Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

11 thg 1, 2014

Những người phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam (5)

Nguyễn Thị Minh Khai -Nữ chiến sĩ cộng sản Việt Nam đầu tiên

Nguyễn Thị Minh Khai là nữ chiến sĩ tiền bối của phong trào cộng sản Việt Nam. Cô sinh năm 1910 tại Vinh (Nghệ An), năm 1927 gia nhập Tân Việt cách mạng Đảng. Năm 1929 thoát ly gia đình đi hoạt động cách mạng ở Trung Hoa. Năm 1935 vào học trường Đại học Phương Đông tại Liên Xô cũ, cùng với Lê Hồng Phong là đại biểu chính thức của Đảng Cộng sản Đông Dương tham dự Đại hội VII Quốc tế cộng sản.




Năm 1937 về nước hoạt động. Sau khi Khởi nghĩa Nam kỳ thất bại, cô bị giặc Pháp bắt năm 1940 và bị thực dân Pháp kết án tử hình và bị xử bắn tại Ngã ba Giồng, Hóc Môn năm 1941.

Nguyễn Thị Chiên -Nữ anh hùng đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam

Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930. Trong kháng chiến chống Pháp, bà đã xây dựng và chỉ huy đội nữ du kích Tán Thuật (Thái Bình). Hoạt động hiệu quả, táo bạo dũng cảm, nổi tiếng với chiến tích “tay không bắt giặc”, bà được tặng thưởng nhiều Huân chương, Huy chương chiến công và năm 1952 được phong là nữ Anh hùng đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam.

Đinh Thị Vân - Nữ sĩ quan tình báo giỏi nhất 
(1916- 1995)


Đại tá Đinh Thị Vân tên thật là Đinh Thị Mậu, xuất thân trong một gia đình Nho học ở làng Đông An, xã Xuân Thành – Xuân Trường – Nam Định. Trong gia đình, Đinh Thị Mậu là con gái út. Trên có hai anh trai là Đinh Lai Hạp và Đinh Thúc Dự. Chính hai người anh này đã giác ngộ và dìu dắt cho em gái trong những buổi đầu hoạt động cách mạng.
Trước khi chuyển sang hoạt động tình báo, Đinh Thị Vân đã lập gia đình. Tên Vân chính là tên chồng. Cả hai vợ chồng cùng tham gia công tác cách mạng nhưng ít khi có dịp ở gần nhau. Để chiến đấu vì tương lai của cả đất nước, bà đã tự nguyện hy sinh hạnh phúc riêng tư của mình.
Trước năm 1954 bà là huyện ủy viên Xuân Trường và công tác trong Hội phụ nữ cứu quốc huyện rồi làm Hội trưởng Hội Phụ nữ tỉnh Nam Định. Sự nghiệp của bà rẽ sang một hướng khác vào năm 1954 khi bà được điều về Cục Nghiên cứu Tổng Tham mưu (tiền thân của Tổng cục II).
Khi dòng người công giáo ồ ạt di cư vào Nam, cấp trên quyết định cử bà hòa vào dòng người đó để vào đặt cơ sở phục vụ cho những nhiệm vụ sau này. Trong hoạt động tình báo, Đinh Thị Vân đã gây dựng được một lưới tình báo hiệu quả với những cơ sở có mặt từ văn phòng của Nguyễn Cao Kỳ tới các phòng ban của quân đội Sài Gòn.
Nhờ thế đã cung cấp được nhiều tin tức quý giá cho quân ta. Tiêu biểu trong số đó là nắm được và báo cho Trung ương cục miền Nam bản kế hoạch chiến dịch Gian-xơn-xity của Mỹ - Ngụy trước khi nó được thực hiện. Do đó, trận càn này Mỹ Ngụy huy động lực lượng lớn nhất, phương tiện hiện đại nhất nhưng lại bị thiệt hại nặng nề nhất trong chiến lược chiến tranh cục bộ. 

Năm 1969, do sức khỏe giảm sút, Đinh Thị Vân được tổ chức đưa ra Bắc để điều trị và ở lại miền Bắc làm công tác huấn luyện tình báo. Một năm sau, ngày 25/8/1970, bà được Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân để biểu dương công lao của bà.





Chị Võ Thị Sáu - Nữ Anh hùng lực lượng vũ trang trẻ nhất




Chị Võ Thị Sáu (1933-1952) xứng đáng với danh hiệu này. Ngay từ năm 15 tuổi, chị đã hăng hái tham gia cách mạng, lập nhiều chiến công vang dội. Tháng 5/1950, bị giặc Pháp bắt, tra tấn dã man nhưng chị vẫn giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng. Năm 1952, giặc đày chị ra Côn Đảo và hành quyết. Năm 1993, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trân trọng truy tặng chị Huân chương chiến công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.

Lê Thị Xuyến - Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đầu tiên:

Bà Lê Thị Xuyến, sinh năm 1909 tại xã Đại Hòa, Đại Lộc, Quảng Nam là Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam từ 1946-1956.

Nguyễn Thị Định - Nữ tướng duy nhất của Việt Nam ở thế kỷ XX:

Bà Nguyễn Thị Định, sinh năm 1920 tại tỉnh Bến Tre. Năm 1974 là Thiếu tướng, Phó tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam. Sau ngày đất nước thống nhất, bà là nữ Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước (nay là Phó chủ tịch nước) đầu tiên của Việt Nam, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

Bà Nguyễn Thị Thập - Người phụ nữ làm Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam lâu nhất:

Bà Nguyễn Thị Thập, sinh năm 1908 tại Long Hưng, Châu Thành, Bến Tre. Có 18 năm là Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (1956-1974). Bà cũng là nữ đại biểu Quốc hội nhiều khóa nhất (khóa 1-khóa 6) 36 năm làm đại biểu Quốc hội, nữ Phó chủ tịch Quốc hội đầu tiên của Việt Nam.

Bà Nguyễn Thị Bình - Người nữ Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của Việt Nam:

Bà Nguyễn Thị Bình (Nguyễn Châu Sa), sinh năm 1927 tại tỉnh Quảng Nam. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, người đại diện cho Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký hiệp định hòa bình về Việt Nam tại Pa-ri năm 1973. Bà cũng là người phụ nữ Việt Nam thứ hai giữ chức vụ phó nguyên thủ và là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên giữ chức vụ Phó chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ  (1904-2010)- Người mẹ có nhiều con hy sinh nhất:

Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ, sinh năm 1904 tại xã Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam. Mẹ có 10 con (9 con trai, 1 con rể) và 2 cháu nội hy sinh trong chiến tranh.
Cuộc đời mẹ đã trở thành huyền thoại, thành tượng đài bất hủ của tinh thần yêu nước, sự hy sinh vô bờ bến cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Mẹ Thứ được chọn làm nguyên mẫu cho công trình tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng  - một công trình văn hóa cấp quốc gia, ghi nhớ công ơn của các bà mẹ Việt Nam anh hùng tại Núi Cấm (thôn Phú Thạnh, xã Tam Phú, TP Tam Kỳ, Quảng Nam).



Nguyễn Thị Bảy - Hoàng hậu đỏ


Nguyễn Thị Bảy-Tỉnh ủy viên Tỉnh Chợ Lớn, Bí thư quận ủy, Trưởng ban khởi nghĩa Cần Giuộc
Vào khoảng 3 giờ chiều ngày 14/12/1940, Nguyễn Thị Bảy, Trần Chí Nam trên đường đi công tác định sang kinh Hàn tước khẩu súng hơi của tên Hương chánh Gần, qua bến đò làng Long Đức Đông, cách thị trấn Cần Giuộc chừng một cây số, bất ngờ gặp một toán lính Lê Dương đi càn quét. Biết bị lộ, hai người tạt xuồng vào mé bờ. Trần Chí Nam nhảy lên bờ cùng với một khẩu súng, liền bị bọn lính Lê Dương bắn rượt, hy sinh tại chỗ. Còn một mình, chị Bảy nhảy xuống sông, ráng sức nhận chìm chiếc xuồng để thủ tiêu tài liệu. Địch nhảy xuống, bắt lấy chị. Chúng ném chị lên ghe ông Mười Nhứt, bắt ông chở thẳng chị về đồn rồi thủ tiêu luôn ông Mười…
Do có bọn tề nhận mặt, địch biết rõ danh phận của chị Nguyễn Thị Bảy . Ngay khi bị bắt, địch đánh đập chị vô cùng tàn nhẫn. Chúng lấy súng đánh vào đầu chị, máu tuôn ướt đẫm. Chị lấy máu mình bôi vào bọn chúng nói: “Tôi muốn cho các người thấy tôi cũng như các người, cũng đầu đen máu đỏ, là người Việt Nam da vàng như nhau. Tôi chỉ là một người đàn bà yêu nước, các người đánh tôi như thế này không thấy nhục sao?!”.
Từ Cần Giuộc, chúng giải chị Bảy về bót Pô-lô… Chúng dùng đủ cực hình dã man tra tấn chị. Mỗi lần bị nhục hình, chị trừng mắt nhìn thẳng mặt quân thù, đanh thép nói: “Chúng bây là bọn người cướp nước và bán nước! Vì vậy, chúng tao là những người Cộng sản có nhiệm vụ cùng nhân dân đánh đổ bọn bây, giành lại nền độc lập cho đất nước”.
Trước sự bất khuất của chị Bảy, bọn lính bót Pô-lô đành bó tay khuất phục. Chúng đặt cho chị biệt danh “Hoàng hậu đỏ”, chuyển chị qua khám Phú Mỹ- nơi biệt giam những nữ tù nhân để chờ ngày đưa ra tòa án quân sự kết án. Chị Nguyễn Thị Bảy thường căn dặn các đồng chí: “Sớm muộn gì địch cũng xử tử tôi. Chị em cứ mạnh dạn đấu tranh, có chuyện gì tôi nhận hết!”.
Sau 4 tháng bị giam giữ, chị Bảy bị kết án tử hình. (Chị Nguyễn Thị Bảy và Nguyễn Thị Minh Khai là hai trường hợp duy nhất lãnh án tử hình trong danh sách 100 nữ tù chính trị bị kết án). Hôm ra tòa, chị Bảy vẫn lạc quan, bình tĩnh. Chị ôm chặt các bạn tù lần cuối cùng, không quên dặn dò: “Các đồng chí ở lại, ráng đoàn kết đấu tranh, để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên!”.

Nguyễn Thị Suốt (1906 - 1968)

Bà được gọi với tên thân mật là Mẹ Suốt là một nữ anh hùng lao động trong Chiến tranh Việt Nam, người đã lái đò chở bộ đội, thương binh, đạn dược qua con sông Nhật Lệ trong những năm 1964 - 1967.
Mẹ sinh năm 1906 tại thôn Mỹ Cảnh, xã Bảo Ninh, thị xã Đồng Hới, Quảng Bình, trong một gia đình ngư dân nghèo, thuở nhỏ đã phải đi ở suốt 18 năm. Sau Cách mạng tháng 8, Mẹ mới lấy chồng, làm nghề chèo đò kiếm sống. 
Năm 1964, sau Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, Mỹ bắt đầu đem quân đánh phá miền Bắc. Miền đất Quảng Bình là một trong những trọng điểm đánh phá của máy bay và hải quân Mỹ, với mục đích nhằm ngăn chặn việc chi viện của miền Bắc cho lực lượng cách mạng miền Nam. Lúc đó, mẹ đã 60 tuổi nhưng vẫn xung phong nhận công việc chèo đò chở cán bộ, thương binh và vũ khí qua sông, giữ vững thông tin liên lạc giữa hai bờ. Kể từ đó, trong suốt những năm 1964 - 1966, mẹ vẫn giữ vững nhiệm vụ của mình, đã chèo hàng trăm lượt ngay cả những lúc máy bay Mỹ ném bom oanh tạc ác liệt. Mẹ được những người cán bộ và bà con gọi với tên quen thuộc Mẹ Suốt. Tổng cộng ước tính mỗi năm mẹ Suốt qua lại đến 1400 chuyến. 
Trong Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn quốc năm 1966 tổ chức ở miền Bắc, mẹ Suốt được mời tham dự. Ngày 1 tháng 1 năm 1967, mẹ được phong tặng danh hiệu Anh hùng ngành Giao thông vận tải trong chống Mỹ cứu nước.
Cuối năm 1968, khi chiến tranh trở nên ác liệt hơn, mẹ ngừng công việc chèo đò, di chuyển lên vùng cao hơn. Ngày 11 tháng 10 năm 1968, trong một lần đi ở bến đò Bảo Ninh mẹ Nguyễn Thị Suốt hy sinh trong một trận bom bi oanh tạc Mỹ.
 Mẹ Suốt đã góp phần xứng đáng của mình trong chiến công chung của quân dân Quảng Bình. Hình ảnh mẹ sống mãi trong lòng nhân dân Quảng Bình và nhân dân cả nước. Mẹ là biểu tượng của Chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là tấm gương tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam anh hùng. Chiến công của mẹ gắn liền với bến đò ngang thuộc địa phận thôn Trung Bính, xã Bảo Ninh qua Hải Đình, Đồng Hới. Cái tên "Bến đò Mẹ Suốt" rất đỗi thân thương, gần gũi, rất đỗi tự hào. 



Nguyễn Thị Bắc (1908 – 1943)

 Tục thường gọi là Cô Bắc, nữ chiến sĩ tham gia cuộc khởi nghĩa Yên Bái 1930. Cô sinh tại phố Thọ Xương, phủ Lạng Thương (nay là tỉnh Bắc Giang). Cô con ông Nguyễn Văn Cao và bà Nguyễn Thị Lưu. Ông Cao tham gia phong trào Đông kinh nghĩa thục, bị Pháp đày ra Côn Đảo. Năm 18 tuổi Cô cùng em ruột là Nguyễn Thị Giang, hay còn gọi là Cô Giang, tham gia tổ chức yêu nước Việt Nam dân quốc của Nguyễn Khắc Nhu. Sau gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng.

Trong khởi nghiã Yên Bái Cô Bắc được giao phụ trách công tác tuyên truyền, binh vận và giao liên. Chính cô Bắc đã cùng một số phụ nữ khác đưa bom từ làng Xuân Lũng (huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ) lên tàu lửa đi Yên Bái để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa tháng 2-1930 cuả Việt nam Quốc dân Ðảng. Sau khi cuôc khởi nghĩa Yên Bái do Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học lãnh đạo bị thất bại, Cô bị bắt cùng các đồng chí, vẫn hiên ngang, bất khuất trước Hội đồng đề hình, ngày 28.3.1930 tại Yên Bái. Nguyễn thị Bắc đã tỏ rõ là một người Anh thư có khí phách kiên cường, cô đã mắng giặc Pháp trước hội đồng đề hình với câu nói nổi tiếng: ’’Các người hãy về ngay nước Pháp mà kéo đổ tượng Jeanne d’Arc đi thôi!’ (Jeanne d'Arc là một nữ anh hùng Pháp), khiến người Pháp phải kiêng nể tinh thần bất khuất của người Phụ nữ Việt Nam. Bị kết án 5 năm cấm cố, năm 1936, cô được trả tự do. Cô đã cùng chồng là Phạm Quang Sáu, cũng là một yếu nhân của Việt Nam Quốc dân đảng, mở cửa hàng lấy tên là Bôvô ở thị xã Bắc Ninh để làm nơi liên lạc với các nhà yêu nước. Nguyễn Thị Bắc qua đời năm 1943.


Cô Giang

Nguyễn Thị Giang sinh năm kỷ Dậu (1909) tại thị xã Phủ Lạng Thương, thuộc tỉnh Bắc Giang, Bắc Việt. Nhà ba chị em gái, cha mẹ đặt tên theo tên tỉnh: chị là Bắc, rồi Giang, út là Tỉnh.
Trong khi Tỉnh còn măng sữa, cô Bắc và cô Giang đã lớn khôn, nhan sắc tuy không vẹn mười nhưng gọn gàng xinh xắn. Cô Bắc chín chắn, nói năng đanh thép, cô Giang có phần lanh lợi, tháo vát hơn, cả hai đều ngay thẳng và dạn dĩ.
Sau khi học xong lớp nhất, Cô Giang cùng chị là Cô Bắc (Nguyễn Thị Bắc) được nhà yêu nước Nguyễn Khắc Nhu (tức Xứ Nhu) dìu dắt rồi kết nạp vào tổ chức Việt Nam Dân Quốc
Ngày 25 tháng 12 năm 1927, nhóm trí thức trẻ trong Nam Đồng thư xã đứng ra thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sau đó, đảng này sáp nhập với Việt Nam Dân Quốc . Nhờ việc sáp nhập này, Chủ tịch Việt Nam Quốc Dân Đảng là Nguyễn Thái Học có dịp làm quen với Cô Giang. Hợp lòng nhau, vào một buổi chiều từ Phú Thọ về xuôi, hai người ghé vào Đền Hùng, sau khi hội đàm với các đồng chí của mình, cả hai vào đền thờ Tổ để cùng thề hẹn...
Theo một Ủy viên trong Việt Nam Quốc Dân Đảng là nhà văn Nhượng Tống, thì trong buổi ấy, Cô Giang đã cố xin Nguyễn Thái Học giao cho một khẩu súng lục, và hứa rằng “nếu Học chẳng may chết vì nước, thì Giang cũng xin lấy khí giới này mà chết theo chồng!.  Đứng trong hàng ngũ Việt Nam Quốc Dân Đảng, Cô Giang được cử giữ chức Tổng thư ký của đảng. Sau, cô cùng chị là Cô Bắc được cử phụ trách việc truyên truyền, làm binh vận và liên lạc giữa các cơ sở đảng ởBắc Giang, Bắc Ninh, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Yên Bái... Và bất cứ ở nơi đâu, hai chị em cô đều hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc.
Cuộc khởi nghĩa đã nổ ra nhiều nơi (khi ấy Cô Giang được phân công chỉ huy mặt trận tỉnh Bắc Ninh), nhưng nhanh chóng bị thất bại.  Lãnh tụ Nguyễn Thái Học cùng nhiều đồng chí nòng cốt của ông (trong số đó có cả Cô Bắc) đều bị đối phương bắt được. Nghe tin vị hôn phu của mình bị bắt (ngày 20 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cổ Vịt (Chí Linh, Hải Dương). Cô Giang đã nghĩ đến kế hoạch táo bạo là tấn công nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội) để giải thoát cho Nguyễn Thái Học và các người khác.
Kế hoạch chưa kịp thực hiện, thì ngày 16 tháng 6 năm 1930, Cô Giang nghe tin nhà cầm quyền Pháp đã đưa Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí của ông từ Hà Nội lên Yên Bái, để xử chém vào ngày hôm sau (17 tháng 6).
Tức thì, Cô Giang cải trang, giáu khẩu súng lục trong người rồi đi tàu hỏa lên đó. Xem xử xong, cô lặng lẽ trở về phòng trọ viết hai bức thư tuyệt mệnh trên trang giấy khổ nhỏ, bằng bút chì xanh. Lá thư thứ nhất cô gửi cho cha mẹ anh Nguyễn Thái Học, còn lá thứ hai cô gửi cho người chồng nơi chín suối. Viết xong thư, Cô Giang ra chợ mua mấy vuông vải trắng, thắt ngang đầu để tang chồng, rồi đáp tàu hỏa về Vĩnh Yên, quê Nguyễn Thái Học, ngay buổi chiều tối hôm đó.
Tờ mờ sáng ngày 18 tháng 6 năm 1930, cô về làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ Vĩnh Tường (nay thuộc Vĩnh Phúc) để lạy tạ cha mẹ chồng (ông Nguyễn Văn Hách và bà Nguyễn Thị Quỳnh), tháo chiếc đồng hồ có khắc chữ "G" tặng cho Nguyễn Văn Lâm, em trai Nguyễn Thái Học và từ giã mọi người.

Trên đường đi cô ghé quán trà bên gốc cây đề, thuộc Xóm Mới, xã Đông Vệ giáp quốc lộ số 2, cách làng Thổ Tang ước chừng một cây số. Sau khi uống bát nước trà xanh, từ biệt bà chủ quán, cô đến đứng dưới gốc cây đề, mắt nhìn về hướng làng Thổ Tang và tự kết liễu đời mình bằng khẩu súng lục mà Nguyễn Thái Học tặng cô ở đền vua Hùng ngày nào.

Bà Thạch Thị Thanh (1909-1972)

Bà Thạch Thị Thanh - Người phụ nữ Kh’mer, Người Mẹ, Người Bà. Bà là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Hội Liên Hiệp Phụ nữ Giải phóng Miền Nam Việt Nam, Đảng viên Đảng Nhân dân Cách Mạng Việt Nam năm 1961 (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Bà sinh năm 1909 trong một gia đình nông dân nghèo dân tộc Kh’mer ở huyện Cầu Kè, Tỉnh Trà Vinh.
Lúc nhỏ, Bà phải đi ở đợ cho địa chủ để kiếm sống. Cách mạng Tháng 8 thành công, gia đình Bà được cấp ruộng đất, thoát cuộc sống nghèo đói, tối tăm. Mang nặng công ơn đối với cách mạng, Bà luôn cùng bà con Việt - Kh’mer ở địa phương đấu tranh chống kẻ thù để giải phóng xóm làng, phum sóc và động viên chồng con tham gia công tác kháng chiến. Đặc biệt từ sau năm 1954, Bà là một trong những người tiêu biểu ở địa phương tích cực đấu tranh chống Mỹ - Ngụy.
Từ năm 1954 đến 1960, trong lúc chính quyền Ngô Đình Diệm lê máy chém đàn áp phong trào yêu nước của nhân dân, giết hại những người kháng chiến cũ, gia đình Bà vẫn một lòng với cách mạng, hết lòng nuôi dưỡng, che dấu cán bộ.
 Từ sau phong trào Đồng khởi 1960 đến 1972, Bà Thạch Thị Thanh liên tục tham gia các công tác cách mạng: Ủy viên Ban cán bộ phụ nữ, Trưởng ban đấu tranh chính trị của xã, Trưởng ban đấu tranh chính trị của huyện, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam.
 Suốt 16 năm, từ 1954 đến 1972, Bà đã tổ chức và tham gia trên 400 cuộc đấu tranh chính trị trực diện, trong đó có nhiều cuộc giằng co quyết liệt, chống địch tàn phá chùa chiền, phum sóc, chống bắt lính, đôn quân, đòi cho sư sãi được yên ổn tu hành và cho đồng bào được tự do đi lại làm ăn… Trong những năm từ 1961 đến 1971, địch tiến hành “Bình định” khốc liệt, Bà vẫn bám dân, bám đất, lãnh đạo bà con kiên trì đấu tranh chống mọi hành động tàn bạo của địch, cùng các gia đình có người thân bị bắt đi lính, kêu gọi hàng chục con em trở về với gia đình.
Quá trình hoạt động, Bà đã 4 lần bị địch bắt giam, 3 lần bị giặc bắn bị thương, 1 lần bị bắt trấn nước suốt ngày, Bà không nao núng. Được thả, Bà lại tiếp tục đấu tranh.
Bà còn góp công to lớn trong cuộc xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang ở xã nhà. Riêng Bà đã phát triển được 26 hội viên nông hội, 17 hội viên phụ nữ, xây dựng được 3 tổ xung kích đấu tranh chính trị làm nòng cốt, duy trì 1 tổ đổi công gồm 30 tổ viên. Bà cũng đã nhiều lần dẫn du kích đánh đồn, vận động nhân dân giúp đỡ bộ đội và đã tiễn 2 người con thân yêu lên đường kháng chiến.
Đầu tháng 4/1972, khi phong trào tấn công và nổi dậy của quân dân ta bùng nổ, mặc dù tuổi cao sức yếu, Bà vẫn tích cực cùng chính quyền cách mạng lãnh đạo đồng bào bao vây đồn bót, phá thế kềm kẹp của địch. Ngày 12/07 trong khi địch ném bom, bắn phá dữ dội để dọn đường xua quân, giải tỏa đồn R đang bị quân ta vây chặt, Bà đã dũng cảm băng qua bom đạn ác liệt, chở xuồng đưa du kích qua sông đánh địch. Xong nhiệm vụ, khi trên đường về, gặp lúc địch ném bom, Bà đã anh dũng hy sinh.
Bà Thạch Thị Thanh đã được Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Trà Vinh và Tây Nam Bộ tặng nhiều Bằng khen, được Trung ương Hội LHPNGMN tặng danh hiệu “Mẹ tiên tiến”, được Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam công nhận “Chiến sỹ thi đua đấu tranh chính trị toàn miền Nam” trong những năm từ 1963 – 1966 và được thưởng Huân chương Giải phóng hạng 2.
63 tuổi đời, 27 năm tham gia công tác cách mạng, Bà Thạch Thị Thanh đã nêu tấm gương sáng về lòng trung thành với cách mạng, gắn bó mật thiết với nhân dân cùng ý chí chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc.

Lê Thị Xuyến (1909 – 1996)

 Là một nhà cách mạng, một nhà hoạt động xã hội Việt Nam. Bà là chủ tịch đầu tiên của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (1946-1956), bà cũng là một trong những nữ Đại biểu Quốc hội đầu tiên của Việt Nam (1 năm 1946). Tại Quốc hội khóa I, là đại biểu nữ duy nhất được bầu vào Ban Thường trực Quốc hội.
Bà sinh ngày 9 tháng 12 năm 1909 tại làng Thạch Bộ, xã Đại Hòa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Học xong bậc sơ học yếu lược ở trường Mỹ Hoà, trường nữ sinh Hội An, bà học tiếp tại Trường Đồng Khánh, Huế.
Năm 1928, bà tốt nghiệp bậc Thành Chung sau đó lại đỗ bằng sư phạm và được giữ lại làm giáo viên của Trường Đồng Khánh. Cùng năm đó bà kết hôn với nhà trí thức cách mạng nổi tiếng Phan Thanh, từ đó bà tham gia hoạt động cùng chồng trong một số tổ chức như: Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Xã hội Pháp tại bắc đông dương, Hội Truyền bá Quốc ngữ,...
Ngày 20 tháng 10 năm 1946, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam ra mắt tại Quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội, Lê Thị Xuyến được cử làm Hội trưởng lâm thời Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Ngày 20 tháng 7 năm 1947, bà vinh dự được đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Đông Dương. Do bà đã hoạt động từ năm 1928 nên bà không phải qua giai đoạn dự bị và ngày này cũng là ngày bà là đảng viên chính thức.
Bà liên tục là đại biểu Quốc hội Việt Nam các khoá II, III, IV, V.
Bà mất 5 tháng 5 năm 1996 tại Hà Nội, thọ 87 tuổi.

Nguyễn Thị Nhỏ (1909- 1946)

Nguyễn Thị Nhỏ, tức Sáu Nhỏ – còn gọi là Sáu Điếc, sinh năm 1909 trong một gia đình tiểu thương tại làng Long Hồ – chợ Ngã Tư, nay là xã Long An – huyện Long Hồ – tỉnh Vĩnh Long, con của ông Nguyễn Văn Vững và bà Tống Thị Tòng. 
Sinh trưởng trong gia đình giàu truyền thống cách mạng, có nhiều anh em đều tham gia hoạt động cách mạng, Nguyễn Thị Nhỏ sớm chịu ảnh hưởng giáo dục của gia đình, lúc còn đi học. Tư tưởng yêu nước, lòng yêu quê hương, căm ghét bọn thống trị bất công được dần hình thành trong chị qua sự giáo dục của cha, anh và nhất là những câu chuyện truyền thống mà người mẹ thường kể cho anh em chị nghe. 
Tháng 3/1926, phong trào học sinh - sinh viên và quần chúng lao động khắp Nam Kỳ rầm rộ xuống đường để tang nhà ái quốc Phan Chu Trinh. Nguyễn Thị Nhỏ tham gia ngay vào những cuộc xuống đường này với một lòng nhiệt thành sẵn có. Sau đó, chị xin về dạy học ở Hương Điểm (Bến Tre) với ước mong truyền đạt cho lớp học trò nhỏ gương những nhà yêu nước “con Lạc, cháu Hồng”. Được ít lâu, chị chuyển về dạy ở “Sa Đéc học đường”. Tại Sa Đéc, chị chiếm được tình cảm của mọi người bằng những hành động yêu nước. Năm 1927, chị được kết nạp vào Chi bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội ở Sa Đéc. Chị được sinh hoạt chung với những nhà cách mạng như Hà Huy Giáp, Nguyễn Văn Phát và thường xuyên liên lạc với Châu Văn Liêm ở Chợ Mới (Long Xuyên). Đầu năm 1929, chị được cử đi học lớp huấn luyện chính trị do Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội Nam Kỳ tổ chức. Lớp do các ông Phạm Văn Đồng, Châu Văn Liêm, Nguyễn Kim Cương trực tiếp phụ trách. Nhờ hăng say học tập và có trí thông minh, Nguyễn Thị Nhỏ tiếp thu nhanh và nắm vững các nguyên lý cách mạng cơ bản, được các đồng chí lãnh đạo Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội tỉnh Sa Đéc (tỉnh bộ do ông Nguyễn Văn Phát làm Bí thư) rất tín nhiệm.
Giữa năm 1929, chị cùng ông Nguyễn Văn Phát (lúc này, hai người vừa hứa hẹn kết duyên vợ chồng) được điều lên công tác tại cơ quan Kỳ bộ đóng ở số nhà 14 - hẻm La-ca-đơ (Sài Gòn – Chợ Lớn). Lúc lên đường, chị hẹn với anh Phát “đợi cách mạng thành công mới tổ chức đám cưới để lo làm tròn nhiệm vụ”. Ở Sài Gòn, Nguyễn Thị Nhỏ và một số đồng chí chịu trách nhiệm cộng tác biên tập, in và phát hành báo “Công – Nông – Binh”, tờ nội san “Bôn-sơ-vích” và tài liệu Đại hội lần thứ nhất của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Công việc đang tiến triển, địch đánh hơi và phát hiện ra cơ quan Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội Nam Kỳ. Ngày 23/9/1929, bị tên Sường – tức Hồ Cao Cương trong cơ quan Kỳ bộ – chỉ điểm, chị và các ông Nguyễn Văn Phát, Trần Ngọc Quế bị mật thám Pháp bắt.
Thực dân Pháp đưa chị giam ở Khám Lớn (Sài Gòn). Chúng dùng nhiều thủ đoạn tra tấn dã man song chị nhất quyết không khai nửa lời. Chị và anh Phát một mực khai nhận là vợ chồng, chủ ngôi nhà 14 đường La-ca-dơ và chị là người ở tỉnh lên Sài Gòn làm công việc nội trợ gia đình. Những đòn tra tấn của bọn cai ngục làm tai chị về sau thường sưng mủ, các đồng chí và bạn tù về sau hay gọi chị là Sáu Điếc. Được 6 tháng, bọn mật thám buộc phải thả chị vì không có đủ chứng cớ. Anh Phát, chúng còn tình nghi, tiếp tục bị giam giữ. 
Tranh thủ lúc được tha, chị liên lạc ngay với ông Châu Văn Liêm (tên lúc này là Việt) là Bí thư Kỳ bộ thay ông Phạm Văn Đồng đã bị thực dân Pháp bắt. Được biết Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội đã giải tán, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập, chị càng phấn khởi lao ngay vào nhiệm vụ, được kết nạp vào An Nam Cộng sản Đảng (tháng 10/1929). Lấy lý do đi thăm chồng, chị được tổ chức cử vào Khám Lớn để liên lạc, truyền đạt chủ trương, quyết định của Đảng từ ngoài vào nhà tù. Các ông Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng và một số cán bộ của Đảng trong Khám Lớn bấy giờ nhận được quyết định kết nạp vào An Nam Cộng sản Đảng là nhờ Nguyễn Thị Nhỏ đem quyết định từ ngoài vào. 
Ngày 3/2/1930, ba tổ chức cộng sản ở 3 miền thống nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Nguyễn Thị Nhỏ là một trong số lớp người đầu tiên ở Nam Kỳ đứng vào hàng ngũ của Đảng. 
Ngày 4/6/1930, Đảng tổ chức nhiều cuộc biểu tình, đưa nông dân ra đấu tranh trực diện với địch đòi giảm sưu thuế, trong đó có cuộc biểu tình lớn tại Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn. Ông Châu Văn Liêm, Bí thư Liên Tỉnh ủy Chợ Lớn – Gia Định trực tiếp lãnh đạo cuộc biểu tình này bị địch bắt và bị sát hại. Xứ ủy Nam kỳ cử Lê Quang Sung và Nguyễn Thị Nhỏ về phụ trách Tỉnh ủy Chợ Lớn thay ông Châu Văn Liêm để ổn định tình hình, lãnh đạo quần chúng chống địch khủng bố. Nhận nhiệm vụ mới Đảng phân công, Nguyễn Thị Nhỏ trực tiếp đi xây dựng cơ sở Đảng ở vùng Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn. Chị đã lập ra Chi bộ Đảng đầu tiên ở làng Thạnh Lợi (Đức Hòa). Chị đi diễn thuyết kêu gọi quần chúng đứng lên làm cách mạng tại làng Tân Phú, khu vực chợ Rạch Nhum v.v… Tại cuộc họp của Đảng tháng 11/1930 ở làng Long Hiện, quận Bến Lức, tỉnh Chợ Lớn, ông Lê Quang Sung được bầu Bí thư Tỉnh ủy, Nguyễn Thị Nhỏ được bầu Phó Bí thư đầu tiên của Tỉnh ủy Chợ Lớn. 
Lúc này, địch đánh phá phong trào và truy lùng rất gắt gao các chiến sĩ cộng sản. Chị Sáu Nhỏ phải luôn thay hình đổi dạng, ở và hoạt động nhiều nơi khác nhau. Chị về lại Đức Hòa, nhận làm con nuôi trong một gia đình là cơ sở cách mạng, có lúc cải dạng làm cô giáo để hoạt động. Chị có tài diễn thuyết và khéo léo, biết xây dựng các cơ sở bí mật của Đảng. Vì vậy, mật thám Pháp rình rập nhiều nơi trong tỉnh nhưng vẫn không tìm ra được manh mối của Tỉnh ủy Chợ Lớn. Trong khi đó, chị vẫn hoạt động và liên lạc được với các đồng chí của mình. 
Giữa năm 1931, nhiều cơ sở Đảng bị địch phá vỡ trong toàn Nam bộ, nhiều đồng chí trong Xứ ủy Nam Kỳ bị bắt. Nguyễn Thị Nhỏ có chân trong Xứ ủy lâm thời. Lúc đó, chị tròn 22 tuổi. 
Tháng 11/1931, Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn – Lê Quang Sung bị sa vào tay thực dân Pháp. Cùng với các đồng chí còn lại trong Tỉnh ủy, Nguyễn Thị Nhỏ chịu trách nhiệm chính trong việc lãnh đạo khôi phục và phát triển phong trào ở tỉnh Chợ Lớn, địa bàn hoạt động có lúc sang cả tỉnh Tân An. 
Cuối năm 1931, trong một chuyến công tác vào thành phố Sài Gòn, chị Sáu Nhỏ bị địch phục kích vây bắt. Lọt vào tay địch lần thứ hai, chị bị tra tấn man rợ hơn trướcNhưng tất cả đều vô hiệu trước con người đã chai sạn, gai góc, không còn biết sợ kẻ thù thực dân
Trong Khám Lớn, Nguyễn Thị Nhỏ vẫn tự tin và bàn bạc với chị em bạn tù tìm cách hoạt động. Chị và nhiều đồng chí cùng bị giam giữ thành lập một Ban trật tự trong Khám Lớn để vận động tù nhân đấu tranh với địch, giành giật quyền lợi tối thiểu cho sự sống của tù nhân, trong đó có cuộc đấu tranh ngày 20/11/1931.
Ngày 2 tháng 9 năm 1933, thực dân Pháp đưa 120 chiến sĩ cộng sản ra xử tại phiên tòa “Đại hình đặc biệt” ở Sài Gòn. Nguyễn Thị Nhỏ và các đồng chí Ngô Gia Tự, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Diễu, Phạm Hùng, Lê Văn Lương v.v… bị thực dân Pháp đưa ra phiên tòa xét xử kéo dài từ ngày 2 - 9/5/1933. Vụ án này gây chấn động chính trị mạnh trong toàn Nam Kỳ và lan rộng ra cả nước, gây làn sóng bất bình trong nhân dân tiến bộ thế giới. Do sức ép dư luận trong nước và ở Pháp, với sự can thiệp của luật sư tiến bộ người Pháp Kăng-xen-lơ-ri (Cancelleri), sau đó, thực dân Pháp buộc phải hạ mức án của 8 án tù tử hình xuống còn khổ sai chung thân, riêng Nguyễn Thị Nhỏ lãnh án 15 năm tù khổ sai. Ngày 16/5/1933, thực dân Pháp đưa tàu Ác-măng-rút-sô với 33 lính áp tải, bí mật rời cảng Sài Gòn, đưa 89 tù nhân cộng sản đi đày Côn Đảo, trong đó có Nguyễn Thị Nhỏ. 
Nhờ sự vận động tích cực của Lu-i Ma-ri Phe-rơ và tổ chức quốc tế Công hội Đỏ tiếp sức can thiệp, tháng 7/1935, Toàn quyền Pháp ở Đông Dương buộc phải ra lệnh đặc xá Nguyễn Thị Nhỏ. Dù thả ra, nhưng sự sống của chị bị suy sụp do những trận đòn đẫm máu của chúng tra tấn. Chị được thả về quê ở Châu Thành - Vĩnh Long và bị chúng theo dõi, quản thúc cho đến sau Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940. Từ đó đến năm 1946, chị vẫn sống ở quê. Do sức khỏe quá suy yếu vì địch tra tấn, ngày 21/11/1946, Nguyễn Thị Nhỏ đã vĩnh biệt chồng là anh Nguyễn Văn Phát - lúc đó là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long – và 5 con thơ. 
Để ghi nhớ công ơn của người phụ nữ gan dạ, kiên cường trong những ngày hoạt động ở Tỉnh ủy Chợ Lớn, ngày 4/4/1985, Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định đổi tên đường Nguyễn Công Trừng ở Quận 5 thành đường Nguyễn Thị Nhỏ, đúng vào dịp kỷ niệm 10 năm ngày quân và dân ta đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, xóa sạch chủ nghĩa thực dân và đế quốc trên đất nước Việt Nam .


Trịnh Thị Miếng

Bà sinh năm 1912 tại Bà Điểm, xã Tân Thới Nhất, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định. Tham gia hoạt động Cách mạng từ năm 1934. Những năm 1936 – 1939 chị là liên lạc viên của Xứ ủy và của Trung ương Đảng. Bà đã tham gia vận động, bố trí cơ sở nuôi chứa, bao bọc các đồng chí Trung ương Đảng về hoạt động và họp hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 2, 3, 4, 5, 6, 7 tại vùng Bà Điểm, 18 Thôn Vườn Trầu – Gò Vấp – Hóc Môn.
Về công tác bảo vệ Đảng, trong năm 1939 – 1940, Tỉnh ủy Gia Định giao cho bà Chín Miếng chịu trách nhiệm, lo bố trí địa điểm, tổ chức bảo vệ cho các cuộc họp của Xứ ủy, thường có mặt các đồng chí Võ Văn Kiệt, Nguyễn Thị Minh Khai, Tạ Uyên … và các cuộc họp của Tỉnh ủy Gia Định. Bà Chín Miếng chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn từ Bà Điểm đến Hóc Môn. Cho đến ngày khởi nghĩa 23-11-1940, các cuộc họp Xứ ủy, Tỉnh ủy đều được bảo vệ bí mật, an toàn.
Năm 1937, bà là Quận ủy viên Quận Gò Vấp. Sách báo tài liệu truyền thống phụ nữ Nam Bộ đều ghi nhận bà là liên lạc viên trung kiên nhất của Đảng thời kỳ bí mật. Bà vừa là liên lạc, vừa tham gia vận động tổ chức những cuộc đấu tranh của các tầng lớp phụ nữ Gia Định. Như năm 1938, phụ nữ Gia Định tổ chức mít tinh ủng hộ ba đồng chí: Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nguyễn ra tranh cử Hội đồng Thành phố Sài Gòn. Bà Thử cầm cờ đi đầu, bà Chín Miếng, bà Tư Giả, và Hai Sóc theo sát để hộ vệ. Cuộc mít tinh đã góp phần cho ba đồng chí đắc cử vô “nghị trường”, đấu tranh công khai cho quyền lợi dân chúng.
Cách mạng tháng Tám thành công, Tỉnh ủy giao cho bà Chín Miếng và và Mười Lụa đảm nhận phong trào Phụ nữ tỉnh Gia Định, chuẩn bị cùng toàn dân Gia Định bước vào cuộc trường chinh 9 năm gian lao vào anh dũng.
Năm 1946, bà là Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng đoàn, Đoàn trưởng Phụ nữ Cứu quốc đầu tiên của Tỉnh Gia Định và là người phụ nữ đầu tiên của quận Gò Vấp được bầu là đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I năm 1946 và liên tiếp các khóa II, III khi bà tập kết ra miền Bắc.
Suốt cuộc đời theo Đảng làm cách mạng, giữ nhiều trọng trách, được thưởng nhiều Huân chương, Huy chương, nhà Cách mạng lão thành Trịnh Thị Miếng hết sức nhã nhặn, khiêm tốn. Trong bản lý lịch, ta thấy bà tự nhận xét: “Lúc nhỏ nhà nghèo, không được đi học”, “Ngày vào Đảng không biết chữ”. Tự nhận xét cuối đời: “Có tinh thần trách nhiệm. Đảng giao việc gì cũng tích cực làm tròn. Khuyết điểm: Trình độ văn hóa và lý luận kém”. Thật là một tấm gương soi sáng cho mọi tấm lòng của chúng ta. Quyển lịch sử truyền thống phụ nữ quận Gò Vấp đã viết những dòng hết sức thân thương về bà: “Khi Cách mạng tháng Tám vừa thành công, trụ sở cơ quan phụ nữ Cứu quốc quận Gò Vấp đóng ở Trung Nhứt. Ban chấp hành do chị Trịnh Thị Miếng làm Đoàn trưởng. Chị em phụ nữ còn gọi thân mật là chị Chín Miếng, chị Chín Trầu bởi chị ghiền ăn trầu xỉa thuốc rê, đi đến đâu chị cũng xách giỏ trầu cau… Bản chất chị rất là phụ nữ Nam bộ, cần cù, tận tụy công tác, trung thành với Đảng, hết dạ vì dân vì nước, sống giản dị chan hòa với chị em, mọi người đều thương mến chị. Ngày 6-1-1946 nhân dân toàn quốc đi bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong quận Gò Vấp chị Trịnh Thị Miếng đắc cử Quốc hội…Chị là ngọn cờ tiêu biểu cổ vũ cho phong trào phụ nữ Gò Vấp, phụ nữ tỉnh Gia Định…”

Lâm Thị Phấn (1918-2010)- Người đẹp Tây Đô

Cha bà là Lâm Văn Phận, hiệu trưởng trường Taberd, nay là trường Châu Văn Liêm. Theo nhiều tài liệu sử ghi lại, bà Lâm Thị Phấn nổi tiếng là người con gái tài sắc vẹn toàn, được người dân vùng đất Tây Đô gọi bằng cái tên trìu mến "Người đẹp Tây Đô".

Năm 17 tuổi, bà được gả cho người anh con cô cậu ruột với công tử Bạc Liêu, đồng thời là cháu đích tôn của bá hộ, người được mệnh danh là Vua lúa gạo Nam Kỳ bấy giờ. Chồng bà nổi tiếng là một công tử giàu có, thường xuyên mải mê ăn chơi.

Việc gia đình công tử Bạc Liêu nhắm tới Lâm Thị Phấn làm con dâu nhằm mục đích mong muốn một người đẹp và sắc sảo như bà sẽ kìm bớt tính chơi bời của chồng và lo toan được việc nhà.

Mặc dù bà rất giỏi giang và khéo léo quán xuyến mọi việc trong gia đình khi về làm dâu, nhưng tính ăn chơi và chỉ biết hưởng thụ của chồng bà không thay đổi.

Kể từ khi cha chồng giao ngân sách cho bà quản lý, mâu thuẫn giữa hai vợ chồng bà Phấn ngày càng gia tăng do chồng bà thường xuyên bòn rút tiền của gia đình để chơi bời.

Dù có với nhau hai đứa con trai nhưng tình cảm giữa vợ chồng bà ngày càng xa cách. Để giữ trọn nghĩa vợ chồng và đạo hiếu, bà phải cắn răng chịu đựng những trận đòn và lời đay nghiến của chồng mỗi khi hai người xảy ra mâu thuẫn.

Sinh trưởng trong một gia đình trí thức, bà Lâm Thị Phấn từ nhỏ đã mang trong mình tư tưởng tiên tiến của phương Tây.Việc bà đồng ý kết hôn năm 17 tuổi chỉ để vừa lòng cha mẹ. Mặc dù ông giáo Phận hiểu rõ con gái mình là người có chí hướng và tư tưởng tự do mà phải sống trong một gia đình địa chủ cổ hủ như vậy rất khổ, nhưng ông không có lựa chọn nào khác.Kể từ khi gánh vác những trọng trách quan trọng trong thu chi của gia đình và đảm nhiệm công việc thu thuế, bà Phấn bắt đầu nhận ra những cơ cực của người nông dân trong vùng, đặc biệt là phụ nữ.

Nỗi thống khổ của họ và mâu thuẫn vợ chồng ngày càng gia tăng đã thôi thúc bà đấu tranh cho những người cùng khổ.Bà quyết định thoát ly ra khỏi gia đình chồng và tham gia hoạt động phong trào cho Hội Phụ nữ Cứu Quốc.

Năm 1950, bà được kết nạp vào Đảng. Sau đó, bà trở thành nữ tình báo nổi tiếng trong suốt hai cuộc Cách mạng chống Pháp và chống Mỹ của nước nhà.



Hoàng Ngân (1921- 1949)

Hoàng Ngân, tên thật là Phạm Thị Vân (tức Sáu), sinh năm 1921 ở miền Bắc Việt Nam. 15 tuổi chị đã hoạt động trong tổ chức "Phụ nữ giải phóng" và gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 17 tuổi. Khi bị địch bắt và giam giữ vì tham gia hoạt động cách mạng, chị tổ chức đấu tranh bảo vệ các quyền của tù nhân, giúp họ giữ vững ý chí đoàn kết trong đấu tranh. Chị đã sáng lập tờ báo "Tiếng gọi phụ nữ", tiền thân của báo "Phụ nữ Việt Nam" hiện nay. Chị là Bí thư của tổ chức "Phụ nữ cứu quốc đoàn", chính là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ngày nay.
 Hoàng Ngân là một con người nhân ái, bao dung và được mọi người kính trọng, quý mến. Chị đã trở thành niềm tự hào của phụ nữ Việt Nam.





Bà Lê Thị Riêng (1925 -1968)

Bà Lê Thị Riêng sinh năm 1925 tại làng Vĩnh Mỹ, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, mồ côi cha mẹ sớm, được chứng kiến cảnh áp bức bốc lột của bọn địa chủ cường hào, ngay từ khi còn nhỏ Bà đã sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1945 khi Cách mạng tháng tám bùng nổ, Bà tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp thực hiện nguyện vọng giải phóng dân tộc, giải phóng giới mình khỏi ách thống trị của thực dân phong kiến. Năm 1948 được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Năm 1954 sau khi hiệp định Geneve được ký kết, Bà tiếp tục tham gia các phong trào cách mạng chống chế độ độc tài phát-xít của Mỹ-Diệm. Năm 1960 Mật trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam ra đời, Bà được bầu làm Phó Hội trưởng Ban chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng và Ủy viên Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam. Bà còn là một cây viết xã luận sắc xảo của báo Phụ nữ Giải phóng –một tờ báo của cơ quan Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng Miền Nam Việt Nam – tiếng nói của phong trào phụ nữ, một vai trò chủ chốt và hùng hậu nhất trong phong trào đấu tranh chính trị trực diện với quân thù.
Bà Lê Thị Riêng là một người phụ nữ giàu lòng yêu nước, đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ, là một cán bộ cách mạng tài năng và đức độ.
Trong suốt 2 cuộc kháng chiến cứu nước Bà đã hoạt động liên tục không biết mệt mỏi. Trong những năm khó khăn, Bà luôn luôn tỏ ra là một Cán bộ rất mực trung kiên, xuất sắc của phong trào. Bà đã đóng góp nhiều công sức xây dựng cơ sở cách mạng, gây dựng phong trào phụ nữ ở Miền Nam, được toàn thể phụ nữ Miền Nam và nhân dân Miền Nam cảm mến tin yêu.
Trong một chuyến đi công tác hồi tháng 5/1967, Bà sa vào tay bọn mật thám và bè lũ Mỹ - Thiệu –Kỳ. Bọn mật vụ Mỹ CIA và bọn công an ngụy đã dùng cực hình tra tấn Bà rất dã man. Chúng đốt cháy tay Bà đến trơ xương, Bà vẫn giữ vừng khí tiết của người chiến sĩ cách mạng, đã biểu hiện khí phách hiên ngang bất khuất. Tinh thần dũng cảm ngoan cường ấy đã làm cho bè lũ Mỹ và tay sai vô cùng khiếp đảm.
Đêm mồng 2 Tết  Mậu Thân (31/1/1968) bọn địch đã hèn hạ ám hại Bà cùng một số người yêu nước khác trên đường Hồng Bàng (nay là đường Hùng Vương –Tp.Hồ Chí Minh).Hành động ám hại Bà –Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng Miền Nam Việt Nam một cách hèn hạ, đê tiện như trên nằm trong âm mưu tàn sát những người yêu nước bị chúng giam giữ mà bọn Mỹ -Thiệu –Kỳ đã tiến hành hàng loạt ở các đô thị Miền Nam.
Sự hy sinh rất anh hùng của Bà đã nêu một tấm gương sáng chói về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Bà đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng phụ nữ, những đức tính cần cù, giản dị, khiêm tốn và phẩm chất cao quý của Bà đã được mọi người kính phục và học tập. Bà đã được Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam truy tặng huy chương "Thành Đồng" hạng II và huân chương "Quyết Thắng" hạng I.


Nguyễn Thị Diệu (1926 - 1955)

Nhà giáo liệt sĩ. Quê huyên Đức Phổ (Quảng Ngãi). Nguyễn Thị Diệu từng học ở Sài
Gòn - đậu tú tài - sau Cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp quay trở lại, bà tham gia kháng chiến ngay. Được bầu vào ban chấp hành Hội Phụ nữ cứu quốc Nam bộ.
Tuy xuất thân từ gia đình quan lại triều đình Huế cũ nhưng bà sống giản dị, hòa mình với quần chúng. Năm 1950 bà xuống miền Tây hoạt động, học bơi xuồng để một mình đi công tác tới các vùng nông thôn hẻo lánh. Năm 1952 bà phụ trách công tác thuế nông nghiệp. Sau hiệp định Genève, bà về Sài Gòn dạy học tại trường tư thục Đức Trí để hoạt động bí mật. Bọn tay sai Ngô Đình Diệm phát hiện; bà bị bắt ngày 6-7-1955 giữa lúc đang đứng trên bục giảng. Chúng tra tấn bà đến chết, lúc đó bà đang mang thai.TP. HCM có đường Nguyễn Thị Diệu (được đặt tên từ 1985).




Phan Thị Mai - Nhất Chi Mai (1934 -1967)

Phan Thị Mai, tự Nhất Chi, bút hiệu là Nhất Chi Mai,  pháp danh Thích nữ Diệu Huỳnh, là một nữ Phật tử đã tự thiêu ở Sài Gòn để phản đối Chiến tranh Việt Nam. Bà sinh năm 1934 tại xã Thái Hiệp Thành, tỉnh Tây Ninh.
Cha bà là ông Phan Duy Mỹ, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Duyệt, ngụ tại nhà số 60/59 đường Yên Đổ, Sài Gòn. Bà tốt nghiệp Trường Quốc gia Sư phạm năm 1956, Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn năm 1964 và Trường Cao đẳng Phật học Vạn Hạnh năm 1966. Sau khi tốt nghiệp trường sư phạm, bà về làm giáo viên tiểu học ở trường Tân Định (Sài Gòn). Bà đã tham gia nhóm "Thanh niên phụng sự xã hội" (một hội đoàn thanh niên ở Sài Gòn lúc bấy giờ), và dạy dỗ nhiều trẻ em mồ côi.
Vào 7 giờ 20 sáng ngày 8 tháng 4 âm lịch năm Đinh Mùi (16 tháng 5 năm 1967 dương lịch), tức ngày Phật Đản thứ 2511, bà đã tưới xăng lên người mình và châm lửa tự thiêu trước sân chùa Tư Nghiêm (Sài Gòn, nay thuộc Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh). Bà mất khi mới chỉ 33 tuổi. Trước khi tự thiêu, bà đã để lại 10 bức di thư với nội dung kêu gọi hòa bình và chấm dứt chiến tranh.

Trần Thị Quang Mẫn – Nữ anh hùng giả trai đi đánh giặc

Bà sinh năm  1926 trong một gia đình khá giả ở huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang. Trần Thị Quang Mẫn được ba má cho ra tỉnh học trường tư thục. Khi đó, không ưa người Pháp, bà ghét luôn ngôn ngữ của họ nên không tha thiết với việc học lắm. Học hết lớp Nhứt, bà và người em về quê làm ruộng. Bà thường ra đồng thả trâu, bò, bày trò chơi trận giả với đám con nít xung quanh. Tính tình khảng khái như con trai, bà mê đọc sách sử, mê Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trung Trực, Phan Bội Châu… 
Biết tính cha vốn không thích tham gia chính sự, bà “nhỏ to” với người em gái kế, hai chị em cắt máu ăn thề và lên kế hoạch trốn nhà theo kháng chiến.Lần thứ nhất, khi bà và em gái lén mang túi xách trốn đến điểm đóng quân gần nhà khoảng một cây số thì bị người cha huy động lực lượng trong gia đình bắt mang về. Hai chị em bà bị nhốt kín trong nhà. Lần thứ hai, sau khi dặn em chạy theo mình, bà vừa phóng ra khỏi nhà mấy chục mét thì cha bà đã cầm con dao chạy theo. Ông dọa sẽ tự sát nếu chị em bà bỏ đi lần nữa. Giận con gái cứng đầu, sẵn con dao bén trên tay, ông cắt phăng mái tóc óng ả của con gái. 

Càng bị cha ngăn cản, bà càng nung nấu khát vọng được cầm súng trực tiếp đánh giặc. Bà nhờ người anh họ xa đang tham gia kháng chiến viết thư báo lên cấp trên. Thấy không lay chuyển được ý định của con gái, ông mang hết quần áo hai cô ra đốt và đuổi hai chị em đi.
Bà quyết định giả làm con trai, đổi tên là Trần Quang Mẫn. Em gái bà được đưa vào đội cứu thương, còn bà ở bộ phận giao liên, trinh sát và khi cần thiết cũng trực tiếp cầm súng giết giặc trong Trung đội 1. Nam giới đi đánh giặc vốn đã cực khổ, người cải trang như bà càng khổ hơn. Mỗi tháng, sắp tới ngày của phụ nữ, bà lấy rau dăm giã nát, đổ rượu trắng vào uống nửa chén. Đây là "bài thuốc" bà học lóm từ người chị lớn. Áo quần mặc phải rộng hơn, ngủ trong nóp, tắm phải dòm trước ngó sau. Cũng may là sau một ngày đánh giặc mệt mỏi, mạnh ai nấy nhảy ào xuống sông tắm cho nhanh lên nghỉ nên không ai chú ý đến "anh" Mẫn da trắng trẻo như con gái.
Công việc của bà vất vả hơn em gái, thường ngủ lùm ngủ bụi. Mỗi lần đi thăm "anh Sáu" (em gái bà gọi thế), cô em cứ khóc sụt sùi vì thương chị. Bà động viên em, nhắc lại lời thề không sạch bóng quân thù không về khi hai chị em cắt máu ăn thề. Đối với bà, được cầm súng đánh giặc thì mọi vất vả chỉ là chuyện nhỏ. Gan dạ, thông minh, bà được cấp trên cử đi học sĩ quan ở Quân khu 9. Trở về đơn vị, bà lãnh đạo cảnh vệ binh Trung đoàn.

Cao 1,62m, da trắng, giọng nói trong trẻo, cải thành nam giới, bà nổi tiếng “đẹp trai” trong đơn vị, đi đến đâu cũng được các cô gái để ý đánh mắt làm quen. 
Trước khi giả trai, gia đình bà có hứa hẹn gả bà cho một chàng trai ở huyện Phú Quốc. Hai người cũng qua lại thăm viếng vài lần. Từ ngày bà cải thành nam giới đi cách mạng, anh con trai tên Nguyễn Văn Bé đang đi bộ đội ở Tiểu đoàn 4010 tới lui không thấy, điều tra biết được bà đang ở Trung đoàn 124. Sau nhiều lần ông dò hỏi, thắc mắc, cuối cùng sự việc của bà bị bại lộ. “Anh” Trần Quang Mẫn trở lại là chị Trần Thị Quang Mẫn. Cả Trung đoàn bật ngửa vì trong suốt năm năm trời, không ai phát hiện ra chuyện "động trời" này. 
Sau đó, đơn vị đứng ra tổ chức đám cưới cho hai người. Lúc này, bà lên chức Đại đội trưởng Trung đoàn 124, ông giữ chức Đại đội phó. Năm 1952, ông hy sinh, để lại đứa con trai mới bốn ngày tuổi lại cho bà. Mười tuổi, con trai bà tiếp bước cha mẹ đi bộ đội, 15 tuổi người con trai duy nhất của ông bà hy sinh…
Bà được Nhà Nước phong tặng nhiều Huân chương và danh hiệu cao quý: Huân chương chiến công, Huân chương kháng chiến, Huân chương Độc lập… và Bà mẹ Việt Nam anh hùng trong đợt đầu tiên. Năm 1967, cùng với chị Út Tịch, bà được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang. 
Tháng 4/1967, bà được ra Hà Nội gặp Bác Hồ, được Bác ưu ái tặng cho bà khẩu súng K54 làm kỷ niệm. Cuộc đời bà đã được nhà văn Bùi Hiển viết thành quyển sách “Cuộc đời tôi”. Bà suy nghĩ đơn giản rằng: “Hồi đó đi đánh giặc để giải phóng đất nước, mong cho đồng bào mình được sống trong cảnh thanh bình. Giờ ước nguyện đã thành sự thật, so với nhiều người khác, tôi may mắn còn sống đến ngày hôm nay. Đối với tôi như vậy đã mãn nguyện lắm rồi”.


Nữ anh hùng liệt sĩ Mạc Thị Bưởi (1927- 1951)

Mạc Thị Bưởi sinh năm 1927 tại xã Nam Tân, huyện Nam Sách Dân tộc Kinh Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mạc Thị Bưởi là một chiến sỹ du kích, một cán bộ cơ sở, hoạt động ở địa phương. Với lòng căm thù sâu sắc bọn đế quốc, và giai cấp phong kiến áp bức, bóc lột, chị  khắc phục khó khăn, kiên trì xây dựng cơ sở, vận động và lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống giặc trong những năm 1946-1947, tham gia công tác phụ nữ ở địa phương. Năm 1949, địch về đóng bốt Trung Hà, tại quê hương, chúng làm hàng rào, tháp canh, càn quét, vây bắt cán bộ. Vì vậy cán bộ ở xã Nam Tân bị bật sang các vùng lân cận. Trong điều kiện khó khăn ấy, một mình chị vẫn bám dân, bám đất, kiên trì hoạt động, giác ngộ nhân dân, xây dựng cơ sở kháng chiến, đào hầm bí mật, đón cán bộ về chỉ đạo kháng chiến. Kết quả, chị đã tổ chức được 3 tổ nữ du kích, xây dựng 35 cơ sở ở ba thôn của xã; vận động quần chúng chống nộp thuế, đi phu cho giặc.
Năm 1950, bộ đội ta đánh bật bốt Thanh Dung, Mạc Thị Bưởi làm liên lạc, lúc nổ súng chị đã bò qua 3 hàng rào dây thép gai và ra vào vị trí địch ba bốn lần để truyền lệnh và báo tình hình, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhiều lần chị cùng cán bộ huyện đột nhập vào các xã để diệt tề, trừ gian, bảo vệ cơ sở.
Năm 1951, Mạc Thị Bưởi làm nhiệm vụ vận động nhân dân vùng tạm chiến chuẩn bị gạo, đường, sữa chuyển ra vùng tự do phục vụ chiến dịch. Chị đã tổ chức vận chuyển ra vùng tự do chu đáo. Trong chuyến cuối cùng, chị không may bị địch phục kích bắt được. Từ lâu chị đã bị địch theo dõi và chúng treo giải thưởng lớn, nếu ai bắt Mạc Thị Bưởi, nhưng không tìm ra tung tích chị. Khi sa vào tay giặc, chúng đã tra tấn cực kỳ dã man nhưng chị vẫn không khai một lời, trung thành tuyệt đối với tổ chức. Biết không thể khuất phục được người con gái kiên cường này, giặc đã treo chị lên bụi tre và dùng dao chọc tiết lợn giết chị. Mạc Thị Bưởi hy sinh khi mới 24 tuổi xuân. Nhân dân địa phương và đồng đội vô cùng thương tiếc chị, đã nêu quyết tâm hăng hái chiến đấu và tích cực công tác để trả thù cho chị.
Ngày 31-8-1955, Mạc Thị Bưởi được Chủ tịch nước Việt nam Dân chủ Cộng Hoà tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương Quân công hạng nhì.
Ngày nay Đảng bộ và nhân huyện Nam Sách đã dựng tượng đài Mạc Thị Bưởi, cạnh quốc lộ 5 và xây nhà tưởng niệm tại khu vực đền thờ Mạc Đĩnh Chi để ghi công và tưởng nhớ người con gái anh hùng của quê hương.


Bùi Thị Cúc (1930-1951)
Anh hùng Liệt sĩ Bùi Thị Cúc (1930-1951), Anh hùng Lực lượng Vũ trang Công an Nhân dân (Truy tặng; 1955). Bùi Thị Cúc tên thật là Trần Thị Lan, sinh năm 1930, tại làng Vân Mạc, một làng nhỏ thuộc xã Vân Du, huyện Ân Thi. Gia đình đông con, ông bố mất khi Cúc còn nhỏ, để lại nhiều nợ nần. Bà mẹ không trả được, phải gán Cúc làm con nuôi cho một người làng bên để trừ một khoản vay nợ.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các anh trai đi bộ đội, hoặc công tác địa phương. Bùi Thị Cúc làm cán bộ phụ nữ ở thôn, được kết nạp Đảng, sau đó làm cán bộ Huyện hội phụ nữ Ân Thi.
Những năm 1947-1950, thực dân Pháp đánh chiếm các huyện vùng nam Hưng Yên, chúng cấu kết với bọn tay sai phản động đóng nhiều đồn bốt, lập tề, thường xuyên càn quét, cướp bóc. Ở bốt Cảnh Lâm gần Vân Mạc, tên Nguyễn Doan Nhi, vốn là một cán bộ địa phương đã phản bội, cùng anh rể và anh trai làm sếp bốt và phòng nhì, có nhiều thủ đoạn thâm độc bắt giết cán bộ, khủng bố nhân dân. Huyện ủy Ân Thi cử Bùi Thị Cúc đóng vai là người cầu an bỏ nhiệm vụ về gia đình buôn bán ở chợ Cảnh Lâm để làm nhiệm vụ địch vận, phản gián.
Chị đã chịu đựng sự dị nghị của gia đình và dân làng tìm cách làm thân với tên Nhi, giả vờ nhận lời yêu hắn để khai thác tin tức hoạt động của bọn địch trong vùng, báo cáo với cấp trên. Chị còn khéo léo thuyết phục tên Nhi nhận cả anh Đệ, người yêu của chị, là công an hoạt động bí mật làm “chỉ điểm” cho chúng, cấp giấy phép cho anh Đệ được ra vào bốt Cảnh Lâm. Qua một số lần làm thất bại âm mưu bắt bớ, càn quét của địch, chúng có dấu hiệu nghi vấn chị Cúc và anh Đệ. Cấp trên chủ trương cho hai người tìm cách trừ khử tên Nhi và sau đó rút ra ngoài. Thực hiện chủ trương đó, Bùi Thị Cúc đã bố trí một cuộc hẹn hò với tên Nhi ở làng Vân Mạc. Nguyễn Doãn Nhi đã trúng kế, xuống làng một mình bị người của ta bắt giết, rồi đem vùi xác dưới ruộng khoai.
Mất tên Nhi, bọn địch ở bốt Cảnh Lâm lập tức quây càn bắt tất cả đàn ông trong làng giam giữ, đốt nhà, triệt phá cả làng Vân Mạc. Bùi Thị Cúc tìm đường ra nơi an toàn, nhưng chẳng may đã bị địch bắt cùng nhiều người khác ở thôn bên. Lính bốt và người nhà tên Nhi đánh đập, tra khảo, trả thù Bùi Thị Cúc, bắt chị khai báo những người đã giết tên Nhi. Chị đã nhận hết về mình, không khai báo đồng đội và dân làng.
Biết không khuất phục được chị, ngày 15 tháng 5 năm 1950 bọn địch đã đem chị ra đê bờ sông Lực Điền hành hình hết sức dã man. Bùi Thị Cúc đã nêu gương hy sinh vô cùng kiên cường, bất khuất. Hồ Chủ tịch đã truy tặng chị sáu chữ: “Sống anh dũng, chết vẻ vang”.

Út Tịch (1931-1968)

Bà là một nữ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân của Việt Nam. Cuộc đời bà đã được nhà văn Nguyễn Thi xây dựng thành nhân vật chính trong tác phẩm Người mẹ cầm súng, được đưa vào các giáo trình văn học phổ thông.
Bà tên thật là Nguyễn Thị Út, sinh ngày 19 tháng 4 năm 1931[1][2], nguyên quán tại làng Tích Thiện, tổng Thạnh Trị, quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay thuộc xã Tam ngãi, huyện Cầu kè , tỉnh Tra Vinh).Thân phụ của bà là ông Nguyễn Văn Xương, sinh năm 1899, người làng Tích Thiện. do gia đình nghèo, ông phải lưu lạc đến vùng Rạch Lá (nay thuộc xã Tam Ngãi, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh), lập gia đình với bà Lê Thị Mười, sinh được 3 người con gái. Do hoàn cảnh nghèo khó, cả gia đình ông phải đi làm mướn, ở đợ cho một địa chủ trong vùng tên là Hàm Giỏi.
Bà là con thứ 3 và cũng là con út trong gia đình. Trong 3 chị em, bà được xem là có tính khí phản kháng nhất, nhiều lúc đánh trả lại với gia đình địa chủ.
Thân phụ mất sớm khi bà mới 13 tuổi. Cùng năm đó, được sự ủng hộ của các cán bộ Việt Minh, bà được nhà địa chủ cho phép chuộc thân và từ đó thoát được cuộc sống nô tỳ. Là người có tính khí mạnh mẽ, bà sớm chịu ảnh hưởng từ sự tuyên truyền về cuộc cách mạng của các cán bộ Việt Minh, từ đó tích cực ủng hộ những người Cộng sản cho đến mãi sau này.
Khi người Pháp tái chiếm Nam bộ, mở rộng trên toàn cõi Đông Dương, bà xung phong tham gia chiến đấu chống quân Pháp nhưng do tuổi còn quá nhỏ nên bà đều bị từ chối. Tuy nhiên, bà hoạt động tích cực trên vai trò giao liên, liên lạc cho các cán bộ quân sự. Tháng 12 năm 1949, lực lượng Việt Minh mở Chiến dịch Cầu Kè, là chiến dịch công kích lớn đầu tiên trên chiến trường Nam Bộ, bà được giao công tác giao liên, trinh sát của tổ chức Công an xung phong do ông Chín Luông chỉ huy, chịu trách nhiệm dõi, nắm vững tình hình quân Pháp, báo tin kịp thời với lực lượng quân sự địa phương và bộ đội chủ lực để hiệp đồng tác chiến (trận Rạch Cách, trận bót Bến Cát) gây nhiều tổn thất cho quân Pháp và lực lượng bổ sung trong chiến dịch này.
Đầu năm 1950, bà lập gia đình với ông Lâm Văn Tịch (người Việt gốc Khmer) cũng là chiến sĩ trong lực lượng vũ trang địa phương. Từ đó bà mang tên Út Tịch ghép từ tên của bà và của chồng. Ông Tịch hy sinh ngày 14 tháng 5 năm 1974 và được nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Liệt sĩ.Ông bà có với nhau 9 người con. Người con đầu mất sớm chưa kịp đặt tên. Sau Hiệp định Genève, 1954, vợ chồng bà được phân công ở lại, không tập kết mà sống hợp pháp tại miền Nam. Lo ngại trước ảnh hưởng của những người Cộng sản, chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm đã cho thực thi Chính sách tố cộng và diệt cộng, nhắm đến những người kháng chiến cũ, trong đó có gia đình bà. Chồng bà và nhiều bạn chiến đấu cũ cũng bị bắt và chỉ được thả ra sau khi bà cùng nhiều phụ nữ khác gây áp lực với chính quyền. Tuy nhiên, để được yên ổn, gia đình bà tạm lánh về Kế Sách làm ăn.
Mãi đến cuối năm 1959, gia đình bà trở về Tam Ngãi. Sau Phong trào Đồng khởi, ông bà tham gia hoạt động quân sự của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Dù phải chăm lo chuyện gia đình và con cái, nhưng bà vẫn tích cực tham gia hoạt động binh vận, du kích, tham gia đánh nhiều trận, tuyên truyền vận động nhiều binh lính bỏ ngũ. Năm 1964, bà được kết nạp vào Đảng Nhân dân cách mạng miền Nam. Năm 1965, bà được cử đi dự Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua lực lượng vũ trang toàn miền Nam và được bầu là nữ anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam, được Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng Nhì.
Sau năm 1965, bà được điều về Quân khu 9 công tác. Trong một trận oanh kích bằng máy bay B52 của Mỹ vào ngày 27 tháng 11 năm 1968 xuống vùng Tân Châu, Châu Đốc (nay thuộc tỉnh An Giang), bà và người con gái thứ 3 không may bị tử thương. Sau năm 1975, các con của ông bà đã quy tập mộ cha mẹ về quê nhà tại Tam Ngãi.
Bà nổi tiếng với câu nói "Còn cái lai quần cũng đánh", thể hiện quyết tâm đấu tranh của mình.
Bà được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba; Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Bà Ngô Bá Thành (1931-2004)

Tên thật là Phạm Thị Thanh Vân (Ngô Bá Thành là tên người chồng quá cố của bà),bà là con gái của bác sĩ Phạm Văn Huyến- một trong những bác sĩ thú y đầu tiên của Việt Nam. Bà sinh năm 1931, tại Hà Tĩnh. Năm 1949, cô nữ sinh trường dòng Phạm Thị Thanh Vân mới 18 tuổi đã kết hôn cùng bác sĩ trẻ Ngô Bá Thành theo sự sắp đặt của gia đình. 

Ngô Bá Thành  là người phụ nữ đầu tiên của Việt Nam đỗ thủ khoa tiến sĩ luật học ở Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha và được Trung tâm biên sử quốc tế bầu chọn là người phụ nữ của thiên niên kỉ. Bà là chủ nhiệm Ủy ban pháp luật quốc hội các khóa 6,7,8 và 10. 


Tạ Thị Kiều

Anh hùng Tạ Thị Kiều (1938), tức Mười Lý, sinh năm 1938, dân tộc Kinh, quê ở xã An Thạnh, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đảng viên, cán bộ ban chỉ huy quân sự huyện Mỏ Cày.
Tạ Thị Kiều đã tổ chức và tham gia 107 cuộc đấu tranh chính trị trực diện với địch, chiến đấu 33 trận, diệt 7 tên địch, làm bị thương 11 tên, bắt sống 13 tên, thu 24 súng các loại. Tháng 1-1960, được phân công xây dựng phong trào, tổ chức cơ sở, gần 7 tháng ròng chị đã kiên trì vận động nhân dân, tổ chức nhiều cuộc đấu tranh chính trị với địch, phát triển được 3 tổ nòng cốt trong lực lượng cách mạng, vận động được 13 gia đình binh sĩ, tuyên truyền được 4 binh lính nguỵ về với nhân dân, tổ chức được 2 người khác giúp ta hoạt động.
Để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, Tạ Thị Kiều tổ chức 1 tiểu đội du kích thường xuyên hoạt động rải truyền đơn, phá rào ấp chiến lược, gài mìn, phá đường, đốt chòi canh, diệt ác ôn… khiến địch ngày càng hoang mang, nao núng. Trận đánh bốt An Bình, tuy lực lượng ta ít nhưng do có cơ sở nội ứng, mưu trí lừa và phân tán địch, tạo điều kiện cho đồng đội lấy gọn bốt, ta an toàn và vẫn giữ được thế đấu tranh hợp pháp. Trận đánh bốt Kinh Ngang, chị đã dụ được bọn địch ra bờ kênh, tạo cơ hội cho anh em xông vào lấy đồn không tốn một viên đạn. Tháng 10-1961, Tạ Thị Kiều chỉ huy đội du kích phục đánh xe địch đi trên đường Mỏ Cày đi Thom, bắn cháy 1 xe, do lực lượng địch đông, ỷ thế mạnh đánh trả quyết liệt. Thấy tình thế bất lợi, chị bình tĩnh một mình ở lại cơ động chiến đấu chặn địch để anh em đưa thương binh rút an toàn.

Chị được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 2 năm liền là Chiến sĩ thi đua của Quân khu. Ngày 5-5-1965, Tạ Thị Kiều được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Lê Thị Bạch Cát (1940- 1968)

Lê Thị Bạch Cát sinh năm 1940 tại Nghi Thuỷ - Nghi Lộc - Nghệ An. Năm 1961, Lê Thị Bạch Cát (bí danh Sáu Xuân) là một trong những giáo viên đầu tiên của trường trung cấp Sư phạm TDTT (nay là Trường Đại học Sư phạm TDTT) Hà Tây
Giai đoạn từ tháng 6- 1964 đến cuối năm 1966, thực hiện chỉ thị 05/TTg của Thủ tướng Chính phủ, chuyển hướng hoạt động trong thời kỳ chống Mỹ, nhà trường tạm ngừng nhiệm vụ đào tạo, chuyển sang phục vụ cho tiền tuyến. Vì vậy, năm 1964, cùng với thầy Hoàng Đình Ái, Lê Văn Lý, Trịnh Sâm, ... Chị được điều động sang công tác ở trường đại học TDTT 1 - Từ Sơn với vai trò huấn luyện viên bộ môn thể dục dụng cụ.
Đúng vào lúc giặc Mỹ mở rộng chiến tranh ở Miền Nam và đem không quân, hải quân phá hoại Miền Bắc. Tổ Quốc lâm nguy. Chị cùng các anh chị Đinh Thị Tâm (Tức Hai Nguyệt, sau này là Chánh văn phòng Sở TDTT Hà Nội), Phạm Thị Lăng, các anh Nguyễn Văn Sơn, Nguyễn Hoài Vân là những cán bộ TDTT đầu tiên tình nguyện đi vào Nam chiến đấu.
83 ngày đêm hành quân vượt Trường Sơn, K33 vào đến Trung ương Cục tại chiến khu Lộc Ninh. Lê Thị Bạch Cát mang tên Lê Liên Xuân, Sáu Xuân. Hai năm sau, Liên Xuân từ Tiểu ban Giáo dục Trung ương Cục, được bổ sung về Thành đoàn Sài Gòn-Gia Định, làm Bí thư Quận đoàn Quận Nhất. 

 Trong cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 68, sáng mồng một tết, mũi tiến đánh Quận Nhất giành thắng lợi to lớn. Đơn vị do Liên Xuân chỉ huy hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đánh chiếm đại sứ quán Mỹ, đài phát thanh Sài Gòn, trại lính Mỹ, đơn vị cảnh sát dã chiến…Đợt tiến công lần thứ hai vào đầu tháng 5, yếu tố bất ngờ không còn, các mũi tiến công đều gặp cực kỳ khó khăn. 
 Trong trận chiến tại hẻm 83 Đề Thám do Liên Xuân chỉ huy, khi không còn đủ lực lượng, súng đạn để chiến đấu, chỉ huy đã hạ lệnh tất cả đơn vị ai khoẻ cõng thương binh, hoặc khênh tử sĩ rút theo phương án đã định, còn Sáu Xuân thu hết đạn, lựu đạn, súng… để đánh chặn của kẻ thù. Bắn hết đạn, chị Sáu Xuân lăm lăm khẩu súng ngắn, với mỗi viên đạn là một tên giặc Mỹ... và chỉ huy Liên Xuân đã chiến đấu tới hơi thở cuối cùng, hy sinh anh dũng.
Khi hy sinh, Bạch Cát mới 28 tuổi, chưa lập gia đình. Sau ngày đất nước thống nhất, nhân dân thành phố đã lấy tên chị đặt tên cho một trường trung học cơ sở và một đường phố Lê Thị Bạch Cát ở quận 11 hiện nay. Lê Thị Bạch Cát (1940-1968) đã để lại niềm tiếc thương khôn nguôi trong lòng bạn bè đồng đội, đồng chí và nhiều anh chị em cán bộ TDTT.


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Huỳnh Thị Đào  (1940- 1970)

Huỳnh Thị Đào sinh năm 1940, quê ở xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Thạnh. Sinh ra trong một gia đình nghèo có truyền thống cách mạng. Năm 1960 bà tham gia cách mạng với nhiệm vụ làm cơ sở hợp pháp cho Đội công tác xã Bình Quang. Năm 1962, bà tham gia vào Đội du kích, trực tiếp cầm súng chiến đấu và vận động nhân dân địa phương nổi dậy phá ấp chiến lược. Năm 1964, Huỳnh Thị Đào là xã đội trưởng, trực tiếp chỉ huy đơn vị chiến đấu, cùng với đơn vị vận động nhân dân bao vây bủa rút chi khu Vĩnh Thạnh. Đến tháng 7 năm 1966, bà được cấp trên điều lên làm Trung đội trưởng bộ đội tập trung huyện. từ năm 1966 đến năm 1970 bà lần lượt giữ các cương vị đại đội phó, đại đội trưởng rồi Huyện đội phó. Trong suốt thời gian này bà đã trực tiếp chỉ huy 65 trận đánh lớn nhỏ, diệt 95 tên địch, trong đó có 24 tên lính đánh thuê Nam Triều tiên, phá hủy 3 xe quân sự, đánh sập 12 lô cốt, đánh sập 4 cây cầu và thu giữ 24 khẩu súng các loại.
Trong trận đánh ngày 6.6.1967, nữ anh hùng Huỳnh Thị Đào trực tiếp chỉ huy một tiểu đội nữ, phối hợp lực lượng du kích xã Bình Quang phục kích trên đoạn đường từ Vườn Xoài lên Vĩnh Thạnh. Kết quả trận đánh đó đơn vị của bà đã diệt gọn một trung đội biệt kích, phá hủy 3 xe GMC của địch.
Cuối tháng 3 năm 1967, trong một trận đánh tại Truông Ổi, xã Tây Giang, huyện Tây Sơn, đơn vị của bà đã diệt gọn 2 tiếu đội lính đánh thuê Nam Triều Tiên, thu 23 khẩu súng và một máy truyền tin PRC 25 của địch.
Trong chiến dịch Hè 1969, bà đã chỉ huy đơn vị tổ chức trận địa phục kích tại khu vực Hòa Mỹ, xã Bình Thuận, huyện Tây Sơn, tiêu diệt 1 trung đội lính bảo an và thu toàn bộ vũ khí.
Trong trận đánh ngày 16.01.1970, mặc dù bị thương nặng ở bụng nhưng bà vẫn vừa cầm súng chiến đấu, chia lửa với đồng đội, vừa tham gia cõng các thương binh thoát ra khỏi trận địa phục kích của địch. Bà đã kiệt sức vì mất nhiều máu. Khi đồng đội đưa bà đến Trạm xá thì vết thương đã nhiễm trùng toàn ổ bụng, người yếu lả nên không gây mê được. Khi các bác sĩ còn đang phân vân chưa biết xử lý như thế nào thì bà gắng gượng nói: “Các đồng chí cứ mổ đi, nếu tôi không qua được thì các đồng chí rút kinh nghiệm để sau cứu những đồng chí khác”.
Nữ anh hùng Huỳnh Thị Đào đã trút hơi thở cuối cùng ngay trên bàn mổ, anh dũng hy sinh ở tuổi 30, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho đồng chí, đồng đội và nhân dân.
Với những đóng góp xuất sắc cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, liệt sĩ Huỳnh Thị Đào đã được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân, huy chương cao quý, trong đó có 1 Huân chương chiến công giải phóng hạng Nhì, 1 Huân chương chiến công giải phóng hạng Ba, danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp Quân khu năm 1969.
Ngày 20.12.1994, Chủ tịch nước đã quyết định truy tặng liệt sĩ Huỳnh Thị Đào danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Đặng Thùy Trâm (Nhâm Ngọ 1942 – Canh tuất 1970)

Liệt sĩ hiện đại, Bác sĩ y khoa, sinh ngày 26 tháng 11 năm 1942 tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên (nay là tỉnh Thừa Thiên - Huế), gia đình thường trú tại Hà Nội. Xuất thân trong một gia đình trí thức, thân phụ là Bác sĩ Đặng Ngọc Khuê và mẹ là Dược sĩ nguyên là giảng viên tại trường Đại học Dược khoa Hà Nội.
Thuở nhỏ theo gia đình sinh sống và học tập tại Hà Nội, là cựu học sinh Trường Trung học Chu Văn An, Hà Nội. Tốt nghiệp phổ thông cô thi vào đại học tại trường Đại học y Dược Hà Nội. Năm 1966 tốt nghiệp Bác sĩ và sau đó cô tình nguyện vào chiến đấu tại chiến trường Liên Khu V tại Quảng Ngãi. Tại đây, cô được phân công về phụ trách một bệnh viện Dân Quân y tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Ngày 22-6-1970 trong một chuyến đi công tác cô bị địch phục kích và hy sinh anh dũng với tuổi đời còn rất trẻ (28 tuổi).
Trong thời gian công tác tại chiến trường Quảng Ngãi với bom đạn ác liệt, cô đã dành thời giờ quí báo ghi lại những sự việc sảy ra đang lúc cứu chữa bệnh nhân và cảm nghĩ của mình cũng như ý nghĩa thân phận con người với vô vàn gian khổ trong chiến tranh vệ quốc…
Bộ hồi ký của cô đã lọt vào tay của những người bên kia chuyến tuyến (binh sĩ Mỹ), nhưng được họ giữ gìn hơn 30 năm. Cuối cùng bộ hồi ký được những kẻ có lương tri cách nước ta cả nữa vòng trái đất trân trọng trả về cho gia đình cô nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày đất nước Việt Nam thống nhất.
Bộ hồi ký nay đã được xuất bản tại Hà Nội trong năm 2005. Tác phẩm có tên là: “Hồi ký Đặng Thùy Trâm” (NXB Hội Nhà Văn Việt Nam). Sách đã đánh động lương tâm nhiều người, nhiều đọc giả, nhất là độc giả trẻ tuổi Việt Nam.




Anh hùng Ngô Thị Tuyển.

Anh hùng Ngô Thị Tuyển sinh năm 1946 tại Nam Ngạn, Hàm Rồng, Thanh Hóa. Bà là nữ dân quân mưu trí, dũng cảm. Ngày 04/4/1965, trong một tình thế cấp bách, cô gái trẻ Ngô Thị Tuyển quả quyết, nhờ đồng đội nâng hai hòm đạn lên vai, rồi vác luôn chúng chạy băng qua hào sâu, dưới mưa bom để tiếp đạn. Hồi ấy, bà mới 19 tuổi, cân nặng chỉ có 42 kg, bà đã vác 2 hòm đạn nặng 98kg vượt qua bờ đê chuyển ra sông phục vụ chiến đấu tại Hàm Rồng Thanh Hóa. Với những thành tích xuất sắc trong chiến đấu, bà vinh dự được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng ba, được gặp Bác Hồ 3 lần và được chính Bác tặng huy hiệu của Người, 6 lần được tặng bằng khen, giấy khen. Ngày 01/01/1967,  Ngô Thị Tuyển được Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Quách Thị Trang (1948- 1963),

Pháp danh Diệu Nghiêm, là một phật tử tham gia trong cuộc biểu tình phản đối chính sách bất bình đẳng tôn giáo của chế độ Đệ nhất Cộng hòa và đã bị bắn chết ngày 25 tháng 8 năm 1963.
Quách Thị Trang sinh ngày 4 tháng 1 năm 1948 tại làng Cổ Khúc, huyện Tiên Hưng (nay là huyện Đông Hưng), tỉnh Thái Bình. Chị là con ông Quách Văn Bội và bà Hà Thị Vân, và là con thứ tư trong một gia đình có 6 người con gồm 4 trai 2 gái.
Năm 1954 trong cuộc di cư vào Nam, sáu anh em chị cùng mẹ vào ở vùng Chí Hòa (Sài Gòn), riêng cha chị bị kẹt ở lại và khoảng 3 tháng sau, thì được tin ông đã lìa đời.
Gặp cảnh khó, nhưng nhờ mẹ siêng mua bán, anh chị em chị đều được tiếp tục việc học. Phần chị được vào học Trường tư thục Trường Sơn, đồng thời sinh hoạt trong Gia đình Phật tử Minh Tâm.
Năm 1963, chị tích cực tham gia các phong trào đấu tranh chống chế độ và chính sách thiên vị tôn giáo của nhà cầm quyền lúc bấy giờ.
Và ngày 25 tháng 8 năm 1963, Quách Thị Trang đã có mặt trong số hơn 5.000 sinh viên học sinh biểu tình, trước công viên Diên Hồng ở trước cổng chính chợ Bến Thành (Sài Gòn). Cuộc biểu tình này do Ủy ban chỉ đạo Học sinh liên trường chỉ đạo, nhằm chống lại qui định “thiết quân luật” chính phủ Việt Nam Cộng hòa.Được lệnh cấp trên, đông đảo những cảnh sát dã chiến đã dàn quân và dùng loa yêu cầu đoàn biểu tình giải tán. Bất chấp những lời kêu gọi, tốp nữ học sinh đi đầu vẫn xông tới. Đến lúc này, cảnh sát nổ súng thẳng vào đoàn biểu tình làm nhiều người chết và bị thương. Trong số người chết, có Quách Thị Trang khi ấy mới 15 tuổi.Sau khi bị bắn chết, cảnh sát đã đem thi hài chị và đem về chôn trong nghĩa trang Tổng tham mưu vì muốn giấu kín cái chết này. Tuy nhiên, danh tính của chị được xác nhận và các sinh viên học sinh và đông đảo người dân ở Sài Gòn đã tổ chức một đám tang lớn cho chị nhằm phản đối hành động này của chính quyền.
Năm 1965, được sự đồng ý của chính phủ tướng Nguyễn Cao Kỳ, thượng tọa Thích Mãn Giác đã cho đặt một tấm biển đồng đề "Liệt nữ Quách Thị Trang" tại bệ tượng. Năm 1966, phần mộ của chị đã được gia đình và một số Phật tử cải táng đưa về chùa Phổ Quang cho đến hôm nay.Sau 1975, Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam công nhận Quách Thị Trang là liệt sỹ và nơi chị đã hy sinh cũng được chính thức mang tên quảng trường Quách Thị Trang.


Chị Hồ Thị Kỷ (1949 -1970)

Chị Hồ Thị Kỷ sinh năm 1949 ở ấp Cây Khô, xã Tân Lợi (nay là xã Hồ Thị Kỷ), huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Sinh ra và lớn lên trên một vùng đất có truyền thống cách mạng; với lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc, chị đã sớm giác ngộ cách mạng. Mới 11 tuổi, chị đã làm công tác giao thông liên lạc cho xã và nhiều lần đi theo người lớn tham gia đấu tranh, biểu tình…
Tháng 7/1966, chị đựơc phân công làm công tác văn phòng kiêm công tác giao liên của xã Tân Lợi. Tháng 9/1967, chị chuyển sang làm công tác Thanh niên. Trong thời gian này, chị cùng người chị dâu làm công tác binh địch vận. Bằng nhiều biện pháp, hai chị đã thuyết phục được tên đồn phó đồn Giồng Kê mang 10 quả lựu đạn về cho cách mạng. Chiến công này đã góp phần động viên tinh thần hăng say công tác của chị và nâng cao tinh thần chiến đấu của nhân dân địa phương.
Năm 1969, chị đựơc chọn vào đội biệt động thị xã Cà Mau và đựơc giao nhiệm vụ vào thị xã trinh sát. Vốn xinh đẹp lại thông minh nên chỉ sau một thời gian ngắn, chị đã nắm thông thạo địa bàn. Mỗi lần được giao nhiệm vụ, chị đều chuẩn bị chu đáo, kỹ càng để hoàn thành công việc nên cấp trên rất yên tâm, tin tưởng ở chị.Trận đánh vào kho hậu cần tiểu đoàn 3 (trung đoàn 32, sư đoàn 21 ngụy) là trận mở đầu chị tham gia và đã lập công xuất sắc, tiêu diệt 2 tên địch, phá huỷ một kho đạn và đốt cháy 2.000 lít xăng. Chiến công này đã gây được tiếng vang lớn, động viên anh chị em trong đội. Tiếp đến, chị tham gia vào trận đánh Toà Hành chính thị xã Cà Mau. Trong trận này, quân ta đã tiêu diệt 1 xe tăng và 2 xe GMC địch. Nhờ sự nỗ lực phấn đấu và những thành tích xuất sắc, ngày 2/10/1969 chị vinh dự được kết nạp vào Đảng.Ngày 10/7/1969, chị được giao chỉ huy một tổ đánh vào Phòng Căn cước, thuộc Ty Cảnh sát Cà Mau để tiêu diệt bọn ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân. Nhận nhiệm vụ, chị lên kế hoạch cụ thể, tự mình nhiều lần cải trang đi trinh sát, tìm hiểu quy luật hoạt động của địch. Nhờ vậy, trong trận này chị cùng với cả đội đã tiêu diệt được 6 tên địch và làm bị thương 5 tên. Chị được tặng danh hiệu Dũng sỹ quyết thắng cấp 2.
Câu chuyện còn mãi được người dân kể với niềm khâm phục, tự hào về tinh thần dũng cảm hy sinh của chị là trận đánh vào Ty Cảnh sát ngụy sáng ngày 3/4/1970. Hôm đó, khi chị cùng tổ chiến đấu gồm 4 đồng chí đến Ty, thấy bọn cảnh sát đang tập trung để chuẩn bị đi càn. Nhanh trí, chị quyết định cho cả tổ lùi ra và một mình thản nhiên xách chiếc làn đựng 10kg thuốc nổ tiến về phía quân địch. Thấy chị quen mặt, chúng xúm lại trêu chọc, hỏi thăm, chị lấy thuốc mời chúng hút...Nhanh như chớp, chị nhấn kíp mìn, một tiếng nổ dữ dội, quầng lửa trùm lên, 27 tên cảnh sát khét tiếng bị đền mạng trong đó có một sỹ quan Mỹ, 3 xe quân sự bị thiêu huỷ. Chị đã anh dũng hy sinh!Tinh thần xả thân vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của chị, người con gái đất Mũi mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ chúng ta. Chị đã để lại niềm tự hào, lòng khâm phục, kính trọng cho các thế hệ phụ nữ Việt Nam. Liệt sỹ Hồ Thị Kỷ đã được Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào ngày 19/5/1972.





Lê Thị Hồng
Anh hùng Lê Thị Hồng (tức Minh Thắng) sinh năm 1950, dân tộc Kinh, quê ở xã Cẩm Sơn, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đảng viên, chính trị viên phân đội biệt động 3 thị xã Bến Tre.
Trong chiến đấu, Lê Thị Hồng luôn thể hiện quyết tâm cao, tích cực tiến công, dũng cảm, táo bạo luồn sâu đánh địch. Chị đã trực tiếp đánh 8 trận ở nội đô thị xã Bến Tre, diệt 65 tên địch (có nhiều sĩ quan), làm bị thương hơn 20 tên, phá huỷ 6 tấn đạn dược. Nhiều lần Hồng mưu trí, chuyển vũ khí vượt qua các trạm gác của địch phục vụ cho các đơn vị đánh các mục tiêu quan trọng trong thị xã. 
Trong trận đánh sở chỉ huy biệt kích ở ngã năm thị xã Bến Tre (20-5-1969), mục tiêu nằm sâu trong thị xã, địch bố phòng cẩn mật, Lê Thị Hồng đã mưu trí thọc sâu nắm chắc tình hình, đề ra phương án chính xác. Trận này, chị diệt 16 tên địch, phá huỷ 6 tấn đạn. Trận đánh thắng làm bọn biệt kích hoang mang, nhiều tên bỏ ngũ, nhân dân trong thị xã phấn khởi tin tưởng.
Trận đánh Ty chiêu hồi địch ở thị xã Bến Tre (1-12-1969), Lê Thị Hồng làm nhiệm vụ nghiên cứu mục tiêu và vận chuyển vũ khí phục vụ cho trận đánh. Tuy địch canh phòng nghiêm ngặt, chị vẫn vượt qua các trạm kiểm soát, dũng cảm bám sát mục tiêu phục vụ cho đơn vị diệt 12 tên, trong đó có tên trưởng ty chiêu hồi.
Chị được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 12 bằng khen và giấy khen, 1 lần là Chiến sĩ thi đua. Ngày 6-11-1978, Lê Thị Hồng được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Lê Thị Hồng Gấm (1951-1970)

Chị là anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân, huân chương Quân công giải phóng hạng ba, sinh nǎm 1951, trong một gia đình nông dân lao động ở xã Long Hưng, huyện Châu Thành, Mỹ Tho (nay thuộc Tiền Giang).
Ngay khi còn nhỏ, chị đã được nghe kể những tấm gương hy sinh anh dũng của những người con ưu tú quê hương Mỹ Tho. Tấm gương can đảm của những Thủ Khoa Huân, Trần Xuân Hoà đã tạo cho chị lòng yêu quê hương, căm thù quân xâm lược. Chị còn nghe kể về chiến công nghĩa quân Tây Sơn tại Rạch Gầm - Xoài Mút vào năm 1779.
Năm 16 tuổi, chị tham gia du kích, được Cách mạng phân công làm giao liên. Rất nhiều lần chị dũng cảm đưa cán bộ vượt qua vòng vây của kẻ thù. Có lần chị đã vượt sông đánh lạc hướng quân giặc, để cán bộ cách mạng thoát khỏi vòng vây.
Năm 18 tuổi, chị được phân công về làm xã đội phó xã nhà. Khi ấy, chị ở hầm bí mật, cứ đêm lại về từng gia đình vận động nhân dân. Quê hương giải phóng, chị cùng bà con tổ chức sản xuất.
Với những thành tích ấy, chị được kết nạp vào Đảng nhân dân cách mạng miền Nam, tức Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mùa xuân năm 1970, trên đường giao liên, chị đã bị máy bay địch bao vây phục kích, một mình Lê Thị Hồng Gấm với khẩu súng trên tay đã tiêu diệt nhiều tên địch và bắn rơi máy bay lên thẳng của chúng.
Bị thương nặng, biết không qua khỏi, Gấm đã bắn đến viên đạn cuối cùng rồi gắng sức đập gãy nát khẩu súng để khỏi lọt vào tay địch. Lê Thị Hồng Gấm đã hy sinh trong trận đánh quyết liệt ấy. Chị được tặng danh hiệu Anh hùng giải phóng Miền Nam.

Sau cái chết của người anh hùng 19 tuổi, phong trào học tập chị được dấy lên. Ngay quê hương chị, một đơn vị vũ trang nữ được mang tên Lê Thị Hồng Gấm. Tinh thần hy sinh kiên cường của chị là nguồn sức mạnh tiếp thêm, tạo ra những chiến công của đơn vị.
Cảm động trước sự hy sinh anh dũng của Lê Thị Hồng Gấm, nhạc sĩ Phạm Tuyên đã sáng tác ca khúc Những cánh chim Hồng Gấm.



Đặng Thị Rành (1953-1969)

Liệt sỹ, quê xã Hiệp Bình, huyện Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; chiến sĩ biệt động Tiểu đoàn 3 Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, tuyên dương ngày 11 tháng 6 năm 1999.
Chị Đặng Thị Rành sinh năm 1953, ấp Diều Gà, xã Hiệp Bình, quận Thủ Đức, chị tham gia cách mạng từ năm 14 tuổi. Chị đã có gần 200 lần đi thư cho lãnh đạo, trên 30 lần trinh sát nắm tình hình để thông báo cho lãnh đạo và đơn vị đóng quân, 17 lần theo dõi địch để phục vụ cho lực lượng vũ trang tác chiến và chống càng thắng lợi, 22 lần đưa cán bộ ta đi lại an toàn… chị vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm trong nụ cười phấn khởi lạc quan. Chị đã bị địch bắt và sát hại trong trại biệt giam khi 16 tuổi.
Cuối tháng 8-1969, cuộc đấu tranh trong nhà lao Thủ Đức diễn ra ngày càng khốc liệt, Đặng Thị Rành và Nguyễn Thị Tần anh dũng hi sinh. Cái chết của hai nữ tù kiên trung đã làm dấy lên cao trào phản kháng mạnh mẽ.
Hơn 30 năm qua hài cốt chị vẫn chưa tìm thấy. Nhưng khí phách của cô gái đang tuổi thanh xuân - người nữ đảng viên trẻ quê hương Hiệp Bình - Thủ Đức vẫn sáng ngời niềm kiêu hãnh của một nhân sinh quan cách mạng “ Sống là chiến đấu, chết vinh quang”. Để ghi nhận sự hy sinh anh dũng của chị, quê hương Hiệp Bình- Thủ Đức đã làm hồ sơ truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho liệt sĩ Đặng Thị Rành.
Tên của Chị đã được đặt tên cho một ngôi trường tiểu học và một con đường tại Quận Thủ Đức, Tp.Hồ Chí Minh.

10 cô gái ở Ngã Ba Đồng Lộc

Ngã ba Đồng Lộc nằm trên đường Trường Sơn, thuộc địa phận Đồng Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Ngã ba Đồng Lộc có tổng diện tích 50ha nằm gọn trong một thung lũng hình tam giác, hai bên đồi núi trọc, giữa là con đường độc đạo, mặt đường giống như một lòng máng, bom địch thả xuống bên nào đất đá cũng lǎn xuống đường làm cản trở giao thông.
Hồi 17h ngày 24/7/1968 tiểu đội 4 thanh niên xung phong được lệnh trọng điểm ở khu vực địch vừa thả bom để san lập hố bom sửa chữa đường, kết hợp sửa chữa hầm trú ẩn khơi sâu rãnh thoát nước ở đoạn đường độc đạo để nhanh chóng thông đường cho xe qua. Tiểu đội 4 hôm ấy có 10 cô gái trẻ:
1.Võ thị Tần- 22 tuổi - tiểu đội trưởng
2.Hồ Thị Cúc- 21 tuổi - tiểu đội phó
3.Võ Thị Hợi - 20 tuổi - chiến sĩ
4.Nguyễn Thị Xuân- 20 tuổi - chiến sĩ
5.Dương Thị Xuân - 19 tuổi - chiến sĩ
6.Trần Thị Rạng- 19 tuổi - chiến sĩ
7.Hà Thị Xanh - 18 tuổi - chiến sĩ
8.Nguyễn Thị Nhỏ - 19 tuổi - chiến sĩ
9.Võ Thị Hạ-19 tuổi - chiến sĩ
10.Trần Thị Hường - 17 tuổi - chiến sĩ .
Nhận nhiệm vụ xong, các cô đến tại hiện trường gấp rút triển khai công việc với cả niềm vui được gửi gắm trên từng chiếc xe qua nên các cô không hề sợ hãi. Họ làm việc không ngơi tay, vừa cười, vừa nói, vừa ý ới gọi nhau. Bỗng một tốp máy bay phản lực từ h ướng Bắc vào Nam vượt qua trọng điểm. Tất cả các cô nhanh chóng nằm rạp xuống đường. Hết tiếng máy bay các cô lại chồm dậy làm việc. Bất ngờ tốp máy bay phản lực quay lại bay từ trong ra thả một loạt bom rơi đúng vào đội hình 10 cô gái. Các tiểu đội thanh niên xung phong đi sau chồm lên gào thét, nhân dân xóm Bãi Dĩa quanh đấy cũng lao ra gọi tên từng người. Khi đến nơi quả bom vừa nổ chỉ thấy một hố bom sâu hoắm, một vài chiếc xẻng, cuốc vǎng ra nhưng không còn thấy một ai, không nghe thấy một tiếng người. Cả 10 cô gái trẻ ấy đã hy sinh.
Để ghi sâu tội ác và ghi lại chiến tích của 10 cô gái tại trọng điểm lịch sử này Quốc hội và Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã truy tặng danh hiệu Anh hùng cho 10 cô gái hy sinh tại ngã ba Đồng Lộc


Hồ Thị Hương (1954 – 1975)

Chị Hồ Thị Hương sinh năm 20 tháng 7 năm 1954 tại xã Bình An, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định. Gia đình của chị từ miền Trung vào miền Nam sinh sống. Chị theo gia đình và đến ở tại Long Khánh từ nhỏ.
Năm 1970, Hồ Thị Hương tham gia hoạt động cách mạng và trở thành đội viên an ninh mật của Đội trinh sát vũ trang thị xã Long Khánh. Đội trinh sát vũ trang thị xã Long Khánh thành lập vào tháng 5 năm 1968. Với tinh thần hăng hái, dũng cảm, đội viên Hồ Thị Hương luôn hoàn thành xuất sắt những nhiệm vụ được giao.
Thị xã Long Khánh những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XX là tỉnh lỵ của tỉnh Long Khánh, nơi mà quân địch xem là cửa ngõ có vị trí chiến lược phía đông bắc để bảo vệ các căn cứ quân sự quan trọng ở vùmg 3 - đô thị Biên Hòa và thủ phủ Sài Gòn.
Tại Long Khánh, ngoài những căn cứ quân sự, địch bố trí hệ thống đồn bót, các sắc lính khá nhiều để bảo vệ cửa ngõ chiến lược và ngăn chặn sức tiến công của quân cách mạng tại địa phương Bà Rịa – Long Khánh.
Hoạt động của lực lượng vũ trang cách mạng Long Khánh trong giai đọan này cũng thật khó khăn. Hồ Thị Hương được giao hoạt động mật, gây dựng cơ sở trong nội ô thị xã để nắm bắt tin tức địch. Hồ Thị Hương đã xây dựng được 16 cơ sở cách mạng hoạt động hiệu quả và phát triển được phong trào thanh niên phụ nữ,  góp phần tích cực trong việc diệt ác, phá kềm ở địa phương. Từ những cơ sở cách mạng xây dựng và thực tế điều nghiên của mình, Hồ Thị Hương đã cung cấp nhiều thông tin quan trọng cho đội trinh sát vũ trang thị xã Long Khánh và tham gia các trận đánh địch táo bạo trong lòng thị xã khiến chúng tổn thất nặng nề.
Trận đánh vào quán bar Ly Ly đêm ngày 4 tháng 11 năm 1970, lực lượng vũ trang cách mạng tiêu diệt 11 tên lính, đa số là sĩ quan. Bằng sự dũng cảm và mưu trí, Hồ Thị Hương với bí danh H 25 cùng với đồng đội là Phùng Thị Thận (HC8T), Lê Thị Lệ (H120) đã tổ chức tấn công địch tại quán Ngọc Hương vào tối ngày 1 tháng 11 năm 1974 diệt 15 tên địch; trong đó có nhiều sĩ quan, một tên quận phó. Trận đánh đã làm chấn động chính quyền ngụy Long Khánh.
Hồ Thị Hương hy sinh vào ngày 29 tháng 1 năm 1975 khi đang làm nhiệm vụ. Hồ Thị Hương và Lê Thị Lệ tổ chức trận đánh vào nơi binh lính Việt Nam cộng hòa tụ tập trong quán Song Nga trên đường phố thị xã Long Khánh nhưng không đúng như kế hoạch đề ra. Trên đường rút để bảo vệ vũ khí, Hồ Thị Hương đã hy sinh. Năm 1978, liệt sĩ Hồ Thị Hương được truy tặng anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Nguồn suhoctre.hisforum.net; ditichlichsuvanhoa.com; quangbinhtourism.vn; trianlietsi.vn; hoilhpn.org.vn; doisongphapluat.com; vinhthanh.binhdinh.gov.vn; bimson.gov.vn; lichsuvietnam.vn; baodongnai.com.vn; baotangphunu.com; baclieu.gov.vn; na.gov.vn; thvl.vn; cualo.gov.vn; vinhanonline.com; bentre.gov.vn; pup.edu.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved