Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

18 thg 12, 2013

Những người phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam (3)

Đoàn Quý Phi (1601-1661)

Tương truyền, chúa Nguyễn Phước Lan (1601 - 1648) trong một lần du ngoạn về vùng Mã Châu xứ Quảng (nay thuộc thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên) đã tình cờ gặp và bén duyên với một người con gái hái dâu chăn tằm có tên là Đoàn Thị Ngọc. Sau khi trở thành vợ chúa, nàng được phong là Đoàn Quý Phi. Quý phi họ Đoàn không quên nghề xưa, ra sức khuyến khích dân chúng ở các vùng thuộc Quảng Nam như Điện Bàn, Thanh Bình, Duy Xuyên...
mở mang nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa. Nhờ đó mà suốt một dải sông Thu Bồn, nghề tằm tang phát triển rất rực rỡ. Về sau, để ghi nhớ công ơn của người có công gây dựng nên nghề canh cửi, người dân xứ Quảng đã tôn thờ bà Đoàn Quý Phi là "Bà Chúa Tằm Tang" và tháng 3 âm lịch hàng năm mở lễ hội để tri ân. 



Tại Bảo tàng làng Lụa Hội An còn có một không gian trang nghiêm để thờ Bà chúa Tằm Tang Đoàn Quý Phi. Người phụ nữ hái dâu trở thành giai thoại trong tình sử và được nhân dân tôn thờ như bà tổ nghề tằm tang vì đã có công khuyến khích nghề này tại những ngôi làng ven hai con sông lớn Thu Bồn, Vu Gia của xứ Quảng.


Nhữ Thị Thục

Nhắc đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, người ta không thể không nhắc tới công lao dạy dỗ của thân mẫu ông, bà Nhữ Thị Thục, một người mẹ nhân hậu, một người thày thông minh, lỗi lạc.
Bà Nhữ thị Thục người làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, xứ Hải Dương (nay thuộc xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng). Bà là con gái quan Thượng Thư, tiến sĩ Nhữ Văn Lan nổi tiếng một thời về liêm khiết và trung trực. Hầu hết các sách viết về tiểu sử, sự nghiệp của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đều nhắc đến tài học, A lớn và công lao dưỡng dục của Từ Thục phu nhân.
Bà là người có tầm nhìn chiến lược, đã có công lao to lớn trong việc nuôi dạy, giáo dục con. Dân gian còn lưu giữ nhiều giai thoại về tài năng, đức độ, chí hướng của bà. Ngay cả Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài Tựa Bạch Vân am cũng đã khẳng định công lao cũng như nhiệt tâm của người mẹ trong việc dạy dỗ con trở thành nhân tài cho đất nước.
Sinh ra từ dòng họ khoa bảng, lớn lên từ truyền thống hiếu học của gia đình và quê hương, bà Nhữ Thị Thục không chỉ giỏi văn chương, am tường lịch sử và tinh thông thuật số mà còn là người mẹ biết truyền sang con toàn bộ tâm nguyện, khí phách làm người bằng phương pháp dạy dỗ nghiêm cẩn và lối sống mực thước của mình. Bà đã và mãi mãi là tấm gương sáng cho hậu thế noi theo.

Trần Thị Thắng

Trần Thị Thắng cùng Nguyễn Bỉnh Khiêm là bạn  đồng học. Hai người cùng với Bùi Ngu Dân, Văn Đàm cùng học  với  sư trụ trì chùa Thiên Hương (chùa Mét) ở đất Cổ Am (nay là xã Cổ Am, thuyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng) vốn là một danh sĩ văn võ kiêm toàn nhưng chán cảnh quan trường nên bỏ đi tu.
Bà là con gái nhà giàu có, cha mẹ không vì phận nữ mà cấm đoán, ngược lại khuyến khích con học văn, luyện võ. Trần Thị Thắng là nữ nhi nhưng tính tình cương nghị, cũng rất thích tập cung kiếm và đọc sách binh thư. Trần Thị Thắng và  Văn Đàm có nhiều điểm chung nên tình cảm của họ cứ lớn dần theo năm tháng.Tiếc rằng cha mẹ Trần Thị Thắng chê Văn Đàm nghèo khó, trước đây từng là người làm thuê cho gia đình mình nên nhất quyết không gả con gái cho, họ muốn tìm một đám ưng ý “môn đăng hộ đối”.Tình cảm bị ngăn chở, không nghe lời cha mẹ thì bất hiếu, đi lấy người khác thì phụ người yêu nên Trần Thị Thắng thề ở vậy không lấy ai, Văn Đàm cũng nguyện sống độc thân để giữ nguyên mối tình thủy chung với cô gái họ Trần. Tuy không thể thành vợ thành chồng nhưng giữa hai người vẫn dành cho nhau sự quý trọng, yêu mến như những người bạn.
Nước sông Hóa dâng cao ,Văn Đàm đã lãnh đạo đội quân của mình và nhân dân địa phương ra sức đắp đê ngăn lũ . Sau đó,Văn Đàm mất vì suy kiệt do dốc sức trong việc đắp đê ở đoạn đê làng Cổ Am. Để tiếp tục sự nghiệp còn dang dở của Văn Đàm, bà gặp Nguyễn Bỉnh Khiêm bàn bạc đứng ra lãnh đạo dân chúng tăng cường gia cố, đắp đê. 
Nạn thủy tai vừa bị đẩy lùi thì địch họa ập đến, vua Mạc Mậu Hợp vì tin lời gièm pha của gian thần mà khiến nhiều văn thần tướng giỏi bất mãn, người đi ở ẩn, kẻ chạy sang hàng Nam triều. Thấy vua nguy khốn, Nguyễn Bỉnh Khiêmvận động Trần Thị Thắng huy động lực lượng nghĩa binh tham chiến trong khi bà đang băn khoăn không biết xử trí thế nào trước tin chiến trận dồn dập bay đến.Được sự động viện của bạn, lại nghĩ tới việc cần phát huy tinh thần quật khởi của đội quân mà Văn Đàm đã gây dựng, thấy đây là lúc cần dùng đến, Trần Thị Thắng liền nai nịt gọn gàng, lên ngựa dẫn nghĩa binh nhập với cánh quân của Đinh Thời Trung tổ chức chống cự rồi nhân đà chiến thắng truy kích, đuổi dồn quân nhà Lê buộc phải rút chạy về vùng Tam Điệp (thuộc Ninh Bình ngày nay). Nhờ lực lượng của tôn thất nhà Mạc và các quan lại trung thành, trong đó có đội quân của Đinh Thời Trung và Trần Thị Thắng mà vua Mạc Mậu Hợp đã chiếm lại được Thăng Long. Trong các trận đánh, nữ tướng họ Trần đã tả xung hữu đột khiến quân Nam triều rất sợ hãi, lại giúp sĩ khí quân Mạc nhờ đó mà tăng lên, vì thế mới có lời ca rằng:
Nam triều đuổi Mạc chạy dài
Trần thị nữ tướng ra oai trận tiền
Thanh gươm yên ngựa một phen
Thăng Long thu lại, tiếng khen truyền đời.
Ngày chiến thắng khải hoàn, Mạc Mậu Hợp thiết triều định công ban thưởng cho quần thần, tướng Đinh Thời Trung được phong chức Tổng lãnh binh, Trần Thị Thắng phong làm Quận chúa, lại cấp cho ruộng ở quê làm thực ấp.
Tương truyền, vua Mạc vì mến tài của Trần Thị Thắng nên không ban cụ thể số ruộng thưởng là bao nhiêu mẫu mà cho phép bà cưỡi voi đi từ nhà vòng qua cánh đồng làng và giao hẹn đi đến đâu mà ruộng thụt lún xuống, voi không đi được thì đất của bà đến đó.
Theo lệnh vua, Trần Thị Thắng cưỡi voi đi từ nhà mình ở Cổ Am, qua chùa Mép vòng qua Nam Am (nay thuộc xã Tam Cường, huyện Vĩnh Bảo) đến làng Lôi Trạch (nay thuộc xã Hòa Bình, huyện Vĩnh Bảo) thì voi không đi được, phải quay lại.

Do đó ngày nay ruộng Cổ Am vòng sang mãi Lôi Trạch là vì thế, ruộng đó xưa chính là đất thực ấp của Trần Thị Thắng và nó được gọi là “cánh đồng bà Chúa”.


Công nữ Ngọc Hoa (?- 1645)
Công nữ Ngọc Hoa, con gái chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, là người Việt Nam đầu tiên định cư ở Nhật Bản.
Năm 1619, Công nữ Ngọc Hoa được gả cho Araki Sotaro, nhà hàng hải kiệt xuất thuộc dòng dõi samurai, thương nhân Nhật Bản đứng đầu các doanh nhân sang buôn bán tại Hội An (thương nhân Araki có tên Việt là Nguyễn Thái Lang, còn Công nữ Ngọc Hoa lấy tên Nhật là Wakaku).
Một năm sau, bà theo chồng về Nhật, sống 26 năm và mất năm 1645, chôn cất tại Nagasaki. Hiện nay, Viện Bảo tàng nghệ thuật Nagasaki vẫn lưu giữ chiếc gương soi của Công nữ Ngọc Hoa. Lễ hội Okunchi mở hằng năm ở Nagasaki (từ ngày 7 đến 9.10) có đám rước do thiếu nhi đóng vai vợ chồng Công nữ Ngọc Hoa đứng trên mũi một chiếc thuyền buôn…

Ngọc Vạn – Khai phá mở mang phương Nam

Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Vạn, con gái của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (mới được đặt tên đường ở Quận 3 Tp.HCM). Để củng cố ngôi vị và thắt chặt mối quan hệ tốt đẹp với các nước lân bang phía Nam, chúa Sãi lần lượt gả các con gái về làm dâu Champa và Chân lạp. Công chúa Ngọc Vạn vâng lệnh Chúa Sãi về làm vợ của vua Chân lạp Chey Chettha II. Xinh đẹp và hiền thục, bà nhanh chóng được vua yêu quý và lập làm Hoàng hậu. Vua còn tin tưởng cất nhắc những người Việt thân cận đi theo bà vào nhiều vị trí quan trọng trong triều đình Chân lạp. Ngoài ra, vua còn đồng ý cho chúa Nguyễn lập đồn thu thuế và khẩn hoang vùng đất Sài Gòn và Bà Rịa ngày nay.
Không những là chiếc cầu nối cho tình hữu nghị hai nước, công chúa Ngọc Vạn là người có công lớn mở mang bờ cõi phía Nam, biến đất hoang thành trù phú.


Công nữ Ngọc Khoa


Công nữ Ngọc Khoa là con gái Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, được gả cho vua Chiêm Thành Po Romê  năm 1631.
Ngọc Khoa tên đầy đủ là Nguyễn Phúc Ngọc Khoa, con gái thứ ba của Nguyễn Phúc Nguyên, em gái công nữ Ngọc Vạn. Cũng giống như Ngọc Vạn, bà chỉ là công nữ, nhưng một vài tài liệu thường nhầm thành công chúa. Năm 1920 Ngọc Vạn kết hôn với vua Chân Lạp Chey-Chetta II.
Thời kỳ đó, chiến tranh Đàng Ngoài-Đàng Trong vừa bắt đầu bùng nổ năm 1627. Năm 1629, lưu thủ Phú Yên là Văn Phong  liên kết với người Chiêm Thành nổi lên chống lại chúa Nguyễn. Chúa Sãi cử Phó tướng Nguyễn Hữu Vinh , đem quân dẹp yên, và đổi phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên. Từ cuối thế kỷ 16 người Chiêm Thành thường buôn bán với người Bồ Đào Nha ở Ma Cao, thuộc địa của Bồ Đào Nha trên đất Trung Hoa. Thương thuyền Bồ Đào Nha hay ghé buôn bán trao đổi với người Chiêm ở các hải cảng Cam Ranh và Phan Rang. Chúa Sãi lo ngại người Chiêm liên kết với Bồ Đào Nha.
Những lý do trên có thể chính là nguyên nhân cuộc hôn phối giữa Ngọc Khoa và vua Chiêm Thành Po Romê, giúp Nguyễn Phúc Nguyên có được sự hòa hảo với Chiêm Thành.
Sử sách không ghi lại là bà Ngọc Khoa đã làm những gì ở triều đình Chiêm Thành, chỉ biết rằng truyền thuyết cũng như tục ngữ Chiêm Thành đều có ý trách cứ, nếu không muốn nói là phẫn nộ, cho rằng bà Ngọc Khoa đã làm cho vua Po Romê trở nên mê muội và khiến cho nước Chiêm sụp đổ.

Tống Thị 

Tống Thị là vợ của Nguyễn Phúc Anh - hoàng tử thứ 3 của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, trấn thủ Quảng Nam. Đó là một người đàn bà đẹp sắc nước hương trời, duyên dáng, gợi cảm, có tài ăn nói và giỏi lấy lòng người. 
Trong bối cảnh “tranh tối tranh sáng” thời Lê mạt Nguyễn sơ, âm mưu nổi loạn của Nguyễn Phúc Anh khi chúa Sãi mất (năm 1635), chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan lên ngôi đã bị phá hỏng. Nguyễn Phúc Anh bị xử chết và Tống Thị trở thành góa phụ. 
Không chấp nhận hoàn cảnh mất chồng, mất quyền lực, Tống Thị tìm cách quyến rũ chúa Thượng (em chồng) để thỏa mãn tham vọng về quyền lực và của cải. Nghĩ là làm, Tống Thị đã xin vào cung dâng tặng chúa chuỗi hoa vòng ngọc liên châu, và không ngừng than khóc về tình cảnh góa bụa đáng thương của mình. Chúa vừa cầm thứ “bùa yêu” ấy lên đã thấy lòng dạ lâng lâng, bèn đem lòng thương cảm người đàn bà đẹp không may mắn ấy. Chẳng bao lâu sau, Tống Thị được tự do ra vào Vương phủ và cặp đôi chị dâu em chồng đêm ngày đắm chìm trong hoan lạc ái ân. Công cuộc gạ tình thành công mỹ mãn.
Được chúa sủng ái, Tống Thị liên tục xúi giục chúa trừng trị những cận thần trung nghĩa dám can gián chúa hoặc miệt thị những việc làm bất chính của bà. Bên cạnh đó, việc nhận hối lộ từ nịnh thần và bóc lột dân đen không thương tiếc đã đem lại cho bà một tài sản kếch xù. Khả năng “chọc trời khuấy nước” của Tống Thị đã biến Nguyễn Phúc Lan từ một vị chúa nhân hậu thành một bạo chúa hiếu sát và dâm loạn, bỏ bê việc cai trị đất nước.
Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan bị Tống Thị làm cho mê muội và lung lạc một thời gian dài, mãi cho đến khi có người nội tán họ Phạm liều thân vào phủ chúa, khẳng khái tâu bày phản đối việc chúa vì đam mê dâm phụ mà xem nhẹ đạo lý, làm khổ muôn dân rồi tuẫn tiết tại chỗ thì chúa bừng tỉnh. Tống Thị bị thất sủng.
Tống Thị vô cùng uất hận, tìm cách trả thù với mong muốn phá đổ toàn bộ cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở xứ Đàng trong. Bà bèn gửi chuỗi hoa và mật thư cho chúa Trịnh Tráng ở Đàng ngoài, thỉnh cầu Trịnh Tráng đem quân đánh Thuận Hóa, bà tình nguyện cống hiến hết gia sản để nuôi quân, nếu thành công, bà sẽ về hầu hạ chúa Trịnh. 
Trịnh Tráng khoái chí tức tốc tổ chức cuộc Nam phạt để làm đẹp lòng Tống Thị, và nhanh chóng rước người đẹp về vui vầy. Trận đầu, quân Nguyễn đại bại vì bất ngờ. Nhưng tài năng thao lược của thế tử Nguyễn Phúc Tần và các tướng giỏi đã đập tan âm mưa của Tống Thị. Trịnh Tráng đành bại trận ra về, từ bỏ ước mơ xâm chiếm Thuận Hóa.
Vỡ mộng trả thù, âm mưu bại lộ, Tống Thị bị chém và bêu đầu giữa chợ. Toàn bộ gia sản khổng lồ của bà bị tịch thu để phân phát cho quân, dân trong vùng. Âu đó cũng là sự trừng trị thích đáng đối với một người đàn bà đẹp có nhiều tham vọng, dâm loạn, khôn ngoan và tàn ác như Tống Thị.


Đào Thị Hương

Đào Thị Hương, con gái của đôi vợ chồng nghèo họ Đào ở làng chài Đồ Sơn (Hải Phòng).Sắc đẹp của Đào Thị Hương nổi tiếng khắp vùng. Không những thế, người con gái Đào Thị Hương cũng rất khéo tay, siêng năng mọi việc.
Thêm vào đó, trời lại còn phú nàng giọng hát thật hay. Tiếng hát cao vút lại trong veo làm cho cả vụng Ngọc trở nên lung linh, huyền ảo hơn.
Trong thời gian đó, để nắm rõ chính sự, cũng như thấu hiểu cuộc sống của người dân, Chúa Trịnh Doanh đi kinh lý Ðồ Sơn.
 Khi thuyền rồng đang dạo cảnh ở vùng núi Độc, thì bỗng đâu nghe thấy tiếng hát ngọt ngào, êm dịu. Trịnh Doanh liền lệnh cho quân lính đi tìm người hát. Hóa ra lúc đó, nàng Hương đang cắt cỏ bên sông, vừa làm nàng vừa hát cho vơi đi mệt nhọc.
Khi gặp được nàng Hương, sắc đẹp tuyệt trần và cũng như hương thơm từ cơ thể của Đào Thị Hương đã thực sự chinh phục được Trịnh Doanh. Bản thân nàng Hương cũng phải lòng Trịnh Doanh.
Vậy là cả tháng trời, Trịnh Doanh và nàng Hương quấn quýt không dời một bước.
Song giữa người đẹp và công việc quốc gia, Trịnh Doanh vẫn phải dứt áo về kinh và hẹn với Đào Thị Hương là sẽ sớm đem thuyền hoa về rước. Sau khi chia tay Trịnh Doanh, nàng Hương phát hiện mình mang cốt nhục của Chúa.
Trong lòng Đào Thị Hương rất lo sợ, ngày đêm trông ngóng thuyền hoa nhưng vẫn chưa thấy Trịnh Doanh đến đón. Cùng lúc đó, gia đình và Hàng Tổng trong xã biết chuyện Đào Thị Hương mang bầu mà không có cha nên đòi phạt.
 Gia đình Đào Thị Hương vốn nghèo, không có tiền nộp nên nàng Hương bị trói và đem ra khu núi Ðộc dìm xuống biển.
Trước khi chết, nàng Hương ngửa mặt lên trời khóc than: “Phận gái thân cô, gặp Chúa yêu thương, tôi đâu dám chống. Nhìn mẹ cha, hàng xóm tôi đâu dám quên lệ làng.
Xin trời phật chứng giám cho lòng con. Khi con bị dìm xuống nước, nếu có oan ức, trời phật cho con nổi lên ba lần”.
 Quả nhiên, xác của nàng Hương nổi lên ba lần, mọi người ai nấy đều kinh sợ. Thế nhưng, bọn hào lý không tha, tiếp tục lấy dây thừng quấn nàng vào cối đá thủng, cắm sào, dìm cho nàng chết.
Lúc đó, bất ngờ sóng to gió lớn nổi lên làm đứt dây thừng, rồi đám ác nhân không biết sao lần lượt lăn ra chết bất đắc kỳ tử. Dân làng cho rằng, chúng đã bị Trời đánh.
Lại nói về Trịnh Doanh không quên giữ lời hẹn ước với Đào Thị Hương nên đã mang thuyền rồng đến đón người đẹp thì mới biết nàng Hương đã thác oan. Nhà Chúa quá đau buồn, cho lập đàn giải oan và truyền lệnh cho Hàng Tổng lập đền thờ.
Đến thời Vua Tự Đức triều Nguyễn, trong một lần thăm đền nàng Hương, nhà vua đã ban sắc phong là “Đông nhạc Đế bà - Trịnh Chúa phu nhân”. Và từ đó, ngôi đền được gọi là đền Bà Đế.
Sau này, thương tiếc và khâm phục lòng thuỷ chung của nàng Hương, nhiều danh nhân đã đề thơ ca ngợi:


“Lòng sáng như băng trời đất biết
Nỗi niềm thành kính quỷ thần hay
Ðế Bà hương lửa nghìn thu ấy
Ðể giải hồn oan cõi thế này”

Đến nay, đền Bà Đế nằm ở chân núi Độc, Ngọc Hải, Đồ Sơn, Hải Phòng là một trong những ngôi đền nổi tiếng về danh thắng và linh thiêng. Ðền có cấu trúc giản dị nhưng thanh thoát và trang nhã, nép mình vào lưng núi, trước mặt là biển khơi bao la, tạo nên một kỳ quan thiên nhiên độc đáo.


Nguyễn Thị Thuyết-  Bà Bổi Lạng phú gia địch quốc

Bà Nguyễn Thị Thuyết (hay Nguyễn Thị Trị) người dân thường gọi bà là Bổi Lạng. Bà là người sống phóng khoáng, quan tâm đến mọi người và luôn phát tâm công đức làm việc thiện. Bà xứng đáng với lời truyền tụng trong dân gian:
Thứ nhất cô đỏ Thanh Hoa
Thứ nhì Bổi Lạng
Thứ ba Thạch sùng
Thuở nhỏ bà Bổi Lạng rất nghèo khó, hằng ngày đi mò cua bắt ốc lấy tiền nuôi mẹ. Một buổi chiều tà nước thủy triều sông Thái Bình rút xuống bà mải mê mò hến thì đột nhiên mò được một thỏi vàng, càng mò càng được nhiều vàng bạc, bà lẳng lặng mang về.
Có người cho rằng, số vàng bạc châu báu đó có từ cuối thế kỷ thứ XVI khi quân Lê - Trịnh giao chiến với quân nhà Mạc trên sông Thái Bình, đoạn qua xã Bình Lãng. Khi đó, số tài sản mà quân Lê - Trịnh cướp được của nhà Mạc bị đắm thuyền rơi hết xuống sông. Nhờ mò được vàng bạc đó mà bà Bổi Lạng có vốn làm ăn trở nên giàu có.
Năm 20 tuổi bà kết hôn với ông Sái Đắc Lộc quê ở Hà Tĩnh, vợ chồng đồng tâm hiệp lực quyết chí làm giàu bằng nghề buôn bán lúa gạo và chăn nuôi gia súc, một nghề khi đó vừa có thể giúp đỡ dân nghèo vừa có thể làm giàu nhanh chóng. Có những năm mất mùa, giá thóc gạo đắt như vàng bạc, bà đã bán hết gia sản lấy tiền làm vốn tậu ruộng, chăn nuôi gia súc, trợ cấp cho người nghèo. Thời gian sau bà trở thành người giàu có nhất vùng, ruộng có nghìn mẫu, tiền có trên vạn xâu, thóc lúa gia súc nhiều vô kể. Khác với những người khác khi có tiền thường mua quan bán chức, nhưng bà dành tiền đó để giúp đỡ dân nghèo.
Thời Lê - Trịnh, bà Bổi Lạng được người đời liệt kê vào một trong hai người giàu nhất nước. Bà giàu đến mức tiếng tăm lan cả vào kinh thành Thăng Long, chúa Trịnh Sâm biết chuyện tức tốc dẫn quân lính về gặp bà. Chúa Trịnh đem theo đoàn quân phục tùng hộ giá ngót nghét cả nghìn người. Bà Bổi Lạng thấy mình chỉ là kẻ giàu chốn quê mùa nhưng được chúa hạ cố xuống hỏi thăm thì vui mừng khôn xiết. Bà dẫn chúa Trịnh đi thăm quan cơ ngơi của mình, nhìn thấy ruộng vườn bát ngát, gia súc nhiều vô kể, chúa Trịnh Sâm mới thốt lên rằng đúng là người đàn bà phú gia địch quốc. Bà ngỏ lời mời chúa Trịnh cùng quân quan ở lại ba ngày ba đêm để mở tiệc chiêu đãi. Mỗi ngày bà cho người làm hàng trăm mâm cỗ để mời mọi người thưởng thức, bà dặn ăn uống xong quân lính không phải rửa bát, có thể đập vỡ tùy thích.
Bà Bổi Lạng thường chia ruộng đất, thóc lúa cho những người dân nghèo. Đặc biệt bà đầu tư tiền xây dựng tất cả 36 cây cầu, giúp cho người dân trong vùng đi lại thuận lợi. Nhưng khi đó có một số người đàn ông trong làng không muốn bà xây dựng, họ cho rằng bà là gái góa chồng. Vì thế nên bà cũng không làm cầu cho làng nữa. 
Theo văn bia ghi trong lăng mộ thì trước khi bà Bổi Lạng qua đời, bà đã làm lăng mộ trước. Mộ được làm bằng đá xanh rất kiên cố, xưa kia bà cho người vào tận núi An Hoạch ở Thanh Hóa để lấy. Đích thân thám hoa Lê Quý Đức, nổi tiếng người có quyền uy thời Lê - Trịnh về để viết văn bia cho bà.
Khi bà mất đi người dân làng quý trọng, đã làm rạp từ đầu làng ra tận nghĩa trang ngoài cánh đồng. Ở phía trên rạp mọi người lợp bằng bánh đa, làm lễ tang cho bà xong người dân lấy bánh đa chia cho trẻ con. Do nướng vội bánh đa làm rạp che cho bà nên từ đó làng đó có tên là làng Vội.



Tuyên Phi Đặng Thị Huệ

Đặng Thị Huệ quê ở làng Phù Đổng, huyện Đông Anh, Bắc Ninh (nay là Hà Nội) là một nữ tỳ phục vụ trong phủ chúa. Trịnh Sâm sau khi đã dẹp yên các cuộc khởi nghĩa lớn, bốn phương yên ổn, kho đụn đầy đủ, dần dần sinh bụng kiêu căng, xa xỉ, phi thần thị nữ kén vào rất nhiều, mặc ý vui chơi thoả thích.
Một hôm, tiệp dư Trần Thị Vinh sai nữ tỳ Đặng Thị Huệ bưng một khay hoa đến trước mặt chúa. Thị Huệ, mắt phượng mày ngài, vẻ người rất xinh đẹp và hấp dẫn. Chúa Trịnh trông thấy đem lòng yêu mến đặc biệt. Thị Huệ ngày càng được yêu: Ả nói gì chúa cũng nghe và có việc gì chúa cũng nói với Thị Huệ. Từ đó Thị Huệ được sống xùng một nơi với chúa, y như vợ chồng nhà thường dân.
Xe kiệu quần áo của Thị Huệ đều được sắm sửa như đồ dùng của chúa.
Thị Huệ ngày càng lộng hành. Hễ có chuyện không vừa ý xây xẩm mặt mày, kêu khóc thảm thiết khiến chúa rối lòng. Trịnh Sâm có ngọc dạ quang, chiến lợn phẩm của một trận đánh phương Nam, vẫn treo ở đầu khăn làm đồ trang sức. Một hôm Thị Huệ lấy tay mân mê viên ngọc. Chúa nói:
- Nhè nhẹ tay kẻo sây sát!
Thị Huệ liền ném viên ngọc xuống đất, tru tréo khóc la:
- Ngọc này chả là cái gì sất! Chẳng qua vào Quảng Nam kiếm trả chúa hạt khác là cùng. Sao chúa nỡ trọng của khinh người làm vậy?
Đoạn Thị Huệ bỏ ra ở cung khác, từ chối không gặp nữa, Trịnh Sâm phải dỗ dành mãi, Huệ mới chịu làm lành với chúa.
Để chiều lòng người đẹp, mỗi năm cứ đến tết trung thu, từ trước mấy tháng, chúa cho lấy gấm trong cung phát ra, làm hàng trăm hàng nghĩn đèn lồng, cái nào cũng tinh xảo tuyệt vời, mỗi cái giá đến mấy chục lạng vàng. Bắc cung có hồ Long Trì, rộng nửa dặm, ngát hương súng. Ven bờ hồ san sát hàng mấy trăm cây phù dung để treo đèn. Sóng, trăng dập dờn, trông xa tựa như hàng vạn ngôi sao sáng.
Nội thị từ tam phẩm trở lên, chít khăn mặc áo đàn bà, bày hàng ở mép đường bán tạp hoá cùng hoa quả, chả, nem, rượu chẳng thiếu thức gì, chồng chất như núi. Cung nhân qua lại mua bán, vừa mua vừa cướp, nào cần hỏi giá, đua nhau hát ghẹo, tiếng cười vang dậy trong ngoài.
Nửa đêm, chúa ngự kiệu đến hồ, xuống thuyền. Quan hầu và các phi tần gõ ván hò reo, đi lại rộn rịp và lênh đênh trên sóng nước. Lúc đànm khi sáo, ca hát rộn ràng khiến người ta tưởng như chơi ở cung trăng nghe nhạc thiên đình. Chúa hả hê, mãi gà gáy mới về.
Khi Huệ có thai, chúa sai người lễ bái khắp các chùa, mong sinh con thánh. Năm Đinh Dậu (1777) Huệ sinh con trai, chúa yêu dấu khác thường lấy tên của chúa thuở nhỏ đặt cho con là Cán, tỏ ra nó giống mình. Cán được một tuổi đã có tướng mạo rất khôi ngô đối đáp gãy gọn. Biết chúa cưng chiều Cán, thị Huệ âm mưu cướp ngôi Thế tử cho Cán.
Nguyên trước đó, một quý phi tên là Ngọc Hoan đã sinh con trai đặt tên là Tông. Sâm không yêu Ngọc Hoan nên không muốn lập làm Thế tử, mặc dù Trịnh Tông đã 15 tuổi. Tông rất khôi ngô nhưng chúa chẳng chú ý chăm lo dạy bảo. Việc học tập của Tông đều giao phó cho các quan. Đến tuổi, Tông được ra ở riêng, chúa cũng lờ luôn. Ngôi Thế tử chưa định nên lòng người ly tán, chia hai phe: phe Trịnh Tông, phe Trịnh Cán. Đặng Thị Huệ tìm được người có thế lực trong phủ chúa là Huy quận công Hoàng Đình Bảo. Hai người này câu kết với nhau để mưu lập Trịnh Cán lên ngôi chúa.
Thế tử Tông thấy Chúa lạnh nhạt với mình như vậy, lại biết được âm mưu của Đặng Thị Huệ và Quận Huy, bắt giam hai mẹ con Thị Huệ để giành ngôi chúa về mình. Không ngờ Trịnh Sâm lại khỏi bệnh, việc bị lộ. Thế tử Tông chịu tội giam biếm truất làm con thứ. Từ đó phe cánh của Thị Huệ ngày càng mạnh. Triều quan phần lớn hùa theo Đặng Thị Huệ.
Huệ có em trai là Đặng Mậu Lân. Lân nhờ thế chị mà được tước lộc, ỷ thế chị, làm càn. Quần áo, xe kiệu của Lân đều rập theo vua chúa. Hàng ngày Lân thường đem vài chục tay chân cầm gươm vác giáo nghênh ngang khắp kinh ấp cướp bóc, cưỡng hiếp phụ nữ giữa phố phường. Chúa biết mà làm ngơ. Thị Huệ còn hỏi con gái yêu của chúa cho em trai mình. Chúa không bằng lòng, nhưng vì nể Thị Huệ mà phải nghe theo. Thế rồi, cuộc hôn nhân đã được tiến hành nhưng Đặng Mậu Lân không được phép sống chung với công chúa. Để chiếm đoạt công chúa. Thế mà nhờ Huệ can thiệp, Lân không bị giết, chỉ phải đày đi xa.
Thị Huệ hối thúc Trịnh Sâm lập Cán lên ngôi Thế tử. Bề tôi Trịnh Sâm cũng a dua hùn vào. Sâm đã định lập Cán, nhưng mẹ Sâm là Trịnh thái phi Nguyễn Thị can ngăn nên Sâm chưa quyết. Sâm nói:
- Thà lập Cán hoặc trao ngôi chúa cho Trịnh Bồng (con Trịnh Giang - con ông bác) còn hơn lập Trịnh Tông "đứa con bất hiếu".
Sau đó, do thúc giục của Huệ, Trịnh Sâm lập Cán làm Thế tử, dù Cán mới lên năm. Sâm dùng Quận Huy làm thầy dạy Cán.
Sâm bị bệnh trĩ, luôn ở trong cung không bao giờ đi ra ngoài. Đặng Thị định ý xếp đặt công việc, gài tay chân giữ những cương vị then chốt trong phủ chúa. Cán là Thế tử còn nhỏ, bọn họ càng lộng quyền.
Trong dân chúng lan truyền:
Trăm quan có mắt như mờ
Để cho Huy quận vào sờ chính cung.
Năm Tân Sửu (1781), bệnh tình của Sâm nặng thêm và qua đời. Thị Huệ thông đồng với Quận Huy lập Cán lên ngôi chúa. Tuyên phi Đặng Thị Huệ thông đồng với Quận Huy lập Cán lên ngôi chúa. Tuyên phi Đặng Thị Huệ nghiễm nhiên trở thành người điều khiển triều chính giúp con. Lòng người lo sợ, từ phủ chúa ra kinh thành, thôn dã, ai cũng biết chắc hoạ loạn sẽ xảy ra.
Tháng 10 năm Tân Sửu (1781), binh lính Tam phủ nổi loạn, truất ngôi Cán, giáng xuống Cung quốc công, đập phá nhà cửa, giết Đình Bảo cùng thân thuộc phe cánh. Họ đón Trịnh Tông lên ngôi vương, phong là Nguyên soái Đoan Nam vương. Từ đó, kiêu binh ngày càng càn rỡ, không ai trị nổi. Phe cánh Đặng Thị Huệ bị truy lùng và trả thù. Huệ bị truất xuống thứ nhân, sau uống thuốc độc chết. Trịnh Cán bị giáng, ra ở phủ Lượng Quốc, ốm bệnh chết, ở ngôi được một tháng.



Bà Dương Thị Ngọc Hoan

Bà Dương Thị Ngọc Hoan, theo sử sách, bà là người làng Long Phúc (huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh), không có tài sắc gì, nhưng được chị gái - ái phi của Chúa Trịnh Doanh - đưa vào làm cung tần của Trịnh Sâm. Sách Hoàng Lê nhất thống chíghi: "Sau khi vào cung, Dương Thị Ngọc Hoan vẫn ngày đêm sống cô quạnh. Bỗng một đêm, bà nằm mơ thấy vị thần đem cho tấm tranh có vẽ đầu rồng. Bà không hiểu đó là điềm gì, đem hỏi viên quan hầu là Khê trung hầu. Khê trung hầu biết chắc là điềm sinh thánh".
Thế là hôm sau, khi Chúa Trịnh Sâm cho vời cung tần Ngọc Khoan vào hầu, Khê trung hầu cố ý giả nghe lầm, đưa ngay Ngọc Hoan đến. Thấy bà, Chúa có vẻ không thích, nhưng đã gọi đến, không nỡ đuổi ra và miễn cưỡng ái ân. Sau đó, Chúa đòi Khê trung hầu vào trách mắng. Khê trung hầu cúi đầu tạ tội, đoạn thuật rõ đầu đuôi chuyện Ngọc Hoan nằm mơ cho Chúa nghe. Chúa nín lặng không nói sao cả.
Bà Ngọc Hoan trải qua một đêm mặn nồng với Chúa, liền có thai ngay. Đến kỳ, bà sinh ra một trai, tên Trịnh Khải (còn có tên khác là Trịnh Tông). Đó là năm Quí Mùi, Cảnh Hưng 24 (1763).



Công nữ Ngọc Lan

Chúa Trịnh Sâm có hai người con gái do chính phi sinh ra. Công nữ cả đã yên bề gia thất. Công nữ thứ là Trịnh Thị Thuyên vốn yếu đuối nên từ nhỏ đã được Chúa Trịnh Sâm rất thương yêu.
Do Trịnh Thị Thuyên có nhan sắc thanh tú, nhẹ nhàng nên Chúa Trịnh Sâm đã đặt cho hiệu là Ngọc Lan. Công nữ Ngọc Lan được Chúa Trịnh ban cho ở trong cung Thủy Tinh để kiêng nắng, kiêng gió.
Những nô tì phục vụ Ngọc Lan trong cung Thủy Tinh luôn được Chúa Trịnh dặn dò phải đi nhẹ, nói khẽ để không kinh động đến thể trạng của công nữ. Sự yêu thương của Chúa Trịnh Sâm dành cho Ngọc Lan còn được thể hiện qua việc: ngay cả khi công nữ đã lớn, nhưng mỗi lần vào chầu đều được chúa cho ngồi cùng.
Bất cứ điều gì Công nữ Ngọc Lan cầu xin, Chúa Trịnh Sâm cũng chiều theo ý mà không từ chối bao giờ. Sự yêu quý của Chúa Trịnh dành cho Công nữ Ngọc Lan khiến cho rất nhiều công thần quý tộc muốn được kết duyên cùng người con yêu của chúa nhằm tăng thêm mối thân tình với nhà chúa.
Tuy nhiên, mặc dù có rất nhiều các công thần quý tộc tới cầu hôn nhưng Chúa Trịnh Sâm vẫn chưa ưng gả công nữ cho ai.
Cũng có lần, chúa xuống lệnh cho các quan văn võ vào phủ để Ngọc Lan tự ý kén chọn, nhưng nàng cũng chẳng bằng lòng ai.
 Cho đến một lần, Tuyên phi Đặng Thị Huệ nhân muốn củng cố thêm quyền lực và vị trí của mình bèn đánh tiếng hỏi Ngọc Lan cho em trai mình là Đặng Mậu Lân.
Chúa Trịnh xưa nay cũng đã nghe qua tiếng những việc mà Đặng Mậu Lân làm, nhưng vì nể Tuyên phi rồi lại hay bị Tuyên phi khóc lóc cầu xin nên không xử tới.
Trịnh Sâm lại cũng nghe đến bản tính càn rỡ, dâm dật của Đặng Mậu Lân nên trong lòng không muốn gả con gái yêu cho người như vậy. Chúa Trịnh từ chối.
 Tuy nhiên, Đặng Thị Huệ lại khóc lóc, thủ thỉ nên cuối cùng, Chúa Trịnh Sâm buộc phải bằng lòng cho cuộc hôn nhân được dự đoán trước là bất hạnh này.
Mặc dù bằng lòng cho Đặng Mậu Lân trở thành quận mã nhưng chúa Trịnh Sâm cũng lấy cớ rằng Công nữ Ngọc Lan chưa từng lên đậu, lên sởi nên không cho phép Đặng Lân hợp cẩn.
 Vậy nên, cứ mỗi lần Đặng Lân vào với công nữ thì lại bị Nội giám Sử Trung - người được chúa Trịnh Sâm cho đi theo để bảo vệ công nữ - ngăn cản. Đặng Mậu Lân bị như vậy thì lấy làm tức giận lắm.
Hắn nói với Sử Trung Hầu rằng: “Chúa nói con gái của chúa là tiên giáng trần, nhưng xem ra thì chẳng bằng con bé làm đầy tớ xách giầy cho ta, quý hóa cái nỗi gì?
Thật tình, ta cũng chẳng ham hố gì chút nhan sắc của nó, nhưng đã trót tốn kém bao nhiêu mới lấy được một con vợ, tuy chẳng ra hồn, nhưng ta cũng phải cho một trận mây mưa, bắt nó phải nhũn ra như bùn mới thôi.
Có thế mới mong bù đắp được chút ít phí tổn, xong, ta sẽ đuổi đi cũng chẳng sao. Còn mày nữa, muốn sống muốn tốt thì tìm đường mà xéo đi kẻo mang tiếng là ta không báo trước”.
Trước những lời nói ngông cuồng của Đặng Mậu Lân, Sử Trung Hầu nói: “Đó chẳng qua là mật chỉ của Chúa Thượng chớ tôi đâu dám tự ý làm như thế”.
 Đặng Mậu Lân lại nói: “Mày thử về hỏi chúa mày xem, nếu ở hoàn cảnh như tao thì liệu chúa mày có chịu nổi không? Sử Trung Hầu vẫn bình tĩnh nói tiếp: “Quan lớn đừng nên quá lời như vậy.
Nhà chúa làm sao lại có thể đem sánh với nhà của người thường được”. Vậy là, Đặng Mậu Lân nổi giận, mặt đằng đằng sát khí, mắng rằng: “Hả, mày đem chúa ra để dọa tao hả? Chúa là cái quái gì?”.
Dứt lời, hắn tuốt gươm chém Sử Trung Hầu chết ngay tại chỗ và hạ lệnh đóng chặt cửa dinh lại, nội bất xuất, ngoại bất nhập, dự tính thủ tiêu xác của Sử Trung Hầu để phi tang.
Tuy nhiên, Công nữ Ngọc Lan biết, bèn sai một thị tỳ chui qua lỗ hở nhỏ, chạy về phủ chúa để báo tin. Nghe tin dữ, Chúa Trịnh Sâm phải sai Quận Huy Hoàng Đình Bảo đem quân vây bắt Đặng Mậu Lân, giải về phủ, giao cho triều đình xử tội. Khi tiến hành định tội của Đặng Mậu Lân, các quan đều nói tội giết sứ giả đáng bêu đầu. Tuyên phi Đặng Thị Huệ nghe tin liền chạy đến khóc lóc xin chết thay em.

Vậy nên, Chúa Trịnh Sâm lại bất đắc dĩ phải tha cho Lân tội chết và giảm xuống thành tội đi đày ở châu xa.


 Nguyễn Phúc Ngọc Cầu

Nguyễn Phúc Ngọc Cầu là quận chúa, xét về mối quan hệ nàng và Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát là anh em con chú con bác đồng chung ông nội. Ông có người cậu ruột giúp việc đắc lực là Trương Phúc Loan. Loan luôn tìm cách để khuếch trương quyền hành, tài sản, thao túng vương triều họ Nguyễn. Thấy Ngọc Cầu là một trang tuyệt sắc, Phúc Loan âm mưu dùng vẻ đẹp của nàng để lung lạc Võ Vương, lộng hành triều chính. Và Võ Vương đã nhanh chóng bị mê hoặc bởi vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của nàng. Những ngày đầu họ còn vụng trộm, nhưng càng về sau Võ Vương càng say mê đến nỗi không thiết lâm triều, phó mặc việc nước cho Trương Phúc Loan, bất chấp cả lời can gián của triều thần.
Ngọc Cầu sinh được người con trai tên là Nguyễn Phúc Thuần. Từ đó, Ngọc Cầu luôn nghĩ cách làm sao cho mình phải chính thức là Vương Phi, con nàng phải nối nghiệp cha, phải giành được ngôi chúa. Điều này phù hợp với ý đồ bấy lâu nay của Trương Phúc Loan.
Nhưng Võ Vương trước đó đã chọn Nguyễn Phúc Hậu là người kế nghiệp. Khi Hậu chết non. Ngọc Cầu nắm cơ hội, hết sức dỗ dành Võ Vương cho con mình kế vị. Các quan trong triều biết âm mưu của Ngọc Cầu, ra sức can ngăn Võ Vương không nên lập chúa bé. Do đó Võ Vương không dám nghe theo lời uốn éo của Ngọc Cầu và định lập con của Trương Thái Phi là Nguyễn Phúc Côn (Luân) làm Thái tử, chỉ định 2 viên quan nổi tiếng thanh liêm là Thái phó Y Đức Hầu Trương Văn Hạnh và Thị giảng Lê Cao Kỳ chuyên lo giáo huấn cho Hoàng tử Nguyễn Phúc Côn (Luân).
Thấy tình hình như vậy, Ngọc Cầu lo lắng bàn với Trương Phúc Loan tìm cách đối phó. Đúng lúc đó, Võ Vương bệnh nặng rồi qua đời. Ngọc Cầu và Trương Phúc Loan không chịu phát tang, lập tức cho gọi 100 võ sĩ nấp sẵn trong vương phủ, rồi cho gọi Thái phó Y Đức Hầu Trương Văn Hạnh vào bàn việc. Trương Phúc Loan ra tiếp, ném cây đèn xuống giường làm hiệu, vệ sĩ xông ra giết chết Y Đức, bắt giam Nguyễn Phúc Luân và tôn Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi Chúa. Từ đó mọi việc nước đều lọt vào tay quốc phó Trương Phúc Loan, Ngọc Cầu chỉ giúp đỡ con phần nào. Chính sự Đàng trong ngày một đổ nát. Từ loạn luân đến loạn nước, tội của Ngọc Cầu và Phúc Loan ngày càng chồng chất.
Năm 1774, quân Trịnh từ Bắc kéo vào giết chết Trương Phúc Loan, Nguyễn Phúc Thuần bỏ chạy. Ngọc Cầu không muốn theo con, bà đi tu tại chùa Phước Thành (làng An Cựu, Hương Thủy, Thừa Thiên Huế) lấy đạo hiệu là Thượng Long giáo chủ, năm 1804 thì mất. Sau, vua Gia Long truy tặng danh hiệu: Huệ tĩnh thánh mẫu Nguyên Sư.



Nữ thi sĩ Đoàn Thị Điểm

Đoàn Thị Điểm (1705-1748), có biệt hiệu là Hồng Hà Nữ Sĩ dưới thời Lê trung hưng. Bà là người được đánh giá là bậc nhất về sắc đẹp lẫn tài văn trong những nữ sĩ danh tiếng nhất, bên cạnh là Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan.
Bà chính họ là Đoàn, nhưng vì bà lấy chồng họ Nguyễn (ông Nguyễn Kiều), nên có sách chép bà là Nguyễn Thị Điểm. Bà sinh năm Ất Dậu (1705), thời Lê Trung Hưng. Bà là con gái ông hương cống Đoàn Doãn Nghi. Mẹ bà là người họ Vũ và là vợ hai ông Nghi, nhà ở phường Hà Khẩu, Thăng Long (phố Hàng Bạc bây giờ), sinh một trai (1703) là Đoàn Doãn Luân và một gái (1705) là Đoàn Thị Điểm. Từ nhỏ anh em bà đã theo mẹ về ở với ông bà ngoại là quan Thái Lĩnh Bá và được dạy dỗ chu đáo, lầu thông Tứ thư, Ngũ kinh.
Đoàn Thị Điểm là người có tài trí và nhan sắc hơn người, nổi tiếng từ hồi trẻ. Năm 6 tuổi đã học rất giỏi. Năm 16 tuổi, có quan thượng thư Lê Anh Tuấn mến mộ muốn xin làm con nuôi, để tiến cử vào cung Chúa Trịnh, nhưng bà nhất định từ chối. Về sau cha mất, gia đình phải chuyển về quê nhà, được ít lâu dời về làng Võ Ngai, tại đây Đoàn Thị Điểm cùng anh trai Đoàn Doãn Luân hành nghề dạy học. Bà được trau dồi học vấn với các bậc thi hào tài danh, gặp gỡ với nhiều trí thức của khắp miền hội tụ về kinh sư, nơi trung tâm văn hoá, chính trị của cả nước. Cùng với sự thông minh, tài trí, thích văn chương, ham học hỏi, môi trường ấy, tố chất con người ấy đã tạo nên một hồn thơ dân tộc Hồng Hà nữ sĩ.


Nhắc đến Đoàn Thị Điểm, chúng ta nghĩ ngay đến tác phẩm Chinh phụ ngâm và trong tâm khảm của mỗi người đều thấu hiểu cảnh biệt ly, tang tóc, đồng cảm với lời than oán của người phụ nữ phải chịu đựng nhiều thiệt thòi khi đất nước có chiến tranh.
" Giọt sương phủ bụi chim gù
Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên
Lá màn lay ngọn gió xuyên
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau."



Nàng Phù Cừ

Phù Cừ là tên một loài hoa sen trắng, đã được song thân nữ sĩ Nguyễn Thị Xuân chọn đặt danh hiệu cho bà ngay khi mới lọt lòng mẹ.
Thân phụ của nữ sĩ là nhà nho Nguyễn Nghi, người rất uyên thâm văn tự. Sớm nhận biết con gái có trí tuệ thông mẫn, nên ông hằng để tâm truyền dạy văn sách cho Phù Cừ; và thân mẫu thì khuya sớm trau giồi “Tứ đức tam tòng” cho con gái.
Khi Phù Cừ mới 10 tuổi đã đủ vẻ anh hoa, xuất phát công dung ngôn hạnh, lưu loát thơ văn, biền ngẫu.
Rủi khi đó có đám giặc Sa Tốt (Ai Lao) tràn đến cướp phá tàn sát dân lành. Mẹ bà bị chung số phận chết thảm! Cha bà bèn cho con gái mặc giả trai để dễ bề chạy loạn. Hai cha con lánh nạn vào đến miền Nam, ông Nguyễn Nghi tìm đến bạn quen ở trấn lỵ Hà Tiên; Ông được Khai trấn Quốc công Mạc Cửu Trọng tài truyền vào Trấn Phủ dạy học cho công tử Mạc Tứ hiệu Sĩ Lân. Sau khi cha mất (1735) Mạc Tứ tiếp quyền được Chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Trú) phong chức Tổng binh Khân sai Đại Đô đốc Tổng trấn Hà Tiên, ban danh Mạc Thiên Tích tước Tông Đức Hầu, (nhân dân suốt miền quen gọi là Mạc Hầu). Chính Mạc Hầu là người có công đầu xây đắp nền văn hiến Hà Tiên, thành lập Tao đàn Chiêu Anh Các và đứng vai chủ xuý, đề xướng Hà Tiên Thập Vịnh (ca tụng 10 cảnh đẹp Hà Tiên).
Phần Phù Cừ, hằng ngày vẫn chỉ trong chốn thư phòng dùi mài kinh sử. Qua vài năm nghiên bút, trang thiếu niên Phù Cừ mới 15 tuổi đã tỏ ra là một thư sinh văn hay chữ tốt.
Nhân Tết nguyên đán Bính Thìn (1736) Đô Đốc Trấn lỵ Hà Tiên truyền lệnh mở hội Hoa đăng tại Đông Hồ Ấn Nguyệt cho dân chúng vui chơi dài ngày. Trong đêm khai mạc Tao đàn Chiêu Anh Các, Phù Cừ cũng lại được cha khuyến khích, “chàng” ta hăm hở cắp tráp đi dự hội thơ.
Trong lầu Chiêu Anh Các, Mạc Hầu cho yết đề bài: “Nguyên dạ qua đăng, chiêu anh thắng hội”.
Thoáng chốc, một thư sinh nho nhã trẻ măng đã đệ lên bài thơ Nôm mà chàng ta mới vừa sáng tác xong. Mạc Hầu ngạc nhiên truyền tác giả ấy ngâm lên.
Chàng thư sính Phù Cừ gập mình vái dài, đoạn cất giọng ngâm:
“Đêm xuân hội mở tuần trăng mới
Đốt quả đền dưa sánh quả trăng
Áo gấm thanh vân phô điện bích
Lòng son đan quế dãi cung hằng
Đây Chiêu Anh Các ngời châu ngọc
Kia Quảng hàn cung rạng tuyết băng
Non nước thần tiên mừng có chủ
Cỏ Nhàn mừng tỏ mặt Qua Đăng”
Lời thơ lưu loát, ý tứ mới mẻ, giọng ngâm lảnh lót, lại thêm dáng dấp nho nhã kỳ tú…, khiến cử toạ đều tấm tắc thán phục. Nhật là Mạc Hầu sau khi ban mũ áo, ngài rất đỗ sững sốt thoáng nhận ra dáng vẻ giai nhân trong lốt áo thư sinh ấy. Phù Cừ nhận biết, cô lấy bình tĩnh bước lên vài bước lấy giọng hùng dũng ngâm câu đối Hán văn:
“Bằng thành khải kích anh hùng lược
Văn hiến huyền ca sĩ giả phong”
Khi biết sự thật hiển nhiên Phù Cừ là nữ nhân, Mạc Hầu càng say vì sắc, đắm vì tài. Giai nhân Phù Cừ đã lọt vào mắt xanh của vị Tổng trấn Nguyên suý tao đàn Chiêu Anh Các. Ngài đưa lời cầu hôn, cùng lúc truyền cho xây cất cung đài Điệp Thuý lâu để Ngài kịp cưới Phù Cừ làm Thứ Cơ, vào ngày thượng nguyên năm Mậu Ngọ (1738). Từ đó Mạc Hầu gọi nàng là Ái Cơ.
Điệp Thuý lâu được kiến trúc vô cùng lộng lẫy. Mặt tiền hướng thẳng ra phía Hồ Đông, kề bên là một hồ nước nhỏ, được trồng thả toàn loại sen bạch ngọc mang tên Phù Cừ liên hoa. Trên mặt hồ có nhà thuỷ tạ gọi là Ích thanh tạ, lối vào các nơi này bằng chiếc cầu uốn cong có tên Hương Viễn Kiều… Bao nhiêu đó đã thấy rõ được niềm hạnh phúc lứa đôi dưới mái ấm Điệp Thuý lâu. Cuộc tình của đôi giai nhân tài tử này không những chỉ đơn giản có thế mà còn được họ lồng vào thi phú những vần điệu vô cùng óng chuốt mộng mơ…, xướng hoạ, ngâm vịnh thật tâm đầu ý hợp.
Nhưng cũng vì sự sủng ái quyến luyến ấy đã khiến Chính Cơ phu nhân bất mãn, tìm cách hãm hại, nhốt Phù Cừ vào trong chiếc lu úp lại, mặc cho chết ngạt! May thay được Mạc Hầu đến giải cứu kịp thời, cho bồng về Điệp Thuý lâu.
Sau lần thoát nạn ấy, Phù Cừ quyết tâm tìm nương cửa Phật. Bà tự cắt đứt mọi giao tiếp với người chồng yêu kính.
Cuối cùng Mạc Hầu đành cho xây một ngôi chùa nhỏ; kiến trúc toàn bằng đá cẩm thạch đặt mua từ Kiên Tân bên Tàu chở qua. Ngôi chùa xinh xắn dựa triền núi Bình Sơn Điệp Thuý, ngoài cổng để bốn chữ “Phù Cừ Am Tự”.
Mùa Xuân Tân Tỵ (1761) Sư nữ Phù Cừ đã thoát tục về tiên cảnh. Hưởng dương 41 tuổi.
Tương truyền trong thời gian tu thiền, vị sư nữ tài danh của xứ Hà Tiên Văn Hiến đã sáng tác một bài thơ Vịnh Luên hoa bằng chữ hán.
Phiên âm:
“Xuất xứ trần nê cảnh giới tiền
Ưng đương thanh bạch đối viêm thiên
Xuân thu nùng đạm phần phương phố
Cao khiết hà như hạ chiểu liên”
Dịch thơ:
“Vươn khỏi bùn nhơ thoắt vượt lên
Phô lòng trong trắng giữa thiên nhiên
Xuân thu đậm nhạt bao hồng tía
Đừng sánh thanh cao với đoá sen”
Đời sau, nhiều người còn thương cảm khi nhắc đến thiên tình sử của nữ tài danh Phù Cừ còn gọi bà Chúa Phù Dung ở đất Hà Tiên. Ngôi “Phù Cừ Am tự” xưa còn có tên gọi Chúa Bà Dì hay bà Dì tự (ngụ ý chỉ ngôi chùa của bà vợ thứ Mạc Thiên Tích”. Ao sen cạnh chùa cũng được gọi “Ao Bà Dì”. Sau này tên chùa được gọi là chùa Phù Dung (cổ tự thờ bà Chúa Phù Dung tức Phù Cừ).


Châu Thị Vĩnh Tế

Châu Thị Vĩnh Tế (1766-1826) hay Châu Thị Tế người cù lao Dài (cù lao Năm Thôn) thuộc xã Quới Thiện, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Bà là trưởng nữ của ông Châu Huy (có sách chép là Châu Vĩnh Huy) và bà Đỗ Thị Toán.
Thời chúa Nguyễn, Nguyễn Văn Thoại theo mẹ rời làng An Hải (phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng ngày nay) di cư vào Nam sinh sống ở cù lao Dài nên đã gặp bà và cưới bà tại đây vào năm 1788.Bà nổi tiếng là người vợ hiền đức, tận tụy, đảm đang, đã góp phần không nhỏ trong sự nghiệp lừng lẫy của chồng. Bà còn là người có công xây dựng miếu Bà Chúa Xứ núi Sam - Châu Đốc.
Khi chồng bà, Thoại Ngọc Hầu - Nguyễn Văn Thoại, được vua giao trọng trách đào con kênh nối liền từ Châu Đốc đến Hà Tiên, bà đã tận tụy giúp chồng chăm lo công việc đại sự. Những lúc chồng bận việc công cán, bà đã thay chồng lãnh phần đôn đốc, coi ngó việc đào kênh, tiếng nhân đức của bà được nhân dân truyền tụng. Bấy giờ trong dân gian có câu: Nước Nam trai sắc gái tài,/ Gương bà Châu thị lưu đời ngàn năm.
Việc đào kênh dài hơn 87 km này kéo dài trong 5 năm (1819-1824), huy động đến hàng vạn nhân công và phải hoãn 4 lần. Công trình thủy lợi chiến lược này đã được sách cũ mô tả “dài 205 dặm rưỡi, rộng 7 trượng 5 thước, sâu 6 thước… Từ đấy, đường sông lưu động, phòng giữ ngoài biên cho tới nhân dân buôn bán đều được tiện lợi vô cùng…”.
Để tuyên dương công trạng của vợ chồng bà và thể theo lòng dân mến mộ, vua Minh Mạng cho lấy tên chồng bà là Nguyễn Văn Thoại đặt cho con kênh “Thoại Hà”, núi “Thoại Sơn”, đặt tên kênh Châu Đốc - Hà Tiên là “Vĩnh Tế Hà”, núi Sam gần đấy là “Vĩnh Tế Sơn” và làng cạnh núi là “Vĩnh Tế Thôn”. Năm 1836 (Minh Mạng thứ 17), vua cho chạm hình tượng kênh Vĩnh Tế vào Cao đỉnh, đỉnh đồng lớn nhất trong Cửu đỉnh đặt tại Thế miếu, Huế.
Thoại Ngọc Hầu và Châu Thị Tế được người dân An Giang cảm mến, nhớ ơn. Ở huyện Thoại Sơn, ngoài đền thờ, bia đá còn có khu du lịch mang tên Hồ Ông Thoại. Tại chân núi Sam, có một làng mang tên Vĩnh Tế. Hai tiếng Vĩnh Tế đời biểu lộ sự nhớ ơn của nhân dân đối với ông bà Bảo hộ Thoại... Nơi này còn có câu ca dao: Đi ngang qua cảnh núi Sam,/ Thấy lăng Ông Lớn hai hàng lụy rơi./ Ông ngồi vì nước vì đời,/ Hy sinh tài sản không rời nước non./ Nước kênh Vĩnh Tế lờ đờ, /Nhớ ông Bảo Hộ dựng cờ chiêu an.


Hồ Xuân Hương


Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng (1772-1822). Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam.

Đền Thái Thú

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được,
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu.



Phạm Lam Anh nữ sĩ

Bà sinh khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII tại huyện Diên Phước ,dinh Quảng Nam nay thuộc huyện Điện Bàn,tỉnh Quảng Nam nổi tiếng văn chương từ thuở nhỏ được giới văn lâm thơì bấy giờ xưng tụng sánh ngang với Hồ Xuân Hương nữ sĩ 
Cái kỳ lạ ở người nữ sĩ tài hoa khai sinh cho thơ ca đất Quảng là thơ bà chỉ mới tìm lại được có ba bài thơ chữ Hán nhưng cả ba bài đều viết về ba người danh thần, hào kiệt mà cuộc đời đầy bi kịch: Khuất Nguyên ,Kinh Kha, Hàn Tín và một bài thơ chữ nôm: Vịnh cảnh gần sáng . 
Bà từng tự hiệu Ngâm Si cùng chồng viết một tập thơ lấy tên Chiến cổ đường thi (ngôi nhà thơ chống lại cái xưa), Điều ấy chứng tỏ khí phách của bậc tiên hiền khai cơ trang thơ đất Quảng phải là một nữ lưu hào kiệt mà trăm năm về sau không dễ kiếm tìm. Cả ba bài đều được bà viết dưới thể Thất ngôn tứ tuyệt mỗi bài đều thể hiện nét khí khái riêng rất Quảng của Bà.


Hoàng phi Nguyễn Thị Kim

Bà là con của quan Tham đốc Vãn Trung hầu, em của Phượng Thái hầu Nguyễn Quốc Đống, sinh năm Ất Dậu (1765) đời vua Lê Hiển Tông tại thôn Tỳ Bà, huyện Gia Lương, xứ Kinh Bắc, nay thuộc thôn Tỳ Điện, xã Phú Hòa, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Đến năm Tân Sửu (1781) được đưa vào cung hầu Lê Duy Kỳ, năm Bính Ngọ (1786) khi 22 tuổi thì sinh ra con trai trưởng cho Lê Chiêu Thống,
bà là con của quan Tham đốc Vãn Trung hầu, em của Phượng Thái hầu Nguyễn Quốc Đống, sinh năm Ất Dậu (1765) đời vua Lê Hiển Tông tại thôn Tỳ Bà, huyện Gia Lương, xứ Kinh Bắc, nay thuộc thôn Tỳ Điện, xã Phú Hòa, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Đến năm Tân Sửu (1781) được đưa vào cung hầu Lê Duy Kỳ, năm Bính Ngọ (1786) khi 22 tuổi thì sinh ra con trai trưởng cho Lê Chiêu Thống,
Lúc quân Thanh đại bại trong Tết Kỷ Dậu (1789), “Vua Lê khi ấy vội vàng, Cùng Tôn Sĩ Nghị sang đàng Bắc kinh” (trích Đại Nam quốc sử diễn ca). Nhà vua sai Hoàng Ích Hiểu chạy gấp về nội điện, hộ vệ Thái hậu và Thái tử vượt qua sông Nhị Hà (sông Hồng). Hoàng đệ Duy Chỉ hộ vệ hoàng phi Nguyễn Thị Kim và cung tần đến bến sông thì cầu phao gãy, không qua sông được, phải hướng về phía tây mà chạy trốn,bà  lánh loạn ở vùng quê nhà Kinh Bắc. 

Năm 1802, sau khi Gia Long đánh bại nhà Tây Sơn và lên ngôi, các bầy tôi nhà Lê dâng biểu xin đem linh cữu vua cũ cùng thái hậu và con đầu vua về nước. Tháng 8 năm 1804, di hài của vua Lê được đưa về cửa ải, hoàng phi sau khi lên đón di hài của vua Lê, khi hộ tống về đến Thăng Long thì đã uống thuốc độc tự tử[



Công chúa Lê Ngọc Hân

Trong lịch sử Việt Nam, có một nhân vật nữ nổi tiếng, được sử sách nhắc nhiều nhất là công chúa Lê Ngọc Hân (1770 – 1799) – con gái thứ 9 của vua Lê Hiển Tông và đồng thời là Bắc cung hoàng hậu của Hoàng đế Quang Trung.  Lê Ngọc Hân giỏi văn thơ và được Nguyễn Huệ yêu say đắm. Nguyễn Huệ cũng được Ngọc Hân xem như một vĩ nhân hiếm có. Không chỉ yêu vì nết, Nguyễn Huệ còn trọng Ngọc Hân vì tài, nên giao coi giữ các văn thư trọng yếu, phong cho chức nữ học sĩ, dạy dỗ các con cái và các cung nữ. Tuy nhiên, trong thực tế, Ngọc Hân còn trở thành người cộng sự đắc lực, tin cẩn về lĩnh vực văn hóa, giáo dục cho chồng; đồng thời khuyên giải cho chồng trong nhiều việc hệ trọng khác như khuyên chồng chấm dứt cuộc xung đột với Nguyễn Nhạc…


Công chúa  Ngọc Bình

Công chúa Ngọc Bình là con út của vua Lê Hiến Tông và Chiêu nghi Nguyễn Thị Điều, đồng thời cũng là em gái cùng cha khác mẹ với công chúa Ngọc Hân (vợ vua Quang Trung). Có nhiều nguồn tài liệu khác nhau nói về năm sinh của công chúa Ngọc Bình, có tài liệu chép bà sinh năm 1783, có tài liệu lại nói bà sinh năm 1775. Về nhan sắc, công chúa Ngọc Bình nổi tiếng đẹp sắc nước hương trời. Dân gian còn lưu truyền cơ thể nàng có một mùi hương thơm rất lạ, có sức cuốn hút vô cùng.
Dù đã trải qua nhiều mỹ nữ nhưng vua Gia Long cũng bị vẻ đẹp của Ngọc Bình làm mê mẩn. Kinh đô Phú Xuân rơi vào tay Nguyễn Ánh, công chúa Ngọc bình ngồi trầm ngâm trong nỗi sợ hãi khi Nguyễn Ánh xuất hiện. Vị vua đầu tiên của vương triều Nguyễn không thể bỏ qua một người đẹp như vậy nên đã trấn an tinh thần Ngọc Bình bằng những lời nói không giống như tính cách mạnh mẽ của một con người từng trải: “Bà là một hoàng hậu tuyệt vời! Mặc dầu có những đổi thay trong lịch sử. Xin bà hãy khuây khỏa, dẹp sợ hãi, ưu phiền. Cung điện lâu đài này vẫn thuộc về bà!”. Biết không thể nào ngăn được ước muốn của Nguyễn Vương, bà Ngọc Bình đành phải xuôi theo số phận. Năm 1802, Nguyễn Vương lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long. Dù có nhiều người can ngăn nhưng vua Gia Long vẫn quyết định kết duyên cùng bà. Ngọc Bình được phong là thứ phi (đệ tam cung - sau Thừa thiên Cao hoàng hậu là mẹ của hoàng tử Cảnh, Thuận thiên Cao hoàng hậu là mẹ của vua Minh Mạng).


Danh tướng Bùi Thị Xuân

Bùi Thị Xuân là một danh tướng thời Nguyễn Tây Sơn. Bà là vợ danh tướng Trần Quang Diệu, có nhan sắc, văn võ toàn tài, được phong chức đô đốc và có tên trong danh sách “ngũ phụng thư” (năm vị anh thư trong đoàn quân Tây Sơn gồm có: Bùi Thị Xuân, Bùi Thị Nhạn,  Trần Thị Lan, Nguyễn Thị Dung, Huỳnh Thị Cúc).
Bà cùng chồng theo phò vua Quang Trung Nguyễn Huê, đánh dẹp 20,000 quân Xiêm tại Rạch Gầm Xoài Mút (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) năm 1784 và góp công sức trong các chiến trận phá tan 200,000 quân Mãn Thanh xâm chiếm Thăng Long năm 1789. Khi ra trận, bà thật dũng cảm, có tài xử dụng song kiếm, cưỡi ngựa bắn cung và huấn luyện voi trận.
Bà có lòng thương dân khi được cử làm Trấn Thủ trấn Quảng Nam. Bà mở kho phát chẩn, trừng trị bọn cường hào, cứu nạn mất mùa tại đây và giúp cho dân được an cư lạc nghiệp, nên rất được lòng dân cảm phục.


Bà Bùi Thị Nhạn

Bà Bùi Thị Nhạn người thôn Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (nay là H.Tây Sơn, tỉnh Bình Định), cô ruột của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Tuy thân phận lớn hơn nhưng bà Nhạn lại kém tuổi hơn Bùi Thị Xuân và sau này theo dưới trướng trong quân binh. Trong việc dạy võ nghệ, Bùi Thị Xuân rất nghiêm khắc nên Bùi Thị Nhạn mau chóng trở thành nữ kiệt. 
Sau khi vợ là bà Phạm Thị Liên qua đời, Nguyễn Huệ kết duyên cùng Bùi Thị Nhạn. Theo nhà nghiên cứu Quách Giao, bà Nhạn sanh hạ được 3 con trai là Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Thiệu, Nguyễn Quang Khanh và 2 con gái. Quang Trung lên ngôi hoàng đế thì bà Nhạn được phong Chánh cung Hoàng hậu. Khi Quang Toản lên ngôi, bà được tôn làm Hoàng thái hậu.

Bà Trần Thị Lan

Bà Trần Thị Lan  là người thôn Trường Định, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (nay là thôn Trường Định, xã Bình Hòa, H.Tây Sơn), cháu nội của danh sư Trần Kim Hùng. Trần Thị Lan có người chị gái Trần Thị Huệ là vợ của Nguyễn Nhạc. Nghe tiếng Bùi Thị Xuân võ nghệ cao cường, bà Lan lên thăm chị rồi tìm cách kết thân với Bùi Thị Xuân. 
Cuộc gặp gỡ giữa Trần Thị Lan và Bùi Thị Xuân được 2 tác giả Quách Tấn, Quách Giao kể lại trong cuốn Võ nhân Bình Định: Trên một vùng gò rộng rãi, dưới sự giám sát của nữ tướng Bùi Thị Xuân, toán nữ binh đang phi ngựa bắn vào hồng tâm các tấm bia cách đó chừng 30 thước. Cuộc tập dợt đang độ sôi nổi thì bỗng nhiên một con ngựa dở chứng lồng lên mang nữ kỵ sĩ chạy quanh võ trường. Dù tìm đủ mọi cách, người cưỡi ngựa không thể nào kìm nổi con ngựa chứng.
 Đột nhiên trong đám người đứng xem chạy vụt ra một bóng người áo trắng, nhẹ nhàng nhảy lên ngồi phía sau người kỵ mã, tay cướp lấy dây cương, chân kẹp chắc vào bụng ngựa. Ngựa bỗng chồm hai chân trước, đứng thẳng lưng hòng hất hai người xuống đất nhưng dây cương đã siết chặt hông ngựa như bị kiềm sắt khóa cứng. Cuối cùng, ngựa cuồng đành phải ngoan ngoãn đứng yên. Người áo trắng đó chính là Trần Thị Lan. 
Từ đó, Trần Thị Lan ở lại cùng Bùi Thị Xuân huấn luyện nữ binh. Tại đây, bà gặp Nguyễn Văn Tuyết và kết duyên vợ chồng. Tuy có chồng, song Trần Thị Lan vẫn hoạt động dưới trướng Bùi Thị Xuân. Trong trận chiến với quân Thanh, bà Lan có đi cùng Đại đô đốc Nguyễn Văn Tuyết. Vua Quang Trung mất, vợ chồng Đại đô  đốc Tuyết và bà Trần Thị Lan phò vua Cảnh Thịnh. Sau này, vợ chồng bà ra Thăng Long, phụ trách việc tuần phòng cho đến khi quân Nguyễn tấn công ra Bắc Hà. 
Theo cuốn Võ nhân Bình Định, quân Nguyễn tấn công ra Bắc thành, Bùi thái hậu cùng vợ chồng Đại đô đốc Nguyễn Văn Tuyết đưa vua qua sông Nhị Hà lên phía bắc, có Đô đốc Nguyễn Văn Tứ và Tư mã Nguyễn Quang Dung theo hộ giá. Bị giặc vây đánh tại Xương Giang, Đô đốc Tứ và Tư mã Dung tử trận. Hai vợ chồng Đại đô đốc Tuyết cùng với Bùi thái hậu tả xung hữu đột phá được vòng vây phò xa giá. Tuy nhiên, quân Nguyễn vẫn đuổi riết. Cuối cùng, quân tàn, lực kiệt, Đại đô đốc Tuyết tử trận. Bà Trần Thị Lan và Bùi thái hậu chống cự không nổi nên bị bắt nhưng hai người đã dùng gươm tự sát.


Đô đốc Nguyễn Thị Dung

Đô đốc Nguyễn Thị Dung, người làng Phổ Lạc (nay thuộc xã Đức Nhuận, H.Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi), là em ruột quan Thái bảo Nguyễn Văn Xuân. Bà cùng Nữ tướng Huỳnh Thị Cúc nghe tiếng thầy Trương Văn Hiến, hai bà theo anh trai vào Tây Sơn xin học. Vì môn quy không nhận dạy nữ môn sinh, nên thầy giáo Hiến từ chối nhưng lại viết thư giới thiệu cùng Bùi Thị Xuân. Hai bà cùng với bà Bùi Thị Nhạn, Trần Thị Lan kết làm chị em, tôn bà Bùi Thị Xuân vừa lớn tuổi vừa tài đức hơn trội làm chị cả.
 Theo Võ nhân Bình Định, bà Nguyễn Thị Dung là người khỏe mạnh, rất ham mê cưỡi ngựa múa đao. Làm tì tướng cho Bùi Thị Xuân, bà Dung đã giúp rất nhiều công trong việc huấn luyện nữ binh. Bà kết duyên cùng một danh tướng Tây Sơn là Trương Đăng Đồ, người làng Mỹ Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Tướng Đăng Đồ lập được nhiều công lớn, được vua Quang Trung phong tước Tú Đức hầu, chức Đô đốc. Bà Nguyễn Thị Dung luôn luôn theo sát bên chồng, lúc thì xông pha trận mạc, khi thì rèn luyện binh sĩ, đôn đốc việc canh tuần.
Khi quân nhà Nguyễn tràn ra Thăng Long, vua Quang Toản chạy về phía bắc để thành Thăng Long lại cho anh trai là Nguyễn Quang Thùy (con của bà Phạm Thị Liên) và vợ chồng Tú Đức hầu chống giữ. Sau vài trận giao tranh, biết không thể chống nổi, bà Nguyễn Thị Dung cùng chồng mở đường máu hộ giá Nguyễn Quang Thùy chạy về ngả Sơn Tây. Mục đích để nhử giặc chạy theo hướng này mà không đuổi theo xa giá vua Quang Toản. Lên đến Sơn Tây thì nghe tin vua bị bắt. Thế cùng binh tận, sau một trận chiến oai hùng, cả ba đều bị bắt. Nguyễn Quang Thùy đập đầu tuẫn tiết. Hai vợ chồng Tú Đức hầu cũng rút gươm tự sát.

Nữ tướng Huỳnh Thị Cúc

Nữ tướng Huỳnh Thị Cúc, người làng Dương Quang (nay thuộc xã Đức Thắng, H.Mộ Đức), là em ruột Đô đốc Huỳnh Văn Thuận, một vị tướng tài của quân Tây Sơn. Bà Huỳnh Thị Cúc không lấy chồng, mặc dù có nhiều danh tướng Tây Sơn đã từng nhờ Bùi nữ tướng làm mai mối. Khi Phú Xuân thất thủ, bà Cúc theo nữ tướng Bùi Thị Xuân hộ giá Quang Toản chạy ra Nghệ An. Trên đường đi bị quân Nguyễn Ánh vây đánh, bà Cúc luôn luôn che chở phía sau cho Bùi Thị Xuân bảo giá vua qua sông Nhật Lệ. Quân địch bị Huỳnh Thị Cúc ngăn chặn dồn lại bên bờ sông. Các nữ binh đã một lòng với chủ tướng, nên trận chiến kéo dài qua một đêm. Sáng hôm sau, Huỳnh Thị Cúc cùng mươi nữ binh còn sống sót, áo ướt đẫm máu về đến thành Nghệ An. Vừa trông thấy Bùi Thị Xuân, bà Cúc vội chạy đến ngã vào lòng chị. Bùi nữ tướng ôm lấy em. Huỳnh Thị Cúc nhìn chị lần cuối cùng rồi tắt thở. Bùi Thị Xuân cùng những nữ binh còn lại, ai cũng rơi lệ thương tiếc.  


Bà Ya Đố

Trong quá trình vận động đồng bào dân tộc thiểu số tham gia nghĩa quân Tây Sơn, Nguyễn Nhạc đã vào rừng Mộ Điểu vận động đồng bào Ba Na ở làng Cổ Yểm. Tại đây, Nguyễn Nhạc đã gặp người con gái xinh đẹp của tù trưởng trong làng tên là Ya Đố. Để mối tình Kinh – Thượng thêm khăng khít, tù trưởng đã gả con gái cho Nguyễn Nhạc.
Từ khi lấy Nguyễn Nhạc, Ya Đố đã tích cực vận động đồng bào Ba Na ủng hộ và đóng góp của cải cho phong trào Tây Sơn. Nhận thấy đất đai trong rừng Mộ Điểu màu mỡ, Nguyễn Nhạc liền  giao cho Ya Đố với một số người Kinh giỏi sản xuất vận động dân làng khai hoang trồng cây lương thực. 
Cùng với dân làng tìm đất khai hoang trong nhiều tháng, Ya Đố đã lập nên một cánh đồng hơn 20 mẫu bằng phẳng và đất đai màu mỡ ở xã Nghĩa An để trồng lúa nuôi quân. Người dân trong vùng gọi đó là cánh đồng Cô Hầu. Tại đây, Ya Đố còn cho trồng cam, mít mà bà lấy giống từ miền xuôi lên.
Trong thời gian ở với Nguyễn Nhạc, bà Ya Đố đã có mấy lần xuống miền xuôi lấy giống cam, chanh về trồng khắp làng mình. Tương truyền vườn cam ở Kon Hà Nừng (huyện K’Bang) có từ thời bấy giờ. Còn rừng mít ở trong dãy núi Kon Chơ Ví (xã Nghĩa An) cũng do bà Ya Đố trồng và đến nay ở đây vẫn còn nhiều cây mít cổ thụ. 
Không biết cánh đồng Cô Hầu đã cung cấp được bao nhiêu lương thực nhưng lúc bấy giờ chính nó đã nuôi sống nghĩa quân Tây Sơn trong buổi đầu dấy nghiệp.
Nhờ sự giúp đỡ của Ya Đố, anh em Tây Sơn đã tìm đến Plei Sýt (xã Nam), Đê Tung (xã Đông, huyện K’Bang) mở rộng căn cứ. Truyền thuyết ở Đê Chơ Gang (nay thuộc xã Phú An, thị xã An Khê) còn kể Bok Nhạc thường xuyên vào đây nhiều lần và dừng chân trên hòn đá lớn bên bờ suối Chơ Ngang (tiếng Ba Na gọi là Thông Chơ Ngao). Sau này, ông Nhạc về xuôi, dân Đê Chơ Gang gọi hòn đá đó là đá ông Nhạc (tiếng Ba Na gọi là Tờ Mo Bok Nhạc). 
Ya Đố và người dân Ba Na luôn trung thành với nhà Tây Sơn. Nhiều cụ già trong vùng kể rằng Gia Long sau khi tiêu diệt được nhà Tây Sơn đã đưa quân về đây đàn áp và bị người dân chống trả quyết liệt và họ đã rào làng để tự vệ trong một thời gian dài.




Trương Quỳnh Như


Trương Quỳnh Như là một nữ sĩ xinh đẹp tài hoa thời Tây Sơn. Nàng và Phạm Thái thầm lén yêu nhau, làm thi văn tương tặng. Cha Quỳnh Như là Trương Đăng Quỹ biết rõ gốc gác Phạm Thái, cũng muốn gả con gái cho, nhưng bà mẹ không ưng. Bị ép lấy một người nàng không thuận, Quỳnh Như buồn bực mà chết (có sách chép là nàng tự ải). Phạm Thái từ khi công việc chống Tây Sơn thất bại lại mất người yêu, sinh ra chán đời, chỉ uống rượu li bì, tự hiệu là Chiêu Lì, đi lang thang khắp nơi, năm 37 tuổi thì mất ở Thanh Hóa.



Công n Ngc Huyên

Công nữ Ngọc Huyên là con gái trưởng của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Sau khi chồng chết, bà cắt tóc đi tu ở xã Vân Dương, Phú Xuân (Huế). Vì thế, bà mới có tên gọi sư cô Vân Dương, hay bà vãi Vân Dương.
Theo sử sách, sau khi quân Tây Sơn chiếm được Phú Xuân và phá hủy lăng tẩm của các chúa Nguyễn, bà rất phẫn uất, sai con rể là Nguyễn Đức Tuấn cùng cộng sự bí mật theo dõi nhất cử nhất động của quân Tây Sơn để thông tin cho Nguyễn Ánh ở Gia Định.
Nguyễn Ánh đã lấy ngôi chùa nơi bà trụ trì làm căn cứ hoạt động cho lính trinh thám nhà Nguyễn, cấp tiền bạc để tiến hành chiêu dụ binh tướng của Tây Sơn. Quân Tây Sơn đã phát hiện ra và tấn công ngôi chùa, nhưng không bắt được bà.
Sau sự kiện đó, bà còn thâm nhập sâu hơn vào nội bộ quân Tây Sơn. Năm 1797, bà dò biết quan bộ binh của Tây Sơn là Nguyễn Đại Phát đã mệt mỏi với nhà Tây Sơn, liền sai Đức Tuấn đi chiêu dụ người này. Đại Phát đã nhanh chóng quy thuận Nguyễn Ánh.
Tiếp đó, phát hiện trong nội bộ Tây Sơn có xung đột bè phái, tướng Lê Chất phải giả chết, về ở ẩn ở núi Trà Đông, bà lại sai người đến dụ Lê Chất về hàng. Sau này Lê Chất đã trở thành một công thần của nhà Nguyễn.
Năm 1800, quân Tây Sơn tập trung vây thành Quy Nhơn, bỏ trống thành Phú Xuân. Ngọc Huyên cho người khảo sát tình hình quân Tây Sơn ở cửa biển Tư Hiền và Thuận An, rồi báo tin cho Nguyễn Ánh. Nhờ tin tức tình báo vô giá này, Nguyễn Ánh đã tổ chức đánh Phú Xuân, phá tan cuộc hành quân của quân đội Tây Sơn và chiếm được Phú Xuân vào năm 1801.
Có thể nói, những đóng góp của công chúa Ngọc Huyên đã góp phần mang lại chiến thắng toàn cục của Nguyễn Ánh trước quân Tây Sơn.


Thừa Thiên Cao Hoàng hậu


Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, húy Tống Thị Lan, con ông Thái Bảo Khuông Quận Công, húy Tống Phước Khuông và bà Quốc Phu Nhân Lê Thị. Bà được Nguyễn Ánh cưới về năm ông được 18 tuổi, tính tình bà cẩn trọng, đoan trang rất được ông quý mến. Ghi chép về hành trạng của bà không có nhiều chỉ có một số chi tiết như vào năm 1783, khi Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đánh đem hết gia quyến chạy ra đảo Phú Quốc, bà đã giao con mình là hoàng tử Cảnh khi ấy mới 4 tuổi cho giám mục Pigneau de Béhaine sang Pháp cầu viện, nhà vua giao cho bà nửa thoi vàng làm tin rồi sang Xiêm. Sau đó, bà là người đã đứng ra chăm sóc cả gia đình Nguyễn Ánh khi ông còn phiêu bạt, thậm chí có lần đánh trống đốc binh cứu được Nguyễn Ánh khi ông bị Tây Sơn vây ngặt. Sau khi Nguyễn Ánh chiếm lại được Phú Xuân và lên ngôi hoàng đế, ông hỏi bà về nửa thoi vàng năm xưa, bà đưa ra và vua Gia Long mừng rỡ nói: "Vàng này còn giữ được, đó thật là ân trời đã giúp trong lúc nguy nan, chẳng nên quên lãng. Vậy phải để giành về sau cho con cháu biết." rồi lấy nữa thoi còn lại ráp thành hoàn chỉnh rồi giao hết cho bà. Bà qua đời năm 1814, hiệp táng tại lăng Thiên Thọ, làng Định Môn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.


Lê Thị Răm


Lê Thị Răm là tên thật một cung phi của Nguyễn Ánh, thường gọi là bà Phi Yến. Không rõ năm sinh, năm mất.
Năm 1783, sau khi thua quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh mang theo vợ, con và khoảng 100 gia đình thuộc hạ chạy ra Côn Đảo. Nguyễn Ánh dự định gửi con cả là Hoàng tử Cảnh đi theo cố đạo Pháp (Bá Ða Lộc) sang Pháp cầu viện. Bà đã lên tiếng can ngăn "Chuyện giữa Chúa công và Tây Sơn dù sao cũng là chuyện nội bộ. Chúa công không nên cõng rắn cắn gà nhà".


Nguyễn Ánh không những không nghe lời khuyên của bà mà còn tức giận, nghi bà thông đồng với quân Tây Sơn, nên định giết bà. Nhờ quần thần can xin, Nguyễn Ánh đã tống giam bà vào một hang đá trên đảo Côn Lôn nhỏ. Khi quân Tây Sơn đánh ra đảo, Nguyễn Ánh bỏ chạy ra biển, Hoàng tử Cải, con bà Phi Yến lúc đó mới 4 tuổi đòi mẹ đi cùng. Trong cơn tức giận, Nguyễn Ánh đã ném con xuống biển. Xác Hoàng tử Cải đã trôi vào bãi biển Cỏ Ống. Bà Phi Yến, theo truyền thuyết, được một con vượn và một con hổ cứu ra khỏi hang và về sống với dân làng Cỏ Ống để trông nom mộ Hoàng tử Cải. Một lần sau khi bị một kẻ xấu tên Biện Thi xúc phạm, bà đã chặt cánh tay bị xúc phạm vào rồi sau đó tự tử.
Người đời sau có câu ca dao: "Gió đưa cây Cải về trờirau Răm ở lại chịu lời đắng cay" để ca ngợi bà là một người phụ nữ tiết hạnh và giàu lòng yêu nước.
Hiện nay ở Côn Đảo vẫn còn ngôi miếu An Sơn do dân đảo dựng vào năm 1785 (đến năm 1958 đã được xây dựng lại) để thờ bà Phi Yến, dân làng tôn kính gọi là Đức Bà An Hải.



Nguyễn Thị Hạnh

Trong thời gian còn bôn ba tẩu quốc, lo việc khôi phục, Nguyễn Phúc Ánh nhiều lần phải lẩn tránh khắp vùng sông nước Cửu Long trước sự truy đuổi của quân Tây Sơn. Năm Đinh Mùi (1787), một lần ông về trú tại làng Tân Long xứ Sa Đéc nằm ở ngã ba sông tên gọi Hồi Oa Thủy (Nước Xoáy), thấy nhân dân thuần hậu mới đổi tên là làng Long Hưng (nay thuộc xã Long Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).
Tại đây, Nguyễn Phúc Ánh được sự giúp đỡ, phò trợ hết lòng của ông Nguyễn Văn Mậu, tự là Hậu, một bậc hào phú, giữ chức tri thâu (thu thuế), được tín nhiệm nên kiêm luôn chức Trùm cả trong làng Tân Long.Ngoài giúp đỡ về hậu cần, ông Mậu còn có ý muốn đem con gái út của mình làm Tấn nhân (vợ lẽ) cho chúa nhưng cô gái không bằng lòng, đã nói với cha rằng: “Đành rằng Ngài không chê phận con thấp hèn, nhưng tính đến chuyện sánh đôi với Ngài, coi sao cho phải? Bấy lâu con vẫn có lòng thương mến Ngài như tình anh em mà thôi!”.
Từ đó cô gái có ý tránh mặt Nguyễn Phúc Ánh, rồi sau đó cô giả điên, thường lấy bùn đất, lấy lọ than bôi lên mặt, xõa tóc rũ rượi, làm những điều quái dị.
Chúa Nguyễn buồn đau, ngẩn ngơ thầm thương tiếc cho một đóa hoa đồng nội chẳng may lợt sắc phai hương, còn ông Mậu cũng không hiểu thâm ý, tưởng rằng con mình ưu tư đến mất trí, lòng cũng đau xót vô cùng. Không ngờ trước còn giả điên, sau cô gái phát cuồng thật, tâm trí rối loạn, quẫn trí mà thành bệnh rồi qua đời.
Không rõ cô gái đó tên là gì, nhưng có người nói rằng cô tên là Nguyễn Thị Hạnh, cái tên đẹp nhưng số phận lại hẩm hiu không mang đến hạnh phúc cho cô mà chỉ là sự bất hạnh. Dù không may mắn nhưng người con gái đó đã trở thành một tấm gương của sự tiết tháo, đoan chính với khát khao tự do hôn nhân, tự do yêu thương trước những khắt khe, gò bó của tư tưởng Nho giáo đương thời.




Công chúa Ngọc Anh

Theo sử sách, Công chúa Ngọc Anh là công chúa thứ 3 của Hoàng đế Gia Long có tình yêu đơn phương với nhà sư đầu tiên ở miền Nam được phong Quốc sư .Cô có nhan sắc chim sa cá lặn, nhưng lại nguyện không lấy chồng, mãi thành tâm ăn chay và tụng kinh niệm phật để cầu sự thái bình, thịnh trị cho triều đại nhà Nguyễn. Thế nhưng, khi gặp Thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành, cô đã thầm yêu nhà sư và có ý định tìm mọi cách khiến nhà sư phá giới.
Để tránh duyên trần với nàng công chúa nhà Nguyễn, Thiền sư đã dùng Phật pháp ngày ngày giảng giải cho công chúa, với hi vọng cô sớm tỉnh ngộ mối tình oan trái này. Thậm chí, Thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành còn viện cớ trở về chùa Từ Ân (Gia Định) chịu tang sư phụ, rồi ở lại luôn. Song, dường như tình yêu càng không được đáp lại càng khiến con người ta ham muốn có bằng được, công chúa đã vào Gia Định để cúng dường chùa Từ Ân và Khải Tường, nhưng thực chất là muốn gặp người trong mộng.
Trong thời gian Công chúa ở chùa, mỗi sáng Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt đều phải đến hầu chuyện và cho đến một hôm, nhà sư bỗng dưng biến mất, khiến Công chúa cứ nằm trầm tư, buồn bã không thiết cả việc ăn uống. Rồi vì sức khỏe Công chúa ngày một sa sút, thị giả của nhà sư là sa di Mật Dĩnh sợ rằng, nếu Công chúa có mệnh hệ nào sẽ có hại cho chùa, nên đành phải tiết lộ là Thiền sư đã lên chùa Đại Giác ở Cù lao Phố để nhập thất hai năm.
Công chúa lại tìm đến nơi. Theo sách Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, trước cửa thất đóng kín của Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt, Công chúa quì xuống, lễ ba lễ và thưa rằng: "Đệ tử sắp hồi kinh nên đến đây xin hòa thượng cho diện kiến lần chót trước khi lên đường". Không nghe thấy tiếng trả lời, Công chúa lại nài nĩ: "Bạch Hòa thượng, nếu Hòa thượng không tiện ra tiếp, xin Hòa thượng cho con nhìn thấy bàn tay của Hòa thượng, đệ tử cũng hân hoan mà ra về...". Im lặng trong vài phút, Hòa thượng trong thất đưa một bàn tay ra cửa nhỏ, Hoàng cô vội ôm lấy bàn tay hôn nhẹ và khóc...
Sử sách chép, vào khuya đêm đó, trong khi mọi người đang an giấc, bỗng thấy lửa cháy rực ở tịnh thất của Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt. Dù tận tình cứu hỏa, nhưng tịnh thất và xác thân Hòa thượng đã cháy tiêu. Còn Công chúa Ngọc Anh, do quá đau buồn, ngay hôm sau, đã uống độc dược quyên sinh tại hậu liêu chùa Đại Giác. Đó là ngày mồng 2 tháng 11 năm Quý Mùi (1823).



Bà Huyện Thanh Quan


Bà Huyện Thanh Quan (sinh 1805(Ất Mùi) - mất 1848 (Mậu Thân)) tên thật là Nguyễn Thị Hinh bà là người giỏi về thơ văn thời Minh Mệnh và Tự Đức. thân sinh Bà Huyện Thanh Quan là danh nho Nguyễn Lý (1755-1837) vốn là một cựu thần nhà Lê, là học trò của danh sỹ Phạm Quý Thích một tiến sĩ đời nhà Lê và là bạn thân của thi hào Nguyễn Du.
Bà người làng Nghi Tàm, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội).
Bà là vợ ông Lưu Nghi (1804 -1847), tự là Lưu Nguyên Uẩn, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Lưu Nghi đỗ cử nhân năm 1821 (đời Minh Mạng thứ 2), làm tri huyện Thanh Quan (nay là huyện Thái Ninh, tỉnh Thái Bình), vì vậy người ta thường gọi bà là "Bà huyện Thanh Quan".


Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc có nhắc tới chồng bà trong Nam thi hợp tuyển như sau: "Chồng bà là ông Lưu Nguyên Uẩn, sinh năm 1804, đậu tú tài năm 1825, cử nhân năm 1828 và được bổ nhiệm làm tri huyện Thanh Quan. Ông huyện Thanh Quan vì can án phải cách, bổ làm Bát phẩm thơ lại Bộ hình. Sau lại thăng lên chức Viên ngoại lang".
Năm 1839, bà vào kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và hậu phi. Ở Huế, bà giao thiệp và để lại ấn tượng sâu sắc với nhiều kẻ sĩ. Năm 1847, sau khi chồng mất, bà xin phép về quê nghỉ hưu và đưa bốn con nhỏ từ Huế về sống tại quê nội ở làng Nghi Tàm. Công chúa Mai Am đã tặng bà bài thơ "Tống Ái Lan Thất Nguyễn Thị Lưu Hà Nội"
Bà đã để lại 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật, miêu tả phong cảnh đất nước như đèo Ngang (bài Qua đèo Ngang), thành Thăng Long (bài Thăng Long hoài cổ), chùa Trấn Bắc (bài Chùa Trấn Bắc),... biểu thị lòng yêu mến phong cảnh thiên nhiên và tâm trạng ai hoài trước sự đổi thay của thế sự. Ngoài ra còn một bài thơ Cảnh thu hiện vẫn chưa rõ là của bà hay của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
Hai câu thơ nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan nằm trong bài Qua đèo Ngang:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia




Tam Khanh đất thần kinh – Tài hoa bạc mệnh


Tam Khanh là tên gọi chung của ba nữ sĩ Trọng Khanh, Thúc Khanh và Quý Khanh. Họ chính là các công chúa Vĩnh Trinh (niên hiệu Nguyệt Đình), Trinh Thận (Mai Am) và Tinh Hoa (Huệ Phố), là con vua Minh Mạng. Các bà đều nổi tiếng văn hay chữ tốt và là những thi sĩ tài hoa của đất thần kinh lúc sinh thời. Với nội dung ca ngợi thiên nhiên, thể hiện tâm tư, Tam Khanh để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị như: Nguyệt Đình thi tập, Huệ Phố thi tập…gây tiếng vang đến tận Trung Hoa. Thi sĩ nổi tiếng và là anh trai của Tam Khanh là Tùng Thiện vương Miên Thẩm cũng tỏ ý phục các em của mình.
Tuy nhiên, cũng như các bậc nữ nhân tài hoa tiên triều, cuộc đời Tam Khanh buồn nhiều hơn vui, liên tiếp chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, người thân liên tiếp qua đời trong một thời gian ngắn.


Học Phi  Nguyễn Thị Hương

Bà Nguyễn Thị Hương là người Vĩnh Long và là một trong số các phi tần của VuaTự Đức. Năm 1870, bà theo lệnh vua nhận công tử Ưng Đăng (Ưng Thi) mới 2 tuổi, con trai của Kiên Thái Vương Hường Cai, làm dưỡng tử. Sau này, khi phế bỏ Hiệp Hòa, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đã cho người đến nhà Dưỡng Thiện ở Khiêm Lăng (lăng Tự Đức) đón Ưng Đăng về lập làm vua, lấy niên hiệu Kiến Phúc thì bà Hương cũng được thơm lây, theo vua vào để chăm sóc nên mới xảy ra bi kịch cấm cung.
Theo sử sách, nhờ dưỡng tử ở ngôi thiên tử, Học phi Nguyễn Thị Hương ngày càng trở nên có thế lực, ảnh hưởng lớn trong triều. Bà được quan đại thần Nguyễn Văn Tường tỏ ra thân thiện nhằm chiếm cảm tình và chuyện gì đến đã đến, hai người đã có “quan hệ” bất chính?
Một dịp, vua Kiến Phúc bị bệnh đậu mùa. Bà Học phi lúc nào cũng ở bên cạnh đức vua còn bé bỏng của mình từ mờ sáng đến nửa đêm. Thế là quan phụ chính Nguyễn Văn Tường đêm nào cũng vào chầu hoàng đế và hoàng mẫu, có khi đến nửa đêm mới về. Kiến Phúc đã nhiều lần chú ý thái độ lả lơi của Nguyễn Văn Tường mỗi khi trao cho bà Học phi điếu thuốc đã châm lửa của mình. Một đêm, Kiến Phúc giả vờ ngủ say, nghe được câu chuyện "mèo chuột" to nhỏ giữa hai người, đã không nén được, bỗng kêu lên: "Lành bệnh rồi, ta sẽ chặt đầu cả ba họ nhà mi”?
Bị nhà vua phát hiện bí mật, Quan Tường bèn rút lui xuống Thái y viện, lấy thuốc pha chế sẵn cho nhà vua, nhưng y lại chê thuốc xấu, rồi tự tay mình pha chế một thang thuốc khác đưa lên? Sau khi uống xong chén thuốc? vua Kiến Phúc ngủ luôn giấc nghìn thu...




Tá Thiên Nhân hoàng hậu

Hồ Thị Hoa là con gái Phước Quốc Công Hồ Văn Bôi, quê ở Thủ Đức, tỉnh Gia Định nay thuộc quận Thủ Đứcthành phố Hồ Chí Minh.
Năm Bính Dần 1806, mới 15 tuổi, bà được tuyển vào cung và sau trở thành chánh hậu của vua Minh Mạng ( 1820-1841), duệ hiệu của bà là Tá Thiên nhân hoàng hậu.

Vì kiêng húy tên bà, nên chữ Hoa thường đọc trại là Ba hoặc Huê, Bông. Như cầu Hoa gọi là cầu Bông, chợ Đông Hoa ở Huế, đọc trạnh là Đông Ba.
Con bà là Nguyễn Phúc Dung (Miên Tông) được lập Thái tử, về sau nối ngôi Minh Mạng, tức vua Thiệu Trị ( 1807-1847),
Lăng mộ bà Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng, mẹ vua Thiệu Trị ,trong khuôn viên lăng Thiệu Trị, tại xã Thuỷ Bằng; huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Bà Hồ Thị Hoa,sinh ngày 6/6/1791, mất ngày 8/7/1825. Sau khi mất, bà có miếu hiệu là Tá Thiên Nhân hoàng hậu.


Hiền Phi Ngô Thị Chính

Vua Minh Mạng có hàng trăm bà phi, nhưng chỉ có hai bà sinh được nhiều con vì được vua sủng ái hơn cả. Đó là bà Hiền Phi Ngô Thị Chánh và bà Lệ Tân Nguyễn Gia Thị.  Hiền Phi Ngô Thị Chính, con của Chưởng Cơ Ngô Văn Sở và bà Lệ Tân Nguyễn Gia Thị, con của Phó Vệ Úy Nguyễn Gia Quý. Hiền phi sinh được bốn hoàng tử và hai công chúa. Nguyễn Gia Thị sinh được bảy hoàng tử và ba công Chúa . Hai bà này thường hay xung đột nhau, bà Ngô Thị Chính cậy mình được vua yêu mến thường đánh ghen các bà khác làm vua Minh Mạng nhiều lúc cũng lâm vào tình trạng khó xử. 
Tương truyền bà Hiền Phi thường nói với những người thân cận rằng :
- Dù vua có yêu thương tôi bao nhiêu đi nữa thì khi từ biệt cõi trần, tôi cũng ta đi hai tay không mà thôi.
Minh Mạng nghe được, đến khi bà mất đã thân hành đến tận chỗ bà nằm, đem theo hai nén vàng, bảo kẻ phục dịch mở hai bàn tay ra, nhà vua để hai nén vàng rồi ngặm ngùi nói :
- Đây Trẫm cho Phi cái này để cho khỏi ra đi hai bàn tay không.

Thái hậu Từ Dũ

Thái hậu Từ Dũ (hay Từ Dụ) tên húy là Phạm Thị Hằng, sinh ngày 19 tháng 5 năm Canh Ngọ (1810) tại Giồng Sơn Quy (Gò Rùa), làng Gò Công, huyện Tân Hòa, tỉnh Gia Định (sau thuộc tỉnh Gò Công, nay thuộc Tiền Giang). Bà là trưởng nữ của Quốc công Phạm Đăng Hưng và bà Phạm Thị Vị.
Thuở nhỏ, bà nổi tiếng hiếu hạnh, thông minh, làu thông kinh sử, hiền thục, nết na và rất xinh đẹp. Năm 14 tuổi, bà được Thuận Thiên Cao Hoàng thái hậu Trần Thị Đang, vợ kế vua Gia Long tuyển triệu vào cung để chầu hầu Nguyễn Phúc Miên Tông (sau này là vua Thiệu Trị) – con vua Minh Mạng và là cháu trai của Cao Hoàng Thái Hậu.
Năm 15 tuổi, bà sinh con gái đầu lòng là Diên Phúc công chúa. Cách năm sau, bà sinh Bảo Minh công chúa. Vào ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (tức 22 tháng 9 năm 1892), bà sinh người con thứ ba, đặt tên là Nguyễn Phúc Thì tức Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (sau này là vua Tự Đức).
Năm 1841, Miên Tông lên ngôi, tức vua Thiệu Trị, bà trở thành Cung tần, được giữ chức Thượng Nghi để coi sóc Lục Thượng. Hai năm sau, bà được phong Thần Phi. Qua đầu năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), bà được phong làm Giai Phi, rồi Nhất Phi. Tuy quyền cao chức lớn, song tính tình bà đoan chính, thanh tao, giản dị, nhân từ khiến mọi người trong cung ai cũng quý mến và kính trọng.
Hằng đêm, vua Thiệu Trị thức khuya đọc sách, bà vẫn thức hầu mà không biết mệt mỏi và cùng vua trao đổi, bàn luận mọi việc. Bà thường hay góp ý với vua: “Làm người ắt phải học, nhiên hậu biết được điều thiện, điều ác. Điều thiện nên phát huy, điều ác nên tránh xa để không sa vào chỗ tà. Sách xưa có câu: Nhân bất học bất tri đạo (người chẳng học chẳng biết đạo lý)”. Bà thường khuyên bảo các cung tần nên tận tụy trong công việc. Bà là người thưởng phạt công minh. Ai phạm lỗi bà đều tìm cách dạy dỗ, bảo ban hơn là sử dụng hình phạt.
Nhưng cuộc đời làm vợ của bà rất ngắn ngủi. Năm 1847, vua Thiệu Trị lâm bệnh nặng qua đời sau 8 năm nối ngôi cha trị vì đất nước. Vua mất, bà hết sức buồn rầu, mỗi ngày thường ra Hoàng Lăng quỳ than khóc. Mỗi năm đến ngày giỗ vua Thiệu Trị, bà đều mặc lễ phục đứng hầu trước điện thờ, trọn đạo làm vợ, thủy chung trọn đời.
Vua Thiệu Trị qua đời, con trai bà là Hồng Nhậm được chọn nối ngôi, tức vua Tự Đức. Chồng mất, bà dốc sức dạy dỗ, bảo ban con. Bà thường nhắc đến công đức và những lời nói cũng như việc làm của các bậc tiền nhân để răn dạy con. Hằng đêm bà thường đọc sách giảng giải cho vua Tự Đức nghe. Bà dạy vua cách trị vì, điều hành đất nước sao cho hợp lòng dân. Mỗi khi vua Tự Đức có lỗi, bà thường dùng roi và lời lẽ nghiêm trị để giáo huấn nghiêm khắc. Nhờ đó mà Tự Đức trở thành một ông vua thông minh, chí hiếu, hiền hòa, ưa thích ngâm thơ, vịnh phú, có tài xuất khẩu thành thơ, văn chương lưu loát.
Trong cuộc sống hằng ngày, bà rất tiết kiệm trong chi tiêu. Bà thẳng thắn phê phán thói cậy quyền, cậy chức, tham ô, xa hoa, lãng phí. Bà thường khuyên triều thần: “Một sợi tơ, một hạt gạo cũng là máu mỡ, là mồ hôi nước mắt của dân, nên lãng phí đã không ích gì mà lại đáng tiếc lắm vậy, chi bằng cất vào kho để dùng vào việc nước”. Bà rất nghiêm khắc với thân nhân, phê phán gắt gao kẻ dựa thế cậy quyền dòng họ nhà bà để cầu vinh, cầu chức. Mặt khác, bà rất trọng dụng hiền tài như Võ Trọng Bình một lòng thanh liêm, Phạm Phú Thứ thẳng thắn, hay Nguyễn Tri Phương giỏi giang, mẫn cán trong mọi việc. Bà thường khuyên rằng: “Nếu được nhiều người như vậy, đặt ra mỗi tỉnh một người, việc dân được bổ ích rất nhiều, mà vua cũng khỏi lo nhọc ngày đêm...”.
Từ ngày lên ngôi, Tự Đức nhiều lần ngỏ ý tấn tôn cho mẹ, nhưng bà nhất định từ chối hoặc trì hoãn vì sợ tốn kém. Mãi đến ngày 15 tháng 4 năm Tự Đức thứ 2 (tức 7/5/1849), nhân dịp khánh thành cung Gia Thọ, bà mới thuận nhận Kim bảo và tôn hiệu là Hoàng thái hậu.
Ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi (tức 19 tháng 7 năm 1883), vua Tự Đức băng hà, để di chiếu tôn bà là Từ Dụ Thái hoàng Thái hậu. Nhưng vì việc nước rối ren, mãi đến năm 1885, Hàm Nghi nguyên niên, nhà vua mới có thể làm lễ tấn tôn cho bà theo di chiếu.
Năm 1887, Đồng Khánh thứ 2, nhà vua tấn tôn mỹ hiệu cho bà là Từ Dụ Bát huệ Thái hoàng Thái hậu.
Năm 1889, Thành Thái nguyên niên, nhân dịp mừng thọ 80 tuổi, bà được dâng tôn hiệu là Từ Dụ Bát huệ Khang thọ Thái hoàng Thái hậu.
Bà mất ngày mùng 5 tháng 4 năm Nhâm Dần (tức 12 tháng 5 năm 1902) thọ 92 tuổi, được dâng tên thụy là Nghi thiên tán thành, Từ Dụ Bát huệ trai túc tuệ đạt thọ đức nhân công Chương hoàng hậu, gọi tắt là Từ Dụ Nghi thiên Chương hoàng hậu. Ngày 20 tháng 5 cùng năm, triều đình cử hành đại lễ an táng bà phía sau bên trái Xương Lăng. Hiện toàn thể khu lăng này tọa lạc tại chân núi thuộc làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Bài vị của bà được thờ ở Thế Miếu trong Hoàng thành Huế.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Hoàng thái hậu Từ Dũ luôn được mọi người ca ngợi và thán phục. Trong suốt 78 năm ở cạnh ngai vàng với cương vị cố vấn, bà tham gia bàn bạc chính sự, hết lòng hết sức vì dân vì nước, giữ trọn vai trò trọng yếu trong chính sự triều đình nhà Nguyễn vào khoảng nửa thế kỷ XIX. Bà đã nêu cao tấm gương sáng tuyệt vời về phẩm hạnh và đức độ của người phụ nữ Việt Nam. Tên của bà sống mãi cùng quê hương đất nước và được sử sách ghi danh muôn thuở.


Tiệp dư Nguyễn Thị Bích


Nguyễn Nhược Thị (1830-1909), con gái Bố chánh Nguyễn Nhược Sơn, sinh năm 1830 và mất 1909 tên thật là Nguyễn Thị Bích, tự Lam Hoàng, người Yên Phước, Bình Thuận, tác giả tập "Loan dư hạnh thục" hay "Hạnh thục ca", kể lại binh biến ở Huế năm 1885 sau đó vua Hàm Nghi xuất bôn xuống hịch Cần vương, mở đầu cuộc kháng Pháp cả nước. Nổi tiếng văn hay chữ tốt ngay khi còn nhỏ, năm 19 tuổi tiến cung được vua Tự Đức phong chức Thượng Nghị Viên Sư, sau đó là tài nhân, mỹ nhân và quý nhân vào năm 1860. Năm Tự Đức 21 được ban tặng chức tiệp dư, là thầy của các vua Kiến Phước và Đồng Khánh. Năm vua Thành Thái thứ 3 (1892) được phong Tam gia lễ tân và mất năm Duy Tân thứ 3, 1909 thọ 80 tuổi.




Nguồn newvietart.com ; kenhdulichhue.com ; vietsciences.free.fr ;vnexpress.net ;hohovietnam.vn ; nguyendinhchieu.vn ;thegioitruyentranh.vn ; vtc.vn ; nguoiduatin.vn; thanhnien.com.vn; nguyenthaihocfoudation.org; xuquang.com; hocxa.com; tamhoc.com


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved