Chương 17 : Ủng
Thành
Đám trộm ai nấy đều
mang theo khí giới, chen chúc nhau trước cửa thành cuối mộ đạo, dưới sự chỉ huy
của lão Trần, vài chiếc thang rết được mang tới húc mở hai cánh cửa. Cửa thành
vừa mở đã nghe vọng ra tiếng rít réo chói tai như có một hồn ma nữa đang điên
cuồng gào thét, một số tên lính chưa từng tham gia đào mộ, nghe thấy âm thanh
này liền vãi đái ra quần, nhưng mộ đạo lúc này toàn người là người, có muốn
chạy cũng không chạy nổi.
Lão Trần biết tiếng kêu
chói tai khác thường này hoàn toàn không phải do ma quỷ hiện hình, mà chỉ là âm
thanh phát ra khi không khí được lưu thông đột ngột. Cửa thành vừa mở ra đã
chạm phải hệ thống chống trộm, ngay lúc âm thanh kỳ quái ấy vang lên, lão Trần
lập tức vẫy tay ra hiệu, đám người đang dùng thang rết húc cửa trông thấy tín
hiệu của thủ lĩnh liền thét lên một tiếng, lập tức thu thang dạt về phía sau.
Tốp trộm sau lưng họ nhanh chóng chất rơm ẩm giấu khiên da lấp kín cửa thành.
Tiếng gào thét trong
địa cung mỗi lúc một đinh tai nhức óc, hàng chục mũi thuỷ tiễn màu đen mang
theo mùi tanh nồng nặc từ trong cửa động bắn ra, găm lên khiên cỏ, xèo xèo bốc
lên một làn khói trắng. Quả nhiên phía sau cánh cửa có bố trí bẫy bảo vệ huyệt
môn, hễ mở cửa mộ ra sẽ lập tức chạm phải “thuỷ long”. Bên trong hệ thống giống
như súng nước này chưa đầy độc dược và axit, không cẩn thận dính phải nửa giọt
cũng đủ khiến người ngợm lở loét xương cốt tan chảy, vô phương cứu chữa.
Lão Trần đã thăm dò
biết trước bên trong thiên động tiên cung trên núi Bình Sơn từ xưa đã bố trí
nhiều cơ quan mai phục phòng ngừa những kẻ trộm thuốc, về sau bị người Nguyên
cải tạo thành âm trạch, các cơ quan này nhất định sẽ được lợi dụng triệt để,
nên đã có phòng bị từ trước. Những bó rơm chất kín chắn trước đám trộm đều đã
được ngâm dẫm nước, bên trong lại xếp mấy lớp da thuộc, giữa mỗi lớp da có trát
bùn đất, gặp lửa không bén, gặp axit không mòn, thứ dịch độc đậm đặc kia tuy
đáng sợ nhưng không sao huỷ hoại được tấm khiên cỏ trông có vẻ đơn giản này.
Lấy tấm khiên cỏ tiêu
hao dịch độc của “thuỷ long”, lại đợi thêm khoảng một tuần trà , đến khi bên
trong huyệt môn tối đen không còn động tĩnh, cả đám mới chắc bẫy độc đã hoàn
toàn vô hiệu. La Lão Oai dùng mũi súng đẩy chiếc mũ nhà binh đang đội lệch trên
đầu, chửi um lên: “Con mẹ nó chứ, cái máy giết người này độc thật, nếu không có
Trần thủ lĩnh liệu sự như thần, há chẳng phải mấy anh em ta đã bị gọt đầu rồi
ư?” La Lão Oai vốn là tay cướp đường có số có má, hễ mở mồm thì toàn dùng tiếng
lóng giang hồ, “máy giết người” ở đây ám chỉ bẫy rập chống trộm, còn “gọt đầu”
có nghĩa là mất mạng. Hùng hổ chửi bới vài câu, hắn nóng vội dẫn đầu đám thuộc
hạ tiến vào địa cung.
Lão Trần thân là thủ
lĩnh, đương nhiên không dám có chút sơ suất, vội vàng ngăn La Lão Oai lại, tình
hình phía sau cửa mộ thế nào còn chưa biết, trong núi Bình Sơn e rằng không chỉ
có một cái bẫy này, cả đội quân ngần này người không thể liều mạng manh động,
lúc này cần cử vài lính cảm tử vào trong dò đường trước đã.
Trong đám trộm Xả Lĩnh
quả nhiên có năm sáu kẻ không sợ chết, lập tức bước ra khỏi hàng, tới trước mặt
lão Trần hành lễ, tay cầm khiên cỏ, vai đeo lồng câu bánh thuốc, nối đuôi nhau
bước qua cửa mộ, số còn lại đều đứng chờ bên ngoài. Suốt dọc mộ đạo dài dằng
dặc, chỉ nghe những tiếng thở nặng nề, cùng tiếng bồ câu trong lồng gù gù, vỗ
cánh.
Không lâu sau, năm tên
trộm quay trở lại báo tin. Thì ra phía sau cánh cửa này là một thành trì xây
trong lòng núi, tứ phía đều là tường thành, địch lâu, bên trong có những tượng
người tượng thú bằng đá trông rất cổ quái hung dữ, vài cỗ quan tài gỗ sơn lớn,
cùng một cỗ quách đá được đặt giữa thành, xung quanh ngổn ngang xương người
trắng hếu. Nhìn qua không thấy có hệ thống bẫy rập gì, trong thành dường như
còn có cả khe thông gió, nên tuy âm khí nặng nề nhưng cũng không trở ngại gì
đối với người sống.
La Lão Oai nghe thấy
hai từ “quan quách” thì mừng húm quên cả giận: “Có tiền mua tiên cũng được,
không tiền như chó cụt đuôi. Lần này anh em ta phát tài to rồi! Đã không có bẫy
rập thì còn đợi gì nữa? Đợi xác trong quan tài bị quỷ nhập tràng hay sao?” Nói
đoạn, hắn cười nhạt mấy tiếng, dẫn lính tiến vào trong.
Lão Trần lại nhìn xa
hơn, sợ rằng tất cả tiến vào nhỡ may xảy ra bất trắc thì toàn quân không còn
một mống, trong mộ đạo lúc này có hơn hai trăm người, lão cắt cử một nửa ở lại
tiếp ứng, số còn lại trực tiếp vào trong đổ đấu, bản thân lão cũng buộc phải
theo La Lão Oai vào bên trong. Sở dĩ làm vậy cũng là bởi vài nguyên nhân bất
đắc dĩ, phái Xả Lĩnh mấy đời gần đây chỉ còn danh hão, rất nhiều khí giới và
phương pháp đổ đấu từ lâu đều đã thất truyền, cho đến thời Dân quốc mới xuất
hiện một nhân vật xuất chúng là lão Trần đây, lão học rộng biết nhiều, tư chất hơn
người, dần thu thập lại được những phương pháp trộm mộ đã thất truyền của phái
Xả Lĩnh, từng bước chỉnh lý cải tiến, chỉ huy đám trộm cướp đào được không ít
cổ mộ. Người phái Xả Lĩnh tuy đông, nhưng kẻ thực sự hiểu thuật trộm mộ chỉ đếm
trên đầu ngón tay, hầu như đều cần thủ lĩnh chân chính xuất mã, lâm trận chỉ
huy, bởi trong cả đám không ai có được bản lĩnh như lão.
Lão Trần dẫn theo sáu
mươi tên trộm Xả Lĩnh, La Lão Oai đem theo ba bốn chục lính công binh cùng thân
tín trong đội tiểu liên, cả thảy hơn trăm nhân mạng vác thang rết tiến vào địa
cung mộ cổ. Vừa bước qua cánh cửa mộ như cổng thành, địa thế bên trong bỗng
rộng rãi hẳn ra, đám trộm dựa theo trận đồ cổ xưa của phái Xả Lĩnh, xếp thành
phương trận, vây quanh hai vị thủ lĩnh Trần, La, dùng thang rết chắn thành một
dải khiên phòng ngự, từ từ di chuyển vào bên trong địa cung.
Đám trộm dùng sào dài
treo đèn bão giơ lên cao soi tứ phía, quả đúng như tin thăm dò được báo lại,
toà địa cung trong núi Bình Sơn này bốn bề tường thành kiên cố, trên mặt thành
còn có địch lâu, rõ ràng không giống đạo cung động thiên, mà như thành trì đóng
quân trong hang núi. Ba mặt thành đều có cửa lớn nhưng đã bịt kín, bên trong
trống rỗng, không có cung điện, phòng ốc gì cả, quy mô nhỏ hơn một toà thành
thực sự rất nhiều, song để xây dựng được công trình như thế trong lòng một ngọn
núi lớn cũng không phải việc dễ dàng.
Mặt dất nơi đám trộm
đặt chân rải đầy xương trắng, đa phần những bộ xương này đầu đã lìa khỏi cổ,
nhìn vào đống khoen đồng xích sắt trên các bộ xương thì biết ngay đây là xương
cốt của người Miêu bảy mươi hai động. Đám trộm Xả Lĩnh quanh năm trộm mộ, thấy
cảnh tượng này cũng chẳng lấy gì làm lạ, đoán hẳn những tù binh này bị ép làm
lao dịch, tu sửa đạo cung thành âm điện, sau đó một bộ phận bị giết luôn tại đây.
Quân Nguyên bản tính tàn nhẫn như lang sói, e rằng trong núi Bình Sơn còn đầy
rẫy những cảnh tượng thế này.
Lẫn trong đống xương
trắng tầng tầng lớp lớp là những tượng đồng và tượng đá được cung tiến trong
các đạo quán, bày xếp lộn xộn, tượng Kim Giáp thần ác trừng mắt giận dữ, nhìn
chằm chằm xuống đống xương la liệt dưới đất và những kẻ trộm mộ mới bước vào,
khiến tên đại quân phiệt giết người như La Lão oai cũng thấy bụng dạ nôn nao.
Nhưng La Lão Oai cũng giống như lão Trần, đều là những kẻ ngông cuồng từ trong
trứng nước, dã tâm ngùn ngụt, chỉ mong làm một mẻ vét sạch thiên hạ, nên tuy
trong bụng kinh hãi nhưng ngoài mặt vẫn ra vẻ tỉnh bơ.
Đám trộm kết thành thế
trận “tứ môn vây đáy”, thận trọng tiến vào trong thành. Nơi đây đặt chín cỗ
quan tài gỗ sơn, nằm im lìm, nắp đóng kín mít, mặt ngoài sơn son thếp vàng, bên
trên còn nạm khảm rất nhiều ngọc bích, nhìn qua đã biết là quan quách của những
kẻ quyền quý xoa hoa, không đến lượt đám phàm phu tục tử. Trái lại, cỗ quách đá
ở giữa trông giản dị vô cùng, nặng nề thô kệch, không hề được trang trí hoa
văn, song chỉ nhìn chín cỗ áo quan gỗ sơn vây quanh nó như quần tinh ứng nguyệt
cũng đủ nói lên mức độ tôn quý của cỗ quách này.
Lão Trần đảo mắt một
lượt, thấy thường thành bốn phía tối đen như mực, trùng môn bịt kín. Nơi đây
không thấy có trùng độc, lại thêm xương cốt Động dân rải khắp mọi nơi, nhìn từ
quy mô, phương vị và đặc điểm của toà thành này, có thể suy đoán đây là tiền
điện, song không biết chính điện và phối điện còn cách đây bao xa. Địa cung này
lớn đến kinh ngạc, chẳng biết nằm trong mấy cỗ áo quan này là những nhân vật
nào, nhưng chắc chưa phải nhân vật chính. Mặt ngoài những cỗ áo quan đều vẽ
hình linh chi, hạc tiên, hươu sao và mây quấn rừng tùng, hoàn toàn không phải
tập tục an táng của người Nguyên, rất có thể đây là những cỗ áo quan cất giữ
“di xác” của những cao nhân đắc đạo trong đạo cung động thiên trước đây.
Thi thể của người đắc
đạo sau khi chết được gọi là “di xác”, có điều thịnh liệm bên trong những cỗ áo
quan kia rốt cuộc là tướng nhà Nguyên hay đạo sĩ thì lão Trần không dám chắc
được, lại thêm quan quách sắp xếp thế này lão mới gặp lần đầu, lẽ nào là một
loại bùa trận gì đó? Lão Trần nghi nghi hoặc hoặc, nhìn thế nào vẫn thấy cổ
quái khác thường, tròng mắt cứ dán chặt vào mấy cỗ áo quan, không biết có nên
động thủ “thăng quan phát tài” hay không.
La Lão Oai tuy trong
tay nắm mấy vạn phiến quân, nhưng xuất thân lục lâm, kết nghĩa huynh đệ với lão
Trần, nên dù là đại thống soái thì địa vị vẫn thấp hơn lão Trần một bậc. Trên
giang hồ coi trọng nhất lai lịch địa vị, quân đội của hắn dù người đông súng
lắm đến đâu chăng nữa, thế lực cũng chỉ đủ tung hoành nơi xó xỉnh này, ra khỏi
hang ổ là thiên hạ của người khác ngay. Khác với lão Trần là đại thủ lĩnh giới
lục lâm, những tay trộm cướp có số có má đều là thuộc hạ của lão, những vụ buôn
lậu trong giới hắc đạo mười thì có đến bảy tám là của nhà họ Trần. Không được
Trần thủ lĩnh ủng hộ, La Lão Oai chỉ dựa vào thủ đoạn tàn ác sao có thể trở
thành nguyên soái phiến quân, vì thế Trần thủ lĩnh nói câu nào hắn đều nghe răm
rắp, nhìn bề ngoài hai người họ có vẻ bằng vai phải lứa, nhưng trên thực tế nếu
lão Trần nói than đá màu trắng, hắn tuyệt không dám nói màu đen, thứ bậc trong
gian hồ là vậy, vô cùng nghiêm ngặt, không phải chuyện đùa.
Có điều La Lão Oai thấy
mấy cỗ áo quan xa hoa tinh xảo là vậy, bên trong chưa biết chừng lại có minh
khí vàng bạc châu báu, thì trong bụng bứt rứt không yên, quả thực không kiềm
chế nổi, chẳng đợi thủ lĩnh phái Xả Lĩnh hạ lệnh, đã vội lệnh cho đội công binh
dưới trướng mình tiến lên phía trước, tiến hành cạy nắp áo quan.
Lão Trần lúc đó vẫn
đang dán mắt lên địch lâu tối như hũ nút trên tường thành, địch lâu đó là một
dạng lầu gạch có khe nhòm ra ngoài, xây trên tường thành có thể làm lầu bắn
tên, cũng có thể là lầu quan sát địch. Lão càng nhìn càng thấy khác thường,
trực giác nhạy bén mách bảo bên trong toà thành này có gì đó vô cùng nguy hiểm.
Không gian bên trong mộ cổ thường im lặng chết chóc, nhưng vẻ tĩnh mịch trên
địch lầu kia lại khiến người ta cảm thấy bất an, sự khác lạ rất nhỏ này chỉ một
mình lão Trần cảm nhận được, cũng giống như chỉ giống cáo già dạn dày kinh
nghiệm mới phát hiện ra cạm bẫy của người thợ săn vậy. Nhưng đứng giữa vòng
người, lẫn trong hàng chục hơi thở tạp loạn, lão nhất thời không phân biệt được
mùi vị khác lạ ẩn giấu bên trong địch lâu, cứ đứng ngây ra, không để ý La Lão
Oai đã cho người đi cạy nắp áo quan.
Đám trộm thấy thủ lĩnh
không nói năng gì, cũng không ai dám cản La Lão Oai. Lính công binh đều mang
theo rìu to xẻng lớn, muốn bật nắp những cỗ áo quan này chẳng có gì khó khăn,
hơn chục người nhanh chóng theo La Lão Oai bước ra khỏi phương trận, người nhổ
đinh bật quách, kẻ vung rìu nện áo quan, tiếng rầm rầm vang vọng trong địa cung
tĩnh mịch, nghe mà đinh tai nhức óc.
Lão Trần đang vẫy tay gọi
hai tên thuộc hạ tới, định bảo họ bắc thang rết trèo lên thành kiểm tra, nghe
thấy tiếng bật quan thì sững lại, vội hét to: “Dừng tay! Không được động vào áo
quan!” Nhưng đã muộn, tốp công binh nọ cũng đã nhận đống quan sơn quách đá này
không bình thường, mộ sàng bên trong áo quan đều trống rỗng, không rõ lỡ chạm
phải chốt lẫy nào mà bỗng nghe bên ngoài lối vào có tiếng “ầm ầm” vang dội, cửa
đập ngàn cân giấu trong tường thành hạ xuống, chặn đứng đường lui của đám trộm.
La Lão Oai vẫn chưa
hiểu chuyện gì đang xảy ra, vội quay sang hỏi lão Trần. Lão Trần nghe tiếng cửa
đập ngàn cân rơi xuống thì như chết từng khúc ruột, nghiến răng nghiến lợi nói:
“Chỗ này không phải địa cung cổ mộ mà là cạm bẫy thành luỹ trong mộ đạo, là mưu
kế của người xưa!” Lời chưa nói hết đã nghe tiếng nước chảy trên địch lâu, cung
nỏ dày đặc bốn bề trên tường thành rào rào chĩa ra.
Chương 18 : Nỏ Thần Tí Sàng Tử
Lão Trần trước đây dẫn
quân đi đổ đấu, chưa bao giờ ra về tay không, nên luôn tự tin về bí thuật
“vọng, văn, vấn, thiết” của mình, nhưng lạ ở đời kẻ giỏi bơi lại hay chết đuối,
bỏ mạng dưới nước xưa nay đều là những người biết bơi. Lão vận dụng quyết “văn”
nghe thấy dưới lòng đất có mấy nơi rộng ngang tòa thành lớn, chắc mẩm rằng đào
thông mộ đạo, huyệt môn, chắn được dịch độc cửa vào địa cung là có thể đánh
thẳng vào “hoàng long”, nào ngờ chủ quan khinh suất, sa chân chốn “tuyệt lộ”
chỉ có vào mà không có ra.
Lúc này không còn thời
gian đâu suy xét xem có phải vì nhóm công binh bật nắp áo quan nên đã lỡ khởi
động các cơ quan bẫy rập trong thành hay không, cái đập ngàn cân rơi rầm xuống
đã chặn đứng lối ra, chỉ nghe trên địch lâu có tiếng nước chảy róc rách, bốn bề
tường thành đen kịt rào rào cung căng nỏ kéo, sự việc xảy ra quá bất ngờ khiến
thần kinh đám trộm căng lên như dây đàn.
Lão Trần biết cung tiễn
mai phục trong thành đã được phát động, chỉ vài giây nữa thôi, hàng vạn mũi tên
sẽ bắn ra. Lão sở dĩ có thể chỉ huy đám tặc tử trong thiên hạ, đương nhiên là
nhờ có điểm hơn người, càng đối mặt với hiểm cảnh lão lại càng trấn tĩnh. Lão
biết lúc này chỉ cần dao động bỏ chạy, cả bọn sẽ chết sạch không còn một mống,
nên điều cần làm bây giờ là cố thủ chờ đợi tìm lối thoát, may ra còn giữ được
sinh cơ. Nghĩ vậy, lão chẳng hơi đâu giải thích cặn kẽ với La Lão Oai, vội hò
hét mọi người giữ nguyên thế trận, dùng khiên cỏ chắn tên.
Đám trm cùng thét to
một tiếng, nhất loạt dựng khiên cỏ bốn phía, kẻ ở giữa thì giơ khiên che đầu.
Khói độc và hỏa phục bên trong mộ cổ vốn không hiếm thấy, cho nên dụng cụ đổ
đấu của phái Xả Lĩnh dù là thang hay khiên đều được ngâm trong nước thuốc, có
thể chống nước chống lửa, trận thế lúc này được co lại, che kín đến gió cũng
không lọt qua nổi.
Bấy giờ La Lão Oai đang
dẫn theo mấy tên lính công binh tách khỏi phương trận, nhìn thấy đám người lão
Trần dựng khiên cỏ che chắn như lô cốt, lại nghe tiếng lò xo trên tường thành
liền biết ngay chuyện chẳng lành, vội hò nhau chạy như bay về trong trận. Lão
Trần cũng chỉ huy đám trộm từ từ di chuyển về phía bọn La Lão Oai. Cùng lúc đó,
từ trên bốn mặt thành, tên rào rào bắn xuống như mưa.
Mưa tên ken dày, mấy
tên công binh chậm chân trúng tên ngã lăn ra đất, La Lão Oai từ đống xác chết
bò ra, thấy tình hình xấu lại chui trở vào, đem mấy tên thuộc hạ làm khiên
sống, cuối cùng cũng sấp ngửa chạy được về trận thế tứ môn vây đáy của đám trộm
Xả Lĩnh mà không mất nửa cọng lông.
Lão Trần được đám trộm
vây quanh bảo vệ, chỉ nghe thấy bốn bề tên bắn như mưa, đụng phải khiên cỏ, rơi
rụng lả tả. Cung tiễn tuy niên đại đã lâu song sức mạnh vẫn khủng khiếp. Lão
Trần thầm kêu khổ, nhưng nghĩ lại thì trận mưa tên này tuy lợi hại, song dùng
khiên che chắn tứ phía dù nước có tạt cũng không thể tràn vào, chỉ cần kéo dài
thêm ít lâu nữa, cơ quan trên thành rồi cũng đến lúc cạn tên, nếu không nhờ
phái Xả Lĩnh người đông thế mạnh, khí giới tinh nhuệ, e rằng khó thoát khỏi cửa
tử này.
Ý nghĩ hoan hỉ vừa lóe
lên trong đầu, lão đã cảm thấy hỏa khí hừng hực thiêu đốt, thì ra những mũi tên
này đều có chứa hỏa lân, vừa gặp gió lập tức bắt cháy, đống xương trắng hẩm hiu
trong thành cũng được tưới nhiều dầu hỏa mỡ cá nên bắt lửa dữ dội, ngọn lửa
ngùn ngụt bốc lên hệt như thiêu thành. Đám trộm bị vây trong biển lửa trở nên
cuống quýt hỗn loạn, lão Trần vội lệnh cho những anh em đứng ở vòng ngoài lo
việc giữ khiên chắn tên, còn những người ở phía trong thò thang rết ra gảy đống
xương trắng xa khỏi trận đồ, tránh bức tường lửa sáp gần. Trong khoảnh khắc hỗn
loạn đó, khiên trận đã lộ ra sơ hở, lập tức có mấy kẻ trúng tên bị thương, mũi
tên hình móc cắm vào da thịt rồi không cách nào rút ra được, khiến họ đau đớn
cứ rống lên như lợn bị chọc tiết.
Tuy đẩy được đống hài
cốt ra xa nhưng dưới chân họ vẫn có lửa cháy, thì ra họ đang đứng trên những
viên gạch dầu dễ cháy, cũng may dầu hỏa trong gạch đã bốc hơi kha khá, nhiệt
lượng tỏa ra không quá mạnh, cháy như vậy chỉ đủ làm nền đất đen thui mà thôi.
Lão Trần tức tối chửi um lên: “Bọn người Nguyên độc ác, muốn diệt cỏ tận gốc
đây mà!”. Ngọn lửa mỗi lúc một thêm dữ dội khiến cả đám người không thể thở
nổi, họng như sắp sửa bốc khói, lúc này chỉ cần một tên trong bọn nhát gan dao
động tinh thần, thế trận sẽ lập tức vỡ ngay, khi ấy bao nhiêu kẻ vào thành là
bấy nhiêu kẻ mất mạng, đừng ai mong thoát thân, không chết vì lửa thiêu thì
cũng chết vì trúng tên. Trước mắt có cố thủ thêm được lúc nữa hay không chính
là then chốt giữa sinh tử tồn vong, nghĩ vậy lão Trần không dám sơ suất, vội
vàng quát to: “Anh em nghe hiệu lệnh của tôi, dựng hết thang lên!”
Đám trộm đang bị lửa
hun như kiến bò chảo nóng, đúng lúc sắp tan tác thì nhận được lệnh của thủ
lĩnh, mừng như rồng có đầu, vội chống thang tre lên, dựng một tháp tre giản đơn
phía trên cỗ quan tài đá, là nơi lửa cháy yếu nhất. Trận thế được thu tròn,
người nào người nấy giơ cao khiên cỏ che mưa tên, trèo nhanh lên thang, đến khi
rời khỏi mặt đất đang cháy phừng phừng kia mới dần ổn định lại, có điều trong
đợt di chuyển vừa rồi, cũng có thêm vài kẻ bỏ mạng.
Lúc này trận mưa tiễn
lại tập trung cả về khu vực đang đặt những cỗ áo quan, tên bắn tới tấp vào
những nơi thế lửa yếu nhất, cũng may góc bắn tên cố định, nên chỉ cần nắm rõ
quy luật là có thể chống đỡ. Thang rết được dựng lên thành tháp tre, bốn bề lửa
cháy ngùn ngụt, đám trộm như bị cô lập trên một hòn đảo hoang giữa biển lửa
mênh mông. Lão Trần nhờ vào ánh lửa, dõi mắt nhìn lên địch lâu, không nhìn thì
thôi, vừa nhìn mặt lão đã tái nhợt như chết.
Chỉ thấy trên mặt thành
lắp đầy cung nỏ, phía sau là vô số người gỗ, cao lớn như người thật, cấu tạo vô
cùng đơn giản, áo bào khôi giáp mặc trên mình đều đã rách nát, phần đầu giống
hệt khúc gỗ được dùng sơn vẽ mặt mũi, mắt trợn môi mím, vẻ mặt cung kính, chia
làm hai đội, liên tục lặp lại động tác tra tên vào nỏ, kéo cung bắn tên. Giữa
địch lâu có giếng thủy ngân vận hành hệ thống, thủy ngân trong giếng một khi
bắt đầu chảy thì sẽ tuần hoàn chảy mãi không thôi, cho đến khi không còn cung
tên hoặc cả hệ thống bắn tên này bị đánh sập.
Lúc trước lão Trần
loáng thoáng ngửi thấy trên địch lâu có mùi gì đó khác thường, thì ra nguyên
nhân chính là từ cái giếng thủy ngân này, đáng tiếc còn chưa kịp phân biệt kỹ
càng đã chạm phải cơ quan mai phục. Trong thuật tu tiên luyện đơn Hoàng Lão,
thủy ngân là thứ không thể thiếu, xưa kia các vị Hoàng đế chọn Bình Sơn làm nơi
luyện đơn mưu cầu tiên dược, chủ yếu cũng vì Thần Châu là đất sản sinh ra nhiều
chu sa, chu sa của Thần Châu có thể luyện được ra loại thủy ngân thượng đẳng.
Tuy vậy, đây cũng là nơi người Động Di sinh sống phức tạp, từ xưa tới nay xảy
ra nhiều binh biến, các vị Hoàng đế lo sợ tiên đơn sau khi luyện thành sẽ bị
loạn dân cướp mất nên bí mật đóng quân trấn thủ, thời gian lâu dần bèn dựng
luôn một quan ải trong lòng núi.
Nhà Tống trọng văn
khinh võ, Chỉ huy sứ toàn những kẻ bất tài chỉ biết đàm binh trên giấy, không
hiểu gì về quân sự, chỉ mong hoàn thành nhiệm vụ triều đình giao phó chứ hơi
đâu để ý đến chốn quan ải này có phát huy tác dụng quân sự gì hay không. Hồi đó
Tống Huy Tông tự xưng là Đại tiên chân không giáng thế, bình sinh thích nhất là
phương kỹ dị thuật, Ngự Tiền có Đa Bảo đạo nhân rất được sủng ái, tự xưng sở
trường dùng lò xo chốt lẫy, bắt chước xe trâu gỗ của Gia Cát Võ Hầu, phát minh ra
nhiều loại cơ quan khí giới, được Hoàng đế áp dụng trong quân sự.
Tầng lớp quý tộc thời
Nguyên kỵ nhất bị kẻ khác đổ đấu, mộ chủ và kẻ trộm mộ không đội trời chung,
cuộc giao tranh khốc liệt giữa người sống và người chết bảo là quyết đấu cũng
không quá, bởi ai lọt vào tay ai cũng đều chỉ có một kết cục tàn khốc. Thi thể
mộ chủ nếu rơi vào tay đám Xả Lĩnh tất sẽ bị vạch răng móc đơn, xẻ thân lấy
ngọc, rạch da lấy vòng, moi ruột tìm châu, phải chịu đủ mọi cực hình đau đớn.
Ngược lại các cơ quan chống trộm chủ mộ sắp đặt cũng không kém phần độc ác thâm
hiểm, nào là hỏa phục thiêu đốt, đá lớn nghiền thây, cát chảy chôn sống, kịch
độc thối rữa... ra tay không chút dung tình.
Thời kỳ đó thịnh hành
hư mộ di táng, cho nên truyền thuyết về đất dời thây lưu truyền rộng rãi đời
Nguyên thực chất đều chỉ là gò đất giả đánh lừa tai mắt bọn trộm, cốt để thật
giả đảo điên, quan quách minh khí được cất đặt chu đáo, sau khi phá nắp áo
quan, bọn trộm sẽ cho rằng mộ chủ đã hóa thành tiên bay lên trời, không buồn
truy tìm mộ thất thực sự nữa.
Mộ đạo trong núi Bình
Sơn dẫn thẳng tới tòa thành cạm bẫy này. Nếu dựa vào sức trâu sức ngựa mà đào
được tới đây, đám trộm mộ ắt phải gồm cả đại đội. Đem tòa thành bảo vệ tiền
cung tạo thành mộ giả, ngăn cách với thông đạo dẫn đến mộ thất thật, lại lợi
dụng cải tạo những cơ quan cạm bẫy sẵn có, dựng nên một đội quân ma hộ lăng,
hòng giăng một mẻ lưới tóm gọn những kẻ to gan dám vào đổ đấu, đây quả thật là
một cái bẫy mộ giả chết người.
Lão Trần chẳng phải
người giỏi trò bấm độn, lại thêm mớ kinh nghiệm của lão đều trở nên vô tác dụng
giữa chốn huyệt mộ cải tạo từ tiên cung đạo quán Bình Sơn này, có nghĩ nát cả
óc cũng chẳng ngờ sự việc lại thành ra như vậy. Bấy giờ lão mới như sực tỉnh,
không khỏi lạnh toát sống lưng, số người gỗ bắn tên kia tuy chỉ là vật vô tri
vô giác nhưng đều có thể cử động như người sống, tên trên nỏ vừa hết lập tức có
người gỗ lắp thêm, cũng không rõ rốt cuộc trong thành này chứa bao nhiêu mũi
tên, bắn đến khi nào mới hết. Lửa càng lúc càng lan rộng, nếu bị cầm chân trên
cái tháp tre này quá lâu, e rằng mọi người sẽ không thể chịu nổi hơi nóng hầm
hập đang ngùn ngụt bốc lên.
Cái bẫy mưa tên biển
lửa này nếu trong chiến trận công thủ thực sự thì chẳng thấm tháp gì, nhưng đám
trộm Xả Lĩnh vào đây là để trộm mộ chứ chẳng phải công thành cướp đất, lại thêm
không lường trước được sự việc nên vừa bước vào đã thất thế, khó tránh rơi vào
thế hạ phong, hơn một trăm con người chỉ còn biết xúm quanh cái tháp tre, khốn
khổ chống chọi.
Lúc này La Lão Oai cũng
đã hoàn hồn, nhìn khắp bốn mặt thành đều là người gỗ trừng mắt giận dữ, hắn nào
biết gì về nguyên lý lò xo, cứ ngỡ đó là âm binh giữ lăng kéo tới tấn công
thật. Mồ hôi vã ra trên trán, nhưng bản tính thổ phỉ hung hăng lại bộc phát,
hắn đâu màng đám âm bình kia nhiều ít thế nào, dù lần này có lọt vào điện Diêm
La thật cũng phải chó cùng rứt giậu một phen. Nghĩ vậy hắn bèn ra lệnh cho
thuộc hạ nổ súng bắn tới tấp lên đầu thành, bản thân cũng hai tay hai súng,
tiếng súng nhất loạt nổ vang, đạn bay vèo vèo.
Những người gỗ trên mặt
thành tuy cấu tạo vô cùng đơn giản nhưng được làm bằng loại gỗ tốt lạ kỳ, không
bị mục nát, cũng không dễ bị phá hủy, dù trúng đạn vẫn chẳng hề hấn gì. Hơn nữa
cục diện đang hỗn loạn thế này, đám La Lão Oai nổ súng giữa rừng đạn mưa tên,
cũng khó đoán được có trúng mục tiêu hay không. La Lão Oai mắt đỏ ngầu, thoáng
cái đã nã hết số đạn trong hai khẩu côn xoay, lại nghiến răng nghiến lợi nạp
đạn, trong lúc hăng máu, chiếc mũ nhà binh trên đầu hắn trúng tên rơi xuống
đất, làm hắn giật thót vội rụt đầu rụt cổ, lôi tổ tông tám đời lũ âm binh ra mà
chửi không tiếc lời.
Lão Trần túm lấy hắn
nhắc nhở không được lỗ mãng, đoạn ngẩng đầu nhìn lên địch lâu tính toán, phải
hủy được hệ thống thủy ngân trong địch lâu kia, dừng trận mưa tên đang bắn ra
xối xả, như vậy mới có cơ hội thoát thân. Nhưng trèo lên mặt thành dưới làn mưa
tên dày đặc đâu phải chuyện dễ, cho dù tránh được lớp lớp tên bắn dày như vãi
trấu thì vẫn còn biển lửa ngùn ngụt khắp nơi, ai có bản lĩnh bay qua đây?
Lão lại nhìn xuống đống
thang rết dưới chân, trong bụng đã sắp sẵn kế hoạch, định lấy hết dũng khí liều
chết một phen thì bị gã câm ngăn lại. Hóa ra gã câm Côn Luân Ma Lặc này tuy
không nói được gì nhưng cái gì cũng biết, lại theo lão Trần đã nhiều năm, chỉ
cần nhìn thần thái của thủ lĩnh là đoán ra tâm ý, vội vàng dùng tay ra hiệu,
muốn thay lão Trần nhảy vào dầu sôi lửa bỏng, trèo lên thành phá hủy hệ thống
thủy ngân trong địch lâu kia. Gã vỗ vỗ vào ngực, trợn mắt thè lưỡi làm động tác
cắt cổ, ý nói: Tính mạng của tôi là của thủ lĩnh, chết cũng không từ nan!
Lão Trần biết Côn Luân
Ma Lặc là người sơn cước, thân thủ nhanh nhẹn phi phàm, hơn hẳn người thường,
nếu để gã đi chưa biết chừng có cơ hội thành công, gã có thể chống thang rết
tung người nhảy qua biển lửa, chỉ cần tới được chân thành là sẽ an toàn bởi đó
là góc chết tên không bắn tới. Lúc này sức nóng thiêu đốt dưới chân đã khó mà
chống đỡ, tình hình nguy ngập lắm rồi, lão Trần vội gật đầu, lệnh cho gã câm
liều chết nhảy lên thành.
Nhưng gã câm chưa kịp
hành động đã nghe một trận tên bay veo véo từ bốn phía trên thành, tiếng người
gỗ bắn tên tuy mau, nhưng không thể nào dữ dội như vậy, đám trộm phục trên tháp
tre nghe thấy âm thanh này đều nổi cả da gà, không biết chuyện quái gì đang xảy
ra.
Bỗng có tiếng dây cung
vang lên đánh “phựt”, rồi tiếng xé gió rít lên sắc lẹm, ai nấy ngẩng đầu nhìn
lên đều sợ ngây người, một mũi tên to bằng cả cánh tay người đang lao về phía
họ như sao băng, khí thếa sấm sét, cuốn theo cả một trận cuồng phong. Mũi tên
được bắn ra từ một chiếc nỏ khổng lồ đặt trên mặt thành, nhằm thẳng vào chiếc
tháp tre đang tập trung đám trộm.
Trong đám trộm có kẻ
hiểu biết nhiều, nhận ra đây chính là nỏ Thần Tí Sàng Tử vẫn được dùng trong
chiến trận thời xưa, tên bắn ra từ loại nỏ này có thể xuyên qua cả đất nện.
Nhưng lúc này giữa cảnh mưa tên biển lửa, cả đám biết tránh đi đâu, hơn nữa nỏ
Sàng Tử sức mạnh phi thường, tốc độ lại quá nhanh, có nhìn thấy cũng không
tránh kịp. Mũi tên khổng lồ chớp mắt đã áp đến, một tên trộm đứng ngay đầu làn
tên, thấy thanh thế ấy chẳng kịp kêu một tiếng, chỉ biết cố lấy khiên cỏ chống
đỡ.
Khiên cỏ dùng để đỡ tên
bình thường còn được, chứ với tên bắn ra từ nỏ Sàng Tử thì chẳng khác nào bọ
ngựa chống xe. Đầu mũi tên ba cạnh lập tức đâm thủng chiếc khiên, xuyên qua
người tên trộm cầm khiên, xuyên tiếp qua hai tên công binh đứng sau hắn rồi mới
cắm phập xuống đất, trông hệt như một xâu thịt bầy nhầy. Tháp tre giờ đã toang
hoang thành một con ngõ máu, mưa tên bắn vào, liên tiếp có người trúng tên ngã
xuống biển lửa, gã câm cũng trúng mấy mũi tên.
Những người còn lại đều
sợ đến đờ đẫn cả người, máu bắn ra từ xâu thịt người dính đầy trên mặt La Lão
Oai. Đám người còn chưa kịp ẩn nấp, một trận mưa tên lại liên tiếp giội xuống,
mấy cỗ nỏ Sàng Tử từ những góc khác nhau bắn ra những mũi tên khổng lồ. La Lão
Oai mặt còn dính máu người nóng hổi, vừa đưa tay lên quệt chợt thấy trước mắt
lóe lên một ánh hàn tinh, chưa kịp nhìn kỹ, một mũi tên khổng lồ đã xé gió lao
tới trước mặt.
Chương 19 : Cạm Bẫy Liên Hoàn Vô Hạn Vĩnh Cửu
Nỏ Sàng Tử là loại vũ
khí lợi hại thường được sử dụng trong chiến tranh thời xưa, hình dáng giống như
một chiếc giường gỗ, có ba sợi dây cung ở trước, giữa và sau, phía sau nỏ sàng
gắn hai trục kéo dây cung, loại nỏ này có sức mạnh khủng khiếp, chuyên dùng để
bắn hạ những kẻ bọc mình trong khôi giáp nấp sau hàng rào phòng thủ, trận
khiên, tường đất. Vào thời Bắc Tống, binh tướng nước Kim rất sợ loại nỏ lấy
cứng chọi cứng này nên gọi nó là “nỏ thần”, những kẻ bỏ mạng vì nỏ thần nhiều
không kể xiết. Hai trục quay của nỏ Thần Tí Sàng Tử chuyển động rất chậm, nên
tên bắn ra cũng muộn hơn các loại nỏ thông thường một quãng. Nhưng lúc này trên
bốn mặt thành có khoảng hơn mười cỗ nỏ thần như vậy, lần lượt được hệ thống dẫn
nước phát động, liên tiếp bắn ra những mũi tên khổng lồ xé gió lao tới, trong
chốc lát đã phá tan thế trận của đám trộm Xả Lĩnh.
Lão Trần thấy một cỗ nỏ
thần đang hướng thẳng vào La Lão Oai, trong khi mặt mũi hắn đang bê bết máu
không sao trông rõ được tình hình trước mắt, chẳng may bị bắn trúng ắt sẽ một
phát xuyên tim. La Lão Oai là thủ lĩnh phiến quân do chính tay Lão Trần nâng
đỡ, lão đương nhiên không muốn hắn bỏ mạng nơi này, trong cơn nguy cấp, lão
Trần đành giơ chân đạp cho La Lão Oai một cú thật mạnh, khiến hắn từ trên tháp
tre rơi lộn nhào xuống đất.
Cú đá tuy cứu được tính
mạng La Lão Oai trong cảnh ngàn cân treo sợi tóc, nhưng nỏ thần kia tốc độ quá
nhanh, kình phong kéo tới, sượt qua bả vai La Lão Oai, tước mất của hắn một
miếng thịt, máu tươi tuôn xối xả.
La Lão Oai vừa đau vừa
sợ, lộn khỏi tháp tre, đập trúng vào người một tên công binh, may không rơi
ngay xuống biển lửa phừng phừng bên dưới. Trên thành, mưa tên vẫn bắn ti tấp
không ngừng, một mũi tên găm trúng mắt trái La Lão Oai, khiến hắn rống lên đau
đớn. Nhưng không hổ danh thủ lĩnh phiến quân xưng hùng xưng bá một vùng Tam
Tương Tứ Thủy, hắn tự tay nắm lấy mũi tên nhổ mạnh, lôi theo cả tròng mắt máu
me đầm đìa, lăn vào đống xác người dưới đất, trong cảnh hỗn loạn chẳng ai kịp
thấy liệu hắn có còn giữ được mạng hay không.
Lúc này thế trận của
đội quân Xả Lĩnh đã hoàn toàn tan vỡ, người nào người nấy chỉ lo giữ mạng, ra
sức giãy giụa trong mưa tên biển lửa, che được phía trước lại hở phía sau,
thoắt chốc đã có mấy chục kẻ trúng phải loạn tên lăn xuống biển lửa, những kẻ
may mắn bị thương chưa chết vội dùng xác người chết làm khiên đỡ tên. Lão Trần
ra sức kêu gào đám tàn quân tụm lại, nhặt khiên cỏ của đám người đã bỏ mạng,
trèo lên tháp tre chống chọi với vô số làn tên đang lao tới từ bốn phương tám
hướng. tàn quân vừa ổn định được thế trận đã lại nghe trên thành lâu vang lên
tiếng lách cách vận hành cơ quan, người gỗ đang quay trục kéo, dây nỏ Thần Tí
Sàng Tử lại được phát động, chỉ cần một trận mưa tên khổng lồ nữa bắn ra, cái
tháp tre dựng từ thang rết này nhất định sẽ tan tành.
Lão Trần tay giơ khiên
cỏ che mình, bụng thầm than khổ, lão trước giờ dẫn quân đi đào mộ khắp nơi, tới
đâu củng ỷ người đông thế mạnh, khí giới và trận pháp tinh diệu, chưa từng gặp
phải trở ngại nào, không ngờ đến mộ cổ Bình Sơn này lại gặp trùng trùng khó khăn,
chẳng khác nào “cá chui vào rọ”. Hôm nay rơi vào cạm bẫy này, e rằng cả đội
quân trộm mộ sẽ vùi xác nơi đây. Lão Trần tuy là thủ lĩnh Thường Thẳng sơn lòng
gang dạ đá, nhưng đối mặt với tình cảnh này cũng không khỏi run rẩy.
Lão vốn định sai lão
câm trèo lên mặt thành phá hủy cỗ máy bắn tên, nhưng chân lão câm đã trúng phải
mấy phát tên trong trận mưa tiễn vừa rồi, dẫu cho Côn Luân Ma Lặc vai năm tấc
rộng thân mười thước cao, cô thể phi phàm có thể tay không leo thành song với
thương thế này thì dù có bản lĩnh thông thiên thật cũng chẳng thể thi triển nổi.
Đã biết đến nước đường
cùng, lão Trần biết giờ chỉ còn cách đích thân ra tay, liều chết một phen, nếu
lão Tổ sư gia linh thiêng phù hộ cho phái Xả Lĩnh không bị tuyệt chết tại nơi
này, may ra có đường thoát, còn do dự thêm nữa e rằng tia hy vọng cuối cùng này
cũng sẽ tiêu tan. Nghĩ là làm, lão lập tức nắm lậy một đầu thang rết, vươn tay
vỗ vai gã câm, Ma Lặc hiểu ý chủ nhân, bất chấp vết thương ở chân cùng xương
cốt đau rần, đan hai tay lại làm bàn đạp cho lão Trần giẫm lên, đoạn vận hết
công lực đẩy lão Trần bay vọt lên không.
Lão Trần chuyến này đã
quyết liều mạng, mượn lực đẩy của gã câm nhảy vọt lên, cắm chiếc thang rết
trong tay xuống biển lửa, lợi dụng đặc tính mềm dẻo giống gậy nhảy sào của người
La Mã cổ, phóng mình vạch một đường vòng cung giữa không trung, bay thẳng tới
tường thành dưới địch lâu. Mưa tên vẫn không ngớt, phóng rào rào về phía lão
Trần, cũng may mặt trong tấm áo khoác ngoài của lão có giấu một lớp áo giáp sợi
thép, lão chỉ lo dùng khiên cỏ che đầu, còn phần thân cứ mặc cho giáp trụ cản
tên bắn.
Phát Khưu, Mô Kim, Ban
Sơn và Xả Lĩnh là những phái trộm đã kế truyền suốt mấy ngàn năm, phường trộm
gà trộm chó trong nhân gian đâu thể so bì, đời nào cũng có những cao nhân bản
lĩnh, phép thuật đầy mình, lão Trần cũng là bậc kỳ tài có bản lĩnh cao cường,
nếu không đã chẳng thể làm thủ lĩnh của mười mấy vạn tên trộm Xả Lĩnh lừng danh
thiên hạ. Lần này dốc túi đánh canh bạc cuối cùng, lão đương nhiên vận dụng hết
tài thuật của bản thân, tuyệt kỹ “phiên cao đầu” của phi tặc thời xưa mang ra
phát huy triệt để. Lão nắm chặt một đầu thang rết, rướn người nhảy vọt qua biển
lửa dữ dội tới chân thành, nhưng chiều dài chiếc thang tre có hạn, thành ra lão
lại đáp ngay xuống biển lửa đang rừng rực dưới chân thành.
Đúng vào lúc lão Trần
sắp rơi vào biển lửa, lão câm đứng trên tháp tre đã nhanh tay ném một chiếc
thang rết về phía lão. Gã câm sức khỏe hơn người, chiếc thang phóng sau mà đến
trước, xé gió vun vút vượt qua đầu lão Trần, vừa khéo cắm xuống dựng ngay dưới
chân tường thành, giữa biển lửa.
Lão Trần đang lơ lửng
trên không, thấy thang tren từ trên trời rơi xuống như phao cứu sinh thì thầm
reo lên: “May quá!”. Nếu như không có gã kỳ nhân Ma Lặc ra tay tương trợ, cho
dù công phu “phiên cao đầu” có thể giúp lão bay qua biển lửa, đến được chân
thành cũng khó tránh bị thiêu sống. Lão nhanh tay vứt khiên cỏ, đáp xuống chiếc
thang rết trong hơi nóng hầm hập bốc lên. Có điều nơi gã đặt chân vẫn quá gần
với ngọn lửa, khiến áo quần nhanh chóng bắt lửa. Lão vội trèo lên mấy bậc, đứng
trên thang quay người lại cởi phăng chiếc áo khoác đã bén lửa, đúng lúc ấy mắt
lão bỗng tối sầm, hai hàm răng va vào nhau lập cập.
Thì ra lão câm Côn Luân
Ma Lặc để phóng thang tre cho lão đã phải nhảy khỏi tháp tre là nơi cố thủ của
đám trộm, rơi vào giữa biển lửa, bị tên găm tua tủa như một con nhím xù lông,
thân hình kềnh càng đổ ập xuống, biến thành một quả cầu lửa chỉ trong giây lát.
Lão Trần nhìn thấy cái
chết thảm của gã câm đã theo mình bao năm thì không khỏi chấn động tâm can,
suýt chút nữa cắm đầu rơi khỏi thang tre. Nhưng lão thân làm soái tài, đã quen
nhìn cảnh chết chóc tang thương, lại biết tính mạng của mọi người lúc này đều
trông cả vào mình, đành xốc lại tinh thần, tiếp tục trèo lên.
Bốn mặt thành nơi mộ cổ
đều hơi lõm vào trong như ủng thành, tường thành trơn trượt khác thường, chính
là để dành riêng đối phó với những tên trộm tay chân linh hoạt. Chiếc thang rết
gã câm ném sang trước khi chết bắc chếch lên tường thành nhưng chỉ tới được hai
phần ba độ cao bức tường, cho dù lão Trần có bản lĩnh cao cường đến mấy cũng
không thể từ đó nhảy lên thành được.
May mà chiếc thang dùng
làm sào chống vẫn đang nằm trong tay, lão vội móc nó vào một cái ụ trên đầu
thành, đạp đổ chiếc thang vừa dẫm dưới chân, phi thân lên thành.
Ánh lửa hắt lên mặt
thành lúc mờ lúc tỏ, lũ người gỗ mình khoác áo bào khôi giáp, cơ thể được nối
bằng những khớp gỗ tròn phát ra tiếng kêu “kẽo kẹt”, xếp thành hàng trong ánh
lửa chập chờn, trợn mắt đứng sau tường thành chuyển tên và khởi động cung nỏ. Vào
thời đó, nguyên lý cấu tạo đồng hồ tự đổ chuông của người phương Tây đã không
lạ gì, trên thực tế vào thời Tần Hán đã có những nghệ nhân biết sử dụng hệ
thống điều khiển rối gỗ biểu diễn cả một vở kịch, nhưng những động tác tưởng
như không thể đơn giản hơn đó, đều bắt buộc phải có quy luật và tiết tấu chặt
chẽ, chỉ cần sai một bước là tất cả sẽ hỏng bét.
Lão Trần tuy là người
học cao hiểu rộng, nhưng khi đến gần, trông thấy lũ người gỗ như những bóng ma,
toàn thân cũng nổi cả da gà. Xem ra lời người xưa thường nói bên trong một số
mộ cổ thường có âm binh canh giữ chẳng phải dối gạt, nếu là người không hiểu
biết bước vào địa cung, thình lình thấy lũ người gỗ cử động này ắt sẽ hồn bay
phách lạc mà cho rằng chúng chính là đội âm binh giữ lăng thật.
Động tác của lũ người
gỗ không ngừng nghỉ, tên vẫn liên tục được bắn ra. Trên mặt thành ngoài vô số
người gỗ la liệt cung nỏ và các thùng đựng tên, xen vào đó là những cỗ nỏ Sàng
Tử vận hành bằng trục quay. Thùng đựng tên trên thành nhiều không kể xiết,
không biết bắn đến khi nào mới hết. trên thành tuy chen chúc bóng người lắc lư,
rào rào tiếng bật chốt lò xo, nhưng thực ra chỉ có duy nhất lão Trần là người
sống, ai ở giữa cảnh tượng muôn phần kỳ quái này đều cũng rợn cả người.
Lão Trần liều chết lên
thành là vì muốn giành lấy mạng sống, tuy trong lòng run sợ nhưng để cứu lấy
tính mạng đám thuộc hạ còn lại, lão vẫn cố thu hết can đảm, liều mình chui qua
lũ người gỗ đang trừng mắt cau mày. Đảo mắt nhìn sang xung quanh, lão thấy phán
đoán khi trước của mình quả không sai, bên trong địch lâu đích thực có một
giếng thủy ngân – trong cơ quan chốt lò xo, người ta quen gọi bộ phận trung tâm
cơ quan là “giếng”, nhưng “giếng” ở đây có cấu tạo hoàn toàn khác với giếng
nước thông thường. Muốn phá hủy được tòa thành bẫy tên này chỉ có duy nhất một
cách là tháo hết thủy ngân trong giếng, một khi dòng thủy ngân ngừng lưu động,
cơ quan này khác nào thuyền bơi trên cạn, chong chóng lặng gió, chỉ cần giếng
thủy ngân bị phá hủy, những cung nỏ đặt trên thành cũng sẽ hoàn toàn vô hiệu.
Lão Trần quan sát kỹ
hình thế xung quanh, lắng nghe tiếng nước chảy từ cơ quan, trong bụng đã có sẵn
tính toán. Lão lách người di chuyển tới gần địch lâu, từ bên trong vô số lỗ
châu mai hình lập phương, thủy ngân bị hơi nóng hun bốc lên xộc thẳng vào mũi.
Lão Trần nín thở, dùng mảnh sa đen bịt mặt, đang định chọc thang rết vào phá
giếng thủy ngân bên trong, bỗng cảm thấy dưới chân hẫng một cái, cả người lập
tức rơi xuống.
Thì ra tường ủng thành
bên trong rỗng không, ngoài giếng thủy ngân dẫn nước trên mặt thành còn có rất
nhiều hố bẫy ván lật, nhìn qua mặt đất bằng phẳng kiên cố nhưng chỉ cần vô tình
giẫm chân lên, sẽ lập tức rơi ngay xuống hố. Hố bẫy là cạm bẫy vô cùng tàn độc,
được chia làm hai loại: bẩn và sạch, hố sạch bên trong không có gì nguy hiểm
chí mạng, mục đích chỉ là để bắt sống kẻ thù, còn trong hố bẩn lại bố trí các
loại chông, đinh và chất độc để giết chết kẻ thù, đã rơi xuống đó thì đừng hòng
sống sót. Loại hố bẫy này nổi tiếng hung hiểm, chủ yếu là vì hầu như ai sa chân
rơi xuống hố đều không có cơ hội thoát thân, thân thủ có xuất chúng thế nào thì
vẫn cần điểm tựa, hẫng chân một cái là lọt thỏm xuống hố ngay, dẫu có bản lĩnh
đầy mình cũng chẳng kịp thi triển.
Nhưng phái xả Lĩnh tung
hoành thiên hạ ngót hai ngàn năm, đều dựa vào thân thủ nhanh mạnh và khí giới
tinh luyện, thang rết móc núi này được tạo nên từ tâm huyết của biết bao thế
hệ, ngoài công năng leo trèo ra cón có thể chế ngự các loại cơ quan trong mộ
cổ, tình thế càng nguy hiểm nó càng phát huy tối đa tác dụng của mình. Lão Trần
ngay khi rơi xuống bẫy ván lật đã nhanh tay móc bách tử câu ở đầu thang rết vào
tường địch lâu, cả cơ thể đang trên đà rơi xuống lập tức khựng lại. Lúc này lớp
giáo sắt tua tủa chỉ cách lão gang tấc, nếu thấp xuống chút nữa thì trên người
dù có giáp sắt bảo vệ, lão vẫn cầm chắc cái chết vì lực rơi quá mạnh. Toàn thân
lão Trần ướt đẫm mồ hôi vì sợ, chân tay cũng nhũn cả ra.
Lão Trần thoát chết,
trong bụng không ngừng khấn vái: “Tổ sư gia linh thiêng!”, chân tay quờ quạng
bám lấy thang rết leo lên địch lâu. Thấy địch lâu không có cửa ra vào, lão bèn
dùng chiếc thang rết chọc vào trong. “Kéttttt!”, thang rết lập tức kẹt vào giữa
giếng thủy ngân, tiếng nước chảy bên trong địch lâu tức khắc ngưng bặt, dòng
thủy ngân ùa ra từ các lỗ bắn tên.
Lão Trần vội vàng đạp
chân vào thang tre, phóng mình lên trên ụ châu mai. Lúc này giếng thủy ngân đã
bị phá hủy, lũ người gỗ trên bốn mặt thành lần lượt ngưng hoạt động, đứng ngây
ra như phỗng, lượt tên thứ hai chuẩn bị được bắn ra từ nỏ Sàng Tử cũng vì trục
quay đột ngột ngừng lại mà bị mắc kẹt trong nỏ, mọi tiếng động bỗng dưng im bặt.
Lúc này đám trộm bị vây
trong thành còn sót lại hơn chục mạng, hầu như ai nấy đều mang thương tích, chỉ
biết bám trên tháp tre thoi thóp hơi tàn. Đợt loạn tiễn tuy đã dừng nhưng lửa
cháy trong thành vẫn rất dữ dội, xương trắng áo quan trên mặt đất đều đã trở
thành đuốc nhen lửa, chỉ có tháp tre được làm từ chiếc thang rết chịu được lửa
và nước là vẫ đứng sừng sững giữa biển lửa. Những kẻ may mắn sống sót bị khí
nóng dưới chân hun đốt, giống như thú hoang bị nướng trên lửa hồng, người nào
người nấy đều cháy xém mày tóc râu lông, cảm thấy không khí xung quanh như cũng
sắp sửa bùng cháy đến nơi, thực sự không thể chịu đựng thêm một giây nào nữa.
Mắt thấy thủ lĩnh đã
phá hủy được bẫy tên trên địch lâu, giờ chính là thời cơ thoát khỏi biển lửa,
bọn họ vội vàng vứt hết khiên cỏ trong tay, đang định mang những chiếc thang
rết nối lại với nhau thành một chiếc cầu bắc lên mặt thành, nào ngờ bỗng nghe
ầm ầm trong huyệt động, trên đầu rền vang tiếng sấm, nhờ có ánh lửa soi sáng,
họ nhìn thấy rõ những hạt cát nhỏ từ phía trên rơi xuống, cả tòa thành bỗng
chốc chìm trong một trận mưa cát.
Mọi người, bao gồm cả
lão Trần đều thất kinh biến sắc, thì ra mọi cạm bẫy mai phục trong tòa thành
này đều móc nối với nhau. Bình Sơn bề ngoài giống như một ngọn núi đá nhưng kỳ
thực lại là một ngọn núi cát, tầng nham thạch chứa một lượn lớn cát mịn được
kẹp giữa những lớp đá xanh. Hóa ra cạm bẫy ủng thành này còn được thiết kế một
cơ quan tuyệt hận khác, một khi giếng thủy ngân trong thành bị ngoại lực phá
hủy, lượng cát khổng lồ vẫn giữ trong tầng nham thạch sẽ được dẫn xuống, chôn
vùi tất cả.
Đám trộm Xả Lĩnh vừa
thoát khỏi mưa tên đã lại phải đối mặt với nguy cơ bị cát chảy chôn vùi, ai nấy
đều lạnh toát sống lưng, giờ mới biết thế nào là “mọc cánh khó thoát”, bốn mặt
thành là trùng môn đóng kín, các hang động đều bị bịt bằng đá tảng, chỉ chốc
lát nữa thôi, một lượng cát chảy khổng lồ sẽ ào ào đổ xuống, có mọc được cánh
thật cũng không biết chạy đi đằng nào. Đám trộm thoắt chốc từ cửa tử tìm ra cửa
sinh rồi lại từ cửa sinh vòng về cửa tử, còn chưa kịp tuyệt vọng bi thương, hàng chục con rồng cát đã từ trên đầu ào ạt đổ
xuống.
Chương 20 : Thoát Chết Trong Gang Tấc
Cát chảy xưa nay vẫn là
phương pháp chống trộm lấy nhu khắc cương rất hiệu nghiệm trong mộ cổ, không
giống như đào mộ tường đất nện, cứ đào một đường hầm là giải quyết được vấn đề,
cát là thứ dễ trôi dễ chảy, dân trộm mô hễ đào tới đâu lại có cát chảy lấp đầy
tới đó, trừ phi họ có thể đào sạch hang vạn tấn cát cùng một lúc, nếu không
dòng cát chảy sẽ như một bức tường mộ di động, kẻ trộm mộ vĩnh viễn đừng mong
đào được lối ra.
Nhưng từ xưa tới nay,
bẫy cát chảy tuy gặp nhiều trong mộ cổ, song cát lại không hợp với nguyên lý
phong thủy. Thuyết phong thủy Thanh Ô đề cập đến “long, sa, huyệt, thủy,
hướng”, nhưng chữ “sa” ở đây lại có bộ “thạch”, chỉ chung các loại nham tầng
thổ nhưỡng chứ không phải là “sa” trong “lưu sa” – cát chảy.
Chẳng có chủ mộ nào
muốn hài cốt mình chôn vùi trong cát, nhưng so với hành vi đổ đấu tàn khốc của
dân trộm mộ thì thà để cát hỏa phục chôn vùi cả mộ thất lẫn những kẻ thâm nhập
còn hơn.
Dựa vào những kinh
nghiệm trước đây, bọn lão Trần cứ ngỡ trong Bình Sơn không thể có cát, nào ngờ
phần cốt lõi của Bình Sơn lại chính là một ngọn núi cát hiếm có, được bao bọc
bởi đá xanh nguyên khối. Bọn họ liều chết phá giếng thủy ngân trong địch lâu,
nhưng lại khơi thông dòng cát chảy từ tầng nham thạch. Thường có câu “cuống sa
loạn vũ”, đặc tính của cát vốn rất đỗi bình thường, nhưng một khi cát cuộn lên
mạnh mẽ thì còn ghê gớm hơn cả lửa phục khói độc, người bị cát chảy truy đuổi,
chỉ cần cát ngập đến ngực, chưa cần quá đầu cũng đã tắt thở chết ngay lập tức,
hơn nữa cát nhỏ trơn trượt, hễ đặt chân xuống là loạng choạng ngã nghiêng, nói
gì đến chuyện chạy thoát.
Lão Trần đứng trên mặt
thành chứng kiến cảnh bão cát vừa đổ vào trong thành đã làm lụi hết đèn đuốc,
ánh sang tứ phía đột nhiên yếu hẳn, chỉ còn tiếng cát chảy ầm ầm trong bóng
đêm. Lão Trần chớp lấy thời cơ, không chút chậm trễ, lật thang trèo xuống chân
thành, chân còn chưa chạm đất đã cuống cuồng tháo chạy. Trước mắt bốn bể lửa
rơi cát chảy, còn nấn ná trên thành dù chỉ phút chốc cũng sẽ bị bão cát nuốt
chửng. Trong địch lâu kia tuy có chút không gian, nhưng lại chui vào nơi có một
lượng lớn thủy ngân như vậy, một khi địch lâu bị cát vùi, không chết nghẹt thì
cũng bị khí thủy ngân tích tụ trong đó đầu độc mà chết, hiện tại chỉ có cái
hang nơi cổng thành là có thể trú ẩn chốc lát.
Cát tràn vào ủng thành
đều là từ tầng nham thạch bên trên trút xuống, hang núi nơi cổng thành bị cửa
đập ngàn cân chắn ngang lúc trước giờ là nơi cách xa con rồng cát nhất, tuy sớm
muộn gì cũng sẽ bị chôn vùi, nhưng loài sâu bọ còn ham sống sợ chết huống chi
con người, xuất phát từ dục vọng cầu sinh bản năng, dù chỉ được sống thêm một
chốc lát cũng phải dốc hết lực tàn mà chạy về phía cổng thành.
Đám người may mắn sống
sót đang bám trên tháp tre, thấy thủ lĩnh từ trên thành điện cuống cuồng chạy
lại, vừa chạy vừa khoát tay ra hiệu, sau lưng lão là trận cát chảy cuộn tới như
gió rít sóng gào thì lạp tức hiểu ý thủ lĩnh, nhảy khỏi tháp tre, bất chấp vết
thương chảy máu đau đớn, tất thảy lăn lê bò toài phía sau lão Trần tìm đường
thoát thân.
Trận cát chảy đổ xuống
như trời long đất lỡ, họ ù đặc hai tai, chỉ biết cắm đầu cắm cổ chạy về phía
cổng thành, không dám quay đầu nhìn lại. Có những người bị tên bắn vào chân
không đi được, phải ra sức bò bằng hai tay, lại có những người chân bị tê liệt,
hễ vấp ngã là không sao bò dậy nổi, hơi chậm chân một chút là vĩnh viễn bị chôn
vùi nơi này, những người khác giữ mạng mình đã khó, còn đầu tâm trí mà lo cho
họ.
Lão Trần đang cắm đầu
chạy thì thấy La Lão Oai chui ra từ đống xác chết, đã chột một mắt, mặt mày
người ngợm máu me bê bết, bèn nắm ngay lấy bao súng da của hắn mà kéo đi. Trận
bão cát đuổi sát phía sau khiến người ta ngạt thở, lão Trần không dám dừng
bước, túm được La Lão Oai liền chạy ngay, mới chậm mấy bước mà đã thụt lùi lại
sau cùng.
Đột nhiên từ cửa động
trước mặt dội lại một luồng khí ép của một vụ nổ cực lớn, hất phăng mấy tên
trộm đang chạy phía trước lên không, lão Trần chạy sau cùng nên kịp kéo theo La
Lão Oai tránh được. Định thần nhìn lại mới biết, thì ra để cứu tính mạng thủ
lĩnh và La soái, đám trộm cùng đội công binh chờ bên ngoài mộ đạo đã dung một
lượng lớn thuốc nổ cho nổ tung cửa đập ngàn cân, nhưng do lượng thuốc nổ quá
nhiều, cả bức tường thành cũng sụp một mảng lớn.
Lão Trần trong bụng
mừng rớn, xem ra vận khí phái Xả Lĩnh vẫn chưa đến ngày tận, lần này thoát chết
trong gang tấc, quả là muôn phần may mắn. Lão lấy hơi, guồng chân, vận hết sức
chạy lại phía cổng thành tan hoang. Đám người Xã Lĩnh ở bên ngoài cuống lên
không kịp đợi cho khói thuốc tan hết đã định xông vào địa môn tìm thủ lĩnh, chỉ
thấy bên trong đen kịt cuồn cuộn cát bụi, mấy người mặt mũi lấm lem đất cát máu
me cuống cuồng lao ra, sau lưng là bức tường cát đang ầm ầm truy đuổi.
Cả bọn thấy tình hình
không ổn, vội dìu những người vừa xông ra, gào toáng lên quay đầu rút lui, núi
cát chảy ầm ầm đổ xuống sau lưng bọn họ, trong chốc lát đã lấp kín mộ đạo.
Lão Trần liên tiếp trải
qua mấy phen thập tử nhất sinh thất kinh bát đảo, tâm thần hoảng hốt cực độ,
biết có ở lại cũng không nên cơm cháo gì, vội ra lệnh cho thuộc hạ ngay trong
đêm đó quay trở lại nghĩa trang Lão Hùng Lĩnh. Đám trộm và tiểu đoàn công binh
dưới sự chỉ huy của Hồng cô nương thu nhặt tàn binh, tinh thần người nào cũng
hoang mang rệu rã, lặng lẽ rút lui tạm thờ về đóng quân trên Lão Hùng Lĩnh.
Vào tới bên trong “nhà
khách của người chết” được coi là sở chỉ huy lâm thời, lão Trần mới bình tình
lại xem xét thương thế của La Lão Oai. Mắt trái của hắn coi như đã mất, vết
thương trên bả vai sâu tới tận xương, nhưng La Lão Oai từng trải trăm trận,
thương tích đầy mình, vết thương lần này tuy nặng song sau khi được quân y đi
theo xử lý cuối cùng hắn cũng tỉnh lại, liên tục tuôn ra những lời tục tĩu,
chửi bới mộ chủ trong ngôi mộ cổ Bình Sơn không tiếc lời nào, nào là nếu lôi
được kẻ đó từ trong cái hố phân ấy lên mà băm vằm thì mả mẹ cái họ La này của
hắn sẽ đổi thành họ Cứt, nào là hắn sẽ lập tức sai người trở về điều binh, điều
mẹ nó cả sư đoàn tới, để xem có xới tung được ngọn Bình Sơn này lên không.
Lão Trần biết La Lão
Oai chỉ chửi cho sướng mồm, đừng nói một vạn người dù mười vạn đại quân tới đây
đào xới ngôi mộ cổ nằm trong lòng một ngọn núi lớn thế này e chẳng phải dăm bữa
nửa tháng mà xong cho được. Lão đã đích thân dẫn thuộc hạ, chia làm hai cánh
xâm nhập vào địa cung từ đỉnh núi và chân núi, nhưng không những ra về tay
trắng, mà đến khi đếm lại còn chết oan hơn một trăm anh em, đa số họ đều là
những kẻ tinh nhuệ trong phái Xả Lĩnh, đáng tiếc nhất là Hoa Ma Linh và Côn
Luân Ma Lặc, hai cánh tay trái phải của lão.
Lão Trần thầm nghĩ, lần
này tay trắng rút lui, không chỉ chiếc ghế thủ lĩnh ngàn vàng của lão bị lung
lay, mà ngay cả đỉnh Thừa Thắng sơn e cũng có nguy cơ sụp đổ. Lão Trần là kẻ có
dã tâm lớn, để hoàn thành bá nghiệp một phương, bao năm nay lão đã lao tâm khổ
tứ, dốc ra không biết bao nhiêu tâm huyết. Lão sinh ra để làm thủ lĩnh, thân
thủ không chỉ hơn người mà tấm lòng cũng khoan dung độ lượng, xưa nay luôn dung
hai chữ “nghĩa khí” để thu phục lòng người, chỉ duy có mắc mứu trước thắng thua
thành bại, tâm cao khí ngạo, không chịu nhận thua, ở điểm này lão quả thật hơi
thiếu khí lượng.
Trong lòng lão đã
quyết, lão Trần liền triệu tập mọi người tới tuyên bố :”Nhà binh thắng bại là
chuyện bình thường, đấng nam nhi phải biết nhẫn nhịn, đệ tử Giang Đông đều là
những trang tuấn kiệt, biết đứng dậy sau thất bại…Các anh em đừng nên nóng lòng
sốt ruột, tạm nghỉ ngơi vài hôm, sau đó theo Trần mỗ ta lên núi lần nữa, đào
tới tận đáy ngôi mộ cổ Bình Sơn này, khỏi phụ lòng các anh em đã ngã xuống!”
Nói xong bèn cắt máu
thề độc, cất đặt đâu vào đấy lại bày linh vị của những người chết thảm trong
nghĩa trang, đốt vàng hơn theo phong tục của người Tát gia Tương Tây, làm thật
nhiều hình nhân bằng giấy, bên trên ghi rõ tên họ và ngày sinh tháng đẻ của linh
chủ rồi đem hóa trước linh vị, để chúng đi theo xuống âm ty làm kẻ hầu người hạ
cho họ, đây âu chỉ là những chuyện vặt vãnh không cần nói kĩ.
Suốt mấy ngày liền, lão
Trần để La Lão Oai nghỉ ngơi dưỡng thương, còn mình thì đóng kín cửa phòng, một
mình suy nghĩ kế sách xâm nhập vào ngôi mộ trong núi Bình Sơn. Ngôi mộ cổ này
quả là kì lạ, có một không hai, tuy từ đỉnh núi có thể tiến thẳng vào địa cung,
nhưng lại không tránh được trùng độc ẩn nấp bên trong, hễ bị cắn một phát thì
dù là thần tiên la hán cũng khó bảo toàn được tính mạng. Nhưng nếu bắt đầu đào
bới từ tiền điện hay thiên điện ai biết liệu có sa chân vào ngôi mộ giả nào nữa
không. Hơn nữa núi đá kiên cố, lối ra vào bị chen kín đá tảng chì nung, cạm bẫy
bên trong thì trùng trùng lớp lớp, nghe nói thời nhà Tống từng có một bức sơ đồ
trung tâm cạm bẫy trong núi Bình Sơn, nhưng sau đó lọt vào tay người Nguyên,
việc bịt mộ hạ tang xong xuôi tấm bản đồ đó cũng bị tiêu hủy, đến nay muốn phá
hủy tất cả các cơ quan cạm bẫy trong núi này thật sự khó hơn lên trời.
Suy đi tính lại, nếu
chỉ dựa vào mình phái Xả Lĩnh thì đại sự trong núi Bình Sơn chắc chắn khó
thành, giờ đành hi vọng đám Ban Sơn đạo nhân sớm tới hội họp. Thuật Phân Giáp
của phái Ban Sơn từ xưa đã được truyền tụng là vô cùng thần kì. Lão Trần chỉ biết
phương thuật này cao minh, quỷ thần cũng khó lòng chống đỡ, chứ cụ thể thế nào
thì hoàn toàn không rõ, nếu có Ban Sơn đạo nhận giúp sức mà vẫn không lấy được
bảo vật bên trong mộ cổ núi Bình Sơn thì thật bó tay hết cách.
Sáng ngày thứ tư, đúng
như lão Trần mong đợi, ba vị đạo nhân Ban Sơn do Gà Gô dẫn đầu đã tìm tới nơi.
Thì ra chuyến đi lần này của họ cũng không thuận lợi, công cốc chạy tới đất
Kiềm một phen, ngôi cổ mộ Dạ Lang Vương đã bị người ta vét sạch không biết tự
bao triều đại trước rồi, ngay cả một viên gạch có bích họa cũng không còn,
trống trơn một cái mả hoang nhìn mà não ruột.
Lão Trần bảo thuộc hạ
dành ra một phòng sạch sẽ để lão và bọn Gà Gô vào trong mật đàm, kể lại hai lần
xâm nhập Bình Sơn đều thất bại thê thảm, xem chừng việc lần này không phải chỉ
dùng sức là được. Bên cạnh đó lão cũng không quên dát vàng lên mặt mình, đem
chuyện vật lộn thoát chết từ cửa tử ra thuật lại li kỳ rung rợn đoạn ngại ngùng
tiết lộ đã mất khá nhiều huynh đệ.
Trong các hạng trộm mộ,
chỉ có Mô Kinh HIệu Úy, Xả Lĩnh lực sĩ và Ban Sơn Đạo Nhân là có bí thuật ngàn
năm, song trên thực tế, những bí thuật ấy đều không hẳng là “thuật”. Lão Trần
biết phái Xả Lĩnh dùng sức để đào mộ, dựa vào cuốc to xẻng lớn, bình pháo thuốc
nổ, cộng thêm sức người sức ngựa, và thang rết móc núi được xưng tụng là Xà
Lĩnh giáp, phương pháp đổ đấu của Xả Lĩnh trước nay không rời xa mấy thứ khí
giới này, lấy “giới” giúp sức, vậy nên mới có cái tên Xả Lĩnh (xẻ núi).
Ngoài ra lão còn biết,
Mô Kim phát Khưu trộm mộ đều dùng “thần”, nhưng Mô Kim hiệu úy bây giờ chẳng
còn lại mấy người, hành tung càng bí ẩn, nên không rõ họ dùng “thần” để trộm mộ
như thế nào, lẽ nào cầu khấn thần tiên bồ tát hiển linh giúp mình đổ đấu? Đó
chẳng phải tà thuật vọng thiên gieo quẻ, chiêm bốc định vị huyệt mộ hay sao?
Chỉ nghe nói Mô Kim hiệu úy rất giỏi xem xét tình hình phong thủy, có bản lĩnh
phân kim định huyệt, tầm long kiếm mạch, những thứ ấy sao có thể coi là “thần”?
Gà Gô là thủ lĩnh của
phái Ban Sơn, cũng là nhân vật hàng đầu được quần hùng trong giới lục lâm biết
đến, danh tiếng lẫy lừng thiên hạ, anh ta và lão Trần nghĩa khí tương đầu,
không có chuyện gì không thể nói, đối với chuyện Mô Kim dung “thần” lại biết
được ít nhiều. Ban Sơn đạo nhân tuy không phải những kẻ chân tu nhưng giả dạng
đạo nhân đã ngàn năm nên cũng có hiểu biết tương đối về huyền học đạo thuật, Gà
Gô thành thật giảng giải với lão Trần rằng:
Mô Kim hiệu úy khởi
nguồn từ thời Hậu Hán, có sở trường Tầm Long quyết và Phân kim định huyệt, nói
về thượng pháp của quyết “vọng”, trong khắp thiên hạ không ai bằng bọn họ. Đám
người này khi trộm mộ đều tuần theo quy luật “Gà gáy đèn tắt không mò vàng”,
rất giỏi suy diễn bát môn phương vị, những bản lĩnh này đều xuất phát từ Kinh
dịch. Nguyên lý phong thủy chính là một phân chi của “dịch”, tương truyền chũ
“thần” trong “Mô Kim dụng thần” chính là chỉ “dịch”. Người xưa có câu “Thần vô
phương, dịch vô thể, chỉ ngụ giữa âm dương”, “gà gáy đèn tắt” chính là một phần
trong thuyết âm dương biến hóa của “dịch”, nên nói cách khác Mô Kim hiệu úy
trộm mộ là dựa vào dịch lý.
Có điều Ban Sơn đạo
nhân Gà Gô tuy biết được đại khái là vậy, nhưng cũng chưa từng có dịp kết giao
với Mô Kim hiệu úy, chỉ nghe nói Liễu Trần chưởng lão trụ trì chùa Vô Khổ chính
là một vị Mô Kim đã rửa tay gác kiếm, vứt bỏ bùa Mô Kim, Gà Gô từ lâu đã mong
được kết giao với ông ta, nhưng hiềm nỗi không có ai giới thiệu, lại thêm công
việc bận bịu nay đây mai đó nên ý nguyện trước sau vẫn chưa thành, nay nhắc đến
lại càng thở vắn than dài.
Lão Trần chợt tỉnh ngộ,
quả đúng là núi cao còn có núi cao hơn, người tài trong thiên hạ thực như lá
mùa thu, lão và Gà Gô tuy quen biết đã lâu nhưng ai có việc người nấy, thường
khó có cơ hội gặp gỡ hàn huyên, càng không biết chuyện Ban Sơn dung “thuật”
trộm mộ có thực hay không. Chỉ vì nghe nói Ban Sơn mật thuật được lưu truyền
hết sức thần bí trong nội bộ Ban Sơn đạo nhân nên người ngoài cũng không tiện
đoán mò xằng bậy, nhân đây lão lên tiếng hỏi, cũng là muốn thăm dò ngọn nguồn
từ anh ta, bằng không nếu đám Ban Sơn đạo nhân kia chỉ hữu danh vô thực cùng bọn
họ vào núi Bình Sơn há chẳng phải chết oan theo họ sao?
Gà Gô nghe lão Trần hỏi
vậy liền cười nói vì chữ “Ban” trong Ban Sơn đạo nhân mà người đ thường lầm
tưởng họ cũng như Xả Lĩnh lực sĩ chuyên dung sức người để xả núi, đâu biết rằng
trên đời này đào núi khoét núi thì được, chứ lấy đâu ra sức mạnh có thể dời
non? Trừ phi có “thuật” bằng không sao dời được núi? “Phân sơn quật tử giáp” và
“Ban Sơn điền hải thuật” đã lâu không được xử dụng, họ đang ngứa ngáy khó chịu
thì lại gặp ngay Bình Sơn này để trổ tài thi triển Ban Sơn phân giáp thuật. Thì
ra Gà Gô nghe Lão Trần kể lể một hồi đã nghĩ ra cách phá núi Bình Sơn, “Phải
làm thế này, thế này…Như vậy như vậy…” phi vụ hợp tác quật cổ mộ Bình Sơn của
hai phái Ban Sơn và Xả Lĩnh đã được bắt đầu như thế.
Chương 21 : Bản Kim Phong
Lão Trần thua hai trận
liên tiếp, sợ rằng không phá được Bình Sơn sẽ ảnh hưởng đến địa vị và tiếng tăm
của mình trong giới lục lâm, nay nghe Ban Sơn đạo nhân Gà Gô nói có một pho Ban
Sơn Phân Giáp Thuật có thể thi triển thì như mở cờ trong bụng, vội nói: “Không
biết thuật này có thể dùng thế nào? Tôi muốn nghe cho kỹ, nếu quả thật dùng
được sẽ lập tức phong đài bái tướng!”
Gà Gô nói: “Đào mộ bằng
thuật không có nghĩa là không cần sức, muốn đào mộ cổ trong núi Bình Sơn bắt
buộc hai phái Ban Sơn Xả Lĩnh phải cùng chung tay, còn về Ban Sơn Phân Giáp
thuật…” Anh ta thoáng trầm ngâm đoạn nói tiếp: “thiết nghĩ, nguyên lý thiên
nhân tương ứng có trong Xuân Thu, Chu Dịch cũng ghi chép lại chuyện dư
ương[24], dư khánh. Nghe nói Mô Kim hiệu úy dùng Dịch đào mộ là do kế thừa từ
đời xưa, pháp thuật của Ban Sơn đạo nhân cũng đã có lai lịch trên ngàn năm, có
điều Ban Sơn Phân Giáp thuật không giống với bất kỳ phương thuật nào trên đời,
tuy theo đuổi sinh khắc chế hóa, nhưng lại không xuất phát từ nguyên lý ngũ
hành sinh khắc của Dịch. Vạn sự vạn vật trên đời dù mạnh đến đâu cũng có cái
chế ngự, cường nhược sinh khắc chế ngự lẫn nhau, đó chính là thuật của phái Ban
Sơn.”
Gà Gô cho rằng sau núi
Bình Sơn có vô số loài độc vật sinh trưởng, tu luyện nhờ vào dược tính trong
núi, sớm muộn gì cũng sinh ra họa lớn, dù không đào bới ngôi mộ cổ thì cũng
phải trừ khử tận gốc mối họa này, nhưng việc cần kíp trước tiên là phải tìm
xung quanh Bình Sơn xem có vật gì thiên tạo, khắc chế được đám độc vật trong
núi kia không.
Lão Trần là người tinh
nhanh, nghe xong liền bừng tỉnh, có câu “yếu khắc mạnh, chẳng ở hình dáng to
nhỏ”, giống như một con rắn lục ba tấc có thể cắn chết một con mãng xà dài mấy
trượng, chỉ cần tìm ra báu vật khắc yêu trừ độc thì lo gì không quật được ngôi
mộ cổ trong núi Bình Sơn? Lão lộ vẻ xúc động, đập bàn đứng dậy họa theo: “Nghe
lời vàng ngọc của người quân tử, thực đúng như vén mây nhìn thấy mặt trời,
thiết nghĩ loài độc vật trăm năm tuổi ẩn mình trong lòng mộ cổ kia hấp thu được
khí trong núi và âm khí của địa cung, lăm le hại người, hậu quả thật khôn
lường. Phái Xả Lĩnh chúng tôi, dẫu không ham giành châu báu trong mộ cũng nhất
định phải tiêu diệt sạch bọn chúng, việc công đức này mà làm đến tận cùng,
không chừng thì còn nhờ đó mà thành tiền nữa ấy à…” Lão xưa nay vốn chẳng tin
gì chuyện thần Phật tu tiên, lúc này nói vậy chẳng qua muốn để Ban Sơn đạo nhân
biết rằng, những tay hảo hán của Thường Thắng sơn không phải chỉ chăm chăm đào
mộ mưu cầu tài vật, mà vẫn luôn có lòng cứu giúp muôn dân.
Hai người bàn bạc rất
lâu, sau cùng cũng quyết định cải trang thay hình đổi dạng, lại làm một chuyến
tới mấy bản người Miêu quanh núi Bình Sơn. Gà Gô tuy sát khí lộ rõ giữa hai
hàng chân mày, nhưng anh ta lăn lộn núi rừng đã lâu, lại thông thuộc phương ngữ
các nơi, hiểu rõ phong tục tập quán, nếu có cải trang thành thanh niên Băng Gia
Miêu thì chỉ cần không đụng phải cao thủ trong giới lục lâm, chắc chắn sẽ không
bao giờ bại lộ.
Lão Trần đã quen làm
thủ lĩnh Thường Thắng sơn, thoạt nhìn là biết ngay là dân giang hồ chứ dứt
khoát chẳng phải hạng con buôn gì, vì vậy chỉ có thể cải trang thành thầy bói
xem tướng hoặc thầy địa lý xem phong thủy, bằng không thì là nghệ nhân một
trong bảy mươi hai nghề.
Cuối cùng Gà Gô đành
giúp lão cải trang thành gã thợ học việc. Ở Tương Tây có nhiều nhà sàn, thường
có cánh thợ mộc vượt núi xuyên bản, giúp người dân dựng nhà sửa cửa đổi lấy sơn
vật mưu sinh, ở đây sơn dân gọi họ là thợ buộc lầu. Chẳng quản núi sâu rừng
rậm, chỉ cần nơi nào có làng bản sơn dân sinh sống là nơi đó có dấu vết của thợ
buộc lầu, nên có đóng giả chắc cũng sẽ không bị nghi ngờ mảy may.
Lão Trần thân phận cao
quý, đi đến đâu cũng phải kéo theo vô số tay chân thuốc hạ, nay gã câm Ma Lặc
và Hoa Ma Linh đều đã chết, đám trộm mộ Xả Lĩnh sao có thể yên tâm để thủ lĩnh
một thân một mình lên núi cùng Ban Sơn đạo nhân. La Lão Oai thì thương tích vẫn
chưa lành không thể đi theo, cuối cùng chỉ đành để cho Hồng cô nương đi với lão
và Gà Gô, ngoài ra còn có hai mươi tay súng âm thầm theo sau tiếp ứng. Đám lính
của La Lão Oai hết đào bới lại cho nổ mìn trên núi Bình Sơn, ồn ào huyên náo
kinh động tới mấy phiến quân cùng đám sơn tặc thổ phỉ lân cận, bọn người đó không
phải vây cánh Thường Thắng sơn, nhìn thấy mộ cổ Bình Sơn cũng thèm chảy nước
dãi, chỉ vì thế lực không bằng La Lão Oai, lại thấy đám trộm Xả Lĩnh bị ăn quả
đắng nên mới không dám manh động. Dù vậy chúng vẫn cứ mật thám lân la nghe
ngóng, định thừa cơ kiếm chút cơm thừa canh cặn. Thế nên, trùm sỏ phái Xả Lĩnh
lần này đích thân lên núi thăm dò quả thật vô cùng mạo hiểm, nhất định phải
chuẩn bị chu đáo, tránh xảy ra bất trắc.
Gà Gô thấy thế có vẻ
xem thường, nhíu mày đợi mãi hồi lâu, lão Trần mới bố trí xong xuôi, cùng anh
ta và Hồng cô nương, ba người cải trang thành thợ buộc lầu, lại ép tay người
Miêu bị bắt theo làm hướng dẫn viên lúc trước dẫn đường, khởi hành xuống Lão
Hùng Lĩnh tiến vào vùng thâm sơn.
Quanh núi Bình Sơn dân
sinh sống thưa thớt nên chỉ lác đác có mấy bản làng, dân làng bản Nam ở gần
nhất đã bị bọn công binh dọa cho chết khiếp, đều đã bỏ của chạy lấy người. Nhờ
có tay người Miêu dẫn đường, đám người Gà Gô xuyên qua một khe sâu trong núi,
tiến thẳng về bản Bắc.
Đoạn đường này càng đi
càng nguy hiểm, hầu như đều là rừng rậm nguyên sinh không có lối mòn, thông
thường để miêu tả cảnh sắc nước non người ta thường dùng từ “mỹ lệ”, nhưng với
khe núi vẫn được dân bản địa gọi là khe Sa Đao này, chỉ có thể dùng một từ “kỳ
mỹ” để hình dung. Nhìn ra trước mặt, kỳ phong san sát, quái thạch bắc ngang,
sâu trong khe núi vài trăm mét có hàng ngàn ngọn nhũ đá thẳng tắp cao vút, muôn
hình vạn trạng, chĩa lên trời xanh. Trong khe núi mây trời lồng lộng, sương
trắng cuộn bay, tầng tầng lớp lớp những mỏm đã hình thù kỳ quái lúc ẩn lúc hiện
trong làn sương mù, khắp dọc đường đi, đâu đâu cũng thấy những phong cảnh kỳ vĩ
như vậy.
May có anh chàng người
Miêu thông thuộc địa hình, nên cả bọn cũng không sợ lạc đường giữa chốn núi non
kỳ quái này. Tay người Miêu vốn nhát như thỏ đế, biết bọn người lão Trần là đầu
đảng phiến quân thì hầu hạ hết mực cẩn thận, nào dám có gan bỏ trốn. Lại thêm
anh ta dẫu sao cũng là một “yên khách”, tức kẻ nghiện thuốc phiện theo cách gọi
của sơn dân, đám lính dưới trướng La Lão Oai người nào người nấy đều hai tay
hai “súng”, một cái để giết người, một cái để diệt thuốc, có lần anh ta được
hưởng sái một ít cao Phúc Thọ, thứ cao thuốc thượng đẳng mà ngày thường có nằm
mơ cũng không dám nghĩ đến, chưa bao giờ được bữa sảng khoái đê mê đến vậy, cho
nên đã quyết một lòng dạ theo hầu lão Trần.
Khe Sa Đao một đầu
thông với Bình Sơn, đầu còn lại thông với bản Bắc lớn nhất trong vùng, tuy
khoảng cách theo đường chim bay không xa nhưng đường bộ hiểm trở nên ít người
qua lại. Nhóm người lão Trần đi theo anh chàng người Miêu, vượt núi xuyên rừng
cả ngày lẫn đêm, tờ mờ sáng ngày hôm sau thì nghe thấy tiếng gà gáy râm ran,
rốt cuộc đã tới được bản Bắc.
Bản Bắc còn có tên gọi
là bản Kim Phong, hình thành từ vài trăm năm trước, là nơi cư trú của nhóm
người Kim Miêu mưu sinh bằng nghề đào vàng, ngày nay trong bản còn có cả người
Di người Hán. Sơn dân vốn quen dậy sớm, trời vừa sáng đã lục tục chui ra từ các
căn nhà sàn, người nào người nấy bận bịu với công việc, quang cảnh thật ồn ào
náo nhiệt. Thời buổi loạn lạc, bản làng tuy ở nơi non cao rừng thăm thẳm nhưng
vẫn phải đề phòng bọn sơn tặc thổ phỉ tới cướp bóc, trong bản lập ra một đội
dân phòng, mang theo ná và giáo mác, gác ở đầu hẻm núi kiểm tra những thương
nhân từ nơi xa tới.
Lão Trần và Gà Gô đã
quen hành tẩu giang hồ, bị mấy sơn dân giữ lại xét hỏi liền đáp ứng thành thạo,
dễ dàng mạo danh thợ buộc lầu trà trộn vào bản. Bọn lão Trần phải cải trang vào
bản chủ yếu do bách tính trong núi đã căm hận phiến quân thổ phỉ đến tận xương
tủy, hễ thấy bóng dáng chúng, nếu không nhất loạt bắn ná thì cũng cuốn gói chạy
tuốt vào rừng sâu, muốn moi tin từ miệng sơn dân, nhất định phải cải trang,
tránh gây hoảng loạn không cần thiết trong đám dân bản.
Người trong bản thấy có
người từ bên ngoài tới đều tò mò quay lại, xem bọn họ là người bán rong hay
thương lái. Gà Gô láu tôm láu cá, thấy sơn dân kéo tới một lúc một đông bèn lên
tiếng chào hỏi, đoạn xướng lên bài khẩu tán nghề mộc của thợ buộc lầu. “Khẩu
tán” chính là “bài tuyên truyền quảng cáo” với khách hành khi hành nghề, chuyên
dùng để khoe khoang tay nghề bản thân, cũng là những lời có vần có điệu để kính
thiên cáo thần, mong được ăn nên làm ra, lúc thì hát khi lại đọc. Nghề nào có
khẩu tán nghề ấy, gánh hát có hí tán, thuyết thư có thư tán, nghề mối lái có
hiệu tử tán, nghề mổ lợn có sinh nhục tán, riêng nghề thợ mộc có những hơnười
loại khẩu tán, nào thương lương tán, khai đường tán…
Gà Gô tinh thông trăm
nghề, lại là kẻ tinh nhanh, giả gì giống nấy, lúc này xướng lên bài khai đường
khẩu tán, giống hệt mấy tay thợ mộc chính hiệu vẫn hành nghề trong núi, sơn dân
nghe anh ta hát xong thì đồng thanh reo hò cổ vũ, không tiếc lời khen: “Anh thợ
mộc này thật giỏi, hát khẩu tán hay quá!”, những sơn dân có mặt ở đó không ai
không thích.
Lão Trần và Hồng cô
nương đứng bên nghe hát cũng phải nhìn anh ta bằng con mắt khác. Nhìn từ góc độ
này, Gà Gô giống hệt một chàng thợ mộc trẻ trung tuấn tú, nhất cử nhất động đều
không chút sơ sẩy, đâu thể nhận ra thân phận thật sự của thủ lĩnh Ban Sơn đạo
nhân sở trường Phân Giáp Thuật, chuyên giết người phóng hỏa, đào bới biết bao
mộ cổ.
Lão Trần lo bị lép vế,
cũng vội họa theo: “Chẳng giấu gì bà con, ba anh em tôi tuy tuổi đời còn trẻ
nhưng tay nghề buộc lầu thì chẳng kém ai, biết nghề từ lúc còn nằm trong bụng
mẹ, buộc lầu buộc ghế không gì không tinh, ghép mộng đóng chốt đều kiêm hết
thảy, việc gì liên quan đến nghề mộc cứ gọi chúng tôi…” Lão mặt dày dạn khoác
lác một tràng, chỉ còn thiếu nước nhận mình là Lỗ Ban chuyển thế đầu thai.
Người Miêu cực kỳ kính trọng Lỗ Ban, tương truyền phương pháp dựng nhà của
người Miêu Động chính là do Lỗ Ban truyền dạy, nếu lão nói khoác tung giời sẽ
tự lộ ra sơ hở, chẳng ai tin nổi.
Hồng cô nương kia cũng
là tay mãi nghệ giang hồ xuất thân từ Nguyệt Lương Môn, khả năng ca xướng ca
khẩu tán chẳng kém gì Gà Gô và lão Trần. Ba người họ kẻ tung người hứng ăn ý vô
cùng, nhanh chóng có được lòng tin của đám sơn dân, ai thuê việc gì to tát phức
tạp thì họ lấy cớ lùi sang hôm sau, chỉ nhận việc vặt sữa chửa linh tinh, tay
dẫn đường người Miêu cũng bận bịu chạy tới chạy lui. Cứ thế tất bật đến tận
trưa thì nhờ bếp một người già trong bản để thổi cơm ăn, lúc này mới có thời
gian làm việc chính.
Bản Bắc cùng chung
phong tục với bản Nam mà lão Trần tới lần trước, tầng dưới nhà sàn nào cũng có
tô tem huyền điểu làm bằng gỗ đen bóng, xem chừng niên đại đã rất lâu. Trước
đây lão Trần không hề để ý đến chuyện này, vì từ xưa Tương Tây đã chịu ảnh
hưởng của nền văn hóa Vu Sở, tranh huyền điểu vẽ trên vách đá cổ và những tô
tem thế này có thể thấy ở khắp nơi, tuy thần kỳ cổ quái nhưng chẳng có gì đáng
lưu tâm.
Cặp mắt Gà Gô Gáy còn
tinh hơn lão Trần, nhìn vật hay người đều cực kỳ chuẩn xác, anh ta đặt bát cơm
xuống, thi lễ với chủ nhà rồi hỏi về ý nghĩa của các hình vẽ huyền điểu này.
Ông chủ nhà hồi trẻ là môn đệ của phái Kim Trạch Lôi Đàn, về sau lánh nạn mới
đến đây định cư, cũng đã hơn hai mươi năm rồi. Nghe Gà Gô hỏi lão lắc đầu quầy
quậy: “Huyền điểu thực ra chính là phượng hoàng đấy! Người miền núi Tương Tây
đa số đều thờ huyền điểu. Tương Tây có một thị trấn cổ ở biên thành, tên là
Phượng Hoàng, mạch núi thế núi giống như một con phượng hoàng đang dang cánh.
Người Tương Tây cho rằng phượng hoàng có thể trấn mạch bảo an nên mới mang gỗ
tốt khắc thành hình huyền điểu, mấy thứ đó quá đỗi bình thường ở chỗ chúng tao,
ở đây nhà nào cũng có huyền điểu do tổ tiên để lại, người khác đến đây sinh
sống phần lớn đều nhập gia tùy tục.”
Quả nhiên không ngoài
dự liệu, huyền điểu bắt nguồn từ nền văn hóa Vu Sở, Gà Gô và lão Trần nghe xong
đều lặng lẽ gật gù, có gạn hỏi thêm cũng chẳng moi được gì, đành lặng lẽ ăn
cơm, vừa ăn vừa nghe ngóng tình hình trong bản, tính kiếm xem có thứ gì khắc
chế được đám độc vật trong núi kia không. Bản Bắc này rất gần với Bình Sơn, vậy
mà thổ dân không trúng độc bao giờ, chắc hắn họ có bí quyết khắc độc nào đó mà
chính họ cũng không hề biết. Bọn người lão Trần đành giở thủ đoạn dõng tai nghe
ngóng, đích thân sục sạo khắp nơi.
Đúng lúc ấy chợt nghe
tiếng gà gáy vang, thì ra là con trai chủ nhà đang bắt một con gà trống trong
lồng, bát to đựng tiết và đôn gỗ để sẵn bên cạnh, con dao sống dày vứt ngay
dưới đất, trông bộ dạng hình như chuẩn bị giết gà.
Con gà trống này lông
vũ sặc sỡ, đã bị trói giật cánh khuỷu mà vẫn không mất đi dáng vẻ dũng mãnh uy
phong, thần thái rất cao ngạo khó thuần. Nó không nộ mà oai, cốt cách toát ra
từ cái mào đỏ chót, cứ thế mà gáy vang giữa ban ngày, không hề giống những con
gà trống thông thường. Cái mào của nó vừa to vừa đỏ, mỗi khi đầu nó động đậy
cái mào đỏ tươi lại rung lên, trông như ngọn lửa đang cháy. Lông trên mình nó
chia làm năm màu, mỏ và móng vuốt sắc nhọn lấp lánh vàng dưới ánh nắng ban
trưa, hình dáng cũng to gấp đôi con gà trống thông thường.
Gà Gô có con mắt hơn
người, nguyên lý cơ bản của Ban Sơn Phân Giáp thuật lưu truyền bao đời nay đều
nằm trong bốn chữ “sinh khắc chế hóa”, muốn tinh thông nguyên lý của sinh khắc,
cần phải biết hết bảo vật nhân gian. Anh ta vừa thấy con gà trống lông vũ sặc
sỡ thì biết ngay không phải vật thường, liền khen thầm: “Quả là thần vật!” Hòn
đá đang đè nặng trong lòng lập tức được hất bỏ, không ngờ đến bản Kim Phong mới
có nữa ngày, chưa kịp để ý kỹ càng đã gặp ngay việc này, xem ra thần vật phá mộ
cổ Bình Sơn đích thị là đây.
Lúc này con trai chủ
nhà đã xách con gà trống tới bên cọc tre, con dao phay lăm lăm trong tay chỉ
chực vung lên chặt đứt cổ con gà trong tích tắc, Gà Gô đang đờ đẫn nhìn con gà,
thấy tình thế nguy cấp vội hắng giọng hét lớn: “Hãy khoan!”
Chủ nhà và con trai
đang muốn giết gà, không ngờ lại bị tay thợ mộc trẻ tuổi can ngăn, đều không rõ
anh ta định thế nào. Nghĩ tay thợ mộc nhiều chuyện, ông ra bèn trách: “Nhà tao
giết gà liên quan gì đến người ngoài, mày đừng xen vào.”
Gà Gô cười cầu tài nói:
“Lão trượng chớ lấy làm lạ, chỉ vì tôi thấy con gà này tốt mã, đám gia cầm bình
thường sao có được tướng mạo phi phàm như nó thế này, đang yênang lành không
biêt sao lại đem giết nó? Nếu lão trượng buông dao phóng sinh tôi sẽ mua nó.”
Lão Trần cũng nói vào:
“Có phải lão tiên sinh giết gà đãi khách…chiêu đãi bọn tôi? Hà tất phải vậy,
cánh thợ mộc chúng tôi chỉ ngày rằm mồng một mới ăn mặn, mỗi người hai lạng
thịt, mà còn phải bớt này bớt nọ, đó là quy định lề thói từ xưa Tổ sư gia đã
đặt, không thể vi phạm, hẵng cứ hạ dao thả gà…”
Chủ nhà ỷ mình vốn là
môn đệ Kim Trạch Lôi Đàn, tuy lánh nạn ở bản Miêu thâm sơn cùng cốc nhưng không
xem đám thợ mộc buộc lầu ra gì: “Chúng mày trẻ người non dạ không hiểu lệ xưa.
Nhà tao giết gà không phải đãi khách, chỉ vì không thể để nó sống qua hôm nay,
dù chúng mày trả vạn tiền mua, tao vẫn phải chặt đầu nó.”
Chương 22 : Chó Không Quá Tám Năm, Gà Không Qua Sáu Tuổi
Lão chủ nhà không muốn
lỡ thì giờ, bèn bảo anh con trai lập tức giết gà, con trai ông ta là một gã cục
mịch to xác hơn ba mươi tuổi, tay trái anh ta đang túm chặt hai cánh con gà,
tay kia cầm con dao phay đã hoen gỉ. Cách giết gà không nằm ngoài bốn chữ “một
cắt một chặt”, đưa lưỡi dao kề sát cổ gà, cắt đứt mạch máu và khí quản, đợi cho
máu chảy hết gà ắt tắt thở. Một chặt là dao phây chém xuống, chặt lìa cổ gà,
nhưng gà trống là loài dũng mãnh vô song, nên tuy đầu đã rơi khỏi cổ nhưng phần
thân không đầu vẫn nhảy nhót lung tung do các dây thần kinh trong cơ thể chưa
chết hẳn, cảnh tượng thập phần máu me ghê rợn.
Đối với các gia đình
sơn dân nông dân, giết gà giết ngỗng là việc hết sức bình thường, cứ nhìn dáng
giết gà của con trai chủ nhà thì biết ngay anh ta định dung dao chém phăng đầu
gà. Gà Gô và lão Trần đá mắt nhìn nhau, hai người họ muốn giành lấy con gà của
lão chủ nhà chỉ là chuyện vặt, chưa cần nói đến cưỡng chế cướp không, chỉ cần
đập ra một thỏi “đại hoàng ngư” lấp lánh vàng chẳng nhẽ lại không mua được.
Nhưng thợ buộc lầu lấy đâu ra vàng thỏi, làm như thế chẳng hóa ra tự vạch áo
cho người xem lưng, khó tránh lộ thân phận, đến nước này đành phải tùy cơ ứng
biến, bước lên trước ngăn gã sơn dân kia giết gà.
Hai người họ là đầu sỏ
đám trộm cướp lục lâm, chuyên giết người cướp của chứ đâu phải là phường cắp gà
trộm chó tầm thường, tuy cải trang làm thợ buộc lầu nhưng tác phong cử chỉ vẫn
không giấu được tướng tá lẫm liệt, lời tiện miệng nói ra cũng tự thấp thoáng
khí độ trấn nhiếp.
Hai bố con chủ nhà năm
lần bảy lượt bị họ ngăn cản không cho giết gà, tuy bực mình nhưng thấy lời nói
cử chỉ bọn họ hiên ngang bất phàm, không dám tùy tiện nổi giận, chỉ trách rằng
: “Thợ buộc lầu chúng mày thật không biết điều, con gà nhà tao cho ăn uống mới
lớn từng này, muốn giết thì giết, muốn nuôi thì nuôi, làm thế nào là việc nhà
tao, đến ông trời còn không quản được nữa là…”
Lão Trần thấy Gà Gô cứ
nhất quyết mua bằng được con gà thì trong bụng đã hiểu tám chin phần. Gà trống
vốn là khắc tinh của loài rết, hơn nữa con gà này lại tuấn kiệt phi phàm, chắc
sẽ trấn nhiếp được con rết sáu cánh thành tinh dưới mộ cổ, có được con gà này
nắm chắc đại sự sẽ thành, việc cần làm bây giờ là làm sao dọa gạ gẫm để bắt nó
đi.
Lão đảo mắt một vòng
tính kế, đoạn quay sang cười hì hì với chủ nhà, chắp tay nói: “Lần lữa cản trở
việc của gia đình, hẵng xin lão trượng lượng thứ. Ba anh em chúng tôi đây vốn
chẳng phải ruột rà, vì cùng sư môn nên mới kết thành sư huynh sư muội, bao năm
nay vượt núi xuyên bản nương tựa lẫn nhau,ấy ngề buộc lầu làm kế sinh nhai, gặp
phải thời buổi loạn lạc vẫn quyết không chia đàn xẻ nghé, ngụm nước chia ba,
miếng lương khô bẻ đều. Chỉ vì năm xưa, trước bài vị Tổ sư gia từng cắt cổ gà,
đốt vàng mã, kết nghĩa anh em đồng lòng đồng dạ, tuy không dám sánh với kết
nghĩa vườn đào nhưng lời thề nguyền đến nay vẫn còn văng vẳng bên tai, có hoàng
thiên hậu thổ, thần nhân chứng giám cho lời thề kê minh, nếu có chút nào bội
phản, kết cục sẽ thê thảm như cái đầu gà bị chặt lúc đó, vì thế mà ba anh em
tôi đồng lòng thề đến chết không ăn thịt gà, cũng không để người khác giết gà
trước mặt mình, nếu gặp cảnh giết gà thì phải bỏ tiền chuộc mạng cho nó.”
Lão Trần bịa ra chuyện
lời thề kê minh, sau còn giở mánh khóe quen thuộc, bảo con gà này có bộ lông
ngũ sắc, mắt sáng như sao, quyết không phải vật tầm thường, nếu đem giết đi ắt
sẽ xúi quẩy, nhẹ thì chiêu tai gọi họa, nặng thì trong nhà mất người, gặp họa
đao binh. Cánh thợ mộc dựng nhà xưa nay nắm giữ bí thuật của Lỗ Ban, rất giỏi
yểm thắng[25] tương trạch, còn biết bày trận bùa phép ở các cửa. Nghe nói có
nhà đang rất giàu có, sau khi chuyển vào nhà mới gia cảnh cứ lụn bại dần, may
nhờ cao nhân chỉ dạy mới biết trong lúc xây nhà mới, do ăn bớt tiền của thợ mộc
nên bị họ bày trận áp thắng trong nhà, quả nhiên sau khi dỡ tường đào xuống bốn
chân cột ở bốn góc thì thấy bên dưới chôn bốn cỗ xe ngựa chở đầy tiền đồng, tất
cả được làm bằng giấy cứng, bốn cỗ xe quay về bốn hướng khác nhau, rất giống
như đang chở tiền bạc của gia chủ ra khỏi nhà. Sau khi biết được bùa trận mà
thợ mộc yểm trộm, gia chủ cũng không bỏ bốn cỗ xe ngựa giấy kia đi mà quay đầu
xe lại, đem tài vật từ ngoài đổ về nhà, từ đó trở đi quả nhiên tiền tài như
nước.
Đây chỉ là truyền
thuyết dân gian nhưng chứng tỏ phép thuật của phường thợ mộc đã có từ xưa, cho
nên bách tính không hế mảy may nghi ngờ chuyện thợ buộc lầu thông hiểu rất
nhiều dị thuật. Lão Trần dựa vào đó mà hù dọa, lời nói có tình có lý, còn mang
chuyện năm xưa ba sư huynh muội cùng lời thề kê minh ra nói, nói đi nói lại,
rốt cuộc cũng chỉ vì một mục đích, là chuộc mạng cho con gà tướng tá bất phàm
này.
Lão Trần học rộng hiểu
nhiều, lý sự cao thâm, lại có tài tùy cơ ứng biến, có câu phú quý từ miệng hung
cát từ tâm, nói bã bọt mép chỉ mong xoay chuyển được ý định của chủ nhà. Ai ngờ
chủ nhà lòng gang dạ sắt, không xem lời lão ra gì, vẫn lắc đầu nói: “Phường
dựng nhà chúng mày biết một mà không biết hai, giao con gà này cho chúng mày
nghĩa là đổ hết tai họa cho chúng mày đấy, chuyện thất đức như vậy sao tao làm
được? Con gà này không phải là gà mà là yêu vật, chúng mày sinh sau đẻ muộn lẽ
nào chưa nghe câu “chó không quá tám năm, gà không qua sáu tuổi”?
Lão Trần và Gà Gô khi
trước không hề nghĩ tới phong tục cổ xưa này, giờ nghe nói mới vỡ lẽ, “Ồ! Hóa
ra giết gà là vì thế!” Thì ra chủ nhà vốn là môn đệ của Kim Trạch Lôi Đàn, vùng
núi Tương Tây có hai Lôi Đàn lớn là Hồ và Kim, đều là những đạo môn tiếng tăm
lừng lẫy. Hai môn phái này có cả đạo nhân và phương sĩ, giỏi bùa Thần Châu, mấy
trăm năm nay mưu sinh bằng ngề bê nước đuổi thây hoặc trừ mê giải độc. Những
năm gần đây giặc cướp nổi lên, cuộc sống lương dân không sao yên ổn, tình hình
trong môn phái sa sút không được như xưa, những người lưu lạc tới núi sâu heo
hút sống qua ngày như lão trượng đây không phải là ít. Ông ta tuy chẳng là gì
trong Kim Trạch Lôi Đàn nhưng cũng thông hiểu một vài phương thuật, tuyệt đối
tin vào thuyết Dịch Yêu.
Dịch Yêu là một cuốn cổ
tập, bắt đầu được lưu truyền từ thời Tam Quốc Lưỡng Tấn, chuyên giảng về những
hiện tượng yêu dị trên đời, cái gì là yêu? Dịch Yêu cho rằng không hợp với lẽ
thường tất ắt sẽ là “yêu”, một khi có hiện tượng đặc biệt xuất hiện không hợp
với lẽ thường, đó chính là điềm báo về thiên hạ đại loạn hoặc đại nạn cập kề.
“Chó không quá tám năm, gà không qua sáu tuổi” là cách nói bắt nguồn từ cuốn
Dịch Yêu, do ảnh hưởng tư tưởng mê tín phong kiến trong xã hội cũ mà nhân gian
vẫn rất mực tin tưởng.
Câu nói này chỉ những
loài cầm súc chó gà nuôi trong nhà đều không thể nuôi quá nhiều năm, bởi nếu để
chúng sống quá lâu trong xã hội loài người, hằng ngày tiếp xúc với con người,
tai nghe tiếng người nói, mắt quan sát nhất cử nhất động của con người, dần dần
chúng sẽ thông hiểu tính người, sớm muộn cũng thành tinh thành quái, làm ra
những việc xấu hãm hại con người.
Nghe kể rằng năm đó có
một phú ông, con cháu tôi tớ đầy nhà, phú ông nuôi một con chó trắng, con chó
này hiểu ý chủ nên rất được yêu chiều, hằng ngày không rời chủ nửa bước, chủ ra
ngoài chơi cũng dẫn nó đi theo. Về sau lão phú ông đột ngột lâm bạo bệnh qua
đời, sau khi chôn cất xong xuôi, người nhà không thấy con chó già của ông ta
đâu nữa, mọi người tưởng con chó nhớ thương chủ, chủ nó chết nó cũng đau lòng
bỏ đi hoặc chết ở đâu rồi, nên chẳng mấy để tâm.
Không ngờ đúng một năm
sau ngày mất, một tối nọ lão phú ông đột ngột trở về, người nhà lúc đầu tưởng
là quỷ nhập tràng nên ai cũng sợ, nhưng lại thấy lời nói cử chỉ của ông đều
giống hệt như lúc sinh thời. Ông ta bảo một năm trước mình bị hôn mê ngất đi,
nên mọi người cứ ngỡ mắc bạo bệnh mà chết, đem đi chôn sống, may sao cơ duyên
xảo hợp, lúc đó có một đạo sĩ ngang qua mộ phần, cứu được ông ta, sau đó ông ta
đi theo đạo sĩ du ngoạn khắp danh sơn ngũ nhạc, mãi hôm nay mới về đến nhà.
Người nhà thấy lão phú
ông còn sống thì mừng lắm, ông chủ cũng hệt như trước, thói quen và khẩu vị ăn
uống chẳng thay đổi chút nào, ban ngày xử lý mọi việc to nhỏ trong nhà, thưởng
phạt phân minh ai ai cũng phục, tối đến lại ngủ cùng tam thê tứ thiếp, cứ như
vậy suốt hơn nửa năm, gia tộc lại trở nên êm ấm hưng thịnh.
Đến hôm sinh nhật, cũng
là ngày mừng thọ lão phú ông, buổi tối có tiệc đãi khách nên ông ta uống hơi
quá chén, hơi men chếnh choáng ngủ gục ngay bàn. ỗng nhiên một cơn gió lạnh
thổi ngoài cửa vào, đèn nến trong sảnh tắt ngấm, người hầu vội châm lại đèn
định dìu ông chủ vào trong nghỉ ngơi. Nào ngờ đèn vừa sáng, chẳng thấy ông chủ
đâu, chỉ có con chó già lông trắng đang cuộn tròn trên chiếc ghế bành ngủ say
như chết, mùi rượu từ mõm nó phả ra nồng nặc. Tất cả những người có mặt đều tái
mét mặt mày, bấy giờ mới biết lão phú ông đã chết từ lâu, nửa năm nay là con
yêu quái này làm loạn trong nhà, bèn nhân lúc nó đang ngủ say dung dao chặt
thành từng khúc, rồi đem đốt xác cháy thành tro.
Từ thời Tần Hán tới
thời Lưỡng Tấn, những câu chuyện đại loại như thế này nhan nhản khắp nơi, không
chỉ bách tính đinh ninh là thật mà bậc đại phu hễ mở mồm ra cũng hay nhắc tới.
Những việc kì quái ấy được coi là điềm báo đặc biệt cho họa binh đao hoặc quân
vương vô đạo. Mãi đến tận sau này, người ta mới thôi không nhắc tới nữa, nhưng
chó mèo vịt gà nuôi trong nhà vẫn thường tránh không để chó nuôi quá tám năm,
gà chăn qua sáu tuổi. Bởi nhiều người vẫn tin rằng nếu để chúng lại trong nhân
gian quá lâu, hằng ngày chứng kiến mọi sự vật trong nhân thế ắt nảy sinh tư
duy, chỉ cần vượt quá thời gian sáu năm tám tuổi, chúng sẽ có thể làm ra những
việc tà ma người thường khó mà tin nổi, nhất định phải đề phòng, ngay Khổng Lão
Phu Tử cũng nói “không thể làm bạn với súc sinh”.
Lão trượng ở bản Kim
Phong nuôi con gà trống này đã gần sáu năm, dáng vẻ nó quả là tuyệt đẹp, năm đó
trong bản gà đẻ nhiều trứng nhưng đều hỏng hết, nhà ông chỉ có mỗi một quả nở
ra con gà trống này, những thứ khác đều là vỏ không. Nghĩ rằng con gà trống này
là kết tinh của trời đất, nên ông ta yêu quý coi nó như báu vật, ngày ngày đều
cho nó ăn những thứ ngon lành, con gà trống cũng không phụ lòng yêu của chủ,
trong núi rất nhiều trùng độc và rắn hổ mang, là mối đại họa đối với sơn dân,
con gà trống ngày đêm tìm bắt trùng độc dưới sàn nhà, khi trời tờ mờ sáng lại
cất tiếng gáy vang, chuẩn xác còn hơn đồng hồ báo thức nên chủ nhà không nỡ
giết. Có điều thời hạn sáu năm đã đến, để cho nó sống sợ không lành, thể theo
lệ cũ, hôm nay trước khi trời tối nhất đ̏nh phải mang nó ra cắt tiết, bằng
không gặp rắc rối thì hối cũng không kịp, vậy nên chủ nhà bèn cho nó ăn một bữa
no diều, rồi mài dao phây thật sắc chuẩn bị giết gà.
Lão Trần rốt cuộc cũng
rõ nguyên do, nếu đổi vào tình cảnh khác, tốt xấu gì chắc cũng lừa lấy được con
gà trống này, nhưng gà qua sáu tuổi xưa nay vốn không lành, nếu để lại sẽ đem
đến xui xẻo cho chủ nhà. Sơn dân Tương Tây nhất quyết tin như vậy, ông chủ nhà
này tính tình lại có vẻ ngang ngược, không biết nói sao để ông ta hồi tâm
chuyển ý? E dẫu đổi hai thỏi đại hoàng ngư ông ta cũng chẳng cần, nước bọt
không có tác dụng thì phải giở thủ đoạn ra thôi.
Ý nghĩ vừa lóe lên, lão
lập tức đánh mắt với Hồng cô nương. Hồng cô nương kín đáo gật đầu, cô ả rất
giỏi món Cổ thái Hí pháp của Nguyệt Lương Môn. Trong Cổ thái Hí pháp có rất
nhiều phương pháp bí mật tương tự như cạm bẫy, được gọi là “niêm, bài, hợp,
qua, nguyệt, biệt, liên, khai”, trong đó quyết “nguyệt” là một phương pháp
giống như thuật che mắt, người xem dù gần ngay trước mắt vẫn không phát hiện ra
người dụng pháp thế nào để cắp núi qua biển, dời hình đổi vật. Nghệ nhân của
Nguyệt Lương Môn giỏi nhất thuật này, chỉ cần Hồng cô nương ra tay dung thuật
che mắt giấu ngay con gà ngay trước mặt cha con chủ nhà, thì dù cha con họ có
mắt lửa ngươi vàng cũng không phát hiện ra cô ả làm thế nào, trơ mắt nhìn nhóm
thợ mộc nẫng mất con gà, mà không tìm ra vật chứng thì có bắt bẻ bằng giời.
Hồng cô nương đang định
động thủ thì thấy Gà Gô thu tay vào ống tay áo, chỉ để lộ ra hai ngón tay khẽ
xua, đó chính là ám hiệu trong giới giang hồ, ý bảo cô ta và lão Trần chớ vội
manh động, nếu để chuyện xảy ra ngay trong bản, tuy bọn họ có thể dễ dàng thoát
thân, nhưng sẽ gay go tới kế hoạch trộm mộ cổ Bình Sơn.
Lão Trần và Hồng cô
nương biết Ban Sơn đạo nhân hẳn có diệu kế, bèn án binh bất động, lẳng lặng
quan sát, nửa vô tình nửa cố ý bước đến cạnh hai cha con chủ nhà, đợi lát nữa
nóiãi mà ông ta vẫn không nghe, thì lập tức ra tay cướp lấy con gà, quyết không
để hai cha con họ giết nó.
Gà Gô nói với lão chủ
nhà: “Chó không quá tám năm gà không qua sáu tuổi, theo lệ cũ quả thật không
sai, nhưng thiên hạ thiếu gì chuyện lạ,không nên theo lệ cũ mà lý giải mọi
điều, tiểu tử bất tài, xin được nói lý để lệnh tôn không giết con gà này.”
Chủ nhà thấy Gà Gô thần
thái ung dung, lời nói như phun châu nhả ngọc, bụng bảo dạ không nên thấy anh
chàng này ít tuổi mà xem thường, nếu anh ta thật là thợ buộc lầu thì cũng quyết
không phải hạng tầm thường, nhưng ông vẫn không tin anh ta có thể nói ra lời
hay ý thật gì thuyết phục được mình, bất quá cũng chỉ như lão Trần kia, mở mồm
là mấy câu lừa gạt giang hồ khí độc với chả ma thổi đèn, thôi thì cứ xem anh ta
nói gì. Nghĩ vậy, ông liền bảo: “Thôi được, để tao nghe xem hậu sinh có cao
kiến gì, nếu mày nói làm tao tâm phục khẩu phục thì con gà này sẽ tặng không
cho mày. Thực lòng tao không nỡ giết nó, chỉ vì lệ cũ phải theo, tao làm sao
cãi lại? Nếu mày không nói được thì đừng xía vào nữa nhé!”
Gà Gô sớm đã có chủ ý,
không muốn giở thủ đoạn giang hồ ra lừa gạt sơn dân, chỉ đợi lão trượng nói ra
câu này, hai người cụng tay giao ước. Đoạn đưa tay lên ôm con gà lông ngũ sắc
trong tay chủ nhà. Con gà trống tuy chết đến đít, nhưng chẳng biết nó không
hiểu hay không sợ mà chẳng thèm giãy giụa, vẫn giương mắt nghển cổ, thần thái
uy dung, phong độ điềm tĩnh hiên ngang như đại tướng thống binh.
Gà Gô để mọi người nhìn
kỹ con gà, rồi nói: “Chó không quá tám năm gà không qua sáu tuổi tuy là phong
tục cổ xưa nhưng đến nay vẫn có nhiều người tin phục, đương nhiên không thể
không theo. Phàm là gà nuôi trong nhà đều không thể để nó sống qua sáu tuổi,
nhưng con gà này không phải là gà, nên không cần phải tuân theo lệ này.”
Ông chủ nhà nghe thế
thì lắc đầu quầy quậy, lão Trần cũng thầm kêu khổ, nghĩ bụng: “Gà Gô ơi là Gà
Gô, thế mà nhận làm thủ lĩnh Ban Sơn, lại đi nói con gà trống này không phải
gà, không là gà thì là cái gì? Chẳng lẽ là chim? Đến trẻ lên ba còn không tin được
thì sao thuyết phục được lão già này, xem ra phải theo lệ cũ của phường lục lâm
chúng ta…thẳng tay mà bắt gà đi thôi.”
Gà Gô còn chưa nói
xong, thấy mọi người đều có vẻ không tin liền nói tiếp: “Đã là gà thì mí mắt
phải ngược với người, mí mắt của người nằm ở phía trên nên phần mí mắt có thể
động đậy gọi là chớp mắt, còn loài gà mí mắt lại nằm bên dưới. Mọi người sao
không để ý kỹ xem con gà trống này mí mắt thế nào?”
Chủ nhà trước nay không
hề để ý việc này, nhưng người nuôi gà ai mà chẳng biết mí mắt của gà nằm ở
dưới. Nhìn kỹ thì thấy con gà trống lông ngũ sắc đang nghển cổ này quả nhiên có
mí mắt ở trên giống người, nếu không chú ý kỹ chắc sẽ bỏ qua chi tiết này, ngay
cả lão Trần học rộng biết nhiều lẫn Hồng cô nương cũng đều cảm thấy kỳ lại,
liền hỏi: “Thế là thế nào?”
Gà Gô nói: “Mí mắt như
vậy chỉ vì nó không phải là gà.”
Câu trả lời này khiến
mọi người vẫn lơ mơ mờ tịt, ơ hay, không phải gà thì là gì?
Gà Gô chẳng buồn làm vẻ
thần bí nữa, nói thẳng luôn: “Tương Tây từ xưa đã có tô tem huyền điểu phượng
hoàng, địa danh đặt ra cũng có liên quan về truyền thuyết phượng hoàng thời cổ,
giống như huyện này gọi lả huyện Nộ Tinh. Nô Tinh chính là tượng phượng gáy, mí
mắt con gà này nằm ở phía trên, lại them bộ lông ngũ sắc với móng vuốt ánh
vàng, sao có thể là gà thường? Nó vốn chính là một loại phượng hoàng vô cùng
hiếm, khắp thiên hạ này chỉ có huyện Nộ Tinh đất Tương Tây, gà Nộ Tinh!”
Nguồn tangthuvien
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét