Nữ danh y Lê Thị Liên
Bà Lê Thị Liên, sống vào đầu thời Trần.
Bà quê ở làng Thanh Nộn, xã Thi Sơn, tổng Quyển Sơn (nay là thôn Thanh Nộn, xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng, Hà Nam), nghề thuốc mà Lê Thị Liên học được là từ cha bà, một lương y tên là Lê Hoằng, thân mẫu của bà họ Nguyễn (không rõ tên).
Trong quá trình chữa bệnh cứu người Lê Thị Liên đã tích lũy kinh nghiệm, nghiên cứu tìm tòi để chế ra nhiều phương thuốc hay, hiệu quả làm tiếng đồn về tài năng, y đức đồn khắp xa gần.
Hiện tại ở đình Cao, thôn Thanh Nộn, xã Thanh Sơn là nơi thờ nữ danh y Lê Thị Liên trong ngày lễ cúng vẫn lệ đọc bài phú cửa đình khái quát toàn bộ cuộc đời và công tích của bà. Bài phú đó có đoạn:
Nối nghiệp cha xưa,
Có cây gậy trúc.
Có quả thạch bầu,
Với phương thuốc nhiệm màu, kiến hiệu.
“Năm cứu thế gian”,
Tiếng lương y đồn đại.
“Viễn cận mạc bất tri danh”…
Bấy giờ đất nước phải đối mặt với họa ngoại xâm lần thứ 2 của quân Nguyên Mông, cuộc kháng chiến chống giặc của quân và dân nhà Trần diễn ra vô cùng anh dũng nhưng cũng gặp vô vàn khó khăn trong đó có dịch bệnh phát sinh làm quân lính đau ốm, mỏi mệt, đặc biệt là trận quyết chiến ở sông Lục Đầu (gần Kiếp Bạc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay).
Triều đình rất lo lắng sợ bệnh tật sẽ làm giảm sức chiến đấu của binh tướng, nhiều lương y được vời đến nhưng tình hình không mấy khả quan.
Nghe danh tiếng Lê Thị Liên, vua Trần Nhân Tông liền cho người cấp tốc về làng Thanh Nộn triệu bà đến phong cho chức Quân trung điều hộ, lo việc bào chế thuốc chữa bệnh.
Nhờ có những phương thuốc của Lê Thị Liên mà sức khỏe của quân lính được phục hồi, góp phần quan trọng vào những trận đánh đưa đến thắng lợi cuối cùng:
Nhờ thuốc thần cứu chữa.
Bình phục mọi bệnh binh,
Quân mạnh, tướng hùng.
Vua tôi đoàn kết,
Trần Quốc Tuấn chỉ huy.
Lệnh phản công đã quyết,
Ngọn sóng Bạch Đằng,
Ô Mã Nhi thất bại,
Đại thắng quân Nguyên.
Sau khi đất nước quét sạch bóng ngoại xâm, Lê Thị Liên xin được về quê tiếp tục hành nghề chữa bệnh cứu người. Triều đình nhớ đến công tích của bà đã phong thưởng trọng hậu, vua Trần còn xuống chiếu sắc phong bà danh hiệu Hoàng Tràng công chúa.
Thế nhưng không màng đến giàu sang, địa vị và của cải, về lại quê hương tiếp tục làm thuốc cứu đời, những tiền bạc được ban thưởng Lê Thị Liên đều mang chia cho dân làng để họ có vốn là kế sinh nhai.
Sau khi bà mất, người dân tưởng nhớ ơn đức đã lập đền thờ hương khói quanh năm, bài phú cửa đình ở nơi thờ nữ danh y họ Lê cho hay:
Ngao ngán thay, ngày 12 tháng 8,
Hổ gào, beo thét, công chúa quy tiên.
Trông lên trời, mây vàng xuất hiện,
Giây phút rồi tan đi.
Nghe rừng sâu gió thổi vu vi,
Như vẳng tiếng tiên thiều nhã nhạc.
Từ ngày ấy!
Dân ta thờ công chúa tại đình Cao,
Nhớ mãi công lao người danh y đại đạo.
Để đời đời dân cầu, quốc đảo.
Công chúa Ngoạn
Thiềm
Theo sử sách, khi nhà Trần mới lập, Nguyễn Nộn (? – 1229) nổi lên như một thế lực chống đối hùng mạnh với triều đình. Tình thế đó khiến Thái sư
Trần Thủ Độ(1194 – 1264) rất lo lắng.
Một mặt,
Trần Thủ
Độ chia quân chống giữ và sai sứ
giả đến
đại bản
doanh của Nguyện Nộn
tỏ ý giao hảo. Mặt
khác, ông đã xác tiến
việc gả
Công chúa Ngoạn Thiềm cho kẻ thù không đội trời
chung của nhà Trần.
Sứ mạng
của Công chúa Ngoạn Thiềm rất
lớn: phải làm sao để
vừa từng
bước lung lạc Nguyễn Nộn,
vừa thường
xuyên cung cấp tin tức về
tình hình thế lực Nguyễn Nộn
cho triều đình rõ. Vớ sứ
mạng này, có thể xem Ngoạn Thiềm là nữ
gián điệp đặc biệt
của Trần
Thủ Độ.
Do
Nguyễn Nộn
rất cảnh
giác về chính trị, Công chúa Ngoạn Thiềm đã không thu thập
được những
tin tức cần
thiết để
báo cho Trần Thủ Độ.
Nàng liền thay đổi chiến thuật,
dùng sự quyến
rũ của mình để làm “tiêu hao sinh lực” kẻ
thù. Và Ngoạn Thiềm đã thành công,
nàng công chúa cùng toán người
hầu xinh đẹp đã khiến Nguyễn Nộn
– vốn có tiếng là kẻ chơi
bời – mê mệt trong nhục dục.
Không chịu nổi,
chỉ 3 tháng sau, Nguyễn Nộn
bị bạo
bệnh mà qua đời. Kẻ
thù lớn nhất
của Trần
Thủ Độ
đã được loại
bỏ mà không tốn nhiều sức
lực.
Huệ Túc Phu Nhân
Bà sinh năm Tân Sửu (1241) là con út của Tống triều di thần Hoàng Bính, huý là Thủy Thiên .
Mùa xuân tháng Giêng, niên hiệu Nguyên Phong thứ 7 đời Trần Thái Tông (1257) Hoàng Bính cùng gia tộc 1200 người tới biên ải xin lập nghiệp tại An Nam . Thái Tông được tin báo, đón về Kinh cho tạm trú tại An ấp . Hoàng Bính cũng dâng tặng nhà Trần 2 cuốn sách về tử vi là ‘tử vi chính nghĩa ‘ và ‘Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh’ đồng thời gả con gái Thuỷ Tiên cho vua Trần, được phong Huệ Túc Phu Nhân . Khi phu nhân nhập cung thì từ tư thái, ngôn ngữ, cư xử khác phàm . Từ hoàng hậu đến cung nga, thái giám không ai mà không nể phục .
Vào năm Mậu Ngọ (1258) người được 18 tuổi và cũng là năm Phu Nhân bắt đầu dùng khoa Tử Vi Lý Số huyền nhiệm để chiêm nghiệm và cố vấn triều Trần trong các cuộc chiến thắng chống quân Mông Cổ của dân tộc ta.
Phu Nhân tạ thế vào năm Quý Dậu(1333) hưởng thọ 93 tuổi. Huệ Túc Phu Nhân có thể được tôn xưng là bậc đã khai mở học phái Tử Vi Đông A nổi danh của triều đại nhà Trần từ thế kỷ 13 và được hậu duệ lưu truyền mãi đến ngày hôm nay.
Anh Tư Nguyên Phi
Anh Tư Nguyên Phi (?-1365), người họ Lê, không rõ tên thật là gì, được Trần Minh Tông yêu mến và phong dần đến bậc Nguyên Phi (chỉ thấp hơn Hoàng Hậu). Bà đã sinh cho Trần Minh Tông hai Hoàng Tử, là Hoàng Tử trưởng Trần Vượng (năm 1319) và Hoàng Tử thứ ba Trần Phủ (1321).
Năm 1328, Trần Minh Tông quyết định lập Thái Tử nhưng hoàng hậu (là con gái của Trần Quốc Chẩn) sau 5 năm nhập cung mà Hoàng Hậu chưa sinh nở gì. Hoàng Hậu tuy muộn con nhưng Trần Quốc Chẩn lại chủ trương đợi Hoàng Hậu sinh Hoàng Tử mới định ngôi Thái Tử. Trần Quốc Chẩn không chỉ là Hoàng Thúc mà còn là đại thần tin cẩn, đức cao vọng trọng, nếu giờ đây lập Thái Tử thì Trần Minh Tông không biết phải ăn nói thế nào với cha vợ. Trong số những đại thần là người tôn thất, Cương Đông Văn Hiến Hầu (con trai Thái Sư Trần Nhật Duật) không ưa gì Trần Quốc Chẩn nên đã phản bác Trần Quốc Chẩn và biện hộ cho ý muốn của Trần Minh Tông. Văn Hiến Hầu cho rằng Trần Minh Tông nên lập Hoàng Tử trưởng Trần Vượng là hợp lí hơn cả. Trong số các quan lại, Thiếu Bảo Trần Khắc Chung cũng ngả theo Văn Hiến Hầu. Trần Khắc Chung cùng quê với Anh Tư Nguyên Phi, lại là thầy học của Trần Vượng, tất nhiên thấy được mối lợi lớn nếu Trần Vượng trở thành Thái Tử.
Trong hoàn cảnh đó, Anh Tư Nguyên Phi đã thi triển mưu gian hòng giành ngôi vị cho con trai. Anh Tư không trực tiếp ra mặt mà thông qua Văn Hiến Hầu. Bà ta liên hệ với Văn Hiến Hầu để bàn bạc đối sách. Hai người xảo quyệt vạch ra một gian kế và Văn Hiến Hầu lập tức triển khai hành động.
Văn Hiến Hầu đem 100 lạng vàng mua chuộc Trần Phẫu là gia thần của Trần Quốc Chẩn, bảo Trần Phẫu vu cho Trần Quốc Chẩn có ý mưu phản. Thấy lợi quên nghĩa, Trần Phẫu đã nhẫn tâm vu cáo chủ trước mặt Trần Minh Tông. Trần Minh Tông nghe chuyện liền cho là thật, vội sai bắt giam Trần Quốc Chẩn ở chùa Tư Phúc.
Trần Minh Tông chưa biết xử trí Trần Quốc Chẩn ra sao. Ông đem chuyện này hỏi ý kến Trần Khắc Chung và đó là sai lầm chết người của ông. Trần Khắc Chung không chút e dè, nói ngay một câu đầy ẩn ý rằng: “Bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó”. Trần Minh Tông hiểu ý, liền hạ lệnh cấm không cho Trần Quốc Chẩn ăn uống đến chết thì thôi. Qua nhiều ngày đói khát mà Trần Quốc Chẩn vẫn sống. Một hôm, Hoàng Hậu lẻn vào thăm và tẩm nước vào áo rồi vắt cho cha uống. Chẳng ngờ, Trần Quốc Chẩn uống xong thì chết. Biết tin, Trần Minh Tông đã xuống chiếu lột hết quan tước của cha vợ. Án oan của Trần Quốc Chẩn còn liên lụy đến hơn 100 người thân thuộc. Tất cả họ đều bị bắt, bị tra khảo và gán cho những tội danh khác nhau. Riêng Hoàng Hậu may mắn không bị truy vấn điều gì và vẫn giữ được ngôi vị.
Trần Quốc Chẩn đã chết, Văn Hiến Hầu và Anh Tư Nguyên Phi hí hửng vì đã diệt được đối thủ. Trần Minh Tông không phải e dè gì nữa, trước lời tâu xin của Văn Hiến Hầu cùng phe cánh, đã phong Trần Vượng làm Thái Tử. Sau này, khi Trần Vượng mất và con trai Hoàng Hậu lên kế vị (năm 1341), Anh Tư chẳng những không bị Hoàng Hậu báo thù mà còn được đối đãi tốt. Bà ta sống rất lâu, mãi đến năm 1365 mới qua đời. Năm 1371, Trần Phủ con bà ta sau khi lên ngôi, đã truy phong mẹ làm Minh Từ Hoàng Thái Phi. “Những người làm ác thì trời chẳng tha”, câu nói ấy dường như không dành cho Anh Tư!
Triều Môn Thứ Phi
Bà là phi tần của Hoàng Đế Trần Minh Tông (1314-1329), không rõ tên họ là gì. Khi được tuyển vào cung, bà được phong làm Thứ Phi với tên hiệu Triều Môn. Bởi vậy, sử cũ vẫn thường gọi bà là Triều Môn Thứ Phi. Hiện chưa rõ Triều Môn nhập cung năm nào, chỉ biết vào cuối năm 1319 (nghĩa là năm năm sau ngày Trần Minh Tông lên ngôi), bà đã hạ sinh Hoàng Tử Trần Nguyên Trác. Xét về thứ bậc các Hoàng Tử, Nguyên Trác là Hoàng Tử thứ hai (sau Thái Tử Trần Vượng). Khi lớn lên, Nguyên Trác được phụ hoàng phong tước Cung Tĩnh Vương.
Năm 1329, khi Trần Nguyên Trác được 10 tuổi thì Trần Minh Tông nhường ngôi cho Thái Tử Trần Vượng (tức là Hoàng Đế Trần Hiến Tông: 1329-1341) để lên làm Thượng Hoàng. Theo thông lệ, Thượng Hoàng sẽ sống ở cung Thánh Từ, còn Hoàng Đế thì ở cung Quan Triều nên trong năm này, mẹ con Triều Môn cũng khăn gói theo Minh Tông chuyển sang cung Thánh Từ. Cung Thánh Từ thuộc Cấm Thành Thăng Long, nằm về phía Bắc cung Quan Triều nên còn được gọi là Bắc Cung. Sau 12 năm ở ngôi, năm 1341, Trần Hiến Tông băng hà khi chưa có con nối dõi. Thượng Hoàng Trần Minh Tông lúc này còn sống và ông đã lập Hoàng Tử thứ 10 (tên là Trần Hạo)con của hoàng hậu lên ngôi, tức là Hoàng Đế Trần Dụ Tông (1341-1369). Lúc này Trần Hạo mới 5 tuổi chứ không lập con bà là Trần Nguyên Trác. Hậm hực và bất bình, vị Thứ Phi này đã dồn toàn bộ căm tức lên ba người con của Hoàng Hậu. Trong cơn lồng lộn ghen tức, Triều Môn đã dùng bùa chú để nguyền rủa các con Hoàng Hậu cho hả dạ. Mưu gian mau chóng được Triều Môn tiến hành. Triều Môn bí mật liên hệ với một tên đạo sĩ. Được tên này chỉ vẽ và cho bùa chú, Triều Môn đã mua một con cá bống rồi nhét lá bùa có ghi tên ba người con của Hoàng Hậu vào miệng cá, sau đó âm thầm thả cá xuống giếng Nghiêm Quang.
Thực hiện trót lọt hành vi trù yểm, Triều Môn tin tưởng lời nguyền sẽ mau ứng nghiệm để anh em Trần Hạo rời trần thế sớm một chút, để Nguyên Trác con bà ta có cơ hội nối ngôi. Tiếc rằng, người tính không bằng trời tính, việc làm đen tối của Triều Môn đã mau chóng bại lộ.
Việc trù yểm của Triều Môn bị phát giác một cách tình cờ, do một người lính canh vô tình bắt được con cá bống dưới giếng. Người ấy vội bẩm báo với Trần Minh Tông. Điều này khiến Trần Minh Tông vô vùng kinh hãi. Sách Đại Việt sử kí toàn thư kể rằng:
“Trước kia Minh Tông ngự ở Bắc Cung, có người canh cửa bắt được một con cá bống ở trong giếng Nghiêm Quang, trong mồm cá có ngậm vật gì, khều ra xem thì trong ấy có chữ, tức là bùa ếm nguyền có những chữ Dụ Tông, Cung Túc, Thiên Ninh (đều là con của Hiến Từ (tức là Hoàng Hậu của Trần Minh Tông - NTT)). Người canh cửa cầm cái bùa ấy tâu lên. Minh Tông hãi quá, truyền bắt hết các cung nhân, các mụ, các tì trong cung để xét hỏi”.
Giữa lúc mệnh lệnh của Trần Minh Tông sắp được thi hành thì Hoàng Hậu ngăn lại. Hoàng Hậu Hiến Từ vốn là người nhân đức, bà không muốn vì chuyện này mà có người bị kết tội oan, bởi đó, bà đã xin phép Trần Minh Tông để bà tự mình điều tra. Trần Minh Tông đồng ý. Chẳng bao lâu, từ việc tìm xem nơi nào trong cung mua cá bống, Hoàng Hậu đã biết chắc chắn thủ phạm của lá bùa kia là Thứ Phi Triều Môn. Biết chuyện, Trần Minh Tông dự định tra xét đến cùng. Nhưng một lần nữa, Hoàng Hậu lại ngăn cản. Hoàng Hậu cho rằng đây là chuyện nơi cung cấm, không nên để người ngoài biết.
Từ đó, Hoàng Hậu đề nghị Trần Minh Tông giữ kín mọi chuyện, không xét hỏi gì nữa. Trần Minh Tông không muốn hoàng tộc bất hòa nên đã nghe lời Hoàng Hậu.
Con cá bống bị phát hiện khiến mưu toan của Triều Môn tan thành bọt nước. Bởi chủ trương giữ kín mọi chuyện của Hoàng Hậu, Triều Môn dĩ nhiên là không bị trừng phạt. Nhưng “bức vách có tai”, dẫu Trần Minh Tông cùng Hoàng Hậu giấu kín đến mấy, câu chuyện cũng đã đến tai một vị tướng quân là Trần Tông Hoắc.
Năm 1357, Thượng Hoàng Trần Minh Tông tạ thế. Lúc này, Trần Dụ Tông đã 21 tuổi, đủ trưởng thành để cai trị đất nước. Trần Tông Hoắc là người cơ hội, liền đem chuyện con cá bống năm xưa kể lại với Dụ Tông, lại còn bịa đặt thêm thắt khiến Trần Dụ Tông nảy sinh ngờ vực với Thái Uý Trần Nguyên Trác. Trần Dụ Tông nghĩ rằng Trần Nguyên Trác nguyền rủa mình, bèn hạ lênh bắt giam Nguyên Trác. Bấy giờ, không rõ Triều Môn còn sống hay đã chết, nhưng lời nguyền rủa của bà ta thì đã “ứng nghiệm ngược” và trút lên đầu con trai bà.
Giữa lúc tính mạng của Trần Nguyên Trác đang bị đe dọa thì Hiến Từ Thái Hậu đã đứng ra khuyên giải Trần Dụ Tông. Nhiều đại thần cũng cố sức xin miễn tội cho Thái Uý. Trần Dụ Tông nghe lời mẹ, tha bổng Nguyên Trác và cho giữ chức tước như cũ. Sau lần suýt chết này, Trần Nguyên Trác luôn chú ý giữ mình và hết lòng trung thành với Dụ Tông, sau cùng được Dụ Tông phong làm Hữu Tướng Quốc (địa vị như Tể Tướng, cùng với Tả Tướng Quốc nắm giữ mọi việc quân dân chính trong nước).
Vì tức giận con trai không được chọn làm Hoàng Đế, với lòng dạ hẹp hòi, ác độc, Triều Môn đã mượn bùa chú để hại người. Rốt cuộc, “thiên bất dung gian”, âm mưu bị vỡ lở, Triều Môn chẳng giúp gì được con trai mà còn khiến con suýt nữa mất mạng.
Nữ danh y Trần Ngọc Trân
Đến khoảng thời gian cai trị của vua Trần Hiến Tông (1329-1341), tại làng Vô Hoạn, tổng Đồng Phù, thuộc phủ Thiên Trường (nay là thôn Vô Hoạn, xã Nam Mỹ, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định) có gia đình ông Trần Tông Môn và vợ người họ Đoàn ăn ở nhân đức, họ sinh được 2 người con trai thông minh trí dũng, dân trong vùng ai cũng khen ngợi.
Theo thần tích chép lại, vào một đêm, người vợ của ông Trần Tông Môn nằm mộng thấy một sứ giả mặc áo xanh đến đưa mình lên thiên đình, được Ngọc Hoàng thượng đế giáng chỉ sai đệ tam ngọc nữ giáng sinh vào nhà họ Trần để sau này cứu dân độ thế.
Bà Đoàn thị giật mình tỉnh dậy, thấy trong phòng dường như vẫn còn thoang thoảng mùi hương xạ, phía ngoài cửa sổ vằng vặc ánh trăng khuya.
Bà liền bước ra sân ngắm trăng, bỗng thấy một dấu hài bèn đưa chân ướm thử vào đó, chợt thấy tâm hồn xao xuyến, từ đó có thai, tròn một năm mới sinh hạ được một người con gái.
Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết, nhân nghĩ đến giấc mộng Ngọc nữ giáng trần, họ bèn đặt tên con là Ngọc Trân. Đời sau có câu rằng:
Cung trời ứng mộng,
Điềm báo ướm hài.
Bùa thiêng thuốc tốt,
Giúp nước cứu dân.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, Ngọc Trân trở thành thiếu nữ nhan sắc xinh đẹp tuyệt trần, công dung ngôn hạnh đủ cả; nhiều gia đình đánh tiếng xin hỏi cưới nhưng nàng nhất quyết từ chối, không đi lấy chồng mà chỉ chú tâm học nghề dệt vải và làm thuốc chữa bệnh.
Với trí thông minh sẵn có, lại chăm chỉ đọc các sách y dược, học hỏi thêm các bậc lương y khắp vùng nên dần dần Trần Ngọc Trân trở thành một người tinh thông y lý, giỏi đoán bệnh, chế thuốc; với tài năng và hiểu biết đó, bà đã giúp người dân trong vùng chữa khỏi nhiều căn bệnh quái ác.
Đặc biệt, bà Ngọc Trân chế “Hồng ngọc sương hoàn” để trị bệnh dịch tả, chính nhờ công hiệu của loại thuốc này mà trong trận dịch năm Nhâm Dần (1362) nhiều người dân đã được cứu, năm đó vua Trần Dụ Tông đã ra lệnh cấp gạo, phát “Hồng Ngọc sương hoàn” cho dân ở hạt Tam Đới (nay thuộc Phú Thọ) và phủ Thiên Trường (nay thuộc Nam Định).
Ngoài “Hồng ngọc sương hoàn”, Trần Ngọc Trân còn chế loại thuốc trừ bệnh tả bằng cách tán nhỏ nhiều vị thuốc Nam rồi cuốn lại trong một mảnh giấy bản dài bằng ngón tay.
Loại thuốc này bà căn dặn người dân luôn đeo trong mình có thể tránh được bệnh tả truyền nhiễm, dần dần dân gian quen gọi nó là “bùa thuốc” vì giống như đeo bùa trừ tà ma.
Để có nơi khám chữa bệnh, bà Ngọc Trân cho dựng y quán ở phía Bắc đầu làng Vô Hoạn, đây cũng là nơi chế thuốc, bán thuốc.
Truyền rằng y quán dường như được phúc lành che trở, mỗi lần Ngọc Trân phơi thuốc, các buổi trưa hè thường có những cơn mưa bất chợt theo mùa, điều lạ kỳ là xung quanh thì mưa to nhưng nội vi trong khuôn viên của y quán thì vẫn nắng, trời khô ráo, không một giọt nước nào rơi vào.
Trở thành một lương y danh tiếng vang khắp nơi, người dân tứ xứ có bệnh gì đều tìm đến nhờ bà Ngọc Trân, đến y quán xin thuốc, mua thuốc, nhất là “bùa thuốc” rất đông và đều khỏi bệnh.
Ban đầu khu vực gần y quán do có nhiều người tìm đến chờ mua thuốc, khám bệnh đã xuất hiện vài ba hàng quán nước, bán trầu, bán quà bánh; dần dần các hàng quán ngày càng nhiều trở thành chợ, dân chúng quen gọi là chợ Bùa và nó còn tồn tại đến ngày nay.
Ngôi chợ này qua thời gian phát triển thành một chợ lớn, không chỉ là nơi mua bán trao đổi các loại thuốc mà còn có nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cho người dân trong vùng, những ngôi nhà được dựng nhiều thêm, cư dân cũng trở lên đông đúc.
Để tiện quản lý và tổ chức theo mô hình làng xã có từ lâu đời, chính quyền phong kiến khi ấy đã hợp nhất khu dân cư quanh chợ Bùa với trại Đồng ở gần đó thành một làng mới mang tên là Đồng Bùa, gọi theo chữ Hán là Đồng Phù.
Truyền thuyết kể rằng, khi đến hạn về trời, Trần Ngọc Trân ra một khoảng đất ở xứ Đồng Quang rồi hóa ở đó, người dân chỉ thấy chiếc nón cói úp xuống chứ không thấy hình hài bà đâu, họ bèn xây lăng tưởng niệm gọi là lăng Mẫu.
Ghi nhớ ơn đức dùng thuốc cứu người, nhân dân còn lập đền thờ tại y quán cũ, gần chợ Bùa và gọi là đền Đồng Phù, nơi bà hiển thánh; còn ở thôn Vô Hoạn, nơi sinh thánh cũng có đền thờ gọi là đền Vô Hoạn suy tôn bà làm Thánh Mẫu.
Thời Hậu Lê, triều đình sắc phong Trần Ngọc Trân làm thượng đẳng tối linh thần, ban cho duệ hiệu là “Ngọc Trân Đồng Quang, Gia Hạnh, Phương Dung, Điềm Tĩnh, Quế Hoa công chúa”, đến triều Tây Sơn lại gia phong thêm mỹ tự là “Đạt Đức, Phù Tộ, Thánh Thiện”.
Nhân dân từ bao đời đều tin rằng, Thánh Mẫu rất anh linh hiển ứng, cầu sao được vậy, phù hộ cho nhà nhà đều được yên ấm, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt vì thế tại Đồng Phù đến nay vẫn giữ tục kiêng kị, không bao giờ úp mũ hoặc nón xuống bàn ghế hay bất cứ cái gì để thể hiện lòng tôn kính đức Thánh Mẫu.
Ở những nơi thờ tự nữ danh y Trần Ngọc Trân, các câu đối đều mang nội dung ca ngợi sự ra đời kỳ lạ cũng như tài y dược của bà, như câu đối sau:
Ngọc nữ giáng trần, thanh dạ tinh quang truyền dị tích,
Kim đan cứu thế, Tiên châu dục tú xuất thần minh.
Nghĩa là:
Ngọc nữ giáng trần, sao sáng trời khuya còn truyền dấu lạ,
Kim đan cứu thế, châu Tiên khí tốt sinh bậc thánh thần.
Hàng năm, lễ hội tưởng nhớ Thánh Mẫu Đồng Phù diễn ra từ ngày mồng 10 đến 15/3 âm lịch với nhiều nghi thức và tiết mục đặc sắc như lễ rước kiệu ra lăng Mẫu, tế lễ (tế Nữ quan, tế Nam quan), hầu bóng, hát văn, múa mồi, múa hoa, cờ người, cờ bỏi…Đây là một hội lớn ở xứ Thành Nam xưa (Nam Định ngày nay), chỉ xếp sau hội Phủ Giày.
Công chúa Huy Ninh- Nhất Chi Mai
Công chúa Huy Ninh được vua Trần Nghệ Tông gả cho Hồ Quý Ly. Họ sinh ra 2 người con là Hồ Thánh Ngẫu và Hồ Hán Thương.
Trước lúc lấy Hồ Quý Ly, công chúa Huy Ninh đang để tang chồng là Phó kỳ lang Trần Nhân Vinh mới bị giết. Trần Nghệ Tông dựng cho em gái cung Quảng Hàn riêng để ở.
Giai thoại kể rằng lúc Quý Ly còn trai trẻ hàn vi thường theo đường biển đi buôn. Một hôm thuyền chở hàng của ông ghé vào bờ, thấy trên bãi biển có ai vạch lên cát câu thơ: “Quảng Hàn cung lý nhất chi mai” (tức trong cung Quảng Hàn có một cành mai). Quý Ly liền nhẩm thuộc lòng câu ấy.
Sau này, đến khi được làm quan, một hôm ông hộ giá vua Trần đi chơi, nửa chừng ghé vào tránh nắng ở điện Thanh Thử, nơi trước điện có hàng ngàn cây quế. Nhà vua nhân hứng, liền ra một vế đối: “Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế”. Các quan đi theo đang lúng túng chưa biết đối lại vua ra sao thì Hồ Quý Ly đã nhanhh chóng nhớ lại câu thơ trên bãi biển năm xưa, bèn buông lời đối: “Quảng Hàn cung lý nhất chi mai”. Cả 2 câu ghép lại thành đôi vế đối nhau rất chỉnh, tạm dịch là: Trước điện Thanh Thử ngàn gốc quế/Trong cung Quảng Hàn một cành mai.
Nghe xong, các quan đều bái phục tài văn chương của Hồ Quý Ly. Vua Trần vừa phục, vừa thấy lạ lùng bởi nhà vua có một nàng công chúa đặt tên là Nhất Chi Mai. Nàng ở trong cung cấm kín không ra ngoài nên kể cả các quan gần gũi cũng rất ít người biết.
Vua hỏi Hồ Quý Ly tại sao lại biết được việc kín trong cung, rồi chuyện tòa lầu của công chúa ở là cung Quảng Hàn do chính vua đặt tên? Hồ Quý Ly cứ thật tình tâu bày chuyện câu thơ năm xưa trên bãi biển.
Nhà vua ngẫm rồi nói đó quả thật là duyên trời run rủi định trước, cho rằng đây là chuyện lạ, duyên số bèn gả Nhất Chi Mai cho Hồ Quý Ly
Nguyễn Thị Dầm
Bà là một trong những người vợ của Hồ Quý Ly .
Tương truyền ngày ấy Hồ Quý Ly chọn nơi thao lược binh mã quần hùng, quân lính tập trận ngay tại thôn ô Cách, xã Thanh Thủy, huyện Thanh Liêm (tỉnh Hà Nam lúc bấy giờ). Thanh niên trai tráng ngày đêm luyện võ, con gái đi chợ bán hàng.
Tình cờ, một hôm người thiếu nữ xinh đẹp là Nguyễn Thị Dầm đi cắt cỏ ven sông Đáy và cất tiếng hát: "Tay cầm bán nguyệt đưa ngang/Em là phận gái sửa sang cõi bờ/Nửa vành trăng sáng đơn sơ/Trăm ngàn ngọn cỏ ngẩn ngơ quy hàng". Không ngờ tiếng hát trong trẻo, thánh thót như chim hót của người con gái ấy cất lên đúng lúc Hồ Quý Ly đang ngự thuyền trên dòng sông Đáy. Ông cho thuyền dừng lại, cầm tay thôn nữ hỏi rằng: "Nàng là ai mà lời ca như tiên giáng thế, ta cảm kích cả cõi lòng. Biết đâu người này sau sẽ giúp ta làm nên sự nghiệp...".
Cô gái bất chợt ngỡ ngàng, bẽn lẽn: "Cũng chưa biết người xa lạ ấy đi đâu. Nhưng đã hỏi xin được thưa rằng: Hữu danh là Nguyễn Thị Dầm, người thôn Ô Cách, con nhà điền nông lam lũ, quanh năm cắt cỏ chăn trâu, buồn vắng riêng tư thì đọc lời dân dã cho khuây chứ đâu dám khiến người ngoài cảm kích… Xin ai đừng cầm tay phận gái". Ông càng chột dạ bàng hoàng. Cứ thế một gánh cỏ non tơ chưa đầy đặn, một lưỡi liềm sáng chói, một cô gái trắng ngần, trong trẻo, được rước lên thuyền rồng cùng vua xuôi dòng. Rồi Hồ Quý Ly xin cha mẹ, làng xóm cưới nàng làm vợ lẽ.
Kết hôn với người vợ này, Hồ Quý Ly sinh được hai người con gái. Sau bà Nguyễn Thị Dầm được phong 2 sắc phong là Bảo Long Thánh Mẫu và Hoàng hậu đệ tam trinh tiết.
Nàng Bình Khương
Nàng Bình Khương có chồng là Trần Cống Sĩ một viên quan trong nhiều quan chức được Hồ Quý Ly giao trọng trách đốc thúc thi công Thành. Tiến độ thi công gấp rút nghiêm ngặt là thế nhưng đoạn thành phía đông cứ xây gần xong lại bị sụt. Oái oăm phần tường thành ấy lại do đốc công Trần Cống Sĩ đảm nhận. Cáu tiết Hồ Quý Ly ra lệnh chôn sống Trần Cống Sĩ vào chính đoạn thành đó!
Hay tin dữ, nàng Bình Khương tức tốc lên mặt thành. Nàng đập tay dập đầu lên thành đá vật vã khóc lóc kêu chồng thảm thiết. Bao ngày đêm như thế nàng không ăn không uống rồi lịm chết theo chồng. Đoạn tường thành đá mà nàng đập tay đập đầu đã võng xuống thành hình một bàn tay và hình một cái đầu. Đoạn đá oan khiên ấy đã được hậu thế cắt ra, hiện trưng trong hậu cung đền thờ nàng Bình Khương phía cửa Đông Thành Hồ. Đền nàng Bình Khương lúc nào cũng bốn mùa hương khói!
Hoàng Hậu Quang Loan
Bà nguyên tên Trần Thục Mỹ, là thứ nữ của Hoàng Đế Trần Nghệ Tông (1370-1372). Năm 1370, sau khi dẹp xong loạn Dương Nhật Lễ, Trần Nghệ Tông chính thức trở thành Hoàng Đế thứ tám của nhà Trần. Trần Thục Mỹ được Nghệ Tông phong làm Công Chúa Thiên Huy. Tháng 9 năm Đinh Tị (1377), Công Chúa Thiên Huy được Trần Hiện tức là Trần Phế Đế (1377-1388) sắc phong làm Hoàng Hậu, hiệu là Quang Loan. Từ ngày trở thành Hoàng Hậu, Quang Loan luôn làm tốt phận sự chưởng quản hậu cung. Càng vui mừng hơn khi Quang Loan đã sinh được Hoàng Tử và người con đó liền được phong Thái Tử. Với Quang Loan, ngôi vị Hoàng Thái Hậu kể như đã nằm chắc trong tay.
Nhưng oái oăm thay Trần Hiện phế truất và sát hại dã man do lời gièm pha của Hồ Quý Ly với Thượng hoàng Nghệ Tông . Thái Tử của Trần Hiện cũng bị giáng làm Thuận Đức Vương. Trong phút chốc, Quang Loan vừa mất chồng vừa mất cả ngôi vị - từ Hoàng Hậu bị giáng xuống làm Công Chúa của Thượng Hoàng như cũ.
Sau khi mất ngôi Hoàng Hậu, Quang Loan trải qua những tháng ngày cô đơn trong cung cấm với tâm sự u uất không biết ngỏ cùng ai. Lúc bấy giờ, người tôn thất là Trần Nguyên Uyên, đang giữ chức Phủ Quân Ty, vì nhiệm vụ thường ra vào trong cung nên có dịp quen biết Quang Loan. Trần Nguyên Uyên cũng rất căm giận Hồ Quý Ly nên đã bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc với nỗi đau của Quang Loan. Mối quan hệ giữa hai người từ đó thêm thân thiết và Quang Loan cũng dần cảm thấy nguôi ngoai hơn.
Theo thời gian, cùng với sự gắn bó ngày càng thắm thiết, giữa Quang Loan và Nguyên Uyên phát sinh tình cảm yêu đương. Cuối năm Quý Tỵ (1393), trong một buổi tối dạo chơi Hồ Tây, Quang Loan gặp Nguyên Uyên. Hai người không thể kìm nén tình cảm được nữa và đã quyện lấy nhau… Lại nói về Trần Nghệ Tông. Sau khi giết chết Trần Hiện, Nghệ Tông lập con út của mình lên ngôi và vẫn phó thác mọi việc quốc gia đại sự cho Hồ Quý Ly. Vị Thượng Hoàng này trong một lần nhìn thấy Quang Loan, tự nhiên mủi lòng thương cảm, bèn nảy ra ý kén rể cho con gái. Chuyện chưa đến đâu thì Nghệ Tông nghe biết Quang Loan và Nguyên Uyên tư tình với nhau. Nghệ Tông cảm thấy mất hết thể diện, liền trút mọi bực tức lên đầu con gái. Phải làm cho Quang Loan bẽ mặt thì Nghệ Tông mới hài lòng. Vì thế, tháng 10 năm Quý Dậu (1393), bất chấp chuyện Quang Loan có tình cảm với Nguyên Uyên, Nghệ Tông đã đem con gái gả cho Trần Nguyên Hãng (em trai của Nguyên Uyên). Đã một lần dồn Quang Loan vào cảnh gia đình tan vỡ, đến đây, Trần Nghệ Tông lại nhẫn tâm rẻ rúng hạnh phúc của con gái.
Tái giá trong bẽ bàng và đau khổ, Quang Loan không thể làm gì hơn để phản đối sự sắp đặt ác ý của Phụ Hoàng. Người ta tái hôn để tìm niềm hạnh phúc mới, còn Quang Loan tái giá chỉ để chất chứa thêm nỗi xót xa. Trở thành phu nhân của Trần Nguyên Hãng, Quang Loan được chồng hết lòng thương yêu chăm sóc nên dần lấy lại cân bằng. Một cuộc đời mới sáng sủa đang dần mở ra với Quang Loan.
Tháng 4 năm Kỷ Mão (1399), Hồ Quý Ly triệu tập hội thề Minh Thệ ở núi Đốn Sơn (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Tại Đốn Sơn, Trần Nguyên Hãng cùng Trụ Quốc Trần Nhật Đôn, Thượng Tướng Quân Trần Khát Chân, Hành Khiển Lương Nguyên Bưu và nhiều tôn thất, triều thần khác quyết định hạ thủ Hồ Quý Ly. Khi sát thủ sắp ra tay thì Trần Khát Chân đột nhiên chột dạ và ngăn lại. Hồ Quý Ly biết có biến, vội đứng dậy bỏ về và sai thuộc hạ điều tra. Phát giác âm mưu ám sát mình, Hồ Quý Ly đã ra lệnh bắt giết Trần Nguyên Hãng, Trần Khát Chân và những người liên quan, tổng cộng là 370 người. Đây là vụ tru di lớn nhất thế kỉ XIV. Cùng lúc với thời điểm Trần Nguyên Hãng bị giết, gia sản của ông và những người đồng mưu bị tịch thu, còn người nhà thì đàn ông con trai một tuổi trở lên bị chôn sống hoặc dìm nước đến chết, đàn bà con gái bị bắt làm nô tì, phân phát cho các nhà thế gia, quan chức. Phu Nhân Quang Loan cũng nằm trong số đó. Tiếc rằng, sử sách không cho biết bà bị phân phát đến gia đình nào. Cuộc đời của Quang Loan là tiêu biểu cho số phận hẩm hiu, trôi dạt của người phụ nữ nơi hậu cung cuối thời Trần, đầu thời Hồ – những người bạc phận phải sống trong một giai đoạn đầy biến động và loạn ly của đất nước.
Đặng Thị Thúy Hạnh
Đặng Thị Thúy Hạnh, quê quán ở làng Đông Rạng, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xóm Tài Năng, xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh).
Cô xuất thân trong một gia đình danh giá, cha là Đặng Tất cuối triều Trần giữ chức quan nhỏ, sang thời Hồ được thăng làm Đại tri châu của châu Hóa (Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay), ông nội là Đặng Đình Dực cũng từng giữ chức Tri châu ở châu Quỳ Hợp.Cụ nội là Thám hoa Đặng Bá Tĩnh, tước Tuấn Sĩ hầu và tổ tiên nhiều đời là những nhân vật nổi tiếng thời Lý - Trần như Công Bộ Thị Lang Đặng Nghiêm, Cao Nghĩa thần Đặng Tảo, Tiến sĩ Đặng Diễn, Thám Hoa Đặng Ma La, Thái sư Cục Lệnh Đặng Lộ…
Đặng Thị Thúy Hạnh là con út trong gia đình và là con gái duy nhất của Đặng Tất, mẹ mất sớm nên nàng được cha và các anh hết sức yêu mến, chăm sóc, nhờ đó mà khi trưởng thành, nàng không chỉ là một thiếu nữ nhan sắc xinh đẹp, giỏi nữ công, trọn đủ bốn đức (công, dung, ngôn, hạnh), thông làu kinh sử mà còn thao lược võ nghệ, côn quyền.
Bấy giờ, đất nước đang lâm họa ngoại xâm, cuộc kháng chiến của triều Hồ thất bại, Thái thượng hoàng Hồ Quý Ly, vua Hồ Hán Thương cùng nhiều hoàng thân, quốc thích, quan chức cao cấp bị giặc Minh bắt.
Tại đất Siêu Loại (nay là huyện Thuận Thành, Bắc Ninh), có Trần Chiêu Đức (con của Trần Phế Đế) cũng chiêu mộ binh lính rồi về Thiên Trường bàn định với Trần Triệu Cơ việc lập chủ soái để ban hiệu lệnh thống nhất.Sau đó hai người đón Nhật Nam Quận Vương là Trần Ngỗi có hiệu là Giản Định (con thứ của Trần Nghệ Tông) đang lánh giặc ở đất Mô Độ (nay thuộc xã Yên Mô, huyện Tam Điệp, Ninh Bình) lập làm vua vào cuối năm Đinh Hợi (1407), sách Đại Việt sử ký toàn thư viết:
“Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 2, Giản Định Đế lên ngôi ở Mô Độ, châu Trường Yên, dựng niên hiệu là Hưng Khánh. Trước đó, Trương Phụ yết bảng bắt các tôn thất họ Trần và đầu mục quan lại cũ để đưa về nước.
Vua trốn chạy đến Mô Độ. Người phủ Thiên Trường là Trần Triệu Cơ đem quân đến lập lên ngôi, xưng theo tên hiệu cũ”.
Quân Minh biết tin liền tổ chức tấn công nhằm tiêu diệt, lực lượng của Giản Định Đế vì mới chiêu tập, không kháng cự nổi liền tan vỡ. Vua bèn đem số quân còn lại chạy về phía Tây rồi đến đất Nghệ An tạm đóng tại đó. Chính sử cho biết:
“Đại trị châu Hóa Châu là Đặng Tất nghe tin, giết viên quan nhà Minh, đem quân tới hội, tiến con gái mình sung vào hậu cung. Vua phong Tất làm Quốc công, cùng mưu việc khôi phục” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Người con gái mà sử sách nhắc tới đó chính là Đặng Thị Thúy Hạnh; tương truyền rằng bà chấp nhận làm vợ Giản Định Đế để cha, anh mình có thể đem tài trí giúp nước cứu dân, thực hiện nghĩa lớn.
Lúc Đặng Tất từ Hóa Châu ra Nghệ An theo vua, một số kẻ lòng dạ hẹp hòi biết ông là người có tài nên đố kị, chúng gièm pha với Giản Định Đế khiến vua đâm ra nghi ngại, không dám cho Đặng Tất giữ chức lớn sợ bề tôi chuyên quyền lấn át mình.
Mang trong mình hoài bão lớn lao, nay không được thỏa chí bình sinh, bị nghi ngờ khiến Đặng Tất buồn chán, ông than với các con rằng: “Ta có chút tài nên nguyện đem tính mạng mình giúp cho việc khôi phục giang sơn nhưng hoàng thượng không trọng dụng, lòng ta thật phiền não lắm thay!”.
Nghe vậy, Đặng Thị Thúy Hạnh nói rằng: “Vận nước lúc này ở thế ngàn cân treo sợi tóc, nếu vua tôi không đồng lòng thì nghiệp lớn khó thành, tất sẽ đi đến diệt vong”. Rồi nàng tiếp lời:
“Con có nghe phong thanh rằng, hoàng thượng có lời khen tài sắc, lại có ý muốn con nhập cung để lập làm phi. Nay xin tình nguyện vào hầu hạ đức vua để cha, anh có được tín nhiệm của người!”
Đặng Tất và các con trai của mình trĩu nặng lòng buồn, nói lời an ủi với con em, họ sợ rằng Thúy Hạnh tuổi xuân xanh mới tới trăng tròn, còn Giản Định Đế đã ngoài 50, ngoài sự chênh lệch đó còn phải kể đến Chính phi của vua là Đỗ Thị Nguyệt, một người nổi tiếng cay nghiệt, ghen tuông sẽ không để một cô gái trẻ đẹp tranh đoạt sự sủng ái và quyền uy nơi hậu cung của mình.
Biết tâm trạng, hiểu rõ suy nghĩ, sự lo lắng của cha và các anh, Đặng Thị Thúy Hạnh vẫn cương quyết thưa rằng: “Con xin cam phận xa nhớ đất Tần để trở về đất Tấn cho yên mối quan hệ vua tôi. Ví bằng gặp chuyện không hay, hồng nhan bạc mệnh, âu cũng là số phận an bài, con không có gì phải hối tiếc”.
Cuối cùng Đặng Tất đành đem con gái dâng vào hậu cung, Giản Định Đế có được người đẹp lấy làm mừng rỡ liền phong Đặng Thị Thúy Hạnh làm Hậu phi, phong Đặng Tất làm Quốc công, giao cho thống lĩnh toàn bộ quân sĩ.
Sau đó,do bất đồng về sách lược, vua Giản Định không bằng lòng với Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Nghe theo lời gièm pha, vua Giản Định sợ uy tín của hai người quá cao, lại nghi ngờ hai tướng "có ý khác" vì hai người từng làm quan cho nhà Hồ và từng hàng quân Minh. Tháng 3 năm 1409, vua Giản Định đóng quân bên bờ sông Hoàng Giang, sai triệu hai tướng đến rồi sai võ sĩ bóp cổ giết chết Đặng Tất. Nguyễn Cảnh Chân sợ hãi bỏ chạy lên bờ cũng bị đuổi theo chém chết.
Lúc đó Chính phi của Giản Định Đế là Đỗ Thị Nguyệt cũng cho rằng đây là dịp tốt để tiêu diệt tình địch, bà ta tiếp tay với Nguyễn Qũy và Nguyễn Mộng Trang vu khống Đặng Tất với mục đích “cha bị tội thì địa vị của con cũng không còn”.
Ngay sau đó Đỗ Thị Nguyệt tâu với vua rằng: “Đã diệt cha thì chớ nuôi ong tay áo mà nguy hiểm, nên diệt nốt cả ong đi”.
Khi trở thành hậu phi của Giản Định Đế, Đặng Thị Thúy Hạnh cũng đã giúp vua trong việc soạn thảo chiếu chỉ nên rất được tin tưởng, yêu mến; chính vì thế nghe lời dèm của Chính phi Đỗ Thị Nguyệt, vua vẫn dùng dằng do dự chưa biết xử lý ra sao vì tiếc người đẹp.
Biết khó tránh khỏi họa sát thân, với lòng căm tức những kẻ bội bạc và manh tâm, Đặng Thị Thúy Hạnh đã nhanh chóng cướp ngựa, trốn thoát khỏi quân doanh của Giản Định Đế để đi theo các anh của mình tìm minh chủ mới, tiếp tục đánh giặc, khôi phục non sông.
Là những người có lòng trung nghĩa, biết đặt nợ nước lên trên thù nhà, anh em họ Đặng đứng đầu là Đặng Dung cùng con của Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị không dẫn quân tấn công Giản Định Đế để trả thù mà đem quân về Thanh Hóa đón cháu của Giản Định đế là Trần Quý Khoáng đến Nghệ An lập làm vua, lấy niên hiệu là Trùng Quang. Phụng sự vua mới, anh em họ Đặng tiếp tục tận tâm, tận lực chiến đấu vì mục tiêu giành lại quyền độc lập, tự chủ cho đất nước
Còn Đặng Thị Thúy Hạnh ở chốn quân doanh, giúp anh cả việc giấy bút, bàn mưu tính kế nhờ đó với tài năng của mình Đặng Dung đã làm cho chủ tướng nhà Minh là Trương Phụ khiếp sợ với những trận đánh nổi tiếng như Hàm Tử, Hạ Hồng, Diễn Châu, đặc biệt trận Ái Tử với nghệ thuật lấy ít địch nhiều khiến quân Minh kinh hồn hoảng vía.
Cuộc kháng chiến của nhà Hậu Trần thất bại .Theo một số nguồn tư liệu thì bà Đặng Thị Thúy Hạnh lánh về chùa Yên Quốc nằm dưới núi Lam Thành (thuộc huyện Hưng Nguyên, Nghệ An ngày nay) xuất gia, khoác áo nâu sồng tụng kinh niệm Phật, đánh chuông cầu nguyện cho các anh hùng, chiến sĩ đã bỏ mình vì nước và cũng là đánh thức lương tâm cho những kẻ còn trong vòng nghi kị, tranh quyền đoạt lợi, lầm đường lạc lối theo giặc.
Còn theo ghi chép của dòng họ Đặng (Đặng tộc) thì sau khi nhà Hậu Trần sụp đổ, Đặng Thị Thúy Hạnh cùng người anh là Đặng Chủng trốn tránh đến chùa Hương Tích trên đỉnh núi Hồng Lĩnh, một thời gian sau hai anh em định về sinh sống tại đất Vô Điền (nay là xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh).
Trên đường đi, không may bà lâm bệnh mất tại rú Gâm, tổng Cổ Đạm (nay là xã Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh) và được an táng tại đó.
Đến ngày 24 tháng 11 năm Canh Dần (2010) dòng họ Đặng đã cải táng, dời mộ bà về chôn dưới chân núi Hồng Lĩnh, thuộc xã Cương Gián, huyện Nghi Xuân, đây là khu vực mà tương truyền từ xa xưa họ Đặng đã ở. Phần mộ được xây bằng đá, ở thế đất được cho là đại huyệt, con cháu sẽ có phúc ấm đời đời.
Đào Thị Huệ -Bà tổ ca trù
Đào nương tên thật là Đào Thị Huệ, một cô gái vô cùng xinh đẹp lại hát hay múa khéo, nổi tiếng tài hoa khắp tổng Cao Cương, huyện Tiên Lữ, phủ Khoái Châu xưa (nay là làng Đào Đặng, xã Trung Nghĩa, TP Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên). Thời điểm Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa tại đất Lam Sơn, Đào nương cùng với nhiều chị em trong làng Đào Đặng đã mở quán rượu để lôi kéo tướng sĩ quân Minh lui tới ăn uống với mục đích tìm hiểu nội tình quân địch giúp Lê Lợi chiếm đất Thăng Long.
Nhờ có tài nghệ và nhan sắc hơn người, Đào nương nhanh chóng chiếm được cảm tình của cả quân và tướng giặc Minh. Chúng biến quán rượu của nàng thành nơi tụ họp, ăn uống, nghỉ ngơi mà không đề phòng điều gì. Hàng ngày, giặc Minh thường kéo nhau đến quán rượu của Đào nương chè chén thâu đêm suốt sáng. Rượu tiệc no say, chúng lại lăn ra ngủ.
Thời đó, tổng Cao Cương vốn là vùng lau sậy um tùm, rất nhiều côn trùng đặc biệt là muỗi. Vì thế, để khỏi lạnh và tránh bị muỗi đốt, giặc Minh đã làm những chiếc túi bằng bao tải gai để chui vào ngủ. Đêm đến chúng chui vào bao và buộc túi lại tránh muỗi. Đào nương nhiều lần được chúng giao cho việc thắt và mở túi. Với công việc này, nàng chợt nảy ra kế giết giặc. Sau khi thông báo cho nghĩa quân Lam Sơn, Đào nương bí mật tìm các bô lão và trai tráng đang ẩn nấp trong vùng bàn kế hoạch.Cứ đêm đến khi giặc đã ngủ say, dưới sự chỉ huy của Đào nương, anh em trai tráng đến khiêng từng túi quẳng xuống sông. Khi ném chúng xuống, các túi ngủ đều được buộc thêm đá, nút thắt chặt phía ngoài nên không tên nào thoát.
Cho tới một hôm, tướng giặc thấy không rõ vì sao mà quân lính trong đồn tự nhiên mất tích một cách khó hiểu, vội ra lệnh kiểm lại số quân và bắt tất cả quân lính trong đồn đứng xếp hàng vào một thửa ruộng hình vuông, bốn bề có đắp tường cao, gọi là đấu đong quân để biết thiếu đủ ra sao. Tướng giặc giật mình khi thấy quân sĩ hao hụt quá nửa mà không tìm ra nguyên nhân mới cho rằng tổng Cao Cương là vùng đất độc, không thích hợp cho việc đóng quân nên quyết định dời đi nơi khác. Đến nay, dấu vết của giặc Minh vẫn còn tại một khu ruộng ở làng Đào Đặng.
Khi nàng Đào Thị Huệ mất (10-11 năm Nhâm Thìn), dân làng tưởng nhớ công lao to lớn đã lập đền thờ bà ở ngay làng Đào Đặng. Đất nước thanh bình, vua Lê Thái Tổ phong bà làm Phúc thần kiến quốc, Trinh Liệt Phu nhân và cho sửa lại nhà thờ, cấp ruộng cúng tế hàng năm
Phạm Thị Ngọc Trần
Hoàng
Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần quê ở sách Quần Đội, huyện Lôi Dương (có sách
chép là Quần Lai, nay thuộc xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân). Cha là Phạm Hoành,
anh trai là Phạm Vân đều tham gia cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn.
Sau khi kết hôn với
Lê Lợi, Ngọc Trần sớm hôm gánh vác việc thu xếp trang trại, coi sóc sản xuất,
cấy trồng. Về sau, khi Lê Lợi dựng cờ dấy nghĩa, Ngọc Trần trực tiếp lãnh trách
nhiệm việc quân lương, chỉ đạo đội nữ binh tại trại Như Áng – Lam Sơn, căn cứ buổi
đầu của cuộc khởi nghĩa.
Phạm Thị
Ngọc Trần lặn lội theo Bình Định Vương cùng nghĩa quân đánh giặc đã góp phần
đáng kể vào thắng lợi của cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn trong giai đoạn hoạt động ở
vùng núi rừng Thanh Hóa.
Năm Ất
Tỵ (1425) Bình Định Vương vây thành Nghệ An, tiến đánh thành Trào Khẩu ở Hưng
Nguyên. Tại đây có đền thờ thần Phổ Hộ cũng là địa điểm đã chứng kiến tấm gương
sáng ngời lòng yêu nước của Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần. Các chính sử và Lam
Sơn thực lục (bản Hồ Sĩ Dương) chép rằng: tháng 3 năm Ất Tỵ (1425) Bình Định
Vương tiến quân vây thành Nghệ An, giặc Minh ra sức chống giữ, thế lực chưa
phân thắng bại. Quân doanh của Vương tạm đóng cạnh đền thờ thần Phổ Hộ bên bờ
sông Lam thuộc làng Trào Khẩu, huyện Hưng Nguyên. Đêm hôm đó, Vương chiêm bao
thấy một vị thần báo mộng cho Vương: “Tướng quân nhường cho tôi một người
thiếp, tôi hứa hết sức phù hộ tướng quân đánh thắng giặc Ngô, giữ vững nghiệp
đế”... Tỉnh dậy, Vua nghĩ rằng: Thuở xưa, vua Lý nhờ vợ chồng ông hàng dầu là
Vũ Phục, nhảy xuống sông Thiên Phù, hiến xác cho thủy thần mà vua Lý khỏi bệnh
đau mắt, lo được việc chống giặc. Rồi Lý Thường Kiệt dàn trận đánh Tống, nói
rằng có thần ngâm thơ giúp đuổi giặc, mà quả nhiên hôm sau quân ta phá được
giặc Tống bên sông Như Nguyệt. Vậy thì ngày nay, ta thí mạng một người mà cứu
sống muôn người, thu lại được non sông, thì việc đáng làm lắm rồi .
Hôm sau, Vương gọi
các bà vợ đến hỏi: “Có ai chịu đi làm vợ thủy thần không? Sau này khi ta lấy
được nước, sẽ lập con của người đó làm thiên tử”. Các bà không ai nói gì, chỉ
có bà Ngọc Trần khảng khái quỳ thưa: “Nếu vì nghiệp lớn của Minh Công thì thiếp
tự nguyện xả thân; ngày sau mong Minh Công giữ lời hứa, chớ phụ con thiếp”. Nhà
vua khen ngợi và thương cảm hứa trước các bà và bề tôi, ngày sau xin làm đúng
hẹn. Rồi vua sai bề tôi cùng đến đền làm lễ tế thần. Đó là vào ngày 24 tháng 3
năm Ất Tỵ (1425). Lúc này bà Ngọc Trần đang bế đứa con lên 3 tuổi, gạt nước mắt
trao cho người hầu bế ẵm; rồi đứng lên làm vật tế thần. Đó là ngày bà Ngọc Trần
quyên sinh, một tấm gương xả thân vì nước, đời đời sáng mãi như tấm gương Lê
Lai nguyện liều mình cứu chúa.
Sau khi
đã tự nguyện gieo mình xuống dòng sông, hy sinh tính mệnh vì việc nước, Thái
hậu được nhà vua và nghĩa quân đưa về mai táng tại quê nhà ở sách Quần Đội.
Nhưng khi về đến làng Mía (làng Thịnh Mỹ, xã Thọ Diên hiện nay) thì trời đã
tối, linh cữu của bà được đặt ở đây qua đêm. Sáng mai mọi người ngạc nhiên vì
một chuyện lạ: nơi đặt linh cữu của bà mối đã đùn thành một đống đất cao biến
thành nấm mồ. Mọi người đều nghĩ về sự hiển linh của bà: bà muốn an nghỉ tại
đây. Vua truyền cho làng Mía lập đền thờ gọi là đền Hiển Nhân.
Lại
nói về lời hứa với hoàng hậu Ngọc Trần khi bà quyết hi sinh thân mình. Khi Lê
Lợi lên ngôi hoàng đế thì ông lập con trưởng là Lê Tư Tề làm giám quốc lo triều
chính mà quên mất Lê Nguyên Long.Theo truyền thuyết, một hôm vua đang ngủ, bà
Ngọc Trần quay về báo mộng trách cứ vua quên công lao của mình, vua choàng tỉnh
rồi truyền thân cận ra chiếu chỉ lập Nguyên Long làm Hoàng thái tử, phế Tư Tề
xuống làm Quận vương.Điều này trong chính sử chép lại có phần khác biệt. Rằng
vua Lê Thái Tổ bỏ Tư Tề vì cho rằng Tư Tề làm nhiều điều trái ý. Đến năm 1433
Lê Lợi qua đời, Lê Nguyên Long lên ngôi vua, tức là vua Lê Thái Tông. Năm 1437,
vua Thái Tông truy tôn mẹ mình làm Hoàng thái hậu, thờ phụng ở Thái Miếu.
Thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ
Thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ sinh năm 1383 (?) người trang Bái Đê (Bái Đô), huyện Lôi Dương, phủ Thiện Thiên, trấn Thanh Hoa, nay là xã Xuân Bái và một phần thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Bà là con gái một hào trưởng, thuộc gia đình quyền quý, danh gia vọng tộc, có điều kiện ăn học và tiếp xúc với nhiều trí thức đương thời. Năm 20 tuổi, Ngọc Lữ về làm dâu nhà họ Lê và là vợ đầu tiên của Lê Lợi.
Bà Ngọc Lữ là người cai quản mọi việc trong nhà khi chồng làm phụ đạo và cai quản mọi việc trong cung khi chồng lên ngôi vua. Theo Lê triều ngọc phả thì "Thuở hàn vi Lê Lợi chăm lo sách đèn, là bạn học của Nguyễn Thận, Lê Văn An, khi trưởng thành, Lê Lợi giữ chức phụ đạo Khả lam, làm quân trưởng một phường. Nguyễn Trãi, một cận thần của Lê Lợi thường nhắc tới 10 năm nghiên cứu binh thư, binh pháp của ông". Như vậy rõ ràng bà Trịnh Thị Ngọc Lữ phải lo quán xuyến mọi việc gia đình, ruộng vườn, trang trại và hàng ngàn gia nhân.
Đầu năm 1418, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, tháng tư năm ấy, quân Minh nhờ kẻ phản thần dẫn đường đánh thẳng vào hậu cứ Lam Sơn, bà vợ hai của Lê Lợi là Phạm Thị Nghiêu bị nội quan nhà Minh là Mã Kỳ bắt đem về giam ở thành Đông Quan (Hà Nội). Theo hầu Đức Thái tổ còn lại bà Trịnh Thị Ngọc Lữ và bà Phạm Ngọc Trần. Trong những năm tháng nghĩa quân Lam Sơn hoạt động ở miền núi rừng Thanh Hóa (1418 - 1423) với bao gian khổ hy sinh, chính trong những ngày gian khổ đó, bà Ngọc Lữ cùng với những người thân trong gia đình Lê Lợi đã sẻ chia khó khăn gian khổ cùng nghĩa quân, động viên cổ vũ tinh thần quyết chiến đấu chống giặc đến cùng của các tướng sĩ.
Năm 1424, khi nghĩa quân Lam Sơn tiến đánh thành Nghệ An, bà Phạm Thị Ngọc Trần tự nguyện làm vật hiến tế thủy thần. Từ đó cho đến ngày cuộc chiến đấu chống quân Minh kết thúc thắng lợi, chỉ còn một mình bà Ngọc Lữ theo hầu Lê Lợi, lo liệu lương thảo, hậu cần cho nghĩa quân chống giặc.
Suốt 10 năm theo chồng chinh chiến, biết bao chiến công thầm lặng của bà đã góp phần to lớn đưa cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh đến thắng lợi. Bà xứng đáng là một tướng giỏi trong lịch sử. Năm 1428, cuộc kháng chiến chống Minh thắng lợi, nhà Lê được thành lập, con trai Tư Tề được sách lập làm quốc vương, tạm coi việc nước, bà Ngọc Lữ được phong Quốc Thái mẫu. Năm 1433, khi Thái tổ lập con thứ là Lê Nguyên Long (11 tuổi) lên kế ngôi (tức Lê Thái Tông), Quốc vương Tư Tề bị giáng xuống làm quận vương, bà Ngọc Lữ cũng bị giáng làm Quận mẫu.
Đến năm 1438, vua Lê Thái Tông phế truất Quận vương Tư Tề làm thứ dân, bà Trịnh Thị Ngọc Lữ chỉ còn lại chức Thần phi. Thân phận bà Thần phi họ Trịnh ẩn dật ở đâu? Đi theo Tư Tề hay vẫn âm thầm lặng lẽ nơi thâm cung cho đến ngày cuối đời? Không ai biết và không thấy sử sách nào ghi chép. Theo Lê Quý Đôn ghi chép trong Đại Việt Thông sử thì Thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ mất vào thời gian niên hiệu Thái Hòa (1443 - 1453) đời vua Lê Nhân Tông.
Lương
Minh Nguyệt (Lương
Thị Huệ)
Bà là vợ Đinh Liệt (?-1471) (danh tướng của Bình Định
Vương Lê Lợi), người làng Chuế Cầu, tỉnh Nam Định, có nhan sắc và giỏi nghề
ca hát Ả đào. Trong thời gian Lê
Lợi kháng Minh, bà đã mở quán rượu nổi tiếng ở gần thành Cổ Lộng (Đông Đô tức
Thăng Long), cốt ý dò la tin giặc, giúp kháng chiến.
Dần dần thăm dò, bà biết
được quân Minh trong thành chỉ ham mê tửu sắc, ăn chơi hưởng lạc và vô cùng chủ quan, lười nhác. Bà kiếm mấy chục thiếu nữ,
có nhan sắc, biết hát múa đưa về luyện tập cách quyến rũ quân giặc. Quân Minh tin tưởng giao cho các
bà việc thắt nút túi gai chống muỗi khi chúng đã chui vào trong ngủ. Bà bàn
với chồng cử người liên lạc với nghĩa quân Lê Lợi, mật báo tình hình. Lê Lợi cả
mừng, sai Đại tướng Nguyễn Xí, Đinh Lễ, Bùi Hưng Nhân dẫn 5 nghìn lính tinh
nhuệ, đi tắt đường rừng ra đánh lấy thành Cổ Lộng.
Lương thị ở nhà được tin, mua rượu thịt, bày cỗ đãi quân Minh, nói thác là
nhà có giỗ. Quân giặc ăn uống no say đều lăn quay ra ngủ cả. Bà ra lệnh thắt
nút túi gai thật chặt để chúng không ra được. Khi quân ta đánh thành, quân giặc
phần vì bất ngờ hốt hoảng, phần vì đại bộ phận đang ngủ say trong túi gai không
ra được, nên chống cự yếu ớt, bị bắt sống và tiêu diệt hết. Thành Cổ Lộng rơi
vào tay nghĩa quân Lam Sơn.
Sau, Đinh Liệt được phong tước Quốc công, mang họ nhà vua
(họ Lê), và bà là Nhất Phẩm Phu nhân. Các vua đời sau đều có sắc phong vợ chồng bà
là Phúc thần.
Theo tài liệu của Giáo Sư Trần Gia Phụng, bà
Lương Thị Huệ có lẽ là một tên khác của bà Lương Minh Nguyệt (?), hiện có đền
thờ tại huyện Thọ Xương và dân chúng còn gọi bà là Ngọc Kiều Phu nhân.
Ngọc Dung công chúa (?-1426)
Theo sử sách, bà Lê Thị Ngọc Dung, quê ở huyện Thái Thụy, tỉnh
Thái Bình ngày nay. Bà nổi tiếng xinh đẹp, văn hay, giỏi võ. Biết tin Lê Lợi dựng
cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, bà đứng ra tổ chức đội dân binh, chuẩn bị vũ khí, lương
thảo, tìm đường vào Lam Sơn. Thấy côn quyền, cung kiếm của Ngọc Dung đều giỏi,
dung nhan xinh đẹp, lại mang họ Lê, Lê Lợi nhận làm con gái nuôi, sau lại phong
làm tả hữu tỳ tướng, giao cho trọng trách lập căn cứ đánh giặc ở vùng ven biển
Sơn Nam Hạ. Năm 1426, bà hy sinh trong trận quyết chiến với quân thù tại cửa Đại
Toàn. Khi Lê Lợi lên ngôi vua, đã truy phong bà là “Biển thức đoan trang, trinh
thục từ hòa, đoan chính Phương Nương đại vương”, cho lập đền thờ phụng. Người
dân tôn bà là thành hoàng với duệ hiệu là “Thánh mẫu, đương cảnh Thành hoàng Ngọc
Dung công chúa”.
Nguyễn Thị Bành
Trong lịch sử Việt Nam, đóng giả thành nam nhi để ra trận chỉ
có bà Nguyễn Thị Bành. Đây là nữ tướng nổi tiếng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn,
vợ của Nguyễn Chích. Trong suốt cuộc đời mình, bà Nguyễn Thị Bành luôn sát cánh
cùng chồng. Nhờ tài trí của bà, Nguyễn Chích nhiều lần thoát khỏi vòng vây của
kẻ thù. Bà và Nguyễn Chích còn huấn luyện được đội quân bồ câu nổi tiếng trong
lịch sử, lập được nhiều chiến công. Sau khi nhà Lê thành lập, có những lúc Nguyễn
Chích gặp bất lợi trên quan trường, bị phế truất, bà động viên, an ủi, sát cánh
cùng chồng vượt qua khó khăn.
Bà Trần Thị Chìa
Trần Thị Chìa là con gái Trần Công ,là người nết na, thùy
mị, có lòng thuận hết mức, bà không quản vất vả, chăm chỉ việc ruộng đồng, dệt
vải kéo tơ phụng dưỡng cha già, nuôi chồng là Vũ Tuấn Chiêu ăn học.
Thế nhưng có một điều mà bà Chìa luôn cảm thấy chạnh lòng,
đó là từ khi cha mất vào năm Kỷ Mão (1459), bà dành hết sự chăm lo cho chồng,
mong ông sớm có ngày thành danh, bảng vàng đề tên song Vũ Tuấn Chiêu mặt mũi
khôi ngô nhưng học hành tối dạ, hơn 10 năm đèn sách, tuổi đã ngoài tứ tuần mà
học vẫn không tiến bộ, ngày ngày vẫn cắp sách đến lớp, ngồi học cùng đám hậu
sinh tóc còn để chỏm nên có lúc lấy làm chán nản.Biết chồng học hành kém cỏi
nhưng bà Chìa vẫn kiên trì khuyên nhủ chồng cố gắng dùi mài kinh sử, hàng tháng
đều đặn mang tiền và gánh gạo sang cho chồng đang trọ học ở làng Hạ Vũ (nay là
thôn Vũ Lao, xã Nam Tân, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Định).
Một lần thầy giáo cảm thấy người học trò họ Vũ của mình khó
có thể tiếp tục theo nổi việc học, nhân bà Chìa gánh gạo đến mới gọi lại trả
chồng về, không cho học nữa vì kém quá, để làm ruộng còn hơn, ông bảo rằng:
“Trò Chiêu tuổi đã nhiều, học không tấn tới, nay ta cho về giúp con việc nhà,
việc đồng ruộng cho bớt bề vất vả”.
Mặc dù đã hết lời xin, nhưng thấy ý thầy đồ đã quyết, bà
Chìa đành lạy chào rồi cùng chồng thu xếp quần áo, sách vở để về nhà. Khi đến
đầu làng, hai vợ chồng dừng chân bên chiếc cầu đá bắc qua nhánh sông nhỏ để
nghỉ ngơi, Vũ Tuấn Chiêu thấy mấy cây cột đá chân cầu bị mòn vẹt mới ngạc nhiên
hỏi vợ; bà Chìa nói rằng:
“Nước chảy lâu ngày đã làm mòn những cột đá của cây cầu!
Chàng thấy đấy, cột đá là vật cứng rắn, dòng nước thì mềm nhưng qua năm tháng
cứ chảy mãi lâu ngày khiến cho đá cũng phải mòn, cho nên làm việc gì nếu có
chí, sự kiên trì, nhẫn nại tất sẽ thành”.
Nghe lời vợ nói, Vũ Tuấn Chiêu chợt tỉnh ngộ như đám mây mù
trước mắt được xua tan, ông liền bảo vợ trở về nhà, còn mình mang sách vở, quần
áo trở lại nhà thầy đồ xin tiếp tục theo học. Thầy đồ hỏi nguyên do vì sao quay
lại, Vũ Tuấn Chiêu đáp:
“Nước chảy đá mòn, thưa thầy việc học cũng như vậy, nếu có
chí học thì thế nào cũng sẽ khá lên. Nay con trở lại trường quyết tâm dùi mài
kinh sử, mong một ngày chiếm tên trên bảng vàng, trước là khỏi phụ công ơn dạy
dỗ của thầy, sau là đền đáp tấm lòng của vợ và cũng là để thỏa cái chí của con”.
Tuy nghe lời nói đầy khẩu khí nhưng thầy đồ không tin tưởng
lắm mới tìm cách đuổi người học trò đó đi. Giai thoại kể rằng, nhân khi đó trời
nổi gió, lác đác có hạt mưa rơi nên thầy đồ mới tức cảnh ra vế đối và nói nếu
đối được thì mới cho ở lại tiếp tục học, vế đối ra là:
“Lác đác mưa sa làng Hạ Vũ”. Suy nghĩ một lát, Vũ Tuấn
Chiêu đối lại là: “Ầm ì sấm động đất Xuân Lôi”, khiến thầy đồ rất hài lòng, từ
đó ông dốc chí học tập dần dần sức học tiến bộ hẳn lên.
Trong vòng 5 năm, bà Chìa tuy tóc đã hoa râm, lưng còng vì
gánh nặng việc đời lẫn việc nhà, vừa nuôi con vừa lo việc ruộng vườn nhưng vẫn
đều đặn gồng gánh đem gạo, mang dầu thắp đèn từ nhà đến nơi trọ học của chồng
cho đến khi lâm bệnh mất, năm đó Vũ Tuấn Chiêu đã gần 50 tuổi.
Sau khi vợ mất ít lâu, Vũ Tuấn Chiêu một lần nữa rời quê
hương đưa con trở về quê ngoại của mình ở làng Nhật Thiên, xã Nhật Chiêu để
tiện việc học hành, chuẩn bị tham gia thi cử. Năm 50 tuổi, ông đỗ Tiến sĩ
(Trạng nguyên) khoa Ất Mùi niên hiệu Hồng Đức 6 (1475).
Dương
Thị Bí
Trong
số 5 người vợ của vua Lê Thái Tông, Dương Thị Bí là
người sinh con trai sớm hơn cả.
Con trai đầu của bà là hoàng tử Lê Nghi Dân, sinh tháng 6/1439. Sử sách
chép rằng, khi bà phi Dương Thị Bí sinh hoàng tử trưởng Nghi Dân, vua Lê Thái
Tông ngày càng yêu chiều bà hết mực. Địa vị của bà, tuy không phải là chủ nhân
hậu cung, nhưng uy quyền chẳng thua kém.
Bà đòi gì, vua cũng ban cho. Vua Lê Thái Tông rất mê đắm sắc đẹp của
Dương Thị Bí và cưng chiều bà nhất trong số tất cả cung tần mỹ nữ ở chốn hậu
cung. Vì thế, nghe tin mừng của Dương Thị, vua Lê Thái Tông hết sức vui mừng.
Chỉ 3 tháng sau, nhà vua tuyên bố Lê Nghi Dân trở thành thái tử.
Trong sách “Hoàng hậu, hoàng phi Việt Nam”
có viết: “Nhà vua đặt tên cho hoàng nam là Nghi Dân và quyết định chọn làm thái
tử. Dương Thị mừng lắm và rất hãnh diện, tự đắc là từ nay không còn ai dám ganh
đua với bà nữa.
Khi
con bà lên ngôi, ngày ấy bà sẽ là mẫu nghi thiên hạ thì ngôi hoàng hậu có ý
nghĩa gì? Bà tin rằng, nhà vua càng phải yêu quý chiều chuộng mẹ con bà hơn.
Bao nhiêu lần bà thử nhõng nhẽo đòi hỏi, yêu sách thì Thái Tông đều chiều ý.
Dần
dần, Dương Thị nghĩ số mệnh bà cao quý, nên đương nhiên coi mọi người phải quỳ
dưới chân bà. Trước kia, mỗi lần gặp hoàng hậu, bà đều phải cúi lạy; nay bà lờ
đi; còn với các cung tần khác, bà tỏ thái độ hạ cố...”. Do quá được sủng
ái và tự mãn, nên Dương Thị trở nên cao ngạo vô lễ với mọi người, không phân
biệt thứ hạng. Vì thế, làn sóng ngấm ngầm phản đối bà ngày càng lớn.
Một hôm, nhân cớ Hoàng đế Lê Thái Tông bị bà tỏ thái độ hờ hững, bực bội ra về
thì những người ghen ghét, gồm Nguyễn hoàng hậu và một số phi tần đã kéo đến
trước nhà vua khóc lóc.
Những người này kể tội Dương Thị là: không giữ nề nếp, nghi thức cung đình đến
có những hành động khinh thường hoàng hậu... hoàng đế.
Vậy là, Dương thị bị giáng xuống làm Chiêu nghi. Sách “Đại Việt sử kí toàn thư”
có ghi rằng: “Trước đây, Dương Thị Bí sinh con là Nghi Dân, đã được nhà vua
sách phong làm thái tử. Dương Thị Bí từ đó cậy thế mà kiêu căng, lăng loàn quá
lắm.
Vua vẫn cố nhịn bao dung, chỉ giáng (Dương Thị Bí) xuống hàng Chiêu Nghi
(hàng thấp trong thứ bậc của vợ vua) cốt cho thị sửa lỗi, nhưng Dương Thị Bí
lại lấy đó làm sự hằn học, chẳng chịu kiêng nể gì nữa.
Nhà vua nghĩ rằng Dương Thị Bí đã quyết làm như vậy thì đứa con do bà đẻ ra
chưa hẳn sẽ thành người khá, bèn giáng bà xuống làm thứ nhân, xong, xuống chiếu
cho thiên hạ biết là ngôi thái tử chưa định”.
Năm
1459, Lê Nghi Dân nổi loạn, giết chết Lê Nhân Tông cùng bà thái hậu Nguyễn Thị
Anh mà tự lập làm vua. Bà Dương Thị Bí sau lần bị giáng làm thứ nhân, không
thấy sử chép gì thêm nữa.
Nguyễn Thị Anh
Nguyễn Thị Anh là vợ
thứ tư của vua Lê Thái Tông; quê ở xã Bố Vệ, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa (nay là
phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa). Bà vào cung khi Lê Thái Tông đã lập hoàng
hậu Dương Thị Bí và sinh được con cả Lê Nghi Dân, rồi lập làm thái tử.
Là người đàn bà xinh đẹp và đầy mưu mô xảo trá, Nguyễn Thị Anh thường tìm
mọi cách để chiếm được sự ưu ái của nhà vua... để từ đó, giành ngôi vua cho con
trai. Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi: Nguyễn Thị Anh được vua sủng ái, nên
năm 1441, vua nghe lời, truất ngôi của Nghi Dân, nhưng vẫn chưa định ai ở ngôi
vị thái tử...
Tuy
nhiên, nhiều người trong triều dị nghị rằng, Nguyễn Thị Anh đã có thai trước
khi vào cung và Bang Cơ không phải là con vua Thái Tông. Cùng lúc đó, một bà
phi khác là Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao lại có mang sắp sinh và trong cung cũng rộ
tin tức Tiệp dư nằm mộng thấy Thượng đế sai một tiên đồng xuống đầu thai làm
con trai bà. Vì vậy, Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh sợ bà Ngọc Dao sinh được con trai
thì hoàng tử Bang Cơ sẽ không được kế vị, bèn cấu kết với Đinh Thắng, một hoạn
quan tâm phúc để lập mưu hại Tiệp Dư.
Theo
lệnh của Nguyễn Thị Anh, Đinh Thắng lấy một hình nhân đàn ông, lấy 7 mũi kim
đâm vào lưng và ngực, dưới chân ghi chữ Bang Cơ và cố tình để cho một cung nhân
bắt được tâu lên vua. Hoàng hậu chủ mưu nhưng lại ra vẻ là người bị hại và đòi
nhà vua phải truy cứu việc này đến cùng, phải tìm ra được người làm việc này và
xử theo luật cho voi dày ngựa xéo.
Tiệp dư
Ngọc Dao là người bị nghi ngờ nhiều nhất. Nhà vua rất băn khoăn và chỉ khép vào
tội phát lưu (đày đi xa). Biết chuyện, quan hành khiển Nguyễn Trãi vào triều
kiến và ra lời can gián. Ông cho rằng, chứng cớ xác đáng không có mà đã vội kết
án Tiệp dư là một việc làm thất đức và ông xin nhà vua cho mình được lo liệu
việc này.
Thái Tông nghĩ mãi, không còn cách nào hơn nên đành chấp nhận đề nghị của
Nguyễn Trãi. Ngay đêm ấy, Nguyễn Thị Lộ (vợ thứ của Nguyễn Trãi) đã bí mật đưa
Tiệp dư họ Ngô ra ẩn náu ở chùa Huy Văn (ngõ Văn Chương, phố Tôn Đức Thắng ngày
nay).
Ở đây
lại nói, vì sẵn đố kỵ việc vợ chồng Nguyễn Trãi "bênh" Tiệp dư Ngọc
Dao và sợ tai tiếng Bang Cơ không phải dòng máu rồng, Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh
bị "đồn" chủ mưu sát hại Vua Lê Thái Tông, gây nên vụ án Lệ Chi Viên
chấn động một thời.
Trong
cuốn Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ với thảm án Lệ Chi Viên, các nhà sử học và
một số nhà khoa học đã chỉ rõ, chủ mưu của vụ thảm án Lệ Chi Viên là Tuyên từ
Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Anh, mẹ vua Lê Nhân Tông. Tuy nhiên, đến nay, sự thật
về sự hạ sát tàn độc của Nguyễn Thị Anh với thiên tử vẫn là một ẩn số.
Ngô Thị Ngọc Dao –
Quang Thục Hoàng Thái Hậu (1420-1496)
Bà là con gái vào
hàng thứ sáu trong tám con gái của quan Thái Bảo Ngô Từ. Người làng Động Bàng
,huyện Yên Định ,tỉnh Thanh Hóa
Phả cũ chép:Khi sinh
Ngô Thị Ngọc Dao bà mẹ thấy Tiên trên cung trăng xuống nhà, tỉnh giấc trong nhà
có mùi hương lạ, trong không trung có tiếng nhạc âm điệu khác thường.Lớn lên
Ngọc Dao thường ở bên ngoại,khi ra đồng làm ruộng có đám mây ngũ sắc che trên
đầu, trẻ chăn trâu thường đi theo đều được che mưa nắng.
Năm 1434 Nguyên Long
lên ngôi, nhớ Dụ Vương có nhiều công lao,bề tôi huân cựu của triều đinh,đến nhà
thăm,nhìn thấy Ngọc Thung liền vừa ý, tuyển vào cung.
Năm Thiệu Bình thứ 2
(1435) Ngọc Dao vào cung thăm chị,Nguyên Long trông thấy lại vừa ý,tuyển vào
cung phong Tiệp dư (Tiệp dư là bậc cung tần sau tam phi và cửu tần,đứng đầu sáu
chức cung giai, lo việc tiếp khách trong cung,phẩm cấp tương đương tước Hầu của
triều đình).Ngọc Dao chọn con em các nhà dạy lễ nghi, lễ đối với người trên,lấy
ân đãi người dưới, tư cách cử chỉ ăn nói …Nguyên Long rất yêu quý,sinh con đầu
lòng là Công chúa Diên Trường,năm 1442 sinh Tư Thành (Vua Lê Thánh Tôn).
Nguyên Long có nhiều
vợ,trong đó có Dương Thị Bí sinh Nghi Dân,Nguyễn Thị Anh sinh Bang Cơ,Huệ phi
Lê Nhật Lệ và Ngô Thị Ngọc Dao.Con trai đầu là Nghi Dân đã được lập làm Thái
tử, Nguyễn Thị Anh sinh Bang Cơ bèn xúi dục nhà vua tìm cớ phế Nghi Dân lập
Bang Cơ mới hai tuổi lên làm Thái tử.Thấy Huệ phi Lê Nhật Lệ là con gái Lê
Ngân,người đang có quyền cao trong triều,nếu sinh con trai thì ngôi Thái tử của
con mình là Bang Cơ dễ bị lung lay,Nguyễn Thị Anh bèn bày mưu hiểm độc hại Nhật
Lệ,nói với Nguyên Long là trong nhà Lê Ngân có điện thờ ngày ngày cầu khấn cho
nhà vua yêu quý Huệ phi.Nha vua sai quan đến nhà xem xét ,quả có điện
thờ, bèn triệu Lê Ngân vào cung hỏi tội và buộc uống thuốc độc chết,giáng Huệ
phi xuống hàng Tu dung, trong số cửu tần.
Hãm hại được Huệ
phi,lại nghe câu chuyện Ngọc Dao mộng Kim đồng,lại đang có thai .Nguyễn Thị Anh
nghĩ rằng nếu Ngọc Dao sinh quý tử thì sẽ dành mất ngôi Thái tử của con
mình,phải trừ ngay Ngọc Dao trước ngày sinh nở,bèn xúc xiểm với nhà vua là Ngọc
Dao có dính líu vụ Huệ phi, đang có âm mưu giết Thái tử.Lại tính ra là Ngọc Dao
có thai đã quá 10 tháng mà chưa sinh,rõ ràng là yêu quỷ hiện vào báo hại hoàng
gia,Nguyên Long cả nghe xúc xiểm ,sai cung nỏ nhằm bụng chửa của Ngọc Dao mà
bắn để trừ ma quỷ. Vừa lúc có vị Hoàng thân biết chuyện,can thiệp nên Ngọc Dao
không bị bắn mà chuyển tội voi dày.Nguyễn Trãi bảo Nguyễn Thị Lộ can
gián,Nguyễn Thị Lộ khuyên nhà vua không nên nghe lời xúc xiểm không đâu
mà làm một việc quá thất đức.Nhà vua nghe lời Thị Lộ,cho Ngọc Dao được ra ở
chùa Huy Văn.Được Nguyễn Thị Lộ chăm lo săn sóc,Ngọc Dao sinh con trai là Tư
Thành (Tư Thành chào đời trong chùa Huy Văn,nơi gốc cây chuối sau sân chùa).
Tất cả mọi chuyện đều đến tai Nguyễn Thị Anh, kết thành mối thâm thù giữa
Nguyễn Thị Anh với Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ.Chùa Huy Văn vẫn chưa phải là
nơi an toàn,Nguyễn Trãi thu xếp cho mẹ con Ngọc Dao lánh ra An Bang (Quảng Yên
ngày nay).
Lúc mới sinh, Tư
Thành có thần sắc anh dị, tuấn tú. Năm Thái Hòa thứ ba (1445), được phong làm
Bình Nguyên Vương, hằng ngày Tư Thành cùng các thân vương vào học ở tòa Kinh
Diên. Tư Thành học tập chăm chỉ, sớm khuya không rời quyển sách.
Năm 1460, sau khi dẹp
loạn Nghi Dân, các vị đại thần từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn như Đinh Liệt,
Nguyễn Xí đã ra chùa (điện Huy Văn) rước Tư Thành vào cung, lập làm vua, lấy
hiệu là Thánh Tông. Suốt 38 năm (1460-1497) dưới thời vua Lê Thánh Tông, đất nước
Đại Việt đã bước vào giai đoạn cực thịnh, nhân dân được sống trong hòa bình,
kinh tế phát triển, biên giới được giữ vững.
Lên làm vua Tư Thành
ra chùa Huy Văn đón mẹ vào cung,Ngô Thị Ngọc Dao nói: “Nay mẹ tuổi đã cao,ăn
chay niệm Phật đã quen,con để mẹ ở ngoài chùa này,cho yên tĩnh tuổi già”.Nhà
vua bèn sai dựng thêm điện cho mẹ ở,tôn làm Quang Thục Hoàng Thái
hậu ,hàng tuần ra chùa thăm mẹ.
Trong lần Vua ngự giá
thân chinh đi dẹp giặc Chiêm Thành, bà cùng đi với Vua, khi thắng trận trở về
bà đã mất và được chôn cất tại vùng Đồng Cần, sau đó cải táng về quê ở Thanh
Hoá. Để tưởng nhớ công lao to lớn của bà nhân dân đã lập đền thờ tại Đồng Cần.
Lễ nghi học sĩ Nguyễn
Thị Lộ
Quê làng Hải Triều
(còn gọi là Hải Hồ) tục gọi làng Hới, tổng Thanh Triều, huyện Ngự Thiên, phủ
Tân Hưng (nay thuộc xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà). Nguyễn Thị Lộ sinh vào đời Hồ
(1400) và mất vào thời Lê Thái Tổ (1442). Bà sinh trong một gia đình khá giả.
Cha là Nguyễn Mỗ, một người biết chữ, có nghề xem mạch bốc thuốc. Nguyễn Thị Lộ
sớm được cha cho đi học, lại thông minh nên bà giỏi hơn các bạn cùng lứa. Từ
nhỏ bà đã thuộc lòng các sách Tứ thư, Ngũ kinh, Nam sử, Nam y, Nam dược,
lại biết làm thơ.
Bà nổi tiếng là người
đẹp nhất vùng. Sau khi cha chết, bà phải cùng mẹ tần tảo nuôi dạy các em, phải
đem chiếu đi bán và trong một lần lên kinh thành bán chiếu bà đã gặp Nguyễn
Trãi, rồi trở thành người bạn đời của Nguyễn Trãi, cùng Nguyễn Trãi vào Lam Sơn
tụ nghĩa. Tại Lam Sơn, Nguyễn Thị Lộ là trợ thủ đắc lực cho ông mọi công việc.
Từ thời
ở Lam Sơn bà đã làm thày dạy con em thủ lĩnh và nghĩa quân. Thái
Tông lên ngôi bà được tuyển vào cung, phong làm Lễ nghi học sĩ. Bà là người phụ
nữ đầu tiên ở chức vụ này. Ở cương vị Lễ nghi học sĩ “Bà soạn thảo
và cho chẩn chỉnh nhiều phong tục từ trong cung ra đến ngoài triều… xin chỉ dụ
vua cho mở mang nền học vấn dân tộc khuyến khích phụ nữ học chữ thánh hiền.”
Không
chỉ là một nhà giáo, Nguyễn Thị Lộ còn là một nhà thơ “Văn thơ của bà đã thất
truyền nhiều, chỉ còn mấy vần thơ xướng hoạ khi gặp Nguyễn Trãi (và một bức
hình thư gửi Nguyễn Trãi), nhưng tên tuổi đã gắn liền vào văn học sử nước nhà
từ thời ấy và trở thành một giai thoại văn học để lại cho đời”.
Bà bị
giết vào ngày 16 tháng 4 năm Nhâm Tuât (1442) sau cái chết đột ngột của vua Lê
Thái Tông. Cái chết oan khuất của bà trải 560 năm bước đầu mới được các nhà sử
học minh oan và đang chờ một cuộc hội thảo có quy mô lớn “ để trả lại cho
Nguyễn Thị Lộ những giá trị đính thực trong quốc sử và trong nhân tâm”.
Công chúa Quỳnh Hoa -
Bà chúa nghề tằm
Truyện kể rằng, thời
vua Lê Thánh Tông, một viên quan trong triều khi già về Nghi Tàm mở trường dạy
học. Một hôm ra ngắm cảnh hồ, ông bỗng thiu thiu ngủ. Trong mộng, ông lạc vào
thiên đình, thấy một vị quan quỳ xuống tâu xin Ngọc Hoàng cho công chúa Quỳnh
Hoa xuống đầu thai họ Trần. Ngọc Hoàng chấp thuận, Trần Vĩ được viên quan trao
vào tay một cô con gái.
Chẳng bao lâu sau, vợ
ông có mang sinh một đứa con gái đúng như trong mộng. Ông bèn đặt tên là Quỳnh
Hoa. Lớn lên, Quỳnh Hoa được gả cho Liễu Nghi, tri phủ Hà Trung.
Khi Chiêm Thành sang
xâm lược, vợ chồng Liễu Nghi đều ra trận đánh giặc. Thắng trận, vua phong cho
Liễu Nghi chức Đô Đài Ngự sử và Quỳnh Hoa là quận phu nhân. Khi Liễu Nghi mất,
Quỳnh Hoa xin về Nghi Tàm. Vốn là người thạo việc trồng dâu, nuôi tằm, về Nghi
Tàm, bà chuyên tâm lo nghề ấy rồi phổ biến cho dân chúng. Nhờ vậy dân toàn vùng
biết nghề này. Sau khi mất, Quỳnh Hoa được tôn là bà chúa nghề tằm, hiện có gần
60 làng thờ bà.
Vệ Quốc Trưởng Công
chúa
Vệ Quốc Trưởng Công
chúa là con gái của vua Lê Thái Tông và là chị của vua Lê Nhân Tông. Công chúa
sinh năm Kỷ Mùi (1439), sử sách không cho biết rõ tên nhưng theo dã sử thì nàng
tên là Lê Thị Ngọc Đường.
Mặc dầu lệ định rằng
khi công chúa được 16 tuổi là phải tiến hành việc kén phò mã, nhưng không phải
bao giờ cái mốc 16 cũng được tôn trọng, chính vì vậy khác với lệ thường, Vệ
Quốc Trưởng Công chúa Lê Thị Ngọc Đường xuất cung, hạ giá lấy chồng khi tuổi
còn nhỏ, bấy giờ mới lên 10.Tuy là con nhà đế vương quyền quý, lá ngọc cành
vàng nhưng công chúa lại bị khiếm khuyết, từ khi sinh ra đã mắc bệnh câm, không
nói được.
Tuy bị bệnh câm,
nhưng Vệ Quốc Trưởng Công chúa dù chưa đến tuổi lấy chồng nhưng em trai của
nàng là vua Lê Nhân Tông xuống chiếu đem gả cho Lê Quát, con trai của đại thần
Lê Thụ vào năm Mậu Thìn (1448)
Nếu như chuyện công
chúa câm Lê Thị Ngọc Đường 10 tuổi đã hạ giá lấy chồng là điều khác lạ so với
điển lễ thì hôn lễ của nàng cũng là một sự kiện khiến không chỉ kinh đô Thăng
Long chấn động mà cả các địa phương trong nước cũng xôn xao không kém.
Để làm đám cưới cho
con trai mình với công chúa, coi đó là vinh dự lớn, một ân huệ đặc biệt nên Tể
tướng Lê Thụ đã sai người đi mua sắm rất nhiều.
Sử sách cho hay: “Khi
ấy, Lê Thụ lo sắm lễ cưới, những kẻ ưa cầu cạnh hay tin liền tranh nhau đem nạp
của cải để mong được hưởng phú quý. Gấm thêu, lĩnh, là, vóc, lụa... đang bày
bán ngoài phố đều bị chúng tranh mua hết cả.
Lê Thụ còn bắt quan
lại ở khắp các trấn, lộ phải sắm đủ trâu, bò và các thứ lễ vật khác. Các quan
địa phương cũng muốn lấy lòng Lê Thụ nên bắt quân lính và nhân dân đóng góp rất
nhiều.
Do bị mang tiếng
trong việc tổ chức lễ cưới đó nên uy tín của Lê Thụ giảm sút, không lâu sau ông
bị bắt giam vào ngục với tội “không biết dạy con”, để cho một người con gái làm
việc phù chú bùa yểm, đến tháng 6 năm Bính Tý (1456) mới được tha tội, cho phục
chức Thái úy. Dù có những sai
phạm, lỗi lầm nhưng Lê Thụ vẫn là một người trung thành với triều đình, tháng
10 năm Kỷ Mão (1459), vua Lê Nhân Tông bị anh trai là Lạng Sơn vương Lê Nghi
Dân giết chết để cướp ngôi.
Bất bình trước việc
làm đó, Lê Thụ cùng một số đại thần mưu lật đổ nghịch thần nhưng không thành,
đều bị giết.
Trong biến cố của gia
đình nhà chồng, không rõ cuộc sống cũng như số phận của Vệ Quốc Trưởng Công
chúa Lê Thị Ngọc Đường và Phò mã Lê Quát ra sao, chỉ có lễ cưới của họ là còn
được sử sách lưu truyền mãi như một trong những sự kiện hi hữu chốn hoàng cung.
Trường Lạc hoàng hậu (1441 - 1505)
Trường Lạc hoàng
hậu húy là Hằng (hoặc Huyên), người ở trang Gia
Miêu ngoại, huyện Tống Sơn, là con gái thứ hai của ông Nguyễn
Đức Trung được tặng hàm Thái úy Trinh quốc công. Ông Nguyễn
Đức Trung chính là cụ tổ dòng họ chúa Nguyễn, nhà Nguyễn sau
này. Bà là vợ vua Lê Thánh Tông, mẹ ruột của Lê Hiến Tông, bà
của Lê Túc Tông và Lê Uy Mục.
Cuộc đời
bà trải qua nhiều vinh hoa phú quý mà cũng thăng trầm, từ vị trí Sung
nghi, rồi Quý phi, Hoàng thái hậu, Thái hoàng thái hậu và
đột ngột kết thúc một cách đầy bi kịch vào cuối đời, khi bị cháu nội là Uy Mục
giết chết.
Có
một dị bản về xuất thân của bà, cho rằng bà là con gái bị lưu lạc
của Nguyễn Trãi. Vì là người có nhan sắc tuyệt đẹp, bà Trường Lạc
được vua Thánh Tông yêu quý nhất trong số các cung nhân. Vua đã cho điều tra
lại vụ án Lệ Chi Viên và xuống chiếu tẩy oan cho Nguyễn Trãi, bổ Anh Vũ, một
người anh cùng cha với bà, làm tri huyện (1464). Tuy nhiên, mối tình đằm thắm
với vua Thánh Tông không rõ kéo dài bao lâu, nhưng về sau, theo sử sách, bà bị
ruồng bỏ, bạc đãi đến nỗi đem lòng thù ghét.Đại Việt sử ký toàn thư có nói
đến việc này, bà bị giam cầm ở cung lâu ngày, đến khi Thánh Tông hấp hối, được
đến thăm, ngầm đem thuốc bôi vào chỗ loét của vua, bệnh vua càng thêm nặng mà
qua đời.
Thiều Dương công
chúa
Thiều Dương công chúa là con gái thứ 8 của vua Lê Thánh
Tông-một vị vua anh minh và tài đức vẹn toàn, đã có công lớn trong việc kinh
bang đất nước, đưa triều Lê phát triển cường thịnh. Nhà vua cùng hoàng hậu sinh
công chúa Thiều Dương vào ngày mồng 9 tháng 4 năm Kỷ Mùi (1439) và đặt tên là
Thiều Dương, công chúa có diện mạo sáng đẹp như hoa, mắt phượng mày ngài, môi
đỏ tựa son, da trắng như phấn, dáng đi yểu điệu, nhan sắc đẹp tuyệt trần, khác
hẳn người thường.
Đến năm 17 tuổi, Thiều Dương tài sắc hơn cả những người con
gái của vua Nghiêu, vua Thuấn; nhà vua bèn kén chồng cho con nhưng nàng không
nghe, nàng xin phép vua cha cho đi chu du thiên hạ. Yêu quý con gái, nhà vua
bằng lòng cho Thiều Dương lên đường du ngoạn, đến địa phận Hoàng Mai, nàng thấy
người dân ở đây có phong tục thuần hậu, lại có ngôi chùa Linh Quang nhỏ bé
nhưng rất linh thiêng. Hỏi thăm dân, nói chuyện với Đỗ Công người có công xây
dựng chùa Linh Quang, Thiều Dương liền cấp tiền cho nhân dân tu tạo, xây dựng
lại chùa thêm to đẹp, từ đó cảnh chùa thêm linh thiêng huy hoàng rực rỡ. Từ đó
hàng năm công chúa đều về thăm Hoàng Mai và chùa Linh Quang, thành tâm niệm chú
cầu nguyện cho thêm sức lực để tu tứ, tôn sùng đạo Phật, trau dồi phép thuật
thần thông, tu trí đắc phép để dùng khi quốc gia hữu sự. Quả nhiên khi có giặc
Chiêm Thành kéo quân sang xâm phạm bờ cõi nước ta nhà vua cùng các tướng sĩ
xuất trận, nhưng không phân thắng bại. Thiều Dương xin đi thay vua cha đánh
giặc, nhà vua bằng lòng. Nàng liền tiến thẳng đến địa phận phường Hoàng Mai, cùng
nhân dân bản phường lập một hành cung để làm nơi cầu đảo thiên địa thần kỳ để
được âm phù, dương trợ. Quả nhiên linh nghiệm, ba ngày sau Thiều Dương mộng
thấy thần linh làm chức đô hộ sông hồ ở chỗ Viền cung, xin vì dân chúng mà cho
được phù giúp Thiều Dương đánh thắng giặc. Liền sau đó Thiều Dương làm lễ tạ và
kéo binh đi đánh giặc, giao chiến một trận oanh liệt. Tự nhiên có một trận gió
nổi lên, rồi mưa trút xuống, trời đất tối tăm, sấm chớp ầm ầm ở trong đồn giặc.
Lát sau có tiếng người ngựa trên không trung, quân giặc thấy thế vô cùng khiếp
sợ, Thiều Dương bèn cải dạng nam trang, dẫn đầu ba quân đánh một trận lớn, quân
giặc tan vỡ, tranh nhau tìm đường tháo chạy.
Đất nước được thanh bình, nhà vua cùng với Thiều Dương trở
lại thăm nơi chiến địa, biết rằng nhờ có thần linh âm phù mà thắng giặc. Nàng
liền xin vua cha cho về thăm lại Hoàng Mai-nơi nàng đã dựng hành cung để làm lễ
cầu đảo được ứng nghiệm. Khi thuyền của Thiều Dương đang đi trên sông, bỗng gió
lớn nổi lên, mưa to trút xuống, mặt sông nổi sóng ầm ầm thuyền của công chúa bị
lật sấp (hôm đó là ngày mồng 10 tháng 7), quân sĩ cấp báo về triều, nhà vua vô
cùng lo lắng. Ba ngày sau, bầu trời u ám, mây trôi tản mát, thi thể Thiều Dương
công chúa nổi lên mặt nước, theo dòng sông nhỏ trôi về phía hành cung phường
Hoàng Mai, đến trước hành cung thì dừng lại. Nhân dân bản phường trông thấy thi
thể Thiều Dương vẫn tươi tắn y như khi còn sống, lấy làm kinh dị, bèn tâu về
triều. Vua liền lệnh cho nhân dân trong phường làm lễ an táng ngay trên mảnh đất hành
cung. Nhân dân kính cẩn làm lễ an táng và dựng một ngôi miếu ngay cạnh mộ địa
để cùng phụng sự hương hoả. Nhà vua còn bỏ 1000 quan tiền để chu cấp cho nhân
dân phường Hoàng Mai dùng vào việc đèn hương tế tự trong hai dịp Xuân Thu hàng
năm. Đồng thời sắc tặng phong mỹ tự: Tối linh công chúa Thượng đẳng phúc Thần
dữ quốc đồng hưu, vĩnh vi bá thức. Lại gia ân thêm cho nhân dân bản phường đều
được miễn phí trong hai năm. Phong Đương cảnh Thành hoàng, vị hoàng nữ thứ 8
của đức Thánh Tông Hoàng đế là Thiều Dương Minh Linh Thiên cực quốc trưởng, Phu
nhân tối linh Công chúa. Phong
Đương cảnh Thành Hoàng Đô Thiên phụ quốc Hiển ứng uy linh Thượng đẳng phúc Thần
Đại Vương. Chuẩn cho dân phường Hoàng Mai, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn
Kinh Bắc làm đền thờ chính để cùng các nơi hương hoả phụng tự.
Tại đình Hoàng Mai-trung tâm thờ tự của làng, từ xưa đến
nay nhân dân đều tổ chức cúng lễ, hội lệ để biểu hiện sự ngưỡng mộ và nhớ ơn
Thiều Dương công chúa và các anh hùng hi sinh thân mình vì dân, vì nước vào
ngày mồng 4 tháng Giêng, ngày 12 tháng 8 (âm lịch).
Vũ Thị Thiết
Tức Thiếu Phụ Nam
Xương. Bà quê huyện Nam Xương (Hà Nam),
là vợ chàng Trương, mới có thai thì chồng được gọi đi lính thú phương xa. Đứa
bé trai sinh ra không biết mặt cha. Mỗi tối bà thường chỉ bóng mình trên vách
mà dạy con chào hỏi cha trước khi đi ngủ. Ít lâu sau chàng Trương trở về, đứa
bé thấy xa lạ và nói bố nó chỉ về lúc đêm tối. Chàng Trương nghi ngờ vợ ngoại
tình, nên đã mắng nhiếc đuổi đi. Bà Thiết bị oan ức, lai không biết biện bạch
ra sao, bèn nhẩy xuống sông Hoàng Giang (địa phận Nam Xương) tự tận. Đến tối
thắp đèn lên, đứa bé mới chỉ bóng chàng Trương trên vách và nói rằng bố nó đã
về. Chàng Trương lúc đó mới hiểu ra, nhưng đã trễ. Dân chúng biết chuyện người
đàn bà tiết nghĩa chết oan, bèn lập miếu thờ. Vua Lê Thánh tông (1460-1497)
tuần thú đi qua miếu, đã làm một bài thơ vịnh rất nổi tiếng, được khắc vào bia
đá năm 1471, và truyền tụng đến ngày nay.
Nguyễn Thị Cận
Bà vốn mồ côi, nghèo
khổ phải đi làm người ở, sau bị bắt làm nô tỳ phục dịch trong cung, vì có sắc
đẹp mà bà được vua Lê Hiến Tông lấy làm vợ, phong làm phi.
Truyền tụng tại quê
của bà cho hay, Nguyễn Thị Cận sinh ra trong gia đình nghèo, làm nghề đánh bắt
cá ở các ao hồ tại làng Phù Chẩn để kiếm sống.
Cha bà mất sớm, người
mẹ tần tảo nuôi con khôn lớn, một lần đánh được con cá to để lại cho con ăn ăn
chứ không bán cho lý trưởng, bị lý trưởng thù ghét tìm cách hãm hại khiến người
mẹ cùng quẫn phải bán con gái đi làm người ở cho một gia đình giàu ở kinh thành
Thăng Long.
Năm Nguyễn Thị Cận
mười bảy tuổi thì nhà chủ mắc tội, tài sản bị sung công, tất cả người hầu cũng
bị đưa vào cung làm nô tì. Nguyễn Thị Cận được đưa đến cung Quảng Ninh (tức
cung Vĩnh Ninh) để hầu hạ Quý phi Nguyễn Thị Hằng.
Một lần Thái tử Lê
Tranh (vua Lê Hiến Tông sau này) vào thăm mẹ cung Quảng Ninh thăm mẹ, tình cờ
thấy cô nô tì Nguyễn Thị Cận xinh đẹp đoan trang mới đem lòng mặt yêu mến, sau
đó xin mẹ cho lấy về làm vợ, tháng 5 năm Mậu Thân (1488) thì sinh một hoàng nam
đặt tên là Lê Tuấn (vua Uy Mục sau này).
Sau khi Chiêu phi
Nguyễn Thị Cận qua đời, thi hài bà được đưa về an táng tại quê nhà. Theo sách
“Các di tích lịch sử văn hóa Bắc Ninh” thì tại thôn Rích Gạo (xã Phù Chẩn,
huyện Từ Sơn, Bắc Ninh) hiện vẫn còn lăng mộ bà hoàng này ở ngoài đồng trước
làng và tấm bia đá dựng thời Minh Mạng có khắc chữ lớn “Lê triều Uy Mục hoàng
đế lăng”, còn những chữ khác trên bia đã mờ hết không đọc được.
Người dân địa phương
còn kể rằng ngôi chùa Hưng Giao ở Rích Gạo hiện nay vốn được xây trên nền cũ
của đền thờ bà hoàng Nguyễn Thị Cận được dựng từ thời Lê Uy Mục, trong chùa vẫn
còn ban thờ bà và vua.
Trần Thị Tùng (?-1509),
Trần Thị Tùng là vợ vua Lê Uy Mục. Bà là Hoàng
hậu cuối cùng của giai đoạn Lê Sơ.
Trần Thị Tùng là con
cả của một viên quản lĩnh họ Trần, ở làng Nhân Mục ( ngoại thành Hà nội ngày
nay ), dòng dõi cháu ngoại của một vị vua họ Trần. Họ Trần có 2 con gái, con cả
là Tùng, con thứ là Trúc, nổi tiếng có nhan sắc.
Bính Dần, Đoan Khánh
năm thứ 2 (1506), Uy Mục nghe nói đến sắc đẹp của bà, liền vời vào cung, lập
làm Hoàng hậu. Bà sinh được một hoàng tử nhưng chết yểu, sau đó em gái bà
là Trúc cũng vào cung hầu vua.
Thời vua Uy Mục là
thời của họ ngoại nhà vua; thứ nhất là thế lực vùng Hoa Lăng của bà Nguyễn
Kính phi, mẹ nuôi của Uy Mục; thế lực vùng Nhân Mục của bà Trần hậu và thế lực
vùng Phù Chẩn quê hương của bà Nguyễn Thị Cận.
Với thế lực ngọai
thích, Uy Mục liên tiếp tấn công vào họ nội của mình, rất nhiều tôn thất nhà Lê
đều bị bắt giam hoặc bị giết; trong đó có Giản Tu công Lê Oánh - Lê Tương
Dực sau này - cũng bị bắt giam vào ngục.
Kỷ Tỵ, Đoan Khánh năm
thứ 5 (1509), Lê Uy Mục bị lật đổ và bị giết. Bà Trần hậu trốn ra đến xã Hồng
Mai (nay là khu Bạch Mai, Hà Nội), náu ở nhà dân một thời gian.
Nhưng rồi lại chạy lên một ngôi chùa nhỏ. Sau có lẽ không thể thoát được, bà tự
thắt cổ chết ở miếu chùa.
Khâm Đức hoàng hậu
Bà tên thật là Nguyễn
Thị Đạo, quê ở huyện Văn Giang, phủ Thượng Hồng, xứ Hải Dương (nay là huyện Văn
Giang, tỉnh Hưng Yên), con gái một viên quan nhỏ, vì có nhan sắc và đức hạnh
nên được tuyển vào cung làm phi, không lâu sau được Lê Tương Dực lập làm Khâm
Đức hoàng hậu và rất được vua sủng ái, yêu mến.
Chuyện kể rằng đúng
hôm Nguyễn Thị Đạo nhập cung, vua Tương Dực đang trong tình trạng bất an vì
việc triều chính rối ren, dân chúng nhiều nơi nổi dậy chống lại triều đình.
Lúc đó có viên quan
nội thị vào tâu về việc tổng quản vừa đưa con gái của một số đại thần vào cung
để vua lựa chọn, đang không vui, Lê Tương Dực bực tức nói:
“Một lũ ăn hại, chúng
ăn cơm của triều đình, mà giúp gì được cho ta, lại còn muốn bắt ta chấp nhận
con gái của chúng nữa. Thật khó chịu”. Tuy nhiên, vua đã nghĩ lại:
"Dù sao cũng
phải chấp nhận, vì đó là sợi dây ràng buộc bọn bầy tôi, bắt chúng phải trung
thành với ta", nghĩ sao làm vậy, Lê Tương Dực bước đến nơi những mỹ nhân
đang chờ đợi.
Vừa thấy vua, tất cả
vội quỳ xuống hành lễ, trong số các cô gái đó, bất giác ánh mắt của Lê Tương
Dực như bị cuốn hút vào một cô gái nhu mì, hiền thục, đó là Nguyễn Thị Đạo,
người đã khiến nhà vua không thể làm ngơ...
Lập tức vua gọi viên
tổng quản lại hỏi cô gái đó là con nhà ai và truyền đưa Nguyễn Thị Đạo tới
trước hoàng đế. Cô gái rất đẹp nhưng không phải là một vẻ đẹp lộng lẫy mà dịu
dàng, đằm thắm đầy vẻ đoan trang và nó đã nhanh chóng quyến rũ ông vua háo
sắc... Từ đó, Lê Tương Dực giữ Nguyễn Thị Đạo ở bên mình rồi xuống chiếu sắc
phong làm hoàng hậu.
Trong suốt năm tháng
sống cùng vua, Khâm Đức hoàng hậu Nguyễn Thị Đạo hiểu rõ bản tính chuyên quyền,
độc đoán, bạo ngược và ham sắc dục của chồng mình hơn ai hết, bà đã nhiều lần
khuyên nhủ vua sớm tỉnh ngộ, bãi bỏ xa hoa, loại trừ nịnh thần, chấn chỉnh
triều cương, ban ơn dân chúng; thế nhưng tất cả những lời tâm huyết đó Lê Tương
Dực đều bỏ ngoài tai vì thế tâm trạng hoàng hậu lúc nào cũng bất an, lo lắng về
một tương lai đen tối phía trước.
Tư liệu về Nguyễn Thị
Đạo, hoàng hậu thứ hai của nhà Hậu Lê không có nhiều, sách Đại Việt sử ký toàn
thư hay Khâm Định Việt sử thông giám cương mục chỉ có vài dòng nhắc đến, riêng
sách Đại Việt thông sử cho biết thêm một số thông tin:
“Khâm Đức hoàng hậu
họ Nguyễn, húy là Đạo, người huyện Văn Giang, là con gái viên quản lĩnh họ
Nguyễn. Bà là người có đức hạnh. Khoảng năm Hồng Thuận được lập làm Hoàng hậu.
Sinh được ba hoàng nữ, con cả tên là Thọ Túc, phong là Bảo Phúc công chúa; con
thứ hai là Thọ Nguyên, con thứ ba là Thọ Kính, đều chưa kịp phong.
Năm Hồng Thuận thứ 8
(1516), nhà vua bị Trịnh Duy Sản giết, đem thiêu ở quán Bắc Sứ, bà nghe có biến
loạn, theo nghĩa không muốn sống thừa, bèn nhảy vào lửa ở điện Mục Thanh mà mất.
Lã Thị Nga
Lã Thị Nga, tổ nghề
Làng Lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông, Hà Nội. Tương truyền, bà Lã Thị
Nga, một cô gái làng, từ thời Cao Biền làm tiết độ sứ ở nước ta, đã
đưa đến nghề dệt thô sơ với sản phẩm là lụa mộc mạc, bình dân. Sau này, bà được
phong là Thành hoàng làng. Từ khi có go võng (thế kỷ 16) nghề dệt Vạn
Phúc được cải tiến, phát triển mạnh mẽ và cho ra đời nhiều mặt hàng độc đáo,
cao cấp như gấm, lụa, the, lĩnh... với nhiều hoa văn sinh động, tinh tế
Công
chúa Mai Hoa
Năm
1573, vua Lê Anh Tông bị Trịnh Tùng sát hại cùng với 3 hoàng tử nữa, chỉ còn
lại 2 con là công chúa Ngọc Hoa và hoàng tử Duy Đán. Khi đó hoàng tử Duy Đán
mới 7 tuổi được Trịnh Tùng chọn lên làm vua, lấy hiệu là vua Lê Thế Tông.
Do
Hoàng tử Duy Đán quá nhỏ nên công chúa Ngọc Hoa, với tư cách là chị gái của
Hoàng tử Duy Đàm đã phải nhiếp chính thay em trai.
Trong
thời gian nhiếp chính, công chúa Ngọc Hoa (sau này đổi tên thành công chúa Mai
Hoa) nổi tiếng là một người có tâm hồn từ bi, bác ái, yêu nước, thương dân. Dù
dưới sự kèm cặp của chúa Trịnh, công chúa Ngọc Hoa hầu như không hề có quyền
giải quyết việc nước, nhưng bà vẫn được nhân dân ca ngợi.
Bà
làm nhiếp chính cho đến khi vua Lê Thế Tông trưởng thành, chính thức tiếp nhận
ngôi vị của triều Lê. Vì phải cáng đáng việc quốc gia đại sự, vì trách nhiệm
với nhà Lê, nên đến ngoài 30 tuổi, công chúa Ngọc Hoa vẫn chưa nghĩ đến hạnh
phúc riêng của mình.
Công
chúa Ngọc Hoa là người rất yêu tôn giáo. Thời gian nhiếp chính, một trong những
mong muốn của bà là chấn hưng tôn giáo.
Bị
ảnh hưởng bởi cha mình là vua Lê Anh Tông – một người rất có cảm tình với Thiên
chúa giáo, công chúa Ngọc Hoa đã nhiều lần sai người mang thư sang tận Ấn Độ,
Ma Cao mời các giáo sĩ vào truyền đạo tại nước ta.
Những
giáo sĩ được công chúa Ngọc Hoa mời sang Việt Nam là Alfonsa de Costa và Joao
Gonsalvez de Sa đều được công chúa đón tiếp nồng hậu, thậm chí cấp nhà riêng
cho ở.
Sách
sử Việt Nam và các cuốn sách của nhiều nhà truyền giáo phương Tây từng đến Việt
Nam kể rằng công chúa Ngọc Hoa từng có một câu chuyện tình không thành với giáo
sĩ Pedro Ordonez de Cevallos.
Năm
1590, con tàu của giáo sĩ Pedro khi đi qua khu vực biển Đông thuộc Thái Bình
Dương thì gặp một trận bão và dạt vào vùng biển phía Bắc. Giáo sĩ Pedro và
những người đi trên tàu được đưa về kinh đô An Trường – Thanh Hóa để diện kiến
vua Lê Thế Tông.
Cha
Pedro dáng người cao dáo, thanh thoát, gương mặt tuấn tú, cương nghị, dáng đi
có vẻ của một quý tộc châu Âu. Với vẻ ngoài đó, cộng thêm với việc nhất quyết
không chịu chào mệnh quan triều Nguyễn của ông đã khiến các quan nghĩ cha Pedro
có thể là hoàng tử của một nước châu Âu nào đó.
Ngày
cha Pedro yết kiến vua Lê Thế Tông đúng vào dịp 24/12/1590. Gặp vua, cha Pedro
cũng chỉ bái gối trái để kính chào. Vua Lê Thế Tông thấy thế không hề giận mà
còn tiếp đón cha Pedro rất thân tình.
Vua
Lê có nói với cha Pedro: “Ngài hãy đi gặp công chúa Ngọc Hoa, chị gái ta. Công
chúa rất thích nghe những sự tích tôn giáo. Công chúa ngọc Hoa là người ta yêu
kính như mẹ. Vì vậy ngài đừng làm điều gì phật lòng công chúa, sẽ khiến ta nổi
giận”.
Công
chúa Ngọc Hoa tiếp cha Pedro vào ngày 28/12/1590 với nghi lễ trang trọng. Ngay
khi gặp cha Pedro lần đầu tiên, công chúa Ngọc Hoa đã đem lòng cảm mến vị giáo
sĩ có dáng dấp và phong thái của một hoàng tử.
Buổi
gặp đầu tiên, cha Pedro đã kể cho công chúa Ngọc Hoa nghe rất nhiều về sự ra
đời của chúa Giesu, về Đức mẹ Maria. Trong khi cha Pedro tặng công chúa rất
nhiều vật quý, thì công chúa hỏi thăm rất cặn kẽ về tuổi thơ, về cuộc đời và
những chuyến vượt đại dương mạo hiểm của cha.
Chỉ
trong một buổi, công chúa Ngọc Hoa đã coi cha Pedro là một người bạn thân tình.
Khi chia tay, công chúa nói: “Mỗi ngày, cha hãy vào cung thăm ta một lần và trò
chuyện với cha”.
Những
buổi gặp đầu tiên, giữa công chúa và cha Pedro phải có một thông ngôn, nhưng
sau này khi tạm nói được những câu đơn giản, công chúa Ngọc Hoa đã không mời
thông ngôn vào nữa, vì muốn có thời gian trò chuyện riêng tư với cha Pedro. Có
một lần công chúa hỏi cha Pedro: “Thầy đã có vợ chưa”?
Cha
Pedro trả lời: “Tôi làm linh mục nên theo luật tôn giáo không bao giờ lấy vợ”.
Công
chúa nghe vậy liền tỏ nét mặt buồn bã và nói: “Ôi thật là một luật ác nghiệt”.
Tuy
biết luật lệ tôn giáo là thế, nhưng sau một thời gian gặp gỡ, tình cảm của công
chúa Ngọc Hoa dành cho cha Pedro ngày càng lớn, khiến bà đã gạt bỏ mọi quy định
thông thường của luật lệ phong kiến và luật lệ tôn giáo, ngỏ lời cầu hôn với
cha Pedro:
“Thầy
hãy ở lại đây kết bạn với tôi và truyền đạo ở xứ sở này, đừng về cố hương nữa.
Thực tình tôi ngỏ ý cùng thầy, là vì tôi rất quý mến thầy ngay khi được gặp
thầy, vì thầy tỏ ra lịch thiệp, thông minh, trang nhã. Tôi thực lòng muốn kết
hôn cùng thầy. Tôi nhất định chọn thầy làm chồng tôi”.
Không
chỉ ngỏ lời với cha Pedro, công chúa Ngọc Hoa còn ngỏ ý với vua Lê Thế Tông và
nhờ vua tác thành. Rất yêu quý người chị gái của mình, vua Lê đã gọi cha Pedro
vào và nói: “Ta rất muốn chúng ta sẽ trở thành một gia đình”.
Việc
công chúa Ngọc Hoa ngỏ lời cầu hôn với cha Pedro khiến ông vô cùng khó xử.
Nhưng cha Pedro vẫn quyết từ chối thịnh tình ấy. Cả 3 lần được công chúa ngỏ
lời, ông đều nói: “Tôi đã khấn luật linh mục sống cuộc đời độc thân. Xin công
chúa hiểu cho điều đó”.
Có
một số người đồng hành khuyên cha Pedro hãy chấp nhận lời cầu hôn của công
chúa, để lợi dụng mối quan hệ này tạo điều kiện cho các giáo sĩ sau này vào
truyền đạo. Nhưng cha Pedro không đồng ý. Ông không cho phép mình phá vỡ lời
khấn nguyện của ông trước Chúa.
Tuy
vẫn ngày ngày vào trò chuyện với công chúa, nhưng cha Pedro cũng làm cho công
chúa hiểu được những quy tắc của một linh mục. Ông kể về Chúa cho công chúa
Ngọc Hoa nghe mỗi ngày và lấy ảnh tượng Chúa ra tặng công chúa.
Dần
dần, công chúa hiểu và không còn bắt ép cha Pedro cưới mình nữa. Một ngày, bà
gọi cha Pedro đến, nước mắt lưng tròng: “Tôi đã thưa ý định của tôi với thầy và
tôi vẫn yêu thầy. Nhưng nếu thầy thấy luật Chúa đã dạy giáo sĩ không được lấy
vợ thì thôi, ta không nên cưỡng luật Chúa.
Thầy
không thể kết bạn đời với tôi, nhưng tôi xin được kết bạn đạo với thầy và xin
nhập đạo để cùng thờ phụng Chúa như thầy. Từ nay chúng ta không nói chuyện đời
nữa, chỉ nói chuyện đạo mà thôi”.
Quyết
định theo đạo của công chúa Ngọc Hoa đã đến tai chúa Trịnh. Chúa Trịnh rất giận
dữ vì cho rằng đó là âm mưu của nhà Lê muốn lợi dụng các thế lực bên ngoài để
lấy lại quyền lực. Bằng thủ đoạn của mình, chúa Trịnh đã tịch biên tài sản và
yêu cầu trục xuất cha Pedro.
Biết
mình sắp phải rời khỏi Việt Nam,
cha Pedro đã nhanh chóng truyền đạo cho công chúa Ngọc Hoa và những cung nữ
trong cung. Cha đã rửa tội cho công chúa và đặt tên thánh cho công chúa là
Maria. Từ đó người ta gọi công chúa Ngọc Hoa là công chúa Mai Hoa.
Sau
khi nhập đạo, công chúa Mai Hoa xin vua Lê một khu đất để xây tu viện. Ngày
26/7/1591, lễ khánh thành tu viện diễn ra và được đặt tên là Dòng Đức Bà vô
nhiễm nguyên tội.
Cha
Pedro chính là người cử thánh lễ đầu tiên ở đây, trước khi ông bị đưa ra cửa
Bạng và trục xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam nửa
tháng sau đó.
Công
chúa Mai Hoa sống trong tu viện đến cuối đời, vừa thờ phụng Chúa, vừa ấp ủ mối
tình riêng không thành với vị giáo sĩ người Tây Ban Nha mà bà đã đem lòng
thương nhớ.
Nguyễn Thị
Duệ
Nguyễn Thị Duệ (hay Nguyễn Thị Du; ngoài ra, có
người gọi bà tên Nguyễn Thị
Ngọc Toàn , hiệu
Diệu Huyền), là là tiến sĩ nữ đầu tiên của Việt Nam.
Hiện chỉ biết bà sống vào cuối thế kỉ 16, đầu thế kỉ 17, chưa rõ năm sinh và
mất.
Nguyễn
Thị Duệ, quê tổng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Vốn là người thông
minh, có nhan sắc nên mới hơn 10 tuổi, bà đã được nhiều nhà quyền quí đến xin
hỏi cưới, nhưng bà không thuận. Năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh chiếm kinh
đô Thăng Long, nhà Mạc chạy lên Cao Bằng. Nguyễn Thị Duệ cùng gia đình đi theo.
Là
một người hiếu học, song luật lệ bấy giờ không cho phép con gái được học hành
thi cử, Nguyễn Thị Duệ phải giả trai để dự việc đèn sách. Khoa thi tiến sĩ năm
Giáp Ngọ (1594) bà mang tên giả là Nguyễn Du đi thi và đỗ đầu khi tuổi vừa 20.
Đến khi mở yến tiệc chiêu đãi các tân khoa, vua Mạc Kính Cung thấy vị tiến sĩ
trẻ dáng vẻ mảnh mai, mặt mày thanh tú... nên dọ hỏi. Khi đã rõ chuyện, Nguyễn
Thị Duệ không bị khép tội mà còn được vua khen ngợi...
Sau
đó, vua vời bà vào cung để dạy các phi tần, rồi được tuyển làm phi: Tinh Phi
(Sao Sa) và người ta quen gọi là “Bà Chúa Sao”
Năm
1625, quân Lê - Trịnh tiến lên Cao Bằng diệt nhà Mạc. Nguyễn Thị Duệ vào rừng
ẩn náu, bị quân lính bắt được. Mến tài, vua Lê và chúa Trịnh vẫn cho bà trông
coi việc dạy học trong vương phủ... Năm 70 tuổi, Nguyễn Thị Duệ xin về nghỉ nơi
quê nhà.
Nguyễn
Thị Duệ sống hơn 80 tuổi mới qua đời. Khi mất, người dân địa phương lập đền
thờ, tôn bà làm phúc thần.
Khi
còn làm việc quan, bà rất quan tâm đến việc thi cử, bồi dưỡng nhân tài. Phần lớn
ở các kỳ thi đình, thi hội; bài vở thảy đều qua tay bà chấm chọn. Mỗi tháng đôi
kì, bà cùng các bậc túc nho đến giảng dạy, ôn tập cho các sĩ tử. Ngoài ra, bà
còn xin triều đình cấp nhiều mẫu ruộng tốt, cho canh tác lấy huê lợi, giúp đỡ
học trò nghèo biết chăm chỉ.
Người
ta còn truyền tụng câu chuyện: Thưở hàn vi, anh trai Nguyễn Thị Duệ bị người
trong làng hãm hại. Khi vinh hiển, bà không hề nghĩ đến tư thù.
Một
lần dự cuộc vui, Nguyễn Thị Duệ quen được hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (vợ vua
Lê Thần Tông). Từ đấy, bà thường cùng hoàng hậu đi lễ chùa, gặp các nhà sư
thông tuệ, đạo hạnh; gặp gỡ các sĩ phu có tài, như Giang Văn Minh, Khương Thế
Hiền...để hiểu rõ tình hình trong nước nhằm giúp vua, chúa kịp thời điều chỉnh
chính sách cho phù hợp. Do nhiều công lao, bà được thăng chức “Chiêu Nghi” hiệu
là “Nghi Ái Quan”.
Tuổi
cao, Nguyễn Thị Duệ cáo quan về lại quê nhà, bà dựng am Đào hoa để có nơi đọc
sách và bảo ban các sĩ tử trong làng.
Vua
Lê giao cho bà số thuế hằng năm của tổng Kiệt Đặc để làm bổng lộc; chỉ dành một
ít tiền chi dụng, còn bao nhiêu bà dành hết cho việc công ích và trợ giúp người
nghèo.
Về
sáng tác, Nguyễn Thị Duệ làm nhiều văn thơ, nhưng trải qua bao binh lửa nên
thất lạc hết, đến nay chỉ còn một số trong gia ký, như:
Nữ nhi dù
đặng có lề
Ắt là tay thiếp kém gì trạng nguyên.
Ngô Thị
Lâm
Sử tích kể lại, vào thời điểm gian khó, trước thế lực mạnh từ quân nhà Mạc của Quận Lập, chúa Nguyễn Hoàng (1525 – 1613) nằm mơ thấy một người phụ nữ mặc áo xanh, tay cầm chiếc quạt đến thưa
rằng: “Tướng quân muốn diệt trừ ngụy đảng cần lập kế dụ chúng đến bãi cát ven sông, thiếp sẽ giúp sức trừ được, khỏi phải phiền nhiễu đến dân trong miền”. Nói xong, người phụ nữ buông tay áo ra đi…
Chúa Nguyễn Hoàng tỉnh dậy,
nghĩ bụng: “Chiêm bao thấy người
đàn bà bảo ta phải lập
kế dụ
địch, như vậy
ắt phải
dùng kế mỹ
nhân”.
Đúng vào lúc đó, Chúa nhận một
nàng hầu tên là Ngô Thị Lâm, có nhan sắc và tài đối đáp hơn người.
Ông gọi ngay nàng đến giao nhiệm vụ:
“Đem vàng bạc, kỳ nam đến trại
quân nhà Mạc, tiến dâng các vật báu, xin mở đường
hòa hiếu. Nếu
cần, nàng phải ưng
chịu cho Quận Lập
tư thông, mục đích là làm sao dụ được
Quận Lập
đến đất
Trảo Trảo
để có kế diệt
trừ”.
Nàng Lâm liền mang lễ vật
đến doanh trại địch,
dùng sắc đẹp
làm Quận Lập
mê muội, không nghi ngờ gì hết.
Khi biết mình đã thành công bước đầu,
Ngô Thị Lâm yêu cầu Quận
Lập lập
đàn thề kết
nghĩa: “Minh công làm huynh trưởng,
bản quan của
thiếp làm nghĩa đệ, cùng đồng lòng chung sức may mới tránh khỏi hiềm
thù đánh giết lẫn nhau gây đau thương cho trăm họ”.
Quân Lập gật
đầu ngay lập tức.
Chúa Nguyễn Hoàng liền thực
hiện theo đúng giấc mộng
ngày trước, sai người bí mật đến
khu vực nàng Lâm và Quận
Lập dự
định làm lễ thề,
dựng một
gian miếu tranh, đào hố ngầm
bốn phía, chọn một
số dũng sĩ cầm khí giới ẩn
mình trong hố dùng cỏ lác và cát lấp bên trên ngụy trang.
Đến ngày đã định, nàng Lâm đưa Quận
Lập đến
miếu tranh – cạm bẫy
của chúa Nguyễn – làm lễ thề.
Quận Lập
chủ quan không đề phòng, chỉ dùng một chiếc đò nhỏ
cùng với 30 lính thân hành. Vừa tới
nơi, các binh sĩ của chúa Nguyễn “từ
dưới đất
chui lên” tấn công dữ đội.
Quận Lập
cố gắng
thoát thân, nhưng
rốt cục
phải bỏ
mạng trước kế
hoạch hoàn hảo của
nàng Lâm và chúa Nguyễn
Hoàng…
Nguyễn
Thị Niên
Nguyên
lão tướng Nguyễn Quyện của nhà Mạc sinh được 2 người con gái. Con gái lớn là
Hoàng hậu của Mạc Mậu Hợp. Con gái thứ Nguyễn Thị Niên là vợ tướng Bùi Văn
Khuê. Tháng 8 năm 1592, Nguyễn Thị Niên vào cung thăm chị mình là Hoàng hậu.
Vua Mạc Mậu Hợp nhìn thấy Nguyễn Thị Niên liền bị sắc đẹp của thị Niên lôi
cuốn, nảy sinh tình ý và muốn giữ lại bên mình.
Khi biết Nguyễn Thị Niên là vợ của tướng Bùi Văn Khuê, Mạc Mậu Hợp bèn triệu
Nguyễn Thị Niên vào trong phòng, giữ lại trong cung tới sáng.
Mạc Mậu Hợp dự định giữ Nguyễn Thị Niên lại luôn rồi sẽ triệu tướng Bùi
Văn Khuê lúc này đang trấn thủ ngoài kinh về để giết.
Biết được âm mưu của vua Mạc Mậu Hợp, Nguyễn Thị Niên đã vô cùng sợ hãi. Nguyễn
Thị Niên lén sai người hầu cận mật chạy đi báo cho Bùi Văn Khuê.
Văn
Khuê biết chuyện, bèn đem quân bản bộ tự ý rút về Gia Viễn, đóng binh 1 chỗ,
không chịu vào chầu. Mậu Hợp sai quân đến bức bách để bắt Văn Khuê sai con trai
là Văn Nguyên chạy vào Thanh Hoa, dâng lễ đầu hàng và xin cứu viện.
Bùi
Văn Khuê đã phản Nam triều
mà về với Bắc triều, dầu lúc đó Bắc triều hầu như chẳng còn chút thực lực nào
đáng kể nữa. Hẳn nhiên, lấy chồng thì phải theo chồng, bà Nguyễn Thị Niên cũng
bỏ Nam triều
mà đi.
Sách
Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ tục biên, quyển 18, tờ 1-b) đã chép chuyện vợ
chồng Bùi Văn Khuê từ khi về với Bắc triều như sau:
"Khi
ấy (năm Canh ,Tí, 1600 - ND), bọn Phan Ngạn, Ngô Đình Nga và Bùi Văn Khuê đem
quân lính theo về với họ Mạc, ra lời chiêu an các thành thị để mưu việc lớn,
nhưng bọn Phan Ngạn lại ngờ Bùi Văn Khuê có ý khác, bèn sai người bắn chết Văn
Khuê ở giữa sông. Từ đó, (Phan) Ngạn tự xưng là Tiết chế Sinh Quốc công, (Ngô)
Đình Nga tự xưng là Thái bảo Hoa Quận Công, còn em của Phan Ngạn (chưa rõ tên)
thì xưng là Tiền Bộ dinh Quỳnh Quận công. Khi ra bảng yết thị hoặc lệnh cấm,
chúng dùng niên hiệu Càn Thống của họ Mạc. (Niên hiệu này là của Mạc Kính Cung,
dùng từ năm 1593 đến 1625 - ND). Vợ Văn Khuê là Nguyễn Thị Niên muốn báo thù
cho chồng, vừa khóc vừa nói với quân lính của chồng rằng:
-
Người nào dốc sức đền ơn, giết được (Phan) Ngạn thì sẽ được trọng thưởng. Phan
Ngạn nghe tin, giận lắm. Ngày 1 tháng 6 (năm 1600- ND) Ngạn dẫn quân đến Hoàng
Giang để đánh nhau, bị quân của vợ Văn Khuê bắn chết ở giữa sông".
Các
tác giả sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 31, tờ 4
và 5), sau khi chép chuyện Nguyễn Thị Niên tương tự như trên, còn viết thêm một
Lời chua khá dài như sau:
"Nguyễn
Thị, tên tự là Niên, con gái thứ của tướng nhà Mạc là Nguyễn Quyện. Có một
thuyết nói rằng, Ngạn nghe nói Thị Niên có sắc đẹp, bèn sai người đưa tin, ước
hẹn sẽ kết duyên với nhau. Nguyễn Thị Niên giả vờ nhận lời, rồi chọn hơn mười
người trẻ tuổi, đẹp trai, đóng giả con gái, làm "thị tì" cho mình và
hẹn với họ rằng: hễ ai mà giết được Phan Ngạn thì sẽ trọng thưởng. Cùng lúc đó,
Nguyễn Thị Niên vì muốn cho Phan Ngạn không nghi ngờ gì nên hẹn với y rằng:
-
Đêm ngày nọ, tháng nọ... sẽ đi thuyền lớn đến hội kiến. Phan Ngạn hí hửng lắm.
Đến hẹn, Nguyễn Thị Niên ăn mặc lộng lẫy, đi thuyền ngược dòng, từ Hoàng Giang
ra Nha Giang. Ngạn sai người do thám, thấy trong thuyền chỉ đầy những gái đẹp
nên không còn nghi ngờ gì cả, vội ra ám hiệu cho thuyền tuấn tiễu bơi nhanh ra
giữa sông, cắm neo gần chỗ đậu thuyền của Nguyễn Thì Niên. Sắp đặt đâu đó rồi,
Ngạn mừng rỡ, lấy thuyền lớn đến gặp gỡ Nguyễn Thị Niên. Khi Ngạn đã sang
thuyền mình rồi, Nguyễn Thị Niên ra dấu cho thuyền mình lui đần, còn "thị
tì" thì đứng làm hai hàng để hầu rượu. Đúng lúc cuộc vui đang hồi nồng nàn
nhất, đám "thị tì" rút dao giấu sẵn trong tay áo ra chặt đầu Phan
Ngạn, rồi nhân lúc đang đêm, nước rút, gió thổi mạnh, bơi thuyền như bay mà về,
khiến cho bọn lính tuần tiễu của Phan Ngạn cũng không hay biết gì cả. Đến nhà,
Nguyễn Thị Niên đem đầu Phan Ngạn ra làm lễ tế chồng ở bàn thờ, xong, dặn hai
con đến hành tại ở An Trường để xin quy thuận vua Lê, còn mình thì lao xuống
sông tự tử".
Trịnh
Thị Ngọc Trúc
Sử
sách nói rằng năm 1630, chúa Trịnh Tráng đem con gái Trịnh Thị Ngọc Trúc gả cho
vua Lê Thần Tông. Điều đau lòng trong câu chuyện này là bà Ngọc Trúc chính là
vợ góa của Cường quận công Lê Trụ (chú họ vua Thần Tông), là người đàn bà đã có
bốn con. Dưới sự sắp đặt kỳ quặc (và tàn nhẫn?) của cha, bà phải tái hôn, lên
ngôi hoàng hậu. Bà hoàng khi ấy không chỉ có vai vế là trưởng bối mà còn hơn
vua Thần Tông đến mười hai tuổi. Còn Lê Thần Tông khi lấy bà Ngọc Trúc, cả
triều đình đều can, nói: “Đã trót rồi, lấy gượng vậy. Từ đó trời mưa dầm không
ngớt”. (Theo Đại Việt sử ký toàn thư)
Bà
có người con gái với vua Thần Tông là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên,
pháp danh Diệu Tuệ. Sau này cũng giỏi văn thơ chữ nghĩa.
Đương
thời, bà là bạn thơ với Trạng nguyên lễ sư Nguyễn Thị Duệ, sử chép rằng
hai bà thường cùng bàn luận về thơ văn, Phật Pháp trong khắp các chùa chiền
vùng Kinh Bắc lúc bấy giờ.Thời điểm chùa Ninh Phúc tổ chức khuyến hoá thập
phương để trùng tu tôn tạo, dịp này bà hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc đã đóng
góp công đức rất nhiều. Hưởng ứng việc làm với bà, cả nhà vua và công chúa cũng
hiến ruộng (tư điền) vào chùa làm công quả.
Năm
1642, vua Lê Thần Tông mất, hoàng hậu cùng công chúa đến tu và ở hẳn chùa Bút
Tháp.Năm 1660, bà mất tại đây.
Chúa Bà Nguyệt Hồ
Chúa
Bà Nguyệt Hồ là bà chúa bói dưới thời Hùng Vương (có tài liệu lại nói chúa cũng
giáng thế dưới thời Lê Trung Hưng, lại có tài liệu nói bà là con gái nuôi của
Vua Hùng). Tương truyền rằng, chúa bà vốn là người thôn nữ ở đất Bắc Giang .
Sinh ra trong một nhà có 3 chị em gái , chị cả là bà Lê Hoa một nữ tướng thời
tiền Lê sau này khi đánh trận ở Hữu lũng Lạng sơn và thác ở đó . Xác của bà
trôi về Đền Ba cầu . Người chị thứ 2 của bà là Như Hoa thác ở bên cạnh gốc cây
làng Muổng . Tương truyền khi dân làng đi làm đồng về thấy có người phụ nữ chết
dựa vào gốc cây , vì là buổi trưa nên dân làng để bà nằm đó , buổi chiều khi ra
chỗ gốc cây thì xác bà bị mối xông thành một ụ đất . Từ đó nước giếng mỏ Găng (
lấy nguồn từ con sông Thao ) cũng tự nhiên hết nước , tiếng gà buổi sáng cũng
không còn cất tiếng gáy . Người dân làng được báo mộng là ở đất của họ có vị
tướng hiển thánh nên dân làng lập miếu thờ bà . Sau này vua về phong sắc nữ
tướng cho bà .
Người
em út là Nguyệt Hồ lúc đó mới 14 tuổi , từ nhỏ đã sống trong cảnh cơ hàn. Nhưng
bà là người rất tốt bụng, thảo hiền, có lòng nhân hậu, vì vậy, Lão Tổ Quỷ Cốc
Tử Tiên Sinh thấy bà là người xinh đẹp đã nhận bà làm con nuôi và truyền dạy
cho bà những đạo pháp của mình ( thuật chiêm tinh, bói toán) và đặt tên hiệu
cho bà là Nguyệt Hồ (hoặc có nơi gọi là Huyết Hồ ). Sau khi đã học được phép
của Tiên Sinh, bà dành hết cuộc đời mình để làm phúc cho dân lành. Chẳng bao
lâu, danh tiếng đồn của Chúa Nguyệt Hồ đã
lan tới kinh đô, đức vua bèn truyền chỉ, mời chúa về kinh đô ( theo một số tài
liệu ghi thì Vua Hùng nhận bà làm con nuôi), mỗi lần ra trận, vua đều cho người
đến thỉnh cầu, nhờ chúa bà bấm đốt tay, xem lành dữ và hỏi chuyện quân cơ, mưu
lược, bày binh bố trận . Trong lúc đó Quỷ cốc tiên sinh lại là người Tàu đối
địch với người Nam
, thấy bà giúp vua nên tìm cách đem bà đi Yểm vàng ( chôn sống giữ của ) . Rồi
Lập miếu thờ bà . Tuy mất nhưng chúa bà luôn hiển linh xem bói giúp người
Quận Hoa công chúa Trịnh Thị Ngọc Dai.
Xưa kia Quận Hoa công chúa là
con của chúa Trịnh. Khi đó, chúa Trịnh bị ốm nặng, các ngự y trong triều đi
khắp nơi các vị thuốc để chữa trị cho chúa mà không khỏi, sau này đã tìm về
làng Thạch Thán (xã Thạch Thán xưa kia gọi là làng) tìm đến gia đình cụ Bùi Tất
Tố - một gia đình làm thuốc chữa bệnh cứu người có tiếng trong vùng. Cụ Tố đã
được các ngự y mời vào phủ để chữa bệnh cho chúa Trịnh.
Sau một
thời gian bốc thuốc cho chúa Trịnh, bệnh tình của chúa đã thuyên giảm và khỏi
hẳn. Chúa Trịnh cảm phục y đức của cụ Bùi Tất Tố. Để cảm ơn người đã cải tử
hoàn sinh cho mình chúa Trịnh đã quyết định gả Quận Hoa công chúa cho người con
trai của cụ Bùi Tất Tố. Người con trai của cụ Tố khi đó là ông Bùi Tiến Triều.
khi đó cụ Triều cũng đã có vợ,
nhưng vì chúa đã gán ghép nên không dám trái lời. Khi trở thành nàng dâu của
gia đình họ Bùi và dân làng Thạch Thán công chúa sống rất ôn hòa với mọi người,
đặc biệt rất quan tâm đến dân nghèo. Bà chúa ban cho dân làng nơi đây mấy mẫu
ruộng để làm ăn.
Không
chỉ ban phát ruộng đất cho người dân Thạch Thán, chính công chúa đã cứu giúp
cho người dân nơi đây thoát khỏi án tử mà chúa Trịnh ban hành. "Cách đây
khoảng 300 năm trước, trong làng Thạch Thán dòng họ Phan có nhiều người làm
quan trong triều, đã học được cách đúc tiền. Vì thế, về làng lén lút mở lò đúc
tiền bằng kẽm để sử dụng. Chúa Trịnh biết tin vô cùng tức giận đã cho quân lính
về tận làng để điều tra làm rõ.
Theo như
quy định thời đó, người dân ai dám cả gan đúc tiền sẽ bị quy là tội phản quốc.
Vì thế, chúa Trịnh đã hạ lệnh tru di cả làng, dòng họ Phan trực tiếp đúc tiền
trái phép sẽ bị tru di tam tộc. Khi biết tin đó, công chúa đã trở về phủ để tâu
với vua cha, xin cho mọi người dân ở nơi đây được thoát tội chết. Nhờ đó mà án
tử của dân làng và dòng họ Phan mới được xóa bỏ
Nguồn Vietnamnay.com ; Vtc.vn ; newvietart.com ; petrotimes.vn ; baodanang.vn
; kenhsinhvien.net ;kyluc.vn ; phunutoday.vn; maihoa.vn; vinhaonline.com;
trieuxuan.info; vanhoabacgiang.vn; baobacgiang.com.vn; vanban.hanoi.gov.vn;
vnpost.vn; giacngo.vn; thivien.net; vietbao.vn; hoilhpn.org.vn;mantico.hatvan.vn; catruthanglong.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét