Chương 41: Xác mồi
Tôi vẫn chưa nghe rõ
lão đang nói gì, liền thấy hai chân Minh Thúc mềm nhũn lập cập quỳ sụp xuống
đất, Đa Linh và Cổ Thái cũng quỳ xuống theo. Dường như bọn họ mới trông thấy
thứ gì đó cực kỳ đáng sợ đối với dân mò ngọc. Minh Thúc lấy đầu gối thay chân,
lê lết bò lại đưa thi thể mềm nhũn không xương cốt kia vào một cái túi kín mít
to tướng, thấy xác chết không bị dính nước, vẻ mặt hết sức khó coi của lão mới
dãn ra một chút. Làm xong, lão lại khấu đầu lia lịa, miệng lầm bầm cầu khấn Ngư
chủ phù hộ.
Trên biển sóng to gió
lớn, dân chài lưới không ai không coi Mẹ tổ là vị thần cứu khổ cứu nạn, phù hộ
cho thuyền bè được bình yên. Nhưng đa phần người mạo hiểm ra biển không phải
chỉ để cưỡi sóng đạp gió, mà là muốn kiếm cơm nuôi sống gia đình, mò ngọc bắt
cá, hoặc vớt thanh đầu bán lấy tiền kiếm sống, mỗi khi có thu hoạch đều nhất
thiết phải bái tế Ngư chủ, xin hải thần ban cho miếng cơm ăn.
Xưa nay tôi vẫn nghĩ
Ngư chủ là Long vương gia dưới biển, nhưng giờ lại thấy Minh Thúc và hai chị em
Đa Linh hoảng hốt sợ sệt, tỏ vẻ cực kỳ cung kính với cái xác đàn bà không xương
kia, thật tình không hiểu ba người bọn họ muốn làm gì nữa. Những người tu đạo
sao khi phi thăng thành tiên, thi thể để lại gọi là vỏ xác, lẽ nào cái xác đàn
bà mềm nhũn như đám bùn nhão ấy lại là vỏ xác của Ngư chủ để lại?
Shirley Dương đang định
tìm kiếm bản đồ Quy Khư trong vỏ ốc, không ngờ bị ba người bọn Minh Thúc làm
cho kinh hoảng một phen, lập tức hiểu ra, rõ ràng đám dân mò ngọc bọn họ nhận
ra những thứ bên trong cái vỏ ốc xanh này. Cô bèn hỏi Minh Thúc, cái xác đàn bà
không xương cốt đó, cùng với thanh kiếm đồng, khay ngọc trong vỏ ốc, rốt cuộc
là dùng để làm gì?
Minh Thúc quệt mồ hôi
trên trán, nói: “Cái chức cố vấn chuyên môn của Minh Thúc không phải là chỉ
ngồi không thôi đâu nhé, đừng tưởng mấy cô mấy cậu là cao thủ Mô Kim Ban Sơn,
xưa nay lên núi băng rừng như không là oách lắm, cái ngữ mấy cô mấy cậu ra đến
ngoài biển là chẳng hiểu quy củ của nghề mò ngọc gì hết. Tuy rằng bảy mươi hai
ngành truyền thống đều nhờ vào ngón nghề mà kiếm ăn, nhưng mỗi nghề mỗi khác,
vậy nên các cô các cậu không biết cái xác đàn bà và thanh đoản kiếm này dùng để
làm gì cũng là chuyện dĩ nhiên thôi. Trong mắt dân mò ngọc, đây đều là thần vật
do tổ tiên để lại đó.”
Tôi nói: “Cái bác Minh
Thúc này, đừng có làm bộ vòng vo Tam Quốc ra vẻ ta đây nữa. Dù hồi trước tôi
chưa từng xuống biển mò ngọc, cũng đoán ra được ba bốn phần rồi, vật giấu trong
cái vỏ ốc này, đại khái chắc là vật thời xưa tổ tiên Đản nhân dùng để xuống
biển mò ngọc chứ gì?”
Minh Thúc cười khì khì
đáp: “Chú Nhất quả không hổ danh là bậc tài danh trong đám Mô Kim hiệu úy, ánh
mắt đúng thực là rất sắc bén. Cái vỏ ốc bị tấm đồng bít kín này, chẳng phải là
quan tài gì cả, mà cũng không phải hòm chứa đồ minh khí bồi táng. Các chú cũng
biết rồi đấy, các ngón nghề của dân mò ngọc đều bắt nguồn từ Đản nhân thời Tần
Hán. Ngày nay, trong một số chùa miếu thờ thần biển cổ niên đại lâu đời vẫn có
thể gặp được những bức bích họa chép lại thần tích thời cổ, phàm là dân mò ngọc
không ai là không biết, cũng như đại đa số Mô Kim hiệu úy đều biết Mô Kim tổ sư
gia đã trộm được cuốn dị thư trong mộ U Vương vậy. Dị thư này là thần vật thời
Tây Chu, nguồn gốc các kỹ thuật của Mô Kim hiệu úy, thực chất cũng đều từ đó
diễn hóa ra cả, nhưng hậu thế lại chẳng có ai được thấy dị thư đó hình dáng như
thế nào. Tương truyền, Đản nhân thời xưa có thể đặt xác mồi dưới đáy biển để dụ
trai nhả ngọc. Đối với dân mò ngọc, cái gọi là xác mồi ấy, cũng như cuốn dị thư
của tổ sư gia Mô Kim hiệu úy nhà các cậu vậy, được coi là một món thần khí mà
dân mò ngọc mới chỉ nghe nói chứ chưa từng tận mắt trông thấy bao giờ.”
Nghe Minh Thúc nói vậy,
tôi và Shirley Dương liền hiểu được phần lớn tiền nhân hậu quả của việc này.
Đản nhân là hậu duệ sống sót của người nước Hận Thiên, chắc hẳn bọn họ phải
biết tổ tiên mình xuống biển giết trai lấy ngọc như thế nào, cổ vật giấu bên
trong vỏ ốc đều là dụng cụ người Hận Thiên sử dụng để giết trai mò ngọc dưới
đáy biển. Tương truyền, những thứ này đều do hải thần Ngư chủ tạo ra, món nào
cũng là tuyệt thế vô song, thật chẳng ngờ lại để chúng tôi tình cờ tìm ra. Có
điều, những thứ cổ quái dị dạng này rốt cuộc sử dụng như thế nào? Cái xác phụ
nữ không xương được gọi là “xác mồi” kia, lẽ nào cũng là đạo cụ dùng để bắt
trai lấy ngọc? Đối với những chuyện xưa tích cũ này của đám dân mò ngọc, mấy Mô
Kim hiệu úy chúng tôi đều là người ngoài ngành, đích thực là chẳng hiểu gì cả.
Minh Thúc nói, chúng
tôi gặp được mấy thứ này đều là nhờ hồng phúc của Ngư chủ ban cho, dứt khoát
phải mang về, sau này muốn đến Nam Hải mò ngọc nữa, mấy món này đều có tác dụng
rất lớn. Giờ trân châu thiên nhiên ở ven biển đã bị khai thác hết rồi, trong
vực xoáy San Hô cũng không còn nhiều nữa, có thể mấy trăm năm sau chưa chắc vẫn
có nguyệt quang minh châu, có điều, những cổ vật này đều là tổ cụ của các loại
thanh đầu dưới biển, không dùng được thì có thể đem bán, chắc cũng được một món
kha khá chứ chẳng chơi.
Trong đám đồ này có cái
xác mồi tương đối nguy hiểm. Vừa nãy Shirley Dương nói thời cổ có Từ Yển Vương
toàn thân không xương cốt, chỉ có gân thịt mạch máu. Cái xác người đàn bà này
có lẽ lúc sống cũng mắc phải chứng bệnh không xương giống Từ Yển Vương vậy. Có
điều, Từ Yển Vương từ khi sinh ra đã là một phế nhân có gân mà chẳng có xương,
chỉ có thể nằm ngửa mặt lên trời, cả đời không thể ngồi thẳng lên được, còn
người đàn bà bị đem làm xác mồi này thì không phải thế. Cô ta bị một thứ hình
phạt cực kỳ tàn khốc làm tan biến toàn bộ gân cốt trong cơ thể, da thịt còn lại
được xử lý bằng phương pháp đặc biệt, kiểu như bị biến thành một tiêu bản kỳ dị
vậy. Nhưng phương pháp chế xác mồi này chưa bao giờ truyền ra ngoài, nên hậu
nhân không thể nào biết được.
Từ thời Tần Hán, vì có
nhiều con trai nghìn năm vô cùng lớn, nằm ở những nơi rất hiểm yếu, khó mà đưa
lên mặt nước được, Long hộ muốn lấy ngọc cần phải mang theo “mồi ngọc” đặt dưới
đáy nước. Lũ trai thấy mồi ngọc lấp lánh, tưởng là có trăng sáng trên trời,
nhao nhao há miệng ra để minh châu trong mình hấp thụ âm tinh, hút lấy tinh hoa
của linh khí trong trời đất. Nhân thời cơ ấy, Long hộ mới liều mạng xông vào
đoạt châu. Phương pháp này cực kỳ nguy hiểm, vì lúc ấy đáy biển sẽ bỗng chốc
sáng bừng lên, thu hút các loài cá dữ thuồng luồng xung quanh đến. Dùng đến
cách này, Long hộ một mặt phải ra sức chiến đấu với cá mập, mặt khác phải nhanh
tay mò lấy ngọc trong khoảng thời gian ngắn ngủi trước khi con trai khép miệng
vào. Thời xưa, nghe kể về sự tích xuống biển mò ngọc của Long hộ, Hán Văn Đế
cũng phải liên tục thốt lên kinh ngạc: “Nguy hiểm quá! Nguy hiểm quá!”
Hình thức ban đầu của
mồi ngọc, chính là cái xác mồi làm từ thi thể phụ nữ này. Thời xa xưa, những
nơi cực âm dưới đáy biển thường có trai cụ trai kỵ sinh sống, sớm đã thành
tinh, tuổi đều trên nghìn năm vạn năm, kết chặt với đá ngầm dưới biển thành một
khối, không phải lúc trăng tròn thì tuyệt đối không bao giờ há miệng nhả châu.
Ngọc ngậm trong miệng lũ trai cụ kỵ này cực kỳ sáng đẹp, mà chúng thì giảo hoạt
vô cùng, mồi ngọc thông thường căn bản không thể nào khiến chúng há miệng, chỉ
có dùng xác phụ nữ mặc Thiên châu y này là may ra có tác dụng. Trân châu đính
trên Thiên châu y đều là loại ngư châu không đáng tiền, vốn chỉ là thứ kết
thạch trong đầu lũ cá, xuống nước không phát sáng, nhưng đặt trong cái xác đàn
bà có cỗ oán khí nồng đậm, ngư châu này sẽ phát ra ánh sáng ảm đạm mờ mờ, quầng
sáng tỏa ra âm khí dày đặc, rất giống mặt trăng. Kẻ mò ngọc lặn xuống đáy nước
sâu phải cõng theo xác mồi trên lưng mới có thể dụ cho lũ trai cụ trai kỵ thành
tinh đó há miệng ra.
Xác mồi bình thường
không thể dính nước, hễ gặp nước là sẽ phình to ra, làm tiêu hao âm khí. Phương
pháp mò ngọc nguyên thủy nhưng hiệu quả, song cũng có mấy phần tàn nhẫn tà ác
và thần bí này, chỉ có tổ tiên của Đản nhân là nắm được, đến cả Long hộ cũng
không biết cách chế tạo xác mồi, chỉ có thể dùng cao lân tinh trên xác người
chết trộn với ngư châu làm mồi ngọc, hoàn toàn không có hiệu quả gì với bọn
trai cụ nghìn năm đã thành tinh cả.
Còn hai thanh đoản
kiếm, thân kiếm đen tuyền, lưỡi kiếm có lỗ hổng xếp theo hình dạng Bắc Đẩu thất
tinh, chuôi kiếm và lưỡi kiếm đúc liền thành một khối. Chuôi kiếm được tạo hình
giao nhân, đuôi cá uốn cong, đầu người vểnh lên há miệng phun ra lưỡi kiếm. Hai
thanh kiếm này, một âm một dương, đối xứng chuẩn xác, lưỡi kiếm đã hơi ánh lên
màu đỏ sậm, nhưng vẫn sắc bén vô cùng, đặt tay gần vào sẽ cảm thấy khí lạnh bức
đến tận xương. Ghé tai lại gần mấy lỗ hổng trên lưỡi kiếm, có thể nghe thấy
tiếng sóng biển phảng phất xa xa. Cũng như long hồ đao của Minh Thúc, hai thanh
đoản kiếm này đều là vũ khí tổ tiên Đản nhân dùng khi xuống biển giết trai mò
ngọc. Nhìn đống vỏ trai vỏ ốc chất như núi trong giếng trời, chúng tôi thực
không biết đã có bao nhiêu loài thủy tộc phải táng mạng dưới hai lưỡi kiếm này
nữa.
Minh Thúc tự nhận là
dân mò ngọc, tuy chưa từng lặn xuống mò ngọc bao giờ, nhưng được cái sành sỏi
sự đời, lại có một dạo từng làm ăn bất hợp pháp ngoài khơi, nên cũng hiểu biết
khá nhiều về những chuyện trên biển, về lai lịch các ngón nghề của dân mò ngọc,
lão này thậm chí còn rành hơn cả những người quanh năm mò ngọc kiếm sống chứ
chẳng đùa. Tôi quan sát nét mặt, biết lão không nói bậy, có điều trong lòng
cũng không coi trọng mấy: “Thế này thì khác gì thuật giết rồng thời xưa đâu,
chẳng có tác dụng thực tế gì cả. Giờ đây bọn trai già nghìn năm ấy đều đã gần
như tuyệt tích hết rồi còn gì, môi trường sống của chúng lại hết sức đặc thù,
dưới đáy biển lấy đâu ra con trai thành tinh nào cần phải dùng đến xác mồi mới dụ
được chứ?”
Thứ tôi quan tâm nhất,
là bộ khay ngọc và nến trong vỏ ốc. Tương truyền, dụng cụ Chu Văn Vương sử dụng
khi luận giải Tiên thiên Bát quái, chính là mai rùa và nến. Bởi mai rùa long
cốt, hoặc ngọc thạch dưới đáy biển đều ẩn chứa long khí thần bí, từ xưa đến nay
vẫn được coi là các linh vật thông thiên. Từ mấy vật này mà suy, trong cổ thành
Quy Khư rất có thể có di tích của Tiên thiên Bát quái. Nghĩ đoạn tôi bèn bảo
Minh Thúc đừng lảm nhảm về mấy thứ không liên quan kia nữa, mau mau trả lời
tôi, khay ngọc, bình ngọc và cả nến mỡ giao nhân nữa, rốt cuộc có phải là vật
cổ nhân dùng để chiêm bốc bói toán hay không?
Minh Thúc lắc đầu nói,
Đản nhân là đám man di trên biển, chẳng bao giờ bói toán gì cả. Cái khay ngọc
và nến dùng để tính toán ngày trăng tròn dựa theo bóng nến hắt xuống khay. Thời
xưa, có rất nhiều Long hộ kế thừa được phương pháp cổ này, nhưng về sau xuất
hiện thêm nhiều vật có thể đo đếm trăng sao, nên dần dần người ta không dùng
thứ này nữa; còn loại cao đựng bên trong cái bình ngọc đen kia là thứ tiết ra
dưới lớp vảy của giao nhân, ngoài tác dụng trị bệnh khí ép, còn có thể bôi lên
thân thể người lặn mò ngọc để che giấu hơi người sống, bằng không những con
trai có linh tính sẽ biết có kẻ muốn cướp châu đoạt ngọc của nó mà khép chặt vỏ
lại, khiến cho Đản nhân khó lòng tiếp cận. Những thứ này, thực tế chính là một
bộ khí cụ thần bí dùng để giết trai lấy ngọc thời cổ đại, sợ rằng không phải cố
ý được chôn trong đống vỏ trai vỏ ốc trong giếng trời này. Ở đây, bán phía đều
thông gió, dễ xua tan mùi máu tanh, rất có thể là một nơi chuyên giết trai đoạt
ngọc thời xưa.
Bọn chúng tôi nghe Minh
Thúc nói xong, đều không khỏi thấp thỏm không yên, nhìn đống vỏ trai vỏ ốc chất
ngất, cơ hồ như còn ngửi thấy mùi máu tanh nồng nặc xông lên. Con trai vì bị thương
mà sinh ra ngọc, sống mấy trăm mấy nghìn năm dưới đáy nước không làm gì hại cho
người, vậy mà lại thường xuyên bị giết hại cướp lấy ngọc báu, đúng là “kẻ thất
phu vô tội, tội là bởi mang ngọc trong mình”. Không chỉ nhân loại tham lam, mà
cả lũ hải quái thuồng luồng cũng thường liều mạng xông tới cướp lấy ngọc trai,
cứ quanh quẩn mãi không chịu buông tha. Vỏ trai vỏ ốc trong di tích Quy Khư này
nhiều thật đấy, nhưng tự cổ chí kim, số người mò ngọc và các loài thủy tộc mất
mạng vì Nam châu, sợ rằng còn phải nhiều gấp mười lần. Cũng khó trách, bởi minh
châu đều là tinh hoa của mặt trăng, âm khí ám vào không tiêu tan đi được, cỗ âm
khí này thậm chí có thể khiến xác cổ giữ được nguyên vẹn dung nhan đến nghìn
năm. Chỉ là, không biết những kẻ quyền quý giàu có tham luyến Nam châu nếu biết
mỗi hạt minh châu bằng đầu ngón tay cái ấy, đều phải đổi bằng vô số tính mạng
của dân mò ngọc và các loài thủy tộc khác, thì có còn dám đeo lên trên mình làm
đồ trang sức nữa hay không?
Tôi và Tuyền béo đưa
thi thể Nguyễn Hắc vào trong vỏ ốc đã bị moi sạch, đậy tấm đồng, rồi chôn xuống
giữa đống vỏ trai, chắp tay trước ngạc vái mấy vái, cầu khấn cho vong linh của
ông ta được yên nghỉ nơi chín suối, đồng thời phù hộ chúng tôi thuận buồm xuôi
gió sớm ngày trở về. Sau đó, cả bọn ăn chút đồ ăn chống đói và nghỉ ngơi tại
chỗ.
Tuyền béo hoàn toàn
chẳng hề lo lắng về tình cảnh trước mắt, đem những đồ giá trị nhất như cái áo
ngọc phỉ thúy cùng với xác nhân ngư ngậm ngọc, cất hết vào một ba lô, ôm chặt
trong lòng mà ngủ. Trong mơ, dường như cậu ta đang đếm tiền, miệng cứ lầm bầm
nói mơ: “Cảm giác dính tiền lên mặt đúng là sướng vãi...”
Minh Thúc lúc thì nhìn
cái xác mồi, lúc lại ngắm nghía sờ mó đôi đoản kiếm, tuy lão cũng không đè nén
được cảm giác mừng rỡ như điên dại đang cuộn trào lên trong tâm trí, song cũng
lấy làm lo lắng, không biết làm cách nào để thoát thân khỏi chốn Quy Khư dưới
đáy biển, không hiểu có phải vì sợ hay không mà chốc chốc lại thấy lão run lên
một chặp.
Cổ Thái và Đa Linh một
là đau lòng vì sư phụ vừa chết thảm, hai là lo lắng cho vận mệnh sau này của
mình cũng như khốn cảnh trước mắt, ăn chút đồ xong trằn trọc mãi không sao ngủ
được, chỉ mở to đôi mắt đầy những tia máu li ti, nằm trên nấm mộ vỏ ốc nghe
tiếng sóng biển bên ngoài.
Tôi bước đến bảo hai
người bọn họ tranh thủ chợp mắt nghỉ ngơi một lúc, nom tình hình hải khí hỗn
loạn thế này, e là điềm chẳng lành, sau đây sợ rằng sẽ có họa lớn giáng xuống.
Đến lúc ấy, sinh tử chỉ cách nhau một đường tơ, nếu giờ không thể nghỉ ngơi hồi
phục đầy đủ tinh thần và sức lực, thì sẽ không thể nắm bắt được cơ hội sống sót
chỉ đến trong khoảnh khắc ngắn ngủi. Kế đó, tôi lại bảo họ: “Chúng ta đều là
người cát nhân thiên tướng, giờ không cần phải nghĩ ngợi gì nhiều, cứ ngủ một
giấc đi rồi tính sau.”
Từ lúc bắt đầu tiến vào
vùng biển vực xoáy San Hô, tinh thần ai nấy căng ra như sợi dây đàn, chưa được
nghỉ ngơi một khắc, giờ cả bọn chúng tôi đều đã cạn kiệt tinh lực, sau khi nghe
tôi khuyên giải, rốt cuộc cả mấy người họ cũng từ từ thả lỏng, Minh Thúc và chị
em Đa Linh đều lần lượt ngả vào lòng xuồng cao su ngủ thiếp đi.
Chỉ có Shirley Dương là
vẫn chồng chất tâm sự, không tài nào chợp mắt được. Cô dựa nghiêng vào chiếc
xuồng nhỏ, thì thầm bàn bạc với tôi xem phải giải quyết khó khăn trùng trùng
trước mắt như thế nào. Càng lúc càng vớt được nhiều thanh đầu, hành trang mỗi
lúc một nặng, tình hình trước mắt tuyệt đối không cho phép chúng tôi lạc quan.
Ở các hải nhãn phía
trên Quy Khư đều có âm hỏa nóng bỏng lưu động, ngăn chặn không để hàng trăm
nghìn tấn nước đổ xuống. Nhưng người xưa đã đào rỗng cả mạch khoáng dưới đáy
biển, khiến cho hải khí không ổn định, một khi nảy sinh biến hóa bất thường thì
lại xuất hiện xoáy, khiến nước biển vô cùng vô tận đổ dồn vào Quy Khư, khi đó,
muốn trở lên mặt biển phía trên còn khó hơn lên trời. Uy lực của xoáy nước
chúng tôi đã từng đích thân nếm trải, đều biết lực hút khủng khiếp của nó có
thể hút cả chim đang bay trên trời xuống. Vì vậy, trở lên theo lối cũ trăm phần
trăm là bất khả, đó căn bản là một con đường chết.
Shirley Dương nói: “Bên
dưới Quy Khư chằng chịt những hỗn lưu, mặt nước lúc thì phẳng lặng, lúc lại
cuộn trào sôi sục, có lúc sóng lớn ngập đầu, hai chiếc xuồng nhỏ này không thể
đi trong môi trường khắc nghiệt như vậy được. Dẫu ở ngoài xa kia có thể có lối
thoát theo dòng chảy ngầm nào đó, nhưng tiếp cận e cũng khó khăn vạn phần, mà
chúng ta lại không biết bao giờ hải động trên kia sẽ hút nước biển xuống lấp
đầy Quy Khư nữa. Đến khi ấy, di tích thành cổ nổi trên mặt nước này cũng lập
tức bị nước biển nhấn chìm, chúng ta thậm chí cả chỗ đặt chân cũng không có nữa
đâu.”
Để đầu óc tỉnh táo lại
một chút, tôi rút bao thuốc ra châm một điếu, thầm nhủ có thể hút thuốc trong
di tích cổ đại nghìn năm dưới đáy biển, đãi ngộ này đúng là người thường không
thể hưởng thụ nổi. Nhìn làn khói thuốc vẩn vít bay lên, tôi chợt nhớ đến một vị
cao nhân thuở trước. Người này xuất thân là ngư dân, tên gọi Lưu Bạch Đầu. Ông
ta rất thích hút thuốc, cũng là một bậc tông sư phong thủy, có điều vị Lưu Bạch
Đầu tiên sinh này không xem thế núi, chỉ nhìn hình sông, cực kỳ tinh thông các
phương pháp thăm dò quan trắc hải khí. Cuốn kỳ thư Hải để nhãn của ông trình
bày rất kỹ các luận chứng về hải khí, mạch nước, thuật xem thế nước hình sông,
có thể nói là độc bộ thiên hạ, xứng danh tuyệt học.
Thập lục tự âm dương
phong thủy bí thuật của Mô Kim hiệu úy là cuốn sách tổng quyết các bí thuật
phong thủy, tập hợp rất nhiều tinh túy của các bậc tông sư, nội dung phân thành
năm loại “tranh vẽ, bảng biểu, khúc ca, khẩu quyết, bài phú”, nhưng chỉ có
riêng phần “Tầm long quyết” mới đề cập đến mạch Nam Long. Bởi Thập lục tự âm
dương phong thủy bí thuật là một cuốn chỉ nam dành cho Mô Kim hiệu úy, nên cũng
không hề phân tích rõ ràng tỉ mỉ về mạch Nam Long vốn có rất ít núi non cổ mộ,
những lý luận về “hải nhãn, hải khí, long hỏa” trong đó đều từ cuốn Hải để nhãn
của kỳ nhân trên biển Lưu Bạch Đầu mà ra cả.
Trong cuốn kỳ thư Hải
để nhãn ấy có chép rằng, sự biến đổi của hải khí đều không nằm ngoài cái lẽ
“Bàn cổ hỗn độn, âm dương thanh trọc”. Hai câu này nghĩa rằng, hải khí chính là
khí hỗn độn còn tồn lưu lại dưới biển từ thuở thần Bàn Cổ khai thiên lập địa.
Nơi có hải khí thì đồng thời cũng có hai thứ nước âm dương trộn lẫn, do đó sinh
ra suối nước ngọt phun trào dưới đáy biển.
Dân nước Hận Thiên thời
xưa sống trên hải đảo, từ quy mô của di tích có thể thấy, dân số hẳn không ít.
Bọn họ quanh năm chui dưới lòng đất khai thác quặng đồng, lợi dụng long hỏa chế
luyện, nhưng cũng không phải sinh sống luôn bên dưới đáy biển này, các kiến
trúc chúng tôi thấy ở đây, chắc hẳn đều chìm xuống sau trận đại kiếp từ thuở xa
xưa. Bởi thế, họ cần một nguồn nước ngọt lớn để đáp ứng nhu cầu thường ngày.
Trong rừng san hô có rất nhiều dòng chảy hỗn loạn, đại khái chắc đều là di tích
của những giếng nước ngọt đào sâu xuống đáy biển năm xưa. Giờ đây, nếu chúng
tôi có thể xác định được phương hướng, có lẽ có thể lợi dụng dòng nước ngọt
phun từ dưới đáy biển để trở về vực xoáy San Hô cũng không chừng.
Tôi tự cho rằng kế này
thật là tuyệt diệu lắm rồi, nhưng Shirley Dương lại lắc đầu phản đối, nói cách
đó tuyệt đối bất khả thi. Nơi này cách mặt biển quá xa, căn bản không thể tính
toán được chênh lệch áp suất nước cũng như độ mạnh yếu của các dòng chảy hỗn
loạn. Chỉ riêng hai thứ đó thôi cũng có thể dễ dàng xé xác người ta thành mảnh
vụn rồi. Sau đó, cô lại nói, trong hình xăm sau lưng Cổ Thái, dường như vẫn còn
ẩn giấu rất nhiều bí mật, biết đâu, nếu lĩnh ngộ được chân tướng bên trong
chúng tôi sẽ tìm thấy đường thoát khỏi nơi này cũng không chừng.
Ngọn núi trên hình xăm
Thấu hải trận rất giống những gì chúng tôi nhìn thấy ở đây, các kiến trúc xây
dựng trên triền núi nhấp nhô, thế núi quây tròn, ở giữa có một cây gỗ đen khổng
lồ đè lên một cỗ cương thi hình thù quái dị, sâu hơn nữa là xác giao nhân và
rồng. Giờ điều duy nhất chúng tôi có thể làm chỉ là nghỉ ngơi dưỡng sức, lấy
lại tinh thần, sau đó tiếp tục tiến sâu vào di tích cổ để làm rõ chân tướng sự
việc hy vọng tìm được cách thoát thân. Tôi và Shirley Dương bàn bạc một hồi,
đều cảm thấy hai mí mắt díp lại, rồi cứ thế thiếp đi lúc nào chẳng hay.
Có lẽ tại mệt quá, tôi ngủ
say như chết. Đột nhiên một tiếng nổ kinh thiên động địa vang lên, chỉ thấy bốn
phía đều có sóng biển gầm rú ập tới. Cả bọn giật mình sực tỉnh khỏi cơn mộng
mị. Nước biển trong giếng trời đột ngột dâng cao, các cửa trên bốn vách xung
quanh ngập nước, hai chiếc xuồng nhỏ đã được kéo lên mép đống vỏ trai vỏ ốc nổi
dập dềnh. Tôi dụi dụi mắt, sợ xuồng cao su bị nước cuốn đi mất, bèn vội vàng
bảo cả bọn leo lên xuồng. Đúng lúc này, chợt nghe bên ngoài có tiếng kim loại
va chạm, âm thanh liên tu bất tận, tựa như tất cả các tượng thần bằng đồng thau
trong đại điện cùng sống dậy, áo giáp đồng lanh canh dày đặc, nhức óc, dần dần
quây tới vây kín chúng tôi. Nghe những tiếng động hỗn loạn, rất khó phán đoán
số lượng, xem ra tuyệt đối không chỉ có mười mấy tượng đồng khổng lồ chúng tôi
trong thấy trong đại điện, mà tựa như có cả cánh quân đông đến nghìn vạn người
đồng đang rùng rùng sống dậy dưới đáy biển vậy. Thiên quân vạn mã đạp nước xông
lên, tiếng đồng va chạm hòa lẫn với tiếng sóng biển cuộn trào, không biết là
tiếng quân như tiếng sóng hay tiếng sóng như tiếng quân nữa, nhưng âm thanh ầm
vang như sấm động đó khiến cả đám chúng tôi nghe mà không khỏi kinh hồn khiếp
đảm.
Cả bọn chúng tôi mặt
mày tái mét, chẳng rõ rốt cuộc đã xảy ra chuyện khủng khiếp gì. Tuyền béo giật
mình cả kinh, còn tưởng tượng ra lũ tượng đồng dưới biển sống dậy cướp mấy món
thanh đầu chúng tôi phải liều mạng mới vớt được, vội buộc chặt ba lô lên người,
rút khẩu cạc bin M1, nhặt thêm mấy quả lựu đạn nhét vào thắt lưng. Minh Thúc
thấy thế càng hoảng hốt hơn, kinh hãi hỏi: “Tuyền béo, cậu định làm trò gì thế?”
Tuyền béo hằn học mở
chốt an toàn trên khẩu súng, gằn giọng nói: “Tiên sư cha bố thằng nào dám động
một ngón tay đến đồ của ông, ông béo đây sẽ đánh cho chúng mày về thời kỳ đồ đá
luôn!” Trong lúc nói chuyện, nước biển dâng lên, đưa hai chiếc xuồng nhỏ ra
khỏi giếng trời rồi theo dòng thác vừa mới hình thành đổ xuống giữa lòng núi.
Chỉ thấy trong màn hải khí mông lung nổi lên vô số võ sĩ bằng đồng thau đang
xếp thành trận thế, vây quanh một thân cây đen kịt.
Chương 42: Định hải
thần châm
Thế núi nhấp nhô vây
quanh một quảng trường khổng lồ. Hải khí bùng lên khiến nước biển trong Quy Khư
đột ngột dâng, nhấn chìm di tích đại điện, nước tuôn qua các hang hốc và khe
rãnh trên núi, đổ như thác lũ vào lòng núi. Hai chiếc xuồng cao su của chúng
tôi bị dòng nước đưa ra khỏi giếng trời, chỉ thấy những bức tường nước cao ngất
quây kín xung quanh, nước biển từ bốn phương tám hướng đổ dồn cả về khoảnh đất
trũng trong núi này.
Trong âm thanh hỗn loạn
của những pho tượng đồng và sóng cuộn, hai chiếc xuồng cao su của chúng tôi hệt
như hai chiếc lá rụng giữa cơn cuồng phong bão tố, bị cuốn theo dòng nước xiết,
xoay tít rồi rơi vào giữa vùng nước bị quây chặt giữa bốn bề núi đá. Chúng tôi
vội chèo xuồng ra giữa vùng nước, tránh thác lũ từ khắp các phía giội xuống làm
lật xuồng, đồng thời cũng tranh thủ chớp thời cơ ngắn ngủi quan sát tình hình
xung quanh.
Địa hình nơi này giống
một đấu trường La Mã cổ đại, là một quảng trường thiên tạo hình thành trong khe
núi, cuồn cuộn mấy chục cái xoáy nước đang hút nước biển vào vực sâu không đáy
bên dưới di tích thành cổ. Một thân gỗ khổng lồ cao ước khoảng chục tầng lầu,
đường kính to tướng có thể dựng nhà trên đó, sợ rằng cả trăm người ôm cũng
không hết, tựa một ngôi tháp màu đen như mực cao chọc trời, cắm xuống nghiêng
nghiêng tại trung tâm khu di tích.
Vỏ cây gỗ nom như có
vảy, không phải tùng cũng chẳng phải bách, mà cũng không phải hóa thạch của cây
gỗ cổ bình thường, mà là âm trầm mộc[54] trong rừng cây cổ đại chìm dưới
đáy biển từ mấy vạn năm trước hình thành nên. Phần gốc cây gỗ cắm xuống đáy
nước, không biết còn sâu bao nhiêu, ngọn chếch lên trời, xung quanh găm tầng
tầng lớp lớp mũi tên đá, dày đặc đến mức thoạt trông tưởng như là tầng mây vẩn
vít trên ngọn cây gỗ. Thân cây khảm những hình sâu hình cá bằng đồng màu xanh
thẫm. Chúng tôi tuy chưa để tâm thực sự nghiên cứu chữ giáp cốt, nhưng đã thấy
nhiều chữ giáp cốt trên Long cốt thiên thư, ít nhiều gì cũng nhận ra được mấy
chục chữ. Tôi đoán mấy hình cá hình sâu có lẽ đều là chữ tượng hình. Riêng
Shirley Dương trước đây từng được học một chút, vừa liếc mắt qua một lượt, liền
phát hiện thấy hai chữ cổ, trông như xương cá. Hai chữ này, cô chỉ đoán được
một chữ “mộc”, còn chữ kia thì cũng đành chịu.
Lòng núi tựa như một
cái giếng khổng lồ, nước từ bốn phía liên tục đổ vào mà vẫn không đầy. Hơn
nghìn bức tượng đồng chìm ngập tới ngang lưng thể hình đều cao lớn dị thường,
đường nét khuôn mặt thuần phác, lộ rõ vẻ nặng nề nghiêm trọng, trên đầu không
có mũ ngư cốt, có lẽ đều là nô lệ. Trong dòng nước xiết cuồn cuộn, mười tượng
đồng nô lệ quây thành một vòng, gắng sức xoay chuyển bàn tời, ngoài ra còn có
vô số dây xích đồng quấn quanh thân gỗ. Dòng nước xối xuống liên tục cuộn lên
những xoáy nước, khiến xích đồng tượng đồng va chạm, phát ra những âm thanh
chát chúa liên miên bất tuyệt. Tuy nhiên, mặc cho đám tượng đồng sừng sững đung
đưa dịch chuyển trong dòng nước, cái bàn tời khổng lồ vẫn không hề nhúc nhích.
Cả bọn chúng tôi ra sức
chèo xuồng tránh xa xoáy nước, rồi lần lượt quăng dây thừng buộc chặt xuồng vào
hai pho tượng đồng ở gần đó, mới tạm thời yên được một chút, nhưng ai nấy đều
đã ướt sũng.
Mắt thấy bốn phía nước
biển dựng thành tường cao ngất, thế nước mỗi lúc một dữ dội, xuồng cứu sinh của
chúng tôi lại không thể chịu được sóng to gió lớn, cảm giác tuyệt vọng không
khỏi trào lên trong tâm thức. Chúng tôi ngẩng đầu nhìn quanh, tựa như lũ cá
dưới đáy biển sâu ngưỡng vọng trời xanh, ngoài sợ hãi đến nguội ngắt tâm can,
trong lòng chỉ còn nỗi hoang mang chới với. Không ai hiểu rốt cuộc mình đã đến
nơi nào trên thế gian này nữa. Ở vực sâu nơi cổ nhân nghìn năm trước thu thập
long hỏa này, chỉ toàn là những sự vật thần bí khó mà lý giải nổi. Vậy xem ra,
di tích cổ trong Quy Khư chưa chắc đã là thành cổ hay mộ cổ rồi.
Tuyền béo thấy xuồng
cao su đã tạm ổn định, liền đứng dậy đưa tay sờ sờ cây gỗ đen cao lớn, ngạc
nhiên thốt lên: “Đây chẳng phải là Định hải thần châm trong Thủy tinh cung của
Long vương sao? Quả này có khi anh em ta lạc bố nó vào Long cung rồi, nhìn
quanh đâu đâu cũng thấy thanh đầu, tiếc là không có tàu chở hàng lớn mà vận
chuyển về, tiên sư nhà nó, thế này không phải làm tôi xót hết cả ruột hay sao?”
Tôi nói: “Thằng béo
kia, cậu nhìn cho kỹ vào, Định hải thần châm của người ta bằng sắt, cái khúc
trước mặt cậu không phải vàng, không phải sắt, không phải đá, mà chính là gỗ
thượng hảo hạng, chỉ có ở trong những khu rừng cổ từ trăm triệu năm về trước.
Hồi tôi đi lính công binh ở núi Côn Luân, đã từng trông thấy hóa thạch của loại
cây gỗ khổng lồ này rồi, nghe nói chỉ ở những vùng biển sâu âm khí nặng nề hình
thái gỗ ban đầu của nó mới giữ được. Mọi người nhìn xem, đám nô lệ bằng đồng
thau kia đang gắng sức lay chuyển nó, đây tuyệt đối chẳng phải ‘định hải’, mà
tám chín phần là ‘động hải’ rồi, phải khuấy cho nước biển cuộn lên thì mới bắt
được những con cá dữ nuốt được thuyền bè.”
Shirley Dương cũng nói,
cô nhân cho rằng trên đời có ba loại thượng cổ thần mộc, chính là Côn Luân thần
mộc, sau khi bị đốn lìa gốc, để vào nơi không thể quang hợp vẫn cứ tiếp tục
sinh trưởng được; hai loại sau là Phù Tang và Kiện Mộc. Tương truyền, Phù Tang
là đại thụ, nơi đậu nghỉ của mặt trời sau khi lặn xuống núi, người Hận Thiên
coi mặt trời là kẻ thù, suy ra cây gỗ này không phải Phù Tang, mà có lẽ là Kiện
Mộc có thể xuyên thẳng từ đáy biển lên đến mặt trăng trong truyền thuyết.
Minh Thúc và Cổ Thái
dừng xuồng cách chúng tôi không xa lắm, nghe Shirley Dương nhắc đến cây gỗ thần
Kiện Mộc dưới biển, lão vội lên tiếng: “Nhiều tượng nô lệ bằng đồng thế này,
chắc chắn dùng để tuẫn táng rồi. Xem ra, chỗ này đích thực là lăng mộ của người
Hận Thiên đấy. Kiện Mộc là thượng cổ thần mộc, bên dưới khẳng định là cương thi
đã thành tinh từ thời cổ đại, lần này chúng ta không có cơ hội lặn xuống đó tìm
đường thoát trở về mất rồi.”
Shirley Dương lắc đầu
nói: “Lúc trước tôi đoán nơi này là mộ cổ, nhưng giờ xem ra có thể tôi đã đoán
sai. Thời kỳ dùng long hỏa để luyện đỉnh đồng ấy, người ta vẫn tuẫn táng bằng
người sống, chứ chưa thay thế bằng tượng đồng. Nếu ở đây có tượng đồng, thì quá
nửa không phải là mộ cổ rồi, ngoài ra, trên đỉnh cây gỗ này có rất nhiều mũi
tên đá, xung quanh có hàng trăm hàng nghìn nô lệ chuyển động theo vòng tròn,
theo tôi, đây có lẽ là totem binh khí Xạ nhật thì đúng hơn.”
Tôi thấy Kiện Mộc tuy
là loại gỗ thần trên đời hiếm gặp, nhưng muốn đem nó bắn xuyên qua mặt trời thì
thật đúng là giấc mộng của kẻ điên. Những tượng đồng đang cố gắng dịch chuyển
xích sắt kia đều được đúc bằng long hỏa, đã ngâm cả trăm năm nghìn năm dưới
nước biển mà vẫn chưa gỉ ruỗng, chất đồng vẫn còn rất chắc chắn. Có điều, tôi
thật không hiểu người dân nước Hận Thiên xưa đúc nhiều tượng đồng như thế làm
gì? Chẳng lẽ họ mong những bức tượng này sẽ sống dậy để xoay chuyển Kiện Mộc
bắn rơi mặt trời hay sao? Điều đó dường như vô nghĩa. Tôi thật tình không nghĩ
ra, di tích này có tác dụng gì nữa.
Shirley Dương lắc đầu
nói: “Chúng ta không thể dùng quan niệm hiện thời để xét đoán sự vật thời cổ
đại. Trong mắt người hiện đại, totem Xạ nhật này hoàn toàn chẳng có giá trị gì
cả, tất cả chỉ là một đống phế vật đổi bằng máu và mồ hôi của vô vàn nô lệ,
phải dốc hết cả quốc lực mới đúc nên. Nhưng ở thời cổ đại, nó chính là nơi ký
thác tín ngưỡng và ý nghĩa cuộc sống của con người, là nơi gửi gắm thế giới
tinh thần của họ.”
Nghe cô nói thế, tôi
dường như cũng ngộ ra được một chút. Mấy thứ vớ vẩn này, có thể chẳng là gì cả,
đồng thời cũng có thể là “tất cả”. Nghĩ tới đây, tôi bèn gác chuyện này sang
một bên, đang tiếp tục suy nghĩ xem bước tiếp theo nên hành động thế nào thì
chợt cảm thấy núi rung đất chuyển, nước biển sôi sục dữ dội chưa từng thấy. Các
tượng đồng xung quanh cây gỗ Kiện Mộc dường như mọc rễ dưới chân, bất chấp nước
biển xối xiết cuồng bạo, vẫn chỉ khe khẽ lay động. Tiếng giáp đồng ma sát vào
nhau vang lên chói tai dị thường, hải khí từ trên cao dẫn động long hỏa bùng
phát, trên không trung thình lình đổ xuống một trận mưa lửa phủ rợp cả đất trời.
Chúng tôi nấp dưới cây
gỗ Kiện Mộc đen tuyền và các pho tượng đồng, tránh được vô số đám âm hỏa rơi
xuống. Nhưng sóng biển cuộn sôi dữ dội quá, mực nước dâng cao, mép xuồng cứu sinh
rốt cuộc cũng dính âm hỏa, chớp mắt đã thấy mùi lạ xộc vào mũi, khói trắng xèo
xèo bay lên. Mấy người chúng tôi đều vô kế khả thi, chỉ còn biết chấp nhận mệnh
trời, sống được thêm phút nào hay phút ấy thôi vậy.
Trong ánh sáng lạnh lẽo
của âm hỏa, bỗng một cái bóng khổng lồ xuất hiện giữa làn nước biển, theo dòng
chảy hỗn loạn lặn xuống chỗ gần cây Kiện Mộc. Minh Thúc vội nhắc cả bọn đề
phòng cá lớn nuốt xuồng, lời vừa mới dứt, dưới nước đã nhô lên một con cá chình
đen ngòm. Thân hình đen thui dài mấy mét ánh lên sắc lam nhạt. Loài cá này sống
dưới đáy biển tối đen, chỉ toàn dựa vào cảm giác, lúc này bị hoảng hốt thế nào
lại đâm thẳng vào cái xuồng cao su của Minh Thúc, lập tức đẩy cái xuồng nhỏ
trượt ra xa mười mấy mét trên mặt nước. Bọn Minh Thúc ngồi trên sém chút nữa
thì ngã lộn cổ, Cổ Thái định vung mái chèo gỗ lên đập, nhưng khốn nỗi chẳng thể
nào bò dậy nổi.
Chúng tôi kêu lên kinh
hãi, chiếc xuồng nhỏ của bọn họ sắp va phải tượng đồng đến nơi. Tôi cuống quýt
vỗ vào vai Tuyền béo, bảo cậu ta nổ súng giải vây. Chộp lúc con cá chình nhô hẳn
lên mặt nước, Tuyền béo giương khẩu M1 nhả liền ba phát đạn. Ở khoảng cách gần
thế này, cậu ta bảo bắn trúng mắt phải thì sẽ tuyệt đối không bắn trúng mắt
trái, tiếng súng vang lên, máu lẫn mảnh thịt bay tung tóe, phun lên đầy mặt đầy
đầu Minh Thúc. Con cá chình đen trúng thương phóng thẳng xuống xoáy nước gần đó
mất tăm, chỉ để lại một vệt máu tanh, chốc lát đã bị dòng nước cuốn trôi.
Chiếc xuồng của bọn
Minh Thúc cũng sém chút thì bị hút vào xoáy nước, ba người vội quạt mái chèo
lia lịa, cố hết sức xáp lại gần chúng tôi. Nhưng bất ngờ lại thấy hoa nước bắn
tóe lên, vật thể khổng lồ dài đến sáu bảy chục mét trồi lên. Đó là một con quái
ngư toàn thân phủ kín vảy nhọn hình quả trám, đầu đuôi màu xanh đen, trên đầu
có thứ gì đó phát ra ánh sáng, thân thể xám xịt, hai mắt lồi hẳn ra ngoài. Nó
đang đuổi theo con cá chình đen vừa chạy ra khỏi vùng nước sâu, mang phồng má
trợn, thình lình mất đi con mồi, liền bổ thẳng tới chỗ hai cái xuồng cứu sinh
của chúng tôi.
Shirley Dương nhận ra
đây là một loại cá săn mồi gọi là cá mui mắt vàng, chuyên sống ở vùng biển sâu,
cả nó lẫn con cá chình khổng lồ kia đều bị dòng nước nóng dưới đáy biển ép phải
nổi lên. Dưới đáy biển sâu mấy nghìn mét thường rất thưa thớt sinh vật, nên bọn
cá này có thói quen gặp gì là xơi nấy, hễ rời xa môi trường sống quen thuộc đến
vùng nước nông là chúng khó thích ứng, sẽ không sống nổi bao lâu. Bởi thế, dù
không có bất cứ lý do gì, con quái ngư này cũng sẽ vì khó chịu mà điên cuồng
tấn công mọi sinh vật nó gặp phải trên mặt nước. Khốn nỗi, chiếc xuồng của
chúng tôi đang núp bên dưới cây gỗ Kiện Mộc để tránh mưa lửa và sóng dữ, không
thể nhúc nhích đi đâu được quá nửa mét, còn Tuyền béo lại ở vào góc chết, không
thể nổ súng phòng ngự, tôi đành với tay nhặt khẩu M1 còn lại trên xuồng bắn
bừa. Đạn vãi ràn rạt xuống nước, có điều loại súng cạc bin 8 li này dùng phòng
thân thì được, chứ muốn bắn hạ con cá khổng lồ da dày như da tê giác đó thì e
là vô dụng.
Tuy nhiên, đạn vãi như
mưa ít nhiều cũng có hiệu quả nhất định, con quái ngư nơi đáy biển quẫy mình
đập nước bắn tung lên, bơi lướt sát qua xuồng cứu sinh của bọn tôi, rồi đâm
thẳng tới chỗ xuồng của Minh Thúc và hai chị em Đa Linh, Cổ Thái. Minh Thúc mặt
xám như chì, ngây người ra tại chỗ, trân trối nhìn chiếc xuồng sắp bị hất tung
lôi xuống đáy nước. Đa Linh và Cổ Thái đành vung mái chèo lên đập bừa xuống cái
đầu đang há mõm nhe nanh của con quái ngư ghê tởm.
Tình hình hết sức nguy
cấp, chỉ cần chiếc xuồng bị lật, ba người bọn Minh Thúc đúng là không đủ cho
con quái vật biển sâu kia nhét kẽ răng, mà hai khẩu cạc bin M1 của cả tôi và
Tuyền béo lại không thể hạ sát được nó. Bọn tôi đành giở lại chiêu năm đó dùng
để đánh cá dưới sông, cùng Tuyền béo mỗi thằng rút chốt một quả lựu đạn, cố ném
trúng khoảng giữa con cá mui mắt vàng với xuồng cao su của bọn Minh Thúc.
Lựu đạn từ lúc thoát
khỏi tay đến lúc nổ chỉ có một khoảng thời gian ngắn, không thể nổ trúng đầu
con cá mui mắt vàng, nhưng ít ra vẫn nổ trúng cái đuôi màu xanh đen của nó. Vụ
nổ làm bắn lên một cột nước lớn, hất con cá dữ lên không trung, nhưng vị trí nổ
lại quá gần xuồng cứu sinh của ba người bọn Minh Thúc, sóng xung kích đồng thời
cũng hất văng Minh Thúc và Đa Linh xuống nước. Cổ Thái lập tức không nghĩ ngợi
gì, ngậm con dao găm lao ngay xuống cứu người. Cũng may, ba người này đều đã
quen vật lộn với sóng gió ngoài khơi, dẫu bị rơi xuống nước cũng không đến nỗi
quá hoảng loạn, thoáng cái đã nhanh chóng bơi trở lại phía chứng tôi.
Tôi thấy bốn phía đều
có bóng dáng cá mập thấp thoáng ẩn hiện, không khỏi toát mồ hôi thay cho họ,
vội đưa xuồng áp lại gần. Chiếc xuồng của bọn Minh Thúc đã bị vào nước, coi như
vô dụng, nhưng xuồng của chúng tôi căn bản không thể chứa hết cả sáu người cùng
với một lượng lớn các loại trang thiết bị. Nếu cả bọn cùng lên một xuồng, thì
những thứ chiếm nhiều diện tích là các vậc phẩm quan trọng để duy trì sinh mạng
như bình lặn, nước ngọt và thức ăn đều sẽ phải vứt bỏ.
Lửa đã cháy đến lông
mày, đành được đến đâu hay đến đó vậy, trước mắt cũng chỉ còn cách liều chết
lặn xuống đáy nước tìm lối ra. Tôi bảo cả bọn tạm thời giẫm lên tượng đồng, bám
vào cây gỗ Kiện Mộc khổng lồ nghỉ chân. Lúc này, cách duy nhất để thoát khỏi
Quy Khư chính là lặn xuống sâu, rồi lần tìm dòng chảy ngầm, theo đó lặn trở ra
rãnh biển ở gần vực xoáy San Hô, nên trang bị lặn tuyệt đối không thể vứt bỏ
được. Vì vậy, cả bọn đều phải đeo bình lặn, kính lặn lên người, rồi mang theo
một ít thuốc nổ dưới nước, súng phóng lao, lưu đạn, còn thực phẩm và nước ngọt
đều bỏ lại hết. Tần Vương Chiếu Cốt kính từ lúc tìm được đến giờ vẫn luôn buộc
chặt trước ngực tôi, chỉ cần có thể sống sót trở về thì tấm gương cổ này nhất
thiết phải mang theo, những món thanh đầu quý giá khác và thực phẩm nước ngọt
đủ dùng cho một ngày, cùng với một phần thuốc men dùng khi khẩn cấp, đều nhét
vào túi buộc kín có gắn thêm cục chì, chia đều cho mỗi người.
Minh Thúc đưa hai thanh
đoản kiếm màu đen của nước Hận Thiên cho tôi và Tuyền béo, nói, muốn tìm đường
sống sót thoát khỏi Quy Khư này, về cơ bản phải chuẩn bị sẵn tâm lý có đi mà
chẳng có về, có trời mới biết dưới đáy nước kia rập rình bao nhiêu hiểm nguy,
mang theo bảo kiếm của tổ tiên Đản nhân, ít nhất cũng đáng tin cậy hơn là dao
găm với súng phóng lao thông thường. Tôi và Tuyền béo đều chửi thầm trong bụng,
nghĩ lão khọm già này lại muốn đem chúng tôi ra làm bia đỡ đạn cho lão rồi đây.
Chúng tôi chẳng hơi đâu tính toán với lão, tôi tranh thủ chút thời gian ngắn
ngủi nói với cả bọn: “Xem tình hình này, sắp sửa có một đợt triều lớn. Quy Khư
bất cứ lúc nào cũng có thể bị ngập nước biển, ở lại đây thì chỉ có con đường
chết. Chúng ta lặn xuống nước cầu sinh, cơ hội chỉ có một lần, tuyệt đối không
thể quay đầu, nếu ô xy trong bình lặn cạn hết mà vẫn không thoát ra được... kết
quả thế nào tôi không cần phải nói nữa, tóm lại là chỉ cần nhớ rõ ba điều. Thứ
nhất, hành động theo nhóm, cùng tiến cùng lùi; thứ hai, không được lề mề làm lỡ
thời gian; thứ ba, đến giờ khắc cuối cùng nhất định phải cố gắng chống chọi với
áp lực tâm lý, nhất thiết phải thoát ra được, phen này được ăn cả ngã về không,
nghìn vạn lần không được quay đầu trở lại.”
Mọi người đều hiểu rõ,
với lượng dưỡng khí trong bình lặn của chúng tôi, muốn thoát ra khỏi Quy Khư
trong tình trạng chưa có gì xác định thế này, tỷ lệ sống sót sợ là chưa đến một
phần nghìn. Nhưng cứ chần chừ ở lại nơi này, nếu không phải xuồng cao su bị
sóng đánh lật, người rơi xuống nước làm mồi cho cá, thì cũng sẽ bị long hỏa và
suối nước nóng hấp chín. Tình hình hết sức gấp, chúng tôi chỉ có mấy phút để
suy nghĩ và nghỉ lấy lại sức, nếu còn không mau hành động thì cơ hội sống sót
mong manh đến một phần nghìn kia cũng chẳng có, đúng như Minh Thúc từng nói:
“Không đánh bạc làm sao biết mình đang hên,” cơ hội nhỏ nhoi mấy thì cũng vẫn
là cơ hội, ở đây ngồi chờ chết chi bằng nhân lúc tinh thần và sức lực vẫn còn
đầy đủ mạo hiểm một lần chẳng hơn sao.
Đột nhiên cơn mưa lửa
ngừng bặt, lũ cá mập ở gần đó bận tranh cướp cái xác con cá mui khổng lồ, nước
đã ngập lên đến cổ các pho tượng đồng thau, chỉ thấy trên mặt nước lô nhô toàn
đầu là đầu. Tiếng sóng nước xung quanh dội về nghe như có người đang gõ lên một
cái chuông khổng lồ dưới đáy biển, không khí đè nén gây ức chế khó chịu không
tả nổi. Nhưng tôi nhận ra đây chính là thời cơ tốt nhất để xuống nước, bèn vẫy
tay ra hiệu, đeo kính lặn và ống thở lên, định dẫn đầu nhảy từ trên cây gỗ Kiện
Mộc xuống. Chợt Cổ Thái giơ tay ra kéo tôi lại.
Tôi nâng kính lặn lên
hỏi: “Sao thế? Lâm trận đầu hàng hả?” Chỉ thấy Cổ Thái nét mặt đầy vẻ kinh ngạc
hoảng hốt, lắp bắp nói: “Không thể đi được... tôi nhìn thấy... nhìn thấy... mặt
trời... màu... màu trắng!”
Chú thích
[54] Âm trầm mộc:
hay còn gọi là ô mộc, chỉ những loại cổ thụ quý hiếm chôn dưới đất hàng mấy
nghìn năm. (Chú thích của tác giả.)
Chương 43: Bôn nguyệt
Tôi nghe Cổ Thái nói
trông thấy vầng mặt trời màu trắng, căn bản chẳng hiểu thằng nhãi này đang nói
bậy nói bạ cái gì nữa, còn tưởng cậu ta căng thẳng quả độ mà mê muội thần trí,
dẫu sao thì áp lực tâm lý khủng khiếp do nỗi tuyệt vọng mang lại không phải là
thứ một đứa trẻ mười sáu mười bảy tuổi như cậu ta có thể chịu đựng nổi.
Nhưng Minh Thúc thì
giật bắn mình, ở trên biển trông thấy mặt trời màu trắng không phải là điềm tốt
lành gì, những người hiểu cách xem hải tượng đều biết rõ “mặt trời trắng bệch,
giờ bão ngập trời”, đó chính là dấu hiệu của đại nạn sắp sửa giáng xuống. Lão
khọm già sém chút nữa là ngồi phịch xuống, cũng may tôi kịp đưa tay ra đỡ.
Shirley Dương hỏi Cổ Thái: “Đừng cuống, cậu nói rõ ra xem nào.”
Cổ Thái vội chỉ tay
nói: “Mọi người mau xem đi, mặt trời màu trắng...” Cả bọn đều không ngờ mặt
trời mà cậu ta nói lại ở trên đỉnh đầu. Chúng tôi đang ở trong Quy Khư dưới đáy
biển, sao có thể trông thấy mặt trời trên không trung được cơ chứ? Tất cả liền
lập tức hướng ánh mắt lên phía trên, chẳng ngờ lại có một vật thể hình tròn màu
trắng mờ mờ treo lơ lửng ở ngay chỗ đỉnh cây gỗ Kiện Mộc găm chi chít tên đá.
Vừa nãy hải khí bùng
lên, long hỏa ở tầng nham thạch phía trên bùng lên, trút xuống một trận mưa
lửa, không trung mù mịt hơi sương bốc lên từ mặt nước bị long hỏa hun đốt,
thành ra bọn tôi không ai chú ý đến tình hình phía trên cả. Tôi lạnh toát
người, không hiểu sự thể rốt cuộc ra sao, ngạc nhiên thốt lên: “Cái gì thế?” Sự
việc xảy ra quá bất ngờ, nhất thời cả bọn không ai kịp định thần, chỉ hoang
mang ngước nhìn, song cũng vẫn biết, thứ ở trên kia tuyệt đối không phải mặt
trời.
Shirley Dương chăm chú
nhìn mảng màu đen gồ hẳn lên so với xung quanh ở tầng nham thạch trên đỉnh đầu,
tựa như sực nhớ ra thứ gì đó, mừng rỡ reo lên: “Đảo u linh!” Thì ra, quầng sáng
trắng nhờ nhờ ấy, không phải là mặt trời như Cổ Thái nói, mà là một “cửa sổ
trời” bị hải khí trong Quy Khư che khuất. Kể ra cũng hợp với lẽ thường, nơi này
trên có cửa trời, dưới có dòng chảy ngầm, như vậy mới bảo đảm sinh khí trăm
nghìn năm không suy giảm. Lúc chúng tôi mới tiến vào vùng biển vực xoáy San Hô,
gặp đúng lúc nước triều rút, một hòn đảo màu đen lộ ra trên mặt biển, đó chính
là đảo u linh thoắt ẩn thoắt hiện theo quy luật thủy triều.
Lúc nước triều dâng,
hòn đảo chìm xuống, khi thủy triều rút, nó sẽ lại ló ra trên mặt biển. Mới đầu,
chúng tôi còn tưởng đảo u linh là lưng con cá voi khổng lồ, chỉ sợ nó quẫy sóng
làm lật tàu, sau khi nổ pháo oanh kích mới chắc chắn đó là một hòn đảo nhỏ trơ
trọi trên biển. Đảo u linh chia vực xoáy San Hô thành hai khu vực Đông và Tây,
chúng tôi bị con rắn biển khổng lồ tấn công, chìm vào hải nhãn ở mé phía Đông,
không ngờ di tích cổ của nước Hận Thiên trong Quy Khư lại được xây ở ngay bên
dưới đảo u linh như thế.
Chúng tôi càng không
thể ngờ được trên đảo u linh lại có một hang động giống như cửa sổ trời, thông
thẳng lên mặt biển, chắc hẳn bên ngoài đã sáng, lộ ra một mảnh trời to như cái
khay, nên Cổ Thái mới tưởng lầm là trông thấy mặt trời màu trắng trước cơn bão
lớn. Tôi đoán hang động như cái miệng giếng này không phải bị súng pháo trên
tàu Chĩa Ba của chúng tôi bắn sập. Cây gỗ Kiện Mộc này tựa như một cây đại thụ,
tên đá ghim vào xòe ra thành tán cây, trông hình thế cơ hồ muốn phá trời bay
vút lên. Thì ra, bố cục totem Xạ nhật này hết sức nghiêm mật, mọi điểm đều có ý
tứ sâu xa, đến giờ tôi mới cảm nhận được người dân nước Hận Thiên xưa đã tốn
bao công sức để tạo ra khung cảnh như trong truyện thần thoại này. Quy Khư
tuyệt đối không đơn giản chỉ là bày ra như vậy, bên trong ắt hẳn còn ẩn chứa bí
mật gì đó lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, tôi thực tình cũng không đoán nổi tại sao
cổ nhân lại sắp xếp như vậy.
Tuyền béo hỏi cả bọn:
“Các vị, chúng ta đừng có thở vắn than dài ở đây nữa, không thấy nước đang dâng
lên đấy à? Chúng ta nên bám theo cây gỗ Định hải thần châm này bò lên trên, hay
là lặn xuống đáy nước tìm đường ra khác đây? Việc không thể chần chừ nữa, đi
như thế nào, cần phải nhanh chóng quyết định ngay đi thôi.”
Tôi thấy cửa sổ trời
trên đảo u linh thông thẳng lên sinh môn trên mặt biển, lại nghe bốn phía ầm
ầm, chính là tín hiệu nước triều sắp dâng cao. Mặc dù sau khi thủy triều dâng,
đảo u linh cũng bị ngập chìm dưới nước, có điều, lúc này cũng chỉ biết tranh
thủ thời gian bám vào cây gỗ Kiện Mộc này mà rời khỏi Quy Khư, những chuyện
khác thì đợi khi trở lên mặt biển rồi tính toán sau cũng không vội.
Tôi nghĩ tới đó, đang
chuẩn bị quyết định thì Shirley Dương chợt ngăn lại: “Mới đầu tôi đã có cảm
giác sử dụng Kiện Mộc tạo thành mũi tên khổng lồ thế này hình như không phù hợp
với truyền thuyết cổ xưa của nền văn minh Hoa Hạ cho lắm. Người dân nước Hận
Thiên tuy tự coi mình là hậu duệ của totem Xạ nhật, nhưng Kiện Mộc lại chính là
thượng cổ thần mộc, có thể thông thẳng từ đáy biển đến Nguyệt cung. Đồng thời,
hang động như cửa sổ trời kia lại đặt ở Nguyệt vị, nhất định là tượng trưng cho
mặt trăng chứ chẳng sai. Ghi chép về nước Hận Thiên trong thư tịch cổ rất ít,
có điều đỉnh đồng thời Chu Mục Vương có đúc hình ảnh truyền thuyết người dân
nước Hận Thiên sau khi chết liền chạy lên mặt trăng. Bởi vậy, tôi thấy đây có
lẽ không phải totem Xạ nhật, mà là đường lên mặt trăng, cho vong linh người
chết sử dụng. Chúng ta leo lên theo lối này, liệu có nguy hiểm không?”
Quả tim của cả bọn đều
chùng xuống, thì ra cây gỗ Kiện Mộc này không phải totem chiến tranh Xạ nhật,
mà là tượng trưng cho con đường u minh dẫn linh hồn người chết lên mặt trăng,
xét đến tận cùng, ngọn núi này quả nhiên là một ngôi mộ cổ nằm ngoài lẽ xét
đoán thông thường. Quầng sáng trắng lóa trên đỉnh cây gỗ Kiện Mộc quả thực tựa
như một vầng trăng tròn vành vạnh, khiến cho người ta có cảm giác cây thần mộc
đáy biển để linh hồn được thăng hoa này tựa như chỉ cách vầng trăng kia một
bước, chỉ cần leo lên đỉnh Kiện Mộc, tung người nhảy lên là có thể rời khỏi
vùng Quy Khư hỗn loạn không có lối ra này rồi.
Minh Thúc thấy mặt nước
xung quanh thấp thoáng bóng cá mập, tự biết nếu lặn xuống ắt khó tránh khỏi
phải huyết chiến với lũ cá dữ ấy. Lão là người qua lại trên biển nhiều năm, dĩ
nhiên hiểu rõ sự lợi hại của đàn cá mập, trong lòng đương nhiên muốn lên hơn
muốn xuống, cuống quýt lên tiếng: “Tiểu thư Shirley Dương nói rất có lý, trên
biển đích thực có truyền thuyết xa xưa về cây gỗ thần thông lên mặt trăng, có
điều dù là thần mộc để oan hồn người chết nơi đáy biển lên cung trăng, thì
trước mắt chúng ta cũng chỉ còn cách đặt mình vào chỗ chết để tìm nẻo sống mà
thôi...” Nói đoạn, lão xông lên dẫn đầu cả bọn bám cây gỗ nghiêng nghiêng vỏ xù
xì như vảy rồng, chầm chậm leo lên cửa sổ trời phía trên, miệng không ngừng lẩm
bẩm khúc hát thê lương bi tráng của dân mò ngọc cho vững dạ, giọng điệu như sói
tru quỷ gào: “Hải thần của con ơi, xin hãy cứu vớt lấy kẻ cô khổ này, không sợ
sóng sâu nước cả, chỉ sợ không thể về nhà...”
Minh Thúc đã tranh leo
lên cây thần mộc trông tựa như có thể thông tới tận cung trăng ấy trước, hơn
sáu chục tuổi đầu rồi, bảo leo là leo luôn không chút chần chừ do dự, tay chân
hết sức nhanh nhẹn. Tôi thấy vậy, trong lòng không khỏi chửi thầm cái lão già
này đúng là hạng cá nhân chủ nghĩa chỉ biết nghĩ đến mình, chẳng lo gì cho tập
thể. Nhưng hành động của lão đồng thời cũng đập tan mọi sự lo âu của chúng tôi,
thôi thì được ăn cả ngã về không, đánh liều một phen vậy. Đã đến nước này, cũng
chỉ còn cách cả đội bò lên cửa hang kia tìm đường thoát khỏi Quy Khư, nhưng
bình ô xy và mặt nạ thì vẫn không thể vứt bỏ, để vạn nhất lối trên ấy không đi
được thì vẫn còn có thể nhảy xuống nước tìm đường khác. Vậy là cả bọn cùng
nghiến răng đành vác nặng, gắng sức leo lên.
Tuyền béo leo lên thứ
hai, đeo bình lặn và một cái bao to tướng đựng những món vớt được, tuy hết sức
nặng nề, nhưng cu cậu không nỡ vứt bỏ thứ gì. Mang vác nặng đối với cậu ta mà
nói không phải là vấn đề, nhưng leo cao xưa nay vốn là nhược điểm lớn nhất của
Tuyền béo. Có điều, chuyện đã đến nước này rồi, thì cậu ta cũng chỉ còn biết
cắm đầu cắm cổ, nhắm tịt mắt lại, chỉ nghe “bạch bạch bạch” mấy tiếng, tấm thân
phì nộn đã lên được mấy mét.
Bọn chúng tôi xếp hàng
một bám theo cây gỗ khổng lồ quấn nhằng nhịt xích đồng, cũng không biết khúc
cây đã trải qua nghìn vạn năm này có chống chọi nổi sóng gió hay không nữa. Cúi
người nhìn xuống dưới, nước biển cuồn cuộn sục sôi, nhấp nhô vô số bóng dáng
tượng nô lệ bằng đồng thau, ngoài ra còn có rất nhiều cá mập lượn lờ rình rập
trong làn nước đã dìm ngập quá nửa di tích thành cổ. Tôi lo Tuyền béo căng
thẳng quá sẽ tuột tay ngã, bèn kêu lên với cậu ta: “Tư lệnh Vương Khải Tuyền,
mau mở mắt ra xem, chúng ta sắp bò lên đến mặt trăng rồi, bà quả phụ trên cung
trăng và thuốc trường sinh bất tử của bà ta đang đợi cậu đến nhận đấy.”
Tuyền béo cảm nhận được
thế nước cuồn cuộn phía dưới, lại thấy gió lạnh từ trên cao quạt vù vù bên tai,
nào dám mở mắt, nhưng mồm miệng thì vẫn bi bô chẳng chịu kém cạnh gì ai: “Hồ
Bát Nhất, giờ là lúc nào rồi, sao cậu lại giở cái trò thất đức ấy ra hử? Cậu
không biết tư lệnh Vương Khải Tuyền này vốn có cái thú lên chỗ cao là thích
nhắm mắt lại trầm tư hay sao? Lòng ta sáng như gương, mở mắt ra chẳng những
không thấy nàng quả phụ xinh đẹp mà chỉ có nước rơi xuống làm mồi cho cá thôi,
đến lúc ấy tôi đây nhất định phải kéo cái thằng thất đức khốn kiếp nhà cậu
xuống theo...”
Trong âm thanh âm vang
của muôn ngàn cơn sóng, sáu người chúng tôi leo dần lên đỉnh cây thần mộc dưới
đáy biển. Ai nấy lúc này cũng đã bị vật nặng đè lên làm cho lưng nhức vai mỏi,
tuy rằng tay chân mềm nhũn cả ra, song đều không dám lơi tay dù chỉ một chút.
Không khí trên mặt biển phả vào mặt, từ chỗ này chúng tôi đã có thể trông thấy
rõ một vùng trời trắng xóa. Có điều, lúc ở bên dưới thoạt nhìn cảm thấy khoảng
cách giữa cây gỗ Kiện Mộc và lối ra hình như rất gần, nhưng đến tận nơi mới
phát hiện ra, không mọc thêm đôi cánh thì đừng hòng bay lên trên đó được. Minh
Thúc loạng choạng nhổm người đứng trên đỉnh cây gỗ, nhón mũi chân, không cam
lòng vươn tay với lên mép cửa hang. Nhưng từ chỗ lão đứng đến cửa hang vẫn còn
quá xa, ít nhất cũng phải đến cả chục mét. Lão khọm già lập tức ỉu xìu, lòng
nguội ngắt đi như tro tàn, suýt chút nữa thì tuột khỏi cây gỗ ngã ùm xuống nước.
Tôi thầm tự mắng mình
quá sơ suất, lúc ra biển lại không mang theo mấy thứ dụng cụ trèo cao như súng
bắn dây móc hay phi hổ trảo, thành ra chỉ còn cách có mấy bước, mà cả bọn chúng
tôi chỉ biết trơ mắt ra nhìn chứ chẳng còn cách nào hơn. Đến lúc này, bọn tôi
mới ngộ ra mình đúng là hạng người phàm mắt thịt, không phải Thường Nga uống
thuốc bất tử thân thể nhẹ bẫng bay được lên cung trăng. Người sống ở đời, thân
thể bằng máu thịt, bản chất vốn ô trọc nặng nề, dẫu là bậc chí thánh chí hiền
như ông Khổng ông Mạnh, có tài học vô song hoặc thần dũng vô địch như Tây Sở Bá
Vương Hạng Vũ, sức khỏe bằng ba bò chín trâu, cũng không thể nào thoát khỏi trọng
lực địa cầu, tuyệt đối không thể bước đi trên không trung được. Phi thiên bôn
nguyệt, những cảnh tượng kiểu như thế chỉ tồn tại trong truyền thuyết thần
thoại mà thôi.
Tôi bám tay lên mũi tên
ghim vào đầu trên của cây gỗ, nhiều năm bị nước biển xối vào vẫn chắc chắn như
thường. Chỉ thấy, hải khí mờ mịt, người ở trên cao tựa như đang đạp chân lên
mây mù, mấy chục mét dưới chân là một vùng nước hỗn độn đang sục sôi cuộn trào,
không ngừng dâng cao. Mặt mũi cả bọn chúng tôi ướt đẫm mồ hôi hòa lẫn hơi nước,
mắt thấy con đường “bôn nguyệt” trở thành tuyệt lộ, ai nấy đều thở dốc, chẳng
biết phải làm sao.
Minh Thúc lại đưa ra
chủ ý hão huyền, đợi đến khi nước dâng cao, thì nương theo dòng nước mà bơi ra
bên ngoài. Cổ Thái và Đa Linh chỉ biết nhìn ngó quanh quất, bộ dạng cũng rất
lúng túng. Tôi nghe trên đỉnh đầu vọng xuống tiếng gió rít như xé vải, thầm nhủ
trời bên ngoài chắc vừa sáng, triều sớm chuẩn bị dâng, sợ rằng chẳng mấy chốc
nữa u linh đảo sẽ bị nước biển nhấn chìm. Khi đó nước biển sẽ cuồn cuộn đổ vào qua
“cửa sổ trời”, bọn tôi còn lấn bấn trong này chắc chắn sẽ bị dòng nước xiết xé
xác. Xem tình hình này, có khi vẫn phải lặn xuống dưới kia tìm đường khác thôi
vậy. Nghĩ tới đây, tôi bèn cúi đầu nhìn xuống, chỉ thấy trong làn nước ẩn hiện
vô số bóng cá mập, lố nha lố nhố không đếm nổi, cảnh tượng thực khiến người ta
phải rùng mình khiếp hãi. Trong tình trạng không có gì yểm hộ che chắn như thế
mà nhảy xuống nước, đừng nói là không lặn được xuống đáy sâu, chỉ sợ vừa chạm
vào mặt nước, chúng tôi đã bị bầy cá mập ấy lao vào xơi tái ngay tại trận rồi
ấy chứ.
Đột nhiên Shirley Dương
“a” lên một tiếng, trên thân cây gỗ này có rất nhiều mũi tên đá dài mấy mét,
xòe ra như tán cây, kỳ thực chính là hóa thạch của một loài sinh vật biển cổ.
Cây gỗ Kiện Mộc chìm dưới đáy biển đã vạn năm, giờ không thể nào phán đoán được
các mũi tên là tác phẩm của thiên nhiên hay do con người cắm vào nữa. Có điều,
ở chỗ lưa thưa ít mũi tên đá nhất, có một cánh cửa bằng đồng khắc hoa văn dạng
vảy, rất giống hình dạng vảy gỗ màu đen trên khúc cây. Nếu không phải Shirley
Dương tình cờ bám vào đúng chỗ thì không dễ gì mà phát hiện được cánh cửa đồng
này.
Chúng tôi đều không ngờ
gần ngọn cây gỗ lại có một cánh cửa đồng to tướng thế này. Lấy tay gạt đám rong
rêu bám bên ngoài đi, trên cánh cửa lờ mờ hiện ra hình khắc cây gỗ thần đâm
xuyên từ đáy biển lên cung trăng. Những totem Tống tử điểu bay lượn trên không
trung có thể gặp được trong các mộ cổ thời kỳ Ân Thương và Tây Chu kia lại càng
chứng tỏ rằng đây là mộ đạo của một ngôi mộ cổ. Chúng tôi lập tức nghĩ đến giả
thiết, cây gỗ khổng lồ này rỗng ruột, bên trong có một con đường, một con đường
để vong linh người chết đi theo thần mộc lên cung trăng. Bên dưới thông đạo ấy
chắc chắn là mộ cổ của người nước Hận Thiên. Điều này xem ra có vẻ rất giống
tục để lại “Thiên môn” trong địa cung để chủ mộ có thể phi thăng vũ hóa thành
tiên trong phong tục mộ táng Trung Quốc, chỉ có điều “Thiên môn” để vong hồn
lên cung trăng cầu thuốc bất tử ở đây nằm trong lòng thần mộc tương truyền có
thể thông từ đáy biển lên tới mặt trăng này mà thôi.
Nước triều dưới vực
xoáy San Hô đã dâng, màn hơi sương đang lờ mờ sáng tối sầm đi. Chúng tôi đều
hiểu rõ, chỉ cần đảo u linh bị nhấn chìm, nước bên trên sẽ ào ào xối xuống,
nước bên dưới kia cũng đồng thời dâng lên. Lũ cá mập đã ăn sạch sẽ con cá mui
mắt vàng bị lựu đạn nổ chết, giờ mà xuống nước chẳng khác nào tự đâm đầu vào
chỗ chết. Đứng trước biển lớn đang nhe nanh múa vuốt, thân lâm vào tuyệt cảnh
tiến thoái lưỡng nan, dẫu là ai cũng không thể giữ vững được tinh thần mà ra vẻ
ta đầy hảo hán nữa, lũ chúng tôi mặt mũi xám xịt như tro, ôm chặt lấy những mũi
tên đá trên ngọn cây gỗ khổng lồ, tâm trí hoảng loạn tột độ.
Đang lúc quẫn bách, tôi
thấy cánh cửa đồng ấy hơi lún vào bên trong thân cây gỗ, có vẻ đóng rất chặt,
cũng không biết có phải mộ cổ sớm đã bị ngập nước biển rồi hay không. Lúc này
đã không còn sự lựa chọn nào khác, chỉ có chui vào trong mộ cổ qua đường mộ đạo
này, họa may mới thoát khỏi hiểm cảnh trên có dòng chảy xiết, dưới có bầy cá
mập. Tôi chỉ tay vào cánh cửa đồng, gào lên với Shirley Dương: “Không lên được
cung Quảng Hàn thì chúng ta đành xuống dưới mộ phần vậy.”
Shirley Dương gật đầu,
rút dao găm ra nạy cánh cửa đồng đóng chặt. Tôi cũng lật tay rút thanh cổ kiếm
mà người dân nước Hận Thiên cổ dùng để giết trai cướp ngọc. Bấy giờ, tôi cũng
chẳng để ý xem thanh kiếm đồng ấy quý giá nhường nào nữa, cứ thế ra sức mà
chọc, nạy vào khe cửa. Không ngờ, lưỡi kiếm sắc bén dẻo dai, vận sức mấy lần,
cắt đứt luôn được sợi xích buộc cửa.
Nước triều vẫn chưa
ngập hết đảo u linh, nhưng sóng biển dập dờn, ngọn sóng vỗ cao quá chóp đảo,
khiến nước từ trên cao bắt đầu đổ xuống đỉnh đầu chúng tôi. Tình thế đã quá bức
bách, Minh Thúc và Cổ Thái ở bên cạnh nhìn sang, ruột gan xem chừng cũng nóng
như lửa đốt, bèn tiến lại giúp sức nạy cánh cửa. Cánh cửa đồng nặng nề nghìn
năm nay đóng im ỉm, thế mà lúc mở ra, lại không hề có mùi ẩm mốc, mà chỉ thấy
tanh tưởi xộc lên tận óc, khiến người ta chỉ muốn nôn ọe. Bên trong cánh cửa lộ
ra một thông đạo rộng rãi tối đen như mực, sâu không thấy đáy, tựa như thông
thẳng đến cõi u minh.
Shirley Dương quẹt một
que diêm ném xuống, kiểm tra thấy không khí lưu thông, vô hại với con người,
lập tức nói với cả bọn: “Bên trong không có nước, không khí cũng an toàn, xuống
được!”
Trong lúc nói chuyện, nước
triều đã lên đến đỉnh, thời gian không cho chúng tôi nghĩ ngợi gì nhiều nữa.
Tôi vội lần lượt đẩy từng người bên cạnh vào thông đạo, sau đó nhanh chóng chui
vào theo, tiện tay đóng cánh cửa đồng lại. Trong bóng tối, tôi chỉ thấy cả
không gian ngập chìm trong tiếng động như sấm nổ, dòng nước xiết đổ sầm sập
xuống thân cây gỗ khổng lồ, người ở bên trong lại càng đinh tai nhức óc hơn gấp
bội phần, gân cốt toàn thân tưởng chừng như bị nghiền nát. Chỗ bị chúng tôi nạy
ra trên cánh cửa đồng không ngừng có nước rỉ vào chảy tong tỏng.
Tôi vội há to miệng
không dám ngậm, đề phòng tổn thương màng nhĩ. Trong thông đạo tối om như mực đã
có người bật đèn pin lặn nước lên. Loại công cụ chiếu sáng này không hiệu quả
lắm đối với môi trường không có nước, song có thể đeo trên người, rảnh hai tay
để làm việc khác. Tôi cũng bật ngọn đèn treo trước ngực mình lên, chỉ thấy mộ
đạo lớn khó tưởng tượng nổi này được làm từ thứ gỗ rắn chắc dị thường, tuy bên
ngoài ngập nước, bên trong vẫn không hề ẩm ướt chút nào. Bọn chúng tôi ai cũng
mang vác nặng, đi theo mộ đạo dốc nghiêng này lên thì dễ, xuống mới khó, chỉ
còn cách dùng dao găm đâm vào vách gỗ, nghiến răng từ từ dịch chuyển xuống.
Cũng không biết đã
nhích dần từng bước như thế được bao lâu, âm thanh nước triều đổ xuống va vào cây
thần mộc cũng nhỏ dần, không rõ là nước trong Quy Khư đã dâng đầy hay là nước
triều đã rút, song chúng tôi vẫn chưa đến được cuối mộ đạo. Càng xuống sâu, mùi
tanh tưởi và hơi ẩm càng xộc mạnh, thêm một lúc lâu nữa, cuối cùng cũng nghe
thấy tiếng nước chảy róc rách. Chúng tôi đã xuống đến đáy thông đạo.
Shirley Dương ném một
quả pháo lân tinh, ánh sáng bừng lên, chỉ thấy chúng tôi cách mặt nước chừng
mười mét, một đầm nước phẳng lặng trải ra bên dưới, xung quanh không thấy chỗ
nào để đặt chân. Tôi bảo cả bọn giật hai chốt bơm hơi bơm phồng ba lô rồi ném
xuống trước, sau đó lần lượt thả mình xuống đầm. Vừa chạm nước, tất cả đều vội
bơi lại chỗ ba lô, thở hổn hển.
Trong ánh sáng lân tinh
nhợt nhạt, tôi ngẩng đầu quan sát xung quanh. Cây gỗ khổng lồ sừng sững như
ngọn tháp đen kịt đứng chôn chân vào lòng một động san hô ngập nước hình thành
từ thời thượng cổ, không biết sâu đến chừng nào. Cánh cửa đồng mở vào một thông
đạo xuyên xuống tận mặt nước trong động san hô. Tôi còn thấy trong hang chất
đống rất nhiều mai rùa to như cối xay, khắc chi chít các tiêu ký và dấu hiệu cổ
xưa dùng để suy diễn quẻ trong Bát quái, nhưng ngâm nước biển quá lâu, hầu hết
hình khắc đều đã mờ tịt, khó lòng nhìn ra. Trên rặng đá cách chỗ chúng tôi
không xa lắm, đặt bộ xương của một sinh vật cổ trông giống cá voi khổng lồ, bên
trong xương đầu thấp thoáng gồ lên mấy chục hình người, có lẽ đây là nơi đặt
thi thể trong mộ cổ. Phỏng chừng, những xác cổ này miệng đều ngậm “trụ nhan
châu”, dẫu ở đáy biển nghìn năm cũng không sợ bị thối rữa.
Theo bản năng, tôi đưa
tay rờ túi đeo bên người, bây giờ mới sực nhớ ra mình không đem theo móng lừa
đen. Có điều, tôi lại nhớ ra mình vẫn còn Tần Vương Chiếu Cốt kính, liền thấy
yên tâm ngay tắp lự. Quan sát một lượt xong, tôi định xem lòng hồ này sâu bao
nhiêu, liền nhận ra chỉ số trên mặt đồng hồ đo đã chỉ mức tối đa, không biết là
đồng hồ hỏng hay hồ nước trong động san hô sâu tới nỗi không thể thăm dò.
Lúc mới xuống đây,
Tuyền béo sợ đến mềm nhũn cả hai cẳng ra, nhưng vừa trông thấy trong ngôi mộ cổ
kỳ quái này còn có cả người chết, cu cậu tức thì lấy lại tinh thần, hăm hở kéo
cả bọn bơi lại gần xem cho rõ ràng. Tôi thấy đống xương hóa thạch vừa khéo cũng
là chỗ thích hợp để mọi người nghỉ ngơi chỉnh đốn, bèn đưa tay vẫy vẫy, bảo cả
nhóm bơi ra đó tạm thời tháo bỏ trang bị, ngồi nghỉ một chút cho lại sức.
Cả bọn nhọc nhằn leo
lên rặng đá, thấy một ngọn đèn làm bằng xác giao nhân phơi khô bên trong đựng
mỡ. Mỡ giao nhân dùng đốt đèn trải qua nghìn vạn năm cũng không khô, điểm cháy
rất thấp, chỉ cần có chút không khí là đèn vẫn sáng, vừa khéo có thể thay thế
đèn pin. Minh Thúc lập tức châm đèn, chiếu vào mấy cái xác chết trong xương con
cá voi khổng lồ, miệng lầm bầm như thể đang tự nói với chính mình: “Tiên sư cha
bố nó, không ngờ vùng Nam Hải này lại có mộ cổ của người Hận Thiên thật, cương
thi đáy biển hàng xịn thế này, nhất định là được giá lắm đây... chậc chậc...”
Dưới ánh đèn, chúng tôi
còn chưa nhìn rõ mấy cái xác mặt mũi mơ hồ kia, đã phát hiện ra trên cái mai
rùa nằm phía trước bộ xương cá voi khổng lồ có tiêu ký “Chấn thượng chấn hạ”.
Vì lúc ở trên biển đã thấy tiêu ký này ba bốn lần rồi, nên ngay cả Minh Thúc và
Tuyền béo cũng nhận ra, đây là quẻ tượng Chấn kinh bách lý. Trong Quy Khư cứ
xuất hiện đi xuất hiện lại quẻ tượng cổ này, rốt cuộc là có thâm ý chi đây?
Tôi đang mệt bã cả tinh
thần lẫn thể xác, cứ nghĩ đến những quẻ số thâm ảo phức tạp trong Kinh Dịch là
đầu đau như búa bổ, nhưng trong quẻ Chấn dường như có ẩn tình liên quan mật
thiết đến Quy Khư. Tôi đang vắt óc nghĩ ngợi mà vẫn chưa tìm ra đầu mối gì,
Shirley Dương chợt lên tiếng hỏi: “Tôi không hiểu Kinh Dịch cho lắm, nhưng từng
đọc qua trước tác của một vị học giả người Hoa sống ở Mỹ, ông ấy là chuyên gia
nổi tiếng về nghiên cứu Dịch học, quan điểm hết sức độc đáo. Vị học giả đó từng
đề cập rằng, trong các quẻ tượng của Dịch, phàm là những câu có chữ số bên
trong, chẳng phải không dưng mà có, mà đều chứa đựng thông tin đã được mã hóa
của cổ nhân, người ngày nay đa phần đều không thể nào giải nổi. Quẻ Chấn này có
câu ‘Chấn kinh bách lý’[55] anh có biết, tại sao trong quẻ không phải là
chín mươi chín dặm hay một trăm linh một dặm hoặc là nghìn dặm vạn dặm luôn, mà
lại đúng là một trăm dặm hay không?”
Chú thích
[55] Chấn kinh
trăm dặm.
Chương 44: Cương nhân Nam
Hải
Chuyện Shirley Dương
vừa đề cập, xưa nay tôi chưa từng nghĩ tới, “Dịch” bao hàm vạn tượng, mọi sự
biến hóa không ngừng của sự vật trong cõi đất trời đều ở trong đó, chẳng qua là
có rất ít người đủ khả năng tham ngộ thấu triệt mà thôi. Một người vĩnh viễn chẳng
bao giờ thấy được tất thảy. Mỗi người tiếp xúc với Chu Dịch đều có nhận thức
riêng về Kinh Dịch, trong mắt của triết gia, nó bao hàm triết lý, còn trong mắt
của người theo chủ nghĩa thần bí, nó lại là một bộ thiên thư có thể dự đoán
được biến hóa của vạn sự trên đời. Nhân giả thấy nó, bảo đấy là nhân. Trí giả
thấy nó, bảo đấy là trí. Đến tận ngày nay, thế nhân kiến giải Kinh Dịch, xét
cho cùng vẫn còn rất phiến diện, chỉ như ếch ngồi đáy giếng mà thôi.
Vì vậy, Shirley Dương
mới nói, phàm những câu có chữ số trong Kinh Dịch đều không phải tự nhiên mà
như vậy. Hào từ của quẻ Chấn là “Chấn lai hích hích. Tiếu ngôn ách ách. Chấn
kinh bách lý. Bất táng chủy sưởng.”[56], cũng là có ý riêng, chẳng qua không
biết tại sao lại dùng câu “Chấn kinh bách lý”? Nếu chỉ để miêu tả một hiện
tượng, hà cớ gì không dùng “Chấn kinh thiên lý” hay “Chấn kinh vạn lý?”
Shirley Dương nói, nhóm
chúng tôi từ lúc ở trên đảo Miếu San Hô ra khơi, liên tiếp mấy lần gặp cổ vật
liên quan đến quẻ Chấn. Dấu vết của quẻ Chấn xuất hiện cả trong quan quách, mộ
huyệt, hoặc trên mai rùa, xương cốt, dường như là có liên quan đến việc mai
táng chôn cất trong Quy Khư này vậy. Như vậy có nghĩa là, rất có thể đó không
phải quẻ tượng có được do chiêm bốc bói toán, mà là tiêu ký người nước Hận
Thiên sử dụng khi chôn các người chết, hoặc một loại ám ký trong mộ huyệt của
họ. Vả lại, trong những ký hiệu này, tiêu ký đại biểu cho “bách” trong quẻ
tượng hết sức nổi bật, nhiều lần như vậy, không thể không khiến người ta phải
nghi ngờ.
Tôi gãi đầu, thực tình
không biết phải trả lời câu hỏi của Shirley Dương như thế nào. Mặc dù cô tư duy
rất linh hoạt, thường hay nhìn rõ được bản chất của sự vật, nhưng “Chấn kinh
bách lý” có đặc chỉ điều gì hay không thì chỉ có người xưa mới biết. Tôi từng
nghe Trương Doanh Xuyên nói, năm xưa, tổ tiên nhà anh ta có một vị kỳ tài, cao
thủ trong đám Mô Kim hiệu úy, tên là Trương Tam Liên Tử. Vị Trương tam gia này
đào được Thiên thư toàn quẻ mười sáu chữ âm dương trong mộ cổ thời Tây Chu, sau
khi xem xong liền đóng cửa không ra ngoài nữa. Có người hỏi ông, phải chăng đã
nhìn ra được cơ trời, Trương tam gia lắc đầu lia lịa, chỉ thốt ra một câu: “Ai
giải được sự bí ảo này, họa chỉ có tiên nhân thuở hồng hoang.” Câu này ý rằng,
có lẽ chỉ có những bậc tiên nhân thuở hồng hoang sơ khai mới biết được thiên cơ
chân chính trong mười sáu quẻ âm dương ấy.
Mười sáu quẻ đó đại
khái chỉ có tiên nhân mới hiểu được, ngay cả tám quẻ lưu truyền đến hậu thế
(Bát quái), tuy đã giảm đi đến một nửa, song các bậc cao nhân bác cổ thông kim
xưa nay cũng không ai dám nói mình đã hiểu hết. Tôi là kẻ nửa đường xuất gia,
nên dĩ nhiên càng không biết những hào từ có chữ số trong Kinh Dịch ẩn chứa
huyền cơ gì bên trong.
Có điều, ngoài miệng
tôi vẫn không chịu thừa nhận, mà chỉ nói: “Chữ ‘bách’ trong ‘Chấn kinh bách lý’
là đại biểu cho số tròn. Thời xưa, người Trung Quốc có thói quen dùng số tròn
làm hình dung từ, chẳng hạn ‘bách chiến bách thắng’, ‘bách bộ xuyên dương’...,
cô xem có ai nói, chín mươi chín trận thắng cả chín mươi chín, hay là một trăm
linh một bước xuyên dương đâu? Nói ‘trăm’ nghe ngắn gọn mà toát lên khí thế to
lớn, cái này gọi là lời nhẹ mà nghĩa sâu xa đấy, vậy thôi chứ chẳng có hàm
nghĩa đặc biệt gì đâu. Trên trời nổi sấm, ai biết rốt cuộc là sấm vang xa bao
nhiêu dặm chứ? Kỳ thực, đây chỉ là một kiểu tỉ dụ trừu tượng thôi, có lẽ người
Mỹ thích miêu tả chi li chính xác, vì vậy cô mới thấy kỳ lạ chăng?”
Shirley Dương đại khái
chắc cũng cảm thấy tôi nói rất có lý, nên không lằng nhằng thắc mắc về quẻ Chấn
trên mai rùa trong mộ nữa, mà bước đến cùng nghỉ ngơi với mọi người bên cạnh bộ
xương cá voi hóa thạch trắng phớ.
Tôi cũng ngồi xuống
đất, đưa mắt nhìn quanh, thầm hình dung suy đoán cục thế của ngôi mộ này, xem
ra tất cả đều trùng hợp với hình xăm trên lưng Cổ Thái. Bên dưới cây thần mộc
đáy biển là xác cổ của người Hận Thiên. Đản nhân đã giấu bí mật về mộ cổ của tổ
tiên trên thân thể Long hộ, nhất định không phải để hậu duệ đời sau phát hiện
ra mà đến đây đổ đấu, có điều, nguyên nhân thực sự là gì thì sợ rằng trong đám
mò ngọc còn đang sống, chẳng ai có thể giải đáp được.
Tôi lại hướng ánh mắt
về phía thông đạo ngầm trong lòng cây gỗ mà chúng tôi vừa trượt xuống, xem ra
cây Kiện Mộc khổng lồ này đã sinh trưởng ở đây từ ức vạn năm về trước, sau này
bãi bể nương dâu, rừng xanh biến thành biển lớn mênh mang, Kiện Mộc vẫn lưu lại
dưới đáy biển, cơ hồ như xuyên qua ba tầng vỏ trái đất. Chẳng trách, trong
truyền thuyết cổ đại, nó được coi là thần mộc nối liền đáy biển với cung Quảng
Hàn trên mặt trăng. Tôi đoán, người Hận Thiên năm xưa đã khoét rỗng thân cây,
cải tạo động san hô phía bên dưới thành mộ huyệt cho mình.
Mộ huyệt của người Hận
Thiên không có mộ đạo mộ thất như những ngôi mộ bình thường khác, nằm trong
vùng hồ liên tiếp xuất hiện xoáy nước, không biết là sâu đến chừng nào. Tiếng
sóng nước vỗ ì ầm xa xa, khí nóng trắng mờ hừng hực xông lên từng đợt, tôi đoán
chắc là có suối nước nóng ngầm dưới đáy Quy Khư. Nước trong suối này nóng hơn ở
suối nóng trên lục địa gấp cả trăm lần, bất cứ sinh vật nào rơi xuống, cũng sẽ
lập tức bị luộc trong nhiệt độ cực cao cho đến khúc xương cũng chẳng còn.
Phía đối diện lại có
từng đợt từng đợt hơi lạnh ngùn ngụt bốc lên, hút nước biển xuống khoảng hư vô
trong lòng trái đất. Vị trí mộ huyệt ở chính trong Âm Dương giới một nóng một
lạnh, có các rặng san hô chết bao bọc kín kẽ xung quanh, nước nóng và nước lạnh
đều không thể tràn vào trong được. Trong mắt các nhà phong thủy, đây xứng đáng
là một huyệt mộ thần tiên “thông thiên địa, hóa cổ kim”. Sinh khí trong mộ
không bị chảy ra ngoài, mà lưu chuyển tuần hoàn không dứt, bộc lộ tất cả sự
thần kỳ của tự nhiên tạo hóa.
Nhân lúc tôi quan sát
địa hình, Tuyền béo đã lấy lại sức, liền thò nửa người vào trong bộ xương cá
voi nhòm ngó mấy cái xác cổ. Minh Thúc cũng kéo Cổ Thái bước lại gần, bảo cậu
ta dập đầu bái lạy tổ tiên. Lão khọm già ấy nói: “Đây là tổ tiên của Đản nhân
đấy, nếu tiên tổ nhà cậu có linh, nói không chừng lại có thể phù hộ chúng ta
bình yên trở về cũng nên.”
Cổ Thái chẳng hiểu tổ
tiên mấy nghìn năm trước của mình là gì, có điều, nhìn thấy xác cổ cũng vẫn nảy
sinh lòng kính sợ, liền quỳ rạp xuống dập đầu, chắp tay trước ngực làm theo
Minh Thúc, xì xụp bái lạy mấy lượt.
Tuyền béo hỏi Minh
Thúc: “Cái bác Minh này lắm chuyện thế, đào rồi bán, bán rồi lại đào, cả đời
bác buôn đi bán lại bao nhiêu cái xác cổ rồi? Sao đến đây lại còn làm ra vẻ nọ
kia, dập đầu bái lạy cái quái gì chứ? Tôi đang tưởng bác định ôm mấy cái cương
thi này về bán giá cao kiếm lời nữa cơ, nhưng biểu hiện của bác thực khiến tôi
thất vọng quá đi mất, thôi đứng sang một bên đi, đúng là già rồi mà còn chẳng
nên thân...”
Minh Thúc rầu rĩ nhăn
mặt nói: “Đừng đem chuyện xưa ra so với chuyện nay nữa, giờ đang là lúc khó
khăn, bị chôn chân cả lũ dưới đáy biển thế này, cơ hội sống sót trở về thật
mong manh như khói, còn tâm trạng đâu mà nghĩ đến giá cả xác cổ thế nào nữa
chứ. Hiện tại dĩ nhiên là nhớ ra thần Phật nào thì bái vị ấy ngay, nói không chừng
bái trúng, biết đâu chúng ta có thể thoát cơn khốn đốn mà trở về. Nếu không,
thằng béo nhà cậu bảo xem, chúng ta còn làm gì được nữa đây?”
Tuyền béo đặt ngọn đèn
xác giao nhân xuống đất, nói: “Theo tôi ấy à... nói thực lòng, rơi vào tình
cảnh thế này tôi cũng chẳng biết phải làm sao nữa, tôi chẳng qua là bị ép phải
hành động theo sự chỉ dẫn của lý trí mà thôi...” Lời vừa dứt, cậu ta liền sử
dụng thủ đoạn của Mô Kim hiệu úy, nâng một cái xác lên, dùng đầu gối thúc lên
gáy cương thi, một tay giữ chặt đỉnh đầu, một tay bóp vào xương gò má, ý đồ
khiến thi thể phải nhả viên ngọc trụ nhan ngậm trong miệng ra.
Tôi vội ngăn Tuyền béo
lại, chuyến này ra biển vớt thanh đầu đã đủ lắm rồi, trong mộ cổ này toàn là
thi thể cổ tiên của Cổ Thái, ngậm ngọc nghìn năm chết mà không thối rữa, vì lý
do tôn trọng nên thông thường không gọi là cương thi hay bánh tông, mà gọi là
“cương nhân”. Lúc này, tốt nhất cũng không nên kinh động bọn họ thì hơn, bằng
không tuy trong mộ sinh khí rất thịnh, song một khi “trụ nhan châu” tích tụ
tinh hoa của khí âm bị lấy ra, cương nhân đã được bảo tồn mấy nghìn năm sẽ lập
tức hóa thành bột mịn. Chuyến này chúng tôi ra biển là để vớt thanh đầu chứ
không phải vào Quy Khư trộm mộ, vì vậy làm chuyện gì cũng không nên thái quá.
Tôi vừa ngăn cậu ta lại, vừa nói: “Tổ sư gia đã dạy rồi, lòng tham chính là nơi
ẩn tàng nguy cơ thiên hạ đại loạn, chúng ta còn phải nghĩ cách sang Mỹ hưởng
phúc mấy chục năm nữa, bao năm nay sóng to gió lớn gì cũng trải qua rồi, mất
mạng ở đây thì thật là uổng phí quá đấy.”
Tuyền béo nghe tôi
khuyên giải điều hơn lẽ thiệt một hồi, rốt cuộc cũng nghĩ thông, lưu luyến chui
ra khỏi bộ xương cá voi. Tôi mặc dù không muốn đụng đến mấy cương nhân Nam Hải
này, song cũng muốn xem thử coi trong bộ xương cá voi ấy có những gì, những mong
có thể phát hiện ra được đầu mối gì đó giúp chúng tôi thoát khỏi chốn này.
Xương đầu con cá voi
nửa khép nửa hở, cũng không phải rất to, nhưng để đặt xác chết thì còn rộng rãi
chán, bên trong còn có một số vật bồi táng nữa, nên xem ra nó có vẻ giống mộ thất
hơn là một chiếc quan tài. Tôi chỉ cần khom người chui qua miệng cá là có thể
vào trong, năm cái xác cổ còn bảo tồn nguyên vẹn lặng lẽ nằm một hàng.
Shirley Dương cũng muốn
xem rõ hơn, bèn bật đèn pin lên, chui theo sau tôi vào mộ thất. Bọn Minh Thúc
cũng muốn vào xem, nhưng bên trong quá chật hẹp, nhiều người quá thì không nhúc
nhích gì được, tôi đành bảo họ đứng bên ngoài giơ ngọn đèn chiếu sáng, cũng
đồng thời đề phòng có chuyện xảy ra ngoài ý muốn. Trong chốn âm u đen tối dưới
lòng biển sâu này, trời mới biết là có giống quái vật gì ẩn náu, tuyệt đối
không thể chỉ cắm đầu cắm cổ nhìn về phía trước mà quên cảnh giác phía sau được.
Tôi và Shirley Dương
một trước một sau, hết sức cẩn thận bước qua bên cạnh năm cỗ cương nhân Nam
Hải, đi sâu vào mộ thất. Chúng tôi ngồi xổm xuống, rọi đèn pin nhìn mấy thi
thể, chỉ thấy năm cái xác này có ba nữ hai nam. Thi thể nam một già một trẻ,
phục sức chắc đều đã hóa thành bụi cát cả, phủ một lớp da rồng khô khốc. Da
rồng thực chất là da của một loại cá biển có vảy rực rỡ, đầu mọc sừng, hiện đã
tuyệt chủng.
Cả năm cái xác phủ kín
da rồng, chỉ để lộ phần đầu. Xác ông già ở mé bên lộ ra một nửa cánh tay, da
ngăm ngăm đen, khuôn mặt hơi hõm, nhưng nước trong cơ thể có “trụ nhan châu”
giữ lại, nên không bị thối rữa. Trên đời này, cũng chỉ có Nam Hải minh châu ở
vùng biển vực xoáy San Hô thấm đẫm hải khí mới có tác dụng kỳ diệu như vậy. Tôi
rút dao găm ra, đâm khẽ lên cánh tay của ông già ấy một nhát.
Không ngờ da thịt
“cương nhân” cứng như sắt thép. Tôi chưa từng gặp qua xác cổ nào như thế này,
có lẽ nó đã được xử lý bằng phương pháp chống thối rữa đặc biệt của vùng biển.
Cái xác này, dường như rất giống cái xác Tần Thủy Hoàng gặp khi tuần du xuống
phương Nam. Shirley Dương thấy tôi làm vậy, khẽ hỏi: “Anh lại làm bừa rồi, lấy dao
đâm xác chết người ta làm gì chứ?”
Tôi đáp: “Thử một chút
xem có thi biến hay không ấy mà. Giờ xem ra lo lắng của tôi là thừa rồi, Quy
Khư là huyệt nhãn của mạch Nam Long, sinh khí cực thịnh, bình sinh tôi chưa
từng thấy nơi nào như vậy bao giờ. Mấy ‘cương nhân’ này sắp hóa thạch đến nơi
rồi, không lo bị thi biến nữa đâu.” Shirley Dương gật đầu, giơ đèn pin quét một
lượt xung quanh, phát hiện ra trong mộ thất có khá nhiều món đồ bồi táng.
Chuyện bồi táng minh khí theo người chết từ thời đồ đá đã có rồi, không chỉ ở
riêng Trung Quốc, mà các nền văn minh cổ trên thế giới, đa số đều có tập tục
bồi táng vật dụng theo người chết. Trong bộ xương hóa thạch của con cá voi có
xương cốt của các loài thủy tộc, cùng vô số món vật khác chồng lên nhau, được
sắp đặt thành hình chữ nhật trong mộ thất. Ngoài các loại lu vò và mai rùa khay
ngọc, trong này còn có một cái đỉnh đồng thau tạo hình rất kỳ quái. Theo chế độ
lễ nghi của nhà Chu, đỉnh có ba chân, nếu thiên tử hạ táng, trong mộ có thể
chôn theo chín cái đỉnh. Thời bấy giờ, đồng thau là báu vật quốc gia, bồi táng
chín đỉnh là nghi thức chỉ có thiên tử mới xứng được hưởng. Bên dưới thiên tử,
phân thành năm cấp “công, hầu, bá, tử, nam”, dù là công tước ở bậc tôn quý nhất
trong hàng quý tộc cũng không đặt chín đỉnh trong mộ mình được, bằng không sẽ
bị coi là có dã tâm mưu phản.
Thứ ở trong mộ huyệt
này, hình dạng như cái đỉnh, không phải loại thường, thân đỉnh to lớn chia làm
tám mặt, bên dưới có chín chân, cao chừng nửa mét, tuy thấp thì có thấp, nhưng
chắc không phải là cái quỹ[57].
Chợ đồ cổ Phan Gia Viên
chắng mấy khi xuất hiện hàng thật từ thời kỷ đồng thau cả, nhưng hàng giả thì
nhan nhản khắp nơi, vô khối kẻ đi buôn đem khẩu quyết giám định đồ đồng cổ ra
để lòe khách, vì vậy tôi ít nhiều cũng biết được một chút. Cái đỉnh đồng chín
chân này có cả đặc điểm của hai triều đại Hạ và Chu, hết sức đặc sắc. Tôi thầm
nhủ, nếu đem so với Tần Vương Chiếu Cốt kính, cái đỉnh đồng đúc bằng long hỏa
dưới đáy biển này có khi còn cao giá hơn ấy chứ.
Tôi và Shirley Dương
đều biết đỉnh đồng xưa nay được dùng để ghi chép sự kiện, mà cái đỉnh đồng bồi
táng trong mộ cổ này quả đúng là một món bảo vật hiếm có, không khỏi lấy làm
kinh ngạc. Hai chúng tôi ngẩn ra một thoáng, rồi mới lại gần xem kỹ hơn.
Shirley Dương quan sát phía bên ngoài, còn tôi lại nhổm người nhòm vào trong.
Chỉ thấy đỉnh đồng đổ đầy nước, trên mặt nước có một lớp màu xanh đen rất dày
trôi nổi, nom như nước bẩn tù đọng vậy. Nước tù không có sóng, tôi cũng chẳng
thể nhìn rõ xem bên dưới có thứ gì hay không.
Tôi đang do dự chưa
biết có nên chọc tay vào trong đỉnh mò vớt thử hay không, thì Shirley Dương
quan sát hoa văn đúc trên thân đỉnh đã có phát hiện. Cô bảo tôi ngồi xổm xuống
nhìn đồ án đúc trên đỉnh. Tôi bèn y lời làm theo, chỉ thấy thân đỉnh chia làm
tám mặt, mỗi mặt đều có những đường nét lõm sâu. Có lẽ, đỉnh đồng từng được
khảm sợi vàng, trải qua nhiều năm tháng, sợi vàng bong hết để lại những đường
lõm như vậy, mô tả chi tiết cảnh “bôn nguyệt” sau khi chết của người dân nước
Hận Thiên xưa.
Chúng tôi mới xem chừng
một nửa đã hiểu, ngoảnh đầu lại nhìn mấy cái xác nằm sắp hàng phía sau. Thì ra
bọn họ vẫn chưa chính thức nhập táng, mà đang nằm tạm ở đây chuẩn bị chờ ngày
trăng tròn, xem ra chưa đợi được đến giờ khắc “bôn nguyệt cầu thuốc trường
sinh” thì thành cổ trên biển đã chìm sâu xuống đáy nước, những người sống sót
lưu tán khắp nơi, rồi thành Đản nhân cả đời chỉ biết sống lang thang trên biển,
mò ngọc bắt cá mưu sinh.
Tôi đang định xoay sang
xem phía sau cái đỉnh đồng, chợt nghe Minh Thúc ở bên ngoài hớt hải gọi, đành
xoay người lùi mấy bước hỏi xem lão già mất nết ấy lại có chuyện gì. Minh Thúc
lau mồ hôi đầm đìa trên trán, nói với tôi: “Các cậu có phát hiện không, sao
trong bụng mấy nữ cương nhân kia lại có xác trẻ con thiếu chân thiếu tay thế
nhỉ?”
Chú thích
[56] Dịch rằng:
Chấn là chấn động lôi đỉnh, Làm cho vạn vật phỉ tính hanh xương. Sấm vang sợ
hãi, lo lường, Rồi ra khúc khích, rộn ràng cười vui. Sấm vang trăm dặm sợ oai,
Vẫn thường bình tĩnh, chẳng rơi chén thìa.
[57] Một loại đồ đựng thức ăn thời cổ
đại, bằng đồng, hình tròn, có hai quai ở hai bên.
Chương 45: Thực thiên
Thì ra bọn Minh Thúc
nãy giờ vẫn ở ngoài nơm nớp canh chừng, thấy mấy cái xác chết trong mộ nằm
thành hàng, phủ tấm da toàn vảy chẳng khác gì đắp chung một tấm chăn lớn, trong
chăn lại phồng lên trông rất bất thường, lão khọm già nghĩ năm cái xác cổ nghìn
năm không phân hủy này chắc chắn có đồ bồi táng, cho dù không lấy mang đi, thì
cũng nên mở ra xem thử cổ vật bảo tồn mấy nghìn năm trong Quy Khư là thế nào,
mở rộng tầm mắt một chút cũng không thiệt gì ai.
Chẳng ngờ vừa lật tấm
chăn lên, liền phát hiện ba cái xác nữ nằm giữa đều bị mổ bụng lúc đang mang
thai, tình cảnh thê thảm vô cùng. Thai nhi đã thành hình trong bụng, ít nhất
cũng phải được tám chín tháng rồi, vậy mà bị móc ra, đặt bên trên ổ bụng mở
toác nhét đầy những viên sỏi tròn, được gọi là “hàn ngọc” của mẹ. Ba cái xác nữ
này gò má phúng phình, miệng ngậm minh châu, bụng nhét đầy “hàn ngọc” nên vẫn
phồng to, trông như sắp lâm bồn đến nơi.
Xác trẻ sơ sinh dường
như chưa được xử lý gì, có điều mượn được khí âm từ “hàn ngọc” và “trụ nhan
châu” trong thi thể mẹ bên dưới, nên hình hài vẫn còn, nhưng đã khô đét lại
thành một đống đen sì, nhìn thoáng đã dựng hết cả tóc gáy. Lấy đèn pin rọi vào
xem kỹ hơn, cả bọn phát hiện ra ba cái xác trẻ sơ sinh không phải thiếu một
cánh tay thì là thiếu một cái chân, xem chừng là bẩm sinh đã tàn khuyết.
Minh Thúc giật bắn
mình, vội nói: “Hẳn là có điều cổ quái chi đây, hồi trước trong giới cõng xác
chúng tôi thường hay kể nhau nghe truyền thuyết về quỷ hài nhi với lại quỷ thai
nhi. Tương truyền, có những chủ mộ có ý giấu trong mộ thất những thai nhi phải
ngậm hờn mà chết, phàm kẻ nào xâm nhập trộm lấy minh khí trong mộ, hoặc hủy
hoại thi thể chủ mộ, liền sẽ bị lũ tiểu quỷ ấy ám vào, ngày đêm không được sống
yên ổn, sớm muộn gì cũng toi mạng.” Nói đoạn, lão vội gọi chúng tôi ra xem đây
có phải tiểu quỷ do người Hận Thiên sắp đặt trong mộ cổ hay không. Trong lúc
nói chuyện, mồ hôi lão túa ra đầm đìa, rõ ràng là cực kỳ kinh hoảng.
Tôi nghe vậy lập tức
quay lại xem kỹ mấy “cương nhân” bên dưới tấm “da rồng”, thấy quả đúng như lời
Minh Thúc nói, ba cái xác trẻ sơ sinh bị móc ra khỏi bụng mẹ, dường như vẫn còn
giữ nguyên dáng vẻ vùng vẫy đau đớn trong thời khắc cuối cùng khi sinh mạng
ngắn ngủi của chúng kết thúc. Tứ chi của chúng, hoặc tay hoặc chân đều thiếu đi
một, song cũng không giống như bị người ta tàn nhẫn chặt đi, mà bẩm sinh đã tàn
khuyết. Nếu nhìn kỹ một chút, có thể nhận ra cánh tay hay cẳng chân nhỏ như
chân chuột, không biết vì nguyên nhân gì mà không thể phát triển như các bộ
phận khác trên cơ thể.
Chuyện trong mộ có tiểu
quỷ cũng hãn hữu, chỉ một số vùng ở phương Nam mới có, đại đa số nghệ nhân đổ
đấu đều cả đời cũng không gặp lần nào. Nhưng ở Quảng Đông, Quảng Tây truyền
thuyết về tiểu quỷ trong mộ khá phổ biến. Còn nghe nói, cuối thời nhà Thanh,
đầu thời Dân Quốc, có một nhóm trộm mộ chuyên nghề cõng xác hoạt động ở vùng
Lưỡng Quảng, trong nhóm này có kẻ đã bị tiểu quỷ trong mộ ám theo về nhà, rốt
cuộc bị hại đến nỗi toàn gia mất mạng. Có thể thấy, đây là một phong tục có
tính khu vực, vả lại, hình như đến thời Minh Thanh mới xuất hiện. Quảng Đông,
Quảng Tây là vùng xa xôi, mãi đến thời nhà Minh mới bắt đầu phát triển, vì vậy,
cũng không ai có thể khảo chứng tục giấu tiểu quỷ trong mộ đề phòng trộm mộ từ
đâu mà ra cả.
Chỉ là, ở các tỉnh
khác, cách làm này cực hiếm gặp, có thể cũng không phải phép cổ gì. Song, tại
sao trong di tích mấy nghìn năm trước lại có loại tà thuật này? Nếu không phải
vậy, những thai nhi đã thành hình chuẩn bị sinh ra đời, vì sao lại gặp phải độc
thủ? Ngoài ra, cả ba cái thai đều tàn khuyết bẩm sinh, dường như là hơi quá
trùng hợp thì phải? Chúng tôi đang ở trong chốn hiểm nguy, không thể nói là
không tin mấy chuyện tà quái ma mị được, có một số chuyện, tốt nhất cứ nên đề
phòng thì hơn.
Nghĩ tới đây, tôi đã có
lòng muốn hủy thi diệt tích, bèn hỏi bọn Minh Thúc xem nên tính thế nào. Minh
Thúc xưa nay luôn một lòng tin tưởng mấy chuyện xưa tích cũ do tổ tiên cụ ky
nhà lão truyền xuống, nghe tôi hỏi đối sách, bèn vội vàng đáp: “Lúc này chúng
ta không thể mềm lòng được, bằng không dù có thể trở lên mặt biển, ít nhất cũng
phải cõng theo ba con tiểu quỷ ám quẻ. Trong mộ cổ tại sao phải dưỡng tiểu quỷ
chứ? Bởi vì thai nhi đã thành hình rồi, cô hồn dã quỷ đến đầu thai bám lên thân
thể đó, nhưng chưa kịp ra đời thì đã bị móc ra khỏi bụng thai phụ, hồn ma bóng
quỷ tham luyến hình hài, nên quyết không chịu rời đi. Tiểu quỷ chết từ trong
thai là loại hẹp hòi, tâm địa độc ác nhất, bọn chúng mà gặp người sống là liền
quấn lấy ám cho chết mới thôi. Bởi thế, theo tôi ấy à, không làm thì thôi, mà
đã làm thì phải làm cho trót, tốt nhất dùng lửa thiêu hết hình hài của mấy con
tiểu tặc đó đi, vậy mới là thượng sách.” Minh Thúc vừa nói vừa đập nhẹ lên cây
nến đang cầm trên tay. Dưới ánh nến, sắc mặt của lão trông cực kỳ khó coi, hẳn
là trong lòng đang sợ bị oan hồn của mấy hài nhi kia ám về đến tận nhà lắm lắm.
Tuyền béo cũng ủng hộ ý kiến châm lửa đốt, có điều trước khi thiêu xác, tốt
nhất là cứ móc hết mấy thứ trong miệng người chết ra đã, không thì lãng phí quá.
Tôi liếc mắt sang Cổ
Thái, thấy thằng nhóc cứ ngây ngây ngô ngô, vẫn chưa hiểu rõ rốt cuộc mình với
ngôi mộ cổ trong Quy Khư dưới đáy biển này có quan hệ như thế nào, cũng chẳng
hề để tâm đến chuyện phóng hỏa thiêu rụi mấy cái xác trẻ sơ sinh tàn khuyết
kia. Còn Đa Linh, nhát gan nhất bọn, thậm chí còn không dám lại gần xem mấy cái
cương thi nằm trong bộ xương cá voi.
Với kinh nghiệm của
tôi, chuyện bị tiểu quỷ ám vào người thà rằng tin là có, chứ tuyệt đối không
nên bỏ ngoài tai. Mấy cái xác trẻ sơ sinh trong mộ này cũng thật kỳ quái, nếu
để phiền phức bám vào mình, chi bằng thiêu sạch sẽ luôn từ trước cho xong, hà
tất phải truy tố ngọn nguồn làm gì. Nghĩ đoạn, tôi bèn dằn lòng hạ quyết tâm,
gật đầu với Minh Thúc. Minh Thúc liền dẫn theo Tuyền béo và Cổ Thái tiến lên,
lấy “trụ nhan châu” trước, rồi phóng hỏa “vãng sinh” cho mấy cái xác luôn.
Ba người họ đang định
ra tay, liền bị Shirley Dương cản lại. Nãy giờ cô vẫn chăm chú quan sát cái
đỉnh chín chân nọ, nghe chúng tôi bàn bạc định châm lửa thiêu hủy cương thi
trong mộ, vội vàng bảo mấy người bọn Minh Thúc dừng ngay lại. Cô nói, trong các
truyền thuyết của Ban Sơn đạo nhân cũng có chuyện về tiểu quỷ giữ mộ, nhưng đấy
là tà thuật dân gian mới xuất hiện khoảng hai ba trăm năm gần đây của dân cư
vùng núi, trong Quy Khư này làm sao mà có được? Vả lại, xưa nay cũng chưa từng
nghe nói tiểu quỷ trông mộ lại chọn những thai nhi bị tàn phế bẩm sinh, trên
đời này làm gì có cái lý ấy? Bây giờ mà mạo muội châm lửa hỏa thiêu xác chết,
mới gọi là tự chuốc lấy phiền phức đấy.
Chúng tôi đều bị cô nói
cho tắc tị không cãi được, những thai nhi bị tàn khuyết tứ chi này quả thật cực
kỳ quái dị, khó mà lý giải nổi, dẫu sao thì trong nhóm chúng tôi cũng chẳng ai
biết mộ có tiểu quỷ thì sắp xếp bày bố ra làm sao cả.
Shirley Dương lại nói:
“Người Hận Thiên đã đúc chuyện này lên cái đỉnh đồng chín chân rồi, chúng ta
muốn từ trong hang động san hô dưới đáy biển thoát ra, sợ rằng còn phải nhờ vào
mấy cương nhân Nam Hải này đấy.”
Cả bọn vừa nghe nói cô
đã có kế hoạch, sắc mặt thoắt thay đổi. Minh Thúc kích động đến nỗi nước mắt
nước mũi tuôn đầm đìa: “Tiểu thư Shirley Dương ơi, Minh Thúc tôi đây tuổi tác
lớn rồi, đầu óc hơi chậm chạp một tí, cô bảo mấy cái xác cổ này có thể mang
chúng ta trở về à? Không biết phải làm thế nào? Mong cô chỉ giáo cho rõ, để cho
kẻ này thoát khỏi bến mê...”
Shirley Dương bảo chúng
tôi lại xem mặt sau của cái đỉnh chín chân, thì ra hang động san hô nằm sâu bên
dưới Quy Khư và hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài này không phải là mộ
cổ. Mấy thai nhi thiếu chân cụt tay kia, không ngờ lại liên quan đến hiện tượng
nguyệt thực xảy ra thời cổ đại. Năm cái xác đắp “da rồng” đặt nằm bên trong bộ
xương cá voi này, một già một trẻ đều là người chết sắp liệm vào quan quách hạ
táng, còn ba thai phụ bị mổ bụng, thì ra vì bất hạnh trông thấy nguyệt thực nên
mới bị đem làm tế phẩm tuẫn táng.
Nhật thực và nguyệt
thực là hai hiện tượng thiên văn lớn, người xưa không hiểu được căn nguyên,
song cũng đã sớm nhận ra. Từ xưa đã có truyền thuyết, thai phụ không được nhìn
nguyệt thực, một khi thấy, thai nhi sau khi ra đời ắt sẽ bị tàn khuyết tứ chi.
Truyền thuyết thoạt nghe có vẻ đầy sắc thái thần bí này hoàn toàn không phải
chuyện vu vơ, dù đến thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như bay này, người
ta vẫn chưa thể hoàn toàn giải thích được sự bí ẩn ấy. Trẻ con do các thai phụ
từng thấy nguyệt thực sinh ra, cứ mười đứa thì đến tám chín đứa bị dị dạng tàn
khuyết, tỷ lệ cao đến mức không sao hiểu nổi. Trong quan niệm đậm đặc mê tín
của người xưa, nguyệt thực toàn phần là “đại phá”, nguyệt thực từng phần là
“tiểu phá”, vào khoảnh khắc “nguyệt phá”, khí âm tinh của mặt trăng bị trời đất
xâm hại, người phụ nữ mang thai trông thấy ắt sẽ bị cảm nhiễm.
Những nền văn minh cổ
xưa đều khởi nguyên từ các dòng sông lớn, văn minh của người Hận Thiên cũng
vậy. Họ vốn ở lưu vực sông Hoàng Hà, về sau vượt biển di cư về phía Nam, song
vẫn giữ tục sùng bái totem cổ, ngoại trừ totem Xạ nhật tượng trưng cho chiến
tranh chém giết ra, còn có totem Bôn nguyệt, thể hiện ước vọng trường sinh bất
tử. Tên nước Hận Thiên, cũng là do học giả hậu thế dựa vào những sự việc được
ghi lại trên đỉnh đồng thời Chu Mục Vương soạn ra, chưa chắc đã chính xác.
Người nước Hận Thiên
biết kỹ thuật sử dụng long hỏa dưới đáy biển, đã sáng tạo nên một nền văn minh
đồng thau vô tiền khoáng hậu, nhưng có lẽ vì quá mê tín vào truyền thuyết trên
cung trăng có thuốc bất tử, nên đã dốc hết toàn bộ quốc lực vào việc khai quật
thần mộc dưới đáy biển và đúc tạo các khí cụ bằng đồng thau, nghìn vạn người
chặt cây, vậy mà chẳng có lấy một người được vũ hóa thành tiên, rốt cuộc chỉ
dẫn đến kết quả thành cổ chìm xuống đáy nước. Theo ghi chép trên cái đỉnh chín
chân, dưới đáy hồ nước trong động còn một cái đỉnh đồng lớn hơn nữa, phải kiếm
đủ ba cái xác hài nhi bị “nguyệt phá” khiến cho dị dạng tàn khuyết ném vào đó,
mới có thể khiến vong linh thông qua Kiện Mộc lên được cung trăng có giấu thuốc
trường sinh bất tử.
Shirley Dương nói:
“Thời Thương, Chu người ta gọi những thai nhi bị tàn khuyết do mẹ nhìn thấy
nguyệt thực là ‘thực thiên’, là thuốc dẫn để luyện chế đan dược trường sinh bất
tử. Thời kỳ đó, quan niệm này hết sức phổ biến. Từ thời Ân Thương đến Tần Hán
cũng có rất nhiều văn vật mô tả hoặc liên quan đến chuyện này.”
Tôi gật đầu nói: “Thời
Tần Hán là thời đại cuồng nhiệt với việc cầu thuốc trường sinh nhất, nghĩ lại
cũng có thể lý giải được, một con người trước khi sinh ra thì ở đâu, sau khi
chết thì đi đâu, đây toàn là những vấn đề người phàm khó mà hiểu nổi. Dẫu sao,
xét cho cùng, cuộc đời người ta thật ngắn ngủi, ngoảnh mặt đi ngoảnh mặt lại đã
thấy đầu xanh biến thành tóc bạc. Đem so ra, người ta dĩ nhiên là quan tâm đến
sự vĩnh hằng hư vô hơn là thời gian hữu hạn rồi. Có thể vĩnh sinh bất tử hay
không, là chuyện người xưa cuồng nhiệt theo đuổi suốt mãi đến tận thời Đường
Tống mới nhạt dần đi. Thời kỳ ấy, ngay cả mấy lão hoàng đế cũng tự mình gạt
mình nữa. Nhưng người sinh ra trên đời này, đi một chặng đường rồi ai mà chẳng
phải chết, xưa nay có ai thoát được sinh lão bệnh tử đâu? Làm quái gì có thần
tiên bất tử chứ? Người xưa mê tín còn hiểu và thông cảm được, nhưng chúng ta
thì không nên mê tín như vậy mới phải. Chẳng lẽ đem ba cái xác trẻ con cụt chân
cụt tay này bỏ vào trong cái đỉnh đồng dưới nước, là mấy người chúng ta có thể
quá giang theo hai vị cương nhân một già một trẻ này bay lên cung trăng ăn
thuốc trường sinh bất tử chắc?”
Minh Thúc cuống quýt
trách móc: “Hai cái chú này xưa nay chẳng bao giờ tin gì cả, chẳng lẽ không để
tiểu thư Shirley Dương nói hết rồi mới chõ cái mõm thối vào được à?” Sau đấy,
lão lại xun xoe với Shirley Dương: “Tiểu thư Dương, cô đừng trách hạng tầm
thường đó, Minh Thúc tôi là tin tưởng cô nhất đấy, cô mau nói tiếp đi, chúng ta
lên mặt trăng uống thuốc trường sinh bất tử rồi có trở xuống được không? Trường
sinh bất tử tuy cũng sướng ra phết đấy, nhưng mà trở về bên dưới hưởng thụ vinh
hoa phú quý thì vẫn thích hơn...”
Shirley Dương nói: “Tôi
đâu nói là từ dưới đáy biển có thể bò lên được cung trăng chứ? Tôi chỉ nói, dựa
theo đồ án được khắc trên cái đỉnh chín chân này, có thể nói phương pháp chôn
cất được diễn hóa từ truyền thuyết bất tử ấy chính là một kiểu hải táng. Cái
đỉnh đồng lớn dưới hồ nước kia rất có khả năng chính là chốt mở một hệ thống,
ký hiệu quẻ Chấn bên trong dường như có thể dẫn động dòng chảy ngầm... hoặc là
thứ gì đó, tóm lại có thể đưa thi thể từ Quy Khư lên mặt biển. Chỉ không biết
trải qua bao nhiêu năm như thế, hệ thống này có còn hoạt động nữa hay không mà
thôi.”
Tôi vội xem lại đồ án
đúc trên đỉnh đồng. Đúng như Shirley Dương nói, ở dưới nước có một cái đỉnh
đồng lớn đánh dấu bằng quẻ Chấn. Giờ nghĩ lại, tiêu ký “Chấn thượng chấn hạ”
ấy, dường như chính là một loại hệ thống chốt lẫy một khi khởi động, nước biển
trong động san hô sẽ nâng khối Kiện Mộc khổng lồ lên mặt biển. Nhưng có phải
vậy hay không, thì chúng tôi phải lặn xuống mới rõ được.
Tôi đột nhiên nhớ tới
hình xăm sau lưng Cổ Thái, bên dưới động san hô có cương thi này, chắc có lẽ là
mộ huyệt của giao nhân, sâu hơn nữa là một bộ xương rồng, không biết cái đỉnh
lớn có đúc dấu hiệu của quẻ Chấn kia rốt cuộc là ở đâu? Hình xăm Thấu hải trận
truyền từ đời này sang đời khác trên lưng Cổ Thái, ẩn giấu chân tướng của mộ cổ
Quy Khư, có lẽ chính là vì tổ tiên cậu ta hy vọng con cháu đời sau có thể trở
lại bên trong hải nhãn, đưa di hài của tổ tiên lên an táng chính thức. Nhưng
cũng phải đến đời Cổ Thái, con cháu họ mới có cơ hội theo chân chúng tôi lạc
đến nơi này, không hiểu rốt cuộc có thể hoàn thành được di nguyện của tổ tiên
hay không nữa. Thế nước trong động san hô nhìn có vẻ hoàn toàn tách biệt với
thế giới bên ngoài, không biết sâu bao nhiêu, nếu cái đỉnh lớn nằm sâu quá,
chúng tôi cũng chẳng thể nào lặn xuống khởi động hệ thống được.
Tôi quyết định, mình và
Tuyền béo, thêm Cổ Thái nữa sẽ lặn xuống, trước là để trinh sát tìm hiểu vị trí
của cái đỉnh đồng lớn dưới nước, xem liệu có thể khởi động hệ thống trên đó
được không. Có điều, tôi cũng biết, làm vậy chỉ là cầu may mà thôi, dựa vào một
ký lục mơ hồ từ mấy nghìn năm trước, làm sao mà chuẩn xác được chứ? Vả lại,
biết đâu các vị tổ tiên của Đản nhân bọn họ ảo tưởng lung tung, rồi phịa tạc ra
một cái truyền thuyết để dọa người thì sao? Vì vậy, tôi vẫn dặn dò Shirley
Dương và Minh Thúc ở lại trên bờ hồ, chớ nên chỉ lo lắng cho chúng tôi, mà còn
phải tiếp tục nghĩ cách khác nữa.
Tôi bàn qua về phương
án hành động với Shirley Dương, rồi đem theo thanh kiếm cổ của người Hận Thiên
phòng thân, dù gặp phải biến cố thì chắc cũng tạm ứng phó được. Shirley Dương
nói: “Anh chớ có quên, chỉ lặn xuống trinh sát, hễ cháy cái đỉnh lớn dưới nước
là phải lập tức trở lại ngay...”
Tôi biết cô nói tiếp
thêm mấy câu nữa, là sẽ đòi lặn xuống với chúng tôi luôn. Hiềm nỗi, số lượng
bình lặn chúng tôi mang theo có hạn, lúc hành động cần phải có dự phòng, trước
khi tình hình rõ ràng, không thể để cả bọn xuống nước hết được. Tôi bèn đánh
lạc hướng chú ý, bảo cô phải để ý coi chừng Minh Thúc và Đa Linh, chớ để họ xảy
ra chuyện. Kế đó, tôi lại nói: “Mặt nước phẳng lặng, không thấy gợn sóng, phỏng
chừng tình hình dưới nước cũng không nguy hiểm gì. Chúng tôi chẳng qua cũng chỉ
lặn xuống xem xét một chút, chắc không có gì đáng lo đâu.” Dặn dò xong xuôi,
tôi bèn cùng Cổ Thái, Tuyền béo ăn mấy miếng lương khô, chuẩn bị đồ đạc, mỗi
người ôm theo một cái xác thai nhi “thực thiên”, cho vào túi đựng đồ đeo bên
người, bước tới mép nước.
Hành động liên tục gần
nhau trong một thời gian dài, khiến Cổ Thái đã dần dần phối hợp được với chúng
tôi. Tôi không cần dặn dò cậu ta thêm gì nữa, vả lại, dưới đáy nước tối om, thị
lực của Cổ Thái tốt hơn người thường rất nhiều, muốn tìm được cái đỉnh lớn và
xác nhận tuyến đường đều phải nhờ vào cậu ta mới xong. Cổ Thái vẫn không chịu
đeo bình lặn, để mình trần, miệng ngậm con dao lưỡi cong của Minh Thúc đưa cho.
Tôi thấy Tuyền béo và
Cổ Thái đã chuẩn bị sẵn sàng, bèn đưa một ngón tay lên chỉ chỉ kính lặn, bảo họ
chú ý quan sát, rồi ba người cùng lúc thả mình xuống nước. Nước hồ rất sâu, đen
ngòm tăm tối, đèn pha công suất lớn của chúng tôi đã hư hỏng hết, giờ chỉ có
thể dựa vào mấy ngọn đèn pin thợ lặn chiếu sáng, ngoài xa mấy mét là tối mờ tối
mịt, không thể nhận ra được gì.
Dưới nước âm u, nhưng
lòng hồ rất rộng, khiến bọn tôi lúng túng mất một lúc, chưa biết phải làm gì.
Thi thoảng, vài sinh vật phát quang lại gần, chưa kịp nhìn rõ là con gì thì
chúng đã lướt qua bên người như ánh sao băng, rồi biến mất trong màn nước tăm
tối. Đột nhiên, một vùng lấp lóa xuất hiện, chúng tôi ở dưới nước mà cứ ngỡ
đang đứng giữa trời biển bao la. Sau một thoáng hoa mắt, tôi mới định thần nhìn
lại, thì ra là hàng nghìn hàng vạn con mực quỷ[58] đang lượn lờ bơi. Lũ
mực quỷ phát ra thứ ánh sáng màu xanh lam trông như lửa ma trơi để thu hút
những các sinh vật nhỏ đến gần, chớp thời cơ xơi tái. Ánh sáng đó cũng đồng
thời giúp chúng xua đuổi những thiên địch dưới biển. Nhưng lũ mực không chủ
động tấn công thợ lặn, ngược lại còn chiếu sáng cho chúng tôi nữa. Càng xuống
sâu, nước càng trong, có điều, bọn mực quỷ kia thoắt tụ thoắt tán, như những
làn ánh sáng huyền ảo uốn lượn dưới nước, khiến người ta nhìn mà hoa hết cả mắt.
Chúng tôi ôm một hóa
thạch san hô cổ, tranh thủ quan sát tình hình xung quanh. Những chỗ quá xa
chúng tôi không nhìn rõ, nhưng trước mắt thì toàn là hóa thạch san hô, hàng đàn
động vật giáp xác luồn thoăn thoắt trong các hang hốc và khe rãnh. Tôi đang
nghiêng người, định tiếp tục lặn xuống sâu hơn thì chợt phát hiện các hóa thạch
san hô bên cạnh mình đều thủng lỗ chỗ, tạo thành cơ man nào là hang hốc, mỗi
lòng hang xem chừng vừa lọt cả một thân người, bên trong dường như có thứ gì đó.
Tôi vẫy tay ra hiệu với
Tuyền béo và Cổ Thái, rồi cùng xúm lại gần, hướng chùm sáng của đèn pin vào
trong, chỉ thấy bên trong cái hốc san hô hóa thạch có một xác giao nhân, da
thịt đã bị cá rỉa sạch, chỉ còn lại bộ xương dính chút gân và vảy với cái đầu
lâu nhe răng chìa hẳn ra ngoài trông hết sức nanh ác đáng sợ. Chúng tôi nhìn
qua mấy cái hốc liền, tất cả gần như đều chất đầy thi thể giao nhân. Có thể
nói, cây san hô này chính là mộ huyệt dưới đáy biển của chúng.
Tôi thấy hàng trăm hàng
nghìn cái xác giao nhân, không khỏi thoáng ngây ngẩn cả người, cũng may chúng
đều chết hết cả rồi, bằng không đang lặn dưới nước gặp phải một đàn ác quỷ thế
này, làm sao mà sống sót cho nổi? Có điều, da thịt giao nhân chỉ bị cá rỉa, chứ
không phải thối rữa tan đi, có lẽ là vì ngư châu trong não của chúng. Ngư châu
cũng như ngọc trai, đều là vật quý dưới nước, song ngư châu chưa từng được lưu
truyền trên thế gian, là bởi loại này hễ rời khỏi nước một thời gian là tinh
hoa sẽ biến mất, nên không được coi trọng bằng ngọc trai.
Tôi không biết thực hư
thế nào, tự nhủ, hình xăm trên người Cổ Thái đã có đánh dấu mộ huyệt của giao
nhân, vậy thì đây nhất định là một nơi cực kỳ quan trọng, đương nhiên phải xem
xét cho rõ ràng cẩn thận. Nghĩ đoạn, tôi bèn ra dấu với Tuyền béo, cho tay vào
trong hốc moi ra một cái đầu lâu giao nhân, Tuyền béo hiểu ý, bèn lấy mũi kiếm
đâm vào hốc mắt cái đầu lâu. Thanh kiếm đen sì, xuống nước không ngờ tỏa ra
quầng sáng ảm đạm, hình dạng lại hệt như giao nhân phun ra lưỡi kiếm, có thể
chính là vũ khí chuyên dùng để đối phó với bọn ác quỷ dưới đáy biển này của
người xưa. Lưỡi kiếm vừa hất lên, liền nhẹ nhàng tách cái đầu cá mặt mũi hung
tợn ấy ra làm hai nửa, bên trong quả nhiên có một viên tròn màu đen to như hạt
hạch đào, không hề phát sáng. Lúc giao nhân mới chết, viên ngư châu này chắc
cũng có tinh quang, song vì bảo tồn cái xác nhiều năm, nên tinh hoa cũng đã
tiêu tán gần hết, đưa tay bóp nhẹ, viên ngư châu đã lập tức hóa thành bột phấn.
Cổ Thái thấy vậy lấy
làm tò mò, cũng bạo gan thò tay vào một cái hốc khác, định lôi ra một cái đầu
giao nhân trông rất giống đầu lâu người ấy ra xem thử có ngư châu hay không.
Chẳng ngờ, cậu ta vừa mới thò tay, bên trong mộ huyệt trên cây san hô đã thấy
lẳng lặng vươn ra một bàn tay đầy vảy đen sì, bóp chặt lên cổ tay cậu ta, kéo
tuột vào trong.
Một tay Cổ Thái bị siết
chặt, tay kia cầm “khí loa”, cánh tay còn ôm chặt cái túi bịt kín bên trong
đựng xác trẻ con. Cái túi từ lúc ở trên bờ đã được buộc lên người cậu ta rồi,
nhưng cái thằng ngốc ấy lại không biết buông ra để lấy con dao ngậm trên miệng
tự giải cứu mình, mà chỉ đạp chân vào cây san hô, gắng sức giật tay ra, nhất
thời cứ giằng co không thoát ra được.
Tôi và Tuyền béo thấy
vậy đều giật bắn mình, chẳng lẽ giao nhân cũng có thi biến hay sao? Lúc ấy nào
ai còn nghĩ ngợi được gì nhiều, tôi vội vung kiếm, thanh đoản kiếm này được
thiết kế hết sức hợp lý, vung vẩy dưới nước hoàn toàn không hề cảm thấy có lực
cản chút nào. Cổ kiếm chém xuống, lập tức cắt cánh tay vươn từ trong mộ huyệt
kia thành hai đoạn, một dòng máu tanh túa ra. Máu vừa chảy, dưới ánh sáng mờ mờ
của lũ mực quỷ, từ những hốc nhỏ chi chít trên thân cây san hô khổng lồ lập tức
đổ ào ra vô số giao nhân toàn thân phủ vảy đen kịt, tựa như những dòng nước đục
ngầu cuồn cuộn.
Chú thích
[58] Mực quỷ (tên
khoa học Vampyroteuthis) sống ở độ sâu 600-900 m hoặc hơn, thân có hai ria lớn
trông hệt như hai cái tai. Mình của chúng trơn và nhũn nên thường bị nhầm là
sứa. Dù chỉ dài 15 cm, không nguy hiểm cho con người, nhưng mực quỷ trông rất
dữ dằn với đôi mắt hình cầu to bằng mắt của một con chó lớn. Bộ phận phát quang
phân bố đều trên toàn bộ cơ thể và có thể bật hoặc tắt tùy ý.
Nguồn doc.178vn.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét