Hồi thứ sáu: Giả Bảo
Ngọc mới thử cuộc mây mưa-Lưu lão lão đến thăm phủ Vinh quốc
Sớm gõ cửa nhà giàu,
Nhà giàu cũng chưa đủ.
Tuy không tặng nghìn
vàng,
Tình còn hơn máu mủ.
Tần thị nghe thấy Bảo
Ngọc nằm mê gọi tên tục mình, bụng lấy làm buồn, nhưng không tiện hỏi kỹ.
Lúc này Bảo Ngọc vẫn
còn mê man, bâng khuâng như mất cái gì. Mọi người bưng bát nước hoa quế đến,
Bảo Ngọc uống hai ngụm mới đứng dậy sửa lại quần áo. Tập Nhân đến buộc hộ thắt
lưng, vừa thò tay vào đùi Bảo Ngọc, thấy một đám dính như hồ lành lạnh, Tập
Nhân giật mình co tay lại hỏi:
- Cái gì thế này?
Bảo Ngọc đỏ bừng mặt,
bấm mạnh tay Tập Nhân một cái. Tập Nhân là gái thông minh, hơn Bảo Ngọc hai
tuổi. Gần đây cô ta cũng hơi biết mùi đời, thấy thế trong bụng hiểu ngay một
phần nào, tự nhiên má đỏ bừng lên, không hỏi nữa, cứ thế sửa lại quần áo cho
Bảo Ngọc rồi đưa đến chỗ Giả mẫu. Bảo Ngọc ăn qua loa bữa cơm chiều, trở ngay
về nhà. Gặp lúc vắng người hầu, Tập Nhân lấy ngay quần lót cho Bảo Ngọc thaỵ
Bảo Ngọc ngượng nghịu:
- Chị đừng cho ai biết
nhé!
Tập Nhân cũng ngượng
nghịu cười khẽ:
- Cậu mơ gì thế? Cái
này ở đâu chảy ra thế?
- Không sao nói hết
được.
Bảo Ngọc liền đem việc
trong mộng kể lại tỉ mỉ cho Tập Nhân nghe. Khi nói đến cuộc mây mưa mà tiên cô
truyền cho, làm Tập Nhân xấu hổ, bưng mặt gục đầu xuống cười. Bảo Ngọc xưa nay
vẫn thích Tập Nhân có vẻ nhu mì, xinh xắn, bèn nài Tập Nhân cùng mình diễn lại
những việc nàng tiên Cảnh ảo đã chỉ dẫn trong mộng. Tập Nhân biết Giả mẫu đã
giao mình cho Bảo Ngọc, dù sao cũng không vượt qua khuôn phép, nên bằng lòng,
may không ai trông thấy cả.
Từ đấy, Bảo Ngọc biệt
đãi Tập Nhân hơn hẳn mọi người. Tập Nhân cũng hết lòng hầu hạ Bảo Ngọc hơn
trước.
Nay nói đến phủ Vinh,
người không đông lắm, tính trên dưới có tới ba bốn trăm, việc không nhiều lắm,
một ngày xử độ vài mươi vụ, rối beng như mối tơ vò, không biết lần từ đâu. Vậy
thì nên lấy việc gì, người nào làm đầu mối mà viết truyện được.
Bỗng có một nhà tầm
thường, nhỏ nhặt ở xa ngàn dặm, có bà con họ hàng với phủ Vinh, hôm nay đến phủ
thăm hỏi, nên nhân tiện xin bắt đầu câu chuyện từ nhà ấy. Các vị ngẫm xem nhà
ấy là ai, có bà con gì với phủ Vinh?
Nguyên cái nhà tầm
thường ấy là họ Vương, người địa phương này, đời ông làm chức quan nhỏ, trước
có quen biết ông của Phượng Thư là bố Vương phu nhân. Vì ham thế lợi nhà họ
Vương nên ông ta đến nhận họ và xưng là cháu.
Bấy giờ chỉ có bố
Phượng Thư là anh cả Vương phu nhân và Vương phu nhân ở Kinh mới biết có người
họ xa này, còn không ai biết cả. Sau đó, người ông mất sớm, chỉ có một con tên
là Vương Thành. Vì nhà sa sút phải dọn ra một cái xóm ngoại thành. Vương Thành
cũng chết, có con là Cẩu Nhi, lấy vợ họ Lưu, đẻ được một trai đặt tên là Bản,
một gái là Thanh. Cả nhà bốn miệng ăn, chuyên nghề làm ruộng. Cẩu Nhi phải đi
làm ở ngoài, họ Lưu thì gánh nước, giã gạo, bận rộn suốt ngày. Hai chị em con
Thanh, thằng Bản không có người trông nom, nên Cẩu Nhi mời mẹ vợ là già Lưu đến
giúp hộ.
Già Lưu góa chồng từ
lâu, không có con trai, sống nhờ vào hai mẫu ruộng xấu. Nay con rể mời đến ở,
lẽ nào lại không bằng lòng, vì thế già tận tình giúp đỡ rể và con gái. Năm ấy
cuối thu sang đông, trời sắp rét, trong nhà chưa có đồ mặc ấm, Cẩu Nhi không
khỏi buồn bực, uống vài chén rượu, đâm ra bẳn gắt. Vợ không dám nói động đến.
Già Lưu thấy vậy khó chịu mới khuyên:
- Này anh rể ơi! Anh
đừng giận tôi lắm điều nhé! Chúng ta là người nhà quê thực thà, hay ăn to nói
lớn. Anh còn trẻ tuổi, nhờ bố mẹ ăn mặc đầy đủ quen rồi, nên mới thấy thế đã
khó chịu. Khi có tiền thì anh ăn tiêu bừa bãi, lúc hết tiền đâm ra cáu kỉnh,
như thế sao gọi là tài trai, là đại trượng phu được? Chúng ta tuy xa thành thị,
nhưng vẫn ở trong Kinh độ Thành Trường An này chỗ nào chẳng kiếm ra tiền, chỉ
tại mình không biết đấy thôi. Anh cứ ở nhà cáu kỉnh thì được cái gì?
Cẩu Nhi nghe thấy thế
vội nói:
- Bà chỉ ngồi xó bếp
nói bừa! Bà bảo tôi đi ăn cướp à?
Già Lưu nói:
- Ai bảo anh đi ăn
cướp. Chúng ta phải tìm cách gì để sinh sống, nếu không, khi nào tiền nó chạy
vào túi mình.
Cẩu Nhi cười nhạt:
- Nếu có cách kiếm tiền
thì tôi chẳng đến nỗi này. Tôi không có họ hàng với người thu thuế, bạn bè với
người làm quan, thì lần đâu cho rả Họ có đấy, nhưng ai thèm nghĩ đến chúng ta?
Già Lưu nói:
- Không phải thế, người
ta chỉ biết lo việc, còn được hay không là nhờ trời. Chúng ta cứ lo đi, may nhờ
Phật phù hộ sẽ gặp dịp tốt cũng chưa biết chừng. Tôi sẽ tìm cho anh một cách.
Ngày trước nhà anh nhận họ với họ Vương ở Kim Lăng. Hai mươi năm trước đây, họ
đối với nhà anh cũng từ tế. Bây giờ anh lại làm bộ không chịu đến thăm họ,
thành ra xa hẳn đi. Nhớ lúc trước, mẹ con tôi đã có lần đến đó. Cô thứ hai nhà
ấy tính tình nhũn nhặn, không hay kênh kiệu, rất rộng rãi đối với mọi người,
giờ là phu nhân họ Giả ở phủ Vinh. Nghe đâu bà ấy đã có tuổi, biết thương người
già, kẻ khó, hay bố thí cho sư sãi. Hiện giờ họ Vương được thăng quan ra ngoài
biên rồi, nhưng chắc thế nào bà ấy cũng còn nhớ chúng tạ Tại sao anh không chịu
đến thăm? May ra bà ấy nghĩ đến người cũ, giúp đỡ ít nhiều cũng chưa biết
chừng. Chỉ cốt họ có lòng tốt, nhổ ra một sợi lông măng còn to hơn cái lưng
chúng ta.
Vợ Cẩu Nhi nói theo:
- Bà nói phải đấy.
Nhưng anh ấy với tôi người ngợm thế này thì làm sao đến nhà người ta được. Chỉ
sợ người gác cửa không cho vào thôi.
Cẩu Nhi vốn nặng lòng
danh lợi, vừa nghe mẹ vợ nói, trong lòng đã ngứa ngáy. sau lại nghe vợ nói
liền, cười nói:
- Bà nói phải đấy. Ngày
trước đã có lần bà đến thăm bà ấy, thế thì ngày mai bà nên đi một chuyến nữa,
nghe ngóng ra sao?
Già Lưu nói:
- Chao ôi, người ta
thường nói: “Cửa nhà quan sâu như bể.” Ta là cái thá gì, lại không quen biết
ai, thì đi cũng uổng công thôi.
Cẩu Nhi nói:
- Không sao, tôi sẽ bảo
cách. Bà dắt cháu Bản đi. Trước hết bà tìm đến Chu Thuỵ là người hầu bà Vương
lúc mới về nhà chồng. Gặp được ông ấy, ta sẽ có phần chắc đấy. Ngày trước, cha
tôi có giúp ông ấy một việc, từ đấy hai bên đi lại rất tử tế với nhau.
Già Lưu nói:
- Tôi hiểu rồi. Nhưng
lâu nay mình không đến thăm, không biết người ta thế nào, thành ra cũng khó
nói. Anh là đàn ông, ăn nói lỗ mãng, cố nhiên không nên đến. Vợ anh còn non trẻ
cũng không nên xông xáo. Thôi, để gái già này đành giơ mặt hứng lấy việc vậy.
Nếu được may mắn thì cả nhà cũng có lợi đấy.
Chiều hôm ấy bàn định
xong, hôm sau, trời chưa sáng rõ, già Lưu đã dậy rửa mặt, chải đầu, rồi dặn
cháu Bản mấy câu. Đứa bé mới năm, sáu tuổi, nghe nói được ra tỉnh chơi, mừng
tíu lên, bảo gì cũng vâng.
Già Lưu dắt thằng Bản
vào thành. Khi đến phố Ninh-Vinh, cạnh con sư tử đá ở trước cửa phủ Vinh, thấy
chật ních những ngựa và kiệu. Già Lưu đứng lại, phủi quần áo, dặn cháu Bản mấy
câu rồi chạy đến chỗ cửa nách. Thấy mấy người đương ngồi trên ghế lớn, ưỡn
ngực, phưỡn bụng, khoa chân múa tay, nói chuyện ba hoa, già Lưu rón rén lại
chào:
- Lạy các ông ạ!
Mọi người ngắm nghía
một lúc rồi hỏi:
- Ở đâu đến đây?
Già Lưu cười đáp:
- Tôi cần hỏi ông Chu là người theo hầu Vương phu nhân, nhờ ông mời ra hộ.
Không ai thèm để ý đến.
Một lúc lâu họ mới trả lời:
- Hãy lại góc tường
thật xa đằng kia mà chờ. Chốc nữa trong nhà sẽ có người ra.
Trong bọn, có một người
lớn tuổi, nói:
- Đừng làm người ta nhỡ
việc.
Rồi ngoảnh lại hỏi già
Lưu:
- Ông Chu đi sang bên Nam rồi. Nhà ở
phía sau, chỉ có bà ấy ở nhà thôi. Mụ đi vòng ra cửa sau mà vào.
Già Lưu cảm ơn, dắt
cháu Bản đi vòng ra cửa sau. Thấy trước cửa có nhiều gánh hàng bán thức ăn, bán
đồ chơi, lại có mấy chục đứa trẻ đang đùa nghịch ầm ỹ, già Lưu níu lấy một đứa
hỏi:
- Hỏi cậu một tí, bà Chu có nhà không?
Đứa bé trừng mắt:
- Bà Chu nào? ở đây có
ba bà Chu kia. Còn
hai bà Chu nữa. Không biết bà Chu nào?
-
Bà ấy là người theo hầu Vương phu nhân.
-
Thế thì dễ thôi. Bà cứ đi theo tôi.
Rồi
nó lon xon dẫn già Lưu đến bên cạnh tường sau dinh, trỏ bảo:
-
Đấy nhà bà ấy đấy.
Nói rồi lại gọi to:
- Bà Chu ơi, có bà già
nào hỏi đấy.
Vợ Chu Thụy vội chạy ra
hỏi:
- Bà nào đấy?
Già Lưu đon đả chạy lại
cười nói:
- Bà chị có được khỏe
không?
Vợ Chu Thụy nhìn một
lúc rồi cười nói:
- À bà Lưu ! Bà vẫn
khỏe đấy chứ! đã mấy năm nay không gặp, thành ra tôi quên mất. Xin mời bà vào
nhà chơi.
Già Lưu vừa đi vừa cười
nói :
- Bây giờ bà sang rồi,
hay quên là phải, còn nhớ gì đến chúng tôi nữa.
Nói xong vào trong nhà.
Vợ Chu Thụy sai con bé
pha trà uống, rồi hỏi:
- Cháu Bản đã lớn thế
kia à?
Sau mấy câu chuyện kể
lại trong khi xa nhau, bà Chu
hỏi già Lưu:
- Hôm nay bà đi qua tạt
vào chơi, hay chủ ý đến đây có việc gì?
Già Lưu nói:
- Hôm nay tôi chủ ý đến
thăm bà chị, sau nữa muốn đến hầu cả bà Vương. Nếu có thể đưa tôi đến được càng
hay, bằng không thì nhờ bà chị nói giúp.
Bà Chu nghe nói đã phần
nào đoán được chủ ý của già Lưu. Vì chồng bà Chu
trước kia nhờ thế lực bố Cẩu Nhi mới mua tranh được ít ruộng đất. Nay thấy già
Lưu nói thế, bà Chu không tiện chối từ, mặt
khác muốn tỏ ra là mình có thể diện nên cười nói:
- Bà cứ yên tâm, ở xa
thế mà cũng chịu khó đến đây, lẽ nào tôi không dẫn đến chầu đức Phật bà. Cứ lẽ
ra, những người đi lại đây không can dự gì đến tôi cả. Mỗi người một việc. Ông
nhà tôi một năm hai mùa đi thu tô, lúc rồi thì dắt các cậu đi chơi, thế là hết.
Còn tôi, chỉ có việc theo hầu các bà các cô đi chơi thôi. Vì bà là người bà con
với bà Hai, vả lại cần đến tôi, tôi xin cố sức giúp hộ. Nhưng có một việc chắc
bà không biết, ở đây không như năm năm về trước nữa đâu. Hiện giờ bà Hai không
nhìn đến việc gì, tất cả đều giao cho mợ Liễn trông coi. Bà thử đoán xem mợ
Liễn là ai? Tức là cháu gái bà Hai, con gái nhà ông cậu, lúc nhỏ cứ gọi là cô
Phượng đấy.
Già Lưu nghe vậy lấy
làm lạ lùng, hỏi:
-
Thế ra cô ấy đấy à? Không trách được! Trước tôi vẫn nói cô ta khá lắm. Thế ra
hôm nay tôi lại được gặp.
-
Việc ấy cố nhiên rồi. Bây giờ bà Hai còn bận nhiều việc. Hễ khách nào đến có
thể đẩy được là đẩy cho mợ Phượng săn sóc tiếp đãi cả. Hôm nay bà chưa nên gặp
bà ấv vội, thế nào cũng phải gặp mợ Liễn, thì bà đi chuyến này mới không đến
nỗi uổng công.
-
Ai di đà Phật! Thôi trăm sự nhờ bà chị.
-
Sao bà lại nói thế? Tục ngữ nói rất đúng: “Giúp người tức là giúp mình”. Tôi
chỉ mất lời nói thôi chứ có tốn kém gì đâu.
Nói
xong, bà Chu sai a hoàn lẻn lên nhà trên, dòm xem bên cụ đã dọn cơm chưa. A
hoàn đi rồi, hai người ở nhà nói chuyện phiếm. Già Lưu nói:
-
Mợ Phượng năm nay chỉ độ hai mươi tuổi thôi, thế mà có tài đảm đang trông coi
tất cả công việc trong nhà, thật là ít có.
Bà
Chu nói:
-
Ái chà? Còn phải nói. Mợ ấy ít tuổi, nhưng đảm đang gấp mấy người tạ Bề ngoài
dáng điệu óng ả, tưởng chỉ là một cô gái đẹp, nhưng lại là người có đến vạn con
mắt, không chỗ nào là không nhìn thấy. Còn về ăn nói thì chấp cả mười anh đàn
ông mồm mép cũng phải thuạ Chốc nữa gặp, bà sẽ biết. Có điều đối với người dưới
hơi nghiệt thôi.
Một
chốc a hoàn về báo:
-
Bên nhà cụ đã dọn cơm xong. Mợ hai đương ở nhà Vương phu nhân.
Bà
Chu nghe nói, vội vàng đứng dậy giục già Lưu:
-
Đi đi! Chốc nữa họ ăn cơm xong là có dịp rồi đấy, chúng ta đến chờ trước đi.
Nếu chậm một bước, nhiều người đến trình việc thì khó nói lắm. Họ ăn xong lại
đến giấc ngủ trưa, còn thì giờ nào nữa.
Hai
người cùng xuống giường, sửa lại quần áo. Già Lưu nhắc lại thằng Bản mấy câu,
rồi theo bà Chu đi quanh đến nhà Giả Liễn. Khi đến buồng ngoài, bà Chu để già
Lưu ngồi chờ một chỗ, tự mình đi qua bức tường vẽ, tiến lên cửa dinh. Biết
Phượng Thư chưa ra, bà Chu tìm ngay Bình Nhi là một a hoàn hầu cận của Phượng Thư,
kể rõ lai lịch già Lưu rồi nói:
-
Bây giờ già ấy ở xa đến thăm bà Hai. Vì ngày trước bà Hai đã thường gặp, nên
tôi dắt bà ấy đến đây. Chờ khi mợ xuống, tôi sẽ nói rõ đầu đuôi, chắc mợ không
mắng tôi là người lỗ mãng.
Bình
Nhi nghe xong nói:
-
Mời họ lên ngồi chỗ này đã.
Bà
Chu ra dẫn bà cháu già Lưu đến thềm giữa. Bọn a hoàn nhỏ vén rèm đỏ lên. Vừa
bước vào nhà đã thấy mùi hương ngào ngạt. Già Lưu không biết mùi gì, cứ như
đứng ở trong đám mây vậy. Nhìn khắp nhà, đồ vật bày biện sáng choang; làm cho
ai nấy phải nhức đầu lóa mắt. Già Lưu bây giờ chỉ biết gật đầu lẩm nhẩm niệm
Phật, rồi đến gian nhà phía đông là buồng ngủ của con gái Giả Liễn. Bình Nhi
đứng cạnh bục ngắm nhìn già Lưu hỏi một câu và mời ngồi. Già Lưu thấy Bình Nhi
khắp người là lượt, trâm vàng, vòng bạc, dáng đẹp như hoa, mặt tròn như trăng,
tưởng là Phượng Thư, toan chào là “cô”, nhưng thấy bà Chu nói: “Đây là cô
Bình”. Lại thấy Bình Nhi gọi bà Chu là bà, già Lưu mới biết đấy chỉ là một thị
nữ hạng khá. Bình Nhi mời già Lưu và cháu Bản ngồi lên bục, bọn a hoàn nhỏ pha
trà mời uống.
Già Lưu nghe có tiếng lách tách như tiếng thanh la, nhìn ngược nhìn xuôi, thấy trên cột có treo một cái hộp, dưới hộp có một cái gì như quả cầu. cứ đưa đi đưa lại luôn. Già Lưu nghĩ bụng: “Nó là cái gì? Dùng nó để làm gì?” đương lúc ngẩn ngơ suy nghĩ thì nghe “Keng” một tiếng như chuông vàng, khánh đồng vậy. Sợ quá, già Lưu trên mắt lên nhìn, lại thấy “keng keng” tám chín tiếng liền, già Lưu toan hỏi thì bọn a hoàn nhỏ chạy xô đến nói:
Già Lưu nghe có tiếng lách tách như tiếng thanh la, nhìn ngược nhìn xuôi, thấy trên cột có treo một cái hộp, dưới hộp có một cái gì như quả cầu. cứ đưa đi đưa lại luôn. Già Lưu nghĩ bụng: “Nó là cái gì? Dùng nó để làm gì?” đương lúc ngẩn ngơ suy nghĩ thì nghe “Keng” một tiếng như chuông vàng, khánh đồng vậy. Sợ quá, già Lưu trên mắt lên nhìn, lại thấy “keng keng” tám chín tiếng liền, già Lưu toan hỏi thì bọn a hoàn nhỏ chạy xô đến nói:
-
Mợ sắp xuống đấy!
Bà
Chu và Bình Nhi đứng dậy vội bảo già Lưu:
-
Bà cứ ngồi đây chờ một lúc, tôi sẽ lại mời.
Nói
rồi chạy ra ngoài.
Già
Lưu ngồi im lặng lắng tai nghe ngóng. Chỉ thấy xa xa có tiếng cười, chừng vài
chục người đàn bà, quần áo sột soạt, lên thềm đi vào nhà. Lại thấy hai ba người
đàn bà cầm hộp sơn đỏ đứng đấy chờ. Rồi trong nhà có tiếng gọi: “Dọn cơm”. Mọi
người dần dần lui ra, chỉ còn một vài người ở lại bưng thức ăn. Cả nhà im lặng
không một tiếng động. Giờ lâu hai người khiêng cái mâm để lên trên bục. Trên
mâm bát đĩa đầy những thịt cá, nhưng chỉ mới khuyết qua loa một vài thứ. Thằng
Bản trông thấy đòi ăn, già Lưu tát nó một cái. Chợt thấy bà Chu cười hì hì chạy
đến vẫy tay gọi. Già Lưu biết ý, dắt thằng Bản xuống bục đi lại gian giữa. Bà
Chu đến thì thầm với già Lưu một lúc, rồi cùng rón rén vào nhà trong. Vừa bước
vào cửa, già Lưu nhìn thấy trên móc đồng treo một cái màn hoa màu đại hồng,
dưới cửa sổ hướng nam, kê một cái bục giải nệm màu đại hồng; cạnh vách phía
đông đặt cái nệm, tựa lưng bằng gấm thêu, một cái gối tựa và một cái nệm ngồi
cũng thêu bằng chỉ kim tuyến; bên cạnh có cái ống nhổ bằng bạc. Phượng Thư ở
nhà thường đội mũ Chiêu Quân lông điêu sắc tía, chung quanh có dây giắt hạt
châu, mặc áo hoa màu hồng điều, khoác áo choàng bằng da chuột, viền chỉ tơ màu thạch
thanh, mặc quần nền lụa đại hồng phấn son lộng lẫy, ngồi nghiêm chỉnh ở đấy,
tay đương cầm cái đũa bằng đồng gạt tro lồng ấp.
Bình
Nhi đứng ở bên giường, bưng một cái khay sơn nhỏ, trong có một chén trà. Phượng
Thư không cầm lấy chén, không ngửng đầu lên, cứ tay gạt tro, miệng thong thả
nói: “Làm sao mãi không mời người ta lên?” Vừa lúc ngẩng lên uống nước thì thấy
bà Chu dẫn hai người đứng ở dưới đất. Phượng Thư toan đứng dậy nhưng chưa đứng,
vẻ mặt đã tươi cười hỏi han, lại quở bà Chu: “Tại sao không báo sớm?”
Già
Lưu đứng dưới đất lạy mấy lạy, hỏi thăm sức khỏe. Phượng Thư nói :
-
Chị Chu đỡ dậy, đừng để lạy nữa. Xin mời ngồi. Tôi còn ít tuổi, chưa biết rõ
thứ bậc họ hàng, không biết xưng hô thế nào?
Bà
Chu nói:
-
Đây là bà cụ tôi mới trình mợ lúc nãy.
Phượng
Thư gật đầu.
Già
Lưu đã ngồi vào mép bục bảo thằng Bản đến hàng trăm lần ra chào mợ Hai, nó vẫn
cứ nấp sau lưng, nhằng nhằng không chịu ra.
Phượng
Thư cười nói :
-
Chỗ họ hàng không năng đi lại, thành ra xa nhau. Người biết ra thì bảo bà con
hững hờ với nhau, không đến chơi luôn. Người không biết lại bảo chúng tôi không
coi ai ra gì.
Già
Lưu vội nói:
-
A di đà phật, nhà chúng tôi nghèo khó, không dám đến đây, dù cô không nói gì,
nhưng các ông quản gia cũng chẳng coi chúng tôi ra sao.
Phượng
Thư cười nói:
-
Đừng nói thế, chẳng qua nhờ tiếng ông cha làm một chức quan kiết, chứ giàu có
gì, chỉ là cái giá rỗng đấy thôi. Câu tục ngữ nói rất đúng: “Nhà vua còn có ba
họ nghèo” nữa là nhà chúng ta.
Nói
xong lại hỏi bà Chu đã đến trình bà chưa. Bà Chu đáp:
-
Còn chờ lệnh mợ.
Phượng
Thư nói:
-
Chị đi xem, nếu có ai ở đấy thì thôi, bằng không thì hãy trình xem người bảo
sao?
Bà
Chu vâng lời đi ngaỵ Phượng Thư sai người lấy hoa quả cho cháu Bản ăn. Vừa nói
chuyện phiếm mấy câu, đã có nhiều người nhà đến trình việc. Bình Nhi vào báo.
Phượng Thư bảo:
-
Ta bây giờ đương bận tiếp khách, bảo họ chiều hãy đến. Nếu ai có việc cần thì
cứ vào.
Bình
Nhi ra một lúc rồi vào nói:
-
Tôi đã hỏi, không có ai có việc gì cần cả. Tôi bảo họ về cả rồi.
Phượng
Thư gật đầu.
Bà
Chu trở về nói với Phượng Thư:
-
Bà nói, hôm nay không được rồi. Mợ tiếp cũng thế. Cảm ơn bà ấy có lòng tốt đến
hỏi thăm. Bà ấy đến chơi không thì thôi, nếu có việc gì muốn nói thì cứ nói với
mợ cũng được.
Già
Lưu nói:
-
Không có việc gì, tôi chỉ đến thăm bà cô và cô thôi, vì tình bà con họ hàng với
nhau.
Bà
Chu nói:
-
Không có việc gì thì thôi, nếu cần gì thì cứ nói với mợ cũng như là nói với bà
vậy.
Vừa
nói bà Chu vừa đưa mắt cho già Lưu.
Già
Lưu biết ý, chưa nói mặt đã đỏ bừng. định không nói. Nhưng hôm nay đến đây làm
gì. Bà đành ngượng nghịu nói:
-
Hôm nay mới gặp lần đầu, đáng lẽ tôi không nên nói thì phải. Nhưng vì từ xa đến
đây, tôi không thưa cũng không được.
Vừa
nói đến đây thì có bọn a hoàn vào trình:
-
Có cậu cả Dung ở bên phủ Đông sang chơi.
Phượng
Thư vội gạt tay nói:
-
Bà không cần phải nói nữa.
Rồi
ngoảnh mặt ra hỏi:
-
Cậu cả Dung ở đâu?
Chợt
nghe tiếng giày lẹp kẹp , một chàng trẻ tuổi độ mười bảy, mười tám, mặt mũi
thanh tú, khổ người mềm mại, ăn mặc lịch sự, áo cừu mỏng, đai dát ngọc, từ
ngoài đi vào. Già Lưu bấy giờ cuống quít đứng ngồi không tiện, chẳng biết lánh
chỗ nào. Phượng Thư cười nói:
-
Bà cứ ngồi yên, cháu tôi đấy.
Già
Lưu mới rụt rè ngồi ghé bên cạnh bục.
Giả
Dung chào rồi cười nói:
-
Cha cháu sai cháu đến nhờ thím một việc. độ trước bên bà ngoại có cho thím cái
bình phong pha lệ Ngày mai nhà cháu có khách xin thím cho mượn về, xong cháu sẽ
trả ngay.
Phượng
Thư nói:
-
Cháu đến chậm quá. Hôm nọ ta trót cho mượn mất rồi.
Giả
Dung nghe nói cười hì hì, quỳ lom khom ở trên bục nói:
-
Nếu thím không cho mượn, cha cháu sẽ bảo cháu không khéo nói, lại bị một trận
đòn thôi. Thím ơi! Thương cháu với.
-
Không lẽ cái gì của nhà họ Vương cũng đều đẹp cả. Ở bên nhà cháu bao nhiêu đồ
đẹp, nhưng hễ thấy cái gì của ta là chỉ chực cuỗm thôi.
-
Thôi xin thím cứ làm ơn cho.
-
Nhưng hễ sứt sát một tý là ta xé xác đấy!
Rồi
sai Bình Nhi lấy chìa khóa mở cửa lầu, gọi mấy người cẩn thận lên khiêng bình
phong đi. Giả Dung vội cười nói:
-
Cháu sẽ tự dẫn người mang đi không dám làm sứt mẻ một tý.
Nói
xong đứng dậy đi.
Phượng
Thư chợt nghĩ đến một việc, vội ngoảnh ra cửa sổ gọi :
-
Cháu Dung hãy trở lại đây.
Mấy
người bên ngoài gọi theo:
-
Cậu Dung hãy trở lại.
Giả
Dung vội quay lại, buông thõng tay đứng đợi.
Phượng
Thư cứ lẳng lặng uống nước, rồi ngẩn một lúc rồi mặt tự nhiên đỏ bừng lên, cười
nói:
-
Thôi cháu hãy về đi. Cơm chiều xong lại đây sẽ nói. Bây giờ đương có người, ta
chẳng bụng nào nghĩ đến nữa.
Giả
Dung vâng một tiếng rồi lững thững đi ra.
Già
Lưu lúc này mới yên dạ, bèn nói:
-
Hôm nay tôi đem cháu cô đến, chẳng có việc gì khác cả. Chỉ vì bố mẹ cháu ở nhà
ăn cũng không có, trời lại rét, nên phải mang cháu đến đây.
Nói
xong, lại giục thằng Bản:
-
Ở nhà bố mày dặn mày đến nói những gì để bày tỏ hết tình cảnh nhà tả Mày chỉ
biết ăn thôi!
Phượng
Thư biết ngay, thấy đứa bé không nói, liền cười bảo:
-
Thôi, không cần nói nữa, tôi biết cả rồi.
Rồi
lại hỏi bà Chu:
-
Bà Lưu đã ăn cơm sáng chưa?
Già
Lưu vội đáp:
-
Trời vừa sáng tôi đã tất tưởi chạy đến đây, còn có thì giờ đâu mà ăn nữa.
Phượng
Thư bèn sai dọn cơm ngay.
Một
lúc bà Chu gọi bưng một mâm cơm để ở gian nhà phía đông rồi dắt già Lưu và
thằng Bản sang ăn.
Phượng
Thư nói:
-
Chị Chu sang mời hộ, tôi không thể tiếp được.
Rồi
lại gọi bà Chu đến hỏi:
-
Vừa rồi chị đến trình bà, người bảo sao?
-
Bà nói bà ấy không phải là người trong họ đâu. Trướcđây ông nhà họ và ông nhà
ta cùng làm quan một nơi, nên nhận họ cho thân đấy thôi. Đã mấy năm nay họ
không đến thăm nom gì. Trước đây mỗi lần họ đến, không lần nào về không. Nay bà
ấy đến thăm, cũng là có bụng tốt; đừng khinh rẻ người tạ Nếu cần gì, mợ cứ việc
định đoạt.
Phượng
Thư nghe xong rồi nói:
-
Không trách được! Bảo là người trong họ, sao ta lại chẳng biết một tí gì?
Hai
người đang nói chuyện, già Lưu đã ăn cơm xong, dắt thằng Bản đến, liếm môi liếm
mép, lắp bắp cám ơn.
Phượng
Thư cười nói:
-
Hãy ngồi xuống đây để tôi nói chuyện đã. Bà nói lúc nãy tôi hiểu cả rồi. Đã là
người trong họ, đáng ra không đợi bà đến đây tôi mới giúp đỡ. Nhưng giờ nhà tôi
nhiều việc, bà Hai đã có tuổi, không thể mỗi lúc nghĩ đến tất cả họ hàng được.
Nhà tôi tiếng tăm bề ngoài lừng lẫy thực, biết đâu cũng còn nhiều việc khó
khăn. Nói ra chưa chắc đã ai tin. Bà ở xa đến đây, lại lần đầu giãi bày câu
chuyện, lẽ nào tôi để cho bà về không. May sao vừa rồi mẹ tôi cho hai mươi lạng
bạc để may quần áo cho người nhà, hiện chưa dùng đến, nếu bà không chê ít thì
hãy đem về tiêu tạm vậy.
Già
Lưu trước nghe nói khó khăn, tưởng không hy vọng gì, trong lòng thậm thột. Sau
thấy cho hai mươi lạng bạc thì hớn hở vui mừng, người rạo rực lên, cười nói:
- Chúng tôi biết nhà ta
bây giờ cũng khó khăn thực. Nhưng tục ngữ nói: “Con lạc đà còm rúm, vẫn lớn hơn
con ngựa”. Dù thế nào mặc lòng, nhà ta chỉ nhổ một cái lông măng còn hơn cả cái
lưng chúng tôi.
Bà Chu đứng bên, nghe
già Lưu nói nhiều câu tục tằn, phải đưa mắt bảo thôi. Phượng Thư cười, không để
ý đến, sai Bình Nhi đem gói bạc ra và lấy thêm một quan tiền nữa để cả trước
mặt già Lưu. Phượng Thư nói:
- Hai mươi lạng bạc này
hãy tạm cho lũ trẻ may áo rét. Hôm nào bà lại đến chơi, thế mới là tình họ
hàng. Bây giờ muộn rồi, không muốn mời suông. Khi về nhà, ai nên hỏi thăm, nhờ
bà hỏi hộ.
Nói rồi đứng dậy.
Già Lưu tay cầm tiền,
mồm cám ơn lia lịa rồi theo bà Chu đi ra.
Bà Chu nói:
- Cha mẹ Ơi, khi gặp mợ
ấy sao bà nói vụng về thế? Cứ mở miệng ra bà gọi thằng Bản là cháu cộ Tôi nói
câu này bà đừng giận, ngay cháu ruột mợ ấy cũng phải ăn nói cho nhã nhặn. Như
cậu Dung mới thực là cháu, chứ đâu lại có thằng cháu như thế này?
Già Lưu cười nói:
- Chị Ơi! Trông thấy mợ
ấy tôi yêu quá đi mất, còn nói sao nên lời nữa.
Hai người nói chuyện
xong lại đến nhà bà Chu ngồi một lúc. Già Lưu
muốn để một lạng bạc cho con bà Chu ăn quà, nhưng bà Chu
khi nào thèm để mắt đến, nhất định không nhận.
Già Lưu cám ơn luôn
mồm, rồi ra cửa sau về nhà. Thực là:
Để giúp đỡ trong khi
hởi dạ,
Hơn bạn bè ở chỗ mang
ơn.
Hồi thứ bảy: Đem biếu
cung hoa, Giả Liễn đùa Hy Phượng-Ăn yến Ninh phủ, Bảo Ngọc gặp Tần Chung
Bà Chu tiễn già Lưu về
rồi, lên trình Vương phu nhân, không thấy ở trong phòng, hỏi ra lũ a hoàn mới
biết là sang chơi bên Tiết phu nhân. Bà Chu liền ra cửa nách, qua nhà phía
đông, đến viện Lệ hương. Vừa vào cửa, thấy a hoàn của Vương phu nhân là Kim
Xuyến cùng một a hoàn mới để tóc đang đùa với nhau ở trên thềm. Trông thấy bà Chu , Kim Xuyến biết tất có việc gì liền hếch mồm vào phía
trong ra hiệu.
Bà Chu khẽ nâng rèm
bước vào, thấy Vương phu nhân cùng Tiết phu nhân đang nói chuyện lan man hết
việc nhà đến việc người. Bâ Chu không dám đánh động, rảo bước vào nhà trong,
thấy Tiết Bảo Thoa mặc đồ thường, trên đầu búi tóc trần, ngồi cạnh bục, cúi
xuống bàn cùng a hoàn là Anh Nhi đang vẽ hoa. Thấy bà Chu
đến, Bảo Thoa bỏ bút xuống, quay người lại, đon đả cười nói:
- Mời chị Chu ngồi.
Bà Chu vội cười hỏi:
- Cô mạnh luôn chứ?
Rồi ngồi cạnh bục nói:
- Đã hai ba hôm nay
không thấy cô sang bên kia chơi, hay là cậu Bảo có điều gì trái ý đấy!
- Sao lại nói thế? Chỉ
vì bệnh của tôi lại phát, nên phải ở nhà tĩnh dưỡng mấy ngày.
-
Thế à? Cô có bệnh gì? Nên mời thầy xem mạch cho thuốc. Còn trẻ tuổi mà mắc bệnh không
phải là chuyện chơi đâu!
- Thôi đừng nói chuyện
ấy nữa, đã mời bao nhiêu thầy lang, tốn thuốc, tốn tiền, rút cục chẳng thấy
hiệu nghiệm gì. Sau có một vị hòa thượng chuyên trị những bệnh không tên, không
tuổi, tôi nhờ xem, người bảo tôi bị nhiệt độc từ khi ở trong thai, may mà tiên
thiên tốt, nên không việc gì. Thuốc thường thì không ăn thua. Người có kê cho
bài thuốc tên là “Hải thượng tiên phương”(1), lại cho một gói thuốc bột để làm
thuốc dẫn, mùi thơm lạ thường. Người bảo: hễ thấy đau thì uống một liều là đỡ
ngay. Kể cũng lạ thật, uống vào quả thấy hiệu nghiệm.
- Phương thuốc gì, cô
cho biết, để sau này có ai mắc bệnh như thế tôi sẽ mách họ, cũng là một việc
làm phúc.
- Đừng hỏi phương thuốc
ấy còn hơn, nếu hỏi, có khi làm người ta bực đến chết được. Các vị thuốc phải
có đồng cân đồng lạng nhất định, khó nhất là được hai chữ “Vừa khéo”. Phải có
mười hai lạng nhụy hoa mẫu đơn trắng nở vào mùa xuân, mười hai lạng nhụy hoa
sen trắng nở vào mùa hạ, mười hai lạng nhụy hoa phù dung trắng nở vào mùa thu,
mười hai lạng nhụy hoa mai trắng nở vào mùa đông. Đem bốn thứ này phơi vào ngày
xuân phân(2) năm sau, rồi tán kỹ với thuốc bột; lại phải có mười hai đồng cân
nước hứng giữa trời đúng vào ngày vũ thủy.
- Ối chao! Mất ba năm
mới thành thang thuốc! Nếu ngày vũ thủy không mưa thì làm thế nào?
- Nếu không gặp được
nước mưa vừa khéo thì đành lại chờ vậy. Còn phải mười hai đồng cân nước móc vào
ngày bạch lộ, mười hai đồng cân nước sương vào ngày sương giáng, mười hai đồng
cân tuyết vào ngày tiểu tuyết. Đem bốn thứ này hòa với thuốc, thêm mười hai
đồng cân mật ong, mười hai đồng cân đường trắng, viên to bằng quả nhãn, để vào
trong cái hũ sứ cổ, chôn ở gốc cây hoa, khi nào ốm thì lấy một viên ra uống,
sắc một đồng hai phân hoàng bá làm thang.
- A di đà Phật! Khéo
chết người chưa? Chờ đến mười năm nữa cũng chưa chắc đã tìm đủ được các vị
thuốc!
- Cũng may, sau khi hòa
thượng đi độ một hai năm, vừa khéo tôi tìm đủ các vị để chế được một tễ. Giờ
tôi mang từ nam lên, hiện chôn ở gốc cây lê kia.
- Thuốc ấy có tên
không?
- Có, hòa thượng bảo
tên là Lãnh hương hòa(3).
Bà Chu nghe xong gật
đầu hỏi:
- Cô ốm ra sao?
- Không biết thế nào,
chỉ ho xuyễn thôi, uống một viên là khỏi
Bà Chu muốn nói nữa,
chợt nghe Vương phu nhân hỏi:
- Ai ở trong ấy?
Bà Chu vội chạy ra
trình việc già Lưu. Một lúc, thấy Vương phu nhân không nói gì , bà Chu muốn lùi ra thì Tiết phu nhân cười bảo:
- Chị đứng lại đây. Tôi
có cái này, nhờ chị mang đi hộ.
Nói xong, gọi: Hương
Lăng!
Có tiếng rèm động, a
hoàn bé hồi nãy chơi đùa với Kim Xuyến tiến lên hỏi:
- Thưa mẹ bảo gì?
Tiết phu nhân bảo:
- Lấy chùm hoa ở trong
hộp mang lại đây.
Hương Lăng vâng lời,
mang hộp gấm nhỏ đến. Tiết phu nhân nói:
- Đây là mười hai cành
hoa bằng lụa kiểu mới rất đẹp, ở trong cung tết ra để cài đầu. Hôm qua tôi
nghĩ: nếu cất đi nó cũ mất, thật đáng tiếc, chi bằng đem ra cho các chị em
chúng nó dùng. Tôi định đưa ngay, nhưng rồi lại quên bẵng đi mất. Hôm nay chị
đến vừa đúng, nhờ chị mang đi chia giúp. Ba cô nhà, chị chia mỗi cô hai cành,
còn sáu cành cho cô Lâm hai cành, cô Phượng bốn cành.
Vương phu nhân nói:
- Sao không để cho cháu
Bảo mà lại chia cho các cháu?
Tiết phu nhân nói:
- Chị không biết, con
ranh ấy tính lạ lắm! Xưa nay nó có thích hoa thích phấn bao giờ.
Bà Chu cầm hộp ra cửa.
Thấy Kim Xuyến vẫn còn ngồi ngoại nắng, bà Chu
hỏi:
- Con Hương Lăng này có
phải con bé mà người ta thường nói, khi sắp vào Kinh mới mua nó, vì nó mà xảy
ra vụ án mạng đấy không?
Kim Xuyến nói:
- Nó đấy, chứ còn ai
nữa.
Đương nói, thấy Hương
Lăng cười hì hì chạy đến, bà Chu kéo tay nó lại gần, ngắm nghía nó một lúc rồi
quay lại phía Kim Xuyến cười nói:
- Dáng điệu con này hơi
giống chị Dung bên phủ Đông chúng ta.
Kim Xuyến nói:
- Tôi cũng bảo thế.
Bà Chu lại hỏi Hương
Lăng:
- Em đến đây được mấy
năm rồi? Cha em ở đâu? Năm nay bao nhiêu tuổi? Quê quán ở đâu?
Hương Lăng lắc đầu:
- Em chẳng nhớ gì cả.
Bà Chu và Kim Xuyến
nghe nói than thở hồi lâu.
Một lúc sau, bà Chu đem hoa đến buồng Vương phu nhân. Nguyên gần đây Giả
mẫu có nói: “Lũ cháu gái bây giờ đông hơn trước, ở chung một chỗ không tiện,
nên chỉ để Bảo Ngọc và Đại Ngọc ở bên cạnh cho đỡ buồn thôi, còn Nghênh Xuân,
Thám Xuân, Tích xuân thì cho ở ba gian sau buồng của Vương phu nhân và bảo Lý
Hoàn sớm tối trông nom”. Bà Chu tiện đường đến đấy trước. Bọn a hoàn nhỏ đang
ngồi trong nhà nghe đợi sai gọi. A hoàn của Thám Xuân là Thị Thư, a hoàn của Nghênh
Xuân là Tư Kỳ đứng vén rèm, tay hãy còn bưng khay nước. Bà Chu biết ngay là mấy
cô đang ngồi chơi đấy, bèn đi vào buồng. Thấy Nghênh Xuân, Thám Xuân đang đánh
cờ dưới cửa sổ . Bà Chu đưa hoa và nói rõ là của Tiết phu nhân cho. Hai cô dừng
đánh cờ, đứng dậy gửi lời cám ơn, rồi bảo a hoàn cất đi.
Bà Chu vâng lời rồi
nói:
- Cô Tích Xuân không ở
nhà, có lẽ sang bên cụ.
A hoàn nói:
- Không sang bên ấy thì
còn ở đâu.
Bà Chu nghe nói đi sang
ngay, gặp Tích Xuân đang cười đùa với sư cô Trí Năng ở am Thủy Nguyệt. Trông
thấy bà Chu đến, Tích Xuân hỏi có việc gì. Bà
Chu mở hộp ra nói việc Tiết phu nhân sai đem hoa đến cho. Tích Xuân cười nói:
- Tôi đương nói với Trí
Năng, ngày mai sẽ cắt tóc theo cô ấy đi tu. Rõ khéo chưa? Giờ lại mang hoa đến!
đã cắt tóc thì còn cài hoa vào đâu nữa?
Mọi người cười ầm lên,
Tích Xuân sai a hoàn cất hoa đi.
Bà Chu hỏi Trí Năng:
- Sư cô đến đây từ bao
giờ? Sư phụ đầu trọc của cô đi đâu?
Trí Năng nói:
- Chúng tôi đến từ sớm.
Sư phụ tôi đến thăm bà Hai, rồi sang bên nhà ông Dư, bảo tôi chờ ở đây.
Bà Chu hỏi:
- Tiền hương đến ngày
rằm đã lĩnh chưa?
Trí Năng nói:
- Tôi không biết.
Tích Xuân hỏi bà Chu :
- Tiền hàng tháng của
các chùa, các miếu, ai trông nom?
Bà
Chu đáp:
-
Dư Tín trông nom.
Tích
Xuân nghe xong cười nói:
-
Thảo nào sư phụ khi mới tới, vợ Dư Tín đã đến thì thầm, chắc cũng chỉ vì việc
ấy.
Bà
Chu nói chuyện với Trí Năng một lúc, rồi sang nhà Phượng Thư. Đi đường cạnh
nhà, ven qua cửa sổ nhà Lý Hoàn, rẽ sang tường hoa phía tây, ra đến cửa nách
thì đến nhà Phượng Thư. Đến thềm, a hoàn nhỏ là Phong Nhi đương ngồi ở bực cửa,
trông thấy, vội vẫy tay bảo đi sang phía đông. Bà Chu biết ý, rón rén đi ngay
đến đó, thấy vú em đương ru em ngủ. Bà Chu khẽ hỏi:
-
Mợ đương ngủ trưa đấy à? Nên mời dậy hộ.
Vú
em cười, bĩu môi lắc đầu. Ngay khi ấy nghe thấy ở trong có tiếng cười, lại là
tiếng Giả Liễn. Liền đấy có tiếng mở cửa. Bình Nhi mang cái chậu đồng ra gọi
người móc nước. Bình Nhi đi sang bên kia, thấy bà Chu liền hỏi:
-
Bà lại đến đây làm gì thế?
Bà
Chu vội vàng đứng dậy đưa cái hộp nói:
-
Đem cho hoa đây.
Bình
Nhi mở hộp lấy bốn cành hoa rồi quay người đi ngay, một chốc cầm hai cành ra,
gọi Thái Minh đến bảo: “Đưa sang cho mợ Dung ở phủ bên kia, rồi bảo bà Chu về
cám ơn hộ.”
Bà
Chu vừa ở bên nhà Giả mẫu, đi qua xuyên đường, ngẩng đầu lên, thấy con gái mình
ăn mặc chải chuốt, vừa ở nhà mẹ chồng đến. Bà Chu vội hỏi:
-
Mày đến đây làm gì?
-
Mẹ vẫn khỏe chứ. Con ở nhà chờ suốt nửa ngày, không gặp. Mẹ có việc gì bận mà
không về. Chờ mãi không được, con đến thăm cụ. Bây giờ con lại định đến thăm bà
Hai đây. Mẹ còn bận việc chưa xong à? Tay cầm cái gì đấy?
-
Ối chào! Hôm nay già Lưu đến, thành ra mình lại mua lấy việc, vì bà ta mà tao
phải chạy suốt nửa ngày. Vừa rồi, Tiết phu nhân lại sai đem mấy cành hoa cho
các cô. Đến bây giờ cũng chưa đưa hết! Hôm nay mày đến đây chắc là có việc gì?
Người
con gái cười nói:
-
Mẹ khéo đoán thế! Nói thực với mẹ, con rể mẹ hôm trước say rượu cãi nhau với
người ta, không biết làm sao, bị người ta vu oan giá họa cho là anh ấy lý lịch
không rõ ràng, thưa quan bắt phải giải về nguyên quán. Vì thế con đến nhờ mẹ
bàn tính làm thế nào cho xong việc được?
-
Tao biết rồi, lo gì việc ấy. Mày chỉ cuống lên thôi. Về nhà trước đi để tao đến
đưa hoa cho cô Lâm đã. Bây giờ bà và mợ Hai không rỗi đâu.
Người
con gái thấy vậy quay về, lại nói:
-
Mẹ về ngay nhé!
-
Ừ, con nhà hèn, không từng trải việc, cứ cuống cuồng lên.
Nói
xong đi đến buồng Đại Ngọc.
Khi
ấy Đại Ngọc đương chơi Cửu liên hoàn(4) ở bên buồng Bảo Ngọc. Bà Chu vào, cười
nói:
-
Thưa cô Lâm! Tiết phu nhân bảo tôi mang hoa lại biếu.
Bảo
Ngọc nói:
-
Hoa gì thế, đưa tôi xem nào.
Rồi
vội giơ tay đỡ lấy cái hộp xem, thấy hai cành hoa giả làm bằng lụa rất đẹp. Đại
Ngọc ghé vào tay Bảo Ngọc xem và hỏi:
-
Chỉ đưa cho mình tôi thôi, hay các cô khác cũng có cả.
Bà
Chu nói:
-
Các cô đều có, hai cành hoa này là của cô đấy!
Đại
Ngọc cười nhạt:
-
Tôi biết rồi, thừa người mới đến phần tôi.
Bà
Chu chẳng dám nói lại câu gì. Bảo Ngọc hỏi:
-
Chị Chu sang bên ấy làm gì?
-
Vì bà ở bên ấy, tôi sang trình việc. Khi về Tiết phu nhân tiện bảo tôi đem hoa
cho các cô.
-
Cô Bảo Thoa ở nhà làm gì? Làm sao mấy hôm nay không sang chơi?
-
Cô ấy trong mình hơi khó chịu.
Bảo
Ngọc nghe nói, ngoảnh ra đám a hoàn nói:
-
Có ai sang bên ấy nói là ta và cô Lâm sai sang hỏi thăm sức khỏe bà dì và cô
Bảo, lại hỏi xem cô ấy yếu làm sao? Uống thuốc gì? Lẽ ra ta phải sang thăm tận
nơi mới phải, nhưng vừa ở trường về, hơi bị lạnh, ngày khác ta sẽ sang thăm.
Nghe
dặn xong, Phiến Tuyết nhận lời đi ngay. Bà Chu cũng ra về.
Nguyên con rể Chu Thụy
là Lãnh Tử Hưng, bạn thân với Giả Vũ Thôn, vừa rồi nhân việc bán đồ cổ, bị kiện
tụng lôi thôi, nên sai vợ đi chạy chọt. Bà Chu cậy thế của chủ , không thèm để
bụng đến việc ấy, cho là chỉ đến nhờ Phượng Thư là xong.
Lúc lên đèn, Phượng Thư
bỏ những đồ trang sức ra, đến phòng Vương phu nhân thưa chuyện:
- Hôm nay nhà họ Chân
mang biếu mấy thứ quà, con đã nhận cả rồi. Nhân tiện bên ấy có thuyền sang đây,
con cũng gửi biếu mấy thứ của nhà.
Vương phu nhân gật đầu.
Phượng Thư lại nói:
- Lễ mừng sinh nhật cụ
bà sinh ra Lâm An Bá, con đã sắm sửa đủ cả rồi, mẹ định sai ai mang đi?
Vương phu nhân nói:
- Con xem những ai rỗi
thì sai độ bốn nữ tỳ mang đi là đủ, còn phải hỏi ta làm gì?
Phượng Thư lại cười
hỏi:
- Hôm nay chị Trân mời
con ngày mai sang chơi, vậy ở nhà có việc gì không?
- Có việc hay không
cũng chẳng cần gì, mỗi khi chị ấy mời cả chúng ta thì con không được tự do. Nay
không mời chúng ta chỉ mời một mình con, đủ biết chị ấy có bụng tốt, muốn cho
con được thoải mái hơn. Con chớ nên phụ lòng người
ta, sang chơi là phải.
Phượng
Thư vâng lời. Chị em Lý Hoàn, Thám Xuân đến hỏi thăm xong cũng đều về buồng
mình.
Ngày
hôm sau, Phượng Thư sắm sửa xong, đến trình Vương phu nhân rồi lên trình Giả
mẫu để đi. Bảo Ngọc nghe thấy cũng đòi đi theo. Phượng Thư bằng lòng. Bảo Ngọc
lập tức thay quần áo, rồi hai chị em ngồi cùng xe đi sang phủ Ninh. Bấy giờ Vưu
thị, vợ Giả Trân, cùng con dâu là Tần thị, vợ Giả Dung đều dẫn tỳ thiếp ra cửa
đón.
Vưu
thị vừa trông thấy Phượng Thư, cười giễu một hồi, rồi dắt tay Bảo Ngọc vào
trong phòng ngồi. Tần thị pha nước, Phượng Thư nói:
-
Chị và cháu mời tôi sang có việc gì? Có gì thì mang ra? Tôi còn bận việc đây.
Vưu thị, Tần thị chưa
kịp trả lời, thì bọn đàn bà hầu cười nói:
- Hôm nay mợ không sang
đây thì thôi, đã sang thì không thể về ngay được.
Đương nói chuyện, Giả
Dung ra chào, Bảo Ngọc nói:
- Anh Cả hôm nay đi
vắng à?
Vưu thị nói:
- Hôm nay anh đi ra
ngoài thành thăm bác.
Lại nói:
- Xem ra chó hơi buồn,
ngồi đây làm gì, đi ra ngoài mà chơi.
Tần thị cười nói:
- Lần trước chú Bảo
muốn gặp em tôi. Hôm nay may sao nó đương ngồi ở buồng học kìa, sao chú không
sang chơi?
Bảo Ngọc muốn đi ngay.
Vưu thị, Phượng Thư đều ngăn lại: “Vội gì thế?”. Và bảo người nhà “phải cẩn
thận đưa đi, đừng để chú ấy phải bực mình”.
Phượng Thư nói:
- Đã thế sao không gọi
cậu ấy sang đây, ta cũng muốn gặp.
Vưu thị cười nói:
- Thôi, thôi! Gặp làm
gì? Bạo dạn đâu bằng trẻ nhà mình. Con nhà người ta e dè nhút nhát quen, đã gặp
ai sấn sổ như thím bao giờ. Khéo lại làm người ta cười chết đi được.
Phượng Thư cười nói:
- Tôi không cười ai thì
thôi, chứ lại để cho đứa bé cười tôi à?
Giả Dung nói:
- Nó vốn hay thẹn,
không dám đến gần chỗ đông bao giờ. Thím có trông thấy xin đừng bực mình.
Phượng Thư gắt:
- Nó là con vua Na
Tra(5), ta cũng đòi gặp cho được, đừng nói láo. Nếu không mang nó đến đây, ta
sẽ cho mày cái tát bây giờ.
Giả Dung cười nói:
- Cháu không dám cưỡng
lời, sẽ dắt nó lại.
Lát sau, một cậu bé
được đưa đến, so với Bảo Ngọc, gầy hơn một chút, nhưng mặt mũi sáng sủa, môi
son, má phấn, dáng người tuấn tú, đi đứng phong nhã, hơn hẳn Bảo Ngọc, chỉ có phần
nhút nhát như con gái thôi. Cậu bé bẽn lẽn đến chào Phượng Thư. Phượng Thư
thích lắm, đẩy Bảo Ngọc một cái, cười nói:
- Thử sánh xem nào!
Rồi nghiêng mình xuống,
cầm tay cậu bé bảo ngồi bên cạnh, thong thả hỏi bao nhiêu tuổi, học sách gì,
sau mới biết tên là Tần Chung.
Đám người nhà theo hầu
thấy Phượng Thư lần đầu gặp Tần Chung, chưa có quà gì tặng, vội chạy về bảo
Bình Nhi. Bình Nhi biết Phượng Thư với Tần thị xưa nay chơi thân với nhau, tuy
Tần Chung còn bé nhưng cũng không nên hà tiện, bèn lấy một tấm lụa, hai thoi
vàng con có khắc chữ “Trạng nguyên cập đệ”(6). Bảo người mang đến cho Phượng
Thư. Phượng Thư nói nhún: “Quà này mọn quá”. Chị em Tần thị tạ ơn. Một lúc, ăn
cơm xong, bọn Vưu thị, Phượng Thư, Tần thị ngồi lại đánh bài, Bảo Ngọc, Tần
Chung ra ngoài nói chuyện với nhau.
Từ lúc Bảo Ngọc gặp Tần
Chung, trong bụng bâng khuâng như là mình thiếu cái gì, đứng ngẩn người ra một
lúc, nghĩ vơ vẩn: “Trong thiên hạ sao lại có người như thế! Bây giờ xem ra, ta
thành như lợn bùn, chó ghẻ vậy! Đáng giận cho ta sinh vào nhà công hầu phú quý,
nếu vào nhà nho nghèo, quan kiết để sớm đi lại chơi bời với nhau thì không đến
nỗi phí mất một đời. Ta dù tôn quý hơn, nhưng the lụa gấm vóc, cũng chẳng qua
để bọc cái cành khô, gỗ mục; rượi nồng, dê béo cũng chẳng qua để lấp cái hố
phân, rãnh bùn mà thôi. Hai chữ “phú quý” làm hại người đời xiết bao!”
Về phần Tần Chung thấy
Bảo Ngọc dáng điệu hơn người, đi đứng phong nhã, đồ mặc thì mũ vàng, áo gấm,
người hầu đều là gái đẹp, trai xinh, bèn nghĩ: “Thảo nào Bảo Ngọc chả được mọi
người yêu mến. Ta là con nhà thanh bần, dám đâu chơi thân với cậu ta. Mới biết
hai chữ “giàu, nghèo” ngăn hẳn con người thật là một sự rất không vui ở thế
gian này”.
Hai người đều nghĩ vẩn
vơ như vậy. Chợt Bảo Ngọc hỏi Tần Chung đọc sách gì? Tần Chung cứ thực trả lời.
Mới trò chuyện được mươi câu, cả hai đã thấy thân mật nhau ngay.
Một lúc người nhà mang
nước trà và hoa quả lên. Bảo Ngọc nói:
- Chúng ta không uống
rượu, cứ mang hoa quả để lên cái bục con trong nhà, sẽ đến đấy ăn, đỡ bận cho
các người.
Rồi hai người vào trong
uống nước.
Tần thị một mặt mời
Phượng Thư uống rượu, ăn quả, một mặt dặn dò Bảo Ngọc:
- Thưa chú, cháu chú
còn ít tuổi, ăn nói có điều gì sơ suất, xin hãy vì tôi mà đừng chấp nó. Nó nhút
nhát thực, nhưng ăn nói lại ngang trái, không biết lựa lời đâu.
Bảo Ngọc cười:
- Chị cứ đi, tôi biết
rồi.
Tần thị lại dặn dò em
mấy câu rồi lại sang tiếp Phượng Thư.
Phượng Thư và Vưu thị
cứ một chốc lại sai người đến hỏi Bảo Ngọc muốn dùng thức gì thì cho người sang
lấy. Bảo Ngọc nhận lời, nhưng không nghĩ gì đến ăn cả, chỉ hỏi Tần Chung những
việc nhà gần đây. Tần Chung nói:
- Năm ngoái thầy học về
nghỉ, cha tôi già ốm luôn, lại bận việc quan, vì thế chưa nghĩ đến việc đón
thầy. Giờ chỉ ở nhà ôn bài cũ. Vả lại việc học cũng phải có một vài bầu bạn để
cùng nhau bàn bạc mới bổ ích.
- Đúng đấy, bên tôi vẫn
có một trường học tư. Trong họ, nhà nào không mời được thầy đều gửi đến đấy cả.
Con em các nhà thân thích cũng có thể đến được. Năm ngoái thầy dạy tôi về nhà
tôi cũng nghỉ học, ý cha tôi muốn tạm cho sang đấy ôn tập, chờ sang năm thầy
học lên, tôi lại sẽ học. Nhưng bà tôi bảo: “Một là trường đông người, sợ có khi
cãi nhau sinh chuyện; hai là vì độ này tôi mệt nên nấn ná mãi. Cứ như anh nói,
chắc ông nhà đang áy náy về việc học của anh. Sao anh không xin sang đây học
với tôi, làm bạn với nhau, ích lợi cho cả đôi bên. Như thế chả phải đều tốt cả
hay sao?
Tần Chung cười:
- Hôm nọ bàn về việc
mời thầy, cha tôi cũng đã nghĩ đến trường học bên này, vẫn muốn sang thưa
chuyện với ông nhà; nhưng thấy bên này bận luôn, sợ việc nhỏ nhặt sang quấy quả
không tiện. Nếu chú rộng lượng cho tôi sang đây theo hầu rửa nghiên mài mực,
thì xin tác thành ngay cho. Chúng ta sẽ không đến nỗi bỏ học, có thể sớm tối
gần gũi bên nhau để yên lòng cha mẹ, lại thêm vui tình bè bạn, chẳng hay hơn
sao.
Bảo Ngọc nói:
- Cứ yên tâm, hai chúng
ta hãy nói chuyện trước với vợ chồng anh Dung và chị Liễn đã. Ngày mai anh về
trình với ông nhà, tôi thì trình với bà tôi, như thế lẽ nào việc không chóng
xong
Bấy giờ đã đến lúc lên
đèn. Hai người bàn định xong rồi ra xem mọi người đánh bài. Khi tính sổ, Tần
thị, Vưu thị phải trả tiền rượu, hẹn đến hôm sau sẽ uống rượu phạt, rồi đi ăn
cơm chiều.
Trời đã tối, Vưu thị
bảo:
- Cắt hai đứa hầu bé,
đưa cậu Tần về nhà. Bọn hầu đàn bà truyền ra ngoài, một lúc Tần Chung đứng dậy
cáo từ. Vưu thị hỏi:
- Sai ai đưa về đấy?
Bọn hầu đáp:
- Ở ngoài họ cắt Tiều
Đại, không ngờ nó say rượu, nó mắng ầm cả lên.
Vưu thị, Tần thị đều
nói:
- Cắt nó làm gì, sai
một đứa bé nào không được, sao lại còn dây với nó?
Phượng Thư nói:
- Lâu nay người ta chê
chị quá nhu nhược, nuông người nhà như thế còn ra thể thống gì!
Vưu thị thở dài:
- Thím không biết thằng
Tiều Đại à? Ngay ông tôi và anh Trân cũng rất thương nó. Vì lúc còn trẻ, nó
theo cụ ta đi ra trận, ba bốn lần cõng cụ khỏi đống xác chết, mới cứu người
toàn mệnh. Nó kiếm được cái gì thì đem cả về cho chủ ăn, còn mình đành nhịn
đói. Hai ngày không có nước, nó kiếm được nửa bát cũng đem về cho chủ uống, còn
mình thì đành uống nước đái ngựa. Chẳng qua cũng vì công lao ấy, nên khi cụ ta
còn sống đều biệt đãi nó. Bây giờ ai cũng mặc kệ nó. Lại thêm nó đã già rồi,
chỉ thích uống rượu, không giữ thể diện, khi say bạ ai nó cũng mắng. Tôi thường
bảo bọn quản sự, từ giờ trở đi, không được cắt nó làm việc gì, cứ coi như nó đã
chết rồi là xong, bây giờ làm sao lại sai nó?
Phượng Thư nói:
- Tôi làm gì chả biết
lão Tiều Đại ấy, rút cục chỉ tại các chị không biết tính toán, sao không tống
cổ nó đến một cái trại nào xa tít là xong chuyện.
Nói xong lại hỏi: Xe đã
sắp đủ chưa?
Người hầu nói:
- Sắp đủ cả rồi ạ.
Phượng Thư đứng dậy cáo
từ, dắt Bảo Ngọc về.
Bọn Vưu thị đưa ra đến
cửa dinh đèn đuốc sáng trưng. Lũ hầu nhỏ đứng chực ở thềm. Tiều Đại biết Giả
Trân không ở nhà, mặc dù ở nhà cũng kệ, hắn cứ tha hồ mà ngang tàng. Nhân mượn
chén say, trước hết hắn mắng đại tổng quản là Lại Nhị:
- Sao chẳng công bằng
một tý nào? “Mềm thì nắn, rắn thì buông”, có món gì bở thì sai người khác, còn
việc đưa người lúc đêm khuya trời tối thì lại sai tao. Đồ vô liêm sỉ, vô lương
tâm! Thằng quản gia mù kia, mày không nghĩ chứ: Cụ Tiều này chỉ ghếch một cái
đùi lên, còn cao hơn cả cái đầu mày. Hai mươi năm về trước, mắt cụ Tiều này
chẳng còn biết có ai, ai nói đến giống hèn mạt như chúng mày.
Tiều Đại đang mắng bọn
chúng sướng mồm thì vừa lúc Giả Dung ra đưa Phượng Thư lên xe. Mọi người ngăn
hắn không được Giả Dung nhịn không nổi, quát to:
- Ai đâu, trói nó lại,
chờ ngay mai nó tỉnh rượu, sẽ hỏi nó muốn chết hay muốn sống?
Nhưng dưới mắt Tiều Đại
có coi Giả Dung vào đâu, hắn lại kêu to lên:
- Này anh Dung! Đừng
làm bộ ông chủ với thằng Tiều Đại này nữa! Không nói anh, ngay bố anh và cả ông
anh cũng không dám làm bộ với ta nữa là. Thằng Tiều Đại này làm cho các người
được làm quan, được hưởng vinh hoa phú quý! Ông tổ nhà các người một sống mười
chết mới để lại cơ nghiệp này đến giờ không báo ơn thì chớ, lại dám lên mặt chủ
nhà với ta à? Không nói đến ta còn khá, chứ nói nữa thì ta sẽ: “Lưỡi dao trắng
đâm vào, lưỡi dao đỏ rút ra” cho mà xem.
Phượng Thư ở trên xe
nói với Giả Dung:
- Sao không tống cổ
ngay thằng giặc này đi, để nó ở trong nhà chỉ có hại thôi. Bà con biết chuyện
tránh sao khỏi chê cười nhà ta mất cả tôn ti trật tự.
Giả Dung vâng theo.
Mọi người thấy Tiều Đại
càn rỡ quá, vật xuống trói lại, lôi nó bỏ vào chuồng ngựa. Tiều Đại càng tức,
nói động cả đến Giả Trân. Nó thét ầm lên, đòi đến từ đường khóc với cụ tổ: “Ai
ngờ bây giờ lại đẻ ra những giống súc sinh này! Hàng ngày trộm gà bắt chó, nào
“Tiểu thúc”(7), nào “Ba hôi”(8), loạn luân cả lũ, tao lại không biết à? Thôi
đừng đem cánh tay gãy giấu vào trong ống áo nữa!”
Bọn người nhà thấy nó
nói toàn những câu không có trời đất nào, sợ hết hồn vía, trói chặt nó lại, lấy
đất và phân ngựa nhét đầy mồm.
Phượng Thư và Giả Dung
ở đằng xa nghe thấy đều lờ đi như không. Bảo Ngọc ngồi trên xe, hỏi Phượng Thư:
- Chị ơi, nó nói “Ba
hôi”, “Ba hôi” là nghĩa thế nào?
Phượng Thư trừng mắt
mắng át:
- Đừng nói bậy! Quân
say rượu nói càn, em phải lờ đi như không nghe thấy, sao lại còn hỏi lẩn mẩn
làm gì? Chị về mách mẹ xem có phải đòn không?
Bảo Ngọc sợ hãi, vội
van xin:
- Chị ơi, từ giờ em
không dám nói câu ấy nữa.
Phượng Thư nói:
- Thế mới phải chứ. Để
khi về, chúng ta sẽ trình cụ, sai người đến trường nói rõ, rồi mời Tần Chung
sang học ngay.
Nói xong, trở về phủ
Vinh. Thực là:
Bạn khổ chẳng vì người
sắc sảo;
Sách ham chỉ tại nét
phong lưu.
---------------------------------
(1) Bài thuốc của các
tiên ở ngoài bể.
(2) Theo âm lịch: một
năm có hai mươi bốn tiết, chia thành xuân phân, vũ thủy, bạch lộ, sương giáng,
tiểu tuyết…
(3) Thứ thuốc viên có
mùi hoa thơm mát.
(4) Một thứ đồ chơi có
chín cái vòng, đánh một cái làm cho chín cái vòng liền nhau.
(5) Theo thần thoại:
tên một vị thần con vua Tỷ sa môn, diện mạo hung dữ, pháp thuật cao cường.
(6) Thi đỗ trạng
nguyên; bốn chữ thường khác vào cái khánh, hay những thỏi vàng; bạc nhỏ; làm
tặng phẩm cho con trai, ngụ ý chúc mừng được thi đỗ cao.
(7) ,(8) Đều là những
tiếng lóng: em chồng nằm với chị dâu; bố chồng nằm với con dâu.
Hồi thứ tám: So ngọc
thông linh Kim Oanh hơi ngỏ ý-Thăm dò cô Bảo, Đại Ngọc nếm phải chua
Vạc cổ pha trà phượng
tủy hương,
Hiếm thay chén ngọc rót
quỳnh tương.
Đừng cho là lượt không
phong nhã,
Hãy ngắm kim nương cạnh
ngọc lang.
Khi Bảo Ngọc và Phượng
Thư về đến nhà, chào hỏi mọi người xong, Bảo Ngọc bèn thưa với Giả mẫu, muốn
mời Tần Chung đến trường cùng học, để có bạn bè ganh đuạ Bảo Ngọc lại khen phẩm
hạnh của Tần Chung rất đáng để mọi người yêu mến. Phượng Thư ở bên cũng nói
giúp : “Có ngày Tần Chung sẽ đến hầu bà”. Nghe nói, Giả mẫu càng thêm vui mừng.
Nhân tiện Phượng Thư mời Giả mẫu đi xem hát ở bên phủ Ninh. Giả mẫu tuy có
tuổi, nhưng vẫn thích các cuộc vui. Hôm sau, Vưu thị đến mời, Giả mẫu liền cùng
Vương phu nhân, Đại Ngọc và Bảo Ngọc sang xem hát. Đến gần trưa Giả mẫu về
nghỉ. Vương phu nhân vốn ưa thanh tĩnh, thấy Giả mẫu về, cũng theo về. Phượng
Thư ở lại làm chủ cuộc vui, đến chiều mới thôi. Bảo Ngọc đưa Giả mẫu về, muốn
đợi bà đi ngủ trưa rồi sẽ trở lại xem nữa, nhưng lại sợ làm phiền bọn Tần thị.
Nghĩ đến Bảo Thoa gần đây phải ở nhà dưỡng bệnh, mình chưa lại thăm lần nào, ý
muốn đến đó, nhưng lại sợ đi qua cửa nách nhà trên, gặp việc gì ngăn trở chăng,
nếu gặp cha thì càng không tiện. Chẳng thà đi quanh ra đường khác, xa một quãng
còn hơn. Khi ấy người nhà đương chờ thay quần áo cho Bảo Ngọc, nhưng thấy Bảo
Ngọc đi ra cửa thứ hai, bọn người nhà kéo nhau đi theo, tưởng lại sang bên kia
xem hát, ngờ đâu khi đến xuyên đường, Bảo Ngọc lại theo hướng đông bắc đi ra
sau dinh. Đang đi thì gặp hai gia khách là Thiềm Quang và Đan Sính. Nhân trông
thấy, họ chạy ngay đến, người ôm lưng, người dắt tay Bảo Ngọc, cười nói:
- Phật con của chúng
tôi đây! Chúng tôi nằm chiêm bao chăng? Được gặp cậu có dễ dàng đâu?
Họ hỏi thăm sức khỏe
rối rít một lúc rồi mới đi. Một bà già gọi hai người kia, hỏi:
- Có phải hai vị Ở chỗ
ông lớn lại đây không?
Hai người kia gật đầu:
- Ông hiện đương ngủ
trưa ở Mộng Pha Trai(#1) không can gì đâu.
Nói xong rồi đi.
Nghe vậy, Bảo Ngọc cũng
cười, rồi quay sang phía bắc, đến viện Lê hương. Lại gặp Ngô Tân Đăng là tổng
lĩnh giữ kho tiền và Đài Lương là đầu mục kho thóc, cùng tất cả bảy người đang
ở buồng kế toán đi ra. Thấy Bảo Ngọc, họ vội vàng đứng xếp hàng chắp taỵ Có một
anh mãi biện tên là Tiền Hoa, vì từ lâu chưa được gặp Bảo Ngọc, vội chạy lên
quì gối, chắp tay hỏi thăm sức khỏe. Bảo Ngọc mỉm cười, giơ tay kéo hắn đứng
dậy. Mọi người cười nói:
- Hôm nọ chúng tôi thấy
chữ cậu viết vào một tờ giấy dán ở một chỗ nọ, rất đẹp. Vậy hôm nào xin cậu
viết cho chúng tôi một tờ.
- Trông thấy ở đâu?
- Ở nhiều chỗ. Ai cũng
khen, có người đến tìm chúng tôi để xin nữa.
- Có đáng cái gì, các
anh cứ nói với bọn hầu nhỏ tôi là được thôi.
Nói xong rồi đi. Mọi
người đợi Bảo Ngọc đi khỏi mới lui về.
Bảo Ngọc đến viện Lê
hương, vào ngay nhà Tiết phu nhân, thấy Tiết phu nhân đương bảo ban bọn a hoàn
thêu thùa. Bảo Ngọc lại chào, Tiết phu nhân kéo lại, ôm vào lòng, cười nói:
- Trời lạnh thế này,
không ngờ cháu lại sang được! Hãy lên ngồi cạnh đây cho ấm đã.
Tiết phu nhân sai người
pha nước trà uống. Bảo Ngọc hỏi:
- Anh Bàn có nhà không?
Tiết phu nhân thở dài:
- Nó là con ngựa bất
kham, ngày nào cũng đi, có chịu ở nhà đâu!
- Chị Thoa có khỏe
không?
- Hôm trước cháu đã
nghĩ đến nó. Sai người sang hỏi thăm. Nó ở trong nhà ấy. Cháu vào chơi. Trong
ấy ấm hơn ngoài này, cháu cứ ngồi luôn đấy, ta thu dọn xong sẽ vào nói chuyện.
Bảo Ngọc nghe nói, vội
đi vào nhà trong, thấy trước cửa treo một bức rèm the đỏ hơi cũ. Bảo Ngọc vén
rèm vào, thấy Bảo Thoa đương ngồi trên giường thêu kim tuyến, đầu vén, tóc đen
nhánh, mặc áo bông màu gụ, cái khoác vai màu tím nhạt viền kim ngân tuyến, quần
lụa bông lót màu vàng. Tất cả đồ mặc đều đã rung rúc, giở cũ giở mới, nhìn
không có vẻ xa hoa mà lại thêm nhũn nhặn, môi không tô mà đỏ, mày không kẻ vẫn
xanh, mặt như mâm bạc, mắt sáng long lanh. Điềm đạm ít lời, có người cho là giả
dại; tùy thời đối xử, tự mình chỉ biết phận mình.
Bảo Ngọc vừa nhìn vừa hỏi:
- Chị đã khỏe hẳn chưa?
Bảo Thoa ngẩng đầu lên,
thấy Bảo Ngọc, vội đứng dậy, cười nói:
- Xin cám ơn, tôi đã
khá rồi.
Nói xong mời Bảo Ngọc
ngồi cạnh bục, và sai Oanh Nhi đi pha trà. Bảo Thoa vừa hỏi sức khỏe Giả mẫu,
Vương phu nhân, và các chị em, vừa nhìn Bảo Ngọc, thấy đầu đội mũ vàng dát
ngọc, trán bịt khăn có hai con rồng vờn hạt châu, mình mặc áo chẽn tay, màu hoa
cúc thêu rồng, lót da nách cáo trắng, ngoài thắt dây lưng thêu bướm năm màu, cổ
đeo khóa “Trường mệnh”(#2) bùa “Ký danh”(#3), ngoài lại đeo một viên bảo ngọc
ngậm ở trong mồm khi mới đẻ. Bảo Thoa nhân cười nói:
- Ngày thường vẫn nghe
anh có viên ngọc quý, nhưng chưa xem kỹ, nay phải xem mới được.
Nói xong ghé lại gần.
Bảo Ngọc cũng nhích lại, tháo viên ngọc ra đưa tận tay Bảo Thoa. Bảo Thoa nâng
viên ngọc lên xem, thấy to bằng quả trứng chim sẻ, sáng suốt như ráng trời ban
mai, nhẵn mịn như váng sữa, lóng lánh đủ năm màu. Đó là ảo tưởng của hòn đá ở
ngọn Thanh Ngạnh trong núi Đại Hoang. Người sau có bài thơ trào phúng:
Chuyện luyện đá có hay
không có ?
Núi Đại Hoang chuyện đó
lạ thay!
Đá kia thay mặt đổi
mày,
Thịt da một bọc chứa
đầy thối tha.
Vàng hết vận, giá đà
hết quý,
Ngọc lỡ thời, sáng hóa
phai màu.
Đống xương trắng, họ
tên đâu?
Nào phường áo mũ, nào
lầu phấn son?
Trên mặt hòn đá cũng ghi
lại những ảo tưởng của nó và một bài của sư chốc đầu khắc bằng chữ triện. Nay
theo nguyên hình vẽ ra đây. Nhưng vì hòn đá ấy rất nhỏ, nên mới có thể ở trong
miệng đứa bé khi còn ở trong thai. Nay nếu vẽ như thế, sợ chữ bé quá, làm người
xem không thấy, sẽ giảm mất hứng thú. Vì thế nên phóng hơi to ra, để tiện ngắm
nghía trong khi nhàn rỗi, và để cho người sau khỏi ngờ rằng: miệng đứa bé có to
đâu mà lại ngậm được một vật sù sì như thế.
Mặt trước thông linh
bảo ngọc Mặt sau thông linh bảo ngọc
Mặt trước viên ngọc có
bốn chữ viết ngang: “Thông Linh Bảo Ngọc”(#4) tám chữ viết dọc: “Mạc thất mạc
vương, tiên thọ hằng xương”(#5). Mặt sau có mười hai chữ viết dọc: “Nhất trừ tà
tụy, nhị liệu oan ương, tam tri họa phúc”(#6). Bảo Thoa xem xong, lại giơ mặt
trước xem kỹ, mồm lẩm nhẩm đọc: “Mạc thất mạc vương, tiên thọ hằng xương”. Sau
đó Bảo Thoa quay lại bảo Oanh Nhi:
- Mày không đi pha nước à? đứng ngẩn ra đấy làm
gì?
Oanh Nhi cười hì hì nói:
- Tôi nghe hai câu này như là đối với hai câu
khắc ở cái khóa cổ của cô.
Bảo Ngọc nghe nói, vội cười hỏi:
- Thế ra khóa của chị cũng khắc tám chữ à? Cho
tôi xem nào?
Bảo Thoa nói:
- Anh đừng nghe nó, chẳng có chữ gì cả.
Bảo Ngọc nằn nì mãi:
- Chị Ơi, chị coi tôi như thế nào?
Bảo Thoa không từ chối được mới nói:
- Đó chẳng qua vì có hai câu chúc tụng tốt
lành, nên ngày nào tôi cũng đeo, nếu không thì nó nặng chình chịch, đeo có thú
gì!
Bảo Thoa vừa nói vừa cởi dây, lấy cái chuỗi
ngọc có kết hạt châu ở trong cổ áo đại hồng ra.
Bảo Ngọc vội đỡ lấy xem, quả nhiên mỗi mặt có
bốn chữ, hai mặt thành hai câu tám chữ: “Bất ly bất khí, phương linh vĩnh
kế”(#7), theo cách thức vẽ ra đây:
Mặt trước khóa vàng Mặt sau khóa vàng
Bảo Ngọc xem xong lẩm nhẩm hai
lần, lại nhẩm câu của mình hai lần, cười nói:
- Chị Ơi! Tám chữ này với tám chữ của tôi thành
một câu đối.
Oanh Nhi cười nói:
- Đó là hòa thượng chốc đầu cho đấy. Người bảo
phải khắc vào cái khóa vàng.
Bảo Thoa ngắt lời mắng:
- Sao mày không đi pha nước đem lại đây?
Rồi hỏi lảng Bảo Ngọc ở đâu đến.
Bảo Ngọc ngồi bên cạnh Bảo Thoa, thấy thoang
thoảng có mùi thơm dìu dịu, không biết mùi gì, hỏi:
- Chị xức thứ hương gì đấy? Tôi chưa ngửi thấy
mùi thơm này bao giờ.
- Tôi rất sợ xức hương! Quần áo đẹp mà xức thì
chỉ đầy hơi khói thôi.
- Thế thì mùi gì đấy?
Bảo Thoa nghĩ một lúc nói:
- Phải rồi, đó là mùi thơm của “Lãnh hương
hoàn” tôi mới uống sáng hôm nay.
- Thế nào gọi là “Lãnh hương hoàn”? Ngửi sao
thơm thế! Chị cho tôi nếm một viên.
- Thôi lại nói nhảm rồi! Anh tưởng mọi thứ
thuốc ai cũng uống được hay sao?
Chợt có người vào báo:
- Cô Lâm đến chơi.
Nói chưa dứt lời thì Đại Ngọc đã tha thướt tới
nơi. Trông thấy Bảo Ngọc, Đại Ngọc cười nói:
- Ối chào! Tôi đến không đúng lúc rồi?
Bảo Ngọc vội đứng dậy mời ngồi. Bảo Thoa cười
nói:
- Sao chị lại nói thế?
Đại Ngọc nói:
- Nếu biết anh ấy ở đây, thì tôi chẳng đến làm
gì!
Bảo thoa hỏi:
- Thế là thế nào?
Đại Ngọc nói:
- Thế nào à? Khi đến thì cùng đến, khi không
đến thì chẳng ai đến cả; hôm nay anh ấy đến, ngày mai tôi đến, cứ cắt lượt
nhau, thế có phải là ngày nào cũng có người đến không? Như thế thì không có lúc
nào buồn quá, mà cũng không có lúc nào vui quá. Có gì mà chị không hiểu?
Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc khoác một cái áo đoạn
ngoài bằng lông chim màu đỏ sẫm, liền hỏi:
- Có tuyết à?
Bọn hầu già ở dưới nói:
- Có tuyết từ lúc nãy.
Bảo Ngọc nói:
- Lấy cho tôi cái áo đi mưa.
Đại Ngọc cười nói:
- Đấy có phải không? Cứ tôi đến là anh ấy lại
chực đi ngay!
Bảo Ngọc nói:
- Khi nào tôi lại đi! Bảo sẵn đấy thôi.
Vú Lý của Bảo Ngọc nói:
- Nay tuyết lại xuống nhiều, phải xem thời tiết
cẩn thận, cậu hãy ở đây chơi với chị em đã! Bên bà dì Tiết đã bày tiệc rồi. Tôi
cũng bảo người đi lấy áo mưa đến. Bây giờ cho lũ người hầu về nhé.
Bảo Ngọc gật đầu. Vú Lý ra bảo đám trẻ theo
hầu: “Về”.
Tiết phu nhân đã cho bày xong mấy thức ăn ngon,
giữ họ Ở lại uống trà, ăn quả. Bảo Ngọc nhân khoe hôm nọ được ăn món chân ngỗng
ở nhà chị Trân bên phủ đông rất ngon. Tiết phu nhân liền lấy ngay món chân
ngỗng đã ướp sẵn ra thết.
- Món này có rượu thì tốt lắm!
Tiết phu nhân bèn sai người mang thứ rượu thật
ngon đến. Vú Lý đứng lên nói:
- Xin bà dì đừng cho cậu ấy uống rượu.
Bảo Ngọc nằn nì:
- U ơi, tôi chỉ uống một chén thôi.
Vú Lý nói:
- Không được. Trước mặt cụ và bà Hai bên nhà,
tha hồ cậu uống hàng vò. Hôm nọ chỉ chợp mắt một tý, tôi không để ý đến, không
biết đứa mất dạy nào muốn làm cho cậu vui, không kể sống chết thế nào, đã để
cậu uống rượu, thành ra tôi bị mắng mất mặt hai ngày liền! Bà dì không biết
tính cậu ấy à? Hễ uống rượu vào là khác tính ngaỵ Chỉ có một hôm cụ vui nên để
cậu ấy tha hồ uống, còn các hôm khác đều cấm. Nếu không, tội gì tôi lại mất
công chầu chực ở đây.
Tiết phu nhân cười nói:
- Thôi già cứ yên tâm đi uống rượu, tôi không
cho cậu ấy uống nhiều đâu. Nếu cụ hỏi, thì đã có tôi.
Rồi bảo a hoàn:
- Hãy mời vú Lý đi uống rượu cho đỡ rét.
Vú Lý nghe nói, đành phải đi uống rượu với mọi
người.
Bảo Ngọc lại nói:
- Không phải hâm nữa, tôi thích uống rượu lạnh.
Tiết phu nhân nói:
- Không thế được, uống rượu lạnh hay run tay,
không viết được chữ.
Bảo Thoa cười nói:
- Anh Bảo, hàng ngày anh học hỏi được nhiều
điều, thế mà anh lại không biết tính rượu rất nóng à? Phải uống nóng thì phát
tán nhanh; nếu uống lạnh thì đọng lại ở bên trong, ngũ tạng sẽ bị lạnh, như thế
chẳng có hại hay sao? Từ rày anh nên chừa đi, đừng uống rượu lạnh nữa.
Bảo Ngọc nghe nói có lý, bỏ rượu lạnh xuống, sai
người hâm nóng mới uống.
Đại Ngọc đương cắn hạt dưa, nhếch mép mỉm cười.
Vừa lúc đó a hoàn của Đại Ngọc là Tuyết Nhạn mang đến cái lồng ấp, Đại Ngọc
cười hỏi:
- Ai bảo em đem đến cho ta thế? Thật là em chu tất quá. Nhưng ta đã chết rét đâu mà sợ!
Tuyết Nhạn nói:
- Chị Tử Quyên sợ
cô lạnh, bảo tôi mang đến đấy.
Đại Ngọc cầm lấy
lồng ấp để vào lòng, cười nói:
- Khen cho em cũng khá đấy! Lại biết nghe lời
nó. Xưa nay ta bảo em câu gì, em đều để ngoài tai. Thế mà bây giờ nó bảo em, em
vâng lời, nhanh hơn chiếu chỉ nhà vua!
Bảo Ngọc nghe nói thế, biết Đại Ngọc mượn cớ
nói chọc mình, nhưng không biết trả lời ra làm sao, chỉ hì hì cười mà thôi.
Bảo Thoa vẫn biết Đại Ngọc xưa nay quen lối nói
cạnh nói khóe, nên không để ý. Tiết phu nhân cười nói:
- Cháu người vốn yếu, không chịu được lạnh, thế
mà nó lại nghĩ đến cháu, chẳng tốt hay sao?
Đại Ngọc cười nói:
- Dì không biết: may mà ở nhà dì đấy, chứ ở nhà
khác, chẳng làm cho người ta phát bực hay sao? Nhà ai chẳng có lồng ấp, việc gì
phải mang từ nhà đến? Dù rằng bọn a hoàn chu tất thật đấy, nhưng người ta lại
cho cháu ngày thường quen thói ngông cuồng đi rồi.
Tiết phu nhân nói:
- Cháu cẩn thận quá, hay để ý đến những việc
ấy, chứ ta thì chẳng bao giờ để tâm đến.
Khi nói chuyện, Bảo Ngọc đã uống mấy chén liền.
Vú Lý lại lên can ngăn. Bảo Ngọc đương lúc hào hứng, vui chuyện với chị em Bảo
Thoa, Đại Ngọc, nói nói cười cười, lẽ nào không đòi uống nữa, đành phải nén
lòng nài xin:
- U ơi, cho tôi uống hai chén nữa thôi.
Vú Lý nói:
- Cậu cẩn thận đấy, hôm nay ông ở nhà, sợ hỏi
đến bải vở chăng?
Bảo Ngọc nghe nói, rất không bằng lòng, từ từ
bỏ chén xuống, cúi đầu ngồi. Đại Ngọc vội nói:
- Đừng làm cho người ta mất vui! Cậu có hỏi, cứ
nói là dì giữ ở lại chơi. Bà già này muốn dạy khôn chúng ta đây!
Một mặt khẽ dúi để Bảo Ngọc bực thêm, một mặt
lẩm bẩm:
- Mặc kệ mụ ấy! Chúng ta cứ việc vui.
Vú Lý xưa nay biết tính Đại Ngọc, bên cười nói:
- Cô Lâm ơi! đừng xui cậu ấy nữa! Cô khuyên một
câu chắc cậu ấy còn nghe hơn!
Đại Ngọc cười nhạt:
- Việc gì tôi phải xui! Tôi cũng chẳng phải khuyên!
U cẩn thận quá! Ngày thường cụ tôi vẫn cho anh ấy uống rượu. Hôm nay ở nhà dì,
anh ấy có uống mấy chén cũng chẳng sao. Hay nhà dì là người ngoài, không nên
ngồi uống rượu ở đây?
Vú Lý nghe đoạn, vừa sốt ruột, vừa buồn cười
nói:
- Những lời nói của cô Lâm thật là sắc hơn lưỡi
dao.
Bảo Thoa cũng nhịn không nổi, béo má Đại Ngọc
một cái, cười nói:
- Thật đấy! Chỉ cô Tần(#8) này hễ mở mồm ra là
làm cho người ta giận không giận được, mà vui cũng chẳng thành vui.
Tiết phu nhân nói:
- Cháu Bảo ơi! đừng sợ. Nhà dì chẳng có thức gì
ngon cho cháu ăn, cháu không nên để tâm đến những điều lặt vặt ấy, làm cho dì
không yên lòng. Cháu cứ việc uống, đã có dì đây. Uống xong ăn cơm, có say thì
cháu ngủ lại đây.
Rồi gọi a hoàn:
- Hâm rượu nữa mang lại đây. Dì uống với cháu
hai chén, rồi ăn cơm.
Bảo Ngọc nghe nói, lại cao hứng lên. Vú Lý dặn
dò a hoàn:
- Các người ở đây cẩn thận nhé, ta về thay quần
áo rồi sẽ đến!
Rồi khẽ nói với Tiết phu nhân:
- Xin bà đừng cho cậu ấy uống nữa.
Nói xong ra về.
Tuy còn hai, ba bà già hầu ở lại đấy, nhưng đều
hờ hững không ai thiết. Thấy vú Lý đi rồi, họ cũng đều lảng đi mỗi người một
ngả. Còn vài a hoàn nhỏ ở lại cố chiều cho Bảo Ngọc vui. May được Tiết phu nhân
vừa dỗ, vừa lừa, chỉ cho uống vài chén, rồi sai dọn mâm đi. Lại sai nấu canh da
gà với măng chua đem lên. Bảo Ngọc ăn luôn mấy bát, rồi lại ăn già nửa bát cháo
gạo cẩm. Bấy giờ Bảo Thoa và Đại Ngọc đã ăn xong, ra uống trà.
Tiết phu nhân mới yên lòng. Bọn Tuyết Nhạn cũng
đều ăn cơm xong, lên hầu. Đại Ngọc hỏi Bảo Ngọc:
- Đã về hay chưa?
Bảo Ngọc lim dim mắt nói:
- Em về, anh cũng về!
Đại Ngọc đứng dậy nói:
- Chúng ta ở đây cả ngày rồi,
cũng nên đi về, kẻo bên nhà lại tìm.
Nói xong hai người đứng dậy cáo từ.
*
A hoàn vội mang cái mũ đi mưa đến. Bảo Ngọc cúi
đầu xuống bảo nó đội vào. A hoàn vừa chụp cái mũ lông màu đại hồng lên đầu. Bảo
Ngọc nói ngay:
- Thôi! Thôi! Đồ ngu! Nhè nhẹ chứ. Mày không
thấy người ta đội mũ như thế nào à? Để tao đội lấy vậy.
Đại Ngọc đứng cạnh bục nói:
- Om sòm làm
gì! Lại đây! Tôi đội cho.
Bảo Ngọc chạy lại ngaỵ Đại Ngọc nhè nhẹ đỡ mạng
tóc, đặt mũ lên trên khăn bịt trán, rồi nâng cái bông bằng nhung ở trên đầu
trâm to bằng hạt đào lên. Bông rung rúc ngoài mũ. Sửa sang xong, Đại Ngọc ngắm
nghía một lúc, rồi nói:
- Đẹp rồi, khoác áo đi mưa vào.
Bảo Ngọc nghe nói, liền cầm áo tơi khoác vào
người, Tiết phu nhân vội nói:
- U cháu chưa đến, cháu hãy chờ một lát.
Bảo Ngọc nói:
- Các cháu lại phải chờ họ kia à! Có bọn a hoàn
này đi theo là được rồi.
Tiết phu nhân không đành lòng, lại sai hai
người đàn bà nữa đưa anh em Bảo Ngọc về.
Hai người đều nói:
- Thật chúng cháu đến quấy rầy dì.
Rồi đi thẳng về buồng Giả mẫu.
Giả mẫu chưa ăn cơm chiều, biết các cháu ở bên
nhà Tiết phu nhân về thì rất vui. Thấy Bảo Ngọc say rượu, nên bảo vào buồng
nghỉ, không được ra ngoài. Lại sai người chầu chực luôn đấy để xem có cần gọi
gì không. Chợt nghĩ đến người đi theo Bảo Ngọc, Giả mẫu hỏi:
- Vú Lý đâu không thấy?
Mọi người không dám nói thẳng là vú đã về nhà,
chỉ thưa:
- Đã về đây rồi, nhưng chắc có việc gì, nên lại
đi.
Bảo Ngọc đương đi lảo đảo, quay lại nói:
- Mụ ấy còn sướng hơn bà kia! Bà hỏi mụ ấy làm
gì? Không có mụ ấy, có lẽ cháu còn sống thêm được vài ngày!
Vừa nói vừa đi về buồng ngủ, thấy bút mực còn
bỏ lăn lóc trên bàn. Tình Văn chạy ra đón, cười nói:
- Cậu hay nhỉ! Sớm dậy hứng lên, bảo tôi mài
mực, mới viết được ba chữ, đã quăng bút đi mất, làm tôi chờ suốt ngày. Cậu hãy
lại ngay đây viết cho hết cái mực này mới xong với tôi.
Bảo Ngọc nhớ đến việc khi sáng mới dậy, nhân
cười nói:
- Tôi viết ba chữ ở đâu rồi?
Tình Văn cười nói:
- Thôi cậu say rồi! Lúc cậu đi sang bên phủ có
dặn tôi đem dán ở trên cửa, bây giờ lại hỏi. Tôi sợ người khác dán hỏng, tôi
phải trèo lên thang dán một hồi lâu, đến bây giờ tay hãy còn rét cóng đây này.
Bảo Ngọc cười nói:
- Tôi quên mất đấy! Tay
chị lạnh à? Để tôi nắm cho nóng nhé.
Rồi giơ tay ra nắm lấy tay Tình Văn cùng đến
xem ba chữ mới viết dán ở trên cửa.
Một lúc Đại Ngọc đến, Bảo Ngọc cười nói:
- Này, em nói thật nhé, ba chữ này có được chữ
nào tốt không?
Đại Ngọc ngửa mặt lên xem, thấy ba chữ “Giáng
vân hiên”(#9)) cười nói:
- Chữ nào cũng tốt cả. Sao mà viết giỏi thế!
Ngày mai anh viết hộ em một cái biển nhé.
Bảo Ngọc cười nói:
- Em lại trêu anh rồi!
Lại hỏi:
- Chị Tập Nhân đâu?
Tình Văn ngoảnh vào phía trong, giảu mỏ làm
hiệu. Bảo Ngọc trông vào, thấy Tập Nhân để cả áo nằm ngủ. Bảo Ngọc cười nói:
- Giỏi lắm. Hãy còn sớm thế mà đã ngủ à?
Lại hỏi Tình Văn:
- Sáng hôm nay tôi ăn cơm ở bên kia có một đĩa
bánh đậu. Biết chị thích ăn, nên tôi nói với mợ Trân cho người mang sang để đến
chiều chị sẽ ăn. Chị có thấy không?
Tình Văn nói:
- Đừng nhắc đến chuyện ấy nữa. Khi họ mới mang
sang, tôi biết là cậu để phần tôi, nhưng vì ăn cơm rồi nên cất đi. Sau vú Lý
đến, trông thấy, nói: “Bảo Ngọc chưa chắc đã ăn cái này, để ta mang về cho
cháu. Rồi vú sai người đem về nhà.
Đương lúc nói chuyện. Phiến Tuyết mang trà đến,
Bảo Ngọc nói:
- Em Lâm xơi nước.
Mọi người cười nói:
- Cô Lâm về từ bao giờ, còn mời!
Bảo Ngọc uống được nửa chén, chợt nghĩ đến trà
pha buổi sáng, hỏi Phiến Tuyết:
- Buổi sáng hôm nay pha trà Phong Lộ(#10), ta
đã nói thứ trà này uống đến nước thứ ba, thứ tư mới ngon. Sao bây giờ lại pha
trà khác?
Phiến Tuyết nói:
- Tôi đã cất đi, nhưng lúc nãy vú Lý đến uống
cả.
Bảo Ngọc nghe nói, quăng ngay chén nước cầm
trong tay xuống đất, “Choang” một tiếng, chén vỡ tan, nước bắn cả vào quần
Phiến Tuyết. Bảo Ngọc nhảy lên hỏi:
- Vú Lý có phải là mẹ các chị đâu mà các chị
hiếu thảo thế? Chẳng qua lúc bé, ta có bú sữa vú ấy mấy hôm, thế mà quen lối
lên mặt, làm như ông cha người tạ Bây giờ ta không bú nữa, nuôi không vú ấy làm
gì. Tống cổ vú ấy đi, cả nhà mới êm thấm!
Nói xong định sang trình Giả mẫu ngay.
Số là Tập Nhân vẫn thức, chỉ nằm giả cách ngủ,
để giữ Bảo Ngọc đến đùa cho vui. Trước nghe thấy Bảo Ngọc hỏi chữ, hỏi bánh thì
cũng không cần dậy, sau thấy quăng chén, xem có ý tức giận, nên mới dậy khuyên
ngăn. Lại có người của Giả mẫu sai sang hỏi “Việc gì thế?” Tập Nhân vội trả
lời:
- Tôi pha trà nhỡ trượt chân phải tuyết ngã, vỡ
mất cái chén.
Tập Nhân lại khuyên Bảo Ngọc:
- Cậu nhất định đuổi vú Lý cũng được, và chúng
tôi cũng muốn xin ra cả, chi bằng nhân dịp này cậu đuổi luôn cả chúng tôi đi
một thể, cậu chẳng lo gì không có người hầu khéo hơn chúng tôi.
Bảo Ngọc nghe vậy, không nói gì nữa.
Tập Nhân dắt Bảo Ngọc đến giường ngủ, cởi bộ
quần áo, không biết Bảo Ngọc nói gì, chỉ líu tíu luôn mồm, mắt ríu lại. Tập
Nhân vội vàng đỡ Bảo Ngọc nằm xuống, rồi tháo viên “Thông linh bảo ngọc” ra,
lấy lụa bọc và để xuống dưới nệm, vì sợ ngày mai đeo sẽ lạnh cổ chăng. Bảo Ngọc
vừa nằm xuống đã ngủ ngaỵ Bấy giờ vú Lý vừa đến, thấy nói Bảo Ngọc say, không
dám vào, chỉ đứng ngoài lắng nghe. Thấy Bảo Ngọc ngủ rồi, vú Lý mới yên tâm về.
Ngày hôm sau Bảo Ngọc tỉnh dậy, có người trình:
- Cậu Dung bên kia dẫn cậu Tần sang thăm.
Bảo Ngọc vội ra tiếp, rồi dẫn vào chào Giả mẫu.
Giả mẫu trông thấy Tần Chung dáng điệu phong nhã, đi đứng khoan thai, đáng làm
bạn học của Bảo Ngọc, trong bụng rất vui. Liền giữ ở lại uống nước ăn cơm, rồi
sai người dẫn sang chào Vương phu nhân. Mọi người vì yêu Tần thị, và thấy phẩm
cách Tần Chung như thế, nên mến thích cả. Lúc Tần Chung sắp về, ai nấy đều đem
quà ra tặng. Giả mẫu cho một cái túi và một cái tượng “Khôi tinh”(#11) bằng
vàng, lấy nghĩa là Văn linh sum họp, lại dặn:
- Nhà cháu ở xa, lúc nắng, lúc rét đi lại không
tiện. Cháu nên ở ngay bên này cùng học với chú Bảo, đừng chơi bời với nhưng con
nhà lười biếng.
Tần Chung nhất nhất vâng lời, về nhà nói lại
với cha.
Cha Tần Chung là Tần Nghiệp hiện làm ở ty doanh
thiện lang(#12), năm nay gần bảy mươi tuổi, vợ chết từ lâu. Trước đây vì hiếm
hoi. Tần Nghiệp đến Dưỡng Sinh Đường xin một đứa con trai, một đứa con gái,
không ngờ đứa con trai lại chết, chỉ còn đứa con gái, lúc nhỏ đặt tên là Khả
Nhị Lớn lên cô gái hình dung yểu điệu, tính cách phong lưu. Vì có bà con xa với
họ Giả, nên kết làm thông gia. Năm năm mươi ba tuổi, Tần Nghiệp mới đẻ được Tần
Chung, năm nay mười hai tuổi. Năm ngoái thầy học về mất, chưa mời thầy khác
được, Tần Chung phải ở nhà ôn lại bài cũ. Tần Nghiệp đương muốn đến nói với họ
Giả để cho con sang trường bên ấy, khỏi trễ nải việc học. May sao có dịp tốt,
Tần Chung được gặp Bảo Ngọc, lại biết thầy dạy là Giả Đại Nho, một vị túc nho
lúc bấy giờ. Tần Chung được sang đấy học, có thể tấn tới, thành danh được, nên
ông ta vui mừng lắm. Chỉ vì bổng lộc ít ỏi, mà bên ấy thì toàn người giàu sang
có con mắt khác người, nếu đưa lễ vật ít quá sợ không tiện. Nghĩ đến việc lớn
quan hệ suốt đời của con mình, Tần Nghiệp cố gắng bòn góp được hai mươi bốn
lạng bạc làm lễ yết kiến và dẫn Tần Chung đến lạy chào Giả Đại Nho, rồi chờ Bảo
Ngọc chọn ngày tốt để cùng vào học.
Biết sau này bị đua hơi vặt,
Thì sáng nay chẳng đọc sách nhầm.
Chú thích:
(1-) Nơi chay tịnh mộng tưởng đến Tô Đông Pha.
(2-) Một thứ trang sức vàng hay bạc làm hình
cái khóa khắc bốn chữ “Bản mệnh trường sinh” đeo lên sổ trẻ con cho khước.
(3-) Xem chú thích ở hồi thứ ba.
(4-) Thông suốt đến cõi thiêng liêng.
(5-) Đừng đánh mất, đừng bỏ quên; tuổi tiên
được khỏe mạnh mãi.
(6-) Trừ ma quỷ; chữa bệnh tật; biết được những
điều dữ, điều lãnh.
(7-) Không xa lìa, không rời bỏ; tuổi thơm được
lâu bền mãi.
(8-) Đôi lông mi cau lại có vẻ buồn. Các nhà
văn thường dùng để tả vẻ đẹp của người buồn, có nghĩa là càng buồn càng đẹp.
Cũng có khi dùng để tả vẻ đẹp của người đàn bà đa sầu đa cảm.
(9-) Hiên: danh từ do các nhà văn xưa dùng để
đặt tên chỗ ngồi chơi, ngắm phong cảnh, đọc sách, ngâm thơ… Giáng: màu đỏ; Vân:
một loại cỏ thơm dùng để ướp sách cho khỏi mọt; nghĩa rộng là nơi đọc sách, thí
dụ: Vân trai, Vân song… Giáng vân hiên: Hiên cỏ vân đỏ, có thể hiểu là nơi đọc
sách.
(10-) Tên một thứ chè ngon.
(11-) Theo thiên văn thời cổ: Khôi là ngôi sao
đẩu của sao bắc đầu, ứng vào người nào thi đỗ trạng nguyên.
(12-) Một ty coi riêng về công việc kiến trúc.
Hồi thứ chín: Quen nết
phong lưu, bạn đa tình cùng vào trường học-Gây chuyện ngờ vực, tên ngoan đồng
làm nhộn thư đường
Cha con Tần Chung đang
chờ tin họ Giả hẹn ngày vào học. Bảo Ngọc thì muốn gặp ngay Tần Chung, nên chọn
ngày hôm sau vào trường, và sai người sang đưa tin: “Sáng mai xin mời cậu Tần
sang bên này cùng đi”.
Hôm ấy, Bảo Ngọc chưa
dậy, Tập Nhân đã sắm đủ bút sách rồi ngồi buồn rũ ở bên giường. Lúc Bảo Ngọc
dậy. Tập Nhân vội hầu rửa mặt, chải đầu. Bảo Ngọc thấy Tập Nhân có dáng buồn,
bèn hỏi:
- Chị ơi, chị làm sao
lại không vui thế? Hay là sợ tôi đi học vắng, khiến các chị buồn?
Tập Nhân cười nói:
- Sao cậu lại nói thế?
Đi học là việc rất hay, nếu không thì lêu lổng suốt đời, còn làm nên trò gì
được? Chỉ có một điều: khi đi học thì cậu nghĩ đến sách, khi nghỉ thì nghĩ đến
nhà, nhất là đừng đùa nghịch với ai, ông biết thì không phải chuyện chơi đâu.
Tuy học phải cố gắng, nhưng cũng phải có chừng mực, một là ăn nhiều thì nhai
không kỹ; hai là cần phải giữ gìn sức khỏe. Tôi nghĩ thế đấy, cậu nên hiểu cho.
Tập Nhân nói câu nào,
Bảo Ngọc gật đầu câu ấy. Tập Nhân lại nói:
- Cái áo da cáo của tôi
đã bọc sẵn và giao lũ hầu bé mang đi. Khi ở trường, thấy lạnh, cậu phải nhớ mặc
thêm, không như lúc ở nhà, có người trông nom sẵn. Lồng ấp chân, lồng ấp tay,
đã cho người mang đi cả rồi. Cậu bắt chúng nó đặt vào chỗ ngồi cho ấm. Cái lũ
ranh con lười biếng ấy, không ai bảo thì chúng càng sướng, không chịu làm gì,
sẽ để cậu chết rét đấy.
Bảo Ngọc nói:
- Chị cứ yên tâm, tôi
lo liệu được cả. Các chị cũng đừng ngồi buồn rũ ở trong nhà này, thỉnh thoảng
sang chơi với cô Lâm cho vui.
Bảo Ngọc mặc quần áo
xong, Tập Nhân giục đến trình Giả mẫu, Giả Chính và Vương phu nhân. Bảo Ngọc
lại dặn dò Tình Văn, Xạ Nguyệt mấy câu, rồi sang trình Giả mẫu, Giả mẫu cũng
dặn dò mấy câu, sau sang trình Vương phu nhân, rồi sang trình Giả Chính.
Khi ấy Giả Chính đương
ngồi trong thư phòng, nói chuyện với bọn gia khách. Thấy Bảo Ngọc đến chào và
nói xin đến trường học, Giả Chính cười nhạt:
- Mày nói đến hai chữ
đi học làm tao xấu hổ chết đi được. Cứ như ý tao thì mày đi chơi là đúng hơn.
Coi chừng đấy, đừng đứng bẩn đất tao, dựa bẩn cửa tao!
Bọn gia khách đứng dậy
cười nói:
- Sao cụ lại nói quá
như thế? Cậu nhà đi học chuyến này, thế nào hai ba năm nữa cũng sẽ hiển thân
thành danh, chứ không còn trẻ thơ như ngày trước nữa. Sắp đến bữa cơm rồi, mời
cậu đi thôi.
Nói xong hai người già
dắt Bảo Ngọc ra.
Giả Chính hỏi:
- Những ai đi theo Bảo
Ngọc đấy?
Ở ngoài có tiếng dạ ran
rồi ba bốn người vào vái chào. Giả Chính nhìn ra, thấy con trai vú nuôi Bảo
Ngọc là Lý Quí, bèn hỏi:
- Ngày thường theo hầu
nó đi học, thấy nó học đến sách gì rồi? Hay là chỉ học những câu lếu láo, những
lối ngỗ nghịch tinh ranh? Lúc nào rỗi, ta sẽ lột da mày và sửa tội cho cái
thằng hư thân kia!
Lý Quí run sợ, quỳ
xuống, bỏ mũ rập đầu “dạ” “dạ” và nói:
- Cậu ấy đã học kinh
Thi đến quyển thứ ba, hình như có câu: “du du lộc minh, hà diệp phù bình”(1) gì
ấy, cháu không dám nói dối.
Mọi người ngồi đấy nghe
vậy cười ầm lên. Giả Chính cũng không nhịn được cười, liền nói:
- Dù có học ba mươi
quyển kinh Thi, cũng là câu chuyện “bịt tai ăn trộm chuông” để lòe người ta
thôi. Mày đến trường hỏi thăm sức khỏe tôn sư và trình lại lời của tao: “Không
nên dạy theo lối cũ, cho nó đọc kinh Thi hay cổ văn, trước nhất phải giảng cho
nó rõ nghĩa và học thuộc lòng Tứ thư đã.”
Lý Quí vâng vâng da dạ,
thấy Giả Chính không nói gì nữa, hắn mới đứng dậy lùi ra.
Bảo Ngọc đứng chờ ở
ngoài cửa nghe ngóng và đợi bọn họ ra cùng đi. Bọn Lý Quí vừa phủi quần áo vừa
nói:
- Cậu nghe thấy gì
không? Ông định lột da chúng tôi đấy! Đầy tớ nhà chúng ta theo chủ thì được
hãnh diện, còn chúng tôi làm đầy tớ cậu thì bị đánh chửi hoài, như thế có đáng
thương không?
Bảo Ngọc nói:
- Thôi anh đừng phàn
nàn nữa, mai tôi mời anh đánh chén một bữa.
Lý Quí nói:
- Ông trẻ ơi! Ai dám
mong ông mời, chỉ xin ông để ý nghe cho một vài câu thôi.
Bảo Ngọc lại đến chỗ
Giả mẫu, gặp ngay Tần Chung đã ở đấy và đang nói chuyện với Giả mẫu. Hai người
chào nhau, rồi cáo từ xin đi.
Bảo Ngọc chợt nghĩ đến
Đại Ngọc, bèn sang bên đó chào để đi. Bấy giờ Đại Ngọc đương ngồi dưới cửa sổ
soi gương trang điểm, nghe nói Bảo Ngọc đi học thì cười và nói:
- Tốt lắm, đi chuyến
này có thể định “bẻ cành quế trên cung trăng” đấy. Tôi không thể đi tiễn.
Bảo Ngọc nói:
- Cô em chờ tôi đi học
về hãy ăn cơm chiều, còn sáp bôi mặt thì để tôi về sẽ pha cho.
Nói chuyện một lúc lâu
rồi mới dứt ra đi. Đại Ngọc vội gọi giật lại hỏi:
- Sao không đến chào cô
Bảo Thoa nhà anh?
Bảo Ngọc nhoẻn mép cười
không nói gì, cùng Tần Chung đi thẳng đến trường.
Trường không xa nhà
mấy, do vị thủy tổ họ Giả lập ra, để cho những con em trong họ không mời thầy
riêng được thì vào đấy học. Những người làm quan trong họ đều có quyên góp, kẻ
nhiều người ít, để chi tiền dầu đèn, thầy học thì mời người nào cao tuổi và có
đạo đức đến dạy.
Tần Chung, Bảo Ngọc đến
trường, liền đi chào từng người một, rồi vào lớp học. Từ đó hai người đi đứng
có nhau, ngày càng thêm thân mật. Giả mẫu lại càng yêu Tần Chung, thường giữ ở
lại dăm ba ngày, chẳng khác gì chắt ruột. Nhân thấy Tần Chung không được đầy
đủ, Giả mẫu lại giúp cho cả quần áo, đồ dùng. Chưa đầy hai tháng, Tần Chung đã
trở thành quen thuộc trong phủ Vinh.
Nguyên Bảo Ngọc xưa nay
là người không chịu yên thường thủ phận, cái gì cũng thích theo ý muốn của
mình, đã thành cái tật riêng. Bảo Ngọc thường nói với Tần Chung:
- Hai chúng ta cùng lứa
tuổi, lại là bạn học. Từ giờ trở đi đừng xưng chú cháu nữa, chỉ gọi là anh em
bạn thì phải hơn.
Lúc đầu Tần Chung không
dám, nhưng Bảo Ngọc không nghe, cứ gọi là em và gọi tên là Kình Khanh. Tần
Chung thấy vậy cũng định phải gọi bừa đi.
Trường học này vốn chỉ
nhận con em trong họ và con cháu những nhà bà con thân thuộc thôi. Nhưng tục
ngữ nói rất đúng: “Một con rồng chín giống, mỗi giống mỗi khác”. Ở đây nhiều
người, nên rồng rắn lẫn lộn, trong ấy có cả đám hạ lưu nữa. Từ khi Tần Chung,
Bảo Ngọc đến trường, xem ra dáng điệu tươi đẹp như hoa; Tần Chung thì bẽn lẽn
nhu mì, chưa nói đã đỏ mặt, ngượng nghịu như con gái; Bảo Ngọc thì nhũn nhặn
dịu dàng, nói năng hòa nhã. Vì hai người thân mật với nhau như thế nên tránh
sao khỏi sự ngừ vực của một số học trò. Lúc vắng mặt thì người nói thế này, kẻ
nói thế khác, giễu cợt, gièm pha khắp cả trong và ngoài lớp học.
Sau khi Tiết Bàn đến ở
nhà Vương phu nhân, biết ở đây có một trường học, trong trường lại có nhiều học
trò trẻ, nên bệnh “Long dương”(2) lại nổi lên. Hắn cũng mượn tiếng đi học,
nhưng “Ba ngày đánh cá thì hai ngày phơi lưới”(3), quăng tiền ra trả công thầy
học, chỉ cốt để ăn mặc tiêu xài, đã có mấy đứa bị Tiết Bàn cám dỗ. Việc này
không cần nói nhiều. Có hai đứa không biết con cái nhà ai, tên tuổi là gì, chỉ
vì thấy chúng có vẻ lẳng lơ, nên cả trường đặt tên cho một đứa là Hương Lân,
một đứa là Ngọc ái. Có nhưng người mến thích chúng, định đem lòng không tốt đối
với lũ trẻ nhưng lại sợ uy thế Tiết Bàn, nên không ai dám vương vào. Từ khi Tần
Chung, Bảo Ngọc đến trường, thấy hai đứa ấy trong bụng cũng vấn vương trìu mến,
nhưng biết là bạn tương tri của Tiết Bàn, nên cũng không dám động chạm đến. Hai
đứa Hương Lân, Ngọc ái đều để ý đến Tần Chung và Bảo Ngọc. Bốn người sẵn có
tình ý với nhau, nhưng chưa dám lộ ra ngoài. Mỗi khi vào học, họ ngồi riêng bốn
chỗ, nhưng tám mắt vẫn liếc nhau, hoặc đặt lời mượn ý, vịnh dâu ngắm liễu, xa
tỏ nỗi lòng. Ngoài mặt họ lại muốn che mắt mọi người. Không ngờ có mấy đứa láu
lỉnh, thấy bộ dạng ấy, thường ở sau lưng chế giễu hoặc nháy mắt đưa mày, hoặc
đằng hắng lên tiếng. Việc này xảy ra đã từ lâu rồi.
Một hôm, Đại Nho có
việc về nhà, ra sẵn cho học trò một câu đối bảy chữ, để ngày mai sẽ giảng sách
và giao cho cháu trưởng là Giả Thụy trông nom nhà trường. Vừa buổi sáng hôm ấy
khi gọi tên, thấy Tiết Bàn vắng mặt, Tần Chung thừa dịp liền đầu mày khóe mắt với
Hương Lân. Hai người ra hiệu với nhau giả cách đi tiểu, chạy ra sau nhà trò
chuyện. Tần Chung hỏi:
- Ông nhà có cấm em
chơi với bạn không?
Nói chưa dứt lời, đằng
san có tiếng đằng hắng. Hai người giật mình quay lại, thấy một đứa bạn học tên
là Kim Vinh. Hương Lân vốn nóng tính, vừa thẹn vừa bực nói:
- Mày đằng hắng cái gì?
Định cấm chúng tao nói chuyện à?
Kim Vinh cười nói:
- Chúng bay nói chuyện
được, tao đằng hắng không được à? Tao chỉ hỏi chúng bay có chuyện gì sao không
nói rõ ràng, mà lại thầm thầm thụt thụt thế? Tao bắt được quả tang, mày còn
chối cái gì? Mày cho tao chơi nước đầu, chúng ta im chuyện cả; nếu không, đây
sẽ bới tung ra hết.
Tần Chung và Hương Lân
đỏ bừng mặt lên hỏi:
- Mày bắt chúng tao về
cái gì?
Kim Vinh cười nói:
- Tao hiện bắt được quả
tang đấy!
Nói xong nó vỗ tay cười
ầm lên:
- Có bánh nướng ngon
đây, sao chúng bay không mua một cái mà ăn?
Tần Chung và Hương Lân
tức giận lắm, vội đến nói với Giả Thụy là Kim Vinh vô cớ vu oan cho chúng. Giả
Thụy vốn người không đứng đắn, chỉ thích lợi, khi ở trong trường hắn thường hay
mượn việc công làm việc tư, hạch sách đám học trò phải mời hắn ăn uống. Hắn vào
hùa với Tiết Bàn, mong kiếm tiền, kiếm rượu, nên tha hồ để mặc cho Tiết Bàn
ngông nghênh làm càn, không những hắn không ngăn cấm mà còn nối giáo cho giặc
để lấy lòng Tiết Bàn. Khốn nỗi Tiết Bàn có tính lông bông, nay yêu đứa này, mai
yêu đứa khác, gần đây có mới nới cũ, hắn bỏ rơi hai đứa Hương Lân và Ngọc ái.
Ngay cả Kim Vinh, trước cũng là bạn thân của Tiết Bàn, nhưng từ khi có Hương Lân
và Ngọc ái, thì nó bỏ ngay Kim Vinh. Gần đây Hương Lân và Ngọc ái cũng lại bị
nó bỏ rơi nốt, nên Giả Thụy không có ai cưu mang. Giả Thụy không oán Tiết Bàn
có mới nới cũ, lại oán Hương Lân và Ngọc ái không biết chiều chuộng Tiết Bàn,
vì thế cả Giả Thụy lẫn Kim Vinh đều ghét sẵn hai đứa này. Nay thấy Tần Chung và
Hương Lân đến thưa Kim Vinh, Giả Thụy trong bụng cũng khó chịu, nhưng không dám
mắng Tần Chung, mà lại quở trách Hương Lân, cho là hay sinh sự. Thành ra Hương
Lân tiu nghỉu, Tần Chung cũng bẽn lẽn, đều đi về chỗ ngồi.
Kim Vinh càng lên nước,
đầu lắc lư, miệng tóp tép, nói nhiều câu bâng quơ. Ngọc ái ngồi ở đằng xa nghe
thấy, liền sinh chuyện cãi nhau. Kim Vinh nhất quyết nói:
- Vừa rồi chính mắt tao
trông thấy hai đứa hôn và sờ đít nhau ở đằng sau nhà, chúng nó bàn tán nhau
định giở trò ma quái...
Bấy giờ Kim Vinh đắc ý
nói bừa, không còn để ý đến ai nữa. Ngờ đâu lại làm cho một người phát bực lên,
người ấy là ai? Chính là Giả Tường, hàng chút ngành trưởng bên phủ Ninh, cha mẹ
mất sớm, từ bé đến ở với Giả Trân, nay đã mười sáu tuổi dáng người thanh tú,
hơn cả Giả Dung. Hai người ở với nhau rất thân. Trong phủ Ninh, nhiều người lắm
miệng, nên có những đứa đầy tớ không vừa lòng, hay đặt đều nói xấu chủ. Nhiều
chuyện phao đồn nhảm nhí đến tai Giả Trân. Muốn tránh sự hiềm nghi, Giả Trân đã
chia nhà cho Giả Tường ra ở riêng ngoài phủ Ninh.
Giả Tường đẹp trai, lại
thông minh. Gọi là đi học để che mắt đời chứ hắn vẫn thích chó săn gà chọi, hỏi
liễu tìm hoa. Trên có Giả Trân quá yêu, dưới có Giả Dung che chở, nên khắp
trong họ không ai dám trái ý hắn. Hắn vốn chơi thân với Giả Dung, nay thấy
người ta khinh rẻ Tần Chung, thì khi nào lại chịu nhịn? “Ta phải đứng lên dẹp
sự bất bằng này!” Nhưng rồi hắn lại đắn đo trong bụng: “Bọn Kim Vinh, Giả Thụy
đều là bạn thân của Tiết Bàn, ta cũng đi lại với chú Tiết. Nay nếu ra mặt bênh
Tần Chung, tất nhiên chúng nó sẽ mách chú Tiết, chẳng hóa ra tổn thương đến hòa
khí hay sao? Nếu cứ lặng yên, thì tiếng xấu ầm lên, mang tiếng cả lũ. Ta sao
không dùng kế ngăn chặn ngay đi, vừa dập tắt được tiếng xấu, lại không mất lòng
ai?” Nghĩ xong hắn giả cách ra đằng sau đi tiểu, lẳng lặng gọi thư đồng của Bảo
Ngọc là Dính Yên đến cạnh, nói khích mấy câu.
Dính Yên là người hầu
đắc lực nhất của Bảo Ngọc, nhưng còn trẻ tuổi, không hiểu việc đời, xưa nay
không có việc gì nó cũng còn nạt nộ người ta, nay nghe thấy Giả Tường nói “Kim
Vinh khinh rẻ Tần Chung, lại có cả cậu Bảo Ngọc chúng mày cũng dính líu vào đó,
nếu không cho nó biết tay, thì lần sau nó còn láo nữa” Dính Yên bèn lập tức đi
tìm ngay Kim Vinh. Nó không gọi ông Kim nữa, mà gọi ngay “Họ Kim kia, mày là
cái giống gì?” Giả Tường vội xỏ chân vào giày làm bộ sắp sửa quần áo đi ra xem
bóng mặt trời, nói: “Đến giờ rồi và nói với Giả Thụy có việc xin về trước. Giả
Thụy không dám ngăn lại, đành để cho hắn đi. Dính Yên chạy đến nắm lấy Kim Vinh
hỏi:
- Chúng tao có giở trò
gì chăng nữa thì can gì đến mày miễn là không đ... thằng cha mày thôi. Mày có
giỏi ra đây chơi với ông Dính nhà mày!
Học trò cả trường đều
ngơ ngác nhìn, Giả Thụy vội quát:
- Dính Yên không được
nói bậy!
Kim Vinh giận tái mặt
nói:
- Làm loạn à? Đồ nhãi
con mà dám như thế, tao sẽ nói với chủ mày.
Rồi hắn giật tay định
quay sang đánh Bảo Ngọc và Tần Chung.
Bỗng vù một tiếng ở
phía sau, không biết ai ném cái nghiên lại, nhưng may không trúng vào người
nào, lại tạt sang phía bàn của Giả Lam và Giả Huân, là chắt họ gần bên phủ
Vinh. Giả Huân lúc bé mồ côi cha, được mẹ nuông chiều, ở trường chơi thân với
Giả Lam, cùng ngồi học một chỗ. Giả Huân tuổi còn nhỏ, nhưng chí rất to, bướng bỉnh
không biết sợ ai. Hắn đang ngồi ở bàn, trông thấy bạn bè Kim Vinh có ý giúp
ngầm Kim Vinh, ném nghiên vào Dính Yên, nhưng lại rơi vào trước mặt mình, cái
nghiên vỡ tan, mực bắn tóe ra đầy quyển sách. Hắn không chịu được bèn mắng:
- Quân chết đâm chết chém
kia! Chúng bay định đánh hôi à!
Hắn cầm lấy cái nghiên
định ném lại, Giả Lam không muốn sinh chuyện, vội giằng lấy cái nghiên bảo:
- Em ơi, không việc gì
đến chúng mình.
Giả Huân không nhịn
được, thấy cái nghiên đã bị giằng mất, vội vớ ngay cái tráp ném sang bên kia.
Nhưng vì người bé, sức yếu nên không đến nơi, lại rơi ngay vào bàn của Bảo Ngọc
và Tần Chung. “Choang” một tiếng, sách giấy, bút nghiên đổ tung tóe cả trên
bàn, làm vỡ chén nước của Bảo Ngọc, nước đổ ra lênh láng.
Giả Huân nhảy ra, định
đánh đứa ném nghiên. Bấy giờ Kim Vinh tiện tay vớ ngay được cái gậy tre, múa
tít lên. Phòng hẹp, người đông, tránh sao khỏi đụng phải người! Dính Yên bị
ngay một gậy, kêu ầm lên: “Các anh đứng khoanh tay đấy à?” Bảo Ngọc còn một lũ
hầu bé là Tảo Hồng, Sừ Dược, Mặc Vũ, ba đứa này lẽ nào lại không hung lên.
Chúng kêu ầm ĩ: “Đồ chó đẻ kia: Mày dám lấy gậy đánh người ta à?” Mặc Vũ rút
ngay cái then cửa, Tảo Hồng, Sừ Dược tay cầm roi ngựa, xông vào như ong.
Giả Thụy vừa cản người
này, vừa ngăn người kia, nhưng nào có ai nghe. Đánh nhau túi bụi, bọn trẻ con
thấy vậy có đứa xúm vào đánh hôi cho vui, có đứa nhát gan thì lánh đi một chỗ,
lại có đứa đứng lên bàn vỗ tay cười và xúi thêm : “Đánh đi! Đánh đi!” Lúc bấy
giờ cả trường sục lên như vạc nước sôi.
Mấy người hầu lớn của
Bảo Ngọc là bọn Lý Quí, nghe tiếng ồn ào ở trong trường, vội chạy vào quát phải
thôi và hỏi vì cớ gì? Bọn học trò đứa nói thế nọ, đứa nói thế kia, mỗi đứa một
phách. Lý Quí mắng Dính Yên một trận rồi đuổi ra. Đầu Tần Chung đụng phải gậy
Kim Vinh, toạc một miếng da. Bảo Ngọc lấy vạt áo xoa cho Tần Chung. Thấy mọi
người đã đứng yên, Bảo Ngọc bèn bảo Lý Quí:
- Dọn sách vở, mang
ngựa lại đây, để ta về trình tôn sư! Chúng ta bị người ta khinh rẻ quá. Không
nói gì xa, riêng một việc giữ lễ phép, đến nói với anh Thụy, thế mà anh ấy lại
bảo chúng ta trái, để cho người khác mắng chúng ta, lại xui người đánh Dính
Yên. Cả Tần Chung cũng bị đánh toạc đầu. Như thế còn học làm gì nữa? Dính Yên
thấy người ta khinh nhờn ta, nó mới làm thế, chi bằng về là xong chuyện.
Lý Quí khuyên can:
- Xin cậu đừng nóng.
Tôn sư có việc về nhà, nay vì việc nhỏ làm rác tai người, lại càng tỏ ra là
mình vô lễ. Cứ ý tôi, cũng nên dàn xếp cho xong, đừng làm phiền đến người. Việc
này lỗi ở cậu Thụy cả. Tôn sư đi vắng, cậu ấy là người đứng đầu trông nom
trường này, ai làm việc gì cũng phải hỏi cậu ấy. Ai có lỗi đáng đánh thì đánh,
đáng phạt thì phạt, có lẽ nào để mặc cho họ lung tung như thế?
Giả Thụy nói:
- Tôi đã mắng gạt đi,
nhưng chẳng ai chịu nghe cả.
Lý Quí cười nói:
- Cậu giận tôi cũng cứ
nói: vì ngày thường cậu ăn ở không được đứng đắn, nên nói chẳng ai buồn nghe.
Nếu trình tôn sư, ngay cậu cũng có lỗi, sao cậu không thu xếp ngay cho xong đi.
Bảo Ngọc nói:
- Thu xếp cái gì? Ta
phải về thôi!
Tần Chung khóc nói:
- Có Kim Vinh ở đây thì
tôi nhất định phải về.
Bảo Ngọc nói:
- Tại sao thế? Người ta còn đến học nữa là chúng ta? Tôi phải về trình đuổi Kim Vinh đi.
Lại
hỏi Lý Quí:
-
Kim Vinh là họ hàng của phòng nào?
Lý
Quí nghĩ một lúc rồi thưa:
-
Thôi đừng hỏi nữa. Nếu nói rõ họ hàng e tổn thương đến hòa khí trong anh em.
Dính
Yên ở ngoài nói chêm vào:
-
Nó là cháu chị Hoàng, ở bên phủ Đông, chứ là cái hạng gì mà cậy thế đến dọa nạt
chúng ta! Cô nó là chị Hoàng chỉ biết tìm cách luồn lụy ton hót mợ Hai Liễn để
nhờ vả vay mượn. Hạng chủ nhà ấy tôi coi ra gì đâu.
Lý
Quí vội thét mắng:
-
Đồ chó con kia! Biết gì mà dám lai nhai nói bậy!
Bảo
Ngọc cười nhạt:
-
Ta cứ tưởng nó là họ hàng thế nào, chẳng hóa ra cháu gọi chị Hoàng bằng cô. Để
ta đến hỏi cô nó.
Nói
xong, gọi Dính Yên đến thu xếp sách vở và định đi ngay. Dính Yên chạy lại, đắc
ý nói:
-
Cậu không cần phải đi, để tôi đến bảo chị Hoàng là cụ cho gọi đến, rồi thuê một
cái xe lôi cổ chị ta về, cho cụ hỏi tội, như thế chẳng tiện hay sao?
Lý Quí vội thét:
- Mày muốn chết à? Giờ
hồn đấy, tao sẽ đánh mày trước, rồi về trình ông và bà là việc này đều tại mày
xui giục cậu Bảo cả! Tao muốn khuyên ngăn cho êm đi, mày lại cứ bới chuyện ra.
May làm ầm cả trường học, đã không tìm cách dập tắt đi, lại còn định nhảy vào
đống lửa à!
Dính Yên mới chịu im,
không dám nói gì nữa.
Bấy giờ Giả Thụy sợ
việc kéo dài thành to chuyện, thì bản thân cũng không được yên, nên đành phải
khúm núm đến xin nài Tần Chung và Bảo Ngọc. Trước hai người không bằng lòng.
Sau Bảo Ngọc nói:
- Bắt Kim Vinh đến tạ
lỗi thì sẽ thôi không về trình nữa!
Lúc đầu Kim Vinh không
chịu, sau Giả Thụy bắt buộc nó phải xin lỗi, Lý Quí cũng khuyên bảo:
- Việc này do anh gây
ra đầu tiên, nếu không chịu thế, thì bao giờ xong chuyện.
Kim Vinh bị ép quá,
đành phải vái Tần Chung một vái.
Nhưng Bảo Ngọc không
nghe, bắt phải lạy. Giả Thụy chỉ muốn cho yên chuyện nên lại khẽ bảo Kim Vinh:
- Tục ngữ có câu: “Dù
tội giết người cũng đến rập đầu xin lỗi là cùng”. Mày đã gây chuyện thì phải cố
nhịn đi, đến rập đầu cho xong chuyện.
Kim Vinh không làm thế
nào được đành phải đến lạy Tần Chung.
------------------------
(1).
Chữ trong kinh Thi: Du du lộc minh, thực dã chi bình. Lý Quí không biết đọc sai
nên mọi người mới cười.
(2).
Long Dương quân: một bầy tôi rất được yêu đương của vua nước Ngụy đời Chiến
quốc. Về sau dùng điển này chỉ cái bệnh thích con trai hơn con gái.
(3).
Cũng như nói: học ngày đực ngày cái.
Hồi
thứ mười: Kim quả phụ tham lợi chịu nhẫn nhục-Trương thái y xem bệnh nói gốc
nguồn
Vì
dựa vào người nhiều thế mạnh, và Giả Thụy bắt phải tạ lỗi, nên Kim Vinh đành
phải lạy tạ Tần Chung, bấy giờ Bảo Ngọc mới chịu thôi, không sinh chuyện nữa.
Tan học, Kim Vinh về nhà, càng nghĩ càng tức, lẩm bẩm: “Tần Chung chỉ là em vợ
Giả Dung, không phải là con cháu họ Giả, cũng đi học như ta thôi. Chỉ vì nó
thân với Bảo Ngọc, nên coi người bằng nửa con mắt. Nếu nó ăn ở đứng đắn thì
chẳng nói làm gì, nhưng thường ngày nó lại thậm thậm thụt thụt với Bảo Ngọc,
coi như ai cũng mù cả, không trông thấy gì. Nay nó lại đi chằng với đứa khác,
chọc vào mắt ta. Dù có gây chuyện, ta lại sợ gì?”
Mẹ
Kim Vinh là họ Hồ, nghe con cảu nhảu một mình, bảo:
-
Mày lại định sinh sự gì đấy? Tao phải nói khó mãi với cô mày, cô mày lại tìm
hết cách để nói với mợ Liễn bên phủ Tây, mày mới có chỗ học. Nếu không nhờ
người ta, thì nhà mình sức đâu mời được thầy? Vả chăng, ở bên ấy cơm nước có
sẵn, hai năm nay mày được học ở đấy, tao đỡ bao nhiêu tiền. Số tiền bớt ra ấy,
tao may thêm quần áo đẹp cho mày. Nếu mày không học ở bên ấy, thì biết thế nào
được cậu Tiết, mỗi năm được cậu ấy giúp nhà mình tới bảy tám mươi lạng bạc? Nay
mày lại muốn sinh sự thì liệu mày có tìm được chỗ nào học tốt như thế không?
Tao bảo cho mà biết, việc ấy khó hơn lên trời đấy! Mày muốn tốt thì đi ngủ ngay
đi cho xong chuyện!
Bấy
giờ Kim Vinh mới chịu im, không nói nữa. Một lúc ngủ yên. Hôm sau lại đi học
như thường.
Cô
của Kim Vinh là vợ Giả Hoàng. Giả Hoàng thuộc dòng chữ “ngọc” trong chi trưởng
họ Giả. Nhưng có phải cả họ nhà nào cũng được thịnh vượng như phủ Ninh, phủ
Vinh đâu? Điều đó chẳng cần phải nói. Vợ chồng Giả Hoàng có một cơ nghiệp nho
nhỏ thường hay đến thăm phủ Ninh và phủ Vinh, lại khéo chiều chuộng Phượng Thư
và Vưu thị, được họ giúp đỡ, mới có thể sinh sống qua ngày. Hôm ấy trời tạnh
ráo, rỗi việc, vợ Giả Hoàng mang theo một bà già, thuê xe về thăm chị dâu và
cháu.
Trong
khi nói chuyện, mẹ Kim Vinh đem việc hôm qua xảy ra ở trường học, từ đầu đến
đuôi, kể cho vợ Giả Hoàng nghe. Vợ Giả Hoàng điên tiết nói:
-
Thằng nhãi Tần Chung kia là bà con với họ Giả, thì thằng Vinh này không phải là
họ hàng với họ Giả hay sao? Nó cậy thế vừa chứ? Vả lại việc làm của nó có đẹp
đẽ gì cho cam! Ngay đến Bảo Ngọc cũng không có phép như thế. Để tôi sang phủ
Đông nói chuyện với chị Trân và chị thằng Tần Chung, xem họ phân giải ra sao?
Mẹ
Kim Vinh nghe nói hoảng lên, vội vàng ngăn lại:
-
Tôi buột miệng nói chuyện với cô đấy thôi, cô đừng sang kể với người ta nữa.
Phải trái thây kệ chúng nó. Nếu xảy ra chuyện gì thì cháu nó còn ở yên bên ấy
sao được? Sức nhà thì không những không mời được thầy, mà cả đến tiền ăn uống
chi dùng cho nó cũng tốn kém nhiều.
Vợ
Giả Hoàng nói:
-
Việc ấy không ngại. Để tôi sang nói xem sao.
Không
nghe lời chị dâu, vợ Giả Hoàng cứ sai bà già gọi xe sang phủ Ninh. Đến nơi,
xuống xe trước cửa nách phía đông, vào gặp ngay Vưu thị. Bấy giờ, vợ Giả Hoàng
chưa dám tuôn nỗi bực dọc, chỉ vồn vã thăm hỏi, nói mấy câu chuyện phiếm rồi
hỏi:
-
Hôm nay sao không thấy mợ Dung?
Vưu
thị nói:
-
Không biết cháu nó ra làm sao, mà hai tháng nay không thấy kinh. Mời ông lang
đến xem, lại bảo không phải là có tin mừng. Hai hôm nay, nó cứ đến chiều là
người mệt, mắt hoa, chuyện cũng không buồn nói, tôi bảo cháu: “Không nên giữ lễ
lắm, sớm tối không cần theo lệ đến thăm nom, phải tĩnh dưỡng mới được. Họ hàng
đến, đã có tôi; nếu các bậc bề trên có chê trách điều gì tôi sẽ nói hộ”. Tôi
dặn cả cháu Dung: “Không được quấy rầy nó. Không được làm nó tức giận, để nó
tĩnh dưỡng ít lâu cho khỏe. Nó cần gì thì cứ đến đây mà lấy, nếu chẳng may có
mệnh hệ nào mày phải lấy vợ khác, ta chắc rằng có đốt đuốc đi lùng khắp thiên
hạ cũng chẳng tìm đâu ra được người nết na như thế. Các bậc trên trong họ không
ai là không yêu quý cách cư xử của nó”. Vì nó mà bấy lâu nay tôi cứ lo lắng
không yên. Không ngờ sáng nay, em trai nó đến thăm, tính còn trẻ con, chưa biết
cân nhắc hay dở, thấy chị ốm, đáng lẽ có việc gì tức bực đến đâu cũng không nên
nói mới phải. Thế mà nó kể hết cả những chuyện đánh nhau ở trường, chẳng biết
đứa nào đến học nhờ mà dám bắt nạt nó, và nói cho chị nó nghe cả những câu
chuyện bậy bạ. Thím ơi, chắc thím cũng biết con dâu tôi bề ngoài thì nói cười
vui vẻ lắm, nhưng trong bụng hay suy nghĩ, hễ nghe thấy ai nói cái gì, nó cũng
đắn đo đến năm ba ngày mới thôi. Bệnh này là do nó nghĩ nhiều quá mà sinh ra.
Nay nghe nói có người khinh rẻ em nó, nó vừa buồn vừa tức; buồn vì bọn vô lại
gây bè kéo cánh, ăn không nói có, đâm người nọ chọc người kia; tức vì em mình
hư hỏng không chịu học, không chuyên tâm sách vở, lại làm ồn cả trường. Vì thế,
nó bỏ cả bữa cơm sáng. Tôi khuyên giải một hồi, lại dặn dò em nó mấy câu, bảo
hãy sang chơi với Bảo Ngọc ở phủ bên kia. Tôi lại trông cho nó ăn hết nửa bát
yến sào rồi mới về đây. Thím tính thế có sốt ruột không? Lại thêm bây giờ không
có thầy thuốc nào hay. Nghĩ đến bệnh nó lúc nào, là ruột tôi đau như kim châm.
Thím có biết ai chữa thuốc giỏi không?
Kim
thị nghe vậy, bao nhiêu cơn tức giận ở nhà muốn đến cãi nhau ngay với Tần thị
đều bay đến tận nước Trảo Oa(1) hết cả. Lại nghe thấy Vưu thị hỏi thầy thuốc
hay, liền trả lời:
-
Tôi không quen thầy thuốc nào, cứ bệnh tình mợ Cả như vậy, chắc đâu không phải
là có mang? Chị đừng nên cho chữa bậy kẻo oan gia đấy!
Vưu
thị nói:
-
Đúng thế.
Hai
người đương nói chuyện, Giả Trân ở ngoài vào hỏi:
-
Có phải thím Hoàng đấy không?
Kim
thị đứng dậy chào. Giả Trân bảo Vưu thị:
-
Mời thím Hoàng ở lại xơi cơm.
Nói
xong, Giả Trân đi ra. Kim thị đến chuyến này, cốt nói cho Tần thị biết là Tần
Chung khinh rẻ cháu mình, nay biết Tần thị ốm, nên thôi không nhắc đến nữa. Lại
thấy vợ chồng Giả Trân đối đãi rất tử tế, Kim thị đổi giận làm vui, nói chuyện
phiếm một lúc rồi về.
Kim
thị đi rồi. Giả Trân lại vào hỏi Vưu thị:
-
Hôm nay thím ấy đến có việc gì?
Vưu
thị đáp:
-
Chẳng nói gì cả. Khi mới đến, trông có vẻ bực tức. Một lúc sau tôi nói đến
chuyện con dâu ốm, thì nét mặt thím ấy dần dần dịu đi. Ông có mời ở lại ăn cơm,
thím ấy nói thấy con dâu ốm như thế, không tiện ngồi lại, chỉ nói dăm ba câu
chuyện rồi đi, cũng không cầu cạnh việc gì cả. Con dâu mình ốm, ông nên tìm đâu
có thầy thuốc hay chữa chạy cho nó, đừng để nấn ná mà lỡ việc. Hiện giờ một lũ
thầy thuốc ở nhà này, không thể dùng được. Hễ người ta kể thế nào thì họ theo
thế mà nói dựa nói dẫm mấy câu cho có văn có vẻ. Bề ngoài ra bộ ân cần chăm chỉ
lắm, cứ ba bốn người luân phiên nhau xem mạch, một ngày ít ra cũng xem đến bốn
năm lần. Rồi họp nhau lại bàn tán kê đơn nhưng rồi cũng chẳng ăn thua gì. Người
bệnh thì một ngày phải bốn năm lần thay quần áo, đứng lên ngồi xuống để tiếp
ông lang, thực chẳng có ích gì.
Giả
Trân nói:
-
Con bé cũng lẩn thẩn lắm, việc gì phải thay quần áo luôn? Nhỡ bị lạnh, bệnh
nặng thêm thì làm thế nào? Bảo nó cứ mặc quần áo đẹp vào, có đáng là mấy. Người
nó là cần, dù mỗi ngày một bộ quần áo mới cũng chẳng sao. Tôi đang định nói để
bà biết: Vừa rồi Phùng Tử Anh lại thăm, thấy tôi buồn, ông ta hỏi có việc gì.
Tôi nói: “Có người con dâu đương ốm, không biết là bệnh hay có tin mừng mà
không tìm được thầy thuốc hay, chẳng hiểu có nguy hiểm không? Vì thế tôi lo
lắm.” Phùng Tử Anh nói: “Khi còn bé có một thầy học họ Trương tên Hữu Sĩ, học
rất rộng, lại giỏi nghề thuốc, đoán trước được sống chết. Năm nay vào Kinh
quyên cho con làm quan, hiện đương ở nhà ông ta.” Xem thế, bệnh nó may ra gặp
thầy gặp thuốc, cũng chưa biết chừng. Tôi đã sai người đưa danh thiếp đến mời.
Hôm nay muộn rồi, có thể là sáng mai ông ta mới đến. Phùng Tử Anh cũng nói về
nhà sẽ cố mời cho bằng được. Vậy chờ Trương tiên sinh đến sẽ hay.
Vưu
thị nghe nói rất mừng, nhân nói:
-
Ngày kia là sinh nhật ông ta, ông định làm thế nào?
Giả
Trân nói:
-
Tôi vừa mới đến thăm và mời ông về nhà để con cháu làm lễ mừng. Ông nói: “Ta
quen thanh tịnh đi rồi, không muốn về nhà huyên náo lắm. Gặp ngày sinh nhật,
con muốn ta về nhận lễ mừng của con cháu, chi bằng đem bản “Âm chất văn”(2) mà
ta đã chú thích, cho người viết lại tử tế rồi đưa đi in, so với việc ta nhận lễ
mừng thọ của con cháu còn quý gấp trăm lần. Ngày mai hay ngày kia, con cháu các
nơi đến, con nên tiếp đãi cẩn thận. Con không cần phải đến đây nữa, và cũng
không cần phải mang biếu ta cái gì. Nếu con còn thấy áy náy, thì nhân tiện đây
con lễ tạ mấy lễ, chứ hôm sau đừng mang người đến quấy rầy, ta không bằng lòng
đâu.” Ông đã dạy thế, ngày mai tôi không dám đến nữa. Hãy gọi Lai Thăng đến
đây, bảo nó sửa soạn tiệc rượu trong hai ngày.
Vưu
thị gọi Giả Dung đến dặn:
-
Con bảo Lai Thăng phải theo lệ sửa soạn tiệc rượn trong hai ngày cho thật lịch
sự. Con phải sang phủ Tây mời cụ, bà Cả, bà Hai và thím Liễn sang chơi. Hôm nay
cha con đã tìm được thầy thuốc hay, cho người đi mời rồi. Ngày mai ông ta đến,
con sẽ kể rõ bệnh tình vợ con cho ông ta nghe.
Giả
Dung vâng lời đi ra, gặp đứa bé đi mời thầy thuốc ở nhà Phùng Tử Anh về nói:
-
Con vừa cầm danh thiếp của ông đến nhà họ Phùng mời ông lang, ông lang bảo:
“Việc này ông Phùng đã nói rồi, nhưng vì đi chơi cả ngày mới về, tinh thần
không được tỉnh táo, có đến cũng chưa xem mạch được. Cần phải tĩnh dưỡng một
đêm. Ngày mai sẽ lại”. Ông ấy lại nói: “Y học còn nông cạn, đáng lẽ không dám
nhận lời. Nhưng vì nể ông Phùng đã tiến cử với ông không đến không tiện, nên
nhờ con về trình trước với ông. Còn bức danh thiếp của ông thì không dám nhận”.
Ông ta đã trả lại cho con mang về(3). Vậy nhờ cậu trình ông hộ cho.
Giả
Dung vào nhà trong trình với Giả Trân và Vưu thị, rồi đi gọi Lai Thăng, bảo sửa
soạn tiệc rượu trong hai ngày liền, Lai Thăng nhận lời đi ngay.
Trưa
hôm sau, người gác cửa vào trình: “Trương tiên sinh đã đến”. Giả Trân mời vào
trong nhà khách. Uống nước xong, bắt đầu câu chuyện.
Giả
Trân nói:
-
Hôm trước ông Phùng có cho biết tiên sinh học vấn và phẩm cách hơn người, lại
hiểu sâu về y học. Tiểu đệ xiết bao mến phục.
Trương
nói:
-
Vãn sinh là kẻ học trò quê mùa, hiểu biết nông cạn. Hôm qua ông Phùng cho biết
chỗ đại nhân đây khiêm nhường, tôn trọng kẻ sĩ, nay cho gọi đến, vãn sinh không
dám trái lệnh. Nhưng vì không có chút thực học, nghĩ càng thêm hổ thẹn.
Giả
Trân nói:
-
Xin tiên sinh đừng quá khiêm tốn, vào xem mạch cho cháu, nhờ bực cao minh,
chúng tôi sẽ trút khỏi nỗi lo lắng trong lòng.
Giả
Dung mời Trương vào nhà trong. Trông thấy Tần thị, Trương quay lại hỏi:
-
Đây là tôn phu nhân?
Giả
Dung đáp:
-
Thưa phải, mời tiên sinh ngồi chơi, để tôi kể những bệnh chứng của nhà tôi, rồi
tiên sinh hãy xem mạch, có được không?
Trương
nói:
-
Theo ý tôi, xem mạch trước đã, rồi hãy kể bệnh. Tôi mới đến tôn phủ lần đầu,
chưa biết bệnh tình tôn phu nhân ra sao, nhưng vì đã nhận lời với ông Phùng,
không đến không được. Nay xin bắt mạch trước xem tôi nói có đúng hay không, rồi
hãy kể cho biết bệnh tình của tôn phu nhân mấy lâu nay. Sau đó chúng ta sẽ châm
chước lập một phương thuốc, và dùng được hay không là tay cậu quyết định.
Giả
Dung nói:
-
Tiên sinh thực là bực cao minh, tiếc không được gặp sớm. Bây giờ nhờ tiên sinh
xem mạch cho, chữa được hay không xin cho biết, để cha mẹ tôi được yên lòng.
Bấy
giờ bọn a hoàn mang gối đến, để Tần thị ngồi dựa vào đó rồi vén áo lên, thò tay
ra ngoài cho ông lang bắt mạch. Ông lang tự mình thở đều để nhận rõ số chí(4).
Xem
tay phải một lúc, rồi bắt sang tay trái. Xem xong rồi nói: “Chúng ta ra ngoài”.
Giả
Dung cùng ông lang ra nhà ngoài ngồi. Người hầu pha nước bưng lên, Giả Dung
nói:
-
Mời tiên sinh xơi nước. - Sau đó bèn hỏi: - Tiên sinh xem bệnh này có chữa được
không?
Ông
lang nói:
-
Mạch “Thốn” bên tả thì trầm sác, “Quan” bên tả thì trầm phục; “Thốn” bên hữu
thì tế mà vô lực, “Quan” bên hữu thì hư mà vô thần. “Tả Thốn” trầm sác là tâm
khí hư mà sinh hỏa; “Tả Quan” trầm phục là can khí trệ mà huyết khuy. “Hữu
thốn” tế mà vô lực, là khí phận ở phế kinh rất hư; “Hữu Quan” hư mà vô thần, là
tỳ thổ bị can mộc khắc chế. Tâm khí hư mà sinh hỏa, tất sinh ra chứng kinh
nguyệt không đều, đêm không ngủ được. Can mà huyết khuy khí tuệ, thì dưới mạng
mỡ đau mà phát trướng, nguyệt tín đến chậm trong bụng phát nóng. Khí phận ở phế
kinh mà hư, thì đầu nặng mắt hoa, giờ dần, giờ mão thế nào cũng ra mồ hôi,
choáng váng như ngồi trong thuyền; Tù thổ mà bị can mộc khắc chế thì không muốn
ăn uống, tinh thần mỏi mệt, chân tay buồn bực. Theo tôi, mạch này phải có chứng
bệnh như thế mới đúng. Nếu bảo có tin mừng, thì tiểu đệ không dám nghe theo(5).
Một
bà già hầu ở bên cạnh nói:
-
Tiên sinh nói như thần vậy. Điều gì cũng đúng. Tôi không cần phải kể thêm nữa.
Mấy ông lang nhà này đến xem mạch, không ai nói được đúng như thế; người nói
không quan hệ gì; người thì bảo đến tiết đông chí là đáng lo. Nhưng không ai
nói được đúng như thế, mong tiên sinh chỉ bảo rõ cho.
Ông
lang nói:
-
Chứng bệnh của tôn phu nhân nhà ta mà đến nỗi này là bởi các thầy để chậm quá!
Nếu chữa ngay lúc mới hành kinh không đều, có lẽ bây giờ đã khỏi rồi chả còn
phải lo nữa. Cứ như tôi xem, thì bệnh còn ba phần có thể chữa được. Dùng đơn
thuốc của tôi, uống vào mà ngủ được, sẽ chắc thêm vài phần nữa. Mạch này phải
là người tâm tính cao cường, thông minh tột bực; nhưng thông minh quá thường có
việc không như ý, đã có nhiều việc không như ý, thì phải tư lự quá độ. Bệnh này
là do lo nghĩ, thành ra hại tỳ, can mộc vượng quá, nên kinh nguyệt đến không
đúng kỳ. Tôi xin hỏi: Tôn phu nhân nhà ta ít lâu nay, kinh kỳ không ngắn quá,
mà lại dài quá, có phải không?
Bà
già nói:
-
Kinh kỳ không bao giờ ngắn cả. Có khi kéo đến hai ba ngày, hoặc đến mười ngày.
Ông
lang nói:
-
Phải rồi! Chính là gốc bệnh ở đấy. Nếu ngay từ đầu mà cho uống thuốc dưỡng tâm
điều kinh, thì đâu đến nỗi này! Bây giờ rõ là bệnh thủy khuy hỏa vượng. Hãy
uống thử thang thuốc này xem sao.
Rồi
ông ta kê đơn đưa cho Giả Dung.
Ích khí dưỡng vinh bổ
tỳ hòa can thang:
Nhân sâm hai đồng; bạch
truật hai đồng; (thổ sao); Vân linh ba đồng; Thục địa bốn đồng; Qui thân hai
đồng; bạch thược hai đồng; Xuyên khung một đồng năm phân; Hoàng kỳ ba đồng;
Hương phụ mễ hai đồng; Thổ sài hồ tám phân; hoài sơn dược hai đồng (sao); Chân
a dao hai đồng (cáp phấn sao); Diên hồ sách một đồng rưỡi (sao rượu); Chích
thảo tám phân.
Thuốc dẫn dùng: Kiện
liên tử, tám hột, bỏ ruột; Đại táo hai quả.
Giả Dung xem xong nói:
- Tiên sinh thực là bậc
cao minh. Xin cho biết bệnh này có đáng lo ngại không?
Ông lang cười:
- Cậu rất sáng suốt,
bệnh đến thế này, cũng đã quá lâu rồi. Uống thuốc này vào còn nhờ ở “Mát tay”
nữa. Theo tiểu đệ, mùa đông năm nay chưa việc gì đâu. Qua tiết xuân phân, mới
có thể mong khỏi hẳn được.
Giả Dung là người thông
minh, cũng không hỏi thêm nữa.
Tiễn ông lang về rồi,
Giả Dung đưa đơn thuốc, mạch án và kể lại nhưng lời ông lang vừa nói cho Giả
Trân và Vưu thị nghe. Vưu thị nói:
- Xưa nay các ông lang
đều không ai nói được rành mạch như thế, chắc ông ấy dùng thuốc không lầm.
Giả Trân cười nói:
- Ông ta không phải là
hạng “Lang thang” kiếm ăn về nghề thuốc. Vì nhà ta chơi thân với ông Phùng Tử
Anh, mới mời được ông ấy, chứ có dễ dàng đâu. Nhờ có ông ta, may ra con dâu ta
khỏi bệnh. Trong đơn thuốc có kê nhân sâm, hôm nọ nhà đã mua sẵn một cân, đem
ra mà dùng.
Giả Dung nghe nói, mới
cho người đi bốc thuốc sắc cho Tần thị uống, chưa biết bệnh tình sau này ra
sao.
-------------------------
(1). Tên một hải đảo ở
ngoài Thái Bình Dương, người ta cho là Java ngày nay. Ở đây ý nói cơn giận tan
hết.
(2). Một thứ văn khuyên
người làm phúc.
(3). Theo tục lệ cổ,
người dưới nhận lời mời của người trên, nếu có danh thiếp mời thì trả lại; tức
là tỏ ý khiêm tốn, không dám tự coi là ngang hàng.
(4). Chí: Theo phép xem
mạch của đông y: mạch trung bình là một hơi thở, mạch mổ bốn cái, không đủ bốn
cái gọi là trì, quá bốn cái gọi là sác. Vậy số chí là số mổ nhiều hay ít của
mạch trong một hơi thở.
(5). Đây là những danh
từ về mạch lý và y lý của đông y.
Nguồn tusach.mobi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét