Tên thật của bà là Ngô Chi Lan, tự Quỳnh Hương, tục danh Ngô Thị Hĩm; còn có tên là Nguyễn Hạ Huệ. Bà sinh vào khoảng giữa thế kỷ XV, tại làng Phù Lỗ, xã An Lạc, huyện Kim Hoa, xứ Phúc Yên (nay là xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn).
Nhiều người biết đến Ngô Chi Lan. Bởi bà
không chỉ có sắc đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” mà còn có tài về văn chương,
tiếng tăm lừng lẫy. Duy có một điều, chi tiết cụ thể về gia thế của bà, nhất là
thân phận “ba chìm, bảy nổi” của nữ học sĩ thì lại rất ít có người biết đến.
Vì có người cô ruột là Ngô Thị Ngọc Dao,
thứ phi của Vua Lê Thái Tông nên Ngô Chi Lan sớm được theo cô vào cung Khánh
Phương để hầu hạ. Song, cuộc đời của nữ học sĩ đã gặp phải muôn vàn khó khăn,
nhất là từ khi thứ phi Ngọc Dao có thai, trong nội cung thường xảy ra lục đục
bằng những vụ ganh ghét, hãm hại lẫn nhau. Trước tình hình trên, để bảo đảm an
toàn về tính mạng, thứ phi Ngọc Dao đã được vợ chồng công thần Nguyễn Trãi đưa
đi trốn, còn cô cháu gái (tức Ngô Chi Lan) thì được bà Nguyễn Thị Lộ (ái thiếp
của Nguyễn Trãi) giấu đem về nhận làm con nuôi, cải thành họ Nguyễn và đổi tên,
gọi là Nguyễn Hạ Huệ.
Chồng Hạ Huệ là Phù Thúc Hoành; tự Nhâm
Nhân, người làng Phù Xá Đoài (nay thuộc xã Phú Minh, cùng huyện với Nguyễn Hạ
Huệ). Ông Hoành thi đỗ làm quan, được giữ chức Đông các Đại học sĩ. Sau vụ án
“Lệ Chi Viên”, mẹ nuôi của bà là Nguyễn Thị Lộ bị khép án tử hình, bà phải cải
dạng, đổi tên thật là Chi Lan và trốn tránh ở khắp mọi nơi.
Đến khi Thái tử Hạo (Tư Thành) con của thứ
phi Ngọc Dao lên ngôi vua, bắt đầu triều đại Lê Thánh Tông (1460 -1497) nữ học
sĩ Ngô Chi Lan lại được dịp vào trong cung bái kiến cô mình, giờ là Thái hậu
Ngọc Dao. Bản thân Chi Lan lúc bấy giờ đã rất tài giỏi thi ca, từ khúc, lại làu
thông về kinh sử, nên không những được Thái hậu vô cùng yêu chiều, mà nhà vua
Lê Thánh Tông cũng rất đỗi mến mộ.
Tương truyền, mỗi khi nhà vua đi du ngạn,
hoặc dự yến tiệc ở bất cứ nơi đâu, học sĩ Ngô Chi Lan đều phải mang nghiên bút
theo chầu hầu. Vì có biệt tài sáng tác rất nhanh, nên khi xuất khẩu, lúc phóng
bút, ít khi bà phải sửa chữa, dù chỉ là một chữ.
Có lần nhà vua đi dạo, dừng chân thưởng
ngoạn tại Thanh Dương Môn, chợt thấy làn mây biếc là đà trên mái điện bèn sai
quan thị họ Nguyễn làm từ vịnh cảnh. Khi từ khúc Uyên ương dâng lên, nhà vua
không vừa ý và truyền ngay nữ học sĩ họ Ngô làm bài khác. Ngô Chi Lan vâng mệnh
rồi nhón tay thảo luôn một chương, trong đó có hai câu kết rất đắc vị.
Điện ngọc ngói mời mây biếc phủ
Cẩm Giang sóng lụa sắc hồng dâng
Nghe xong, nhà vua lấy làm đắc ý, khen tài
văn hay chữ tốt của nữ học sĩ nhà họ Phù (họ của chồng bà) từ đó ban hiệu là
Phù gia nữ học sĩ, thưởng cho năm đĩnh huỳnh kim.
Đến một buổi tối, bà được Ngô Thái hậu cho
tháp tùng du ngoạn trên núi Vệ Linh (tức núi Sóc, thuộc xã Phù Linh, huyện Sóc
Sơn ngày nay). Dạt dào trước sự tích đức Thánh Gióng - “Tứ bất tử” trên thần
điện của người Việt, nữ sĩ cảm tác nên bài tứ tuyệt:
Vệ Linh cây cỏ lẫn mây ngàn
Muôn tía nghìn hồng đẹp thế gian
Ngựa sắt lên trời tên rạng sử
Anh hùng mãi mãi với giang san
Bài thơ ra đời, ngay lập tức không những
mọi người ở trong nội cung đều biết, mà còn lan truyền ra cả ngoài phố thị, ai
cũng ca ngợi và xếp vào hạng tuyệt tác. Nhà vua cũng ngỏ lời khen bà và ban
tặng một cặp áo gấm màu lục, ngoài có phủ áo sa mỏng màu thiên thanh. Bài thơ
đó nay vẫn được lưu giữ trong đền Sóc.
Tên tuổi Phù gia nữ học sĩ Ngô Chi Lan
ngày càng tỏa sáng, tiếng tăm ngày càng vang dội, khiến tao nhân mặc khách thời
đó vô cùng kính nể. Nhưng, cũng chính vì tiếng tăm lừng lẫy đó, mà một số kẻ
tiểu nhân đã ganh ghét, đố kỵ, đặt thơ giễu cợt mỉa mai, nhằm hạ danh giá của
bà - chẳng hạn như:
Quân vương ví phỏng cần tiêu muộn
Hãy gọi Kim Hoa học sĩ vào
Hoặc:
Tan tiệc lầu rồng thơ mệt tứ
Sáu canh chầu chực giấc nồng trưa
Những vần thơ vô danh khinh xuất trên thực
chất là có ý châm chọc và xuyên tạc về phẩm hạnh, đã làm cho nữ sĩ Chi Lan vô
cùng buồn rầu. Đã có lúc bà mượn giấc mộng để thổ lộ tâm tư tình cảm của mình
với mọi người trong cung nội: “Bấy nay tôi chầu hầu Thuận đế, thi phụng tôn
vương. Nghĩa cả là vua tôi, song vẫn còn tình thâm đồng tộc, lại vốn Ngô gia
phép tắc; Phù gia trọng đạo… Thế mà lẽ nào trong giới thi văn lại có hạng đơn
bạc, đặt giọng quàng xiên, tệ hại cho đành?”.
Thuở ấy trong giới Tao đàn Nhị thập bát tú
(Nguyên súy Tao đàn là Lê Thánh Tông) ai ai cũng thông cảm với nỗi phiền muộn
và uất ức của nữ học sĩ Chi Lan. Tiến sĩ Thái Thuận, tác giả của tập thơ Lữ
Đường, cũng là Phó súy Tao đàn, đã lên tiếng khuyên giải bà, đại ý: “… Nào phải
một mình phu nhân mới bị khốn vì ngòi bút trào lộng của những kẻ xú ác…, mà các
bậc trinh liệt xưa nay đã thường bị những lời thơ khinh bạc trây bẩn, song nước
Ngân Hà dễ gì khuấy cho nhơ, nên nữ học sĩ cũng chẳng cần bận tâm làm gì”.
Khi vua Lê Thánh Tông băng hà, nhân ngày
lễ đại hành (đặt thụy hiệu) nữ học sĩ Chi Lan cảm kích khóc điếu tiên hoàng
bằng bài Đường luật nổi tiếng.
Ba chục năm dư ngự điện vàng
Chín châu bốn bể gội ân quang
Đông Tây mở đất miền cương giới
Sự nghiệp ngang trời mệnh đế vương
Tuyết phủ xe tiên mờ mịt bóng
Hoa chờ vườn ngự bẽ bàng hương
Quán triều canh vắng còn thơ mộng
Sầu ngắm Kiều sơn lệ mấy hàng.
Nữ học sĩ Ngô Chi Lan qua đời vào tuổi
ngoài năm mươi. Để tỏ lòng tiếc thương và ngưỡng mộ bà, nhân dân Phù Lỗ đã dựng
đền thờ với tên đề “Kim Hoa nữ học sĩ”. Ngôi đền đó hiện nay được đặt ngay trên
nền nhà ở ngày xưa của gia đình bà.
Sinh thời bà sáng tác rất nhiều thơ phần
ứng khẩu, phóng bút… Nhưng vì đa số do không được gom lại thành tập, nên sớm bị
thất truyền. Ngoài ra bà còn có tập thơ nhan đề “Mai trang tập” nhưng rất tiếc
cũng đã thất truyền.
May thay, trong vài bộ sách văn học sử
hiện nay có in mươi bài thơ của bà, trong đó có bốn bài tứ : “Xuân”; “Hạ”;
“Thu”; “Đông”. Còn lại dăm bài tứ tuyệt khác được in trong các sách “Văn đàn
bảo giám”, “Việt Nam thi văn hợp tuyển”, “Nữ lưu văn học sử”, “Kiến văn tiểu
lục” và “Truyền kỳ”. Đặc biệt, phần chữ Hán của bốn bài “Xuân”, “Hạ”, “Thu”,
“Đông” đã được người xưa khắc trên bộ Tứ bình bằng đá “vãn mẫu” (loại đá có ánh
ngũ sắc). Và hôm nay, được đọc những vần thơ đầy thâm thúy, ý nhị của bà thật
là điều may mắn xiết bao. Bà quả là một trong những nữ thi sĩ đầu tiên để lại
dấu ấn sâu đậm trong nền văn học viết của nước nhà.
Sự nghiệp văn chương của nữ thi sĩ Ngô Chi
Lan từ thế kỷ XV xa xưa ấy, giờ đây như ngọn lửa tỏa sáng, gieo mầm, dẫn dắt
cho những tài năng, trí tuệ và phong trào thơ văn trên vùng đất Sóc Sơn huyền
thoại.
Nguồn baomoi.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét