Chương 13: Người chết…thân
phận bất minh
Giáo sư
Tôn nói hang động này vốn là nơi để cúng tế Vu Lăng vương, còn mộ
của Lăng vương hẳn được chôn giấu ở chỗ sâu nhất trong hẻm núi Quan
Tài. Càng khiến người ta khó tin hơn là, vị vương này không phải
người, mà là một con “ô dương” toàn thân đen trũi, năng đến nghìn cân.
Tôi vẫn còn vô
vàn thắc mắc, đang định hỏi lại thì Tôn Cửu gia đã nằm bò ra chăm
chú xem xét cái bệ đá, tôi đành ôm đầy một bụng nghi vấn, kéo Tuyền
béo đi xung quanh xem xét địa hình, hang động giữa lưung chừng núi này
rất lớn, đằng xa gió dữ rít lên như thần khóc quỷ gào, thiết nghĩ
cái hang này hẳn chạy xuyên qua núi, chắc hẳn có lối ra thông sang
một sơn cốc khác.Đợi được đến lúc Tôn Cửu gia dập lại hết toàn bộ văn tự ghi chép sự tích của Ô Dương vương thì đã đến nửa đêm, chúng tôi đành tìm một góc trống trải, đốt lửa lên, qua đêm trong hang động.
Giáo sư Tôn ngồi trước đống lửa vừa sắp xếp lại các tư liệu thu thập được trong ngày, vừa câu được câu chăng kể cho chúng tôi nghe truyền thuyết ghi chép trên bia. Cái bệ đá bên dưới ghế ngồi bằng xác người của Ô Dương vương có từ thời Đại Vũ trị thủy, văn tự ký hiệu điêu khắc cực kỳ tỉ mỉ, hoa văn chạm khắc theo lối “lôi văn khinh trọng”, chữ là kiểu chữ “cổ triện Oa Thiền”, người bình thường căn bản không thể nào hiểu nổi những ký hiệu quái dị như trong sách trời này, nhưng giáo sư Tôn đắm chìm trong việc nghiên cứu chữ cổ đã mấy chục năm, dốc hết tâm huyết vào đó, thành tựu không phải tầm thường đám học giả chuyên gia binh thường không thể so sánh, nên cũng đọc hiểu được bảy tám phần nội dung ghi chếp.
Tôi thầm nhủ mình may mắn, nếu không phải nhất quyết lôi bằng được Tôn Cửu gia đến Thanh Khê, chỉ dựa vào ba người tôi, Shirley Dương và Tuyền béo thì dẫu có nhìn thấy những văn tự cổ đại này cũng lờ đi coi như không thấy. Nghĩ đọan liền im bặt, tập trung lắng nghe giáo sư Tôn giảng giải. Thì ra những câu ám ngữ chỉ dẫn cách tìm lối vào mộ cổ Địa Tiên này, ngoài ẩn chứa bí mật phong thủy thanh ô, quả nhiên cũng có liên quan mật thiết đến những truyền thuyết thời xừa ở hẻm núi Quang Tài.
Thời xa xưa, vì địa hình mạch núi Vu Sơn rất đặc thù, khu vực này liên tiếp gặp lũ lụt, thiên tai quanh năm, mỗi năm đều có vô số người và súc vật bị dòng nước nhấn chìm, làm mồi cho lũ tôm cá dưới sông.
Đương khi không biết phải làm sao, trong núi chợt xuất hiện một vị ẩn sĩ, thể hình khôi vĩ, mặt đầy râu ria., thân vận áo choàng đen, tự xưng mình là Vu Lăng đại vương, có thuật dời núi, có thể sai sử âm binh khơi thông dòng nước.
Nhưng ông ta đưa ra hai điều kiện, một là trong khi tiến hành công trình dời núi khơi sông, phải cung phụng rượu thịt cơm nước đầy đủ, đến giờ cơm thì đem cơm rượu chất đống trước cửa hang trong núi. Trước cửa hang có một cái đỉnh lớn, dân chúng đưa cơm đến rồi gõ đỉnh ba tiếng, sau đó phải nhanh chóng lánh đi.
Điều kiện thứ hai là xin thiên tử gia phong quan tước để biểu dương công đức của ông ta, bấy giờ triều đình đang đau đầu vì công trình quá lớn, dù chịu xuất bạc xuất lương thực và tráng đinh cũng không thể làm nổi việc dời núi thay dòng, trong triều lại cực kỳ coi trọng các cao nhân đắc đạo nên lập tức đồng ý ngay.
Vây là Vu Lăng vương ngày đêm làm phép, sai sử âm binh âm tướng khơi dòng nước dữ, từ đó trong núi ngày nào cũng mờ mịt mây mù, tiếng phá đá dời núi ầm ầm như sấm. Dân trong vùng cảm kích công đức ấy, đã chọn một cô gái họ Lý gả cho Vu Lăng vương làm vợ, về sau, việc chuẩn bị đồ ăn thức uống cúng tế âm binh, đều do vị phu nhân này đích thân đốc thúc.
Công trình trị thủy vừa khó khăn lại kéo dài dai dẳng, một hôm, trời đột nhiên đổ mưa lớn, Vu Lăng vương chỉ huy âm binh khơi dòng bất lợi, rượu thịt đưa đến hai ngày liền vẫn không đụng tới. Phu nhân lo lắng trong lòng, mới dẫn người mang đồ ăn vào núi.
Đến nơi công trình khơi sông đang tiến hành, mọi người ai nấy đều kinh hãi. Trong hẻm núi có một con lợn đen khổng lồ đang đứng giữa dòng nước, lấy đầu húc vào núi đá, sau lưng nó là vô số quỷ mị đang vận chuyển đát đá. Thì ra Vu Lăng vương chính là con ô dương trong núi tu luyện hóa thành, muốn khơi dòng phải hiện nguyên hình dùng sức quỷ thần khai phá, vì vậy không chịu để dân chúng vào núi gặp mặt.
Vu Lăng vương bị dân chúng nhìn rõ nguyên hình, từ đấy ẩn cư trong núi, không chịu tiếp tục công việc nữa, lại càng không còn mặt mũi nào gặp phu nhân. Phụ nhân quỳ trước núi khẩn cầu vô ích, đành gieo mình xuống vách đá tự vẫn. Vu Lăng vương bấy giờ mới thẩy hổ thẹn với phu nhân, bèn suất lĩnh âm binh khai thông nốt đoạn sông cuối cùng, loại bỏ hoàn toàn mối lo lũ lụt của dân cư trong vùng.
Triều đình ban trọng thưởng, muốn mời Vu Lăng chân quân đi trị thêm một đoạn sông cũng thường gặp lũ lụt nghiêm trọng, nếu thành công sẽ lập tức phong vương hầu. Nhưng Vu Lăng vương lại nói từ nay sẽ quy ẩn sơn lâm, trừ phi phu nhân sống lại, bằng không vĩnh viễn không bao giờ dời núi khơi sống nữa. Ngày từ biệt, có cả ngàn vạn người đến cung tiễn.
Vu Lăng vương say khướt, đi lạc vào núi Tây Lăng, hiện nguyên hình nằm lăn ra ngủ, kết quả bị sơn dân trong vùng không hiểu chuyện bắt sống, lập tức trói nghiến lại, đun một nồi nước to, cạo lông chọc tiết náo động một hồi. Khi đám thuộc hạ tìm được đến nơi, thì bộ lòng của đại vương đã nấu được một lúc lâu rồi.
Sau đó, khắp vùng liền xuất hiện ôn dịch, kế đó châu chấu bay đến che kín cả bầu trời, dân chúng đều nói là do âm hồn của Vu Lăng vương chưa tan, bèn xây một ngồi một lớn trong hẻm núi, thu liện những phần xương cốt còn sót lại đem đi an táng, nhưng cũng chỉ thu thập được một ít da lông xương vụn, cái đầu chắc đã bị ăn mất, không sao tìm lại được nữa. Sau đấy, dân chúng lại xây điện tế, đẽo tượng ngọc đầu đồng để thờ cúng, năm nào cũng tế bái đầy đủ.
Những khe núi đan xen trong khu vực hẻm núi Quan Tài này, cùng con đường điểu đạo hiểm trở trên vách đá, đều là di tích năm xưa Vu Lăng vương sai sử âm binh khơi dòng, những người chết trong quá trình khơi sông trị thủy bao đời nay đều được cho vào quan tài treo, rồi theo dòng nước lũ dần dần rút xuống mà được an táng trên vách núi, thành tầng tầng lớp lớp quan tài như ngày nay. Vốn chỉ là hành vi vô tình, không ngờ lại tạo thành một hình bóng không đầu khổng lồ, có lẽ cũng là điềm báo Vu Lăng vương phải mất mạng. Trước khi ra khỏi núi, Vu Lăng vương cũng từng dẫn âm binh đi đào mạch khoáng muối Vu trong núi, những giếng khai thác muối trong hẻm Quan Tài chính là nơi đặt lăng mộ. Từ điện tế này, phải đi qua một đoạn “điếu đạo trăm bước” cực kỳ hiểm trở mới đến được lối vào lăng.
Giáo sư Tôn đọc hết nguyên văn đoạn ghi chép này cho chúng tôi nghe, bấy giờ tôi mới sực tỉnh ngộ: “Thì ra đoạn ẩn ngữ năm xưa trung đoàn trưởng Phong để lại, trên thực tế chỉ có câu cuối cùng là hữu dụng, cũng có thể đây chỉ là đoạn đầu tiên, ý muốn nói lối vào mộ cổ Địa Tiên có khả năng được giấu trong huyện một ban đầu của Ô Dương vương, vậy nên: “Muốn đến Địa Tiên, hãy tìm ô dương”. Truyền thuyết Ô Dương vương mở núi khai sông chính là đầu mối quan trọng để tìm thấy lăng mộ, nhưng đây chỉ là bước đầu tiên để tìm kiếm thôn Địa Tiên, tiếp sau đấy chắc vẫn còn những gợi ý khắc, nhưng giờ thì không thể biết được nữa rồi.”
Đối với truyền thuyết về Ô Dương vương, Shirley Dương cũng có nhiều điểm thắc mắc, bèn hỏi giáo sư Tôn: “Truyền thuyết này nghe chẳng giống sự kiện lịch sử gì cả, theo thuyết này, Vu Lăng vương là người đã mở núi khơi dòng, có công có đức với dân, nhưng cái ghế bằng xác người trong sơn động lại quá bạo nghiệt, khác xa những sự tích được ghi lại trong bia văn, trong hẻm núi Quan Tài này liệu có mộ của Vu Lăng vương thật không?”
Giáo sư Tôn đáp: “Những văn tự khắc trên bia đá đỉnh đồng đại để đều là những lời ca tụng công đức, không thể tin hết được, nhưng những thứ còn sót lại sau nghìn năm ở đây khiến người ta không thể không tin lăng mộ của Vu Lăng vương chính nằm trong hẻm núi Quan Tài này. Có điều, sự thật lịch sử chưa chắc đã như vây. Truyền thuyết Ô Dương vương hiện nguyên hình mở núi khơi dòng mang nhiều màu sắc thần thoại, đương nhiên không thể coi là thật được. Ngoài ra, chuyện này không hề được ghi chép trong các sử liệu và địa chí, văn hóa Vu Tà cổ xưa thần bí, có nhiều sự việc đã bị nhấn chìm trong dòng chảy lịch sử, đến giờ không thể khảo chứng được nữa rồi.”
Tuyền béo cũng chõ miệng vào: “Tôi thấy hẻm núi Quan Tài này hiểm trở như thế, với năng lực lao động nguyên thủy của con người xưa không thể khai thông được đâu, chắc toàn là những lời tự trát vàng lên mặt mình thế thôi. Vị đại vương không đầu này hẳn cũng là một kẻ tội ác chất chồng, sợ sau khi chết bị người ta đổ đấu nên mới kiếm người khác bịa đặt chuyện ở trước mộ ấy mà. Có điều, nói đi cũng phải nói lại, dù Vu Lăng vương sinh tiền có bạo nghiệt thế nào chăng nữa thì lúc chết bị người ta xẻ thịt chặt đầu nấu lẩu ăn, cũng coi như báo ứng rồi.”
Giáo sư Tôn nói: “Lời này của cậu cũng có lý, theo kinh nghiệm của tôi, Vu Lăng vương chưa chắc đã là ô dương gì đó, lịch sử cổ đại Trung Quốc có quá nhiều trường hợp phải lật lại kết luận rồi, trở tay làm mây, lật tay làm mưa, chuyện gì cũng không thể một lời mà định luận được. Tôi nhớ trong sử liệu cũng nhắc đến sự tích một vị vương hầu khá giống Ô Dương vương này, có điều không phải Vu Lăng vương, mà là Long Xuyên vương. Tương truyền, Long Xuyên vương tính tình tàn bạo xa xỉ cùng cực, nhưng lại có công khơi sông đào lạch, tiêu trừ mối nguy lũ lụt, công tội khó bề đánh giá. Lúc chết, ông ta từng bị loạn đao phân thây. Con cháu ông ta sợ có người vì báo thù mà đào lăng mộ ông ta lên, vì vậy lúc hạ táng đã thay đổi danh hiệu, lại dùng nhiều thủ đoạn che tai mắt người đời, còn về việc Long Xuyên vương là kẻ thống trị ở khu vực nào, đến giờ vẫn chưa có kết luận thống nhất. Nom những di tích ở hẻm núi Quan Tài này, tôi cảm thấy Long Xuyên vương rat có khả năng là Di Sơn Vu Lăng vương.”
Tôn Cửu gia xưa nay trong công việc đều không dám nói nhiều, nhưng trước mặt chúng tôi, lão ta đương nhiên không cần sợ lỡ lời, vì vậy vừa mở máy liền có dấu hiệu hơi mất kiểm soát, cứ thao thao bat tuyệt việc kinh dãn sử, kế đó lại bàn về Long Xuyên vương, nói người này biết dị thuật. Thời cổ đại, muốn mở núi khơi sông đều không thể không vận dụng phương thuật, nếu không biết bố cục phương hướng của núi non sông ngòi thì không chỉ uổng công vô ích, mà còn gây ra hậu quả vô cùng. Khi nghiên cứu Long cốt thiên thư, giáo sư Tôn đã phát hiện rất nhiều ghi chép về động đất, lũ lụt...
Tôi bảo giáo sư Tôn: “Mặc xác lão là Ô Dương vương hay Long Xuyên vương, lăng mộ của lão đã bị đào từ mấy trăm năm trước rồi, thị phi thành bại ngoảnh đầu lại cũng chẳng còn gì nữa, vì vậy chúng ta khỏi cần khảo chứng công tội trong lịch sử làm gì, trước mắt phải nghĩ cách tìm được đoạn điểu đạo trăm bước kia đã. Nếu cái hang có tượng người ngọc với ghế xác người này đúng là nơi để tế mộ, dựa theo bố cục phong thuỷ của mộ táng, lối vào mộ đạo, chắc chắn ở phía sau người ngọc, cũng không khó kiếm lắm đâu. Tôi chỉ lo vào được mộ đạo rồi cũng chưa xong chuyện thôi.”
Giáo sư Tôn và Shirley Dương cũng lấy làm lo lắng, án ngữ của trung đoàn trưởng Phong để lại chỉ có đoạn đầu tiên, sau khi tìm được lối vào mộ Ô Dương vương, chúng tôi sẽ chẳng còn gì để tham khảo nữa, đến lúc ấy chỉ có thể đi bước nào hay bước ấy, không ai biết còn bao xa mới đến mộ cổ Địa Tiên. Cả bọn bàn bạc hồi lâu, cũng chỉ kết luận được rằng hung cát khó lường, tiền đồ mờ mịt.
Nghỉ ngơi trong hang động đến sáng sớm, chúng tôi vực dậy tinh thần, tiếp tục tiến sâu vào bên trong, quả nhiên hang động này xuyên qua lòng núi, tận cùng bên này là một sơn cốc khác cũng thuộc khu vực hẻm núi Quan Tài, tuy rộng hơn khu vực treo đầy quan tài bên kia nhiều, nhưng địa hình cũng rất hiểm trở.
Trong núi mây mù vẩn vít, mênh mênh mang mang ngút tầm mắt, dưới đáy khe núi là dòng nước cuồn cuộc ngất trời, bị vách đá ngăn trở, hình thành nên một chỗ ngoặt hình chữ “a”, còn vùng thượng du phía xa xa, là một thác nước ầm ầm như sấm động, dòng nước xiết ở trong hẻm núi đổ dồn rồi chuyển hướng gấp gáp, làm bắn lên một màn bụi nước mù mịt, như một con rồng khổng lồ lóng lánh vảy bạc đang bay lượn giữa tâng mâng chợt lao xuống đáy khe sâu thăm thẳm, tách rời hai bên vách núi.
Tôi đưa mắt nhìn dòng nước xiết cuộn chảy bên dưới ba bốn lượt. Tuy không sợ độ cao, nhưng tôi cũng thấy chóng cả mặt, lại ngẩng lên nhìn sang vách đá đối diện, quả nhiên có rất nhiều điểu đạo ngoằn ngoèo, tựa như một tấm mạng nhện khổng lồ đục sâu vào vách núi cao muôn trượng, chằng chịt đan xen, nhất thời nhìn mà hoa hết mắt.
Shirley Dương giơ ống nhòm lên quan sát một hồi, bat giác trù trừ nói: “Phía đối diện phải có mấy trăm con đường đẽo vào trong vách núi, ngoài rất nhiều đoạn đường cụt ra, khá nhiều chỗ dẫn đến những miệng hang khác nhau, làm sao biết điểu đạo trăm bước rốt cuộc là chỉ đoạn nào đây?”
Tôi bảo đường cuống lên thế, tối qua Tôn Cửu gia đã bỏ sức không ít, bằng không làm sao biết được lai lịch của đại vương không đầu? Nhưng công lao không thể để một mình ông ta chiếm hết được, hôm nay để tôi cho các đồng chí chiêm ngưỡng thủ đoạn của Mô Kim hiệu uý. Nói đoạn, tôi xác nhận lại với giáo sư Tôn, câu nói của trung đoàn trưởng Phong có chính xác là “Điểu đạo tung hoành, trăm bước chín hồi” hay không?
Giáo sư Tôn lập tức lấy danh dự ra thề, lão ta đã không ngừng nhẩm đọc đoạn ám ngữ này trong đầu suốt mười mấy năm rồi, khẳng định không thể nào sai được.
Tôi ngầm gật đầu, trong lòng sớm đã có biện pháp, từ chìa khoá của câu “Điểu đạo tung hoành, trăm bước chín hồi” này hẳn là “chín”. Nhìn điểu đạo trên vách đá dựng đúng phía đối diện vừa khéo giống với thế “quần long triền sơn”, dù di tích cố trong hẻm núi này là do ai để lại thì cũng tuyệt đối không phải tuỳ tiện tạo thành, có lẽ người khác khó lòng nhìn ra được huyền cơ bên trong, nhưng kiểu bố cục “ chiêm tinh tượng, suy quẻ tượng” này lại chính là sở trường mũi nhọn của bí thuật Mô Kim.
Những mộ táng thời cổ nói chung, dù cục bộ hay chính thể, cũng đều phải hợp lại với số “chín (cửu)”. ý là “cửu tồn, trường cửu”. “Tầm long quyết” trong Thập lục tự âm dương Phong thuỷ bí thuật có viết rằng: “Quần long quấn núi chia chín khúc, khúc khúc đều là chín vòng tròn; chín vòng bên ngoài lặp cửu chuyển, cửu chuyển cửu trùng cuốn lầu rồng; chín chín lượn vòng quy về nhất, ba ba hai hai nhập linh sớn...”
Tuyền béo ngạc nhiên nói: “Tư lệnh Nhất tính toán cũng khá lắm, cả chín chín tám mươi mốt mà cũng biết cơ đấy, nhưng mà cậu chín nọ chín kia nãy giờ, tôi nghe mãi vẩn chẳng hiểu nổi rốt cuộc chúng ta nên đi phía bên nào?”
Tôi giải thích: “Tôi bảo chín chín tám mốt bao giờ? Còn có cả chín ba hai mươi bảy nữa cơ. cái này gọi là “Tầm long nhập thể quyết”, lẽ ảo diệu của Cửu cung Bát quái đều nằm cả ở trong đó đấy, nếu ngay cả loại người thô tục như cậu nghe cũng hiểu thì thà tôi xé cha nó quyển sách gia truyền ném xuống sông cho rồi. Mọi người để ý điểu đạo trên vách núi kia chẳng chịt như mạng nhện, kỳ thực chỉ có một con đường là thật thôi, chỉ như cần leo lên từ con đường thứ mười ở dưới đấy, cứ ba giao lộ lại rẽ một lần, sau hai lần rẽ thì cách ba giao lộ lại rẽ tiếp, đi xuống không đi lên, đi trái không đi phải, cứ vậy lặp đi lặp lại chín lần, trông thấy cửa hang mới được vào, đó hẳn chính là lối vào mộ đạo lăng mộ Ô Dương vương đấy.
Giáo sư Tôn càng lấy làm lạ. Theo thói quen trong công việc, chuyện gì lão ta cũng thích tìm hiểu đến đầu đến đũa, bèn hỏi tôi: “Năm xưa Gia Cát Lượng dùng Bát Môn trận đồ suýt nữa bao vây giết được đại tướng Lục Tốn của Đông Ngô, hình như trong đó cũng vận dụng nguyên lý Ngũ hành sinh khắc, nhưng đây là thứ đã thất truyền bao nhiêu năm nay, sao cậu lại biết được? Nghe lão Trần bao, những ngón nghề này đều do trưởng bối trong nhà truyền cho hả? Bề trên nhà cậu rốt cuộc làm gì vậy?”
Tôi đưa mắt nhìn Shirley Dương, thầm nhủ ông ngoại Shirley Dương là thủ lĩnh Ban Sơn, danh tiếng lừng lẫy nhường nào? Ông nội cô cũng xuất thân dòng dõi thi thư, đem ra khoe với ai cũng được, ngay như ông nuôi của Út, cũng là bậc nguyên lão Phong Oa sơn. Thế mà sao ông nội của Hồ Bát Nhất này lại đi bày sạp xem bói tuyên truyền mê tín dị đoan chứ? Giác ngộ thấp quá, nói ra cũng thấy ngại ngần. Nghĩ vậy, tôi thấp giọng thì thầm vào tai giáo sư Tôn: “Ông nội tôi năm xưa là tay lang bạt đi khắp núi non sông hồ, danh lừng thiên hạ, tham gia cách mạng cũng khá sớm, nhưng là tham gia cách mạng Tân Hợi thôi. Trên giang hồ, người ta gọi nghề của ông là Kim Điểm, những ngón nghề này của tôi đều là gia truyền, tiếc rằng chỉ học được võ vẽ, để ông phải chê cười rồi.”
Giáo sư Tôn dọc đường đã hỏi thăm ở chỗ Shirley Dương khá nhiều ám ngữ của giới giang hồi, nghe vậy dường như cũng hiểu được gì đó, gật đầu tấm tắc: “Chẳng trách chẳng trách, nếu không phải xuất thân từ thế gia chốn lục lâm, thì cũng không thể có kỳ tài bậc này.”
Tôi sợ Tôn Cửu gia lại hỏi tiếp, vội dẫn đầu tìm một con đường có thể đi xuống. Giữa hai vách núi dựng đứng tưởng chừng kéo dài vô tận ấy, có mấy cây cầu gỗ dùng xích sắt nối liền, đi bên trên người cứ lắc lư theo cầu, dưới chân là dòng nước xiết cuồn cuộn chảy, không khỏi kinh hồn bạt vía, nhưng đã đến đây thì cũng khó lòng quay đầu lại được, cả bọn đành đánh liều đi sang phía bên kia.
Trong khe núi chợt nổi mây mù rồi mưa bụi lất phất, trong màn mưa, cảnh vật xung quanh trở nên mơ hồ, mờ mịt, cũng may từ đầu chúng tôi đã xác định tuyến đường, tìm được lối lên đoạn điểu đạo lưng chừng vách núi, cứ dựa theo khẩu quyết “Tầm long nhập thế” mà đi lên. Đoạn đường này lầy lội vì mưa, cực kỳ hiểm trở, bước bên trên như thể đang bước trên lưỡi dao cao, trăm bước chín vòng, người đi phía sau, có thể thấy hai chân người đi trước ở ngay trên đầu mình.
Tôi thầm dượi lại “Tầm long quyết” trong đầu, đi trên con đường ngoằn ngoèo hiểm trở khảm vào vách đá dựng đứng, lại sợ đi sai đường, chốc chốc phải phân tâm quan sát. Tục ngữ có câu “lên núi thì dễ xuống núi khó”, đi lên trên thì nhìn thấy đường trước mặt, ngay cả kẻ sợ độ cao như Tuyền béo cũng kiên trì được, nhưng nếu phải đi xuống dưới, cảnh tượng trước mặt chỉ là sương mù mờ mịt và khe núi sâu thẳm khiến người ta kinh hồn táng đởm, hễ bất cẩn một chút, sẩy chân rơi xuống thì chết mất xác là cái chắc.
Khó khăn lắm mới đi đến tận cùng của “điểu đạo trăm bước chín hồi”, trên vách núi xuất hiện một đường hầm sâu hun hút. Tôi leo vào trước tiên, rồi vươn tay ra lần lượn đón bốn người còn lại, bấy giờ mới quan sát kỹ tình hình trong hang. Nơi này sương mù dày đặc, hít thở cũng khó khăn, tầng nham thạch vẫn còn dấu tích của đá mẹ, khắc hẳn đường hầm trong phòng không Thanh Khê, hẳn là một đường hầm cổ xưa, không rõ thông đến nơi nào.
Tôi không dám chắc con đường này có chính xác hay không nữa, cũng có thể vừa nãy trên vách đá đã rẽ nhầm lối không chừng, trong lòng không khỏi có chút hoang mang, vừa nghĩ vừa giơ đèn pin mắt sói lên đi mấy bước vào trong, chợt thấy bên cạnh có một tấm bia mộ, trước bia một có một cái xác đang ngồi xếp bằng, mặt mũi y phục đều đã phong hoá, hầu hết da thịt cũng đã tiêu tan, chẳng rõ chết được bao lâu rồi. Tôi vội gọi Tôn Cửu gia ở phía sau bước lên, để lão ta xem đây có phải di thể của trung đoàn trưởng Phong hay không.
Tôn Cửu gia thấy cái xác khô, tâm tình lập tức trở nên kích động, run run đeo khẩu trang và găng tay vào, nâng đầu người chết lên quan sát kỹ lưỡng, đoạn nói: “Không giống... không giống..., tôi nhớ trước khi bỏ trốn, trung đoàn trưởng Phong từng bị người ta đánh gãy mấy cái răng ở mỏ khai thác đá, mà cái xác này vẫn còn đầy đủ cả hàm răng, hẳn không phải lão Phong đâu. Nhưng người này là ai chứ? Không đúng... các cậu mau xem xem, đây là gì vậy?
Chương 14: Thiên hiểm
vô hình
Chúng tôi tưởng giáo
sư Tôn muốn nói đến cái xác vô danh kia, đang định lại xem, chợt lão ta nói
tiếp: “Không phải là cái xác khô, là tấm bia mộ này cơ, quả nhiên là cột mốc
chỉ đường đến thôn Địa Tiên.”
Nghe vậy, tôi phấn
chấn hẳn lên, vội cùng Tuyền béo nhắc cái xác vô danh sang bên, chỉ thấy trên
bia mộ vốn bị xác chết chắn mất không phải tên tuổi của người chết, mà khắc lõm
vào năm chữ “Quan Sơn chỉ mê phú”, nét khắc mạnh mẽ, cứng cáp, hai bên còn có mấy
hàng chữ nhỏ, tôi lướt mắt đọc qua, chính là đoạn ám nữ để tìm kiếm mộ cổ Địa
Tiên kia: “Hay cho đại vương, có thân không đầu; nương tử không đến, núi non
không khai...”
Tôi thấy đoạn ám ngữ
trên tám bia vỡ này hoàn chỉnh hơn hẳn phần trung đoàn trưởng Phong năm xưa thổ
lộ cho giáo sư Tôn, bất giác mừng rỡ ra mặt: “Thì ra ám ngữ ẩn chứa bí mật về
mộ cổ Địa Tiên này, gọi là ‘Quan Sơn chỉ mê phú’, mấy câu phía sau là...“Muốn
đến Địa Tiên, hãy tìm ô dương; trước đài Hách Hồn, âm hà vắt ngang; cầu tiên vô
ảnh, mắt tục khó tìm, ngả vách xả thân, một bước lên trời; Tường sắt vách bạc,
càn khôn tại số; Hắc Sơn động phủ, thần khuyết diệu cảnh; lầu đồng trăm quan,
Ngoã gia đến cửa; Dập đầu tám trăm, sẽ được trường sinh.”
Chúng tôi đọc đi đọc
lại mấy lần, hầu như chẳng hiểu gì cả, theo kinh nghiệm trước đó, cứ lần mò đi
tới, tự khắc sẽ ngộ ra lý lẽ bên trong, nên cả bọn liền chép bài “Quan Sơn chỉ
mê phú” trên tấm bia vỡ ấy lại.
Giáo sư Tôn nói với
cả bọn: “Giờ thì tốt rồi, bao nhiêu năm nay, rốt cuộc cũng đã đọc được toàn bộ
bài ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ chỉ đường đến thôn Địa Tiên, di chỉ mộ đạo của mộ Ô
Dương vương có thể nằm trong chính hang động tận cùng ‘điểu đạo trăm bước’ này
rồi.” Nói đoạn, lão ta lại trầm ngâm: “Trước đài Hách hồn, âm hà vắt ngang...
tiếp sau đây có thể là một đài cao và một dòng sông ngầm, chúng ta cần phải
chuẩn bị tâm lý trước đã.”
Tuyền béo nói: “Cái
đoạn Chỉ mê phú này có phải nhắc đến vàng bạc châu báu gì không? Mấy chữ này
nghe ra còn có vài phần tác dụng, chứ đoạn đường chỗ hẻm Quan Tài này toàn là
đường trên trời, nguy hiểm quá đi mất, giờ tôi vẫn còn thấy đầu gối mềm nhũn cả
ra đây, nếu trong mộ có vàng bạc châu báu thật, đại gia đây mới coi như không
uổng một phen khiếp vía.”
Út từng nghe kể về
truyền thuyết mộ yêu tiên của dân bản địa, nghe Tuyền béo nói vậy liền hỏi cả
bọn: “Dập đầu lạy địa tiên là có thể trường sinh bất tử à? Có tin được không?”
Giáo sư Tôn nói:
“Thế mà cũng tin được hả? Dưới gầm trời này làm gì có ai trường sinh bất tử?
Những lời hoang đường ăn không nói có kiểu ta đây có tài bắt thần gọi quỷ ấy,
đa phần đều là lời bịa đặt của lũ buôn thần bán thánh, sao có thể tin được.”
Tôi nghe mấy người
Tôn Cửu gia và Tuyền béo bàn tán xôn xao, cúi đầu nhìn xác chết vô danh kia,
rồi lại nhìn tấm bia mộ khắc bài “Quan Sơn chỉ mê phú”, ý niệm xoay chuyển
trong đầu, chợt nghĩ đến một số việc cực kỳ quan trọng, bèn chen vào: “Chúng ta
còn chưa đỗ ông nghè, đừng có vội đe hàng tổng, tình hình trong mộ cổ Địa Tiên
thế nào, hẵng vào được bên trong rồi tính toán cũng chưa muộn. Mọi người có
nghĩ chuyện trước mắt này có chút kỳ lạ không...”
Bên trong hang động
ở tận cùng “điểu đạo trăm bước” rất rộng rãi thông thoáng, “Quan Sơn chỉ mê
phú” lại được ghi rõ rành rành ở đây, như chỉ sợ người ta không tìm được mổ cổ
Địa Tiên vậy. Mê cung trên vách đá tuy gian nan hiểm trở, nhưng đời nào cũng có
các nhân sĩ tinh thông kỳ môn thuật số, thời Thanh lại càng có một dạo hưng
thịnh, nếu là cao thủ đổ đấu chân chính, muốn vào tới chỗ này thật chẳng khó
khăn gì.
Người xưa có câu:
“Mộ, là phải giấu đi, không để người khác thấy.” Quan Sơn thái bảo là cao thủ
đào mồ quật mả, sao lại có thể làm trò trẻ con vớ vẩn, lập bia chỉ đường ở ngay
cửa hang thế này được? Ngoài ra, chỉ có hậu nhân của nhà họ Phong mới biết nội
dung “Quan Sơn chỉ mê phú” mà thôi, vậy cái xác khô đằng trước tấm bia vỡ này
là người nào? Chẳng lẽ bên trong có điều gì gian trá hay sao?
Những lời này của
tôi lập tức khiến cả bọn trở nên hoang mang, giáo sư Tôn ngẫm nghĩ giây lát,
rồi tỏ ý không tán đồng: “Vị địa tiên kia hẳn là một kẻ cực kỳ tự cao, sau ki
nhìn thấu được thiên cơ, tính tình liền hoàn toàn biến đổi, vì vậy mới vào núi
xây mộ giấu của báu, bên trong bài ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ này có hàm ý tiên nhân
chỉ lối. Từ những sự sắp đặt này có thể thấy, mộ cổ Địa tiên là để độ cho người
ta đắc đạo, không thể coi như một ngồi mộ chôn xác giấu của bình thường mà phán
đoán được. Vả lại, “Quan Sơn chỉ mê phú’ cũng không phải thứ bọn trộm mộ bình
thường có thể dễ dàng phá giải, những người thực sự hiểu được thuật số ngày nay
đã hiếm như sao buổi sớm, không có cơ duyên đặc biệt, chắc chắn sẽ không thể
tìm được mộ cổ. Năm xưa, bọn giặc cỏ đông như thế cũng không đào được Thiên thư
trong mộ cổ Địa Tiên, đây chính là chứng cứ tốt nhất.”
Giáo sư Tôn lại nói:
“Chúng ta vừa khéo lợi dụng được ý đồ muốn độ nhân đắc đạo thưở sinh tiền của
vị địa tiên ấy, bằng không hẻm núi Quan Tài địa thế hiểm trở như vậy, sợ rằng
khó mà tìm được nơi này. Cái xác vô danh này...” Nói tới đây lão ta bắt đầu
ngần ngừ, rõ ràng không nghĩ ra phải giải thích việc các xác ngồi trước tấm bia
như thế nào cho hợp lý. Người chết thần bí này đã có thể tìm được tới đây, lại
thấy cả “Quan Sơn chỉ mê phú”, sao còn không tiến vào trong mộ? Mà ngồi chết ở
trước mộ đạo như thế?
Lúc này, Shirley
Dương đã kiểm tra kỹ lưỡng cái xác khô, thấy giáo sư Tôn tắc tị không nói tiếp
được nữa, cô bèn nêu ra suy nghĩ của mình: “Trong hang động này tối tăm ẩm ướt,
không thể xác định được người này đã chết bao lâu, nhưng trong người ông ta có
mấy cuốn Đạo kinh bằng thẻ tre, tôi nghĩ ông ta có lẽ là người theo Đạo giáo.
Nếu ông ta biết ‘Quan Sơn chỉ mê phú’, vậy mà lúc còn sống lại không thể vào
trong mộ, thì có một khả năng không nên xem nhẹ.”
Tôi vội hỏi xem khả
năng đó là gì? Shirley Dương nói: “Có lẽ nửa năm sau của ‘Quan Sơn chỉ mê phú’
là một rào cản không thể vượt qua, ông ta không qua được, hoặc không thể tham
ngộ nổi, lại không can tâm rời khỏi nơi này, thành thử cạn kiệt tâm sức, cuối
cùng ngồi đây mà hoá. Nhưng ông ta chết ở đây cũng có thể vì duyên cớ khác, em
chỉ nêu ra một trong các khả năng mà thôi.”
Giáo sư Tôn đọc lại
nửa sau “Quan Sơn chỉ mê phú” hai lượt, luôn miệng khen Shirley Dương nói có
lý, trong các truyền thuyết tôn giáo, đắc đạo thành tiên cũng chia ra làm ba
đẳng cấp thượng, trung, hạ. Hạ tiên phải độ hoá sau khi chết, trung tiên thì
trước khi đắc đạo phải trải qua bệnh nặng, nạn lớn, “trước đài Hách Hồn, âm hà
vắt ngang, cầu tiên vô ảnh, mắt tục khó tìm; ném đá xả thân, một bước lên
trời”, mấy câu này chắc chắn chỉ những khảo nghiện khó khăn nơi hiểm địa tột
cùng, e rằng chỉ cần hơi thiếu can đảm và may mắn, là sẽ không thể tiến vào mộ
cổ Địa Tiên được.
Tuyền béo nghe vậy,
lập tức ngoác miệng ra bốc phét: “Đã dám làm cái nghề mò vàng đổ đấu này thì
đến ông trời xuống đây còn đếch sợ, tôi chẳng tin có hiểm nguy gì không vượt
qua được, cứ đứng đây nói suông thì ích gì? Phải đi xem mới biết thế nào chứ.”
Nói xong, cậu ta liền cầm đèn pin bước vào phía trong hang động.
Tôi thầm nhủ: “Thằng
béo này thường hay nói những câu ngớ ngẩn, có điều câu vừa nãy coi như nói
trúng trọng điểm rồi, âm hà với âm hiếc, không tận mắt xem xem thì làm sao biết
được là thứ quái gì?” Nghĩ tới đây, tôi lập tức hạ quyết tâm, dẫn theo cả bọn
tiến vào trong.
Ngọn núi hai bên
vách khảm chằng chịt điểu đạo này cao ngất trời, hai bên vách núi dựng đứng
nghìn thước lại càng kéo dài ngút mắt, thực tình cũng không biết ngọn núi này
lớn chừng nào nữa. Bọn chúng tôi đi trong hang động chỉ một mực tiến về phía
trước, không hề gặp phải lối rẽ nào, hang này rõ ràng kéo thẳng một đường từ
lưng chừng núi sang đến phía bên kia. Không biết đi được bao lâu, cả bọn bỗng
thấy mắt sáng bừng lên.
Ở cuối đường hầm
hang động hiện ra một khu vực có địa hình hết sức kỳ quái. Cửa hang bên kia mở
giữa lưng chừng núi, phía trước là một hẻm núi hình chữ “T” ngược, mà lối ra
này nằm đúng giao điểm của nét dọc và nét ngang trên chữ “T” ấy.
Đối diện là một ngọn
núi cao ngất chọc lên cả mây mù lơ lửng giữa tầng không. Ngọn núi như bị kiếm
trời chém xả xuống, tách ra một đường thẳng tắp chính giữa. Dưới đáy khe núi
theo chiều dọc, có một “Long môn”, hai bên là hơn trăm con thú đá ô dương đứng
đối diện nhau. Phỏng chừng bên trong chính là địa cung của mộ Ô Dương vương
rồi. Những dấu tích thú đá ô dương có thể gặp ở bất cứ đâu xung quanh trấn
Thanh Khê, từ một mặt nào đó đã chứng tỏ quy mô vô cùng to lớn của lăng mộ dưới
lòng đất nay. Lại thấy, bên trong Long môn vươn ra một dòng thác bằng đá lơ
lửng giữa không trung, bề mặt đá trơn nhẵn óng ánh, trông hết sức kỳ dị, tựa
như nước đông cứng lại mà thành, bên trên khắc hai chữ đại triện theo lối Oa
Tinh: “Hách Hồn”.
Long môn được xây
dựng giữa hẻm núi cheo leo chật hẹp này vừa khéo song song với lối ra đường hầm
nơi chúng tôi đang đứng, còn hẻm núi nằm ngang kia lại cắt thẳng một đường phía
trước, chia đoạn đường phía trước Long môn làm hai đoạn, bên dưới là mây mù vấn
vít, sâu không thấy đáy.
Giáo sư Tôn lẩm bẩm
một mình: “Xem ra nơi này chính là đài Hách Hồn ngay cả khỉ vượn cũng tuyệt
đường rồi, quả là công trình của Tạo hoá, âm hà vắt ngang có ý gì nhỉ? Lưng
chừng trời có sông ư? Còn cầu tiên vô ảnh lại ở đâu nữa?”
Tôi thấy địa thể nơi
này thực vô cùng hiểm yếu, từ lối ra của đường hầm xuyên núi tới Long môn không
có cây cầu nào cả, tuy khoảng cách giữa đôi bên chỉ chưa đầy hai chục mét, như
thể một đường kẻ chỉ giữa trời mây, nhưng nếu không có loại công cụ đặc biệt
như súng bắn dây thừng thì rất khó vượt qua khe sâu ở giữa này.âm hà, cầu tiên
được nhắc đến trong “Quan Sơn chỉ mê phú”, phải chăng chỉ vực sâu phía trước
đài Hách Hồn? Lẽ nào thật sự có một dòngâm hà lơ lửng giữa không trung?
Tôi định lại gần
thêm chút nữa để thăm dò, nhưng vừa dợm bước đã bị Shirley Dương kéo lại,
Shirley Dương nói: “Đừng qua đó. Anh nghe phía trước có tiếng gì không?”
Tôi lắng tai nghe,
thấy ở giao điểm của hẻm núi hình chữ “T” thấp thoáng tiếng gió như có như
không, dường như đâu đây có vô số oan hồn đang khóc lóc nỉ non, bèn chau mày
hỏi Shirley Dương: “Tiếng gió?”
Shirley Dương không
trả lời, chỉ nhặt một hòn đá ném vào khe núi sâu hun hút phía trước Long môn.
Cả bọn nghếch mắt lên nhìn, tức thì đều trợn tròn mắt há hốc miệng ra, chỉ thấy
cục đá ấy bay được lưng chừng đột nhiên dừng phắt lại, sau đó tựa như rời vào
“mắt bão”, lơ lửng trên không trung quay “vù vù vù”, chao đảo mấy lượt, rồi
chẳng rõ đã bị dòng khí lưu thần bí kia mang đi phương nào.
Trước cảnh tượng đó,
chúng tôi đều vô cùng kinh hãi, giữa hẻm núi chữ “T” ngược ấy, thoạt nhìn tưởng
bình lặng trống trải, nào ngờ lại ngầm chứ sát cơ. Trước đó chẳng ai ngờ nơi
đây lại có dòng khí lưu nguy hiểm đến vậy, có lẽ là tại địa thế đặc thù, khiến
gió núi tụ cả về giữa khe sâu, hình thành một dòng xoáy vô hình vô ảnh. Bốn
phía xung quanh, ngoại trừ những âm thanh của không khí dao động yếu ớt dị
thường, thì hoàn toàn không phát giác được bất cứ dấu hiện gì nguy hiểm nữa,
chỉ e, đây chính làâm hà vắt ngang trong “Quan Sơn chỉ mê phú” rồi.
Giáo sư Tôn lắc đầu
nói: “Không qua được, thần tiên có cánh cũng không qua được đâu, đài Hách Hồn
không phải thiên hiểm, mà là một tấm bình phong thiên nhiên, nếu dùng dây thừng
móc câu ném qua thì trong nháy mắt cũng bị dòng khí lưu hỗn loạn kia cuốn đi
thôi. Xem ra đường này không thông rồi, nhưng cũng không sao, tôi tin rằng hễ
có công mài sắt ắt có ngày nên kim, chúng ta bỏ thêm chút công sức, nghĩ cách
đi đường vòng ra sau núi tiến vào là được.”
Tôi ngắt lời giáo sư
Tôn: “Xung quanh hẻm núi Quan Tài đa phần là những ngọn núi cao trên một nghìn
năm trăm mét, ông đi vòng kiểu ấy mười ngày nửa tháng cũng chẳng vòng đến nơi,
dòng khí lưu hỗn loạn này tuy lợi hại, song trong thuật phong thuỷ thanh ô, đây
lại chính là chỗ tàng phong tụ khí. Không phải nơi có điều kiện phong thuỷ
tuyệt hảo, tuyệt đối không thể xuất hiện hiện tượng kỳ dị này. Mô Kim hiệu uý
sở trường phân kim định huyệt, nhưng nếu không đứng trên cao quan sát trọn vẹn
toàn cảnh thì cũng không thể nhận ra được hình thế, long khí, địa của vùng núi
này. Mạch núi Vu Sơn mây mù mờ mịt, thuật Phân kim định huyệt chắc chắn không
có cách nào thi triển, vì vậy tôi không thể nói chắc được rằng có mấy chỗ “mắt
gió” kiểu thế này, chưa chừng sau núi và cửa khe núi cũng có nữa. Nhưng nếu đã
phát hiện ra nơi tàng phong tụ khí, chứng tỏ chúng ta đã đặt chân vào khu lăng
mộ rồi, bảo là đăng đường nhập thất e còn quá sớm, nhưng nói đã chạm tay vào
cửa lớn cũng không ngoa đâu.”
Giáo sư Tôn hễ cứ
cuống lên là tư duy trở nên cứng nhắc, trì độn, lo lắng nói: “Giờ ngay cả giấy
giới thiệu giả cũng làm rồi, còn cách nào nữa đây?”
Tôi phì cười: “Cửu
gia, ông xem ông cuống lên một cái là hồ đồ ngay, muốn vào chỗ này, có giấy
giới thiệu của ai cũng vô dụng thôi.”
Giáo sư Tôn vội giải
thích: “Lỡ miệng lỡ miệng, cuống lên thành thử nói ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ thành
giấy giới thiệu, giờ ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ chúng ta cũng thấy rồi...”
Tôi ngắt lời ông ta:
“Thực ra ông nói vậy cũng không sai, ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ chính là giấy giới
thiệu của địa tiên viết, chỉ cần tờ giấy giới thiệu của ông ta không phải đồ
rởm, chắc chắn chúng ta có thể tìm ra cách vượt qua chỗ hiểm yếu này từ trong
đó.”
Shirley Dương nói:
“Trước đài Hách Hồn,âm hà vắt ngang; cầu tiên vô ảnh, mắt tục khó tìm; ném đá
xả thân, một bước lên trời... ba câu này, không biết có phải đều muốn nói đến
đài Hách Hồn hay không? Cầu tiên vô ảnh, hắn ám chỉ một cái cầu người bình
thường không nhìn thấy, câu cuối cùng thì tôi không hiểu lắm, sao rơi xuống
vách núi xả thân lại có thể một bước lên trời? Cầu ở đâu?
Tôi trầm ngâm một
lúc, rồi nhắc nhở mọi người trong nhóm: “Còn nhớ cái xác vô danh ở trước tâm
bia vỡ không? vị đó có thể cũng muốn tìm mộ cổ Địa Tiên như chúng ta, nhưng ông
ta hẳn không phải nghệ nhân đổ đấu hay người yêu thích khảo cô nghiệp dư, tôi
đoán rất có thể đây là một người tu tiên cầu trường sinh bất lão. Ông ta chết
thế nào thì cũng khó nói, nhưng người này không vào được mộ cổ Địa Tiên, hẳn là
bị thiên hiểm vô hình vô ảnh này làm cho khiếp vía, thậm chí còn do dự loanh
quanh ở chốn này rất nhiều năm mà không dám hạ quyết tâm xông qua nữa kia.”
Tuyền béo nói: “Tư
lệnh Nhất, sau khi nghe cậu phân tích, tôi cảm thấy mình hết sức thông cảm với
tâm trạng của vị đồng chí kia, con đường này... thật là con bà nó không phải để
cho người đi qua, kho báu đã ở ngay trước mắt, vậy mà lại không dám vượt qua,
không thể lấy trứng chọi đá, đổi lại là ai đi nữa, cũng không sao can tâm được.”
Tôi nói: “Không phải
tôi muốn để mọi người hiểu được cảm nhận của nhà thám hiểm kia năm xưa, ý tôi
là, mọi người thử nghĩ xem, người kia bị địa thế hiểm yếu của nơi này ngăn trở
không dám đi qua, hay là... bị cây cầu kia doạ cho khiếp vía? Tại sao tôi lại
nói thế chứ? Bởi vì dọc đường đến đây chúng ta không hề thấy xác của trung đoàn
trường Phong, nhưng con khỉ Ba Sơn ông ta nuôi dưỡng vẫn cứ luẩn quẩn quanh
đây, chứng tỏ năm ấy ông ta đã chạy được đến Thanh Khê, hơn nữa rất có khả năng
đã tiến vào mộ cổ Địa Tiên, nhưng... tại sao con khỉ kia lại không vào cùng ông
ta?”
Giáo sư Tôn trầm
ngâm: “Ừm... ý cậu là con khỉ Ba Sơn và cái xác vô danh trước tấm bia vỡ cũng
giống nhau, đều không dám liều chết bước lên cây cầu tiên kia? còn trung đoàn
trưởng Phong gan lớn? Nhưng các cậu nhìn cả hẻm núi trước mắt mà xem, đâu có
vật cản gì, trước đài Hách Hồn làm gì có cây cầu nào chứ?”
Ngay sau đó, giáo sư
Tôn lại tỏ ý, nếu nói ở nơi tàng phong tụ khí có dòng xoáy do khí lưu hình
thành thì còn tin được, vì đây là hiện tượng vật lý đặc biệt, nhưng cầu tiên vô
ảnh thì tuyệt không thể tin. Trên đời này làm gì có loại cầu nào vô hình? Là
tác dụng quang học chắc? Hay là điểm mù thị giác? Khả năng này không cao lắm,
đối diện với sự thật bằng thái độ khách quan... là vấn đề nguyên tắc, tuyệt đối
không có chuyện nhượng bộ hay thoả hiệp
Lão ta lại dẫn
nguyên văn lời một vị nhân sĩ có vai về năm xưa đã phê phán mình... những
truyền thuyết dân gian kiểu này rất không đáng tin cậy, rặt những luận điệu
nguyên thuỷ quái dị, được sản sinh ra từ sự “thiếu tri thức, mê tín quá độ, si
tâm vọng tưởng”, nói chung đều là những tưởng tượng ấu trĩ đến mức không thể
hình dung, kẻ nào tin thì đúng là tâm thầm nặng rồi.
Shirley Dương và Út
thì cũng đều lắc đầu, không thể tin trên đời này lại có thể có một cây cầu vô
hình. Shirley Dương nói: “Ở khu vực tập trung năng lượng cao, mọi thường thức
vật lý của con người sẽ trở nên vô dụng, chỉ cần hội đủ điều kiện, thậm chí
ngay cả thời gian và không gian cũng có thể vặn vẹo biến hình, nhưng dòng khí
lưu đặc biệt hình thành ở chỗ giao điểm của hẻm núi này, còn chưa đạt tới mức
có trường năng lượng tập trung cao như thế.”
Tôi cười khổ nói:
“Tôn Cưu gia quả không hổ là bậc lão thành, quán triệt rất triệt để lời phê của
lãnh đạo, còn Shirley Dương cũng không hổ là học viên ưu tú của học viện Hải
quân Hoa Kỳ cả hai đều rất có lý, đời nay tuy tôi đã gặp phải không ít chuyện
ly kỳ cổ quái, nhưng nói thực lòng cũng không tin có cây cầu vô hình. Có điều
tôi tin rằng vực sâu trước mặt chúng ta chính là một cầu... cầu Hách Hồn
Chương 15: Cầu Hách Hồn
Giáo sư Tôn lập tức
phản bác: “Thật hết chỗ nói, chẳng lẽ cậu muốn cả bọn bước lên mắt gió mà đi
qua chắc? Dòng khí lưu hỗn loạn ấy tuy có thể giữ được hòn đá lơ lửng, nhưng
cuối cùng chẳng phải cũng cuốn nó văng đi tít tận đâu còn gì? Cậu đã tính toán
thử xem, trọng lượng của bản thân mỗi người trong chúng ta cùng đống hành lý
trang bị đeo theo tổng cộng là bao nhiêu chưa? Đừng nói là một bước lên trời,
chỉ cần nửa bước cũng đủ rơi xuống vực sâu rồi, chúng ta phải nghiêm cẩn, phải
thiết thực chứ!”
Tôi lắc đầu, tôi đâu
có nói phải bước lên không khí để sang phía bên kia. Trong “Quan Sơn chỉ mê
phú” đã để cập đến “Trước đài Hách Hồn,âm hà vắt ngang; Cầu tiên vô ảnh, mắt
tục khó tìm; Ném đá xả thân, một bước lên trời” dựa theo kinh nghiệm trước đó,
ắt hẳn sẽ có chỗ đối ứng, vả lại hẻm núi hình chữ “T” phía trước Long môn này
là con đường duy nhất, vì vậy, tôi tin rằng ở đây hẳn sẽ có một cây “cầu tiên
vô ảnh”, có điều phải nghĩ cách tìm ra nó mới được.
Shirley Dương nói:
“Anh nói không sai, nhưng dù chúng ta phát hiện ra cầu tiên vô ảnh thì có vượt
qua được hay không cũng rất khó nói. Mọi người có từng nghĩ rằng, xác chết vô
danh ở lối vào hang động kia trên người mang kinh sách Đạo gia, rất có thể là
một người tu đạo của triều trước. Nếu ông ta không tìm được lối vào mộ cổ Địa
Tiên, chỉ cần theo đường cũ mà quay về là được rồi, nhưng từ cách chết của ông
ta mà xét thì dường như người này đã tìm được cầu tiên vô ảnh, nhưng không có
gan đi qua, lại không cam tâm rời khỏi đây, cuối cùng cứ quẩn quanh trong hang
động mà chết.”
Tôi nghe Shirley
Dương nói, lập tức nhớ lại hồi trước ở tiền tuyến, rất nhiều chiến hữu vì dính
mìn treo(6) mà chết hoặc bị thương, tình cảnh cực kỳ thảm liệt. Đám chến sĩ
nhiều người không sợ xông pha chiến đấu, chỉ sợ những quả mìn treo chôn rải
rác, nửa lộ nửa kín ấy.
Đúng như câu “binh
bất yếm trá”, cái xác vô danh trong đường hầm chết một cách cực kỳ khó hiểu,
trên người ngoài mấy quyển Đạo kinh ra thì không còn thứ gì khác để người ta
tìm hiểu thân phận nữa. Trong các mộ cổ được bày bố kỹ càng, đa phần đều có
nghi trận để phòng bọn trộm mộ, nói không chừng cái xác và cả bài “Quan Sơn chỉ
mê phú” kia đều là “mồi” của Quan Sơn thái bảo hòng dẫn dụ những kẻ trộm mộ
bước vào “mìn treo” trên con đường tuyệt không lối về.
Những ý nghĩ này cứ
vẩn vít trong đầu tôi, xua mải không hết, trực giác sau nhiều năm qua lại giữa
lằn ranh sinh tử nói với tôi: “Những dấu hiệu này quá bất bình thường, ngàn vạn
lần không được sơ ý đâu đấy!”
Tôi nghĩ tới đây,
liền bảo giáo sư Tôn và Shirley Dương: “Cầu tiên vô ảnh có lẽ không khó tìm,
nhưng tôi đoán dẫu có tìm thấy thì cũng phải mạo hiểm rất lớn mới vượt qua
được, vấn đề bây giờ là, có nên mạo hiểm hay không? Ngộ nhỡ đấy là cạm bẫy có
đi mà không có về thì sao? Chúng ta làm sao đoán biết được bài ‘Quan Sơn chỉ mê
phủ’ ở cửa hang bên kia là thật hay giả chứ?”
Tôn Cửu gia đầy tự
tin nói: “Chuyện này thì dễ, chỉ cần cậu có cách làm cho cầu tiên vô ảnh xuất
hiện, với kinh nghiệm phong phú của người đã nhiều năm tham gia công tác khảo
cổ như tôi đây, khắc có thể khảo chứng xem nó là thật hay giả. Nếu là cầu giả
thì tuyệt không thể thoát khỏi cặp mắt lửa ngươi vàng này của tôi đâu, có điều,
xem nửa sau bài ‘Quan Sơn chỉ mê phú’, thấy nội dung quá nửa ăn khớp với kết
quả điều tra của tôi, vì vậy tôi tin rằng, chỉ cần cầu tiên vô ảnh thực sự tồn
tại, những câu khắc trên bia đá ấy mười phần chắc đến tám là hàng thật đấy.”
Tôi thoáng trầm ngâm,
cảm thấy đã thế thì nói thêm cũng vô dụng, trước mắt phải nghĩ cách tìm được
cầu tiên vô ảnh đã. Tôi và Sherley Dương thương lượng một hồi, nhưng không ai
nghĩ ra một cây cầu thế nào thì mắt thường không nhìn thấy được. Shirley Dương
suy luận, có lẽ câu ấy có ẩn ý gì khác cũng không chừng.
Tôi thầm nghĩ: “Ném
đá xả thân, một bước lên trời, ném đá xả thân là ý gì đây? Lẽ nào chỉ hành động
ôm tảng đá nhảv ra giữa không trung?” Một ý niệm chợt lóe lên: “Không đúng, ném
đá trước, xả thân sau, nếu ý câu này chỉ việc bất cần mạng sống ôm tảng đá nhảy
xuống, thì phải là xả thân ném đá mới đúng, ném đá xả thân có lẽ muốn nói,
trước tiên là đẩy tảng đá rơi xuống, sau đó mới có thể ‘xả thân’ được.”
Tôi đảo mắt một vòng,
thấy trong đường hầm có rất nhiều những khối nham thạch to nhỏ khác nhau. Cứ
đứng đây nghĩ ngợi lung tung thì làm sao nắm bắt được yếu lĩnh? Tốt nhất cứ mặc
xác không nghĩ nữa, chọn một tảng đá to to đẩy xuống thử xem chế nào, nghĩ đoạn
tôi liền gọi Tuyền béo đến giúp, hai người bước đến bên cạnh một tảng đá lớn
nặng khoảng mấy trăm cân, đẩy thử hai ba lượt, thấy tảng đá khẽ đung đưa phỏng
chừng có thể chuyển động được.
Những người khác cũng
định lại giúp một tay, nhưng Tuyền béo xua tay bảo: “Các vị, thôi đừng qua đây,
cứ đứng bên đó đợi đi để đại gia đây còn rộng chỗ, không khéo lại đè lên chân
mấy người thì hỏng bét.” Dứt lời, cậu ta nới lỏng dây lưng ra hai nấc, cu cậu
lo chẳng may vận sức lên lại làm đứt cả thắt lưng.
Tuyền béo có ý khoe
tài, cả tôi cũng đẩy sang một bên. Tôi lo cậu ta dùng sức mạnh quá, lại bị dòng
khí lưu hỗn loạn kia cuốn phăng theo tảng đá thì thành ném đá xả thân thật
luôn, liền lấy phi hổ trảo ra móc vào đai chịu tải trên vai Tuyền béo, cùng với
ba người còn lại ở phía sau nắm chắc lấy đề phòng bất trắc.
Tuyền béo xắn tay áo
lên, nhổ hai bãi nước bọt vào lòng bàn tay, giậm chân xuống tấn, dùng vai huých
vào tảng đá to tướng, hít sâu một hơi, tụ khí vào Đan Điền, huy động cơ bắp
toàn thân, hét lên một tiếng như sấm: “Đi nào!”
Chỉ thấy tảng đá lớn
ấy ầm ầm đổ về phía trước, vì trọng lượng rất lớn, lại gần lối ra của hang động
nên nó không hề bị dòng khí lưu hỗn loạn phía trước Long môn hút lấy, mà va vào
vách đá dựng đứng, lăn lông lốc xuống khe sâu đầy sương mù bên dưới.
Khoảng cách giữa hai
vách núi rất gần, tảng nham thạch lăn xuống cứ đập qua đập lại giữa hai vách đá
dựng đứng, phát ra những tiếng ầm ầm trầm đục, chúng tôi đứng ở cửa hang lắng
nghe, chỉ thấy khe núi này sâu không thể dò, mãi vẫn chưa nghe tiếng tảng đá
kia chạm đáy.
Cả bọn thấy Tuyền béo
đẩy một tảng đá lớn xuống vách núi. nhưng phía trước đài Hách Hồn không hề có
cây cầu ẩn hình nào, cũng không có dấu hiệu dị thường gì xuất hiện, không khỏi
có chút nản lòng, đang định cách này không xong ta bày cách khác, bỗng cảm thấy
những âm thanh hỗn tạp vang lên ù ù trong tai.
Lúc này, tảng nham
thạch vẫn chưa chạm đất, trên vách núi ngoài tiếng vọng ầm ầm liên tu bất tận,
dường như còn có nghìn vạn nồi nước cùng lúc sôi lên sùng sục, rồi sau đó tiếng
nước sôi lại chuyển thành tiếng lạo xạo như thể ai đó đang xào nấu, âm thanh
sàn sạt khiến màng nhĩ âm ỉ đau nhói. Tôi than thầm trong bụng: “Ném đá xuống
gây ra phiền toái rối, giờ tính sao đây?”
Giáo sư Tôn và Út
cũng phát hoảng vì những âm thanh lạo xạo ồn ào ấy, không kìm được lùi về sau
hai bước. Shirley Dương giương Ô Kim Cang lên chắn trước mặt chúng tôi, nói:
“Đừng cuống, có khi là cầu tiên vô ảnh xuất hiện đấy.”
Những âm thanh sàn
sạt dày đặc bỗng nhiên dồn dập hẳn lên, cảm giác này tựa như đang đứng trước
Quỷ Môn quan, đối mặt với vô số ác quỷ nhào ra từ chốn u minh địa phủ, khiến
người ta kinh hồn bạt vía, luống cuống tay chân. Tôi thu phi hổ trảo lại, dúi
vào tay Shirley Dương, rồi âm thầm nắm chặt xẻng công binh, trong lòng cực kỳ
bất an: “Chẳng lẽ cầu tiên phía trước đài Hách Hồn do âm binh dựng nên ư? Sự bố
trí trong mộ cổ Địa Tiên này, quả là thần tiên cũng khó đoán...”
Tuyền béo cũng biến
sắc mặt, vội thủ thế, giơ nỏ liên châu lên ngắm vào khoảng không, bất kể có của
nợ gì bay lên, cứ bắn cho nó mấy chục mũi tên xuyên giáp rồi tính sau.
Cả bọn đang hoảng hốt
kinh hãi, thình lình thấy một làn khói đen từ đáy khe núi bay lên, tôi còn chưa
hét hoảng hồn, đã thêm bất ngờ, vội nói: “Cái quái gì vậy?” Nhìn kỹ lại, liền
thấy mắt mình sắp hoa lên, không ngờ lại là vô số những con chim yến to bằng
bàn tay bị kinh động đang ồ ạt lao ra từ khe núi, bị dòng khí lưu hỗn loạn giữa
khe hút lấy, tạo thành một đám hỗn loạn, số lượng nhiều đến mức khiến người ta hoa
hết cả mắt, chỉ sợ phải đến cả trăm nghìn con chứ chẳng chơi.
Chim yến hay làm tổ
trên vách đá cheo leo, vả lại bọn chúng là sinh vật sống theo đàn, có khi trong
một hang yến, phải có đến mấy trăm nghìn con. Tổ yến làm từ nước dãi của bọn
chúng cực kỳ trân quý, vì hang yến thường nằm ở những nơi địa hình hiểm trở,
nên người lấy tổ yến thường phải bám vào vách đá leo lên, mạo hiểm lớn thì thu
hoạch cũng nhiều.
Thì ra ở vách đá bên
dưới đài Hách Hồn có một hang động bên trong có rất nhiều chim yến xây tổ, Tuyền
béo đẩy tảng đá lớn xuống làm cả đàn yến kinh động bay ùa ra. Trong dân gian,
chim yến còn được gọi là “khoan gió”, loài chim này sở trường bay lượn theo
gió, thậm chí còn có truyền thuyết bọn chúng có thể ngủ trong gió, chẳng những
vậy, tốc độ cũng rất kinh người, bay nhanh như chớp. Lúc này, mấy vạn con chim
yến đen sì bay vút lên trời, vừa đến cửa khe núi liền lập tức bị dòng khí lưu
vô hình củaâm hà cuốn lấy.
Chim yến thiên tính
thích tụ tập thành bầy, bị dòng khí xoáy cuốn lại thành một đám, giữ chặt trong
“mắt gió” không sao thoát ra được. Đàn chim yến tụ tập đày đặc đến nỗi gần như
không còn một kẽ hở, bên dưới khe núi còn vô số con khác, vẫn không ngừng lao
vào trận thế.
Dòng khí lưu hội tụ
từ ba phía khe sâu lập tức bị đàn chim yến với số lượng khổng lồ làm cho tắc
nghẽn, dòngâm hà vô hình vắt ngang không trung tức thì bị lấp đầy, hàng vạn con
chim yến cũng chặn hết những dòng khí lưu từ các hướng tràn tới, khiến cho khu
vực hẻm núi hình chữ “T” phía trước Long môn chật ních không còn một kẽ hở,
hình thành nên một “cây cầu chim yến” nẳm ngoài sức tưởng tượng.
Tôi hít sâu một hơi
khí lạnh: “Thì ra cầu tiên vô ảnh... là do một đàn chim yến lớn tạo thành!” Mắt
thấy mấy vạn con chim yến đang bay lượn quấn quýt vào nhau, tựa như kết lại
thành thực thể trong gió, tất cả chúng tôi cơ hồ đều khó lòng tin vào kỳ cảnh
mà mình tận mắt chứng kiến.
Nhưng tôi biết, kỳ
cảnh này chỉ có thể duy trì trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, khi lũ chim yến
trong hang động bay ra càng lúc càng nhiều, bọn chúng sẽ nhanh chóng thoát khỏi
dòng khí lưu hỗn loạn, tản ra theo gió, cầu tiên vô ảnh cũng sẽ một lần nữa biến
mất không còn tăm tích.
Nghĩ lại, đợi khi tất
cả lũ yến về tổ thì không biết phải bao lâu sau mới có thể tập hợp chành cây
cầu lần nữa, muốn xả thân cầu tiên, lúc này cần phải vứt hết sinh tử ra sau
đầu, liều mình bước lên “cây cầu chim yến” này, đạp lên phi yến xông thẳng tới
Long môn phía trước địa cung mộ cổ Ô Dương vương.
Tôi không biết lũ
chim yến tụ tập lại một chỗ thế này có nâng được người hay không, vả lại muốn
qua “cây cầu” này, thực cũng chẳng khác nào đạp trên sóng nước, bất cẩn bước
hụt một bước sẽ rơi xuống vực sâu nghìn thước ngay. Phía trong Long môn phía
đầu cầu bên kia cũng hung cát khó lường, một khi đã bước qua câu tiên này,
trong thời gian ngắn chắc chắn sẽ không thể rút lui trở về được. Bài “Quan Sơn
chỉ mê phú” của vị địa tiên kia để lại, rốt cuộc có đáng tin hay không đây ?
Có nhà triết học nói
“tính cách quyết định số mệnh”, vì tính cách thao túng những lựa chọn khác nhau
trên con đường đời, cũng có thể giải thích rằng “đời người chính là do vô số
lựa chọn hợp lại mà thành”, tôi xưa nay gặp chuyện gì cũng nghĩ thoáng, nhưng
muốn vậy, ít nhất cũng phải khiến tôi cảm thấy nắm chắc được từ ba mươi phần
trăm trở lên, mà hiện giờ tôi thậm chí còn chẳng có đến năm phần trăm lòng tin,
không phải không dám qua cầu, mà chỉ lo sau khi qua cầu không biết có rơi vào
cạm bẫy hay không nữa.
Những ý nghĩ này chỉ
lóe lên trong đầu tôi rồi phụt tắt, tình thế trước mắt không cho phép nghĩ ngợi
quá nhiều, tôi đưa mắt lướt qua những người bên cạnh một lượt, muốn xem xem họ
có ý tưởng gì không, liệu có cần “khoanh tay đứng nhìn”, đợi thêm một hai ngày,
khi nào nắm chắc mười phần rồi xông qua cũng chưa muộn hay không?
Tuyền béo đứng bên
cạnh nhìn mà run lên như cầy sấy, ngoác miệng chửi: “Hay cho lão yêu nhân trộm
mộ Quan Sơn thái bảo kia, mười phần chắc tám là lão với người yêu bị chia cách
nhiều năm rồi, bằng không sao lại chơi cái trò dở hơi mùng bảy tháng Bảy bắc
cầu Ô Thước này làm gì, cái cầu chim này người làm sao đi qua được chứ?”
Giáo sư Tôn lại mừng
rỡ ra mặt, lớn tiếng kêu lên: “Đây đúng là một kỳ tích, cậu Tuyền cậu Nhất, các
cậu không phải lúc nào cũng khoác lác tự xưng là nam tử hán chuyện gì cũng dám
làm sao? Sao rồi? Giờ sợ rồi hả? Đây là chốn tuyệt hiểm một bước lên trời, chỉ
cần can đảm bước qua là xong, quẻ phù long cốt ở phía trước kia rồi, cây cấu
chim yến này có thể tản mác bất cứ lúc nào, chúng ta phải tranh thủ thời gian
qua cầu cho sớm đi!”
Tuyền béo kéo giáo sư
Tôn lại, quát: “Cái gì mà nam tử hán đại trượng phu? Lên cầu để cả bọn rơi
xuống nát như tương à? Ông Tuyền đây...” Còn chưa dứt lời, cậu ta đã đột ngột
nhao lên phía trước, loạng choạng bước lên cây “cầu tiên” do lũ chim yến kết
thành. Dòng khí lưu hỗn loạn trong khe núi làm cậu ta nghiêng nghieng ngả ngả,
cơ hồ đang gắng đứng vững trên cầu, nhưng tay chân vừa chạm xuống mặt cầu liền
trượt đi, cứ thế lộn nhào một vòng rồi lao về phía trước.
Tôi biết Tuyền béo
xưa nay có chứng sợ độ cao, bệnh này của cậu ta thuộc loại chướng ngại tâm lý,
thực ra cũng không có phản ứng gì đặc biệt, chỉ là mắt hoa chân nhũn mà thôi,
khi có điều kiện vật chất nhất định, cậu ta cũng có thể khắc phục, chẳng hạn
lúc ngồi máy bay cậu ta sẽ uống thuốc ngủ, nên tôi thấy cũng không phải chuyện
gì lớn lao cho lắm. Nhưng tôi ngàn vạn lần không thể ngờ được cậu ta lại một
mình xông lên cầu chim yến trước nhất như thế, chuyện này quả không phù hợp với
tác phong cậu ta chút nào. Trước tình huống này, tôi hoàn toàn chưa được chuẩn
bị tâm lý, thậm chí còn không kịp vươn tay ra cản lại.
Nhưng tôi lập tức
nhận ra, giờ có muốn kéo cậu ta lại cũng không được nữa rồi, đã đến nước này
thì chỉ còn cách kề vai sát cánh xông lên thôi, tốt xấu gì cũng không thể để
cậu ta một mình lăn qua bên đối diện được. Nghĩ đoạn, tôi lập tức bảo những
người còn lại: “Đừng sợ, cầu này chịu được sức nặng của người, tất cả đều qua
cầu đi!”
Trong tiếng chim kêu
ríu rít hỗn loạn, tôi kéo giáo sư Tôn, Shirley Dương kéo Út, bốn người tung
mình xông lên đầu cầu, chỉ nghe bên tai đầy tiếng gió rít vù vù, trong chớp mắt
đã bị dòng khí lưu hút chặt, cả người vừa khéo rơi vào trạng thái không trọng lượng,
hai chân căn bản không cần dùng chút sức lực nào, thân thể đã không tự chủ được
trượt về phía trước.
Vô số chim yến dưới
chân tựa những đám bông gòn đen, như có như không, dòng khí lưu xung quanh ùa
đến liên hồi kỳ trận, tựa hồ bất cứ lúc nào cũng có thể cuốn người lê giữa
không trung, quần áo trên người chúng tôi bị gió thổi bay phần phật. Người ở
trong hoàn cảnh ấy mới biết, bước lên cây cầu tiên này kỳ thực không phải giẫm
chân lên lũ chim yến đi qua khe núi, mà chỉ là lợi dụng đàn chim có số lượng khổng
lồ bít kín mắt gió lại, rồi nhờ vào dòng khí lưu bên trên cây cầu ấy mà lướt
qua. Lũ chim yến dưới chân thực ra chỉ phải chịu tải khoảng hai đến ba phần
mười trọng lượng của người bên trên mà thôi.
Cũng may lũ chim này
quá đông, bít kín cả mắt gió giữa tầng không, bốn người chúng tôi lôi kéo lẫn
nhau, nhờ vào trọng lượng bản thân cũng miễn cưỡng bước được mấy bước, nhưng
thân đang ở chốn hiểm nguy, hồn phách cơ hồ đều theo gió bay tứ tán, ruột gan
lạnh buốt cả. Dưới tác dụng của thuyết tương đối, khoảng cách mấy bưóc ngắn
ngủi ấy, lại trở nên dài dặc khôn cùng.
Hai hàm răng tôi run
lên, rốt cuộc cũng đích thân lĩnh giáo cảm giác trước đài Hách Hồn là như thế
nào, đồng thời cũng tự thề với lòng rằng đời này sẽ không đi qua đây lần thứ
hai nữa. Lúc này, chỉ còn cách liều mình cầm đầu tiến lên, bám sát Tuyền béo ở
phía trước mà thôi. Mắt thấy đã sắp đến thác đá phía trước Long môn, đột nhiên,
dưới chân có một luồng lực khổng lồ thốc lên, mấy vạn con yến rốt cuộc cũng
vùng thoát khỏi sự trói buộc của dòng khí lưu hỗn loạn. Trong tiếng kêu ríu
rít, lũ chim tựa như một làn khói đen bay ùa lên không trung.
Tôi thầm than một
tiếng: “Không xong, cầu tan mất rồi”, vội đưa tay che mặt để phòng bọn “xuyên
vân yến” bay lung tung khắp trời kia đâm mù mắt, chỉ thấy trời xoay đất chuyển,
cảm giác như rơi vào trong mây, bị lũ chim yến ở dưới ùa lên nâng lơ lửng trên
không trung. Nhưng khoảnh khắc ấy chỉ kéo dài chưa đến một chớp mắt, bầy chim
vừa thoát khỏi “mắt gió”, liền lập tức đập cánh bay tứ tán khắp phía. Phần còn lại
của cây cầu không chịu được trọng lượng cơ thể người, khiến chúng tôi “thụt”
xuống giữa lưng chừng không.
Chương 16: Kim Giáp Mao
Tiên
Cầu tiên
vô ảnh do đàn chim yến ghép lại nói tan là tan ngay, thời gian duy trì rất ngắn
ngủi. Đàn chim bay vòng vòng một lúc trên không trung rồi nhanh chóng giằng
thoát ra khỏi vùng không khí hỗn loạn giữa khe núi, nương đà gió bay tứ tán
khắp phía. Chúng tôi bị va đập giữa hàng vạn con chim yến bay vút lên, tựa như
có vô số túi bông gòn đập vào người, vạch nên một đường parabol giữa khoảng
không, rơi xuống “Long môn”.
Tôi đột nhiên cảm thấy cả người rơi xuống, thầm nhủ phen này chắc chắn thành bánh thịt bằm rồi, vội vàng mở mắt ra nhìn, thì ra lúc nãy chạy thẳng một mạch trên cầu, cả bọn đã đến rất gần cửa khe núi, lại bị đàn chim yến hất văng lên một cú, không ngờ đã bay qua được khe núi tối tăm sâu hun hút, tà tà rơi xuống bệ đá có khắc hai chữ triện cổ “Hách Hồn”.
Mắt gió vô hình kia chỉ tồn tại ở giữa khe núi, đến gần cửa khe thì đã yếu đi rất nhiều, nhưng gió núi tuy vô hình song lại hữu chất, làm giảm đi đáng kể lực rơi từ độ cao mười mấy mét xuống. Tôi chỉ thấy trước mắt hoa lên, bả vai đau nhói, thân hình đã chạm đất, ngã một cú nổ đom đóm mắt, chẳng còn phân biệt được trên dưới trái phải Đông Tây Nam Bắc nữa.
Còn chưa kịp mừng vì qua được câu tiên vô ảnh, tôi chợt phát hiện bên dưới cơ thể mình trơn nhây nhẫy, thì ra đã rơi xuống bề mặt trơn bóng của thác đá. Nơi này không hề có chỗ bám vịn, càng không có khe rãnh lồi lõm gì để dùng sức, bề mặt thác đá lại có hình cong cong như chiếc gương, không thể giữ được người ở trên. Thân hình tôi lập tức trượt xuống dưới.
Tôi thầm than không ổn, vội vàng nằm rạp xuống, không dám dùng sức thêm nữa, chỉ xòe rộng bàn tay ấn lên bề mặt thác đá. Lúc này, lòng bàn tay tôi đầy mồ hôi lạnh, cũng may, bàn tay đẫm mồ hôi lại phẩn nào tăng thêm lực ma sát, lập tức ngăn đà rơi lại. Nếu trượt thêm độ nửa mét nữa, đến đoạn thác đá buông thằng xuống, thì trừ phi lòng bàn tay tôi có giác hút như lũ thạch sùng, bằng không chẳng rơi xuống vực sâu cũng bị dòng khí lưu hỗn loạn cuốn vào trong mắt gió.
Tim tôi đập thình thịch, định thần lại đưa mắt ngó sang hai bên mới phát hiện giáo sư Tôn cũng đang nằm rạp trên vách, chầm chậm trượt qua bên cạnh tôi từng chút từng chút một như ở trên mặt băng. Tôi vội vươn tay tóm lấy cánh tay lão ta, chẳng ngờ bị lão kéo theo, cả hai cùng trượt xuống mép ngoài của thác đá, vội vàng hô vang lên gọi cứu viện.
Shirley Dương, Út và Tuyền béo đều rơi xuống khu vực ở mé bên trong, Shirley Dương nghe thấy tiếng hét, biết ngay tình thế nguy cấp, liền ném phi hổ trảo ra móc vào ba lô của giáo sứ Tôn. Cô và Út chẳng buổn để ý đến thân thể đang đau nhức, nghiến răng kéo tôi và giáo sư Tôn từ mép thác đá trơn nhảy trở về, tựa như kéo hai con chó chết.
Năm người ngã vật ra đất, tôi nhìn anh, anh nhìn tôi, nét mặt ai cũng hoảng hốt ngẩn ngơ, ngưòi nào người nấy đều run rẩy, mặt cắt không còn giọt máu, trong tai lùng bà lùng bùng.
Tôi thở hắt ra một hơi, nhìn sang thấy giáo sư Tôn đang nhíu chặt hai hàng lông mày, trán không ngừng túa mồ hôi lạnh. Hỏi ra mới biết, thì ra sau cú trượt ngã vừa rồi, xương vai lão đã bị trật khớp. Trong cơn đau đớn, lão ta vẫn không ngừng lẩm bẩm: “Nếu đã phát hiện được bí mật của cầu tiên vô ảnh xem ra mộ cổ Địa Tiên chỉ còn cách chúng ta trong gang tấc thôi, chỉ cần sao lại quẻ phù Long cốt trong mộ thì công thành danh toại chỉ là chuyện một sớm một chiều, không ngờ Tôn Học Vũ này cuối cùng cũng có ngày được ngẩng đầu lên, để xem sau này còn kẻ nào dám chụp mũ bậy bạ cho ta nữa không... khụ khụ.. ” Nói được nửa chừng thì đau quá không chịu nổi nữa, lão vội vàng nhờ tôi giúp chỉnh lại cánh tay trật khớp.
Tôi cũng bị ngã đau nhức hết cả mình mẩy, không dùng sức được, liền nói: “Cửu gia, ông đừng vui mừng quá sớm, vừa nãy tôi còn định khuyên mọi người xem rõ tình hình rồi hãy qua cầu, ai ngờ ông và Tuyền béo lại nóng nảy thế, giờ thì trước khi lũ yến vể tổ, chúng ta không còn đường nào để trở lại bên kia nữa rồi...” Nói đoạn, tôi quay sang bảo Tuyền béo giúp giáo sư Tôn nắn lại chỗ trật khớp. Hồi xưa đi về nông thôn tham gia lao động sản xuất, hễ lừa ngựa trong thôn bị thương, ông lang vườn ở đó thường hay dẫn Tuyền béo theo làm trợ thủ, vì Tuyền béo ra tay dứt khoát, không biết nặng nhẹ, chứ người nào chùn tay thì làm bác sĩ sao được.
Tuyền béo cắn răng bò dậy, lại gần tóm lấy cánh tay phải của Tôn Cửu gia lắc lên lắc xuống, xém chút nữa làm lão ta đau đến tắc thở. Tôn Cửu gia rối rít kêu toáng lên: “Ai cha... ai cha... chậm thôi... không phải tay này... tay kia cơ!”
Tuyền béo chợt sực nhớ ra điều gì đó: “À, tôi bảo này, vừa nãy ai đẩy tôi qua cầu thế? Số đen chút nữa là ngã thành đậu phụ nát rồi, chuyện này cũng đem ra đùa được hả? Nhất kia, cóphải thẳng nhãi nhà cậu lại giở trò chơi bẩn không? Thái độ của chúng ta đối với cuộc sống và công việc, chẳng lẽ không thể nghiêm túc hơn một chút hay sao?”
Tôi cả kinh nói: “Rõ là nói nhảm, không có gió lại nổi sóng cồn. Vừa nãy cậu bị người ta đẩy lên cầu thật hả? Chẳng trách tôi thấy cậu bước cứ loạng choạng, ai đẩy cậu vậy?”
Tôi vội nhớ lại tình hình trước lúc xông qua cầu chim yến, bấy giờ giáo sư Tôn đang kích động, đứng chắn phía trước mọi người, nên không thể nào đẩy Tuyền béo đang ở sau lưng lên cầu được. Shirley Dương khẳng định không làm những chuyện không phân nặng nhẹ như thế. Út tinh thông các kỳ thuật Phong Oa sơn, vừa gan dạ vừa nhanh mồm nhanh miệng, nhưng theo tôi thấy, cô tuyệt đối không phải hạng người giở trò âm hiểm xảo trá, vậy thì là ai mới được chứ?
Một cái bóng chợt nhoáng qua trong đầu, tôi vội ngẩng lên nhìn sang phía bên kia khe sâu, chỉ thấy con khỉ Ba Sơn chúng tôi gặp trong hầm phòng không đang đứng ở cửa hang nhíu mày nhăn mặt với chúng tôi, bộ dạng rất gian xảo.
Toàn thân tôi lạnh cóng, quên cả đau đớn, lập tức nhảy phắt lên: “Gay rồi, ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ trên tấm bia vỡ kia... tám chín phần là một cạm bẫy!”
Trộm mộ là cuộc so tài giữa người sống và người chết, trong cuộc đọ sức này, chủ mộ vĩnh viễn ở thế bị động, vì những bố trí trong lăng mộ không thể thay đổi, nhưng binh bất yếm trá, mộ giả mộ ảo cùng vô số thủ đoạn cao minh khác hòng làm nhiễu loạn mê hoặc kẻ trộm mộ xưa nay vốn không phải là ít. Nếu kẻ trộm mộ trúng phải cạm bẫy mai phục trong mộ cổ, thế chủ động và bị động sẽ lập tức đảo ngược.
Nhưng mấu chốt của cạm bẫy nằm ở chỗ ẩn giấu và mê hoặc, khiến người ta không thể dò đoán, nếu không tự chạm vào làm kích phát, có thể sẽ chẳng bao giờ đoán đượ c đấy là thật hay giả. Quan Sơn thái bảo quả không hổ là bậc lão luyện trong nghề trộm mộ, hành sự ngược hẳn lẽ thường. Cái xác vô danh ở lối vào đường hầm quả là một chiêu hết sức cao minh không ai đoán được người đó là ai, có thể suy luận ra vô số giả thiết khác nhau, nhưng lại chẳng thể xác nhận được giả thiết nào cả.
Cầu tiên vô ảnh nhìn mà chùn bước ấy, cũng sẽ khiến người ta hiểu lầm là một chỗ “kỳ môn”, nếu không bị hiểm cảnh làm cho sợ hãi rút lui, thì cũng bị mộ đạo phía sau cầu tiên dẫn dụ, liều chết xông qua đế rồi lạc lối. Trong khe núi này chắc chắn không phải là mộ cổ Địa Tiên thật sự, không biết còn ẩn chứa cạm bẫy chí mạng gì đây.
Út bảo tôi: “Có lẽ tại anh Tuyền béo hấp tấp, chưa hỏi rõ ngọn ngành gì đã bắn con khỉ kia một phát, mà nó lại là giống thù dai, muốn đẩy anh ấy lăn xuống vực, phía bên này cầu chưa chắc đã phải cạm bẫy đâu.”
Giáo sư Tôn nghe chúng tôi nói chuyện, cũng vừa kinh ngạc vừa nghi hoặc, buông thõng một cánh tay xuống hỏi: “Lẽ nào... lẽ nào chúng ta đã rơi vào tuyệt cảnh? Nơi này không phải mộ cổ của Di Sơn Vu Lăng vương?” Nói đoạn, lão ta cúi đầu ngẫm nghĩ, lại cảm thấy không đúng, liền nói tiếp: “Hồ Bát Nhất, cậu đừng có suy đoán chủ quan như vậy được không? Phải giữ thái độ khách quan đối với vấn đề chứ? Cầu tiên vô ảnh ấy quả thực là hiện tượng hãn hữu trên thế gian này, bên trong khe núi lại có thú đá đứng thành hàng, thế núi uy nghiêm hiểm trở, tôi thấy rất có khả năng lối vào mộ cổ Địa Tiên nằm ở đây đấy, chúng ta cân phải điều tra kỹ lưỡng rồi mới kết luận được.”
Tôi hừ lạnh một tiếng nói: “Tôi thấy ông mơ tưởng được nổi danh đến nỗi mụ mị đầu óc đi rồi, trong mắt chỉ còn thấy mỗi quẻ phù Long cốt thôi, chính ông mới mất lập trường nhìn nhận vấn đề khách quan thì có.”
Shirley Dương vội can thiệp: “Hai người đừng tranh cãi nữa, bản thân mộ cổ Địa Tiên vốn do một cao thủ trộm mộ thiết kế, nửa vô tình nửa cố ý để lại rất nhiều đầu mối, nhưng lại không thể xác định đầu mối nào là thật đầu mối nào là giả. Cũng có nghĩa, ngay từ đầu chúng ta đã bị cái gọi là ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ kia dắt mũi kéo đi rồi, đây mới chính là chỗ cao minh của Quan Sơn thái bảo, giờ muốn thoát khỏi cục diện hiện tại, thì chỉ còn cách gạt bỏ hết những ám thị của ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ ra khỏi đầu thôi.”
Giáo sư Tôn lại nói: “Nếu đã không thể phán đoán thật giả, tức là ít nhất cũng có năm mươi phần trăm khả năng là thật, ngộ nhỡ bài ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ ấy là thật, yậy chẳng phải chúng ta thành trống đánh xuôi kèn thổi ngược sao?”
Tôi ngẩng đầu nhìn quanh, chỉ thấy vô số chim yến đang lượn vòng trong hẻm núi, tiếng kêu thê lương khiến bầu không khí nơi đây dường như ngập đầy những tín hiệu nguy hiểm. Tôi nói với cả bọn: “Thật hay giả, sẽ có đáp án nhanh thôi. Nếu nơi này đúng là một cạm bẫy thì trước khi lũ yến về đến tổ, chúng ta có thể sẽ phải đối mặt với mối nguy hiểm lớn lao bất cứ lúc nào. Nhưng nếu đợi đến lúc cả đàn yến về tổ hết rồi mà xung quanh vẫn không có động tĩnh, thì có thể nói hoàn cảnh của chúng ta tương đối an toàn.”
Tuyền béo cũng ngẩng đầu nhìn khe trời mảnh như sợi chỉ trên đầu, trầm ngâm nói: “Tư lệnh Nhất à, từ đầu cậu đã biết có nguy hiểm sao vẫn còn dẫn cả bọn qua đây? Phải biết là... linh động tiến lui hồi chuyển, sử dụng chiến thuật du kích mới có thể thắng được cường địch, anh Tuyền nhà cậu đã nói đi nói lại không biết bao nhiêu lần rồi, không thể lấy cứng chọi cứng, sớm nghe tôi đừng nên qua cái cầu cứt chó ấy có phải hơn không.”
Tôi bảo cậu ta: “Nếu thằng ngu nhà cậu không lăn qua cầu trước, tôi đây cũng không tùy tiện xông qua làm gì. Điều tôi lo lắng nhất chính là nhân thủ phân tán, chỉ cần tập trung binh lực, nắm chặt tay lại, cho dù cả bọn phải mạo hiểm một chút, ít nhiều cũng có thể lo cho nhau, dù sao vẫn còn hơn lần lượt rơi rụng từng người. Tôi đây cũng có nguyên tắc có lập trường, thái độ khách quan hay không thì không dám nói nhưng tuyệt đối không có chuyện bỏ rơi những đồng đội bị thất tán khỏi đội ngũ đâu.”
Lúc này, tôi thấy đàn yến trên không trung càng lúc bay càng thấp, không biết sắp xảy ra chuyện gì, vội đưa tay ra hiệu, bảo Tuyền béo đừng nói nữa, mau mau nắn lại khớp xương bị trật cho giáo sư Tôn. Sau đó, tôi lại liếc nhìn sang phía Shirley Dương, có lẽ cô cũng dự cảm được sắp có sự việc gì xảy ra, nên cũng đưa mắt nhìn tôi. Bốn mắt nhìn nhau, lòng đã hiểu lòng, cô chầm chậm rút Ô Kim Cang ra, chắn phía trước Út.
Đúng lúc này, chỉ thấy đàn chim yến trong khe núi đột nhiên tách ra thành mấy trăm nhóm, rồi tựa như những làn khói nhẹ lao vào hai bên vách núi. Cả bọn đều ngẩn người ra: “Hành vi của lũ chim yến này hết sức quái dị, chúng không trở về tổ, rốt cuộc muốn làm gì đây?”
Khe núi ở phía sau Long môn này phẳng như bị búa xẻ làm đôi, đường đi bên trong được đục đẽo rất bằng phẳng, nhưng ở tận cùng, hai vách núi khép lại, chỉ thấy sương khói mịt mù. Đàn chim yến vừa lao tới, mây mù mông lung đột nhiên tản đi, những chỗ bị màn sương che mờ thảy đểu lộ ra hết. Chúng tôi đứng ở cửa khe núi, cũng có thể nhận ra phía trước là đường cụt chứ không phải “thần đạo” thông đến làng tẩm mộ cổ gì. Nhìn thấy cảnh tượng đó, cả bọn đều như bị dội cho một gáo nước lạnh.
Sau một thoáng ngẩn người, lại thấy ở chân vách núi dựng đứng có rất nhiều hang động như kiểu nhà hầm, trước cửa hang cắm toàn người cỏ. Những hình nhân bện bằng cỏ tranh này đều khoác áo xanh kiểu cổ, lưng thắt dây thừng vàng, đầu đội đạo quan, ãn mặc hệt như đạo sĩ vậy.
Khe núi này có long khí tung hoành, sinh khí vô hình vô chất mờ mịt phảng phất, những hình nhân cỏ mặc đồ đạo sĩ này ít nhất cũng phải đến mấy trăm năm tuổi, tuy đã mục nát, nhưng màu sắc và hình dáng vẫn chưa tiêu tan, vạt áo xanh lá nhè nhẹ lay động. Phần mặt hình nhân bịt vải bố, bên trên dùng sơn đỏ vẽ đầy đủ mắt mũi miệng, còn thêm cả hàm râu, cỏ tranh đâm ra tua tủa, thoạt trông như thể một bầy ma quỷ bằng cỏ ẩn nấp chốn thâm sơn cùng cốc.
Vật cầm trên tay những đạo sĩ bằng cỏ tranh ấy lại càng kỳ quái bội phần, không hiểu là thứ gì nữa. Chúng tôi đã đi qua nhiều nơi, ở vùng nông thôn hẻo lánh cũng từng gặp đủ loại bù nhìn, nhưng chưa từng gặp thứ bù nhìn đạo sĩ làm bằng cỏ có phục sức đặc biệt, toàn thân đầy tà khí như thế này, người nào người náy đều không khỏi nảy sinh một dự cảm chẳng lành.
Lũ chim yến kết thành từng đám dường như rất sợ hãi những đạo sĩ bện bằng cỏ tranh, chỉ bay lượn rồi kêu toáng lên phía trước các hang động, không giống như muốn bỏ đi, lại cũng không dám tiến thêm nửa thước. Tôi thấy địa thế sâu bên trong khe núi khép lại, mấy mặt đều là vách đá dựng đứng, còn khe sâu phía trước Long môn thì bị “mắt gió” phong tỏa, tuy biết rõ đại họa đã như lửa cháy lông mày nhưng thực tình không biết phải rút lui về hướng nào nữa, cũng không biết sắp xảy ra chuyện gì, đành đứng nguyên tại chỗ nhìn đàn chim yến bay loạn khắp trời.
Giáo sư Tôn dột nhiên hỏi Út: “Cô nhóc, cháu có biết những hình nhân đạo sĩ bằng cỏ kia để làm gì không? Hồi trước ở Thanh Khê có thứ này không?”
Út lắc đầu, chưa từng thấy, phen này tiến vào hẻm núi Quan Tài cô mới biết thì ra ở quê mình có nhiều thứ ly kỷ cổ quái đến vậy, hồi trước có nằm mơ cũng không thể ngờ được.
Shirley Dương hỏi giáo sư Tôn: “Sao vậy? Ông cảm thấy những hình nhân bằng cỏ này có vấn đề gì à?”
Giáo sư Tôn nuốt nước bọt, như sợ làm kinh động đến thứ gì đó, thấp giọng thì thào: “Trước đây, tôi từng công tác ở khu vực n Khư(7), HàNam một khoảng thời gian, trong
vùng có ngôi miếu Thổ Địa, bên trong thờ toàn đạo sĩ bện bằng rơm rạ. Bấy giờ
chúng tôi còn cảm thấy phong tục này rất kỳ lạ, về sau điều tra mới biết, vào
thời nhà Minh, khắp nơi hạn hán, châu chấu thành nạn, người thời đó mê tín,
không nghĩ cách diệt châu chấu, mà ngược lại còn coi lũ châu chấu như thần
tiên, gọi là Hoàng tiên, dân gian tục gọi là Mao thảo yêu tiên, đa phần đều
dùng rơm rạ của ngũ cốc kết thành hình người để cung phụng, cầu cho nạn châu
chấu mau qua...”
Shirley Dương hỏi: “Ý ông là những hình nhân cỏ này là Mao tiên? Trong hẻm núi Quan Tài này có châu chấu sao?”
Giáo sư Tôn nói: “Giống thôi... tôi chỉ muốn nói những hình nhân cỏ này hơi giống với Mao thảo yêu tiên, chú ý cách dùng từ của tôi chứ.”
Tôi lấy làm ngạc nhiên: “Trong hẻm núi Quan Tài này sao lại có châu chấu được ? Trên đời này có thứ châu chấu sống trong hang núi hay sao?”
Shirley Dương khẽ gật đầu: “Chỉ có châu chấu hướng đạo là đẻ trứng trong hang động, năng lực sinh sôi nảy nở rất mạnh, một khi chúng xuất hiện thành đàn thì số lượng sẽ cực kỳ khủng khiếp, chẳng lẽ những hình nhân bằng cỏ này đều do Quan Sơn thái bảo bố trí...”
Một câu này của cô đã đánh thức người trong mộng, lòng tôi lập tức dâng lên một nỗi tuyệt vọng khôn cùng, kỳ quan cầu tiên vô ảnh do mấy nghìn mấy vạn con chim yến hợp thành có lẽ không phải được thiên nhiên tạo nên, mà do cao nhân dày công bố trí. Trong vô số những hang động ở đây đều nuôi đầy châu chấu hướng đạo, bọn chúng chính là thức ăn của đàn chim yến kia.
Chuyện về châu chấu hướng đạo tôi cũng từng nghe qua, tương truyền loại châu chấu này không chỉ ăn ngũ cốc, mà đến lúc đói ngấu thì xác người xác chó gì cũng ăn tuốt, chân sau của nó có răng cưa sắc bén, tần số đập cánh cực cao, mỗi lúc bay qua chẳng khác nào một lưỡi dao sắc nhọn xoẹt ngang, đụng phải thân thể người liền để lại một vết thương máu thịt bầy nhầy, vì vậy chúng còn được gọi là châu chấu đao giáp. Nếu châu chấu hướng đạo góp mặt trong nạn châu chấu thì quả là một tai họa khủng khiép. Nghe nói, từ thời trước Giải Phóng, gióng châu chấu này đã tuyệt chủng ở Trung Quốc rồi, chim chính là thiên địch của chúng, nhưng ai biết được trong hẻm núi Quan Tài này có còn một đàn châu chấu hướng đạo nữa hay không?
Những hình nhân cỏ sắp hàng trước cửa hang động không biết là để lợi dụng tập tính của chim yến, hay bên trong hang có để sẵn loại bí dược gì có thể giữ mùi suốt thời gian dài khiến lũ chim yến không dám xông vào ăn sạch cả đàn châu chấu, mà mỗi ngày chỉ có thể lùa ra một số bắt ăn để sinh tồn. Nếu đúng vậy, thì quả là đã lợi dụng được lẽ tuần hoàn của vạn vật trong trời đất, chỉ cần sắp xếp thích đáng, cộng thêm sức mấy chục mấy trăm người là có thể bày bố ra được, mà còn hiệu quả hơn nhiều tường cao hào sâu trong đế lăng dùng sức nghìn vạn người dựng nên. Đây là một cơ quan sống! Lẽ nào Đại Minh Quan Sơn thái bảo quả thật là bậc thần tiên thông thiên triệt địa hay sao?
Từ khi bước vào nghiệp Mô Kim hiệu úy, tôi đã gặp nhiều kỳ ngộ, nghe nhiều sự lạ trên đời, trong đó cảm thụ sâu sắc nhẫt chính là một câu giáo sư Trần từng nói: “Nghìn vạn lần đừng coi thường trí tuệ của cổ nhân.”
Những trường hợp sử dụng dị thuật lợi dụng sự sinh khắc của vạn vật nhằm trộm mộ hay phòng chống trộm mộ, tôi chằng những từng nghe nói rất nhiều, mà bản thân cũng tận mắt chứng kiến không ít, thấy tình cảnh này, liền lập tức nghĩ tới những chuyện ấy, vội vàng nói: “Mặc xác trong hang có thứ ấy hay không, ngộ nhỡ chúng mà chui ra thì tiêu đời, chúng ta mau tìm chỗ nào nấp đi đã.” Nhưng bên trong hẻm núi toàn những hình nhân bằng cỏ mặc đạo bào, cũng không rõ rốt cuộc có bao nhiêu hang châu chấu, lấy đâu ra chỗ trốn bây giờ?
Lúc này lũ chim yến trên không vẫn không ngừng đảo lượn kêu ríu rít, trong các hang động ở hai bên vách núi cũng nghe tiếng gió ào ào, như đàn ong đập cánh. Chợt thấy đàn chim náo loạn cả lên, từng đàn châu chấu hướng đạo từ trong các hang động ùa ra như những đốm lửa vàng. Lũ châu chấu này toàn thân ánh lên sắc vàng, cánh màu bạc, thể hình nặng nề, lại có lớp vỏ cứng rắn, không thể bay lên quá cao, nên chỉ lao qua lao lại vun vút ở tầm thấp.
Chúng tôi vội vàng lùi về phía vách núi, nào ngờ từ trong hang động phía sau lại lao vút ra hai con châu chấu vàng óng ánh. Bị thiên địch bức bách, chúng liền nháo nhào lao về phía chúng tôi khiến mọi người hoa cả mắt, chỉ thấy hai đốm lửa lóe lên, con châu chấu vàng đã bổ tới trước mặt. Shirley Dương hét lớn: “Cẩn thận!” đoạn nhanh chóng xòe ô Kim Cang ra chắn, chợt nghe đinh đang như tiếng kim loại va nhau, hai con châu chấu to bằng ngón tay cái đều đập thẳng vào mặt Ô Kim Cang rồi bắn tóe ra như hai vì sao sa, còn chưa chạm đất đá bị lũ chim yến trên khòng lao xuống đớp gọn.
Nhưng lũ châu chấu hướng đạo óng ánh sắc vàng kia quả thực rất nhiều, cứ ùn ùn bay tới đâu là che khuất mặt trời tới đó, vả lại khi nãy Shirley Dương dùng ô Kim Cang chắn hai con châu chấu bay tới, chỉ nghe hai tiếng đinh đang cũng đủ biết bọn chúng lợi hại nhường nào, lực va đập ấy quyết không kém gì lực bắn của ná cao su, thân thể máu thịt của con người làm sao chịu nổi.
Mắt thấy lũ châu chấu bay thành từng mảng từng mảng trong khe núi, khí thế cực lớn, đàn chim yến nhanh nhẹn cũng không dám xông thẳng vào mũi nhọn của con mồi, chỉ lượn lờ trên không trung, chuyên nhằm bắt những con bay loạn lạc bầy. Còn lại cả một đàn châu chấu giáp vàng ước chừng mấy trăm nghìn con dần tụ lại thành một đám, bay qua bay lại. Mấy người chúng tôi thảy đều dâng lên một cảm giác lạnh lẽo tự đáy lòng. Giờ đây họa may chỉ có Ô Kim Cang có thể tạm thời chống đỡ, khốn nỗi lại chỉ có một chiếc, dù phòng thủ kín kẽ, giọt nước cũng không lọt nổi, nhưng làm sao một chiếc ô có thể bảo vệ được tính mạng năm con người ?
Tôi đột nhiên cảm thấy cả người rơi xuống, thầm nhủ phen này chắc chắn thành bánh thịt bằm rồi, vội vàng mở mắt ra nhìn, thì ra lúc nãy chạy thẳng một mạch trên cầu, cả bọn đã đến rất gần cửa khe núi, lại bị đàn chim yến hất văng lên một cú, không ngờ đã bay qua được khe núi tối tăm sâu hun hút, tà tà rơi xuống bệ đá có khắc hai chữ triện cổ “Hách Hồn”.
Mắt gió vô hình kia chỉ tồn tại ở giữa khe núi, đến gần cửa khe thì đã yếu đi rất nhiều, nhưng gió núi tuy vô hình song lại hữu chất, làm giảm đi đáng kể lực rơi từ độ cao mười mấy mét xuống. Tôi chỉ thấy trước mắt hoa lên, bả vai đau nhói, thân hình đã chạm đất, ngã một cú nổ đom đóm mắt, chẳng còn phân biệt được trên dưới trái phải Đông Tây Nam Bắc nữa.
Còn chưa kịp mừng vì qua được câu tiên vô ảnh, tôi chợt phát hiện bên dưới cơ thể mình trơn nhây nhẫy, thì ra đã rơi xuống bề mặt trơn bóng của thác đá. Nơi này không hề có chỗ bám vịn, càng không có khe rãnh lồi lõm gì để dùng sức, bề mặt thác đá lại có hình cong cong như chiếc gương, không thể giữ được người ở trên. Thân hình tôi lập tức trượt xuống dưới.
Tôi thầm than không ổn, vội vàng nằm rạp xuống, không dám dùng sức thêm nữa, chỉ xòe rộng bàn tay ấn lên bề mặt thác đá. Lúc này, lòng bàn tay tôi đầy mồ hôi lạnh, cũng may, bàn tay đẫm mồ hôi lại phẩn nào tăng thêm lực ma sát, lập tức ngăn đà rơi lại. Nếu trượt thêm độ nửa mét nữa, đến đoạn thác đá buông thằng xuống, thì trừ phi lòng bàn tay tôi có giác hút như lũ thạch sùng, bằng không chẳng rơi xuống vực sâu cũng bị dòng khí lưu hỗn loạn cuốn vào trong mắt gió.
Tim tôi đập thình thịch, định thần lại đưa mắt ngó sang hai bên mới phát hiện giáo sư Tôn cũng đang nằm rạp trên vách, chầm chậm trượt qua bên cạnh tôi từng chút từng chút một như ở trên mặt băng. Tôi vội vươn tay tóm lấy cánh tay lão ta, chẳng ngờ bị lão kéo theo, cả hai cùng trượt xuống mép ngoài của thác đá, vội vàng hô vang lên gọi cứu viện.
Shirley Dương, Út và Tuyền béo đều rơi xuống khu vực ở mé bên trong, Shirley Dương nghe thấy tiếng hét, biết ngay tình thế nguy cấp, liền ném phi hổ trảo ra móc vào ba lô của giáo sứ Tôn. Cô và Út chẳng buổn để ý đến thân thể đang đau nhức, nghiến răng kéo tôi và giáo sư Tôn từ mép thác đá trơn nhảy trở về, tựa như kéo hai con chó chết.
Năm người ngã vật ra đất, tôi nhìn anh, anh nhìn tôi, nét mặt ai cũng hoảng hốt ngẩn ngơ, ngưòi nào người nấy đều run rẩy, mặt cắt không còn giọt máu, trong tai lùng bà lùng bùng.
Tôi thở hắt ra một hơi, nhìn sang thấy giáo sư Tôn đang nhíu chặt hai hàng lông mày, trán không ngừng túa mồ hôi lạnh. Hỏi ra mới biết, thì ra sau cú trượt ngã vừa rồi, xương vai lão đã bị trật khớp. Trong cơn đau đớn, lão ta vẫn không ngừng lẩm bẩm: “Nếu đã phát hiện được bí mật của cầu tiên vô ảnh xem ra mộ cổ Địa Tiên chỉ còn cách chúng ta trong gang tấc thôi, chỉ cần sao lại quẻ phù Long cốt trong mộ thì công thành danh toại chỉ là chuyện một sớm một chiều, không ngờ Tôn Học Vũ này cuối cùng cũng có ngày được ngẩng đầu lên, để xem sau này còn kẻ nào dám chụp mũ bậy bạ cho ta nữa không... khụ khụ.. ” Nói được nửa chừng thì đau quá không chịu nổi nữa, lão vội vàng nhờ tôi giúp chỉnh lại cánh tay trật khớp.
Tôi cũng bị ngã đau nhức hết cả mình mẩy, không dùng sức được, liền nói: “Cửu gia, ông đừng vui mừng quá sớm, vừa nãy tôi còn định khuyên mọi người xem rõ tình hình rồi hãy qua cầu, ai ngờ ông và Tuyền béo lại nóng nảy thế, giờ thì trước khi lũ yến vể tổ, chúng ta không còn đường nào để trở lại bên kia nữa rồi...” Nói đoạn, tôi quay sang bảo Tuyền béo giúp giáo sư Tôn nắn lại chỗ trật khớp. Hồi xưa đi về nông thôn tham gia lao động sản xuất, hễ lừa ngựa trong thôn bị thương, ông lang vườn ở đó thường hay dẫn Tuyền béo theo làm trợ thủ, vì Tuyền béo ra tay dứt khoát, không biết nặng nhẹ, chứ người nào chùn tay thì làm bác sĩ sao được.
Tuyền béo cắn răng bò dậy, lại gần tóm lấy cánh tay phải của Tôn Cửu gia lắc lên lắc xuống, xém chút nữa làm lão ta đau đến tắc thở. Tôn Cửu gia rối rít kêu toáng lên: “Ai cha... ai cha... chậm thôi... không phải tay này... tay kia cơ!”
Tuyền béo chợt sực nhớ ra điều gì đó: “À, tôi bảo này, vừa nãy ai đẩy tôi qua cầu thế? Số đen chút nữa là ngã thành đậu phụ nát rồi, chuyện này cũng đem ra đùa được hả? Nhất kia, cóphải thẳng nhãi nhà cậu lại giở trò chơi bẩn không? Thái độ của chúng ta đối với cuộc sống và công việc, chẳng lẽ không thể nghiêm túc hơn một chút hay sao?”
Tôi cả kinh nói: “Rõ là nói nhảm, không có gió lại nổi sóng cồn. Vừa nãy cậu bị người ta đẩy lên cầu thật hả? Chẳng trách tôi thấy cậu bước cứ loạng choạng, ai đẩy cậu vậy?”
Tôi vội nhớ lại tình hình trước lúc xông qua cầu chim yến, bấy giờ giáo sư Tôn đang kích động, đứng chắn phía trước mọi người, nên không thể nào đẩy Tuyền béo đang ở sau lưng lên cầu được. Shirley Dương khẳng định không làm những chuyện không phân nặng nhẹ như thế. Út tinh thông các kỳ thuật Phong Oa sơn, vừa gan dạ vừa nhanh mồm nhanh miệng, nhưng theo tôi thấy, cô tuyệt đối không phải hạng người giở trò âm hiểm xảo trá, vậy thì là ai mới được chứ?
Một cái bóng chợt nhoáng qua trong đầu, tôi vội ngẩng lên nhìn sang phía bên kia khe sâu, chỉ thấy con khỉ Ba Sơn chúng tôi gặp trong hầm phòng không đang đứng ở cửa hang nhíu mày nhăn mặt với chúng tôi, bộ dạng rất gian xảo.
Toàn thân tôi lạnh cóng, quên cả đau đớn, lập tức nhảy phắt lên: “Gay rồi, ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ trên tấm bia vỡ kia... tám chín phần là một cạm bẫy!”
Trộm mộ là cuộc so tài giữa người sống và người chết, trong cuộc đọ sức này, chủ mộ vĩnh viễn ở thế bị động, vì những bố trí trong lăng mộ không thể thay đổi, nhưng binh bất yếm trá, mộ giả mộ ảo cùng vô số thủ đoạn cao minh khác hòng làm nhiễu loạn mê hoặc kẻ trộm mộ xưa nay vốn không phải là ít. Nếu kẻ trộm mộ trúng phải cạm bẫy mai phục trong mộ cổ, thế chủ động và bị động sẽ lập tức đảo ngược.
Nhưng mấu chốt của cạm bẫy nằm ở chỗ ẩn giấu và mê hoặc, khiến người ta không thể dò đoán, nếu không tự chạm vào làm kích phát, có thể sẽ chẳng bao giờ đoán đượ c đấy là thật hay giả. Quan Sơn thái bảo quả không hổ là bậc lão luyện trong nghề trộm mộ, hành sự ngược hẳn lẽ thường. Cái xác vô danh ở lối vào đường hầm quả là một chiêu hết sức cao minh không ai đoán được người đó là ai, có thể suy luận ra vô số giả thiết khác nhau, nhưng lại chẳng thể xác nhận được giả thiết nào cả.
Cầu tiên vô ảnh nhìn mà chùn bước ấy, cũng sẽ khiến người ta hiểu lầm là một chỗ “kỳ môn”, nếu không bị hiểm cảnh làm cho sợ hãi rút lui, thì cũng bị mộ đạo phía sau cầu tiên dẫn dụ, liều chết xông qua đế rồi lạc lối. Trong khe núi này chắc chắn không phải là mộ cổ Địa Tiên thật sự, không biết còn ẩn chứa cạm bẫy chí mạng gì đây.
Út bảo tôi: “Có lẽ tại anh Tuyền béo hấp tấp, chưa hỏi rõ ngọn ngành gì đã bắn con khỉ kia một phát, mà nó lại là giống thù dai, muốn đẩy anh ấy lăn xuống vực, phía bên này cầu chưa chắc đã phải cạm bẫy đâu.”
Giáo sư Tôn nghe chúng tôi nói chuyện, cũng vừa kinh ngạc vừa nghi hoặc, buông thõng một cánh tay xuống hỏi: “Lẽ nào... lẽ nào chúng ta đã rơi vào tuyệt cảnh? Nơi này không phải mộ cổ của Di Sơn Vu Lăng vương?” Nói đoạn, lão ta cúi đầu ngẫm nghĩ, lại cảm thấy không đúng, liền nói tiếp: “Hồ Bát Nhất, cậu đừng có suy đoán chủ quan như vậy được không? Phải giữ thái độ khách quan đối với vấn đề chứ? Cầu tiên vô ảnh ấy quả thực là hiện tượng hãn hữu trên thế gian này, bên trong khe núi lại có thú đá đứng thành hàng, thế núi uy nghiêm hiểm trở, tôi thấy rất có khả năng lối vào mộ cổ Địa Tiên nằm ở đây đấy, chúng ta cân phải điều tra kỹ lưỡng rồi mới kết luận được.”
Tôi hừ lạnh một tiếng nói: “Tôi thấy ông mơ tưởng được nổi danh đến nỗi mụ mị đầu óc đi rồi, trong mắt chỉ còn thấy mỗi quẻ phù Long cốt thôi, chính ông mới mất lập trường nhìn nhận vấn đề khách quan thì có.”
Shirley Dương vội can thiệp: “Hai người đừng tranh cãi nữa, bản thân mộ cổ Địa Tiên vốn do một cao thủ trộm mộ thiết kế, nửa vô tình nửa cố ý để lại rất nhiều đầu mối, nhưng lại không thể xác định đầu mối nào là thật đầu mối nào là giả. Cũng có nghĩa, ngay từ đầu chúng ta đã bị cái gọi là ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ kia dắt mũi kéo đi rồi, đây mới chính là chỗ cao minh của Quan Sơn thái bảo, giờ muốn thoát khỏi cục diện hiện tại, thì chỉ còn cách gạt bỏ hết những ám thị của ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ ra khỏi đầu thôi.”
Giáo sư Tôn lại nói: “Nếu đã không thể phán đoán thật giả, tức là ít nhất cũng có năm mươi phần trăm khả năng là thật, ngộ nhỡ bài ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ ấy là thật, yậy chẳng phải chúng ta thành trống đánh xuôi kèn thổi ngược sao?”
Tôi ngẩng đầu nhìn quanh, chỉ thấy vô số chim yến đang lượn vòng trong hẻm núi, tiếng kêu thê lương khiến bầu không khí nơi đây dường như ngập đầy những tín hiệu nguy hiểm. Tôi nói với cả bọn: “Thật hay giả, sẽ có đáp án nhanh thôi. Nếu nơi này đúng là một cạm bẫy thì trước khi lũ yến về đến tổ, chúng ta có thể sẽ phải đối mặt với mối nguy hiểm lớn lao bất cứ lúc nào. Nhưng nếu đợi đến lúc cả đàn yến về tổ hết rồi mà xung quanh vẫn không có động tĩnh, thì có thể nói hoàn cảnh của chúng ta tương đối an toàn.”
Tuyền béo cũng ngẩng đầu nhìn khe trời mảnh như sợi chỉ trên đầu, trầm ngâm nói: “Tư lệnh Nhất à, từ đầu cậu đã biết có nguy hiểm sao vẫn còn dẫn cả bọn qua đây? Phải biết là... linh động tiến lui hồi chuyển, sử dụng chiến thuật du kích mới có thể thắng được cường địch, anh Tuyền nhà cậu đã nói đi nói lại không biết bao nhiêu lần rồi, không thể lấy cứng chọi cứng, sớm nghe tôi đừng nên qua cái cầu cứt chó ấy có phải hơn không.”
Tôi bảo cậu ta: “Nếu thằng ngu nhà cậu không lăn qua cầu trước, tôi đây cũng không tùy tiện xông qua làm gì. Điều tôi lo lắng nhất chính là nhân thủ phân tán, chỉ cần tập trung binh lực, nắm chặt tay lại, cho dù cả bọn phải mạo hiểm một chút, ít nhiều cũng có thể lo cho nhau, dù sao vẫn còn hơn lần lượt rơi rụng từng người. Tôi đây cũng có nguyên tắc có lập trường, thái độ khách quan hay không thì không dám nói nhưng tuyệt đối không có chuyện bỏ rơi những đồng đội bị thất tán khỏi đội ngũ đâu.”
Lúc này, tôi thấy đàn yến trên không trung càng lúc bay càng thấp, không biết sắp xảy ra chuyện gì, vội đưa tay ra hiệu, bảo Tuyền béo đừng nói nữa, mau mau nắn lại khớp xương bị trật cho giáo sư Tôn. Sau đó, tôi lại liếc nhìn sang phía Shirley Dương, có lẽ cô cũng dự cảm được sắp có sự việc gì xảy ra, nên cũng đưa mắt nhìn tôi. Bốn mắt nhìn nhau, lòng đã hiểu lòng, cô chầm chậm rút Ô Kim Cang ra, chắn phía trước Út.
Đúng lúc này, chỉ thấy đàn chim yến trong khe núi đột nhiên tách ra thành mấy trăm nhóm, rồi tựa như những làn khói nhẹ lao vào hai bên vách núi. Cả bọn đều ngẩn người ra: “Hành vi của lũ chim yến này hết sức quái dị, chúng không trở về tổ, rốt cuộc muốn làm gì đây?”
Khe núi ở phía sau Long môn này phẳng như bị búa xẻ làm đôi, đường đi bên trong được đục đẽo rất bằng phẳng, nhưng ở tận cùng, hai vách núi khép lại, chỉ thấy sương khói mịt mù. Đàn chim yến vừa lao tới, mây mù mông lung đột nhiên tản đi, những chỗ bị màn sương che mờ thảy đểu lộ ra hết. Chúng tôi đứng ở cửa khe núi, cũng có thể nhận ra phía trước là đường cụt chứ không phải “thần đạo” thông đến làng tẩm mộ cổ gì. Nhìn thấy cảnh tượng đó, cả bọn đều như bị dội cho một gáo nước lạnh.
Sau một thoáng ngẩn người, lại thấy ở chân vách núi dựng đứng có rất nhiều hang động như kiểu nhà hầm, trước cửa hang cắm toàn người cỏ. Những hình nhân bện bằng cỏ tranh này đều khoác áo xanh kiểu cổ, lưng thắt dây thừng vàng, đầu đội đạo quan, ãn mặc hệt như đạo sĩ vậy.
Khe núi này có long khí tung hoành, sinh khí vô hình vô chất mờ mịt phảng phất, những hình nhân cỏ mặc đồ đạo sĩ này ít nhất cũng phải đến mấy trăm năm tuổi, tuy đã mục nát, nhưng màu sắc và hình dáng vẫn chưa tiêu tan, vạt áo xanh lá nhè nhẹ lay động. Phần mặt hình nhân bịt vải bố, bên trên dùng sơn đỏ vẽ đầy đủ mắt mũi miệng, còn thêm cả hàm râu, cỏ tranh đâm ra tua tủa, thoạt trông như thể một bầy ma quỷ bằng cỏ ẩn nấp chốn thâm sơn cùng cốc.
Vật cầm trên tay những đạo sĩ bằng cỏ tranh ấy lại càng kỳ quái bội phần, không hiểu là thứ gì nữa. Chúng tôi đã đi qua nhiều nơi, ở vùng nông thôn hẻo lánh cũng từng gặp đủ loại bù nhìn, nhưng chưa từng gặp thứ bù nhìn đạo sĩ làm bằng cỏ có phục sức đặc biệt, toàn thân đầy tà khí như thế này, người nào người náy đều không khỏi nảy sinh một dự cảm chẳng lành.
Lũ chim yến kết thành từng đám dường như rất sợ hãi những đạo sĩ bện bằng cỏ tranh, chỉ bay lượn rồi kêu toáng lên phía trước các hang động, không giống như muốn bỏ đi, lại cũng không dám tiến thêm nửa thước. Tôi thấy địa thế sâu bên trong khe núi khép lại, mấy mặt đều là vách đá dựng đứng, còn khe sâu phía trước Long môn thì bị “mắt gió” phong tỏa, tuy biết rõ đại họa đã như lửa cháy lông mày nhưng thực tình không biết phải rút lui về hướng nào nữa, cũng không biết sắp xảy ra chuyện gì, đành đứng nguyên tại chỗ nhìn đàn chim yến bay loạn khắp trời.
Giáo sư Tôn dột nhiên hỏi Út: “Cô nhóc, cháu có biết những hình nhân đạo sĩ bằng cỏ kia để làm gì không? Hồi trước ở Thanh Khê có thứ này không?”
Út lắc đầu, chưa từng thấy, phen này tiến vào hẻm núi Quan Tài cô mới biết thì ra ở quê mình có nhiều thứ ly kỷ cổ quái đến vậy, hồi trước có nằm mơ cũng không thể ngờ được.
Shirley Dương hỏi giáo sư Tôn: “Sao vậy? Ông cảm thấy những hình nhân bằng cỏ này có vấn đề gì à?”
Giáo sư Tôn nuốt nước bọt, như sợ làm kinh động đến thứ gì đó, thấp giọng thì thào: “Trước đây, tôi từng công tác ở khu vực n Khư(7), Hà
Shirley Dương hỏi: “Ý ông là những hình nhân cỏ này là Mao tiên? Trong hẻm núi Quan Tài này có châu chấu sao?”
Giáo sư Tôn nói: “Giống thôi... tôi chỉ muốn nói những hình nhân cỏ này hơi giống với Mao thảo yêu tiên, chú ý cách dùng từ của tôi chứ.”
Tôi lấy làm ngạc nhiên: “Trong hẻm núi Quan Tài này sao lại có châu chấu được ? Trên đời này có thứ châu chấu sống trong hang núi hay sao?”
Shirley Dương khẽ gật đầu: “Chỉ có châu chấu hướng đạo là đẻ trứng trong hang động, năng lực sinh sôi nảy nở rất mạnh, một khi chúng xuất hiện thành đàn thì số lượng sẽ cực kỳ khủng khiếp, chẳng lẽ những hình nhân bằng cỏ này đều do Quan Sơn thái bảo bố trí...”
Một câu này của cô đã đánh thức người trong mộng, lòng tôi lập tức dâng lên một nỗi tuyệt vọng khôn cùng, kỳ quan cầu tiên vô ảnh do mấy nghìn mấy vạn con chim yến hợp thành có lẽ không phải được thiên nhiên tạo nên, mà do cao nhân dày công bố trí. Trong vô số những hang động ở đây đều nuôi đầy châu chấu hướng đạo, bọn chúng chính là thức ăn của đàn chim yến kia.
Chuyện về châu chấu hướng đạo tôi cũng từng nghe qua, tương truyền loại châu chấu này không chỉ ăn ngũ cốc, mà đến lúc đói ngấu thì xác người xác chó gì cũng ăn tuốt, chân sau của nó có răng cưa sắc bén, tần số đập cánh cực cao, mỗi lúc bay qua chẳng khác nào một lưỡi dao sắc nhọn xoẹt ngang, đụng phải thân thể người liền để lại một vết thương máu thịt bầy nhầy, vì vậy chúng còn được gọi là châu chấu đao giáp. Nếu châu chấu hướng đạo góp mặt trong nạn châu chấu thì quả là một tai họa khủng khiép. Nghe nói, từ thời trước Giải Phóng, gióng châu chấu này đã tuyệt chủng ở Trung Quốc rồi, chim chính là thiên địch của chúng, nhưng ai biết được trong hẻm núi Quan Tài này có còn một đàn châu chấu hướng đạo nữa hay không?
Những hình nhân cỏ sắp hàng trước cửa hang động không biết là để lợi dụng tập tính của chim yến, hay bên trong hang có để sẵn loại bí dược gì có thể giữ mùi suốt thời gian dài khiến lũ chim yến không dám xông vào ăn sạch cả đàn châu chấu, mà mỗi ngày chỉ có thể lùa ra một số bắt ăn để sinh tồn. Nếu đúng vậy, thì quả là đã lợi dụng được lẽ tuần hoàn của vạn vật trong trời đất, chỉ cần sắp xếp thích đáng, cộng thêm sức mấy chục mấy trăm người là có thể bày bố ra được, mà còn hiệu quả hơn nhiều tường cao hào sâu trong đế lăng dùng sức nghìn vạn người dựng nên. Đây là một cơ quan sống! Lẽ nào Đại Minh Quan Sơn thái bảo quả thật là bậc thần tiên thông thiên triệt địa hay sao?
Từ khi bước vào nghiệp Mô Kim hiệu úy, tôi đã gặp nhiều kỳ ngộ, nghe nhiều sự lạ trên đời, trong đó cảm thụ sâu sắc nhẫt chính là một câu giáo sư Trần từng nói: “Nghìn vạn lần đừng coi thường trí tuệ của cổ nhân.”
Những trường hợp sử dụng dị thuật lợi dụng sự sinh khắc của vạn vật nhằm trộm mộ hay phòng chống trộm mộ, tôi chằng những từng nghe nói rất nhiều, mà bản thân cũng tận mắt chứng kiến không ít, thấy tình cảnh này, liền lập tức nghĩ tới những chuyện ấy, vội vàng nói: “Mặc xác trong hang có thứ ấy hay không, ngộ nhỡ chúng mà chui ra thì tiêu đời, chúng ta mau tìm chỗ nào nấp đi đã.” Nhưng bên trong hẻm núi toàn những hình nhân bằng cỏ mặc đạo bào, cũng không rõ rốt cuộc có bao nhiêu hang châu chấu, lấy đâu ra chỗ trốn bây giờ?
Lúc này lũ chim yến trên không vẫn không ngừng đảo lượn kêu ríu rít, trong các hang động ở hai bên vách núi cũng nghe tiếng gió ào ào, như đàn ong đập cánh. Chợt thấy đàn chim náo loạn cả lên, từng đàn châu chấu hướng đạo từ trong các hang động ùa ra như những đốm lửa vàng. Lũ châu chấu này toàn thân ánh lên sắc vàng, cánh màu bạc, thể hình nặng nề, lại có lớp vỏ cứng rắn, không thể bay lên quá cao, nên chỉ lao qua lao lại vun vút ở tầm thấp.
Chúng tôi vội vàng lùi về phía vách núi, nào ngờ từ trong hang động phía sau lại lao vút ra hai con châu chấu vàng óng ánh. Bị thiên địch bức bách, chúng liền nháo nhào lao về phía chúng tôi khiến mọi người hoa cả mắt, chỉ thấy hai đốm lửa lóe lên, con châu chấu vàng đã bổ tới trước mặt. Shirley Dương hét lớn: “Cẩn thận!” đoạn nhanh chóng xòe ô Kim Cang ra chắn, chợt nghe đinh đang như tiếng kim loại va nhau, hai con châu chấu to bằng ngón tay cái đều đập thẳng vào mặt Ô Kim Cang rồi bắn tóe ra như hai vì sao sa, còn chưa chạm đất đá bị lũ chim yến trên khòng lao xuống đớp gọn.
Nhưng lũ châu chấu hướng đạo óng ánh sắc vàng kia quả thực rất nhiều, cứ ùn ùn bay tới đâu là che khuất mặt trời tới đó, vả lại khi nãy Shirley Dương dùng ô Kim Cang chắn hai con châu chấu bay tới, chỉ nghe hai tiếng đinh đang cũng đủ biết bọn chúng lợi hại nhường nào, lực va đập ấy quyết không kém gì lực bắn của ná cao su, thân thể máu thịt của con người làm sao chịu nổi.
Mắt thấy lũ châu chấu bay thành từng mảng từng mảng trong khe núi, khí thế cực lớn, đàn chim yến nhanh nhẹn cũng không dám xông thẳng vào mũi nhọn của con mồi, chỉ lượn lờ trên không trung, chuyên nhằm bắt những con bay loạn lạc bầy. Còn lại cả một đàn châu chấu giáp vàng ước chừng mấy trăm nghìn con dần tụ lại thành một đám, bay qua bay lại. Mấy người chúng tôi thảy đều dâng lên một cảm giác lạnh lẽo tự đáy lòng. Giờ đây họa may chỉ có Ô Kim Cang có thể tạm thời chống đỡ, khốn nỗi lại chỉ có một chiếc, dù phòng thủ kín kẽ, giọt nước cũng không lọt nổi, nhưng làm sao một chiếc ô có thể bảo vệ được tính mạng năm con người ?
Chương 17: Chướng Tâm
Lôi
Đàn chim
yến hàng vạn con trên không trung đã kết thành một tấm lưới phủ kín bầu trời,
đảo lượn vòng ngoài vây kín bọn châu chấu giáp vàng, nhưng chúng cũng sợ không
dám xông vào chỗ lũ châu chấu tập trung đông đúc, chỉ nhằm những chỗ trống,
không ngừng đớp lấy bọn châu chấu ở mé ngoài.
Trong khe núi vốn có một tia sáng từ trên cao rọi xuống, nhưng lúc này đã bị hàng trăm nghìn con châu chấu quần tụ che mất. Lũ châu chấu tựa một đám mây đen mù mịt phủ trùm lên tất thảy. Bọn chúng vốn là côn trùng máu lạnh, lại chẳng có trí tuệ hay tình cảm gì, nhưng con sâu cái kiến cũng còn tham sống, đối mặt vói sinh tử tồn vong, lũ châu chấu cũng biết tụ lại một chỗ theo bản năng. Trên cánh đám châu chấu hướng đạo này dường như có chất phát quang, thi thoảng lại ánh lên sắc vàng. Cả đàn châu chấu đập cánh bay qua bay lại trong khe núi, tựa như những đám khói mù màu vàng đang cháy rừng rực.
Sau lưng chúng tôi là vực sâu thăm thẳm bị mắt gió chiếm giữ, người không phải chim yến, rơi xuống dưới chắc chắn sẽ toi, phía trước lại có vô số châu chấu hướng đạo với những cặp càng sắc nhọn như lưỡi dao, tiến thoái đều không xong. Bốn bề chỉ thấy toàn châu chấu đang xé gió bay tán loạn như những tia lửa bắn tung tóe, phát ra tiếng “vù vù vù”, làm màng nhĩ cả bọn rung lên bần bật.
Những con châu chấu không nhập được vào đàn xuyên qua xuyên lại với tốc độ cực nhanh ở khoảng không tầm thấp, lớp vỏ ở đầu chúng rất cứng, những cái ngàm phía sau hai cái răng cửa lại càng lợi hại, hễ chạm phải thần thể người là cắm sâu vào thịt. Shirley Dương giơ ô Kim Cang lên chặn được phần nào, nhưng lũ châu chấu từ bốn phía bố tới mỗi lúc một nhiều, một chiếc ô Kim Cang khó lòng chống đỡ nổi, chắn được phía trước thì hở phía sau, đỡ được bên phải lại hổng bên trái.
Tôi và Tuyền béo thấy vậy, biết tình thế đã đến hồi nguy cấp, lập tức rút xẻng công binh của Đức sản xuất ra, lại vươn cánh tay còn lại rút nốt cái xẻng shirley Dương đeo sau lưng, không ngờ còn chưa kịp nắm chắc đã bị Út giật mất. Ba người đua nhau vung xẻng lên, nhắm vào những con châu chấu từ khắp bốn phía bay đến mà đập mạnh. Mặt xẻng đập vào châu chấu, liền phát ra một tiếng “keng” như đập vào đá sỏi vậy. Những con châu chấu hướng đạo đập vào xẻng công binh và ô Kim Cang đều đứt đầu đứt chân lả tả rơi xuống.
Trong chốc lát, xung quanh chúng tôi đã chất đầy xác châu chấu nát bươm, nhưng lại có nhiều châu chấu hơn từ khắp bốn phương tám hướng lũ lượt ập tới, mu bàn tay và mặt tôi đều bị rách toạc, mà không lúc nào rảnh ra để cầm máu được. Mấy người còn lại cũng đều bị thương, tuy không nặng lắm, nhưng dù sao cũng là thân thể máu thịt, cầm cự lâu dài ắt khó tránh tê cứng nhức mỏi. Cả bọn chỉ biết dựa lưng vào nhau, nhích từng bước từng bước lùi về sát chân vách đá.
Tôi phát hiện cách không xa có một đám “kim giáp mao tiên” đang tiến lại gần, chỉ riêng số châu chấu lẻ tẻ bay lại lai quanh người chúng tôi đã không ứng phó nổi, giờ lại cả đàn châu chấu dày đặc như một bức tường thế kia, thật chẳng khác nào cỗ máy xay thịt khổng lồ, nếu bị cuốn vào trong thì chỉ còn đường chết.
Tôi thầm kinh hoảng, chợt thấy trước mắt có tia sáng vàng lóe lên, mấy con châu chấu đồng loạt bổ tới. Tôi vội vung xẻng công binh lên đập, phát ra hai tiếng “keng keng” như lệnh vỡ, hai con châu chấu to tướng bay trước đã văng lên không. Vừa lúc ấy, tôi chợt thấy cánh tay tê chồn, thì ra một con châu chấu khác đã cắm đầu chui vào bả vai, chỉ lộ ra hai cái chân sau dài thượt đang không ngừng đạp loạn xạ phía bên ngoài.
Tôi nghiến răng tóm lấy chân sau con châu chấu đó, giật mạnh ra, chỉ thấy nửa thân trước của con “kim giáp mao tiên” đều bị máu nhuộm đỏ tươi. Tôi vừa hoảng, vừa giận sôi người, liền bóp mạnh con châu chấu trong lòng bàn tay, cảm giác như thể bóp phải mấy mũi gai nhọn. Tuy đã bóp cho con châu chấu kia lòi ruột chết tươi, nhưng hai chân sau đầy răng cưa nhọn cứng như kim châm của nó cũng đâm cả vào lòng bàn tay tôi.
Mới dừng lại một thoáng, phía trước tôi đã lộ ra khoảng trống, Shirley Dương lập tức thu Ô Kim Cang về, ngăn mấy con châu chấu hướng đạo đang bổ về phía tôi. Tôi vội đẩy ô Kim Cang ra, bảo cô hãy tự lo cho mình trước đã.
Lúc này, đột nhiên nghe phía trước nói lên từng trận gió âm rít gào, thầm biết tình hình không ổn, tôi chẳng còn tâm trí nào kiểm tra vết thương trên vai nữa, vội ngẩng đầu nhìn lên. Thì ra, cả đám “mao tiên, thảo quỷ” nhiều không đếm xuể đã bị lũ chim yến lùa đến chỗ chúng tôi đang đứng. Tiếng đập cánh dày đặc của ngàn vạn con côn trùng khiến lông tóc toàn thân người ta đều muốn dựng đứng cả lên, trong lòng ai nấy đều tuyệt vọng đến cực điểm.
Tôi ngoảnh đầu lại nhìn thiên hiểm vô hình ở cửa khe núi trong lòng thầm nghĩ thà bị mắt gió cuốn đi, có khi cũng còn hơn bị lũ châu chấu kia coi như cành cao lương gặm sạch cả da lẫn xương. Giáo sư Tôn ở sau lưng tôi mặt mũi xám xịt như tro, tay chân nhũn cả ra, bảo chúng tôi: “Tôi tham gia công tác được bao nhiêu năm rồi ? Vất vả khổ sở nhẫn nhục gánh vác bao năm, vậy mà sao bao nhiêu chuyện bất hạnh trên đời đều đổ cả lên đầu tôi thế này? Nếu phải chết ở đây, tôi đúng là chết cũng không nhắm được mắt đó!”
Tôi nào tâm tư để ý đến mấy lời than thở số mệnh hẩm hiu của Tôn Cửu gia, chỉ nhìn chằm chằm vào đàn châu chấu dày đặc như bức tường, trong đầu liên tiếp vạch ra mấy kế hoạch thoát thân, song đều cảm thấy không khả thi. Mò vàng đổ đấu, vốn là công việc cực kỳ mạo hiểm, tuy trước đó tôi đã nghĩ đến khả năng hẻm núi bên này có thể là cạm bẫy, nhưng vẫn không lường hết được mức độ nguy hiểm.
Chuyến này vào Xuyên, tôi vẫn cho rằng ngôi mộ cổ Địa Tiên kia chỉ là mộ phần của một gã địa chủ thổ hào, cùng lắm là chôn giấu ẩn mật hơn bình thường đôi chút, hoặc giả trong mộ thất có mai phục vài thứ cơ quan cạm bẫy gì đó, bởi vậy không khỏi có chút khinh địch, chẳng coi Quan Sơn thái bảo ra gì. Đến khi vào tới đây, mói phát giác “thôn Địa Tiên’ chẳng phải tầm thường, sự thấu hiểu đối với đạo sinh khắc của vạn vật, cũng như việc lựa chọn hình thế phong thủy của người xây mộ, cơ hồ có thể sánh ngang Ban Sơn đạo nhân và Mô Kim hiệu úy. Sự ảo diệu của “Quan Sơn chỉ mê phú” lại càng ngoài sức tưởng tượng, hơn hẳn một bậc, đúng là chỉ có trời mới biết làm sao Quan Sơn thái bảo lại nghĩ ra được những thứ này.
Khe núi có đài Hách Hồn này hoàn toàn là một cái bẫy lợi dụng dòng khí lưu hỗn loạn và vách đá dựng đứng, khiến người ta dù chắp cánh cũng khó lòng thoát ra nổi. Những con "kim giáp mao tiên” tụ lại thành đám dày đặc kia sẽ gặm sạch sẽ kẻ trộm mộ dám xâm nhập trong nháy mắt, muốn tiêu diệt hoàn toàn chừng ấy châu chấu, chỉ có cách sử dụng thuốc trên quy mô lớn, mà chúng tôi thì làm gì có những trang bị ấy ?
Tôi vung xẻng công binh trong tay đập chết những con châu chấu lẻ đàn xung quanh, liếc thấy đám “kim giáp mao tiên” đã tụ lại thành một bức tường kín mít sắp sửa tiến lại sát bên, tôi cuống đến nỗi gân xanh trên trán giật giật liên hồi, nhưng cũng đành bó tay.
Đang khi chúng tôi bất lực không biết làm thế nào, chợt nghe một tiếng nổ lớn, trong chớp mắt khói lửa mù mịt bóc lên, bức tường châu chấu như bị sét đánh, lập tức toác ra một lỗ lớn. Tôi và Tuyền béo đều trố mắt, há hốc miệng: “Ai mang lựu đạn thế?” Còn chưa kịp nhìn rõ, lại nghe mấy tiếng nổ liên tiếp, tuy uy lực của thuốc nổ không lớn lắm, nhưng bọn châu chấu này vốn kỵ khói kỵ lửa, đồng loạt dừng sững lại, không dám tiến lên nữa. Bức tường châu chấu dày đặc gió thổi không lọt ấy sững lại, rồi dần dần nghiêng sang mé bên.
Lũ châu chấu lẻ tẻ xung quanh chúng tôi cũng láo nháo tản đi, tôi vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, ngoảnh đầu lại nhìn, hóa ra Út vừa lấy trong ba lô một cái hộp gỗ, trong hộp đựng đầy những quả “chưởng tâm lôi(8)”, cô vung tay ném hết quả này đến quả khác, nổ ra khói mù dày đặc, lũ “kim giáp mao tiên” phía trước đều bị đẩy lui.
“Chưởng tâm lôi” hay còn gọi là “thủ pháo”, dùng toàn thuổc nổ tự chế, lực sát thương rất có hạn, nguyên lý chế tương tự loại pháo đập pháo ném, dùng lực nén khi va đập để dẫn nổ hỏa dược tự chế. Thứ này không sát thương bằng mảnh đạn vỡ giống lựu đạn quả dứa, nếu ném trúng người cũng khó lòng gây ra vết thương chí mạng, chỉ thuộc loại ám khí mà thôi. Mặc dù vậy, không phải ai cũng chịu nổi lực nó của “chưởng tâm lôi”, vả lại thứ này còn bốc khói nồng nặc, người bị thương mà hít thêm mấy ngụm khói thì chỉ còn nước nằm đấy đợi đối thủ đến mặc sức xử lý. Loại ám khí này đã lưu truyền trong dân gian khoảng hai ba trăm năm nay, mà thủ pháo do “Ám khí Lý” ở phủ Bảo Định chế tạo xưa nay đã nức tiếng trong giới lục lâm.
Tôi cũng thấy vật này trong tiệm của ông già ấy, bấy giờ cảm tháy món đồ chơi này... lựu đạn không ra lựu đạn, pháo hiệu không ra pháo hiệu, dùng ám toán người ta khi cướp của giết người còn tạm, chứ trong việc đổ đấu thì chẳng có đất dụng võ, nên không để tâm lắm. Nào ngờ dù lúc đi vội vã, Út vẫn kịp mang theo một hộp thủ pháo, lúc này lại trở thành phao cứu mạng cho cả bọn, tạm thời đẩy lui được bọn châu chấu hướng đạo.
Út cũng bị lũ châu chấu đông đảo làm cho hoảng hồn bạt vía, cũng may cô theo ông chủ tiệm họ Lý nhiều năm, thường nghe ông nuôi kể về những công việc phải đem mạng ra liều, vừa nảy cuống quá đâm liều, bèn lấy luôn hộp “chưởng tâm lôi” ném ra liên tiếp, chẳng ngờ lại có hiệu quả kỳ diệu, khói lửa nghi ngút bốc lên làm bức tường châu chấu dày đặc kia tức thì tan ra như bọt sóng.
Một phần bọn “kim giáp mao tiên” tụ thành một bức tường bị lùa vào mắt gió bên dưới Long môn, lập tức bị dòng khí lưu hỗn loạn ấy khuấy trộn thành một vòng xoáy khổng lồ màu vàng kim. Bọn chúng không thể bay lượn tự do trong gió như lũ chim yến, bị dòng khí lưu cuốn lấy, va vào nhau lộp độp, sống dở chết dở văng lên không trung.
Bầy chim yến trên cao liền thừa cơ lao vút xuống, há mỏ đón gió bập tới. Nhưng vỏ châu chấu giáp vàng vừa cứng vừa có ngạnh sắc, không thể nuốt chửng, nên chim yến trước tiên phải mổ một cú từ mé bên làm con châu chấu lộn nhào, sau đó ngoặt lại như một tia chớp, trong khoảnh khắc xoay mình lướt qua đã ngậm chặt phần bụng mềm mại của con mồi.
Lũ chim yến lao xuống rồi lướt vèo qua trên không trung nhanh đến độ khó thể hình dung, hai động tác liền mạch cơ hồ không một kẽ hở, thoải mái tự nhiên hết sức. Nhưng lũ chim yến và châu chấu thực sự quá nhiều quá dày đặc, nhiều con không né được đập thẳng vào nhau, lộn nhào lảo đảo rơi vào dòng khí lưu hỗn loạn hay khe sâu, làm bọn tôi nhìn mà hoa cả mắt, điên đảo thần hồn.
Trong nháy mắt đã có vô số châu chấu giáp vàng mất mạng trong miệng lũ yến, nhưng châu chấu trong khe núi vẫn cuồn cuộn tuôn ra như thủy triều. Tôi và Tuyền béo thấy ‘chưởng tâm lôi’ của Út hiệu quả như thế, lo sức tay của cồ có hạn, vội chộp lấy máy quả, liên tiếp ném ra xung quanh, bốn phía lập tức bốc lên khói mù mờ mịt.
Shirley Dương vội ngăn lại: “Anh Nhất, dùng tiết kiệm một chút!” Lúc cô nhắc nhở, tôi mới nhớ ra là đạn dược có hạn, cúi đầu nhìn hộp pháo trên tay Út, liền như bị dội một chậu nước đá xuống đầu, trong hộp trống huếch, đến một quả thủ pháo cũng chẳng còn.
Bọn châu cháu giáp vàng tuy tạm thời bị đẩy lui, nhưng chắc chắn khi khói mù xung quanh tan đi, bọn chúng sẽ lập tức bị lũ chim yến trên trời ép dồn lại, e rằng phải đợi đến lúc bọn chim yến ăn no về tổ, thì lũ châu chấu mới trở vào hang được. Tôi thở dài: “Chưa đến thời điểm mấu chốt phải hy sinh tuyệt không thể tùy tiện nhắc đến hai chữ hy sinh(9)”, nhưng giờ đã chẳng còn chiêu gì dùng được nữa, ở đây chúng ta vừa khéo có năm người, anh thấy cả bọn chuẩn bị làm năm tráng sĩ trên núi Lang Nha10 đi là vừa.”
Shirley Dương lúc này vẫn còn tương đỗi bình tĩnh, cô tranh thủ thời gian nói với cả bọn: “Vừa nãy tôi thấy lũ châu chấu giáp vàng bị dòng khí lưu hỗn loạn trong khe núi cuốn vào, vòng xoáy màu vàng kim hình thành trong gió ấy trông rõ ràng hơn cây cầu do lũ chim yến lưng đen bụng trắng tạo thành rất nhiều. Dòng khí lưu hỗn loạn chỉ xuẫt hiện ở chỗ giao nhau giữa hai khe núi, cửa khe núi ở Long môn lại rộng hơn cửa hang phía bên kia một chút, nếu ra mép ngoài bám vào vách đá trượt xuống, hẳn có thể tránh khỏi dòng khí lưu, giả sử có thể chui vào hang chim yến...”
Shirley Dương còn chưa nói hết, chúng tôi đã hiểu ý, ngoài Tuyền béo, tất cả đều nói kế này có thể thực hiện được. Không đợi mọi người kịp suy nghĩ kỹ hơn, luổng khói đen dày đặc của “chưởng tâm lôi” đã từ từ tiêu tan, từng đám từng đám châu chấu giáp vàng trong khe núi lại cắm đầu cắm cổ ập tới.
Mối uy hiếp khủng khiếp đã như ngọn lửa cháy sém lông mày, tôi thầm nhủ “đành mạo hiểm leo xuống vách núi, tránh được một chốc một nhát cũng tốt”, đoạn vội vàng lấy phi hổ trảo ra xem thử, dây xích bằng thép tinh luyện có thể kéo dài đến bảy tám mét, dẫu muốn leo tường thành cũng không thành vấn đề.
Phi hổ trảo là dụng cụ truyền thống của Mô Kim hiệu úy, tuy không thiên biến vạn hóa như “thang rết leo núi” của phái Xả Lĩnh, nhưng nếu xét về công năng bám vách leo tường, thì cũng là thứ lợi khí thuộc hàng nhất đẳng. Mạng sống của năm người chúng tôi, giờ đây đều treo cả lên chiếc phi hổ trảo này đây.
Đoạn đầu phi hổ trảo là một vuốt sắt hình dạng như bàn tay, được thiêt kế dựa trên xương bàn tay của người, lúc sử dụng có thể thu phát tự nhiên, dù là thân cây hay vách tường, chỉ cần có khe hở hay chỗ lồi lõm, nó đều có thể bám chặt. Tôi cầm phi hổ trảo, đang định tìm chỗ nào chắc chắn một chút để móc vào, chợt thấy Tuyền béo bước lên trước hai bước, giẫm lên bề mặt thác đá, vừa thò đầu ra nhìn xem vách đá cao chừng nào, vừa lẩm bẩm trong miệng: “Không ngờ Tuyền béo này anh hùng cả đời, vừa nãy lại bị con khỉ Ba Sơn kia ám toán, con bà nó, đúng là Trương thiên sư bị quỷ thần trêu cợt... tức cha chả là tức, hừ...” Vừa nhìn thấy cao quá, chân cậu ta lại nhũn ra, vội vàng lùi lại một bước: “Mẹ... mẹ tổ quốc của tôi ơi, thế này hình như hơi cao quá thì phải! Lúc nãy qua cầu có thấy cao thế này đâu? Đen ngòm đen nghịt chẳng thấy đáy gì cả...”
Tôi lo Tuyền béo trượt xuống dưới, vội vươn tay ra tóm lấy ba lô của cậu ta, đúng lúc này, chợt nghe giáo sư Tôn ở sau lưng kêu toáng lên: “Không kịp nữa rồi, nhanh lên, nhanh lên. Vách núi sâu mấy dốc mấy cũng phải xuống thôi! Chỉ cần có thể dùng thái độ khách quan nhìn nhận sự nông sâu cao thấp…cậu sẽ khắc phục được chứng sợ độ cao ấy thôi!”
Tôi ngoảnh lại nhìn, thì ra bức tường do lũ châu chấu giáp vàng kia ghép lại đã xuyên qua màn sương mù bị tiêu tan tựa như một đám mây vàng kim ập đến. Rõ ràng bọn chim yến muốn lùa thật nhiều châu chấu vào mắt gió, để chúng bị dòng khí lưu cuốn lấy tách khỏi đàn mới bắt lấy ăn, nhưng đồng thời cũng dổn cả đám chúng tôi đây vào đường cùng. Shirley Dương và Út, người cầm Ô Kim Cang, người cầm xẻng công binh không ngừng vung lên hất văng từng đám châu chấu tiến sát đến gần.
Giáo sư Tôn thấy không thể đợi thêm nữa, liền cuống cuồng định giúp tôi thòng dây xích của phi hổ trảo, lão ta có lòng muốn giúp một tay, song không ngờ chân Tuyền béo đang giẫm lên sợi xích sắt. Lão ta vừa giật sợi dây một cái, Tuyền béo liền mất trọng tâm nghiêng người, mà bề mặt thác đá lại trơn như mặt băng, làm cậu ta lập tức ngã ngửa trượt xuống. Chỉ nghe cậu ta “á” lên một tiếng, rồi trôi thẳng một mạch theo mép thác đá, sượt qua chỗ dòng khí lưu hỗn loạn, trượt xuổng dưới vách đá cheo leo.
Tôi vốn định kéo Tuyền béo lại, nhưng ngoảnh đầu vươn tay ra đã chẳng thấy bóng cậu ta đâu nữa. Tôi kinh hoảng há hốc miệng: “Lẽ nào Tuyền béo anh hùng một đời, cuối cùng lại lật thuyền trong mương rạch hay sao?” Đầu óc tôi trống rỗng, chẳng còn phân biệt được trên trời dưới đất gì nữa.
Những người khác thấy Tuyền béo rơi xuống khe sâu không rõ sống chết thế nào, tuy cũng cực độ kinh hoảng, song càng không kịp có phản ứng gì. Bởi lúc này đàn châu chấu đông nghịt đã ập tới trước mặt, cả bọn chỉ còn cách liều mình đánh văng chúng đi hòng giữ mạng, muốn buông phi hổ trảo xuống khe núi để thoát thân cũng không làm nổi, hễ dừng tay, tập tức sẽ có mấy chục con “kim giáp mao tiên" cùng lúc xuyên vào cơ thể.
Hai mắt tôi cơ hồ phun ra lửa, nào để ý đến bọn châu chấu bay thành đàn đã gần trong gang tấc nữa, chỉ muốn vung xẻng đập cho lão Tôn Cửu gia ăn hại kia một phát vào đầu. Đúng lúc ấy, chợt nghe tiếng còi báo động máy bay tập kích ré lên khắp khe núi. Có lẽ âm chanh này và dòng khí lưu hỗn loạn giữa khe núi đã nảy sinh cộng hưởng, một cảnh tượng chúng tôi không ngờ độc ngột xuất hiện. Lũ chim yến trên không dường như rất sợ âm thanh này, chỉ trong chớp mắt, toàn bộ đã tản ra xa tít, bọn châu chấu đang bị dồn vào chân tường cũng ùa trở về hang như thủy triều rút đi.
Tôi ngây người ra, chẳng lẽ Tuyền béo không bị ngã chết? Cái còi phòng không kiểu quay tay ấy là đồ cậu ta giữ lại. Chắc chắn Tuyền béo rơi xuống khe núi rồi mắc vào chỗ nào đấy, vừa nãy tiếng châu chấu đập cánh gần quá, cậu ta hò hét gì chúng tôi cũng không nghe được, đành móc còi báo động ra quay để báo hiệu, không ngờ lại có tác dụng ngoài sức tưởng tượng. Thì ra, những sinh vật sống gần đài Hách Hồn đều sợ thứ này.
Lúc này, lại nghe bên dưới vách núi vẳng lên tiếng hét của Tuyền béo: “Tổ sư bà nhà nó, vừa náy đứa nào ám toán bố đấy? Tư lệnh Nhất ơi, tôi bị mắc vào tường thành rồi, đại gia đây không trách đứa nào vừa chơi bẩn đâu, các người mau mau xuống đây kéo giúp một tay đi. Mặc dù sở thích thấp kém phông phải là tội lỗi, cái chết cũng không thuộc về giai cấp vô sản nhưng các người chậm thêm chút nữa, Tuyền béo này sẽ về chầu ông bà ông vải mất...”
Tôi hét vọng xuồng dưới: "Tư lệnh Tuyền, cậu cố gắng kiên trì thêm năm phút nữa thôi..." Liền sau đó tôi chợt giật nảy mình, lẽ nào Tuyền béo ngã đập đầu lú lẫn rồi sao? Dưới vách đá làm sao lại có tường thành? Chẳng lẽ mộ cổ Địa Tiên lại giấu ở bên trong khe sâu này...
Trong một thoáng tôi ngẩn người ra ấy, chỉ nghe Tuyền béo ở bên dưới hò hét ầm ĩ, cậu ta thấy có thế nói với lên được, liền không quay còi báo động phòng không nữa. Tiếng còi vừa lắng xuống, lũ châu chấu hướng dạo mới lùi ra xa được mấy mét lại một lấn nữa tràn tới.
Tôi vội vàng hét gọi Tuyền béo, bảo cậu ta tiếp tục quay còi báo động phòng không. Trong thời khắc quan trọng này, quần chúng rất cần được nghe thấy ầm thanh của đổng chí Lênin, ngàn vạn lần đừng dừng lại.
Nhưng Tuyền béo ở bên dưới lại hét toáng lên: “Quay cái cục cứt ấy, tay cầm gỗ của đồng chí Lênin nhỏ quá, vừa nãy mới quay mấy vòng... đã bị đại gia đây làm gãy mất rồi, vốn định mang chút đó kỷ niệm về... giờ thì hết rồi... hỏng mẹ nó rồi.”
Trong khe núi vốn có một tia sáng từ trên cao rọi xuống, nhưng lúc này đã bị hàng trăm nghìn con châu chấu quần tụ che mất. Lũ châu chấu tựa một đám mây đen mù mịt phủ trùm lên tất thảy. Bọn chúng vốn là côn trùng máu lạnh, lại chẳng có trí tuệ hay tình cảm gì, nhưng con sâu cái kiến cũng còn tham sống, đối mặt vói sinh tử tồn vong, lũ châu chấu cũng biết tụ lại một chỗ theo bản năng. Trên cánh đám châu chấu hướng đạo này dường như có chất phát quang, thi thoảng lại ánh lên sắc vàng. Cả đàn châu chấu đập cánh bay qua bay lại trong khe núi, tựa như những đám khói mù màu vàng đang cháy rừng rực.
Sau lưng chúng tôi là vực sâu thăm thẳm bị mắt gió chiếm giữ, người không phải chim yến, rơi xuống dưới chắc chắn sẽ toi, phía trước lại có vô số châu chấu hướng đạo với những cặp càng sắc nhọn như lưỡi dao, tiến thoái đều không xong. Bốn bề chỉ thấy toàn châu chấu đang xé gió bay tán loạn như những tia lửa bắn tung tóe, phát ra tiếng “vù vù vù”, làm màng nhĩ cả bọn rung lên bần bật.
Những con châu chấu không nhập được vào đàn xuyên qua xuyên lại với tốc độ cực nhanh ở khoảng không tầm thấp, lớp vỏ ở đầu chúng rất cứng, những cái ngàm phía sau hai cái răng cửa lại càng lợi hại, hễ chạm phải thần thể người là cắm sâu vào thịt. Shirley Dương giơ ô Kim Cang lên chặn được phần nào, nhưng lũ châu chấu từ bốn phía bố tới mỗi lúc một nhiều, một chiếc ô Kim Cang khó lòng chống đỡ nổi, chắn được phía trước thì hở phía sau, đỡ được bên phải lại hổng bên trái.
Tôi và Tuyền béo thấy vậy, biết tình thế đã đến hồi nguy cấp, lập tức rút xẻng công binh của Đức sản xuất ra, lại vươn cánh tay còn lại rút nốt cái xẻng shirley Dương đeo sau lưng, không ngờ còn chưa kịp nắm chắc đã bị Út giật mất. Ba người đua nhau vung xẻng lên, nhắm vào những con châu chấu từ khắp bốn phía bay đến mà đập mạnh. Mặt xẻng đập vào châu chấu, liền phát ra một tiếng “keng” như đập vào đá sỏi vậy. Những con châu chấu hướng đạo đập vào xẻng công binh và ô Kim Cang đều đứt đầu đứt chân lả tả rơi xuống.
Trong chốc lát, xung quanh chúng tôi đã chất đầy xác châu chấu nát bươm, nhưng lại có nhiều châu chấu hơn từ khắp bốn phương tám hướng lũ lượt ập tới, mu bàn tay và mặt tôi đều bị rách toạc, mà không lúc nào rảnh ra để cầm máu được. Mấy người còn lại cũng đều bị thương, tuy không nặng lắm, nhưng dù sao cũng là thân thể máu thịt, cầm cự lâu dài ắt khó tránh tê cứng nhức mỏi. Cả bọn chỉ biết dựa lưng vào nhau, nhích từng bước từng bước lùi về sát chân vách đá.
Tôi phát hiện cách không xa có một đám “kim giáp mao tiên” đang tiến lại gần, chỉ riêng số châu chấu lẻ tẻ bay lại lai quanh người chúng tôi đã không ứng phó nổi, giờ lại cả đàn châu chấu dày đặc như một bức tường thế kia, thật chẳng khác nào cỗ máy xay thịt khổng lồ, nếu bị cuốn vào trong thì chỉ còn đường chết.
Tôi thầm kinh hoảng, chợt thấy trước mắt có tia sáng vàng lóe lên, mấy con châu chấu đồng loạt bổ tới. Tôi vội vung xẻng công binh lên đập, phát ra hai tiếng “keng keng” như lệnh vỡ, hai con châu chấu to tướng bay trước đã văng lên không. Vừa lúc ấy, tôi chợt thấy cánh tay tê chồn, thì ra một con châu chấu khác đã cắm đầu chui vào bả vai, chỉ lộ ra hai cái chân sau dài thượt đang không ngừng đạp loạn xạ phía bên ngoài.
Tôi nghiến răng tóm lấy chân sau con châu chấu đó, giật mạnh ra, chỉ thấy nửa thân trước của con “kim giáp mao tiên” đều bị máu nhuộm đỏ tươi. Tôi vừa hoảng, vừa giận sôi người, liền bóp mạnh con châu chấu trong lòng bàn tay, cảm giác như thể bóp phải mấy mũi gai nhọn. Tuy đã bóp cho con châu chấu kia lòi ruột chết tươi, nhưng hai chân sau đầy răng cưa nhọn cứng như kim châm của nó cũng đâm cả vào lòng bàn tay tôi.
Mới dừng lại một thoáng, phía trước tôi đã lộ ra khoảng trống, Shirley Dương lập tức thu Ô Kim Cang về, ngăn mấy con châu chấu hướng đạo đang bổ về phía tôi. Tôi vội đẩy ô Kim Cang ra, bảo cô hãy tự lo cho mình trước đã.
Lúc này, đột nhiên nghe phía trước nói lên từng trận gió âm rít gào, thầm biết tình hình không ổn, tôi chẳng còn tâm trí nào kiểm tra vết thương trên vai nữa, vội ngẩng đầu nhìn lên. Thì ra, cả đám “mao tiên, thảo quỷ” nhiều không đếm xuể đã bị lũ chim yến lùa đến chỗ chúng tôi đang đứng. Tiếng đập cánh dày đặc của ngàn vạn con côn trùng khiến lông tóc toàn thân người ta đều muốn dựng đứng cả lên, trong lòng ai nấy đều tuyệt vọng đến cực điểm.
Tôi ngoảnh đầu lại nhìn thiên hiểm vô hình ở cửa khe núi trong lòng thầm nghĩ thà bị mắt gió cuốn đi, có khi cũng còn hơn bị lũ châu chấu kia coi như cành cao lương gặm sạch cả da lẫn xương. Giáo sư Tôn ở sau lưng tôi mặt mũi xám xịt như tro, tay chân nhũn cả ra, bảo chúng tôi: “Tôi tham gia công tác được bao nhiêu năm rồi ? Vất vả khổ sở nhẫn nhục gánh vác bao năm, vậy mà sao bao nhiêu chuyện bất hạnh trên đời đều đổ cả lên đầu tôi thế này? Nếu phải chết ở đây, tôi đúng là chết cũng không nhắm được mắt đó!”
Tôi nào tâm tư để ý đến mấy lời than thở số mệnh hẩm hiu của Tôn Cửu gia, chỉ nhìn chằm chằm vào đàn châu chấu dày đặc như bức tường, trong đầu liên tiếp vạch ra mấy kế hoạch thoát thân, song đều cảm thấy không khả thi. Mò vàng đổ đấu, vốn là công việc cực kỳ mạo hiểm, tuy trước đó tôi đã nghĩ đến khả năng hẻm núi bên này có thể là cạm bẫy, nhưng vẫn không lường hết được mức độ nguy hiểm.
Chuyến này vào Xuyên, tôi vẫn cho rằng ngôi mộ cổ Địa Tiên kia chỉ là mộ phần của một gã địa chủ thổ hào, cùng lắm là chôn giấu ẩn mật hơn bình thường đôi chút, hoặc giả trong mộ thất có mai phục vài thứ cơ quan cạm bẫy gì đó, bởi vậy không khỏi có chút khinh địch, chẳng coi Quan Sơn thái bảo ra gì. Đến khi vào tới đây, mói phát giác “thôn Địa Tiên’ chẳng phải tầm thường, sự thấu hiểu đối với đạo sinh khắc của vạn vật, cũng như việc lựa chọn hình thế phong thủy của người xây mộ, cơ hồ có thể sánh ngang Ban Sơn đạo nhân và Mô Kim hiệu úy. Sự ảo diệu của “Quan Sơn chỉ mê phú” lại càng ngoài sức tưởng tượng, hơn hẳn một bậc, đúng là chỉ có trời mới biết làm sao Quan Sơn thái bảo lại nghĩ ra được những thứ này.
Khe núi có đài Hách Hồn này hoàn toàn là một cái bẫy lợi dụng dòng khí lưu hỗn loạn và vách đá dựng đứng, khiến người ta dù chắp cánh cũng khó lòng thoát ra nổi. Những con "kim giáp mao tiên” tụ lại thành đám dày đặc kia sẽ gặm sạch sẽ kẻ trộm mộ dám xâm nhập trong nháy mắt, muốn tiêu diệt hoàn toàn chừng ấy châu chấu, chỉ có cách sử dụng thuốc trên quy mô lớn, mà chúng tôi thì làm gì có những trang bị ấy ?
Tôi vung xẻng công binh trong tay đập chết những con châu chấu lẻ đàn xung quanh, liếc thấy đám “kim giáp mao tiên” đã tụ lại thành một bức tường kín mít sắp sửa tiến lại sát bên, tôi cuống đến nỗi gân xanh trên trán giật giật liên hồi, nhưng cũng đành bó tay.
Đang khi chúng tôi bất lực không biết làm thế nào, chợt nghe một tiếng nổ lớn, trong chớp mắt khói lửa mù mịt bóc lên, bức tường châu chấu như bị sét đánh, lập tức toác ra một lỗ lớn. Tôi và Tuyền béo đều trố mắt, há hốc miệng: “Ai mang lựu đạn thế?” Còn chưa kịp nhìn rõ, lại nghe mấy tiếng nổ liên tiếp, tuy uy lực của thuốc nổ không lớn lắm, nhưng bọn châu chấu này vốn kỵ khói kỵ lửa, đồng loạt dừng sững lại, không dám tiến lên nữa. Bức tường châu chấu dày đặc gió thổi không lọt ấy sững lại, rồi dần dần nghiêng sang mé bên.
Lũ châu chấu lẻ tẻ xung quanh chúng tôi cũng láo nháo tản đi, tôi vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, ngoảnh đầu lại nhìn, hóa ra Út vừa lấy trong ba lô một cái hộp gỗ, trong hộp đựng đầy những quả “chưởng tâm lôi(8)”, cô vung tay ném hết quả này đến quả khác, nổ ra khói mù dày đặc, lũ “kim giáp mao tiên” phía trước đều bị đẩy lui.
“Chưởng tâm lôi” hay còn gọi là “thủ pháo”, dùng toàn thuổc nổ tự chế, lực sát thương rất có hạn, nguyên lý chế tương tự loại pháo đập pháo ném, dùng lực nén khi va đập để dẫn nổ hỏa dược tự chế. Thứ này không sát thương bằng mảnh đạn vỡ giống lựu đạn quả dứa, nếu ném trúng người cũng khó lòng gây ra vết thương chí mạng, chỉ thuộc loại ám khí mà thôi. Mặc dù vậy, không phải ai cũng chịu nổi lực nó của “chưởng tâm lôi”, vả lại thứ này còn bốc khói nồng nặc, người bị thương mà hít thêm mấy ngụm khói thì chỉ còn nước nằm đấy đợi đối thủ đến mặc sức xử lý. Loại ám khí này đã lưu truyền trong dân gian khoảng hai ba trăm năm nay, mà thủ pháo do “Ám khí Lý” ở phủ Bảo Định chế tạo xưa nay đã nức tiếng trong giới lục lâm.
Tôi cũng thấy vật này trong tiệm của ông già ấy, bấy giờ cảm tháy món đồ chơi này... lựu đạn không ra lựu đạn, pháo hiệu không ra pháo hiệu, dùng ám toán người ta khi cướp của giết người còn tạm, chứ trong việc đổ đấu thì chẳng có đất dụng võ, nên không để tâm lắm. Nào ngờ dù lúc đi vội vã, Út vẫn kịp mang theo một hộp thủ pháo, lúc này lại trở thành phao cứu mạng cho cả bọn, tạm thời đẩy lui được bọn châu chấu hướng đạo.
Út cũng bị lũ châu chấu đông đảo làm cho hoảng hồn bạt vía, cũng may cô theo ông chủ tiệm họ Lý nhiều năm, thường nghe ông nuôi kể về những công việc phải đem mạng ra liều, vừa nảy cuống quá đâm liều, bèn lấy luôn hộp “chưởng tâm lôi” ném ra liên tiếp, chẳng ngờ lại có hiệu quả kỳ diệu, khói lửa nghi ngút bốc lên làm bức tường châu chấu dày đặc kia tức thì tan ra như bọt sóng.
Một phần bọn “kim giáp mao tiên” tụ thành một bức tường bị lùa vào mắt gió bên dưới Long môn, lập tức bị dòng khí lưu hỗn loạn ấy khuấy trộn thành một vòng xoáy khổng lồ màu vàng kim. Bọn chúng không thể bay lượn tự do trong gió như lũ chim yến, bị dòng khí lưu cuốn lấy, va vào nhau lộp độp, sống dở chết dở văng lên không trung.
Bầy chim yến trên cao liền thừa cơ lao vút xuống, há mỏ đón gió bập tới. Nhưng vỏ châu chấu giáp vàng vừa cứng vừa có ngạnh sắc, không thể nuốt chửng, nên chim yến trước tiên phải mổ một cú từ mé bên làm con châu chấu lộn nhào, sau đó ngoặt lại như một tia chớp, trong khoảnh khắc xoay mình lướt qua đã ngậm chặt phần bụng mềm mại của con mồi.
Lũ chim yến lao xuống rồi lướt vèo qua trên không trung nhanh đến độ khó thể hình dung, hai động tác liền mạch cơ hồ không một kẽ hở, thoải mái tự nhiên hết sức. Nhưng lũ chim yến và châu chấu thực sự quá nhiều quá dày đặc, nhiều con không né được đập thẳng vào nhau, lộn nhào lảo đảo rơi vào dòng khí lưu hỗn loạn hay khe sâu, làm bọn tôi nhìn mà hoa cả mắt, điên đảo thần hồn.
Trong nháy mắt đã có vô số châu chấu giáp vàng mất mạng trong miệng lũ yến, nhưng châu chấu trong khe núi vẫn cuồn cuộn tuôn ra như thủy triều. Tôi và Tuyền béo thấy ‘chưởng tâm lôi’ của Út hiệu quả như thế, lo sức tay của cồ có hạn, vội chộp lấy máy quả, liên tiếp ném ra xung quanh, bốn phía lập tức bốc lên khói mù mờ mịt.
Shirley Dương vội ngăn lại: “Anh Nhất, dùng tiết kiệm một chút!” Lúc cô nhắc nhở, tôi mới nhớ ra là đạn dược có hạn, cúi đầu nhìn hộp pháo trên tay Út, liền như bị dội một chậu nước đá xuống đầu, trong hộp trống huếch, đến một quả thủ pháo cũng chẳng còn.
Bọn châu cháu giáp vàng tuy tạm thời bị đẩy lui, nhưng chắc chắn khi khói mù xung quanh tan đi, bọn chúng sẽ lập tức bị lũ chim yến trên trời ép dồn lại, e rằng phải đợi đến lúc bọn chim yến ăn no về tổ, thì lũ châu chấu mới trở vào hang được. Tôi thở dài: “Chưa đến thời điểm mấu chốt phải hy sinh tuyệt không thể tùy tiện nhắc đến hai chữ hy sinh(9)”, nhưng giờ đã chẳng còn chiêu gì dùng được nữa, ở đây chúng ta vừa khéo có năm người, anh thấy cả bọn chuẩn bị làm năm tráng sĩ trên núi Lang Nha10 đi là vừa.”
Shirley Dương lúc này vẫn còn tương đỗi bình tĩnh, cô tranh thủ thời gian nói với cả bọn: “Vừa nãy tôi thấy lũ châu chấu giáp vàng bị dòng khí lưu hỗn loạn trong khe núi cuốn vào, vòng xoáy màu vàng kim hình thành trong gió ấy trông rõ ràng hơn cây cầu do lũ chim yến lưng đen bụng trắng tạo thành rất nhiều. Dòng khí lưu hỗn loạn chỉ xuẫt hiện ở chỗ giao nhau giữa hai khe núi, cửa khe núi ở Long môn lại rộng hơn cửa hang phía bên kia một chút, nếu ra mép ngoài bám vào vách đá trượt xuống, hẳn có thể tránh khỏi dòng khí lưu, giả sử có thể chui vào hang chim yến...”
Shirley Dương còn chưa nói hết, chúng tôi đã hiểu ý, ngoài Tuyền béo, tất cả đều nói kế này có thể thực hiện được. Không đợi mọi người kịp suy nghĩ kỹ hơn, luổng khói đen dày đặc của “chưởng tâm lôi” đã từ từ tiêu tan, từng đám từng đám châu chấu giáp vàng trong khe núi lại cắm đầu cắm cổ ập tới.
Mối uy hiếp khủng khiếp đã như ngọn lửa cháy sém lông mày, tôi thầm nhủ “đành mạo hiểm leo xuống vách núi, tránh được một chốc một nhát cũng tốt”, đoạn vội vàng lấy phi hổ trảo ra xem thử, dây xích bằng thép tinh luyện có thể kéo dài đến bảy tám mét, dẫu muốn leo tường thành cũng không thành vấn đề.
Phi hổ trảo là dụng cụ truyền thống của Mô Kim hiệu úy, tuy không thiên biến vạn hóa như “thang rết leo núi” của phái Xả Lĩnh, nhưng nếu xét về công năng bám vách leo tường, thì cũng là thứ lợi khí thuộc hàng nhất đẳng. Mạng sống của năm người chúng tôi, giờ đây đều treo cả lên chiếc phi hổ trảo này đây.
Đoạn đầu phi hổ trảo là một vuốt sắt hình dạng như bàn tay, được thiêt kế dựa trên xương bàn tay của người, lúc sử dụng có thể thu phát tự nhiên, dù là thân cây hay vách tường, chỉ cần có khe hở hay chỗ lồi lõm, nó đều có thể bám chặt. Tôi cầm phi hổ trảo, đang định tìm chỗ nào chắc chắn một chút để móc vào, chợt thấy Tuyền béo bước lên trước hai bước, giẫm lên bề mặt thác đá, vừa thò đầu ra nhìn xem vách đá cao chừng nào, vừa lẩm bẩm trong miệng: “Không ngờ Tuyền béo này anh hùng cả đời, vừa nãy lại bị con khỉ Ba Sơn kia ám toán, con bà nó, đúng là Trương thiên sư bị quỷ thần trêu cợt... tức cha chả là tức, hừ...” Vừa nhìn thấy cao quá, chân cậu ta lại nhũn ra, vội vàng lùi lại một bước: “Mẹ... mẹ tổ quốc của tôi ơi, thế này hình như hơi cao quá thì phải! Lúc nãy qua cầu có thấy cao thế này đâu? Đen ngòm đen nghịt chẳng thấy đáy gì cả...”
Tôi lo Tuyền béo trượt xuống dưới, vội vươn tay ra tóm lấy ba lô của cậu ta, đúng lúc này, chợt nghe giáo sư Tôn ở sau lưng kêu toáng lên: “Không kịp nữa rồi, nhanh lên, nhanh lên. Vách núi sâu mấy dốc mấy cũng phải xuống thôi! Chỉ cần có thể dùng thái độ khách quan nhìn nhận sự nông sâu cao thấp…cậu sẽ khắc phục được chứng sợ độ cao ấy thôi!”
Tôi ngoảnh lại nhìn, thì ra bức tường do lũ châu chấu giáp vàng kia ghép lại đã xuyên qua màn sương mù bị tiêu tan tựa như một đám mây vàng kim ập đến. Rõ ràng bọn chim yến muốn lùa thật nhiều châu chấu vào mắt gió, để chúng bị dòng khí lưu cuốn lấy tách khỏi đàn mới bắt lấy ăn, nhưng đồng thời cũng dổn cả đám chúng tôi đây vào đường cùng. Shirley Dương và Út, người cầm Ô Kim Cang, người cầm xẻng công binh không ngừng vung lên hất văng từng đám châu chấu tiến sát đến gần.
Giáo sư Tôn thấy không thể đợi thêm nữa, liền cuống cuồng định giúp tôi thòng dây xích của phi hổ trảo, lão ta có lòng muốn giúp một tay, song không ngờ chân Tuyền béo đang giẫm lên sợi xích sắt. Lão ta vừa giật sợi dây một cái, Tuyền béo liền mất trọng tâm nghiêng người, mà bề mặt thác đá lại trơn như mặt băng, làm cậu ta lập tức ngã ngửa trượt xuống. Chỉ nghe cậu ta “á” lên một tiếng, rồi trôi thẳng một mạch theo mép thác đá, sượt qua chỗ dòng khí lưu hỗn loạn, trượt xuổng dưới vách đá cheo leo.
Tôi vốn định kéo Tuyền béo lại, nhưng ngoảnh đầu vươn tay ra đã chẳng thấy bóng cậu ta đâu nữa. Tôi kinh hoảng há hốc miệng: “Lẽ nào Tuyền béo anh hùng một đời, cuối cùng lại lật thuyền trong mương rạch hay sao?” Đầu óc tôi trống rỗng, chẳng còn phân biệt được trên trời dưới đất gì nữa.
Những người khác thấy Tuyền béo rơi xuống khe sâu không rõ sống chết thế nào, tuy cũng cực độ kinh hoảng, song càng không kịp có phản ứng gì. Bởi lúc này đàn châu chấu đông nghịt đã ập tới trước mặt, cả bọn chỉ còn cách liều mình đánh văng chúng đi hòng giữ mạng, muốn buông phi hổ trảo xuống khe núi để thoát thân cũng không làm nổi, hễ dừng tay, tập tức sẽ có mấy chục con “kim giáp mao tiên" cùng lúc xuyên vào cơ thể.
Hai mắt tôi cơ hồ phun ra lửa, nào để ý đến bọn châu chấu bay thành đàn đã gần trong gang tấc nữa, chỉ muốn vung xẻng đập cho lão Tôn Cửu gia ăn hại kia một phát vào đầu. Đúng lúc ấy, chợt nghe tiếng còi báo động máy bay tập kích ré lên khắp khe núi. Có lẽ âm chanh này và dòng khí lưu hỗn loạn giữa khe núi đã nảy sinh cộng hưởng, một cảnh tượng chúng tôi không ngờ độc ngột xuất hiện. Lũ chim yến trên không dường như rất sợ âm thanh này, chỉ trong chớp mắt, toàn bộ đã tản ra xa tít, bọn châu chấu đang bị dồn vào chân tường cũng ùa trở về hang như thủy triều rút đi.
Tôi ngây người ra, chẳng lẽ Tuyền béo không bị ngã chết? Cái còi phòng không kiểu quay tay ấy là đồ cậu ta giữ lại. Chắc chắn Tuyền béo rơi xuống khe núi rồi mắc vào chỗ nào đấy, vừa nãy tiếng châu chấu đập cánh gần quá, cậu ta hò hét gì chúng tôi cũng không nghe được, đành móc còi báo động ra quay để báo hiệu, không ngờ lại có tác dụng ngoài sức tưởng tượng. Thì ra, những sinh vật sống gần đài Hách Hồn đều sợ thứ này.
Lúc này, lại nghe bên dưới vách núi vẳng lên tiếng hét của Tuyền béo: “Tổ sư bà nhà nó, vừa náy đứa nào ám toán bố đấy? Tư lệnh Nhất ơi, tôi bị mắc vào tường thành rồi, đại gia đây không trách đứa nào vừa chơi bẩn đâu, các người mau mau xuống đây kéo giúp một tay đi. Mặc dù sở thích thấp kém phông phải là tội lỗi, cái chết cũng không thuộc về giai cấp vô sản nhưng các người chậm thêm chút nữa, Tuyền béo này sẽ về chầu ông bà ông vải mất...”
Tôi hét vọng xuồng dưới: "Tư lệnh Tuyền, cậu cố gắng kiên trì thêm năm phút nữa thôi..." Liền sau đó tôi chợt giật nảy mình, lẽ nào Tuyền béo ngã đập đầu lú lẫn rồi sao? Dưới vách đá làm sao lại có tường thành? Chẳng lẽ mộ cổ Địa Tiên lại giấu ở bên trong khe sâu này...
Trong một thoáng tôi ngẩn người ra ấy, chỉ nghe Tuyền béo ở bên dưới hò hét ầm ĩ, cậu ta thấy có thế nói với lên được, liền không quay còi báo động phòng không nữa. Tiếng còi vừa lắng xuống, lũ châu chấu hướng dạo mới lùi ra xa được mấy mét lại một lấn nữa tràn tới.
Tôi vội vàng hét gọi Tuyền béo, bảo cậu ta tiếp tục quay còi báo động phòng không. Trong thời khắc quan trọng này, quần chúng rất cần được nghe thấy ầm thanh của đổng chí Lênin, ngàn vạn lần đừng dừng lại.
Nhưng Tuyền béo ở bên dưới lại hét toáng lên: “Quay cái cục cứt ấy, tay cầm gỗ của đồng chí Lênin nhỏ quá, vừa nãy mới quay mấy vòng... đã bị đại gia đây làm gãy mất rồi, vốn định mang chút đó kỷ niệm về... giờ thì hết rồi... hỏng mẹ nó rồi.”
Chương 18: Xác chết
không thối rửa
Tôi muốn
bảo Tuyền béo tiếp tục quay cái còi báo động phòng không kia, chẳng ngờ cậu ta
bị treo trên vách núi dựng đứng đâm ra hoảng hồn khiếp vía, tay chân không chịu
nghe điều khiển nữa, mới quay được mấy cái đã làm tay quay gãy lìa, cái còi báo
động kiểu quay tay chẳng kêu lên được nữa.
Lũ châu chấu tụ thành đàn trong hẻm núi vừa bị tiếng còi báo động chói tai đẩy lùi, giờ lại cuồn cuộn ập tới, rồi lại bị bọn chim yến bay rợp trời không ngừng lùa vào mắt gió.
Lúc này phi hổ trảo trong tay tôi đã móc vào một tảng nham thạch gồ lên, cạm bẫy chết chóc cầu tiên vô ảnh kín kẽ trăm đường vẫn có một khe hở, ở mép thác đá vừa khéo có một chỗ khuyết, có thể tránh khỏi dòng khí lưu hỗn loạn ở giữa khe núi hình chữ “T”, nếu không phải cả đám châu chấu cánh vàng bị lùa vào trong mắt gió, chúng tôi thực tình cũng không thể nhìn thấy được dòng xoáy chết vô hình vô ảnh này.
Tôi thấy sự việc đã đến lúc không thể chần chừ, vội bảo giáo sư Tôn và Út bám vào dây xích tuột xuống khe núi trước, tôi và Shirley Dương cũng theo sát phía sau, lần lượt leo xuống vách núi dựng đứng trước khi ngàn vạn con châu chấu cùng ập đến.
Khoảng trời mảnh như sợi chỉ trên đỉnh khe núi sâu hút bị lũ chim yến và đàn châu chấu bay loạn xạ che khuất, ngẩng đầu lên chẳng nhìn thấy bầu không đâu cả, bốn phía chỉ thấy đen kịt một màu. Trên vách đá bám đáy rêu đên, cứng lạnh như băng, chúng tôi chỉ thấy gió âm thấu xương, toàn thân run rẩy hai hàm răng bất giác va vào nhau lập cập.
Bọn tôi bật đèn pin mắt sói lên, mấy chùm sáng màu xanh lam quét loang loáng trên vách đá dưới khe sâu, tôi lần theo tiếng hét của Tuyền béo nhìn sang, nhưng nào có tường thành gì, chỉ thấy giữa hai vách núi có một khúc gỗ khổng lồ đen kịt bắc ngang, hình dạng như một cây xà nhà cực lớn. Bốn góc xà gỗ vuông vắn như một cây cầu độc mộc nghiêng nghiêng gác vào hai bên vách đá, bên trên còn có một số mảnh gạch ngói vỡ và lỗ mộng.
Dây đai chịu lực trên người Tuyền béo mắc cậu ta vào một khúc chìa ra trên cây xà gỗ, sau lưng toàn là gạch đá trên cây xà, cậu ta không ngoảnh đầu ra sau được, chỉ có thể sờ thấy mấy cục gạch, liền cho rằng mình bị mắc vào tường thành gì đó. Khúc gỗ chìa ra kia bị sức nặng của cậu ta làm cho lung lay, xem chừng sắp gẫy lìa đến nơi.
Tôi vẫy tay ra hiệu với những người còn lại, bảo họ cứ ở yên chỗ tiếp giáp giữa xà gỗ và vách đá, có gắng đừng bước lên trên, khúc gỗ đen kịt to tướng này gác ở đây không biết đã bao nhiêu năm tháng, chịu đủ mưa nắng, trời mới biết nó có mục nát gẫy lìa ra đúng lúc này hay không.
Một mình tôi bước lên cây xà gỗ gác nghiêng nghiêng giữa hai vách núi, nín thở nhích dần đến chỗ mép chìa ra, giơ xẻng công binh xuống cho Tuyền béo tóm lấy, kéo cậu ta xoay một vòng trên không trung quay người lại ôm vào xà gỗ, vừa thở hóng hộc vừa leo lên trên.
Tôi thấy cậu ta đã tạm thời thoát hiểm, liền thở phào nhẹ nhõm, ngẩng lên nhìn trời thầm nhủ: “Cây xà gỗ này ở đâu rơi xuống vậy? Xem chừng là bị người ta dỡ bỏ rồi đẩy xuống chỗ này lẽ nào trên kia có di tích cung điện hay chùa miếu gì ư? Mộ cổ Địa Tiên rốt cuộc ở trên núi hay dưới núi đây?”
Tuyền béo vừa nãy bị treo lơ lửng trên không, suýt vỡ mật vì sợ, nằm bò ra trên cây xà gỗ không dám nhúc nhích, lúc này chợt nghe Tôn Cửu gia ở đằng sau cất tiếng hỏi: “Hổ Bát Nhất, Tuyền béo, hai cậu không sao chứ?”
Tuyền béo vẫn có cứng miệng đáp: “Tim tôi tự nhiên đập nhanh thôi... tiên sứ nhà nó, đúng là có lợi cho sức khỏe lắm đấy”.
Tôi ngoái lại bảo mấy người kia: “Không sao, một chốc một nhát cũng không chết được, tôi thấy đoạn xà gỗ này có thể là gỗ kim ty nam, khá chắc chắn, mọi người đều qua đây đi.” Shirley Dương nghe thế, liền thu hồi phi hổ trảo, cùng giáo sư Tôn và Út nắm tay nhau, nhích từng bước một ra khoảng giữa cây xà gỗ.
Tôi dùng đèn pin mắt sói chiếu xuống dưới vách đá, trên vách núi phẳng như dao cắt ấy có vô số hang động, lũ yến bình thường đều trú trong những hang này. Sâu bên dưới chỉ thấy một màu đen kịt, vượt xa phạm vi chiếu sáng của đèn pin mắt sói, nhưng áp tai lên cây gỗ đen này có thế láng máng nghe thấy tiếng nước chảy, dưới đáy sơn cốc có lẽ là một dòng sông lớn.
Tôi nói với mọi người: “Quan Sơn chỉ mê phú” trên tấm bia vỡ kia quả nhiên là đồ giả, khe núi đằng sau Long môn toàn hang châu chấu, tôi thấy mộ có Địa Tiên hẳn không giấu ở trong đó đâu, nhưng giữa khe núi lại có long khí ngưng tụ, chứng tỏ nơi này là đất tàng phong tụ thủy, không có mộ cổ thì thôi, nếu đúng là có thôn Địa Tiên thật, thì đảm bảo không nằm ngoài khu vực này đâu.”
Tôn Cửu gia nói: “Chuyện đã đến nước này, tôi chẳng có ý kiến gì nữa, chúng tôi nghe theo cậu hết, cậu nói xem giờ phải làm sao cho ổn đây?”
Tôi bảo cả bọn: “Nhìn lại từ xưa đến nay, sự bố trí phòng trộm trong lăng mộ và các ngón nghề đổ đấu trộm mộ thực ra chính là cuộc so tài giữa người sống và người chết ở hai thế giới âm dương. Một ngôi mộ nếu bị động để kẻ trộm mộ đào bới, tức là thời điểm chủ mộ bị tan xương nát thịt chẳng còn xa nữa, ngược lại kẻ trộm mộ nếu lọt vào cạm bẫy trong mộ cổ, e rằng khó tránh khỏi kết cục trở thành vật tuẫn táng. Chúng ta đã để mất thế chủ động một lần, suýt nữa táng mạng vì bài ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ hư ảo kia, có điều, một phương án đổ đấu hoàn thiện nhất định phải có kế hoạch B dự phòng, đừng quên chúng ta vẫn còn pháp bảo chưa dùng đến. Tôi thấy giờ chúng ta nên vào trong hang chim yến trước, tìm một khu vực ổn thỏa an toàn, rổi dùng Quy Khư quẻ kính suy đoán phương vị của mộ cổ Địa Tiên, tránh để nhầm đường lần nữa.”
Cả bọn đều gật đàu đổng ý, không ai thắc mắc gì. Lúc mới vào núi, chúng tôi không muốn dùng cổ kính Quy Khư “hỏi” xem mộ cổ ở nơi nào, một là vì mạch núi Vu Sơn này trong phong thủy học được gọi là đất “quần long vô thủ”, long mạch tung hoành chằng chịt, không tìm được nơi “tàng phong tụ thủy” thì tấm gương cổ bằng đồng xanh này rất có thể sẽ không chiêm đoán được phương vị của mộ cổ; hai là vì hải khí trong tấm gương đồng đã dần tiêu tán hết, cùng lắm chỉ có thế dùng chiêm đoán thêm một hai lần nữa thôi, vả lại quẻ tượng hiện lên khi “thắp nến soi gương” đa phần là quẻ cổ, tôi cũng không dám chắc mình có thể hiểu được, vì vậy từ đầu đến giờ vẫn không tủy tiện sử dụng. Giờ đây đã đến đường cùng, mới đành phải cầu viện đến bí quyết chữ “vấn” đã thất truyền nghìn năm nay của thuật trộm mộ cổ xưa vậy.
Phương án đã quyết, chúng tôi đang định tìm chỗ nào có thể đặt chân để men theo vách đá leo xuống, chợt phát hiện bầu không như bị mây đen mù mịt che kín, trước mắt không ngừng có những con yến lướt qua “soạt soạt soạt”, Shirley Dương kêu lên: “Hỏng bét, lũ chim yến về tổ rồi...”
Hàng vạn con chim yến đã àn no châu chấu, rào rào bay về tổ, chỉ thấy cả một vùng đen kịt lao xuổng khe sâu, như thể trời đang đổ trận mưa rào, liên tiếp có những con yến đập vào người chúng tôi. Cả bọn kêu không ổn, cuống cuồng né tránh đàn yến đang sầm sập lao xuống.
Chim yến không cố ý lao vào người chúng tôi, chỉ là số lượng đông quá, chen chúc trong khe núi chật hẹp gần như không có khoảng trống nào mà né tránh. Chúng tôi chỉ biết ôm đầu che mặt lùi về mép của cây xà gỗ màu đen hòng tránh chỗ đàn yến tập trung đông đúc, chẳng ngờ cuống quá không để ý, năm người đều nhích về phía bị nghiêng. Cây xà gỗ màu đen kẹt giữa hai vách đá này tuy có thể chịu được sức nặng, không lập tức gãy lìa, nhưng tầng nham thạch tại chỗ nó gác vào đã bắt đầu lỏng lẻo.
Chợt nghe tiếng “rắc rắc”, một mảng vách đá toác ra, cây xà gỗ khổng lồ ầm ầm lăn xuống khe núi sâu hun hút. Trong tình cảnh này, nếu là loài khỉ vượn thì may ra còn có thể nhảy nhót leo lên, chứ người bình thường ngoài bám chặt vào xà gỗ, còn có thể làm gì khác đây ?
Chúng tôi nhắm tịt mắt ôm chặt cây xà gỗ đen kịt, bên tai chỉ nghe tiếng gió rít vù vù, xương cốt bị rung lắc đến cơ hồ vỡ vụn. Cây xà gỗ to đến mấy người ôm lăn xuống giữa hai vách đá gặp chỗ khe hẹp liền kẹt lại, nhưng lại bị trọng lượng của năm người đè xuống, hai đầu tòe ra, những gạch ngói còn sót lại bên trên đều rơi rụng lả tả hết, khúc gỗ như thể một bánh xe khổng lổ, lao vút qua mây mù sương trắng, hết va chỗ này lại đập chỗ kia, lăn lông lốc xuống đáy khe sâu.
Tôi cũng không biết mình đã bám vào cây xà gỗ màu đen ấy rơi xuống sâu chừng nào, thần trí cơ hồ đảo lộn, càng không biết cây xà gỗ dừng ở đâu, chỉ cảm thấy hình như rốt cuộc nó cũng bị kẹt vào giữa hai vách đá chật hẹp. Cũng may, cây xà gỗ này chắc chắn, khe núi lại rất hẹp, khúc gỗ khổng lồ rơi xuống dồn nén dòng khí lưu làm hãm bớt đà rơi, nên không rơi thẳng xuống đáy sơn cốc, cũng không hất mấy người bọn tôi văng ra ngoài.
Mắt tôi tối sầm, nổ đom đóm, một lúc lâu sau mới dần lấy lại được ý thức, sờ sờ thấy bắp tay cẳng chân vẫn còn nguyên vẹn, không khỏi thầm thở phào nhẹ nhõm, may mà gỗ kim ty nam cứng rắn khó bì, nếu là loại xà gỗ bình thường chắc đã vỡ nát từ lâu.
Tôi lắc đầu thật mạnh cho khỏi hoa mắt, nhìn quanh một vòng, chỉ thấy Shirley Dương và Út thân thể nhẹ nhàng nên cũng không có gì đáng ngại, đèn pin của họ không biết đã văng đi đâu mất, hai người tay giơ cây pháo sáng bốc khói đỏ mù mịt kêu xì xì chiếu sáng, đang luống cuống băng bó cho Tôn Cửu gia máu me đầy mặt. Tuyền béo há miệng nằm trên xà gỗ thở hồng hộc, thấy tôi tỉnh lại liền nói: “Tôi bảo tư lệnh Nhất này, tim liên tục đập nhanh thế này... không có lợi cho sức khỏe khéo chết người đấy.”
Tôi miễn cưỡng rặn ra một nụ cười với cậu ta, bấy giờ mới nhận ra trong mồm mình toàn bọt máu, vừa nãy rơi xuống suýt cắn đứt đầu lưỡi. Tôi nhổ toẹt ngụm máu trong miệng, hỏi shirlcy Dương: “Tôn Cửu gia vẫn còn sống chứ?"
Shiriey Dương chưa kịp trả lời, giáo sư Tôn đã mở mắt ra nói: “Sao có thể xôi hỏng bỏng không mà chết ở đây được? Tôi không tìm được quẻ phù Long cốt trong mộ cổ Địa Tiên thì chết không nhắm mắt, bao nhiêu năm nay tôi mang cái chức giáo sư hão này đi đâu cũng bị người ta lườm nguýt coi thường, bị người ta tẩy chay mà chẳng làm gì được, chỉ biết khổ sở chịu đựng hết ngày này đến ngày khác, giờ khó khăn lắm mới có cơ hội một bước lên trời, muốn chết... thì cũng phải đợi có vai có vế trong giới học thuật rồi mới chết được.”
Tôi nói: “Cửu gia à, có phải đầu ông bị va đập đến hồ đồ rồi không? Sao càng lúc càng thụt lùi... toàn nói những lời kém cỏi vậy chứ? Ông tổt xấu gì cũng được coi là phần tử trí thức lão thành từng trải qua khảo nghiệm gian nan trong Cách mạng Văn hóa, mấy năm nay chẳng qua cũng chỉ không được để bạt trọng dụng thôi chứ có gì đâu? Tội gì cứ cố chấp mấy thứ hư danh vớ vẩn ấy chứ?”
Giáo sư Tôn bực bội nói: “Hồ Bát Nhất, các cậu sinh sau đẻ muộn, đương nhiên không thể hiểu được thứ mà tôi theo đuổi, chỉ cần trở thành người có vai vế, cậu đánh rắm người ta cũng khen thơm, nói lăng nhăng gì cũng được người ta cho là chân lý, còn như thấp cổ bé họng, đi đâu cũng bị người ta khinh rẻ. Cùng là người một thế hệ, lý lịch tương tự nhau, trong công việc tôi cũng chưa từng thua kém chút nào, tại sao cả đời tôi toàn phải nghe cái bọn trình độ không bằng mình sai bảo cơ chứ?” Tuyền béo nghe giáo sư Tôn nói những lời ấy, liền châm chọc: “Tôi thấy tổ chức không đề bạt ông thật là anh minh hết sức, với sự giác ngộ của ông bây giờ... còn chưa làm lãnh đạo đã mơ tưởng ngồi trên ghế lãnh đạo đánh rắm với nói lăng nhăng, đến lúc làm lãnh đạo thật há chẳng phải sẽ lôi cả bọn xuống tắm nước cống hay sao ?”
Giáo sư Tôn vội giải thích: “Lúc nãy tôi nói cho hả tức đấy thôi, tôi là tôi không phục, sao tôi lại không thể làm lãnh đạo được chứ? Bọn họ thậm chí còn định cho tôi về hưu..., tôi vẫn chưa già, còn thừa nhiệt tình để phát huy cơ mà!”
Shirley Dương khuyên chúng tôi bớt nói đi mấy câu, đầu giáo sư Tôn bị đập vào cây xà gỗ vỡ toác cả ra, khó khăn lắm mới cầm máu được, giờ kích động lên vết thương sẽ lại vỡ ngay.
Lúc này tôi mới cảm thấy vết thương trên vai đau thấu xương, vội lấy trong ba lô ra chiếc đèn pin mắt sói dự phòng, bật lên chiếu vào vai mình. Thì ra chỗ bị con châu chấu xuyên vào tận trong thịt vẫn đang chảy máu không ngừng, tôi giật một mảnh vải sô ngậm trong miệng, xé áo ra quan sát vết thương, có lẽ phần đầu của con “mao tiên” kia vẫn còn ghim lại bên trong, đành phải nhờ shirley Dương dùng Nga Mi thích giúp tôi khêu ra, rồi nhanh chóng sát trùng khử độc và băng bó lại.
Shirley Dương vội vàng xử lý xong vết thương của giáo sư Tôn, đoạn hơ mũi Nga Mi thích lên bật lửa, bảo Út cầm đèn pin chiếu sáng. Cô hỏi tôi: “Em sắp ra tay đây, anh chịu được không?”
Tôi nghiến răng nói: “Chuyện nhỏ như con thỏ, miễn em đừng run tay là được, nhớ năm xưa anh...” Tôi vốn định dặn dò thêm mấy câu, nhưng còn chưa dứt lời, Shirley Dương đã bóp chặt vết thương trên vai tôi, dùng mũi Nga Mi thích vừa mảnh vừa nhọn khêu đầu con châu chấu, cô làm vừa nhanh vừa chuẩn, tôi còn chưa kịp kêu đau thì cuộc “phẫu thuật ngoại khoa” đã kết thúc rồi.
Shirley Dương lại tưới rượu mạnh lên chỗ bả vai ấy, khiến tôi xót đến nỗi mồ hôi trán túa ra đầm đìa, định kêu một tiếng, nhưng vừa há miệng tôi chợt phát hiện ở đoạn cuối cây xi gỗ có thêm một “người”. Tiếng đau đã ra đến miệng tức thi bị nuốt lại, tôi vội giơ đèn pin mắt sói chiếu ra phía sau lưng giáo sư Tôn, Shirley Dương biết có dị biến, cũng rút ô Kim Cang sau lưng ra.
Sau khi rơi xuống khe sâu, cây xà gỗ màu đen này mắc kẹt vào giữa hai vách đá mọc đầy dây leo và rêu ẩm ướt, không gian cực kỳ chật hẹp, nhìn lên trên chỉ thấy một vệt sáng trắng mờ ảo, độ cao không dưới nghìn thước, nhìn xuống dưới lại là khói sương đen kịt mông lung. Nghe tiếng nước cuồn cuộn ấy, dường như còn cách đến máy trăm mét nữa. Nơi này trên không chạm trời, dưới không chạm đất, sau khi mất dần thích ứng, cảm giác ánh sáng xung quanh sáng chẳng ra sáng tối chẳng ra tối, từ chỗ tôi đang ngồi, vừa khéo nhìn thấy ở sau đám dây leo có một ông già râu dài đang ngồi ngay ngắn, nhưng chỉ thấy hình dáng, không lại gần thì không thể nhìn rõ được.
Giáo sư Tôn thấy chúng tôi nhìn chằm chằm về phía mình, vội vàng ngoảnh đầu ra sau, cũng thấy trong khe hở trên vách đá hình như có người, liền giật nảy mình kinh hãi, vội ôm vết thương trên đầu co rụt người lại.
Tuyền béo ở đầu bên kia xà gỗ, phát hiện ra chuyện này liền rút ngay nỏ liên châu ra định bắn, nhưng tôi vội giơ tay ngăn lại: “Đừng bắn, hình như chỉ là người chết, không biết có phải trung đoàn trưởng Phong không, đợi tôi qua đó xem sao rồi tính”.
Lần này cả bọn không dám xúm lại một chỗ nữa, mà chia nhau phân tán ra, cố gắng giữ cho cây xà gỗ chịu lực đồng đều. Tôi băng vết thương lại, sờ sờ cái móng lừa đen trong ba lô rôi nghiêng người vòng qua giáo sư Tôn, đến phía trước vách đá giơ xẻng công binh lên gạt đám dây leo chằng chịt, chỉ thấy trong khe đá có một cỗ quan tài treo. Quan tài làm bằng gỗ tùng vỏ cây tựa như từng lớp từng lớp vảy rồng.
Nắp quan tài đã bị bật ra, xác chết bên trong ngồi dậy, hốc mắt sâu hoắm, da thịt khô đét như sáp, nhưng thần thái dung mạo vẫn còn nguyên, đầu búi tóc, dùng dây gai cột tóc lại, mình vận áo bào rộng thùng thình màu xám, trong lòng ôm một cây kiếm cổ chuôi dài bằng đồng xanh chạm đầy hoa văn, lông mày râu tóc đều bạc trắng, chòm râu dài phất phơ nhè nhẹ.
Ông già trong quan tài hẳn đã chết được mấy nghìn năm rồi, nhưng ở chốn đất lành tàng phong tụ khí như hẻm núi Quan Tài này, cái xác vẫn được giữ nguyên vẹn, quần áo dung mạo không mục nát thối rữa.
Tôi giơ đèn pin mắt sói chiếu vào cái xác cổ ngồi trong quan tài ấy, từ trước đến giờ chưa từng gặp qua cái “bánh tông” nào tiên phong đạo cốt thế này, đang vừa kinh ngạc vừa nghi hoặc, chợt nghe giáo sư Tôn ở sau lưng lên tiếng: “Cái huyệt này không tầm thường đâu, có lẽ là nơi mai táng một vị ẩn sĩ thời thượng cổ đấy!”
Lũ châu chấu tụ thành đàn trong hẻm núi vừa bị tiếng còi báo động chói tai đẩy lùi, giờ lại cuồn cuộn ập tới, rồi lại bị bọn chim yến bay rợp trời không ngừng lùa vào mắt gió.
Lúc này phi hổ trảo trong tay tôi đã móc vào một tảng nham thạch gồ lên, cạm bẫy chết chóc cầu tiên vô ảnh kín kẽ trăm đường vẫn có một khe hở, ở mép thác đá vừa khéo có một chỗ khuyết, có thể tránh khỏi dòng khí lưu hỗn loạn ở giữa khe núi hình chữ “T”, nếu không phải cả đám châu chấu cánh vàng bị lùa vào trong mắt gió, chúng tôi thực tình cũng không thể nhìn thấy được dòng xoáy chết vô hình vô ảnh này.
Tôi thấy sự việc đã đến lúc không thể chần chừ, vội bảo giáo sư Tôn và Út bám vào dây xích tuột xuống khe núi trước, tôi và Shirley Dương cũng theo sát phía sau, lần lượt leo xuống vách núi dựng đứng trước khi ngàn vạn con châu chấu cùng ập đến.
Khoảng trời mảnh như sợi chỉ trên đỉnh khe núi sâu hút bị lũ chim yến và đàn châu chấu bay loạn xạ che khuất, ngẩng đầu lên chẳng nhìn thấy bầu không đâu cả, bốn phía chỉ thấy đen kịt một màu. Trên vách đá bám đáy rêu đên, cứng lạnh như băng, chúng tôi chỉ thấy gió âm thấu xương, toàn thân run rẩy hai hàm răng bất giác va vào nhau lập cập.
Bọn tôi bật đèn pin mắt sói lên, mấy chùm sáng màu xanh lam quét loang loáng trên vách đá dưới khe sâu, tôi lần theo tiếng hét của Tuyền béo nhìn sang, nhưng nào có tường thành gì, chỉ thấy giữa hai vách núi có một khúc gỗ khổng lồ đen kịt bắc ngang, hình dạng như một cây xà nhà cực lớn. Bốn góc xà gỗ vuông vắn như một cây cầu độc mộc nghiêng nghiêng gác vào hai bên vách đá, bên trên còn có một số mảnh gạch ngói vỡ và lỗ mộng.
Dây đai chịu lực trên người Tuyền béo mắc cậu ta vào một khúc chìa ra trên cây xà gỗ, sau lưng toàn là gạch đá trên cây xà, cậu ta không ngoảnh đầu ra sau được, chỉ có thể sờ thấy mấy cục gạch, liền cho rằng mình bị mắc vào tường thành gì đó. Khúc gỗ chìa ra kia bị sức nặng của cậu ta làm cho lung lay, xem chừng sắp gẫy lìa đến nơi.
Tôi vẫy tay ra hiệu với những người còn lại, bảo họ cứ ở yên chỗ tiếp giáp giữa xà gỗ và vách đá, có gắng đừng bước lên trên, khúc gỗ đen kịt to tướng này gác ở đây không biết đã bao nhiêu năm tháng, chịu đủ mưa nắng, trời mới biết nó có mục nát gẫy lìa ra đúng lúc này hay không.
Một mình tôi bước lên cây xà gỗ gác nghiêng nghiêng giữa hai vách núi, nín thở nhích dần đến chỗ mép chìa ra, giơ xẻng công binh xuống cho Tuyền béo tóm lấy, kéo cậu ta xoay một vòng trên không trung quay người lại ôm vào xà gỗ, vừa thở hóng hộc vừa leo lên trên.
Tôi thấy cậu ta đã tạm thời thoát hiểm, liền thở phào nhẹ nhõm, ngẩng lên nhìn trời thầm nhủ: “Cây xà gỗ này ở đâu rơi xuống vậy? Xem chừng là bị người ta dỡ bỏ rồi đẩy xuống chỗ này lẽ nào trên kia có di tích cung điện hay chùa miếu gì ư? Mộ cổ Địa Tiên rốt cuộc ở trên núi hay dưới núi đây?”
Tuyền béo vừa nãy bị treo lơ lửng trên không, suýt vỡ mật vì sợ, nằm bò ra trên cây xà gỗ không dám nhúc nhích, lúc này chợt nghe Tôn Cửu gia ở đằng sau cất tiếng hỏi: “Hổ Bát Nhất, Tuyền béo, hai cậu không sao chứ?”
Tuyền béo vẫn có cứng miệng đáp: “Tim tôi tự nhiên đập nhanh thôi... tiên sứ nhà nó, đúng là có lợi cho sức khỏe lắm đấy”.
Tôi ngoái lại bảo mấy người kia: “Không sao, một chốc một nhát cũng không chết được, tôi thấy đoạn xà gỗ này có thể là gỗ kim ty nam, khá chắc chắn, mọi người đều qua đây đi.” Shirley Dương nghe thế, liền thu hồi phi hổ trảo, cùng giáo sư Tôn và Út nắm tay nhau, nhích từng bước một ra khoảng giữa cây xà gỗ.
Tôi dùng đèn pin mắt sói chiếu xuống dưới vách đá, trên vách núi phẳng như dao cắt ấy có vô số hang động, lũ yến bình thường đều trú trong những hang này. Sâu bên dưới chỉ thấy một màu đen kịt, vượt xa phạm vi chiếu sáng của đèn pin mắt sói, nhưng áp tai lên cây gỗ đen này có thế láng máng nghe thấy tiếng nước chảy, dưới đáy sơn cốc có lẽ là một dòng sông lớn.
Tôi nói với mọi người: “Quan Sơn chỉ mê phú” trên tấm bia vỡ kia quả nhiên là đồ giả, khe núi đằng sau Long môn toàn hang châu chấu, tôi thấy mộ có Địa Tiên hẳn không giấu ở trong đó đâu, nhưng giữa khe núi lại có long khí ngưng tụ, chứng tỏ nơi này là đất tàng phong tụ thủy, không có mộ cổ thì thôi, nếu đúng là có thôn Địa Tiên thật, thì đảm bảo không nằm ngoài khu vực này đâu.”
Tôn Cửu gia nói: “Chuyện đã đến nước này, tôi chẳng có ý kiến gì nữa, chúng tôi nghe theo cậu hết, cậu nói xem giờ phải làm sao cho ổn đây?”
Tôi bảo cả bọn: “Nhìn lại từ xưa đến nay, sự bố trí phòng trộm trong lăng mộ và các ngón nghề đổ đấu trộm mộ thực ra chính là cuộc so tài giữa người sống và người chết ở hai thế giới âm dương. Một ngôi mộ nếu bị động để kẻ trộm mộ đào bới, tức là thời điểm chủ mộ bị tan xương nát thịt chẳng còn xa nữa, ngược lại kẻ trộm mộ nếu lọt vào cạm bẫy trong mộ cổ, e rằng khó tránh khỏi kết cục trở thành vật tuẫn táng. Chúng ta đã để mất thế chủ động một lần, suýt nữa táng mạng vì bài ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ hư ảo kia, có điều, một phương án đổ đấu hoàn thiện nhất định phải có kế hoạch B dự phòng, đừng quên chúng ta vẫn còn pháp bảo chưa dùng đến. Tôi thấy giờ chúng ta nên vào trong hang chim yến trước, tìm một khu vực ổn thỏa an toàn, rổi dùng Quy Khư quẻ kính suy đoán phương vị của mộ cổ Địa Tiên, tránh để nhầm đường lần nữa.”
Cả bọn đều gật đàu đổng ý, không ai thắc mắc gì. Lúc mới vào núi, chúng tôi không muốn dùng cổ kính Quy Khư “hỏi” xem mộ cổ ở nơi nào, một là vì mạch núi Vu Sơn này trong phong thủy học được gọi là đất “quần long vô thủ”, long mạch tung hoành chằng chịt, không tìm được nơi “tàng phong tụ thủy” thì tấm gương cổ bằng đồng xanh này rất có thể sẽ không chiêm đoán được phương vị của mộ cổ; hai là vì hải khí trong tấm gương đồng đã dần tiêu tán hết, cùng lắm chỉ có thế dùng chiêm đoán thêm một hai lần nữa thôi, vả lại quẻ tượng hiện lên khi “thắp nến soi gương” đa phần là quẻ cổ, tôi cũng không dám chắc mình có thể hiểu được, vì vậy từ đầu đến giờ vẫn không tủy tiện sử dụng. Giờ đây đã đến đường cùng, mới đành phải cầu viện đến bí quyết chữ “vấn” đã thất truyền nghìn năm nay của thuật trộm mộ cổ xưa vậy.
Phương án đã quyết, chúng tôi đang định tìm chỗ nào có thể đặt chân để men theo vách đá leo xuống, chợt phát hiện bầu không như bị mây đen mù mịt che kín, trước mắt không ngừng có những con yến lướt qua “soạt soạt soạt”, Shirley Dương kêu lên: “Hỏng bét, lũ chim yến về tổ rồi...”
Hàng vạn con chim yến đã àn no châu chấu, rào rào bay về tổ, chỉ thấy cả một vùng đen kịt lao xuổng khe sâu, như thể trời đang đổ trận mưa rào, liên tiếp có những con yến đập vào người chúng tôi. Cả bọn kêu không ổn, cuống cuồng né tránh đàn yến đang sầm sập lao xuống.
Chim yến không cố ý lao vào người chúng tôi, chỉ là số lượng đông quá, chen chúc trong khe núi chật hẹp gần như không có khoảng trống nào mà né tránh. Chúng tôi chỉ biết ôm đầu che mặt lùi về mép của cây xà gỗ màu đen hòng tránh chỗ đàn yến tập trung đông đúc, chẳng ngờ cuống quá không để ý, năm người đều nhích về phía bị nghiêng. Cây xà gỗ màu đen kẹt giữa hai vách đá này tuy có thể chịu được sức nặng, không lập tức gãy lìa, nhưng tầng nham thạch tại chỗ nó gác vào đã bắt đầu lỏng lẻo.
Chợt nghe tiếng “rắc rắc”, một mảng vách đá toác ra, cây xà gỗ khổng lồ ầm ầm lăn xuống khe núi sâu hun hút. Trong tình cảnh này, nếu là loài khỉ vượn thì may ra còn có thể nhảy nhót leo lên, chứ người bình thường ngoài bám chặt vào xà gỗ, còn có thể làm gì khác đây ?
Chúng tôi nhắm tịt mắt ôm chặt cây xà gỗ đen kịt, bên tai chỉ nghe tiếng gió rít vù vù, xương cốt bị rung lắc đến cơ hồ vỡ vụn. Cây xà gỗ to đến mấy người ôm lăn xuống giữa hai vách đá gặp chỗ khe hẹp liền kẹt lại, nhưng lại bị trọng lượng của năm người đè xuống, hai đầu tòe ra, những gạch ngói còn sót lại bên trên đều rơi rụng lả tả hết, khúc gỗ như thể một bánh xe khổng lổ, lao vút qua mây mù sương trắng, hết va chỗ này lại đập chỗ kia, lăn lông lốc xuống đáy khe sâu.
Tôi cũng không biết mình đã bám vào cây xà gỗ màu đen ấy rơi xuống sâu chừng nào, thần trí cơ hồ đảo lộn, càng không biết cây xà gỗ dừng ở đâu, chỉ cảm thấy hình như rốt cuộc nó cũng bị kẹt vào giữa hai vách đá chật hẹp. Cũng may, cây xà gỗ này chắc chắn, khe núi lại rất hẹp, khúc gỗ khổng lồ rơi xuống dồn nén dòng khí lưu làm hãm bớt đà rơi, nên không rơi thẳng xuống đáy sơn cốc, cũng không hất mấy người bọn tôi văng ra ngoài.
Mắt tôi tối sầm, nổ đom đóm, một lúc lâu sau mới dần lấy lại được ý thức, sờ sờ thấy bắp tay cẳng chân vẫn còn nguyên vẹn, không khỏi thầm thở phào nhẹ nhõm, may mà gỗ kim ty nam cứng rắn khó bì, nếu là loại xà gỗ bình thường chắc đã vỡ nát từ lâu.
Tôi lắc đầu thật mạnh cho khỏi hoa mắt, nhìn quanh một vòng, chỉ thấy Shirley Dương và Út thân thể nhẹ nhàng nên cũng không có gì đáng ngại, đèn pin của họ không biết đã văng đi đâu mất, hai người tay giơ cây pháo sáng bốc khói đỏ mù mịt kêu xì xì chiếu sáng, đang luống cuống băng bó cho Tôn Cửu gia máu me đầy mặt. Tuyền béo há miệng nằm trên xà gỗ thở hồng hộc, thấy tôi tỉnh lại liền nói: “Tôi bảo tư lệnh Nhất này, tim liên tục đập nhanh thế này... không có lợi cho sức khỏe khéo chết người đấy.”
Tôi miễn cưỡng rặn ra một nụ cười với cậu ta, bấy giờ mới nhận ra trong mồm mình toàn bọt máu, vừa nãy rơi xuống suýt cắn đứt đầu lưỡi. Tôi nhổ toẹt ngụm máu trong miệng, hỏi shirlcy Dương: “Tôn Cửu gia vẫn còn sống chứ?"
Shiriey Dương chưa kịp trả lời, giáo sư Tôn đã mở mắt ra nói: “Sao có thể xôi hỏng bỏng không mà chết ở đây được? Tôi không tìm được quẻ phù Long cốt trong mộ cổ Địa Tiên thì chết không nhắm mắt, bao nhiêu năm nay tôi mang cái chức giáo sư hão này đi đâu cũng bị người ta lườm nguýt coi thường, bị người ta tẩy chay mà chẳng làm gì được, chỉ biết khổ sở chịu đựng hết ngày này đến ngày khác, giờ khó khăn lắm mới có cơ hội một bước lên trời, muốn chết... thì cũng phải đợi có vai có vế trong giới học thuật rồi mới chết được.”
Tôi nói: “Cửu gia à, có phải đầu ông bị va đập đến hồ đồ rồi không? Sao càng lúc càng thụt lùi... toàn nói những lời kém cỏi vậy chứ? Ông tổt xấu gì cũng được coi là phần tử trí thức lão thành từng trải qua khảo nghiệm gian nan trong Cách mạng Văn hóa, mấy năm nay chẳng qua cũng chỉ không được để bạt trọng dụng thôi chứ có gì đâu? Tội gì cứ cố chấp mấy thứ hư danh vớ vẩn ấy chứ?”
Giáo sư Tôn bực bội nói: “Hồ Bát Nhất, các cậu sinh sau đẻ muộn, đương nhiên không thể hiểu được thứ mà tôi theo đuổi, chỉ cần trở thành người có vai vế, cậu đánh rắm người ta cũng khen thơm, nói lăng nhăng gì cũng được người ta cho là chân lý, còn như thấp cổ bé họng, đi đâu cũng bị người ta khinh rẻ. Cùng là người một thế hệ, lý lịch tương tự nhau, trong công việc tôi cũng chưa từng thua kém chút nào, tại sao cả đời tôi toàn phải nghe cái bọn trình độ không bằng mình sai bảo cơ chứ?” Tuyền béo nghe giáo sư Tôn nói những lời ấy, liền châm chọc: “Tôi thấy tổ chức không đề bạt ông thật là anh minh hết sức, với sự giác ngộ của ông bây giờ... còn chưa làm lãnh đạo đã mơ tưởng ngồi trên ghế lãnh đạo đánh rắm với nói lăng nhăng, đến lúc làm lãnh đạo thật há chẳng phải sẽ lôi cả bọn xuống tắm nước cống hay sao ?”
Giáo sư Tôn vội giải thích: “Lúc nãy tôi nói cho hả tức đấy thôi, tôi là tôi không phục, sao tôi lại không thể làm lãnh đạo được chứ? Bọn họ thậm chí còn định cho tôi về hưu..., tôi vẫn chưa già, còn thừa nhiệt tình để phát huy cơ mà!”
Shirley Dương khuyên chúng tôi bớt nói đi mấy câu, đầu giáo sư Tôn bị đập vào cây xà gỗ vỡ toác cả ra, khó khăn lắm mới cầm máu được, giờ kích động lên vết thương sẽ lại vỡ ngay.
Lúc này tôi mới cảm thấy vết thương trên vai đau thấu xương, vội lấy trong ba lô ra chiếc đèn pin mắt sói dự phòng, bật lên chiếu vào vai mình. Thì ra chỗ bị con châu chấu xuyên vào tận trong thịt vẫn đang chảy máu không ngừng, tôi giật một mảnh vải sô ngậm trong miệng, xé áo ra quan sát vết thương, có lẽ phần đầu của con “mao tiên” kia vẫn còn ghim lại bên trong, đành phải nhờ shirley Dương dùng Nga Mi thích giúp tôi khêu ra, rồi nhanh chóng sát trùng khử độc và băng bó lại.
Shirley Dương vội vàng xử lý xong vết thương của giáo sư Tôn, đoạn hơ mũi Nga Mi thích lên bật lửa, bảo Út cầm đèn pin chiếu sáng. Cô hỏi tôi: “Em sắp ra tay đây, anh chịu được không?”
Tôi nghiến răng nói: “Chuyện nhỏ như con thỏ, miễn em đừng run tay là được, nhớ năm xưa anh...” Tôi vốn định dặn dò thêm mấy câu, nhưng còn chưa dứt lời, Shirley Dương đã bóp chặt vết thương trên vai tôi, dùng mũi Nga Mi thích vừa mảnh vừa nhọn khêu đầu con châu chấu, cô làm vừa nhanh vừa chuẩn, tôi còn chưa kịp kêu đau thì cuộc “phẫu thuật ngoại khoa” đã kết thúc rồi.
Shirley Dương lại tưới rượu mạnh lên chỗ bả vai ấy, khiến tôi xót đến nỗi mồ hôi trán túa ra đầm đìa, định kêu một tiếng, nhưng vừa há miệng tôi chợt phát hiện ở đoạn cuối cây xi gỗ có thêm một “người”. Tiếng đau đã ra đến miệng tức thi bị nuốt lại, tôi vội giơ đèn pin mắt sói chiếu ra phía sau lưng giáo sư Tôn, Shirley Dương biết có dị biến, cũng rút ô Kim Cang sau lưng ra.
Sau khi rơi xuống khe sâu, cây xà gỗ màu đen này mắc kẹt vào giữa hai vách đá mọc đầy dây leo và rêu ẩm ướt, không gian cực kỳ chật hẹp, nhìn lên trên chỉ thấy một vệt sáng trắng mờ ảo, độ cao không dưới nghìn thước, nhìn xuống dưới lại là khói sương đen kịt mông lung. Nghe tiếng nước cuồn cuộn ấy, dường như còn cách đến máy trăm mét nữa. Nơi này trên không chạm trời, dưới không chạm đất, sau khi mất dần thích ứng, cảm giác ánh sáng xung quanh sáng chẳng ra sáng tối chẳng ra tối, từ chỗ tôi đang ngồi, vừa khéo nhìn thấy ở sau đám dây leo có một ông già râu dài đang ngồi ngay ngắn, nhưng chỉ thấy hình dáng, không lại gần thì không thể nhìn rõ được.
Giáo sư Tôn thấy chúng tôi nhìn chằm chằm về phía mình, vội vàng ngoảnh đầu ra sau, cũng thấy trong khe hở trên vách đá hình như có người, liền giật nảy mình kinh hãi, vội ôm vết thương trên đầu co rụt người lại.
Tuyền béo ở đầu bên kia xà gỗ, phát hiện ra chuyện này liền rút ngay nỏ liên châu ra định bắn, nhưng tôi vội giơ tay ngăn lại: “Đừng bắn, hình như chỉ là người chết, không biết có phải trung đoàn trưởng Phong không, đợi tôi qua đó xem sao rồi tính”.
Lần này cả bọn không dám xúm lại một chỗ nữa, mà chia nhau phân tán ra, cố gắng giữ cho cây xà gỗ chịu lực đồng đều. Tôi băng vết thương lại, sờ sờ cái móng lừa đen trong ba lô rôi nghiêng người vòng qua giáo sư Tôn, đến phía trước vách đá giơ xẻng công binh lên gạt đám dây leo chằng chịt, chỉ thấy trong khe đá có một cỗ quan tài treo. Quan tài làm bằng gỗ tùng vỏ cây tựa như từng lớp từng lớp vảy rồng.
Nắp quan tài đã bị bật ra, xác chết bên trong ngồi dậy, hốc mắt sâu hoắm, da thịt khô đét như sáp, nhưng thần thái dung mạo vẫn còn nguyên, đầu búi tóc, dùng dây gai cột tóc lại, mình vận áo bào rộng thùng thình màu xám, trong lòng ôm một cây kiếm cổ chuôi dài bằng đồng xanh chạm đầy hoa văn, lông mày râu tóc đều bạc trắng, chòm râu dài phất phơ nhè nhẹ.
Ông già trong quan tài hẳn đã chết được mấy nghìn năm rồi, nhưng ở chốn đất lành tàng phong tụ khí như hẻm núi Quan Tài này, cái xác vẫn được giữ nguyên vẹn, quần áo dung mạo không mục nát thối rữa.
Tôi giơ đèn pin mắt sói chiếu vào cái xác cổ ngồi trong quan tài ấy, từ trước đến giờ chưa từng gặp qua cái “bánh tông” nào tiên phong đạo cốt thế này, đang vừa kinh ngạc vừa nghi hoặc, chợt nghe giáo sư Tôn ở sau lưng lên tiếng: “Cái huyệt này không tầm thường đâu, có lẽ là nơi mai táng một vị ẩn sĩ thời thượng cổ đấy!”
Nguồn e-thuvienonline.blogspot.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét