương Nguyệt Anh, bà còn ký nhiều bút hiệu khác như: Xuân Khuê, Nguyệt Nga, Nguyệt Anh... Bà là nhà thơ và là chủ bút nữ đầu tiên của Việt Nam. Tờ báo Nữ giới chung do bà phụ trách là tờ báo đầu tiên của phụ nữ được xuất bản tại Sài Gòn.
Bà Hoàng Thị Loan
Hoàng Thị Loan (Mậu Thìn 1868 - Tân Sửu 1901) Thân mẫu của Hồ Chủ tịch, quê ở làng Hoàng Trù (làng Chùa), xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Bà là con gái yêu của cụ đồ Hoàng Xuân Đường, một gia đình có nhiều người hoạt động yêu nước nổi tiếng. Bà lấy ông Nguyễn Sinh Huy (tức Sắc) sinh hạ được 4 người con: Nguyễn Thị Thanh, hiệu Bạch Liên (1884 - 1950) thường gọi O Thanh, Nguyễn Sinh Khiêm tức Nguyễn Tất Đạt (1888 - 1950) thường gọi Cả Khiêm, Nguyễn Sinh Cung (tức Bác Hồ sau này), và một người con trai út là Nguyễn Sinh Xin mất tại Huế lúc còn rất nhỏ. Bà là người vợ tần tảo, chịu đựng, thay chồng gánh vác mọi việc nhà để ông có điều kiện học hành thi cử. Là một phụ nữ hiền hậu, đảm đang, sống bằng nghề làm ruộng, dệt vải và chăm sóc dạy dỗ các con, một người phụ nữ Xứ Nghệ đặc biệt hy sinh tất cả vì chồng và tương lai con cái. Khi cụ Phó bảng vào Kinh lần thứ nhất 1895, bà đưa con và cùng chồng vào Huế. Cuộc sống, hoàn cảnh của gia đình bà lúc ấy rất khó khăn, nhất là những lúc ông đi kinh lý xa.Tuy vậy, bà vẫn cố gắng làm lụng, chăm sóc dạy dỗ các con theo cách riêng của gia đình. Chính vì vậy mà sau này các con của bà chịu ảnh hưởng rất lớn từ bà và trở thành những nhà yêu nước nổi tiếng, họ cống hiến trọn đời mình cho dân tộc Việt Nam. Bà là người mẹ đã sinh ra người con sau này trở thành danh nhân đất nước - cậu bé Nguyễn Sinh Cung, là người mà bà chăm lo dạy dỗ nhiều nhất, trở thành Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới - Bác Hồ kính yêu!
Bà mất tại Huế khi vừa mới sinh người con thứ tư, năm 1901, hưởng dương 33 tuổi, được an táng tại phía tây triền núi Tam Tầng (còn gọi là Hòn Thiên, hoặc núi Bân).
Năm 1922, cô Thanh con gái đầu của bà đã vào Huế cải táng đưa di cốt bà về Nghệ An - hiện lăng mộ bà đặt tại Đại Huệ, một dãy núi đẹp cả vị trí cảnh quan lẫn phong thủy của huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Tại núi Bân - Huế, chính quyền địa phương đã dựng nhà bia ghi dấu tích và tưởng niệm bà.
Cô Tư Hồng
Cô Tư Hồng là
người lập công ty đầu tiên ở
Việt Nam, là người Việt đầu tiên mắc điện thoại riêng tại nhà và là người Việt
đầu tiên mua xe hơi
Cô Tư Hồng tên thật là Trần Thị Lan, sinh ngày 07/02 năm Kỷ Tỵ
(1869), là con bác Phó nghèo kiết xác ở làng Thành Thị, Hà Nam. Lan mồ côi mẹ từ
năm lên 3 tuổi, phải sống với mẹ kế (là người cháu gái của mẹ đẻ). Do hoàn cảnh
khó khăn, sống chật vật, nên gia đình bác Phó phải tha phương cầu thực nay đây
mai đó Sau nhiều năm lưu lạc, gia đình bác Phó đến ngụ ở Kim Sơn (Ninh Bình).
Năm Lan 20 tuổi, Lan lọt vào mắt xanh của Chánh tổng Kim Sơn.
Ông này ngoài 40 tuổi, góa vợ được vài năm, con cái phương trưởng cả, có tính
nay vợ nọ, mai hầu kia.Dần dà, Chánh tổng Kim Sơn cậy mai mối sang dạm hỏi Lan
làm kế thất. Gia đình bác Phó nghèo đồng ý ngay.Nhưng Thị Lan nhất định không
muốn lấy quan lớn. Thị nghĩ, mình đương son trẻ thế này lại phải lấy lão Chánh
tổng ngoại tứ tuần, “tóc bạc, má hồng” không thể tương dung, phối hiệp với
nhau. Có ngồi trên đống bạc cũng không sung sướng gì. Lũ chị em xấu bụng sẽ bàn
tán thị phi đủ điều. Họ chê cười cô vì tham lam vàng bạc, bán rẻ xuân xanh… Lan
đã trái ý cha, trốn ra thành Nam Định, sau đó lưu lạc ra Hải Phòng khởi đầu của
một đời ngang dọc.
Ra Hải Phòng, Lan xin vào làm việc cho bà chủ hiệu rượu Phát
Lộc, còn gọi là “thím Tài”. Bà này thường dẫn dắt gái quê lên, nuôi dưỡng, sau
gả cho khách người Hoa kiếm lời. Ở với thím Tài khoảng 3 năm, Lan được thím Tài
mai mối lấy chú Hồng người Hoa, chủ tiệm Bình An. Nhờ cuộc hôn nhân này, thím
đã kiếm được một khoản tiền lớn, còn Lan có chồng và trở thành "thím
Hồng", chủ tiệm Bình An.Lấy chú Hồng, Thị Lan từ cô gái quê nghèo khổ bước
lên ngay địa vị phú quý phong lưu, một bà chủ hiệu. Đó cũng là cách cô bước chân
vào con đường buôn bán, sau đó từng bước tiếp cận với những thủ đoạn kinh doanh
để “tay trắng làm nên cơ nghiệp lớn”.Từ ngày có thím Hồng, cửa hiệu Bình An
ngày càng phát tài. Thím Hồng đảm đang, tinh quái, thấy một biết mười, khéo
tính toán lợi hại giúp chồng. Thế nhưng, kể từ ngày thím Hồng sinh ốm (sau lần
về cố hương tìm gia đình nhưng không thấy), chú Hồng đâm ra chơi bời, không coi
sóc hiệu, dẫn đến phá sản, phải bỏ trốn về nước.
Không cam chịu số phận, thím quyết định lên Hà Nội để làm lại từ
đầu. Qua cô Ba Lai vích (một me tây, trước xuống phục vụ chồng ở Hải Phòng, thi
thoảng có lui cửa tiệm Bình An), mối lái, chỉ đường dẫn lối, năm 1895, thím
Hồng lấy quan Tư Garlan và có cái tên Tư Hồng từ đó.
Nhờ khéo ăn ở và chiều chuộng chồng, nên hàng tháng cô Tư Hồng
được chồng cho một khoản tiền lớn. Cô khéo dành dụm, buôn bán, sau vài năm tậu
được ngôi nhà gạch ở phố Hàng Dầu tạo nên cơ đồ độc lập.
Khác với các me tây khác, cô Tư vốn chịu thương chịu khó, lại
học được mánh khóe doanh thương trục lợi của chú Hồng. Số phận lại đưa cô lên
Hà Nội là thương trường rộng lớn hơn, thêm gặp gỡ, nhờ vả được ông chồng có địa
vị, nên cô Tư lấy đó làm cơ hội để mở cửa hàng kinh doanh, thu lợi cho mình.
Không một cuộc bao thầu buôn bán nào là cô không chú ý xem xét.
Năm 1888, thi hành chương trình mở mang xây dựng Thủ đô xứ Đông
Pháp, chính quyền thuộc địa cho đấu thầu phá thành Hà Nội. Giới thầu Bắc cạnh
tranh nhau, nhưng gói thầu ấy lại lọt vào tay cô Tư Hồng. Để sắp đặt công việc,
cô tậu một căn nhà ở phố Hàng Da để làm đại bản doanh đốc thúc thầy thợ. Ông
Phó cựu (sau nhiều năm cha con thất lạc, cô tìm được bố, đón về ở cùng) cũng
góp sức vào việc này.
Bằng đầu óc tính toán và lợi dụng, vừa dọn thành xưa vừa xây nhà
mình, vẫn lo tậu đất làm nhà, Sau 3 năm việc phá thành, cô mua xây một dãy phố
ở Cửa Đông Géneral- Bichot, lại thêm một dãy khác 8 căn ở phố Hàng Da.
Năm 1902, quan Tư Garlan về Pháp, cô Tư một mình buôn bán làm ăn. Thành công
nối tiếp thành công, cô mở rộng kinh doanh lúa gạo ngô, kinh doanh cả dịch vụ
đi tàu bằng đường thủy.
Trong hai năm 1902-1903, ba tỉnh Trung kỳ mất mùa, thóc gạo khan
hiếm nên bán được giá. Đầu năm 1904, Cô Tư chở đầy một thuyền gạo vào Huế để
bán thủ lợi. Nhưng ở thời điểm đó, Chính phủ bảo hộ cấm nạn buôn bán đầu cơ, để
loại trừ nạn “thóc cao gạo kém” cho dân. Linh tính mách bảo, cô Tư nói ngay là
mang gạo vào phát chẩn cho dân. Nhờ “tấm lòng” này, cô Tư được triều đình ân
thưởng 4 chữ “Lạc quyên nghĩa phụ” và sắc phong cho làm “Chánh ngũ phẩm nghi
dân”. Nhờ thế địa vị của cô Tư ngày càng lên cao giữa đất ngàn năm văn vật.
Năm 1906, cô lại tậu thêm được dãy nhà ở phố Richaud, lại làm
xong tòa nhà lộng lẫy ở Hội Vũ, công việc buôn bán ngày càng phát đạt. Sau rất
nhiều thành công cô mua cho ông Phó chức đặc cách Hàm Hàn lâm viện thị độc, lấy
vợ cho anh chồng cũ là chú Hồng, cô đã gặp lại người đàn ông này tại Hải Phòng
vào năm 1906.
Khi ngoài 40 tuổi, dù má hồng “phôi pha”, nhưng bất chấp dư luận
thị phi, cô kết hôn với một linh mục phá giới. Cuộc đời cô bắt đầu đi xuống từ
đây.
Sau khi bị người đời tẩy chay, vợ chồng cô Tư phải dắt nhau đi Cao Miên để đầu
tư xưởng nấu rượu. Từ 1916-1918, xưởng rượu kinh doanh chật vật phải chuyển
nhượng cho người khác với giá rẻ. Tiếp đó, hai vợ chồng chuyển về Sài Gòn kinh
doanh hàng Bắc trên phố Catinat, nhưng gặp đúng vận đen nên thua lỗ.
Năm 1921, cô Tư ở Sài Gòn ra Hà Nội và ốm liệt giường. Dù trên
giường bệnh nhưng cô vẫn làm mọi cách để làm thất bại âm mưu chiếm sản nghiệp
của chồng. Cô mất khi mới 53 tuổi, không có người con nào dù 3 đời chồng. Trước
khi mất, cô được làm lễ rửa tội , hiến một mảnh đất giá trị
khoảng 2 vạn đồng cúng vào nhà Chung, làm thủ tục chia tài sản cho em và các
cháu.
Bà Cả Mọc (1870- 1947)
Tên thật là Hoàng Thị Uyển là người làng Kim Lũ, xã
Đại Kim huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà
Đông (nay thuộc
phường Kim Giang, quận
Thanh Xuân, thành
phố Hà Nội).
Bà là con gái ông cử Hoàng Đạo Thành .Bà còn có người em
ruột tên Hoàng Đạo Thúy. Ông này
là một nhà giáo yêu nước, là một trong những người đầu tiên thành lập Phong
trào Hướng đạo ở Việt Nam.
Năm 17 tuổi, bà xuất
giá. Chồng là Nguyễn Hữu Vị, người làng Nhân Mục, tục gọi là làng Mọc (tỉnh Hà
Đông cũ). Vì thế bà thường được gọi là bà cả
Mọc.
Một năm sau ngày cưới, chồng mất. Mẹ chồng cứ
nghĩ rằng bà sẽ tái giá nên tiền và vốn của gia đình, mẹ chồng đem góp chung
với người ngoài để buôn bán. Công việc kinh
doanh không
xuôi chèo mát mái, mẹ chồng rơi vào cảnh trắng tay. Còn bà Mọc thì không tái
giá. Thế là gánh nặng bên nội, bên ngoại đè nặng lên vai một người phụ nữ mới
vừa bước sang 18 tuổi. Bà bươn chải, thuê lại một gian hàng trên phố để buôn
bán vải. Vậy là, cứ sáng sáng, bà đi bộ từ làng Mọc lên hàng Đào buôn bán rồi
chiều lại đi bộ về nhà chăm sóc mẹ chồng.
Tuy cuộc đời chìm nổi, song tấm lòng nhân ái của bà với những đứa trẻ thì không gì sánh bằng. 30 tuổi, bà lập nhà Tế Sinh - nơi dạy trẻ mẫu giáo đầu tiên ở
Việt Nam,
để rồi cũng là người duy nhất "dám" từ chối bảng vàng do vua Bảo Đại
trao tặng.
Vì những nghĩa cử vừa kể, năm 1946, bà Cả Mọc được Chủ
tịch Hồ Chí Minh mời đến Bắc Bộ Phủ (nay là Nhà khách chính phủ) dùng trà và
nhận lời khen ngợi... Năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, bà Cả Mọc đưa các
cháu sơ tán lên Nội Bài và mất ngày 19
tháng 7 năm đó, ở ngay
nơi mảnh đất có ngôi nhà dành để nuôi dưỡng những người già neo đơn
Cụ Lê Thị Cơ
(1880-1998)
Cụ sinh năm
1880 tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Sau khi lấy chống, cụ theo chồng về sống
ở quê chồng ấp Nhị Tân1, xã Tân Thới Nhì, huyện Hóc Môn, Tp.Hồ Chí Minh cụ mất
ngày 21/10/1998, thọ 118 tuổi. Cụ là người phụ nữ sống thọ nhất Việt Nam
Đạm Phương nữ sử (1881-1947)
Đạm Phương
nữ sử tên thật là Công nữ Đồng Canh, tự Quý Lương, sinh năm Tân Tỵ (1881) tại
phủ Tôn Nhơn, kinh đô Huế. Bà là cháu nội vua Minh Mạng, con gái Hoàng tử thứ
66 - Hoằng Hóa Quận công Miên Triện (1833 - 1905). Với nhiều tác phẩm có giá
trị, Đạm Phương nữ sử không chỉ là gương mặt nổi bật trong lĩnh vực văn chương
mà còn được biết đến trong lịch sử là người đầu tiên ở Đông Nam Á đặt ra vấn đề
giải phóng phụ nữ với những hoạt động tích cực vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt
Nam trong những năm đầu thế kỷ 20.
Thời niên thiếu, bà được học Hán văn,
Pháp văn, Quốc ngữ; và học cả cầm, kỳ, thi, họa, thêu thùa, nấu nướng…Năm 20
tuổi, bà được mời vào Cung lo việc cho Hoàng hậu; dạy cho các Công chúa và cung
nữ. Bà dạy giỏi, được triều đình phong cho bà chức “nữ sử” nên sau này khi viết
báo bà thường ký tên là Đạm Phương nữ sử.
Năm 16 tuổi, Đạm Phương nữ sử lấy Hàn
Lâm viện Cung phụng Nguyễn Khoa Tùng- con trai
thứ 7 của cụ Nguyễn Khoa Luận, sinh hạ được 3 người con trai và 3 người con
gái. Sau cả 3 con trai của bà lần lượt hy sinh trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc Việt, trong đó có nhà lý luận Marxist Hải Triều (Nguyễn Khoa Văn).Cháu
nội của bà là nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. nguyên ủy viên Bộ Chính trị Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam
.
Bài báo đầu tiên của bà được đăng trên
Nam Phong tạp chí (Hà Nội) tháng 7 năm 1918. Kể từ đó, bà lần lượt gửi bài cộng
tác với các báo, tạp chí ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ: Nam Phong tạp chí, Phụ nữ thời
đàm,Tiếng dân, Hữu Thanh, Lời đàn bà… Ngoài ra, bà còn làm trợ bút cho báo
Trung Bắc tân văn và giữ chuyên mục Văn đàn bà của báo này từ năm 1919 đến năm
1928.
Giữa
năm 1926, sau khi tiếp xúc với Phan Bội Châu và các bậc chí sĩ khác, bà công
khai đứng ra tổ chức một trường học nữ công có tên là Nữ công học hiệu tại Huế
nhằm giáo dục nữ giới ý thức được giá trị của nghề nghiệp thủ công. Đây là một
hội đoàn đầu tiên của phụ nữ Việt Nam với tư tưởng canh tân, đề xướng
vấn đề nữ quyền rất tiến bộ đương thời.
Năm 1929, Đạm Phương bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam
bởi hoạt động của bà đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới phong trào yêu nước, bởi
các con trai bà hoạt động trong các tổ chức cộng sản và yêu nước bị lộ. Hai
tháng sau bà được thả nhưng không được tự do hoạt động và ngày càng bị giám sát
chặt chẽ hơn. Các con trai bà, Nguyễn Khoa Tú, Nguyễn Khoa Vĩ cũng lần lượt hy
sinh trong cuộc đấu tranh.
Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), bà tản cư ra
vùng tự do Thanh Hoá với gia đình con trai là nhà văn Hải Triều Nguyễn Khoa Văn.Hai
năm sau, Đạm Phương nữ sử tạ thế ngày 10 tháng 12 năm 1947 tại Lạc Lâm, Thanh
Hoá, hưởng thọ 66 tuổi.
Đạm Phương để lại nhiều trước tác giá trị. Một vài trước
tác đã được xuất bản như: Giáo dục nhi đồng (NXB Thanh Hoá tái bản 1000
cuốn năm 1996), và cũng còn khá nhiều trước tác chưa được xuất bản như Nữ
công thường thức (3 tập), Gia đình giáo dục, tiểu thuyết Kim Tú Cầu,
tiểu thuyết Hồng phấn tương tri, Đạm Phương thi văn tập, Lược khảo về
Tuồng hát An Nam (đã in trên Tạp chí Nam Phong số 76, ra tháng 10/1923)...
Qua di sản cho thấy Đạm Phương nữ sử là nữ tác giả dẫn đầu
về số lượng tác phẩm được viết bằng nhiều thể loại xuất bản trước năm 1945. Đặc
biệt hơn, bà còn là nữ trí thức Việt Nam đầu tiên quan tâm đến việc
dưỡng dục thế hệ trẻ thơ từ lúc lọt lòng mẹ đến khi đến trường.
Nghiên cứu vấn đề phụ nữ qua các bài báo của Đạm Phương nữ
sử, các nhà khoa học nhận định, bà Đạm Phương là người phụ nữ đầu tiên ở Đông
Nam Á đặt ra vấn đề giải phóng phụ nữ ngay từ đầu thế kỷ 20.
Trần Ngọc Viện
Trần Ngọc Viện sinh năm 1884 tại làng Vĩnh Kim (tỉnh Mỹ Tho nay là Tiền Giang), trong một gia đình có truyền thống âm nhạc.
Ông nội bà là Trần Quang Thọ, vốn là một nghệ nhân nổi tiếng trong ban nhạc của cung đình Huế. Khoảng năm 1860, ông xin thôi việc rồi di cư vào Nam. Cha bà là nhạc sĩ Trần Quang Diệm (Năm Diệm, 1853-1925), em bà là Trần Văn Triều (Bảy Triều, 1897-1931) , và bà còn là cô ruột của Trần Văn Khê và Trần Văn Trạch (cả hai đều là con của ông Triều).
Bà Ba Viện biết hát nhiều điệu hát, biết sử dụng nhiều nhạc cụ dân tộc, nhưng điêu luyện nhất là đàn thập lục (đàn tranh) và đàn tỳ bà. Ngoài ra, bà còn có tài thêu thùa may vá, và chính nhờ nghề này, bà đã nuôi sống cả gia đình.
Bà có chồng là con một ông Phán mê âm nhạc ở Mỹ Tho, được hơn một năm thì sinh con, nuôi được ba tháng thì mất, sau đó không lâu thì chồng bà cũng mất theo. Cảm thương tình cảnh góa bụa sớm, gia đình bên chồng cho bà về lại quê nhà.
Lối năm 1915-1916, nhờ ông Diệp văn Cương giới thiệu, bà lên Sài Gòn dạy đờn ở trường nữ sinh Áo Tím (tức trường Gia Long cũ, nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai).
Ở trường, bà đọc được nhiều sách báo tiến bộ của các nhà yêu nước. Rồi bà bị tình nghi làm "quốc sự" cùng với em rể là giáo sư Nguyễn Văn Bá (chủ bút tờ báo Thần Chung), nhưng mãi đến năm 1926, sau lần đi dự đám tang cụ Phan Chu Trinh, bà mới bị nhà trường đuổi việc và từ đó trường Áo Tím cũng dẹp luôn môn dạy đờn.
Về lại quê nhà Vĩnh Kim, bà tham gia hoạt động kháng Pháp. Lúc bấy giờ, nhiều người nghe tiếng, thường xuyên tới lui thăm viếng bà, trong số đó Nguyễn An Ninh, và ông này đã xem bà như người chị ruột.
Năm 1927, Tỉnh bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội Mỹ Tho được thành lập, liền sau đó Chi bộ xã Vĩnh Kim, thuộc tổ chức trên cũng được thành lập.
Để tuyên truyền, khêu gợi lòng yêu nước của nhân dân, đồng thời để tạo ngân quỹ cho Chi bộ xã, bà Ba Viện, có sự góp sức của người em dâu là Nguyễn Thị Dành , bà hăng hái đứng ra thành lập gánh hát Đồng Nữ Ban, đảm nhiệm một lúc nhiều vai trò, nhưng nổi trội hơn cả là vai trò bầu gánh và đạo diễn.
Biết được ý đồ của bà Ba Viện, thực dân Pháp và các cộng sự đã tìm đủ mọi cách cản trở không cho gánh hát của bà công diễn. Nhưng nhờ sự khôn khéo, tinh thần dám đấu tranh của bà, nhờ sự bao che của dân chúng nên gánh hát cũng được biểu diễn nhiều nơi và gây được tiếng vang tốt.
Đến khoảng giữa năm 1929, do sự khủng bố gắt gao của đối phương, gánh hát Đồng Nữ Ban phải giải tán.
Khi không còn đoàn hát nữa, bà Ba Viện về ở nhà người em là ông Bảy Triều, sống một cuộc đời thanh bạch. Ở đây, bà đã hết lòng nuôi dạy các cháu của mình là Trần Văn Khê, Trần Văn Trạch, Trần Thị Mộng Trung...
Ngày 25 tháng 8 năm 1944, bà Trần Ngọc Viện mất, thọ 60 tuổi.
Nữ sĩ Tương Phố (1900 -1973)
Tương Phố tên thật là Đỗ Thị Đàm sinh ngày 14/7/1900, nguyên quán ở xã
Bối Khê, tổng Cẩm Khê, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên và mất ngày 8/11/1973
tại Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Đỗ Thị Đàm là một nữ sĩ
hiện đại, bút danh Tương Phố. Vì bà chào đời tại Đồn Đầm, tỉnh Bắc Giang, nơi
thân sinh của bà làm việc, nên đặt tên bà là Đàm để ghi dấu tích làm kỷ niệm.
(Đàm chữ Hán có nghĩa là Đầm). Bà sinh ra trong một gia đình nho học, thân sinh
của bà là một nhà nho thanh bần là Đỗ Duy Phiên và bà Nguyễn Thị Yêm. Thân mẫu
bà hiếm hoi, chỉ sinh được hai người con gái là Tương Phố và Song Khê. Song Khê
- Đỗ Thị Quế cũng là một nữ sĩ có tiếng lúc bấy giờ. Hai chị em lúc nhỏ học chữ
Hán với thân phụ, và học tiếng Pháp tại trường công lập ở tỉnh nhà Hưng Yên.
Sau đó, bà Đỗ Thị Đàm lên học tại trường nữ Sư phạm Hà Nội.
Năm 18 tuổi, khi theo học trường Sư phạm tại Hà Nội thì bà
kết hôn với ông Thái Văn Du. Ông Du là người Huế nhưng ra Hà Nội học trường
thuốc và đỗ y sĩ. Ít lâu sau ông Du được giấy gọi đi Pháp du học, bà ở nhà sống
với người con trai mới sinh được 6 tháng mà ông Du đặt tên là Thái Văn Châu.
Ông Du
sang Pháp do khí hậu lạnh nên đã mắc bệnh thổ huyết, mấy tháng sau ông phải trở
về Huế là nơi gia đình ông sinh sống. Cho đến khi ông Du tạ thế tại Huế bà
Tương Phố cũng không được gặp mặt
Con đường sáng tạo của
nữ sĩ Tương Phố còn kéo dài sang nửa sau thế kỷ XX, nhưng có thể nói, những tác
phẩm đáng kể nhất, gây ấn tượng nhất được bà viết vào những năm 20 và 30. Đó là
các tác phẩm : Giọt lệ thu (viết năm 1923, in năm 1928), Một
giấc mộng (truyện,1928), Mối thương tâm của người bạn gái ( văn xuôi,1928), Bức thư rơi (văn xuôi,1929), Tái tiếu sầu ngâm (thơ
lục bát, 1930 ), Khúc thu hận (thơ song thất lục bát, 1931)…. Đứng ở hàng đầu
các tác phẩm đó chính là Giọt lệ thu.
Sau năm 1945, bà
vào Nam
sống ở Nha Trang sau đó lên Đà Lạt và đôi khi về Sài Gòn thăm người em ruột là
nữ sĩ Song Khê. Bà mất năm 1973.
Bà Mai Thị Vàng
Bà Mai Thị Vàng sinh năm 1899, quê quán tại thôn Kim Long, xã Hương Long, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của bà là Mai Khắc Đôn, vốn giữ chức Tuần vũ tỉnh Quảng Trị, vốn có tiếng thanh liêm và biết lo cho dân. Năm Duy Tân lên 7 tuổi, theo ý chỉ của nhà vua, ông Mai Khắc Đôn được cử làm Phụ đạo, dạy chữ Hán cho vua.
Cuối năm 1915, lễ hỏi giữa vua Duy Tân và bà Mai Thị Vàng được cử hành; tới ngày 30 tháng 1 năm 1916, lễ nạp phi được tổ chức trọng thể ở bộ Lễ. Bà Mai Thị Vàng được phong làm Hoàng quý phi của vua Duy Tân.
Bà Mai Thị Vàng rất được Duy Tân yêu thương, thường cho ngồi ăn chung - điều trái với điển lệ triều Nguyễn, vốn quy định các bà vợ vua không được ngồi cùng mâm với vua. Theo như vua Duy Tân giải thích thì ông cưới bà Mai Thị Vàng là để đền ơn giáo dục của phụ đạo Mai Khắc Đôn. Phụ đạo đã dạy cho ông những điều mà không một đại thần nào làm việc dưới sự điều khiển của Pháp dám dạy.
Cuối năm 1916, vua Duy Tân khởi nghĩa chống Pháp không thành nên bị thực dân Pháp đày sang đảo Réunion thuộc Pháp trên Ấn Độ Dương. Đi cùng vua có Hoàng mẫu Nguyễn Thị Định, Hoàng phi Mai Thị Vàng và em ruột là Mệ Cưởi mới 12 tuổi. Lúc theo chồng lên đường, bà Mai Thị Vàng đã có mang 3 tháng và bị sẩy thai. Sau hai năm ở đảo Réunion, vì không hợp thủy thổ, khí hậu, bị đau ốm luôn. Bà cùng mẹ chồng là bà Định cùng em ông trở về Tổ quốc.
Nói về cuộc sống ở đảo Réunion, bà Mai Thị Vàng từng chia sẻ: "Ở đảo Réunion rất dễ chịu. Người dân toàn làm một nghề chài lưới. Họ vui vẻ lắm, mua bán cũng tử tế. Nhưng tôi không biết làm sao, ở đó phong thổ tuy tốt nhưng mà hình như sức khoẻ tôi không hợp, nên hay đau. Vì thế, tôi xin Ngài cho tôi về... Ngài còn cho phép tôi tự ý đi bước nữa... Con nhà nề nếp như tôi dầu thế nào cũng phải giữ danh giá. Vẫn biết tuổi trẻ chưa dám chắc ở mình, nhưng bây giờ có nói đến việc gì cũng là khó. Thôi thì tôi tưởng chỉ có hy sinh cái đời tôi cho Ngài cho trọn".
Khi ở đảo Réunion, vua Duy Tân vẫn thường gửi thư về cho bà. Năm 1925, Duy Tân đã gửi thư về cho hội đồng tộc kèm giấy ly hôn bà Mai Thị Vàng, xin Hội đồng chứng nhận để bà đi lấy chồng khác. Khi đó, bà mới 27 tuổi nhưng cương quyết thủ tiết với chồng cho đến ngày qua đời (1980) tại Hậu thôn Kim Long.
Ân phi Hồ Thị Chỉ
Theo giai thoại được truyền tụng trong dân gian thì Khải Định bị bệnh “bất lực” nhưng lại có tất cả 12 bà vợ, trong đó có 2 bà được cưới hỏi theo đúng nghi lễ triều đình, đó là bà Trương Thị đã xuất gia tu hành trước khi Khải Định lên ngôi và bà Hồ Thị Chỉ cưới sau ngày lên ngôi. Khải Định đã gặp Thượng thư Hồ Đắc Trung ngỏ lời cầu hôn với tiểu thư quận chúa Hồ Thị Chỉ. Gia đình biết tình cảm của con gái với cựu hoàng Duy Tân là rất sâu nặng. Nhưng đồng thời cũng lường được hậu quả hết sức nặng nề khi con gái từ chối lời cầu hôn của Khải Định. Cuối cùng nghe theo lời khuyên giải, hy sinh tình cảm riêng tư vì sự sống còn của gia đình, Hồ Thị Chỉ đã gạt nước mắt chấp nhận.
Ngày 3/12/1917 lễ nạp phi đã diễn ra long trọng và Hồ Thị Chỉ được phong làm Nhất giai ân Phi, là tước hiệu cao quý nhất trong hàng “cửu giai” do triều Nguyễn ban tặng cho các bà vợ của vua trong nội cung. Bà rất được nể trọng với tư cách là hoàng hậu xuất hiện cùng Khải Định trong những lần tiếp tân, yến tiệc với quan khách trong ngoài nước. Bà xinh đẹp, thông thái, am hiểu văn hóa, ứng xử với phương Đông phương Tây, nói tiếng Pháp rất thông thạo,thường làm phiên dịch cho nhà vua.
Sau khi vua Khải Định qua đời (1925). Vĩnh Thụy lên ngôi kế vị, với niên hiệu là Bảo Đại. Vua Bảo Đại lập lại các danh hiệu Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu, Đông Cung Thái Tử,… và phong cho mẹ đẻ (bà Hoàng Thị Cúc) chức Đoan Huy Hoàng Thái Hậu tức bà Từ Cung có quyền thế bậc nhất trong nội cung, còn bà ân Phi Hồ Thị Chỉ (mẹ đích)không được sống trong nội cung mà phải về sống ở Cung An Định rồi chuyển về ngôi biệt thự 145 (79D cũ) ở đường Phan Đình Phùng (Huế) trú ngụ.
Cuộc đời thăng trầm cay đắng, hai lần “nạp phi”, không có con, bà ân Phi Hồ Thị Chỉ phiền muộn âu sầu, mắc phải chứng trầm cảm, rối loạn tâm thần. Bà sống lay lắt, đơn độc như một cái bóng. Ngày ngày bà mang một rổ bánh nậm, lọc ra bán ở chợ An Cựu để kiếm sống qua ngày, ai thích thì cho, ai không thích không bán, ăn mặc và chỗ ở rất luộm thuộm. Bệnh thần kinh ngày càng có chiều hướng nặng hơn. Năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng,hai người anh ruột của bà là Hồ Đắc Điềm và Hồ Đắc Di từ Hà Nội vào Huế đã gặp lại người em gái của mình sau bao năm xa cách. Anh em ôm chầm lấy nhau và những giọt nước mắt xúc động trào dâng không nói nên lời. Từ đó cuộc sống của bà được cải thiện hơn, tỉnh táo hơn, không đi lang thang nữa. Hàng tuần bà vẫn đi cầu kinh ở Dòng Chúa Cứu Thế. Bà mất vào năm 1985, hưởng thọ 83 tuổi. Mộ phần của bà được an táng bên cạnh song thân trong khuôn viên lăng mộ Hồ Đắc trên ngọn đồi thông gần chùa Hồng ân do ni trưởng Thích Nữ Diệu Không sáng lập và trụ trì. Hiện nay tại khu vực này có nhà Tưởng niệm họ Hồ và gia tộc Hồ Đắc mới được xây cất bên cạnh bảo tháp của Sư bà Diệu Không
Đoan huy hoàng thái hậu.
Sinh năm 1890, Hoàng Thị Cúc là kết quả của một cuộc tình vụng trộm giữa viên tri huyện Hòa Đa (tỉnh Bình Định) Hoàng Văn Tích với người chị vợ của ông là La Thị Sơn, khi bà này từ quê vào Bình Định chăm sóc em gái của mình là La Thị Huân, chánh thất của ông Hoàng Văn Tích. Sau khi sinh nở, bà La Thị Sơn giao con gái cho vợ chồng viên tri huyện nuôi dưỡng để đi lấy chồng. Hoàng Thị Cúc lớn lên trong sự dưỡng dục của người dì và cũng là mẹ đích của bà. Chẳng may, vợ chồng tri huyện họ Hoàng đều mất sớm, nên người con trai cả của ông Hoàng Văn Tích là Hoàng Trọng Khanh trở thành người chăm sóc bà và các anh chị em trong gia đình Hoàng tri huyện. Gia cảnh ngày một khó khăn nên ông Hoàng Trọng Khanh đã “tiến” bà vào cung làm thị nữ để hầu hạ bà Thánh Cung Nguyễn Thị Nhàn và bà Tiên Cung Dương Thị Thục, hai bà vợ góa của vua Đồng Khánh. Đây là cơ hội để bà Hoàng Thị Cúc “gặp gỡ” Phụng Hóa công Nguyễn Phước Bửu Đảo, con trai cả của vua Đồng Khánh với bà Tiên Cung, người sau này trở thành vị vua thứ 12 của triều Nguyễn. Năm 1913, bà sinh hạ cho ông hoàng Bửu Đảo công tử Nguyễn Phước Vĩnh Thụy, mà theo lời đồn đãi trong dân gian xứ Huế, thì Phụng Hóa công chỉ là “người đổ vỏ” cho hoàng thân Hường D., người ở hàng vai ông nhưng lại là bạn bè thân thiết của ông hoàng Bửu Đảo.
Thực hư chuyện này không ai rõ, chỉ biết rằng Hoàng Thị Cúc là người được Phụng Hóa công Bửu Đảo rất sủng ái. Năm 1916, Phụng Hóa Công được đưa lên ngai vàng trở thành vua Khải Định (1916 – 1925), thì bà Hoàng Thị Cúc được vua phong là Huệ tần. Đến năm 1918, bà được tấn phong là Huệ phi, bậc thứ hai (Nhị giai phi) trong cửu giai (chín bậc) mà các vua triều Nguyễn phong cho các phi tần của mình.
Năm 1925, vua Khải Định thăng hà, Đông Cung thái tử Vĩnh Thụy đang học ở Pháp được gọi về để kế vị ngai vàng, trở thành vua Bảo Đại, rồi lại sang Pháp tiếp tục du học, đến năm 1932 mới chính thức hồi loan để trị vì đất nước. Ngày 25.3.1933, vua Bảo Đại tôn phong cho mẹ mình là Đoan Huy hoàng thái hậu, song từ đấy về sau người dân xứ Huế luôn gọi bà một cách tôn kính là Đức Từ Cung hay Đức Từ.
Sau khi triều Nguyễn cáo chung, vua Bảo Đại rày đây mai đó và sau cùng phải lưu vong nơi xứ người, nhưng Đức Từ Cung thì vẫn “neo giữ” cả thể xác lẫn tâm hồn ở xứ Huế. Bà tự bỏ tiền túi để sửa chữa Thái Miếu (nơi thờ 9 vị chúa Nguyễn), Hưng Miếu (nơi thờ thân phụ và thân mẫu của vua Gia Long) và các tôn lăng của các thành viên trong hoàng gia triều Nguyễn đã bị hư hại do chiến tranh. Bà duy trì các hoạt động cúng bái, lễ nghi nơi tôn miếu và lăng tẩm các vị vua Nguyễn. Đặc biệt, nhờ những nỗ lực không mệt mỏi của bà mà Đoàn Ba Vũ, đoàn ca múa cung đình thời Nguyễn, được duy trì cho đến ngày hòa bình lập lại. Nhờ vậy, Huế mới giữ được một di sản ca múa nhạc cung đình để phục vụ du khách và phát triển du lịch ở Thừa Thiên Huế và là cơ sở góp phần xây dựng hồ sơ đăng ký Nhã nhạc cung đình Huế là di sản văn hóa của nhân loại.
Đức Từ Cung là người có nhiều công lao trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam vào đầu thập niên 1930. Bà đã tác động với vua Bảo Đại để thành lập An Nam Phật học hội mà bản thân nhà vua là Hội trưởng danh dự. Bà cũng tác động để vua Bảo Đại sắc phong các ngôi chùa: Tây Thiên, Tường Vân, Trúc Lâm (ở Huế) và chùa Khải Đoan (ở Buôn Ma Thuột) là chùa “sắc tứ” của triều đình Huế.
Sau khi Ngô Đình Diệm “lật đổ” Quốc trưởng Bảo Đại để nắm trọn quyền bính trong cuộc trưng cầu dân ý giả hiệu vào ngày 4.10.1955, chính quyền họ Ngô đã đối xử khắc bạc với Đức Từ Cung. Bà bị trục xuất khỏi cung An Định, vốn là biệt cung do vua Khải Định xây bằng tiền túi để tặng cho Đông Cung thái tử Vĩnh Thụy, và là nơi trú tất của Đức Từ Cung kể từ khi triều Nguyễn cáo chung. Bà chuyển đến sinh sống trong ngôi nhà ở cạnh cung An Định do bà tự mua. Tại đây, bà lập bàn thờ để thờ vua Khải Định cùng các thành viên trong gia đình và là nơi cất giữ những bảo vật của vương triều Nguyễn. Theo một tài liệu do nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân mới công bố vào tháng 4.2011, chính Đức Từ Cung đã giao cho Thị vệ Nguyễn Đức Hòa bí mật chuyển lên Dinh Ba ở Đà Lạt hai két sắt chứa đầy ngọc ngà châu báu của vương triều Nguyễn để cất giữ. Sau đó, bà đã bàn giao hai két sắt này cho chính quyền cách mạng.
Năm 1972, chứng kiến cảnh chiến tranh ngày càng ác liệt, Đức Từ Cung đã đứng ra tổ chức một cuộc lễ tế Giao quy mô tại đàn Nam Giao ở Huế với sự tham dự của Nguyễn Phước tộc và sự chứng kiến của đại diện chính quyền tỉnh Thừa Thiên lúc bấy giờ, để cầu nguyện cho hòa bình, cho quốc thái dân an. Đây là lễ tế Giao đầu tiên được tổ chức tại Huế sau khi triều Nguyễn kết thúc, và cũng là lễ tế Giao cuối cùng do một thành viên của hoàng gia triều Nguyễn tổ chức.
Đức Từ Cung mất ngày 3.10.1980, hưởng thọ 91 tuổi. Lăng mộ của bà được xây cất ở làng Dương Xuân, cạnh lăng vua Đồng Khánh và lăng vua Tự Đức
Vân Đài Nữ Sĩ (1903- 1964)
Vân Đài Nữ Sĩ tên thật
là Đào Thị Minh, là nữ nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Bà là một
trong 46 thi nhân được Hoài Thanh tinh tuyển trong tập Thi nhân Việt Nam. Năm 1943,
Bà cùng các nhà thơ khác là: Hằng Phương, Anh Thơ, Mộng Tuyết cho ra đời tập
thơ Hương Xuân. Đây được xem là tập thơ bằng chữ quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam của các tác
giả nữ. Ngày 29/1 là kỷ niệm 111 năm ngày sinh của Bà (29/1/1903).
Vân Đài Nữ Sĩ quê ở
làng Tự Tháp, huyện Thọ Xương, nay thuộc Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Bà
làm thơ từ rất sớm (1922). Đến những năm 1935 - 1944, Bà đã có thơ đăng trên
các báo Phụ nữ tân văn (Sài Gòn), Phong Hóa, Ngày nay, Đàn bà(Hà
Nội)… Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Vân Đài gia nhập quân đội, có mặt
trên báo Xông Pha, Quân Việt Bắc, Quân Du Kích, tập
san Cứu Quốc.
Mùa Hái Quả (1966) là tuyển tập thơ tiêu biểu cho ba mươi năm lao động
nghệ thuật của Vân Đài. Nữ thi sĩ còn viết nhiều sách dạy về nữ công gia chánh
mang tính giáo dục mà gần gũi thân thiết như tên gọi thân thương trên bìa: Thanh Lịch, Làm bánh, Món ăn thường thức. Riêng
cuốn Làm bếp giỏi của Bà đã tái bản trên ba mươi lần.
Bên cạnh là một thi
sĩ nổi tiếng với giọng thơ nhẹ nhàng êm ái, Vân Đài còn là một chiến sĩ tham
gia các hoạt động cách mạng từ rất sớm. Vào những năm 1930, Bà đã được chính
nhà báo cách mạng Trần Huy Liệu tuyên truyền giác ngộ, đưa vào tham gia phong
trào tiến bộ đòi dân sinh dân chủ, dân quyền và nam nữ bình quyền tại Sài Gòn –
Chợ Lớn.
Khi bị địch bắt, Bà
vẫn tỏ rõ ý chí gang thép của một chiến sĩ cách mạng kiên cường, thể hiện qua
giọng thơ rắn rỏi: “Nước non đã hẹn cùng chung mộng/Quyết đạp
cho tan nỗi bất bình” đến những lời thơ rất nhẹ nhàng mà tự hào, kín
đáo khiến người khác cảm phục: “Áo vẫn cài khuy, chân vẫn vững”. Chỉ có bốn từ “Áo vẫn cài khuy ” nhưng đây là một lời nhắn gửi đanh thép,
một công bố chiến thắng gan góc, một dáng đứng tự hào của người con gái Việt
Nam trước kẻ thù.
Cách mạng tháng Tám
thành công (1945) đã cứu Vân Đài thoát khỏi nhà tù hiến binh Nhật. Sau thời kỳ
hòa bình lập lại trên miền Bắc (1954), Bà tiếp tục làm thơ, viết truyện, viết
báo (báo Văn Nghệ, Phụ nữ Việt
Nam) rồi về công tác ở Hội Liên hiệp Phụ nữ Trung
ương và Hội Nhà văn Việt Nam cho đến khi nghỉ hưu. Bà mất vào ngày 31/12/1964.
Phan Thị Bạch Vân (1903- 1980)
Phan Thị Bạch Vân tên thật là
Phan Thị Mai, là con thứ năm trong gia đình quan lại thanh bạch. Bà sinh năm
1903, quê ở làng Bình Trước, tổng Phước Vĩnh Thượng, tỉnh Biên Hòa (nay
là phường Thanh Bình, thành phố Biên Hòa). Cha làm tri huyện, mất sớm, để lại
vợ và bảy người con. Nhà nghèo nên năm 17 tuổi bà đã đi lấy chồng. Không may
gặp người chồng không tốt nên cuộc hôn nhân tan vỡ. Buồn phiền, bà bắt đầu viết
văn. Những bài báo đầu tay của bà được đăng trên Đông Pháp thời báo từ năm 1928. Từ duyên văn chương mà bà
đã gặp người bạn đời sau này là ông Võ Đình Dần. Cũng từ 1928, bà theo chồng về
Gò Công sinh sống và sáng lập ra Nữ lưu thơ quán,
trụ sở đặt tại số 24 - 26, đường Chủ Phước, Gò Công.
Sức lan
tỏa của Nữ lưu thơ quán rất rộng. Nữ sĩ Mộng Tuyết trong bút ký Đốt sách cho biết Đông Hồ và bà hồi đó đã say
mê đọc bộ sách Nữ lưu tùng thư của Phan Thị Bạch Vân cùng với các
sách báo cấm khác. Riêng Phan Thị Bạch Vân cũng là một cây bút rất đa dạng. Bà
dịch thuật, viết xã thuyết, làm thơ, sáng tác tiểu thuyết… Là trợ bút của Đông Pháp thời báo, bà viết về rất nhiều
đề tài. Bà kêu gọi “Phụ nữ Việt Nam ta thử lập vài cái học bổng”,
(số 650 - 1927), bà muốn “Mưu trừ tuyệt nghề xe kéo” (số 704 - 1928)
và làm cả thơ trào phúng (Đồng bạc Tây và đồng bạc Pháp, số 642 - 1927)...
Trong bộ tiểu thuyết mang nhiều
nét tự thuật Lâm Kiều Loan,
Phan Thị Bạch Vân cũng cho nhân vật bộc lộ những suy nghĩ của một người phụ nữ
mới: “Tôi nghe mấy lời mẹ dạy mà tủi thầm cho cái thân nhi nữ. Mình cũng mắt
cũng tai cũng đầu cũng óc như nam nhi, cớ sao nam nhi người ta lại có quyền
vùng vẫy nơi bể học rừng văn, còn mình lại buộc trở về toan đi nương thân gởi
phận, chực bám vào người là cớ làm sao”.
Những bộ
tiểu thuyết như Giám hồ nữ hiệp, Nữ anh
tài, Kiếp hoa thảm sử được
viết với bút danh Hoàng Thị Tuyết Hoa cũng rất tiến bộ trong việc thể hiện
người phụ nữ mới.
Riêng về tiểu thuyết, có thể nói Phan Thị Bạch
Vân đã đóng góp cho văn học Nam Bộ một phong cách riêng với tư tưởng rất tiến
bộ. Tác phẩm của bà nói chung vượt trội cả về nội dung và nghệ thuật so với các
cây bút nữ đương thời.
Tất
nhiên là nhà cầm quyền lúc đó không thể để yên cho việc công khai truyền bá tư
tưởng “thương nước thương dân, lo cho hậu vận nước nhà, ham mến quốc văn, bảo
tồn quốc túy” của Nữ lưu thơ quán. Ngay cả tên tủ sách “Tinh thần phụ nữ”
cũng bắt buộc phải đổi thành “Sách nữ lưu” (le livre des femmes). Bảy đầu sách
của Nữ lưu thơ quán đã bị cấm lưu hành, trong đó có ba
cuốn của Phan Thị Bạch Vân là Gương nữ kiệt, Giám hồ nữ
hiệp và Nữ anh tài, Băng tâm ngọc chất của Huỳnh Anh Thị… Thư quán cũng bị
đóng của sau đó ít lâu. Đến ngày 10-2-1930, Phan Thị Bạch Vân bị thực dân Pháp
giải ra tòa “về tội phá rối cuộc trị an trong xứ bằng văn chương tư
tưởng” lúc đang bụng mang dạ chửa. Theo lời con gái của bà, có một quan
tòa người Pháp do có cảm tình với bà nên đã có lời nói đỡ trong phiên tòa, nhờ
đó mà bà không phải chịu cảnh tù đày.
Bà mất ngày 2-8-1980 (tức ngày 22-8 Canh Thân)
tại TP.HCM
Sư bà
Diệu Không (1905-1997)
Tên thế danh của sư bà là Hồ Thị Hạnh , bà
được gọi là "quận chúa" vì thân phụ là quận công Hồ Đắc Trung. Thân
mẫu là cụ bà Châu Thị Ngọc Lương, người làng An Lai. Sư bà là em ruột của sư bà
Diệu Huệ.
Thiếu thời theo Nho học.
Lớn lên theo Tây học. Bẩm chất thông minh. Tính tình hiếu hòa, hiếu đạo.
Mẫu người của bà vừa đạo đức, vừa văn nghệ. Thích hoạt động nhất là về mặt từ
thiện xã hội. Bà được thọ sanh trong một gia đình danh giá vọng tộc, khoa bảng,
nhưng uyên thâm về Phật học.
Năm
1929, bà vâng lời song thân kết duyên cùng với cụ Tham tá Cơ mật viện Cao Xuân
Xang (lúc nầy cụ Cao Xuân Xang vừa góa vợ ba năm, để lại sáu con nhỏ).Năm
1930, bà sinh hạ được một con trai là Cao Xuân Chuân. Cùng trong thời gian nầy,
chồng bà lại phát bệnh. Tình nghĩa của bà chỉ vỏn vẹn có 11 tháng, thì sống
cảnh đơn chiếc. Mới 24 tuổi bà chấp nhận sống cuộc đời góa bụa với bảy đứa con (đứa con đầu lòng của bà vợ trước
11 tuổi, đứa con nhỏ 3 tuổi cộng thêm đứa con mà bà mới sanh). Bà thủ tiết thờ chồng nuôi con. Bà
chịu đựng mọi thử thách, nhất là về mặt tinh thần và tình cảm.
Hằng
ngày, bà thường hoạt động cho mặt xã hội từ thiện, công việc gia đình với đàn
con thơ dại ; nhưng, bà vẫn thường lên chùa bái sám, học giáo lý
Phật đà. Khi đàn con khôn lớn, bà từ từ thoát ly cuộc sống hẹp hòi của gia đình
để hướng nẻo giải thoát. Bà giao phó công việc gia đình cho cô con gái thứ năm
và bước vào cửa thiền .Bà xuất gia đầu Phật với pháp danh là Thích Nữ Diệu
Không. Sư bà đã thành lập nhiều chùa sư nữ ở miền Nam Việt Nam, ba ngôi
nổi tiếng nhất Diệu Đức, Hồng Ân, Kiều Đàm
ở Huế
Manh Manh nữ sĩ
Nguyễn Thị Manh Manh là biệt hiệu, nữ sĩ thường ký
tắt là Manh Manh, tên thật là Nguyễn Thị Kiêm, sinh năm 1914 tại tỉnh Gò Công
(Nam phần). Con của một công chức, tri huyện Nguyễn Đình Trị, tục danh Huyện
Trị; ông cũng là một cây bút trong làng báo lúc bấy giờ.
Thuở nhỏ nữ sĩ Manh Manh học ở trường Áo Tím, tức
trường Gia Long ngày nay. Sau khi tốt nghiệp bằng Thành chung, gặp ngay những
nhát búa đầu tiên của ông Phan Khôi khai sơn phá thạch cho nền thơ mới; lúc bấy
giờ nữ sĩ là phóng viên của một tờ báo ở Sài Gòn, một mặt cổ võ cho thơ mới và
sáng tác theo lối thơ phá thể, một mặt gây phong trào Nữ lưu và Văn học, đánh
thức giới phụ nữ, khơi động nguồn máu văn học của các bà Đoàn Thị Điểm, bà
Huyện Thanh Quan v.v...Một thời kỳ (từ 1932), những con người từ chốn buồng the
đứng ra làm một cuộc cách mạng toàn diện mà nữ sĩ Nguyễn Thị Manh Manh đã đóng
góp không nhỏ vào văn học nước nhà.
Sau cuộc khởi nghĩa 1945, khoảng 1950, nữ sĩ sang
Pháp rồi không nghe tin tức gì cho đến ngày nay.
Nàng Hai
Bến Nghé
Chuyện
kể rằng, hồi đó ở Bến Nghé có đôi nam nữ yêu thương nhau, nàng tên là Hai,
chàng tên Tri, nhưng vì hoàn cảnh không lấy được nhau. Sau đó nàng bị ép lấy
Lãnh binh Sắc, một tên hung bạo… Do nghe lời xúc xiểm rằng vợ mình vẫn lén lút
hẹn hò với người yêu cũ nên Sắc lập kế bắt trói đôi “gian phu, dâm phụ”, thả bè
trôi sông. Ngày đó dân cư thưa thớt, dưới sông sấu lội, trên bờ cọp beo… Chiếc
bè chuối trôi được mấy ngày thì viên trung úy Barbé ở chùa Khải Tường (dạo ấy
Pháp thường trưng dụng các ngôi chùa để đóng binh), trong một lần đi săn phát
hiện, liền nổ súng vào bầy cá sấu đang đuổi theo bè và vớt những người bị trói
lên bờ. Tri đã bị cá sấu đớp cụt một chân, chết cứng, còn nàng Hai đang thoi
thóp… Cứu được người đàn bà trẻ đẹp, Barbé ép nàng sống chung với mình. Nàng
Hai giả vờ ưng thuận với điều kiện được trở về nhà thu xếp việc riêng. Thấy
nàng trở về, tên Lãnh binh Sắc lại điên tiết, giam nàng trong một cái hố… Rất
may trên đường chuyển quân ngang qua đây, Bình Tây đại nguyên soái Trương Định
nghe thuật lại câu chuyện nên đã ra lệnh thả nàng và trừng trị tên lãnh binh
hung bạo. Sau khi được Trương Định tác động, nàng Hai đã nhận lời dùng mỹ nhân
kế để tiêu diệt viên sĩ quan Pháp…
Tác phẩm Scènes de la
vie Annamite (NXB P.Ollendorff, Paris 1884) của
hai tác giả Le Vardier và De Maubryan có kể lại chuyện viên trung úy Barbé bị
cô gái Bến Nghé tên Thị Ba (chứ không phải Hai), người đã theo quân Trương Định,
dụ dỗ từ đồn chùa Khải Tường đến đồn chùa Ô Ma (Pagode des Mares - Thị Nghè),
vào đêm 7.12.1860. Dọc đường đi đến điểm hẹn với người đẹp, Barbé đã bị nghĩa
quân Trương Định phục kích bất ngờ giết chết (câu chuyện này cũng đã được đem
lên sân khấu qua vở cải lương nổi tiếng Nàng Hai Bến Nghé do
nữ nghệ sĩ Mỹ Châu đóng vai chính).
Nam Phương Hoàng Hậu
Nam Phương Hoàng Hậu, khuê danh Nguyễn Hữu Thị Lan hay là Marie Thérèse, sinh năm 1914 tại Gò Công Nam phần, con của đại điền chủ Nguyễn Hữu Hào và là cháu ngoại của ông Lê Phát Đạt, tức Huyện Sỹ , một trong những người giàu có nhất miền Nam. Ông huyện Sỹ là người đã bỏ tiền ra xây cất Nhà Thờ ở đường Bùi Chu cũ, nay là Tôn Thất Tùng Quận II Sài Gòn tên là Nhà Thờ Huyện Sỹ
Năm 1926, Nguyễn Hữu Thị Lan, 12 tuổi, được gia đình cho sang Pháp tòng học tại trường Couvent des Oiseaux, một trường nữ danh tiếng thuộc loại nhà giàu ở Paris do các nữ tu điều hành. Sau khi thi đậu Tú tài vào năm 1932, cô gái miền Nam theo chuyến tàu của hãng Messagerie Maritime trở về nước. Tình cờ trên chiếc tàu nầy có ông vua Việt Nam hồi loan sau khi hoàn tất việc học, đó là vua Bảo Đại mà hồi đó giới sinh viên ở Pháp thường gọi một cách thân mật là Prince Vĩnh Thụỵ
Tuy cùng trên một chiếc tàu bồng bềnh giữa đại dương một thời gian khá lâu nhưng Nguyễn Hữu Thị Lan chưa có cơ hội làm quen với vị Vua trẻ tuổị. Mãi cho đến gần một năm sau, nhân dịp vua Bảo Đại nghỉ mát tại Đà Lạt và do sự sắp đặt của Toàn quyền Đông Dương, viên Đốc Lý (tức Thị Trưởng sau nầy) thành phố Đà Lạt tổ chức một buổi dạ tiệc tại khách sạn Palace (sau gọi là khách sạn Langbian) để tìm cách cho hai người gặp nhau.
Tối hôm đó, trong chiếc áo lụa màu thiên thanh, Nguyễn Hữu Thị Lan đã xuất hiện trước Hoàng đế Bảo Đại để rồi chiếm gọn trái tim của một người có địa vị cao nhất nước.
Ðám cưới của vị thiếu quân hào hoa với một nữ lưu tràn trề hương sắc miền Nam đã diễn ra tại Huế ngày 20-3-1934. Ngay ngày hôm đó Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong làm Hoàng hậu với danh hiệu Nam Phương. Sự kiện Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong Hoàng hậu ngay sau khi cưới là một biệt lệ đối với các bà vợ Vua thuộc triều Nguyễn. Vì mười hai đời vua Nguyễn trước kia, các bà vợ Vua chỉ được phong tước Vương phi, đến khi chết mới được truy phong Hoàng hậụ.
Sau lễ cưới, vua Bảo Đại cùng hoàng hậu Nam Phương dọn về ở tại điện Kiến Trung thuộc khu vực cấm thành. Điện nầy xây cất từ thời vua Khải Định nhưng được sửa chữa và tân trang các tiện nghi Tây phương vào đầu triều vua Bảo Đại.
Tại điện Kiến Trung, Hoàng hậu Nam Phương đã lần lượt hạ sanh 5 người con gồm có:
-Thái tử Bảo Long, sinh ngày 4-1-1936
-Công chúa Phương Mai, sinh ngày 1-8-1937
-Công chúa Phương Liên, sinh ngày 3-11-1938
-Công chúa Phương Dung, sinh ngày 5-2-1942
-Hoàng tử Bảo Thắng, sinh ngày 9-12-1943
Thường ngày, ngoài việc chăm sóc dạy dỗ con cái, thỉnh thoảng hoàng hậu Nam Phương phải cùng các quan ở Bộ Lễ bàn thảo các lễ lạc trong cung đình, lo việc cúng giỗ các Tiên đế và đi vấn an sức khỏe các bà Tiên cung và Hoàng thái hậu Từ Cung, tức mẹ vua Bảo Đạị Tóm lại, bà rất chu toàn bổn phận làm dâu.
Ngoài việc quản trị nội cung như đã nói trên đây, hoàng hậu Nam Phương còn tham gia các việc xã hội và từ thiện. Như đi thăm trường nữ Trung học Đồng Khánh ở đường Jules Ferry (tức Lê Lợi sau nầy), bà thường tiếp xúc với các Giáo sư, nhắc nhở họ cố gắng làm tròn thiên chức của một nhà mô phạm, đi thăm Nữ Công Học Hội ở đường Khải Định (tức đường Nguyển Huệ ngày nay).
Theo lời nữ sĩ Đạm Phương sau nầy kể lại thì có lần Hoàng hậu Nam Phương bảo bà làm đơn xin phép Bộ Giáo Dục đem môn nữ công gia chánh vào học đường. Hàng năm bà đều tham dự các buổi phát giải thưởng cho các học sinh giỏi tổ chức tại trung tâm Accueil gần nhà dòng Cứu Thế.
Ngày nay, không ai còn lạ lùng khi trông thấy quý vị đệ nhất phu nhân xuất hiện nơi công cộng để giúp chồng trong việc ngoại giao, nhưng cách đây sáu mươi năm, Hoàng hậu Nam Phương giúp vua Bảo Đại trong việc tiếp kiến các nhà ngoại giao là một điều hiếm có.
Chi tiết đáng kể nhất là việc Hoàng hậu Nam Phương đã đem lại hòa khí giữa các chức sắc đạo Thiên Chúa ở Việt Nam với Hoàng tộc nhà Nguyễn. Vì như ta đã biết, đạo Thiên Chúa với các vị vua triều Nguyễn vốn có những căng thẳng lịch sử thì Nam Phương hoàng hậu, như một làn gió mát, đã thoa dịu sự căng thẳng lịch sử tưởng chừng như không bao giờ thay đổi.
Trong một dịp tiếp xúc riêng tư, một người Việt Nam trong ngành ngoại giao trước năm 1975 hiện ở Pháp nói rằng bức thông điệp trên đây đã được bà Nam Phương gởi đến Tổng Thống Truman của Hiệp Chủng Quốc vào đầu năm 1946 để nhờ can thiệp
Bà Hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn đã trút hơi thở cuối cùng tại làng Chabrignac, một vùng quê thuộc miền Bắc nước
Đám tang của bà Hoàng hậu Viêt Nam lưu vong được tổ chức một cách sơ sài lặng lẽ như những năm tháng cuối đời của bà. Hôm đưa đám, ngoài hai Hoàng tử và ba Công chúa đi bên cạnh quan tài của mẹ không có một người bà con nào khác. Về phía quan chức Pháp thì chỉ có ông quan đầu Tỉnh Brive la Gaillarde và ông Xã Trưởng Chabrignac.
Trong suốt thời gian tang lễ cựu Hoàng Bảo Đại cũng không có mặt.
Mộ Hoàng Hậu Nam Phương nằm ở làng Chabrignac, cách tỉnh Brive la Gaillarde ba mươi cây số. Ngôi mộ đơn sơ với tấm bia đá hai mặt ghi hai hàng chữ bằng hai thứ tiếng khác nhau, mặt trước viết chữ Hán, mặt sau viết chữ Pháp .
Thứ phi Mộng Điệp
Sinh năm 1924 tại Bắc Ninh, bà Điệp từng có một đời chồng, một con trai. Nhưng nhan sắc mặn mà của người phụ nữ Kinh Bắc đã khiến cựu hoàng vội quên lời hứa "một vợ một chồng" với hoàng hậu Nam Phương. Lời hứa này đã được ông thực hiện suốt thời gian ngồi trên ngai vàng (1932-1945).
Cựu hoàng và bà Mộng Điệp về chung sống tại căn hộ số 51 đường Trần Hưng Đạo. Tháng 3/1946, cựu hoàng Bảo Đại được Hồ Chủ tịch cử sang Trung Quốc và lưu lại nước ngoài trong một sứ mệnh ngoại giao. Ở Hà Nội bà Mộng Điệp sinh hoàng nữ Phương Thảo.
Bà đã cùng bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đem tiền vàng sang Hong Kong cho Bảo Đại tiêu dùng và về lại Việt Nam trong hoàn cảnh chuẩn bị chiến tranh. Khi Pháp chiếm Hà Nội bà bị bắt, nhưng nhờ sự phản đối của cựu hoàng Bảo Đại ở nước ngoài nên bà được trả tự do.
Mặc dù làm vợ thứ và không được tổ chức cưới xin nhưng nhờ chăm lo việc thờ cúng tổ tiên của hoàng tộc rất chu đáo nên bà Mộng Điệp luôn được Đức Từ Cung quý mến. Bà cũng được ban áo mũ để thay mặt Hoàng hậu Nam Phương trong các cuộc tế lễ (vì bà Nam Phương là người theo Thiên Chúa giáo).
Năm 1953, bà được Bảo Đại giao nhiệm vụ mang cặp ấn kiếm và một số báu vật của triều Nguyễn qua Pháp giao cho Hoàng hậu Nam Phương. Hoàn thành nhiệm vụ nhưng do chiến tranh ác liệt, bà ở lại luôn bên đó.Trên đất Pháp, bà tiếp tục có với Bảo Đại hai người con trai, đặt tên là Bảo Hoàng (sinh được một năm thì mất) và Bảo Sơn. Cuộc sống nơi đất khách có lúc khó khăn về kinh tế nhưng bà sống tự lập, không nhờ vả đến sự giúp đỡ của chính phủ Pháp.
Khi cựu hoàng Bảo Đại đi theo những tình nhân và những cuộc vui thì chính các con là nguồn hạnh phúc lớn nhất với bà. Thế nhưng Bảo Sơn, người con bà Mộng Điệp yêu quý và tự hào nhất khi tốt nghiệp các trường mũi nhọn kỹ thuật của Pháp lại bị tai nạn năm 1987, khi mới ngoài 30 tuổi. Con gái Phương Thảo thì bị bệnh tim, suýt chết nhiều lần.
Những năm tháng cuối đời, bà Mộng Điệp sống trong cô quạnh. Bà từng mong được về sống tại quê nhà để khi khuất núi sẽ được táng gần lăng mộ Đức Từ Cung ở Huế, nhưng cuối cùng không thực hiện được.Bà qua đời lúc 12h trưa chủ nhật 26/6/2011, thọ 87 tuổi.
Bà Phi Ánh
Bà Phi Ánh, quê miền Trung và là chỗ thân quen với Thủ hiến Trung kỳ Phan Văn Giáo. Ông Giáo đã lợi dụng lúc Hoàng hậu Nam Phương ở Pháp; bà Mộng Điệp và bà Lý Lệ Hà còn ở Hà Nội để tạo dựng quan hệ này, nhằm tạo thanh thế cho ông. Sách chép bà Phi Ánh đẹp nhất trong số các giai nhân của Bảo Đại. Khi mới đến với Bảo Đại, Phi Ánh được cựu hoàng tặng cho một số tiền lớn, vậy mà, theo sách kể lại, chẳng những bà không vui mà còn dám thất lễ, đã tát ông vua ham chơi này. Với bà Phi Ánh, cựu hoàng có được một con trai và một gái (bà Phương Minh - người duy nhất có mặt và để tang cha trong ngày cựu hoàng mất ở Pháp).
Những người tôn sùng bà Nam Phương luôn tìm cách đe dọa bà Phi Ánh, nhất là sau khi ông Vĩnh Thụy lưu vong (1953). Sau này, nghe đâu bà đã có chồng và sau năm 1975, bà sống trong một gian phố yên ắng ở đường Lê Lợi , Sài Gòn. Năm 1980 bà Từ Cung mất, bà vẫn làm nhiệm vụ của một thứ phi - cử các con bà ra Huế lo đám tang cho bà hoàng thái hậu cuối cùng của triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.
Nữ sĩ
Hằng Phương (1908 -1983)
Nhà thơ Hằng Phương tên thật là Lê Hằng
Phương. Bà sinh ra trên đất dâu tằm Gò Nổi – Điện Bàn, Quảng Nam, con gái nhà
nghiên cứu Hán – Nôm Lê Dư (bút hiệu Sở Cuồng), vợ của nhà văn Vũ Ngọc Phan và
là mẹ của Giáo sư – Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng, Họa sĩ Vũ Giáng Hương, KTS Vũ Ngọc
Phương… Em gái ruột của bà là Lê Hằng Huân, vợ Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn.
Bà là một trong những nhà thơ nữ đầu tiên của
văn học hiện đại Việt Nam, được biết đến với tư cách là một trong những nữ sĩ
hiếm hoi trong Thi nhân Việt Nam cùng Anh Thơ, Vân Đài, Mộng Tuyết… là Nhà thơ
Hằng Phương có thơ đăng báo từ năm 1929, và đã xuất bản nhiều tác phẩm như:
Hương xuân (19430, Một mùa hoa (1960), Chim én bay xa (1962), mùa gặt (1961),
Hương đất nước (1974).
Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh – Hoài Chân đã dành
cho nữ sĩ này những lời giới thiệu trân trọng “…đoạn cuối trong bài “Lòng quê”
(lời đề tặng V.N.P là Vũ Ngọc Phan – chồng bà) trích theo đây lời thơ thực yểu
điệu dễ thương. Hằng Phương mượn lời chim để nói nỗi lòng mình. Nhưng thực ta
không còn biết đây là lời người hay lời chim. Bởi mối tình ở đây nhẹ nhàng quá,
trong trẻo quá. Người thơ tưởng chừng đã biến thành chim…”.
NSND Quách Thị Hồ (1913-2001)
NSND Quách Thị Hồ quê ở làng Ngọc Bộ, tỉnh
Bắc Ninh. Sống và mất tại Hà Nội. Ngay từ khi còn trong bụng mẹ, bà đã được
nuôi dưỡng bằng nghệ thuật Ả đào. Lên 6 tuổi, bà đã bắt đầu học đàn, học hát,
học gõ phách, 9 tuổi học múa, 11 tuổi theo mẹ đi hát. Năm 1976, tiếng hát của
bà được GS.TS. Trần Văn Khê ghi âm và giới thiệu ra thế giới.
Năm 1978, bà chính thức được Hội đồng Âm nhạc
quốc tế của Unesco và Viện nghiên cứu quốc tế về Âm nhạc trao bằng danh dự vì
công lao đặc biệt trong việc bảo tồn một bộ môn âm nhạc truyền thống có giá trị
văn hóa, nghệ thuật cao. Năm 1988, băng ghi âm tiếng hát của NSND Quách Thị Hồ
đã được xếp hạng cao nhất tại Liên hoan Âm nhạc quốc tế tại Bình Nhưỡng (Triều
Tiên) với sự tham gia của 29 quốc gia.
Nữ sĩ Mộng Tuyết (1914- 2007)
Nữ sĩ Mộng Tuyết tên thật là
Thái Thị Sửu - còn có các bút danh Hà Tiên Cô, Thất Tiểu Muội, Nàng Út, Bách
Thảo Sương - sinh ngày 9-1-1914 ở làng Mỹ Đức, Hà Tiên, nay là tỉnh Kiên Giang.
Ngoài
nhiều truyện ngắn, thơ, kịch, tùy bút đăng trên các báo, bà còn dịch thơ và
viết khảo cứu văn học. Sau tập thơ Phấn hương rừng (1939, được tặng giải “Khen tặng” của
Tự Lực văn đoàn), Đường vào Hà Tiên (tùy bút, 1960), Nàng
Ái Cơ trong chậu úp (tiểu
thuyết lịch sử, 1961), Truyện cổ Đông Tây (1969), Dưới
mái trăng non(thơ, 1969)…, năm 1998, Mộng Tuyết xuất bản cuốn hồi ký Núi
mộng gương hồ (ba tập, NXB
Trẻ) ghi lại cuộc đời, sự nghiệp, những hoạt động văn học, văn hóa của bà và
chồng là thi sĩ Đông Hồ, cùng nhiều văn nghệ sĩ thân thiết khác.
Viết
nhiều thể loại, nhưng Mộng Tuyết được biết chủ yếu như một nhà thơ. Thơ của bà,
như Hoài Thanh từng nhận xét, “có một vẻ yêu kiều riêng” với rất nhiều cung
bậc, lúc bàng bạc sương kính như trong Dương liễu tân thanh, khi hồn nhiên nhí nhảnh với Làm
cô gái Huế, Em xấu hổ, Em trả thù…
Và đặc
biệt, khác với ông thầy Đông Hồ, cô học trò Mộng Tuyết lại rất “thời sự”. Có
thể tìm thấy trong thơ Mộng Tuyết những sự kiện đau thương mà anh dũng của dân
tộc như trong Mười khúc
đoạn trường, Dưới cờ (1945), Chiếc lá thị thành (1947). Chất thời sự đó chính là tấm
lòng của Mộng Tuyết đối với đất nước, là những rung động của một trái tim nhạy
cảm trước lòng quật cường và những đau thương của dân tộc.
Cùng
với chồng là thi sĩ Đông Hồ, bà là một trong những nhà thơ mới tiêu biểu của
miền Nam, là báu vật không
chỉ của Hà Tiên, Kiên Giang mà còn của cả Nam bộ.
Ngân
Giang nữ sĩ (1916- 2002)
Ngân Giang tên thật là Đỗ Thị Quế. Các bút danh
khác: Đỗ Quế Anh, Nguyệt Quyên... Bà sinh ngày 20 tháng 3 năm 1916 trong một
gia đình Nho học tại Hà Nội. Bà kể: "Năm lên 6 tuổi, theo người bác ra sân
ga, nhìn những con tàu ra vào ga, buồn quá tôi bỗng thốt lên: Tàu về, rồi tàu
lại đi, Khối vô tình ấy nhớ gì sân ga."
Từ đó,
ông bác dành nhiều thời gian để dạy cháu mình làm thơ, phú, dịch thơ Đường.
Năm 8
tuổi, bà đăng bài thơ đầu tiên, "Vịnh Kiều", với bút danh Nguyệt
Quyên.
Năm 9
tuổi, đọc kinh Phật thấy mình mắc nhiều tội lỗi quá, nên bà quyết định quyên
sinh. Rất may, người nhà kịp thời phát hiện và cứu chữa.
Năm 16
tuổi, bà in tập thơ đầu tiên, "Giọt lệ xuân", tại Nhà xuất bản Tân
Dân.
Hiểu
rõ tính nết con gái mình, ông đồ nho Đỗ Hữu Tài muốn cho con yên bề gia thất
sớm. Không chịu sự sắp đặt của cha, bà cố tình bỏ trốn nhưng không được.
Năm 21
tuổi, bà cho xuất bản cuốn "Duyên văn" và rời Hà Nội vào Sài Gònviết
cho "Điện Tín nhật báo" và báo "Mai". Sau đó, bà trở ra Hà
Nội viết cho "Tiểu thuyết thứ bảy", "Phổ thông bán nguyệt
san", "Đàn bà"...
Bốn
năm sau, tập thơ "Tiếng vọng sông Ngân" ra đời đã đưa bà lên vị trí
những người được yêu thích trên thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ.
Năm
1935, bà tìm đến với phong trào cách mạng, bắt đầu bằng việc làm giao thông cho
Đoàn Thanh niên.
Thế rồi vào một đêm mật thám Pháp đã tới nhà
khám xét, tra hỏi vì cô "Hạnh Liên (bút hiệu khác của Ngân Giang) đã làm
thơ kêu gọi thanh niên đứng lên cứu nước dán ở Đền Ngọc Sơn". Mẹ chồng, vì
lo cho sự an toàn của gia đình, đã không ngớt lời chì chiết cô con dâu là
"mầm mống gieo hoạ cho cả dòng họ". Vào một đêm, khi đang có thai,
Ngân Giang lại gieo mình xuống Hồ Tây; "Dường như trời chưa cho tôi thoát
kiếp trầm luân", sau này nữ sĩ nhớ lại. Bà cũng nói: "Kiếp trước tôi
là võ tướng, vì giết nhầm một văn nhân nên kiếp này phải làm thi sĩ để trả
nghiệp"(theo Lê Thọ Bình, tác phẩm đã nêu trên)
Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Ngân Giang
hăng hái đeo ba lô, bồng hai con nhỏ theo đoàn quân cách mạng về Việt Bắc, để
rồi hai năm sau đó phải quay trở lại nội thành. Giữa lúc không nơi nương tựa,
bà chấp nhận làm vợ con trai tuần phủ Hà Đông với hy vọng "sẽ là lá chắn
che chở an toàn để tiếp tục đóng góp cho cách mạng". Đây cũng là bước
ngoặt đầy bi kịch của nữ sĩ.
Năm 1954 hoà bình tái lập, Ngân Giang làm việc
ở Sở văn hoá Hà Nội một thời gian, rồi không hiểu vì lý do gì, bà bị buộc phải
thôi làm nơi ấy khi ở tuổi 41...
Ngày ngày, bà ra bãi sông Hồng quét lá khô để
bán, tối về rửa bát thuê, nhưng cũng chỉ đủ tiền mua gạo nấu cháo cho những đứa
con lay lắt sống qua ngày. Rồi bà được nhận vào Hợp tác xã thêu ren. "Một
bận người ta phát động chống tiêu cực, tôi mạnh dạn vạch mặt kẻ tham ô, nào ngờ
tham ô thì không chết mà mình bị đuổi việc", bà kể. Khi không còn đủ sức
để ra bờ sông quét lá nữa, bà ra đầu đường mở quán bán hàng nước...
Bà mất ngày 17 tháng 8 năm 2002 và được chôn
tại làng Hướng Dương, Thường Tín, Hà Tây. Mộ bà lúc nào cũng có hoa tươi của
những người yêu mến bà và thơ bà.
Vi Kim Ngọc
Bà
sinh năm 1916 vốn là ‘tiểu thư lá ngọc cành vàng’, là con gái của Tổng đốc Vi
Văn Định, một gia đình khá giả bậc nhất miền Bắc thời bấy giờ. Không chỉ nổi
tiếng về nhan sắc, bà còn là một người thông minh, ham mê học hỏi. Sau khi kết
hôn với GS Nguyễn Văn Huyên, Bộ trưởng Bộ Giáo dục đầu tiên của Việt Nam, bà
kiên trì theo đuổi giấc mơ trở thành nhà nghiên cứu. Bà theo học khóa đào
tạo chuyên ngành Ký sinh trùng học của trường Đại học Y Hà Nội. Sau khi tốt
nghiệp, bà được giữ lại làm việc tại trường làm kỹ thuật viên.
Cuộc
đời bà tiêu biểu cho nhan sắc và đức hạnh, giữ vai trò quan trọng cho những
thành công của GS Huyên và nuôi dạy con cái trở thành những trí thức nổi tiếng
của nước nhà
Nữ sĩ Anh Thơ (1919-2005)
Nữ
sĩ Anh Thơ tên thật là Vương Kiều Ân (Vuơng là họ cha, Kiều họ mẹ). Sinh năm
1919 tại Ninh Giang (Bắc Việt). Ông thân sinh là nhà nho, đậu tú tài, làm trợ
tá. Vì ông là công chức, thuyên chuyển nay đây mai đó nên con cái thường phải
đổi trường luôn. Do đó, Anh Thơ thay đổi tới ba trường (Hải Dương, Thái Bình,
Bắc Giang) mà vẫn chưa qua bậc tiểu học.
Lười học, nhưng rất thích văn chương, tập làm
thơ từ nhỏ. Thoạt đầu, lấy bút hiệu Hồng Anh, sau mới đổi thành Anh Thơ.
Từng đăng thơ trên các tuần báo: Hà Nội báo,
Tiểu thuyết thứ năm, Ngày nay, Phụ nữ, Bạn đường. Được giải thưởng khuyến khích
về thơ của Tự lực văn đoàn năm 1939 vơí thi phẩm "Bức tranh quê". Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học, nghệ thuật
Điềm Phùng Thị (1920- 2002)
Nữ họa sĩ, điêu khắc gia Điềm
Phùng Thị, tên thật là Phùng thị Cúc.Bà sinh tháng 8, năm1920, tại làng Châu Ê,
ngoại thành Huế, trong một gia đình quan lại, gốc Hà Tĩnh. Bà mồ côi mẹ từ lúc
ba tuổi, theo cha sống thời thơ ấu tại vùng Tây Nguyên, Trung Bộ.
- Học tiểu học tại Huế, trung
học tại trường Thăng Long, Hà Nội và Khải Định Huế.
- 1941-1946 học nha khoa tại
Đại Học Hà Nội, tốt nghiệp khóa đầu tiên dưới chế độ Dân Chủ Cộng Hòa. Đi kháng
chiến, phục vụ ngành y dược.
- 1948 bị bệnh, sang Pháp điều trị rồi học bổ túc nha khoa, tốt nghiệp 1950.
- 1953 kết hôn với nha sĩ Bửu Điềm. Bút danh Điềm Phùng Thị có từ đấy. Cùng
chồng trình luận án tiến sĩ nha khoa trong đề tài « Tục ăn trầu ».
- 1959-1961 đến với nghệ thuật điêu khắc, với tư cách học viên tự do trong
xưởng của Volti và tiếp tục hành nghề nha sĩ.
- 1966 triển lãm đầu tiên tại Nhà Thanh Niên, Paris, được sự quan tâm và khuyến khích của
Raymond Cogniat, nhà phê bình của báo Figaro.
Tượng Mẹ Con được chính phủ Pháp mua, cùng với
tượng Trẻ Con đặt trong một công viên trẻ em. Từ
đó bà vững chắc bước vào nghệ thuật và chuyên tạc tượng. Bà triển lãm nhiều nơi
tại Pháp.
- 1978 triển lãm tại Trung
tâm Mỹ Thuật Hà Nội và Huế. Đây là lần đầu tiên tại nước Việt Nam Xã hội chủ
nghĩa có cuộc triển lãm nghệ thuật tự do, đương đại và trừu tượng. Cuộc triển
lãm được tiếp thu với một sự quan tâm và dè dặt.
- 1992 về Việt Nam,
triển lãm nhiều nơi và thiết lập cơ sở tại số 1 đường Phan Bội Châu, Huế.
- 1993 đặt 150 tượng và tác phẩm khác tại địa chỉ này. Cuộc trưng bày được
chính thức khai mạc 1994. Và bà cư trú luôn tại đó.
- 1996 mở lớp dạy nghệ thuật cho trẻ em câm điếc tại địa điểm nói trên.
Bà qua đời tại Huế ngày 21
tháng1 năm 2002, sau nhiều năm bệnh tim mạch làm một phần cơ thể bị tê liệt.
Điềm Phùng Thị là một tác gia
lớn lao, một nghệ sĩ tài hoa, đặc sắc và tân tiến. Bà đã kết hợp nhuần nhuyễn
tâm hồn tế nhị của phụ nữ Việt Nam
với những đường nét và màu sắc hiện đại của nghệ thuật tạo hình thế giới.
Tranh tượng của Điềm Phùng
Thị là sự hòa đồng sâu lắng giữa hai nền văn hóa Đông phương cổ truyền và Tây
phương tiên tiến.
Bà có 36
tượng đài và nhiều tác phẩm điêu khắc có giá trị. Năm 1993, bà được phong danh
hiệu “Nữ viện sĩ Thông tấn của Hàn lâm viện Văn chương khoa học và nghệ thuật
toàn châu Âu”.
Ni sư Huỳnh Liên (1923- 1987)
Ni sư Huỳnh Liên sinh năm 1923 tại làng Phú Mỹ, Mỹ Tho, Tỉnh Tiền Giang. Cha là ông Nguyễn Văn Vận, mẹ là
bà Lê Thị Thảo đã xuất gia. Bà là Trưởng Giáo
Đoàn Ni và là Đại Biểu Quốc Hội Khóa VI, Phó Chủ Tịch Ủy ban Mặt Trận Tổ Quốc TP, Ủy viên ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Phó Chủ Tịch Ủy Ban Bảo Vệ Hòa Bình Thế Giới của Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1943,
khi được 20 tuổi, bà đã quy
y Phật Đường Minh Sư, tu học theo hạnh cư sĩ
tại gia. Bà kế tục sự nghiệp Tổ Thầy, trực tiếp lãnh đạo hàng Ni chúng Khất Sĩ
trong phận sự Ni Trưởng Ni năm 1954.
Từ năm
1960 đến năm 1975, Ni Sư Huỳnh Liên âm thầm và công khai tham gia đấu tranh cho hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước. Sau đó từ năm 1975,
bà là thành viên Đoàn Đại Biểu miền Nam Hiệp Thương Thống Nhất Tổ Quốc Việt Nam. Bà mất ngày 16 tháng 4 năm 1987
Hà Thị
Cầu (1928 - 3 tháng 3, 2013)
Là một nghệ nhân hát xẩm. Bà là nghệ nhân hát xẩm cuối cùng của thế kỷ 20 và từng được mệnh danh là "báu vật nhân văn sống”
Bà tên thật Hà Thị Năm (Cầu là cách gọi theo tên con trai cả
ở vùng Yên Mô, Ninh Bình). Theo một số nhận định, bà sinh năm
1917, tuy nhiên theo chị Mận, con gái của bà, thì bà sinh năm 1928 tại huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định trong
một gia đình ba đời hát xẩm. Cha bà là một người hát xẩm bị khiếm thị. Năm 11
tuổi, cha mất và bà cùng mẹ rời Nam Định về
sinh sống tại thôn Quảng Phúc, xã Yên Phong,
huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Khoảng
tám tuổi, bà đã bê chiếc thau đồng theo bố mẹ lê la khắp các chợ quê để hành
nghề hát xẩm kiếm sống. Định cư tại Yên Mô (Ninh Bình), hai mẹ con bà nương nhờ học hát
tại nhà ông trùm xẩm Chánh Trương Mậu khi đó hiện là trưởng sáu gánh hát ởNinh Bình. Năm 16 tuổi bà trở thành người vợ
thứ 18 của ông trùm xẩm Nguyễn
Văn Mậu (biệt danh là
Chánh Trương Mậu). Năm đó ông Mậu 49 tuổi, từng chung sống với 17 người đàn bà,
trong đó có 8 bà chính thức. Khi bà 33 tuổi thì ông Mậu qua đời., để lại cho bà
bảy người con; sau thì bốn người lần lượt qua đời vì bệnh đậu mùa. Con rể bà làm nghề đánh cá còn con
gái buôn bán rong các chợ Bút, chợ Ninh, chợ Nam Dân ở Ninh Bình.
Vợ
chồng bà có mảnh đất từ trước 1945. Năm 1954, khi về định cư thì gia tài chỉ có
hai cái niêu, một dùng để rang và một dùng để nấu. Từ nhỏ bà đã hát xẩm nhưng
lại không biết làm nghề gì khác nên đời sống rất nghèo khổ. Vì nghèo nên bà đã
mất một người con sơ sinh còn một người nữa thì phải đem cho. Gần đây mẹ con bà
mới đoàn tụ.
Cuối
những năm 1980 nhà bà mới được Chính phủ Việt Nam cấp ruộng. Năm 1992, gia đình
bà xây một căn nhà nhưng không có công trình phụ.
Bà
mất ngày 03 tháng 03 năm 2013 tại nhà riêng ở xã Yên Phong, Yên Mô, Ninh Bình, thọ 86 tuổi.
Nữ nghệ sĩ ngâm thơ Hồ Điệp (1930 – 1987?)
Sinh năm 1930, Hồ Điệp là đàn chị và nổi tiếng hơn cả trong số các nghệ
sĩ ngâm thơ trước 1975, . Bà có giọng
ngâm tuyệt vời và xuất sắc trong mọi thể loại.
Năm 1987 ,bà đã mất tích trong
rừng trên đường vượt biên bằng đường bộ qua ngã Miên
Bà Hoàng Xuân Sính
Bà sinh năm
1933 người làng Yên Hồ, tỉnh Hà Tĩnh nhưng trải qua thời niên thiếu ở Hà Nội và
học phổ thông tại đây Trong nhiều tài liệu, bà
thường được ghi chú là "cháu gái của giáo sư Hoàng Xuân Hãn". Tuy nhiên,
đây chỉ là mối giao tiếp thân tình giữa hai người chứ không phải là quan hệ họ
hàng.
Bà Hoàng Xuân Sính là nữ giáo sư, tiến sĩ khoa
học toán học đầu tiên của Việt Nam.
Bà đã được nhà nước Việt Nam
phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, danh hiệu cao quý
nhất để tôn vinh các cá nhân hoạt động trong ngành giáo dục. Bà cũng được nhà nước Pháp trao Huân chương Cành cọ Hàn lâm vì những đóng góp cho việc
phát triển và hợp tác khoa học giữa hai quốc gia Pháp - Việt.
Bà là người góp phần quan trọng vào việc hình thành Giải thưởng Kovalevskaia trao
tặng cho các nhà khoa học nữ xuất sắc ở Việt Nam.
Trần Thị Như Mân
Bà Trần Thị Như Mân là cháu nội quan Phụ chánh đại thần Trần Tiễn
Thành, con gái quan Tuần vũ Trần Tiễn Hối. Bà
còn là thân mẫu của hai nhà khoa học GS.VS nông nghiệp Đào Thế Tuấn và nhà sử
học Đào Hùng.
Bộ Hán-Việt từ điển được xuất bản năm 1932 và bộ Pháp-Việt
từ điển, xuất bản năm 1936 của Đào Duy Anh là những cuốn từ điển hiện
đại đầu tiên của nền khoa học xã hội Việt Nam. Các nhà nghiên cứu đã đánh giá
rất cao hai cuốn từ điển này và xem đó như là “cơ sở cho nền từ điển học hiện
đại Việt Nam”
. Nhưng ít ai biết rằng, người đưa ra ý tưởng biên soạn những bộ từ điển này
không phải là tác giả đứng tên mà lại là vợ của ông - bà Trần Thị Như Mân.
Để làm được điều này, bên cạnh những tâm huyết, nỗ lực với
tinh thần khoa học của Đào Duy Anh, cũng phải kể đến những đóng góp cần mẫn của
bà Trần Thị Như Mân trong việc soạn thảo, tìm từ…, chưa kể là người đưa ra ý
tưởng ban đầu.
Nguồn newvietart.com ; kenhdulichhue.com ; vietsciences.free.fr ;vnexpress.net ;hohovietnam.vn ; nguyendinhchieu.vn ;thegioitruyentranh.vn ; vtc.vn ; nguoiduatin.vn; citinews.net; tapchisonghuong.com.vn; gas.hoasen.edu.vn; diendan.vnthuquan.net; thivien.net; pqtrung.com; cand.com.vn; gdptductam.org; gactholoc.net; antgct.cand.vn; vietbao.vn; leminhquoc.vn; vannghetiengiang.vn; baocamau.com.vn; dichvucong.danang.gov.vn; diendantoanhoc.net; tuoitre.vn; saigonthidan.com; xuquangwordpress.com; sachxua.net; songnhac.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét