Chương 6: Thuật
Tống Xác
Hoa Ma Linh rất giỏi
nhìn mặt đoán ý, liếc mắt thấy phản ứng của La Lão Oai, liền hiểu ngay ý tứ,
lập tức cười xòa, “Nếu nói trong nghĩa trang này có cương thi phá phách thì
cũng hợp tình hợp lý, nhưng kỳ lạ ở chỗ trên mặt Hao Tử Nhị Cô không lộ rõ thi độc,
mà như sau khi chết mới bị đổ thi độc vào miệng. Tiểu nhân tài hèn sức mọn, đâu
dám đâu dám khua môi múa mép trước mặt hai vị lão làng Trần lão gia và La soái
đây.”
La Lão Oai chỉ chờ câu
này của Hoa Ma Linh, liền giảng giải cặn kẽ cho hắn nghe. Số là ở Lão Hùng Lĩnh
đất Tương Tây này có một phong tục rất kỳ quái, trong vòng bảy ngày sau khi
chết, người ta phải đổ thi độc vào miệng xác chết rồi dựng đứng sau cánh cửa
gọi là “trạm cương”. Phàm là xác chết bất luận vì lý do gì không cứng lại được,
trong xác ắt có thi độc. Nếu không có mật pháp “trạm cương” này, thi thể sẽ
thối rữa, không chờ được ngày đuổi thây về quê.
Ngoài lão Trần ra, ba
người còn lại chỉ nghe nói đến chứ chưa biết thực hư tục đuổi thây Tương Tây
thế nào, vừa nghe La Lão Oai nhắc đến mới như chợt tỉnh ngộ, tính tò mò liền
trỗi dậy, lại them đêm mưa gió đằng đẵng vô vị, vội thỉnh La soái chỉ cho vài
điều huyền bí mở rộng tầm mắt.
La Lão Oai muốn nhân cơ
hội này khoe khoang quá khứ trước mặt Hồng cô nương, tất nhiên không chối từ,
huống hồ đuổi thây là việc hắn quen thuộc hơn cả, bởi cách đây nhiều năm hắn đã
từng là thợ đuổi thây. Hắn vốn quê ở Sơn Đông, năm mười mấy tuổi nghèo quá
không sống nổi ở quê nhà bèn tìm tới Tương Tây định nhờ cậy họ hang, nhưng đến
nới mới biết người bà con xa đã chết từ lâu, thân cô thế cô lại không nghề
không nghiệp, muốn tìm nơi làm công là mướng, thì diện mạo lại xấu xí khó ưa,
nhìn là biết không phải hạng tử tế nên không ai chịu thuê.
Bất đắc dĩ hắn đành dấn
thân vào giới lục lâm, làm mấy chuyện giết giàu giúp nghèo. Cái gọi là “cướp
của người giàu chia cho người nghèo” chỉ là nói cho hay vậy thôi, chứ thực ra,
có giết đám dân nghèo cũng chẳng được lợi lộc gì, lại khó tránh khỏi các ác danh
hại dân. Có điều hắn là người từ nơi khác tới, không thông thuộc phong tục tập
quán của người địa phương nên không có chỗ đứng, về sau may có người chỉ cho
hắn một con đường – làm thợ đuổi thây. Thợ đuổi thây thu nhận đồ đệ, nhất thiết
cần ba điều kiện, một là lớn gan, hai là dung mạo xấu xí, ba là suốt đời không
lấy vợ.
Thợ đuổi thây ở Tương
Tây cũng có môn đạo hẳn hoi, Thần Châu Tương Tây là đất sản xuất chu sa, có hai
môn đạo lớn là “Hồ Trạch Lôi Đàn” và “Kim Trạch Lôi Đàn”, xưa nay những người
hành nghề đuổi thây đều thuộc hai Lôi đàn môn này. La Lão Oai bái thủ lĩnh Kim
Trạch làm thầy, theo học thuật đuổi thây bí truyền của nhà họ Kim.
Mảnh đất Tương Tây Hà
Nam từ xưa đã có nhiều truyền thuyết thần bí về thuật “tống xác, lạc động, thả
sâu độc”, trong đó tống xác còn được gọi là đuổi thây. Bởi Tương Tây núi non
gập ghềnh rất nhiều nơi không thể thông đường, các thương nhân từ phương Bắc
tới buôn gỗ lậu mong phát tài, phần lớn đều nhằm khi lũ lên, chặt lấy những cây
gỗ lớn, thả trôi sông cho nước cuốn xuống phía Nam, thương nhân cũng xuôi theo
bè gỗ, bán chác xong xuôi lại xuyên rừng vượt núi trở về quê nhà.
Do vùng đất Di động thổ
phỉ hoành hành, lại lắm chương khí trùng độc, dịch bệnh liên miên, thương nhân
từ xa đến không quen thủy thổ, dễ mắc bệnh hoặc gặp cướp đều bỏ mạng giữa
đường. Các thương nhân ngoại tỉnh đều thương xót cảnh ngộ bạn hang bất đắc kỳ
tử, lá lành đùm lá rách góp tiền xây dựng toàn quán, mời thợ đuổi thấy đến giúp
người chết đường chết chợ được lá rụng về cội, mang xương cốt về chôn cất nơi
quê nhà.
Nhắc đến nghề đuổi thây
Tương Tây, quả thực tiếng tăm lừng lẫy, truyền ra ngoài càng muôn phần kỳ bí,
khiến ai nghe nói cũng đều biến sắc mặt. Thực ra pháp thuật này từ xưa có tên
là thuật “tống xác”, đến thời cận đại bắt đầu được gọi là “đuổi thây”, người
phương Tây lại gọi đây là thuật “thôi thây”, người Tây có thuật “thôi nhân”,
cũng chính là thuật “thôi miên”, gọi như vậy đại khái ám chỉ đây là thuật thôi
miên xác chết.
Đất Tương Tây là nơi
người Miêu và người Hán quần cư, địa hình đặc biệt, vô số đỉnh cao vực sâu, dốc
đèo dựng đứng, đỉnh núi theo nhau nối dài về hướng Nam, địa hình gian nan hiểm
trở, trong vùng núi sâu hầu như không có đường đi. Người chết rồi muốn mang xác
về quê an tang không phải là chuyện dễ, hết thảy đều trông vào thợ tống xác,
nhưng có những nơi thợ tống xác nửa năm mới đến một lần, đợi có nhiều người
chết mới cùng chuyển đi một lượt.
Xác chết để lâu sẽ bị
thối rữa, thời đó người ta còn bài xích hỏa táng nên không nghĩ đến chuyện
thiêu cốt thành tro, phàm là thi thể muốn đưa về quê hương chôn cất, trước tiên
phải bảo quản để thành cương thi, đây là điều kiện tiên quyết.
Làm thế nào để biến xác
chết thành cương thi ? Muốn xác chết không bị thối rữa, có thể đổ thủy ngân vào
trong xác, nhưng cách làm này khá đắy đỏ, người bình thường không đủ tiền chi
trả, hơn nữa làm vậy cũng gây tổn hại đến nội tạng người chết. Một số người bèn
dung bí thuật dân gian, khi linh cảm thấy mình chẳng còn sống được bao ngày thì
bắt đầu đều đặn uống từng ít một thạch tín, đương nhiên mỗi lần chỉ uống một
lượng cực nhỏ. Chờ cho thạch tín ngầm xuống Đan Điền thì ăn thêm vài loại thảo
dược lạ như cỏ nghiêu cốt, hoa tử mao mọc ở sườn núi Bắc… Những thứ này nếu ăn
một lượng vừa đủ sẽ không ảnh hưởng đến cơ thể người lúc còn sống, nhưng người
vừa tắt thở, khí huyết sẽ lập tức đông lại, thi thể không rữa nát, trở thành
cương thi bảo quản bằng thuốc, vì vậy mới phải dựng thi thể vào sau cánh cửa
cho đủ ngày, đợi khi hoàn toàn cứng lại mới đặt vào áo quan. Sau khi chết cũng
có thể đổ thuốc, có điều thi thể lưu giữ không được tốt bằng, sẽ khiến dung mạo
biến dạng, xác của Hao Tử Nhị Cô trong nghĩa trang này chính là cương thi được
đổ thuốc độc sau khi chết, dựng ra sau cánh cửa để “trạm cương”.
Chỉ thợ tống xác mới
biết được những điều huyền bí trong thuật tống xác Tương Tây, bởi nghề này vô
cùng “thần bí”, phương thuật tống xác tuyệt không truyền ra ngoài. Người trong
nghề cũng không ai gọi theo các người ngoại đạo là đuổi thây, tống xác, mà gọi
đây là thuật lùa nước. “Thuật lùa nước” là tên gọi chính thức, còn trong ám ngữ
giới hắc đạo gọi là “một bát nước”.
Gặp phải đoàn tống xác
xem như gặp phải vận xui, dân gian hồ quen gọi là “gặp nước”, giờ cũng được
dung để chỉ gặp tà gặp ma, vì mọi phương thuật trong quá trình tống xác đều dựa
cả vào một bát nước sạch, hơn nữa còn bắt buộc phải có hai thợ tống xác đồng
hành thì mới phát huy tác dụng.
Hai người thợ một trước
một sau, người đi trước dẫn đường tay cầm phướng vải dẫn dắt phương thuật,
người đi sau cùng tay bê bát nước sạch, bất luận một chuyến tống bao nhiêu xác,
những xác chết đó đều phải đi kẹp giữ hai người thợ tống xác.
Trong hai người thợ
tống xác, một cầm phướn một bê nước, người bê nước có vai trò quan trọng hơn cả
trên suốt chặn đường, cứ đi được một đoạn lại thêm vào bát nước một câu thần chú
Phân phù tụ thủy tinh hồn : “Khai thông thiên đình, sử nhân trường sinh, tam
hồn thất phách, hồi thần phản anh. Tam hồn cư tả, thất phách tại hữu, tinh
thính thần lệnh, dã sát bất tường. Hành diệc vô nhân kiến, tọa diệc vô nhân
tri. Cấp cấp như luật lệnh !” Bùa chú này bắt buộc phải là bùa Thần Châu ở
Tương Tây, nếu đổi sang bùa chú của môn phái khác sẽ hoàn toàn mất tác dụng.
Chỉ cần bát nước trong
tay không đổ vỡ, xác chết không bao giờ ngã. Trong suốt quá trình tống xác,
người chết giống hệt người sống, duy chỉ không thể nói năng, dáng dấp bước đi
cũng hơi khác, còn lại sẽ hoàn toàn bắt chước hành động của người cầm phướn:
người cầm phướn đi người chết cũng đi, người cầm phướn dừng người chết cũng
dừng. Người ta thường xuyên bắt gặp những đoàn tống xác như thế ở Tương tây vào
cuối thời Minh, ngạn ngữ ở Tương Tây có câu “ba người ở trong điếm, hai người
ăn cơm” chính là để chỉ người tống xác, còn người không ăn cơm trong ba người
là người chết.
Khi đoàn tống xác sắp
về đến quê người chết, trước đó một ngày người chết sẽ báo một người nhà để họ
chuẩn bị áo quan, đồ liệm chỉnh tề. Người chết vào trong nhà, đứng ngay trước
áo quan, thợ tống xác hắt bát nước đi, thi thể liền tự ngã vào áo quan, lúc đó
phải nhanh chóng tẩm liệm và hạ táng, nếu không xác chết sẽ lập tức thối rữa,
mức độ phân hủy tùy theo thời gian đã chết.
Thực ra kỳ môn dị thuật
của bát nước này vốn có nguồn gốc từ xa xưa, đến thời Càn Long thì bị thất
truyền. Nguyên nhân có lẽ do quá bảo mật, người biết bí thuật ngày càng ít, quá
lắm cũng chỉ nắm đại khái chứ không giải thích được nguyên lý của thuật bê nước
tống xác.
Mải đến những năm Quang
Tự, nhiều kẻ đánh thuốc phiện từ Quý Châu muốn phát tài nhanh nên nảy ra chủ ý
giả danh thợ tống xác, lợi dụng sự e sợ của dân gian với việc này làm lá chắn,
đầu cơ trục lợi buôn lậu thuốc phiện đạn dược. Trò tống xác này bọn họ bày ra
khác xa với thuật tống xác cổ xưa, chẳng qua chỉ cố ra vẻ huyền hoặc mà thôi.
Năm đó La Lão Oai tuy không học được bí thuật tống xác, nhưng lợi dụng danh
nghĩa thợ tống xác trắng trợn buôn hang cấm, từ đó phát tài to rồi trở thành
thủ lĩnh phiến quân, làm mưa làm gió khắp vùng Tam Tương. La Lão Oai không ngại
cái xác nữ xấu hoắc kia là bởi cả hắn và lão Trần mù đều biết rõ các xác chết
trong nghĩa trang này đều đã được đổ thuốc cương phòng rữa, không thể có chuyện
xảy ra thi biến.
Xác chết trong toàn
quán này sẽ được thợ tống xác giả dùng làm túi da người đựng hang buôn lậu, tuy
nhiên bọn họ lợi dụng người chết vận chuyển hang cấm, xong cũng sẽ tìm cách đưa
thi thể về quê an táng, không phải vì nhân nghĩa hay đạo đức gì, chẳng qua là
nếu không làm vậy sau này không thể dùng chiêu bài đuổi thây để dọa người khác
nữa. Dân bản địa không biết nội tình đằng sau thuật tống xác nên mới kinh sợ,
lại thêm thợ tống xác lấy đây làm nghiệp, đương nhiên không đời nào mang đầu
đuôi xuôi ngược nói ra với người ngoài, khiến bí thuật này càng có vẻ tà môn
gian đạo, thần bí mơ hồ.
Bọn Hoa Linh và Hồng cô
nương nghe xong đều tặc lưỡi khen hay, La Lão Oai mồm méo mắt lệc, cử chỉ thô
lỗ, lại tham ăn tục uống, cờ bạc đĩ điếm, giết người phóng hỏa không gì không
dám, ai ngờ cũng am tường mấy bí thuật dân gian, quả không hổ danh là đầu đảng
phiến quân lừng lẫy một vùng, lại còn là huynh đệ kết nghĩa với trùm phái Xả
Lĩnh, xem ra cũng có chỗ hơn người. Hoa Ma Linh vội giơ ngón tay cái nịnh nọt
:”Cao minh, quả là cao minh, hóa ra La soái cũng là người xuất thân từ môn đạo.
Chẳng trách kỳ tài như vậy.”
La Lão Oai ngửa cổ nốc
hai ngụm rượu, rõ ràng là vô cùng đắc ý, nhưng không tiện khoe khoang trước mặt
lão Trần, chỉ tự trào :” Kỳ tài với chả quan tài cái con khỉ, ta đây học nghề
đuổi thây lúc còn trẻ quá, bản lĩnh thợ cả mười phần chả học nổi một, mù tịt mà
cứ ra bộ hiểu. Nghe phó quan của ta nói, gần đây ở Giang Nam tòi đâu ra một
tiên sinh có học vấn uyên thâm, viết văn rất hay, ông ta bảo trên đời này vốn
chẳng gì hiều được nhưng người ta cứ ra vẻ hiểu, lâu dần cũng thành ra hiểu.
Lời vị tiên sinh này quả nhiên có lý, sau này tự lệnh ta nhất định phải mời
bằng được ông ta tới đàm đạo, chỉ cho La mỗ này thêm ít học vấn, con mẹ nó để
vờ vịt hiểu biết.” Nói xong hắn ngoác xẹo cái miệng méo, lắc đầu cười khùng
khục, đoạn ngửa cổ tu sạch vò rượu.
Lão Trần tiếp rượu La
Lão Oai nên uống cũng nhiều, cả ngày trèo đèo vượt núi mệt mỏi lại ngà ngà say,
nhưng lão cảm thấy rõ trong nghĩa trang này dường như có điều cổ quái, càng
nghĩ càng không yên tâm, nào dám tùy tiện ngủ nghê. Đang dịnh dặn dò gã câm Côn
Luân Ma Lặc cẩn thận canh phòng, nào ngờ vừa liếc mắt bỗng phát hiện ra dưới
nền đất một dải dài chân ướt dề. Bọn họ vào cả trong phòng thì trời mới đổ mưa
nãy giờ không ai ra ngoài nửa bước, đế giày làm sao ướt được.
Nghĩ đến đây lão vội
vàng nhìn về phía cửa ra vào, thấy then cửa vẫn còn chốt chặt từ bên trong,
không có vẻ đã bị mở, nhưng giữa lúc không ai để ý những giấu chân còn chưa ráo
nước này từ đâu ra? Lão Trần cậy có đôi tai thính, bấy giờ không vội làm ầm
lên, vểnh tai nghe ngóng động tĩnh xung quanh, đoạn ngẩng phắt đầu, chỉ thấy
trong bóng ánh đèn dầu tù mù, một bà lão áo quần trắng toát đang nấp trên xà nhà,
hai con mắt lom lom dòm xuống.
Chương 7: Cắn Tai
Những dấu chân chưa khô
bùn đất vừa lộn xộn vừa mờ nhạt, không biết đi về hướng nào, chỉ thấy nhỏ nhắn
như chân bó của phụ nữ thời xưa. Đang lúc nghi nghi hoặc hoặc lại nghe tiếng
động rất khẽ trên xà nhà, lão Trần vội ngẩng đầu nhìn lên, quả nhiên thấy một
cái bong trắng , trong ánh đèn tù mù, nhìn qua giống hệt một lão bà mặc đồ tang.
Lão Trần thầm thất
kinh, tự nhủ: “Căn phòng này quả thật có ma!”, vừa nhấc tay lên, con Tiêu thần
phong đã phi trúng mục tiêu. Những người còn lại thấy lão Trần bất ngờ ra tay
thì biết ngay có biến, ai nấy tuốt hết dao găm sung lục giấu trong người, hét
lên một tiếng, lùi sát chân tường, vừa tìm chỗ dựa vừa ngẩng đầu quan sát tình
hình trên mái nhà.
Đám trộm ngày thường đã
quá quen cảnh binh đao chém giết, gặp tình thế này không hề hoảng loạn, cùng
lúc con dao găm của lão Trần găm trúng mục tiêu, những người còn lại cũng đã
lùi sát chân tường. “Phập” một tiếng, con Tiểu thần phong loang loáng hàn quang
cắm vào xà nhà, găm sâu một tấc. Hồng cô nương giật lấy cây đuốc bên cạnh, giơ
cao lên soi, thì thấy con dao găm trúng một bức tranh cổ.
Bức tranh vẽ hình một
lão bà mặc áo xô gai, trên mặt chằng chịt nếp nhăn, thần thái già nua ủ rũ,
diện mạo kì quái khó tả, nhìn mà thấy ghét, bên cạnh bà ta là một dãy mồ mả đã
văng bia đổ ngổn ngang. Bức tranh treo trên xà nhà không biết đã bao năm, chất
giấy đã ngấm nước ố vàng nhưng không hề thấy bám bụi.
Vừa rồi lão Trần nghe
thấy động nên vội vã ra tay để chiếm thế thượng phong, nào ngờ bên trên chỉ là
một bức tranh họa hình lão bà cổ quái, không khỏi “ớ” lên kinh ngạc: “Cái quái
gì thế này, sao trong nghĩa trang lại treo thần vị Bạch Lão thái thái?” Nói
xong mới sực nhớ ra, toàn quán này trước kia vốn là miếu thờ Bạch Lão thái
thái, giờ gian chính điện dùng để đặt thi thể nên thần vị phải mang treo ở đây.
Chuyện này lão đã dò hỏi từ trước nhưng ban nãy sự việc xảy ra đột ngột, nhất
thời quên mất làm kinh động cả bọn một phen.
Không ai biết Bạch Lão
thái thái là vị thần nào, chỉ biết trước đây quanh Lão Hùng Lĩnh thường có sơn
dân thờ phụng bà ta, ngay cả ngoài vùng sơn cước cũng thường nghe nói ngu nam
ngu nữ trong núi, không phân già trẻ đều sung bái bà lão này, có điều đã hương
lụi khói tàn từ lâu. Lão Trần chửi um lên: ”Bức tranh chó má rách nát này nhìn
tà ma lắm, để lại chẳng tốt lành gì. Câm, mày gỡ cái tranh đó xuống đem đốt đi…”
Lão đang nói dở, chợt
nghe có tiếng mèo kêu, rồi một con mèo mướp thò nửa mình ra từ xà ngang, hai
mắt sang quắc nhìn chằm chặp vào xác Hao Tử Nhị Cô dựng sau cánh cửa. Thì ra
nghĩa trang mấy ngày nay không người trông coi, lũ mèo hoang mò vào ăn vụng,
khổ nỗi chẳng có gì bỏ bụng, định gặm thịt người chết thì xác chết lại để cả
trong áo quan, lấy vuốt cào suốt nửa đêm cũng không tài nào mở được. Vừa rồi
nhân lúc mưa to gió lớn, con mèo này đã chui qua khe cửa vào phòng, lúc đó cả
bọn chỉ chăm chú nghe La Lão Oai kể chuyện đuổi thây, không chú ý đến động tĩnh
rất nhẹ của nó. Nó nấp trên xà nhà bị lão Trần phát hiện, phi dao trúng ngay bức
tranh ở xà ngang, hoảng quá phải ló mặt ra.
Lão Trần rửa thầm: “Hổ
thay, ta đây đường đường là thủ lĩnh đám tặc phỉ, bao tên đầu trộm đuôi cướp
phải một điều thủ lĩnh, hai điều ông trùm, không ngờ đêm nay lại thần hồn nát
thần tính vì một con mèo.”
Bọn La Lão Oai mới đầu
tưởng ma quỷ hiện về quấy phá, nếu không cũng là yêu tà dị nghiệt, đang giương
cao tinh thần chiến đấu thì phát hiện chỉ là con mèo hoang thậm thụt, đều thở
phào nhẹ nhõm, cười cười chửi đổng vài câu, thu vũ khí rồi trở về chỗ ngồi,
người nào lo người nấy, chẳng ai them để ý đến con mèo nữa.
Nào ngờ con mèo hoang
nhìn thấy bản mặt chuột của Hao Tử Nhị Cô, nhìn mãi lại tưởng đó là một con
chuột bự. Nó bị què một chân, ba chân còn lại lập cập lết xuống xà ngang, hai
mắt lấm lét quan sát xác chết, hoàn toàn không màng tới đám người trong phòng.
Mấy người lão Trần đang
mải lo việc mình, nào biết trong bụng con mèo què mưu mô cái gì, chắc mẩm nó bị
lộ hành tung rồi sẽ bỏ chạy qua khe cửa lúc trước, nên không ai rỗi hơi đi
trông chừng nó. Lão Trần sai Hoa Ma Linh trèo lên cố gã câ nhổ con Tiểu thần
phong đam găm trên xà nhà xuống, đoạn quay sang nói với La Lão Oai vài câu vớt
vát sĩ diện, bảo rằng nhìn thấy bức tranh cổ quái khác thường nên tính cho nó
một nhát dao phá tà khí, không liên quan gì đến con mèo què.
Đúng lúc đó chợt nghe
Hồng cô nương quát to: “Tặc miêu, to gan!” Mọi người vội quay lại nhìn, thấy
con mèo mướp què đang ngồi chồm hỗm trên vai Hao Tử Nhị Cô, cắn từng miếng thịt
trên mặt xác chết. Nó thấy mặt mũi Hao Tử Nhị Cô hao hao giống chuột, bèn mò
tới cắn, mặt xác chết đã bị nó ngoạm mất một miếng thịt. Do người chết chưa
được bao lâu, thạch tín đổ trong miệng còn chưa lan ra toàn thân nên phần mặt
chưa nhiễm độc, nếu không con mèo què đã trúng phải kịch độc mà chết ngay khi
cắn miếng đầu tiên rồi.
Lão Trần nổi giận đùng
đùng, ngoác mồm chửi: “Con mèo khốn kiếp này! Muốn chết phỏng…” Bấy giờ Tiểu
thần phong chưa rút được về tay, lão đành giật lấy khẩu súng ngắn giắt sau lưng
La Lão Oai, khổ nỗi trước giờ lão không quen dùng súng, biết có bắn cũng khó
trúng, bèn vung sung nhằm thẳng con mèo què mà nện. Khẩu sung đó là hang của
Mỹ, La Lão Oai còn quý hơn vàng, thấy lão Trần mang làm búa tạ phang con mèo
thì vừa tiếc sung vừa lo lão Trần trúng đạn, vội vàng giơ tay can ngăn.
Lão Trần xưa nay ngạo
nghễ, sao có thể dung túng con mèo què năm lần bảy lượt làm loạn trước mặt
mình? Lão hất tay La Lão Oai, xông đến đập con mèo. Con mèo què cực kì gian xảo
không những chẳng sợ mà còn nhe nanh sừng sộ với lão, đoạn quay sang cắn đứt
tai Hao Tử Nhị Cô, ngoạm chặt trong mồm, nguẩy đuôi nhảy phắt từ trên vai xác
chết xuống đất, lách qua khe cửa như làn khói, nhanh chóng mất dạng trong mưa
đêm.
Con mèo hoang tuy mất
một chân nhưng động tác vẫn vô cùng tinh ranh, trong tích tắc đã thực hiện xong
một loạt các động tác “nhe răng, cắn tai, quay đầu nhảy xuống, chui qua khe
cửa, trốn thoát”. Lão Trần tuy nhanh tay vẫn chậm hơn vài bước , không chạm
được đến nửa cọng lông của nó.
La Lão Oai tính khí
nóng nảy, ngày thường giết người không chớp mắt, nhưng không cao ngạo như lão
Trần, cho rằng còn mèo què cắn cái xác nữ kia mấy miếng thì đuổi nó đi là xong,
ở đây chẳng Đại soái phiến quân cũng là Thủ lĩnh trộm mộ, đều là những nhân vật
có số có má trên giang hồ, tội gì phải làm khó dễ một con mèo. Cũng tại căn phòng
chật chội, Hồng cô nương bị mọi người chắn trước mặt nên dù muốn bắt con mèo
cũng lực bất tong tâm, gã câm Côn Luân Ma Lặc và Hoa Ma Linh thì đang bắc thang
người để nhổ dao trên xà nhà, thành ra cả bọn thấy lão Trần đập hụt, chỉ biết
trố mắt nhìn con mèo què ngoạm tai người chết, tập tễnh cao chạy xa bay.
Việc này nếu phải người
khác thì thôi, nhưng lão Trần lại đùng đùng tức giận. Từ khi sinh ra đến này,
mọi việc của lão hanh thông, ngồi trên cái ghế thủ lĩnh dễ như trở bàn tay,
thống lĩnh đám trộm Xả Lĩnh đào được không ít mộ cổ tầm cỡ, làm bao nhiêu đại
sự, tuyệt nhiên chưa lần nào thất bại nên có phần kiêu căng, nay chọi khẩu súng
không trúng con mèo lão đã đủ giận điên lên rồi, lại thêm thất thủ trước La Lão
Oai và thuộc hạ, càng khiến lão điên tiết.
Trong con cả thạn, ngọn
lửa tà ác chợt bừng lên, lão chỉ muốn bóp chết con mèo cho hả giận. Thấy con
mèo què chạy mất dạng, một ý nghĩ léo lên trong đầu lão. Xưa nay đám trộm Xả
Lĩnh vẫn luôn tự xưng tụng là “trộm không rời đạo”, đối với thi thể vương công
quý tộc thì giày tro vò cốt, nhưng với thi thể bách tính nghèo hèn lại muôn
phần trân trọng , gặp phải người nghèo chết thảm giữa đường đều bỏ của bỏ công
mai tang. Tuy rất hiếm người làm theo khuôn phép này, nhưng dù gì đó vẫn là quy
ước trong giới trộm mộ, hôm nay gặp phải lý nào lại bỏ qua? Mặt của Hao Tử Nhị
Cô mất một miếng thịt cũng chẳng sao, nhưng ngũ quan mà thiếu mất một thì còn
ra thể thống gì? Trong tập tục mai tang từ xưa tới nay, giữ gìn dung mạo người
chết ven toàn là việc hết sức quan trọng. Con mèo què này quá đáng ghét, tuyệt
đối không thể tha cho nó, chí ít cũng phải lấy lại cái tai cho Hao Tử Nhị Cô.
Nói thì lâu cứ thực ra
rất nhanh, ý nghĩ vừa léo lên trong đầu,lão liền buông lỏn một câu dặn bốn
người phía sau: “Đừng có ai theo, ta đi rồi về…” Lời còn chưa dứt đã giật tung
chốt cửa lao vọt đi. Con mèo kia chạy rất nhanh, lão không có thời gian suy
nghĩ, còn chậm trễ nữa e là không kịp. Hai chân vừa chạm đất, lão lập tức vận
dụng thuất khinh công Lâm Yến Vĩ lần dấu đuổi theo.
Nhà họ Trần có thuật
khinh công tổ truyền, là kỹ năng thiết yếu của một kẻ đào tường khoét vách hành
tẩu giang hồ, song tuyệt nhiên không thần kỳ như người ta tưởng tượng. Thuật
khinh công này có tên là “Lâm Yến Vĩ”, song không thể đuổi kịp chim én túm lấy
đuôi chim thật, mà người biết thuật chẳng qua lúc nhỏ được tắm bằng nước lá nấu
sôi, gọi là “hoán cốt” khiến cơ thể nhẹ nhàng hoạt bát, sau đó lại khổ luyện
những động tác như phóng, đuổi, trèo leo, nhún, lật… trải qua nhiều năm tôi
luyện., tuy không thể bay lên liệng xuống, phi mái chạy tường, nhưng bản lĩnh
vượt tường nhảy rào thì hơn hẳn người thương.
Nội bộ phái Xả Lĩnh dựa
vào kỹ năng tay nghề cao thấp khác nhau mà xưng hô. Muốn làm đại thủ lĩnh bắt
buộc phải có bản lĩnh “phiên cao đầu”, đây là cách gọi của dân ăn trộm, ám chỉ
khả năng tay không nhảy qua bức tường cao. Lão Trần lúc nhỏ theo đạo sĩ già vào
trong núi sâu, tu luyện mấy năm quả cũng học được vài kỳ chiêu, lại thêm sinh
ra đã có cặp dạ nhãn, trong đêm tối nín thở đuổi gấp vẫn có thể theo sát con
mèo, chốc lát đã xuống sườn núi.
Thời tiết nơi núi sâu
thay đổi thất thường, bấy giờ mưa đã tạnh hẳn, mây đen cũng tan đi, chỉ còn
mảnh trăng mon lạnh lẽo treo lơ lửng giữa trời, con mèo què tuy động tác nhanh
nhẹn, nhưng chạy chậm hơn đồng loại lành lặn nhiều, lão Trần mượn ánh trăng
truy đuổi, nhất thời không đến nỗi mất dấu. Con mèo què dường như cũng biết có
người đuổi phía sau, chẳng kịp nuốt cái tai trong mồm, cứ cắm đầu chạy thục
mạng.
Con mèo què chạy xuống
chân núi, bứt được một quãng, vòng đi vòng lại mấy lần vẫn không cắt đuôi được
lão Trần, bèn nghĩ ra quỷ kế, chui tọt vào rừng cây bên cạnh. Lão Trần đuổi mãi
vẫn không bắt được con mèo, trái lại còn vì đường núi trơn trượt mấy lần suýt
rơi xuống vực. Lão rủa thầm: “Con tặc miêu khá lắm, mất một chân mà còn nhanh
như vậy,” nghiến răng nghiến lợi chạy tới bìa rừng đã chẳng thấy tung tích con
mèo đâu nữa. Nếu cứ tiếp tục đuổi quanh núi thế này, đâu đâu cũng là rừng rậm
thâm u, một khi tiến vào rồi e có ngửa cổ cũng chẳng thấy trời.
Xung quanh vắng lặng
như tờ, xem ra con mèo què đã chạy tít vào nơi rừng sâu núi dốc hiểm trở. Lão
Trần nghĩ mình đã đuổi quá xa, còn theo vào rừng nữa sợ không tìm được đường
về, đành giảm dần tốc độ, tức tối rủa thầm: “Con tặc miêu khốn khiếp, thật gian
xảo quá lắm, để ông mày bắt gặp lần nữa, không thèm lấy mạng mày, hẵng cứ xẻo
một cái chân, để xem mày còn chạy được đến đâu.”
Lão Trần thấy không
đuổi được nữa, đang định quay người đi về, bỗng nghe trong khu rừng vắng lặng
vọng ra từng tràng tiếng mèo kêu “ngoeo… ngoeo…”, tiếng kêu bi thương như than
khóc, lại như sợ hãi run rẩy trước cái chết, mỗi lúc một thảm thiết, giữa đêm
khuya nghe mà nổi da gà.
Lão Trần sinh nghi,liền
dừng lại nghe ngóng, bụng bảo dạ lẽ nào con mèo què gặp phải chuyện gì trong
rừng? Có thể thấy tiếng kêu này cổ quái không lành. Người ta vẫn bảo loài mèo
mạng lớn, rốt cuộc là thứ gì mới có thể khiến nó sợ hãi đến vậy?
Bản tính tò mò nổi lên,
lão muốn đi xem rõ sự tình, bèn nín thở rón rén bước vào rừng cây.
Ánh trăng xuyên qua tán
cây rừng rậm rạp, giúp lão nhận ra một dãy mộ nằm ngay sau gốc cây to, bên trên
bia đá ngổn ngang, cỏ dại um tùm, nhìn giống hệt quang cảnh trong bức tranh cổ
ở nghĩa trang. Con mèo què đang nằm cuộn tròn dưới một tấm bia vỡ, toàn thân
run rẩy, cảnh tượng kỳ dị không ngờ trên tấm bia càng làm trống ngực lão Trần
đập thình thịch.
Chương 8: Rửa Ruột
Dưới ánh trăng mờ ảo,
lão Trần đuổi theo con mèo què vào trong rừng mộ cổ, u u mê mê không biết đã
chạy bao xa. Khu rừng nằm giữa thung lũng, trong rừng toàn cổ thụ cành lá đan
chen, chọc trời đâm đất, nhờ ánh trăng có thể thấy sương mù dày đặc luần quần phía
sâu, cùng tiếng nước chảy róc rách, toát lên vẻ quỷ dị bất thường.
Tiếng kêu run rẩy của
con mèo què phát ra từ sau một gốc cổ thụ, lão Trần áp người vào thân cây, lặng
lẽ thò đầu quan sát, bẩm sinh lão đã có cặp dạ nhãn, trong đêm tối không trăng
không sao đại khái vẫn có thể nhìn thấy lờ mờ. Lúc này trăng tối mây mù không
thể ngăn nổi cặp mắt cú vọ của lão xuyên rừng tìm đến nơi phát ra tiếng mèo kêu
thảm. Thì ra phía sau gốc cây lão đang đứng có một bãi đất trống nằm lọt thỏm
giữa rừng bách cổ thụ, trên khoảnh đất ấy là những phần mộ nhấp nhô nối nhau
chen giữa đám cỏ dại và đá vụn, một dòng suối trong vắt ngang, uốn lượn vào tít
sâu trong rừng, sương đêm giăng kín trên lớp cỏ hoang, che khuất quang cảnh sau
khu mộ.
Giữa hai cây cổ thụ mé
ngoài khu mộ dựng nửa tấm bia mộ, nhìn từ xa không rõ trên đó viết gì, chỉ thấy
tấm bia vỡ cao quá nửa người, trên bề mặt ốp một lớp men nham nhở, xem ra không
phải lối vào mộ cổ thì cũng là di chỉ cổng chào của một nơi thờ phụng đổ nát
nào đó. Con mèo què đang nằm cuộn tròn run rẩy trước tấm bia, cái tai của Hao
Tử Nhị Cô đã được nó nhả ra chỏng chơ dưới đất. Con mèo không ngớt kêu gào
tuyệt vọng, tiếng kêu như ứa máu, như đang khổ sở cầu xin cái bia kia tha mạng.
Lão Trần bản lĩnh cao
cường, to gan lớn mật, nín thở ẩn mình trong bóng cây nơi ánh trăng không soi
tới được, chăm chú quan sát con mèo què đang run rẩy cầu xin, càng nhìn lại
càng lấy làm lạ, bụng bảo dạ: "Quái, con mèo đáng chết này đang làm trò
quỷ gì thế? Sao nó phải sợ tấm bia vỡ kia nhường ấy?". Loài mèo vốn được
ông trời hậu đãi, thân thể mềm mại hoạt bát, hiếm có kẻ thù tự nhiên, nghe nói
chúng có đến chín mạng nên khả năng sinh tồn và lòng can đảm cũng lớn ngang
tính hiếu kỳ. Con mèo này nếu không mất một chân chắc sẽ không bao giờ đi cắn
tai người chết. Nhưng giống mèo càng già càng xảo quyệt, sao lại bị một tấm bia
cổ doạ đến nông nỗi này? Hay là, sau tấm bia còn có thứ gì khác?
Lão Trần càng nghĩ càng
thấy kỳ quái dị thường, bao nhiêu câu hỏi bủa vây, lão chăm chú quan sát tấm
bia đối diện lần nữa, định xem xem đằng sau nó là thứ gì, khốn nỗi sương mù
giăng nhoà giữa bãi cỏ hoang, bia đá lại ở quá xa dù căng hết hai mắt, lão vẫn
không nhìn rõ tình hình sau tấm bia.
Đúng lúc ấy, ánh trăng
hoà quyện vào đám sương đêm lởn vởn giữa rừng cây, một thứ ánh sáng kỳ quái mơ
hồ trùm lên bãi đất trống trước bia đá. Bỗng nhiên một cặp mắt loé lên sau tấm
bia, đảo loạn xạ, tiếp đó một khuôn mặt lông lá từ từ hiện ra, thoạt nhìn ngỡ
là một con cáo, to gần bằng con mèo què, nhưng hình dạng lại giống chồn, đầu to
mồm rộng, lông hoe vàng, định thần nhìn kỹ, thì ra chủ nhân của cặp mắt gian
xảo quỷ quyệtấy là một con báo nhỏ.
Con báo thần thái cổ
quái, bước tới trước mặt con mèo chăm chú quan sát, tiếng kêu của con mèo què
bắt đầu trở nên kỳ lạ, không còn tuyệt vọng sợ hãi như trước nữa mà dần chuyển
sang rên rỉ nhát gừng. Lão Trần nghe tiếng mèo rên mà lòng dạ rối bời, lồng
ngực như bịép chặt, chỉ muốn nhảy xổ ra gầm lên mấy tiếng, lão đành cắn nhẹ đầu
lưỡi, gắng trấnáp tâm trạng bất an, ổnđịnh lại nhịp tim.
Con báo nở nụ cười xấu
xa quỷ dị chăm chú quan sát con mèo què hồi lâu, rồi quay đầu nguẩy đuôiđi về
phía dòng suối. Con mèo què lại kêu lên mấy tiếng, toàn thân cứng đờ chậm chạp
bò theo sau con báo tới bên bờ suối uống nước. Lão Trần thầm nghĩ: “Giở tròđây
mà, thì ra con mèo què này chui vào rừng luyện giọng nửađêm, giờ kêu chán rồi
thìđi uống nước. Mình suýt chút nữa bị mê hồn trận của nó che mắt, chi bằng
nhânđây bắt lấy bẻ chân, dạy cho nó một bài…”
Đúng lúc lão Trầnđịnh
ra tay, bỗng phát hiện ra dáng vẻ uống nước của con mèo không được bình thường.
Con mèo ba chân cứ như hồn ma chết khát đầu thai, điên cuồng uống nướcừngực,
uống đến khi nước tràn ra cả mũi mồm mới thôi, rồi lại như trúng ma chướng
nằmềnh ra đất, tựép cái bụng căng tròn vì uống quá nhiều nước tới mức nôn thốc
nôn tháo. Con báo nhỏ giống như một hồn ma, lặng lẽ ngồi bên quan sát con mèo
què.
Nôn hết nước trong
bụng, con mèo ba chân lạixiêu vẹo bò đến bên dòng suốiuống nướcđiên cuồng, cứ
như vậy mấy lần. Lão Trần kinh ngạc quá đỗi, đời lãođã trải qua bao nhiêu
chuyện cổ quái, nhưng chưa từng gặp chuyện nào kỳ dị thế này. Hình như con mèo
quèđang dùng nước suối để rửa ruột, lẽ nào da thịt trênthi thế Hao Tử Nhị Côđã
ngấm độc cương thi? Con mèo quèăn thịt xác chết rồi mới phát hiện ra có độc,
bèn dùng cách này để tự cứu mình?
Giả thiết này vừa
thoáng qua trong đầu đã bị lão gạtđi ngay. Lão Trần là người dạn dày kinh
nghiệm, biết chắc thi độc trong xác Hao Tử Nhị Cô còn chưa ngấm vào da thịt
dưới mặt, con mèo què dù cắn vài miếng trên mặt xác cũng không thể nguy đến
tính mạng.
Vả lại nhìn con mèo què
thần khí đờ đẫn như bị nhập hồn, hoàn toàn mất hết sinh khí, tiếng kêu thảm
thiết khiến người ta nghe mà rợn tóc gáy của nó khi nãy cũng tuyệt đối không
phải giả vờ. Nhấtđịnh con báo trong khu rừng già này có tà thuật gìđó làm nó
khiếp sợ. Nghĩ đến đây lòng bàn tay lão túa mồ hôi, nhưngáng chừng dựa vào bản
lĩnh của mình muốn thoát thân cũng không khó, lãoâm thầm tính toán: “Trước mắt
cao chạy xa bay e rằng kinh động đến lũ yêu quái trong rừng, không khéo lợn lành
chữa thành lợn què, thà rằng cứ nấpởđây, xem rốt cuộc con báo kia giở trò gì.
Nếu tiện thì khử luôn, quay về cũng dễ huênh hoang với bọ La Lão Oai, biết ta
đây trải qua chuyện ly kỳ cổ quái này, sau này bọn chúngắt phải nhìn ta bằng
con mắt khác.”
Dướiánh trăng huyềnảo,
lão Trầnẩn mình cuối ngọn gió nên con báo rất khó phát hiện ra. Lão nín thở
chăm chú quan sát hành động bất thường của con mèo què. Kể cũng lạ, chỉ thấy
con mèo cứ uống vào nôn ra, nôn ra uống vào hết lần này đến lần khác, dịch mật
trong ruột đều nôn sạch, đã bắt đầu thổ ra máu màuđỏ sẫm, vậy mà nó vẫn quyết
không chịu kêu lên một tiếng. Cuối cùng khi chẳng còn gì để nôn nữa, nó mới lăn
ra đất, giươngđôi mắt tuyệt vọng vô hồn nhìn lên vầng trăng tròn giữa bầu
không, co vuốt cụpđuôi, chờ đợi cái chết cận kề.
Con báo bấy giờ mớiđi
vòng quanh con mèo quèđang co quắp dưới đất, lão Trần hiểu rõ, đã đến thời khắc
quan trọng, lập tức giương cao tinh thần phòng bị, vừa quan sát kỹ càng mọi
động tĩnh trong rừng, vừa từ từ hạ thấp trọng tâm cơ thể, đầu gối khuỵu xuống,
sẵn sàng bỏ chạy nếu có bất trắc.
Chỉ thấy con báo tựa
nhưđang dạo chơi dướiánh trăng, bộ lông tơ màu vàng điểm xuyết những đốm hoa
văn loang lỗ, thật vô cùng hiếm thấy. Lão Trần xưa nay chưa từng gặp con báo
nào có bộ lông như vậy, lòng sinh ngờ vực: “Nghe nói loài báo thíchđào hầm
trúẩn trong mộ phần, rất giỏi mê hoặc lòng người, lẽ nào con báo này vừa chui
lên từ dưới mồ? Lẽ nào con mèo què đã bị nó dùng tà thuật khống chế? Người miền
núi Tương Tây gọi báo là Hoàng yêu, lần này e gặp phải Hoàng yêu thật rồi…”
Trong lúc lão Trầnđang
thần người nghi hoặc, con báođã chầm chậm đến bên con mèo què, đưa chân trước
khều khều cái bụng mèo phưỡn lên, cười khằng khặc như tiếng vọănđêm. Lúc này
con mèo ba chânđã mất hết thần trí, để mặc con báo dày vò, cơ thể chỉ run lên
khe khẽ, như thể biết rằng cái chết đã đến gần. Toàn thân nó cứng đờ, trong đôi
mắt mèo vô hồn bỗng lộ vẻ bi thương ai oán, ánh mắt chất chứa nhữngức uất bất
lực, hai hàng nước mắt tuôn rơi.
Con báo chốc chốc lại
dùng chân chọc chọc vào những chỗ mềm mại trên cơ thể con mèo què, đắcý thưởng
thức dáng vẻ khổ sở cầu xin của nó. Trêu chọcđã chán, nó liền cúi đầu thè lưỡi
liếm bụng con mèo. Không biết lưỡi con Hoàng yêu này dài tớiđâu mà trong chớp
mắtđã liếm khắp một lượt, lột sạch bộ lông mèo. Con mèo què vốnđã mặt gian mày
xảo, xấu xí khó coi, giờ bị lột sạch lông trơ lại bộ da, chỉ còn hai con mắt
động đậy, dướiánh trăng trông càng muôn phần kỳ quái.
Con báo lại giơ một
chân trước xoa xoa lên cái bụng bóng loáng của con mèo, chỉ trong giây lát, con
mèo quèđáng thương đã bị mổ sống. Cỗ lòng mề bày ra nguyên vẹn trước mắt báo
như một bữa tiệc linh đình, nó bắt đầu rứt từngđoạn ruột mèo đãđược rửa sạch
sẽ. Lúc này con mèo què vẫn chưa tắt thở, đuôi và chân không ngừng giật giật vì
quáđau đớn. Con báo không chút động lòng, sau khi rút hết mớ ruột mèo, nó bắt
đầu cắn cổ mèo uống máu, mãi đến khi ấy con mèo què mới trợn trừng hai mắt,
trút hơi thở cuối cùng.
Lão Trần thấy thế thầm
kinh ngạc: “Trên đời này vật nọ trấnáp vật kia, con mèo què hôm nay gặp phải
khắc tinh, ngay đến cơ hội phản kháng cũng không có, còn sợ hãi đến nỗi tự mình
rửa sạch ruột dâng cho kẻ thù. Không biết con báo kia dùng tà thuật gì mê hoặc
tâm trí con mồi, vờn giỡn chán chê rồi mới nhai ruột uống máu, thủđoạn thật là độcác.”
Con mèo khá lớn nên con
báo chỉ uống mấy ngụm máu đã thấy no, không thèm ngó đến cái xác mèo phanh
thây, nó kéođoạn ruột mèo vừa moi được quay đầuđi ra sau tấm bia cổ. Lão
Trầnđoán chừng nóđãăn uống no nê giờ trở về hang, nơi này không thểở lâu, phải
mau đi nhặt cái tai xác chết đặng về làm bằng chứng với bọn La Lão Oai, không
lại mang tiếng nói suông.
Nghĩ vậy, nhân cơ hội
con báo chui vào sau tấm bia, lão liền nhẹ nhàng nhảy khỏi chỗ nấp, vừa rồi
bụng dạ lộn tùng phèo trước cảnh tượng tanh tưởi báoăn thịt mèo, lão không biết
con báoấy lợi hại đến mức nào nên không dám manh động, chỉ muốn nhặt lấy cái
tai Hao Tử Nhị Cô rơi dưới đất rồi lập tức chạy về.
Trong khu rừngđâuđâu
cũng toát lên vẻ quỷ dị, tuy có gió núi thổi qua, nhưng nhữngđám sương mù lẩn
quất giữa bãi cỏ hoang vẫn không chịu tảnđi, hơn nữa chỉ ngưng tụở độ cao cách
mặt đất hai ba thước. Lão Trần càng tới gần vị trí của cái tai thì lại càng gần
với tấm bia vỡ, tầm nhìn tuy đã được rút ngắn nhưng phía sau tấm bia vẫn tốiđen
như mực, không thể nhìn thấy thứ gì.
Lão hít một hơi thật
sâu, cau mày mò mẫm đến bên xác con mèo què, nhặt lấy cái tai Hao Tử Nhị Cô
trên bãi cỏ, thầm nghĩ cuối cùng Hao Tử Nhị Cô cũng có thể thi thủ vẹn toàn an
táng được rồi. Bà ta kiếp này số khổ, nếu có kiếp sau cũng không phải làm người
phá tướng thiếu khuyết ngũ quan. Lần này chu toàn thi thể cho bà ta, không đến
nỗi huỷ hoại danh tiếng phái Xả Lĩnh, bằng không để chuyện con mèo què chạy
thoát trước mặt đồn ra ngoài, e rằng khó nghe.
Lão Trầnđã toại nguyện,
cũng không muốn làm kinh động tới con báo đằng sau tấm bia, liền nhặt lấy cái
tai lẳng lặngđịnh đánh bài chuồn, nhưng chưa kịp xoay người, từ đằng sau tấm
bia vỡđã vọng ra tiếng nhai thịt chóp chép. Lão theo phản xạ ngẩng đầu nhìn
lên, lập tức cơ bắp toàn thân cứng đờ, ánh mắt cũng như bịđóng băng. Trước mắt
lão là một bà già gầy đến mức chỉcòn da bọc xương, mặc quầnáo tang trắng, cưỡi
trên con lừa nhỏ lông trắng như tuyết, vẻ mặt nửa người nửa ma, đứng lặng sau
tấm bia vỡ trân trân nhìn lão.
Cặp mắt bà ta tuy sáng
quắc nhưng thân hình lại quá gầy gò, giống như xác khô vừa chui ra khỏi hầm mộ,
trên người có lẽ ngoài da chỉ còn xương, không thấy tí thịt nào, ngay đến da
cũng khô khốc, nhăn nheo xù xì như vỏ câyđại thụ, không có chút sắc máu. Bà ta
thấp đến lạ lùng, đứng thẳng vẫn chưa nổi ba thước, trên đầu đội mũ có búi
trắng trênđỉnh, đôi chân bé tíđi giày trắngđúng chuẩn gót sen ba tấc, phùng
mang trợn mắt nhai lấy nhai đểđoạn ruột mèo trong mồm. Con báo ban nãy vừa giết
chết con mèo, ngoan ngoãn ngồi bên con lừa trắng, cũng nhìn lão Trần đầy vẻácý.
Da đầu lão Trần như
muốn nổ tung, bụng thầm than khổ: “Ối cha mẹơi, là Bạch Lão thái thái hiển linh
đây mà, bà ta tuyệt đối, tuyệt đối không phải người, có quỷ mới biết bà ta là
thứ quái vật gì. Gặp phải bà ta ở nơi núi rừng heo hút này, mạng mình coi như
xong rồi.” Lão Trần tuy biết rõ sự chẳng lành, phải quay đầu bỏ chạy ngay,
nhưng không hiểuánh mắtác độc của bà già gầy gò kia có phép thuật gì mà hễ nhìn
vào là khiến người đối diện bỗng chốc tê liệt toàn thân, bắt đầu run lên cầm
cập từ trong ra ngoài. Lão Trần bị bà ta nhìn đến nỗi hai chân mềm nhũn, đổ oặt
ra đất, cả người duy chỉ có tròng mắt là còn động đậy được. Chỉ thấy Bạch Lão
thái thái mồm nhai ruột mèo, bên mép vẫn còn dính vài vệt máu, nghẹo đầu nhìn
lão Trầnđang ngã lăn ra đất, bỗng nhiên bà ta cất lên một tràng cười trầmđục cổ
quái, thúc con lừa trắng tiến lại phía lão.
Chương 9: Bia Báo Cổ
Lão Trần bắt gặp ánh
mắt của Bạch Lão thái thái trong bãi tha ma thì hồn bay phách lạc, long tóc
dựng đứng, toàn thân ớn lạnh, hai đầu gối nhũn ra, đầu óc tuy vẫn còn tỉnh táo
nhưng chân tay lại không chịu nghe lời, khắp cơ thể ngoài mắt và họng, còn lại
đều không thể nhúc nhích.
Lão thầm nhủ: “Không
hay rồi, nghe nói vào thời Ngũ Đại có nhiều tay kiếm khách hành tung kỳ quái,
tinh thông dị thuật, trong khoảng cách ngàn dặm vạn dặm có thể thoắt đến thoắt
đi. Cũng có kẻ cưỡi lừa đen lừa trắng, ngày đi được ngàn dặm, bình thường không
thấy lừa đâu, đến khi cần mới cắt giấy thành hình lừa, thổi một luồng khí là
lừa xuất hiện. Con lừa của Bạch Lão thái thái trắng muốt như tuyết, không có
lấy một sợi lông đen, xem ra không phải phàm vật chốn nhân gian, mụ già này
chắc chắn không thể coi thường, tiếp đến sẽ phi kiếm lấy đầu Trần mỗ ta cho
xem.”
Nhưng nghĩ lại, cũng
thấy kỳ lạ, kiếm khách thời xưa luôn có dáng vẻ thoát tục siêu phàm, còn Bạch
Lão thái thái này lại ăn ruột mèo chết, tướng mạo gian tà, làm sao là kiếm
khách được.
Chính trong khoảnh khắc
ấy, lão Trần tưởng như đã cận kề cái chết đột nhiên tỉnh ngộ. Là người thông
hiểu phương thuật, lão biết mình đang trúng phải thuật Viên quang. Người Trung
gọi phương pháp nhiếp hồn mê hoặc là “viên quang”, còn người phương Tây gọi là
“thôi miên”, tên gọi khác nhau nhưng đều cùng một bản chất. Hẳn là con mèo què
cũng trúng phải thuật “viên quang” nên mới để con mặc con báo rửa ruột mổ bụng
mà không hề phản kháng như vậy.
Lúc này Bạch Lão thái
thái đã cưỡi lừa tới bên lão Trần, con báo nhỏ cạnh mụ ta cũng đứng thẳng lên,
nhìn lão Trần chăm chăm, cười khằng khặc chế nhạo, tiếng cười khàn sống sượng
khiến người nghe run rẩy muốn chết. Cuối cùng lão Trần đã hiểu được cảm giác
của con mèo què khi nãy, cổ họng lão lúc này chỉ có thể phát ra những âm thanh
ú ớ lạ lùng, cơ thể quá căng thẳng nên dây thanh đới cũng run lên bần bật.
Lão Trần biết loài báo
thành tinh giỏi mê hoặc lòng người, nhưng không ngờ lại lợi hại đến mức này,
tinh thần lão vẫn còn minh mẫn, biết rằng trước mắt cơ thể không nghe theo lý
trí, chỉ lát nữa thôi, đầu óc lão sẽ dần trở nên mơ màng, tự đi rửa sạch ruột
giống con mèo què, rồi bó tay chịu chết, mặc cho con báo và Bạch Lão thái thái
chia nhau ăn thịt. Nghĩ tới kết cục bi thảm ấy, thật là não lòng.
Lòng nguội ngắt, lão đã
định nhắm mắt chờ chết thì phát hiện ra toàn thân cứng ngắc, ngay đến mí mắt
cũng không khép lại được, bụng thầm rủa một lượt tổ tông mười tám đời nhà con
báo và mụ già gầy đét kia. Hôm nay chết vất vưởng ở đây, e rằng xương cốt cũng
chả còn, chỉ còn cách chết rồi biến thành quỷ dữ, tìm về báo thù rửa hận, thù
này không báo, lão chẳng còn mặt mũi nào đi gặp liệt tổ liệt tông.
Chó cùng rứt giậu, lão
Trần đương nhiên không cam lòng để con báo moi ruột, nhưng lão càng gắng sức
thì thân thể càng không nghe lời, trái lại còn gây ra một tác dụng phụ kỳ quái,
tựa như mọi sức lực đều dồn lên cổ họng, khiến lão liên tục phát ra những âm
thanh quái dị. Đột nhiên lão nhớ ra cách lật ngược tình thế cứu mình thoát
chết, trúng phải loại tà thuật này, chỉ cần tự cắn rách đầu lưỡi, toàn thân
chịu trấn động mạnh, chưa biết chừng có thể thoát khỏi sự khống chế của Bạch
Lão thái thái.
Nhưng hai hàm răng lão
cũng đã cứng ngắc, cảm giác tê liệt từ dưới đang dần lan lên trên, từ hai con
mắt trở xuống ngây độn như tượng gỗ, muốn cắn đầu lưỡi cũng không được nữa rồi.
Lão thầm nghĩ: “Xong rồi, xong rồi, đại nghiệp còn chưa thành đã phải chết dấm
chết dúi trong cái rừng mộ cổ này…”
Ngay khi lão Trần mất
hết lý trí, con béo sẽ lập tức dẫn lão tới bên dòng suối rửa ruột. Nhưng may
sao, xem như số lão vẫn chưa đến đường tuyệt, đúng lúc đó, từ trong rừng mộ cổ
bỗng vang lên một chuỗi âm thanh vạch cỏ rẽ cành, chỉ nghe đằng đó có tiếng
người sang sảng đọc to: “Trời đất có chính khí, tỏa ra cho muôn loài, là sông
núi dưới đất, là trăng sao trên trời, đầy rẫy cả vũ trụ, khí hạo nhiên của
người…”
Từng câu từng chữ trong
bài “Chính khí ca” ngùn ngụt chính khí hiên ngang giữa đất trời, chuyển để trấn
nhiếp gian tà yêu ma. Lão Trần vừa nghe đã cảm thấy toàn thân nhẹ nhõm, trí
giác khôi phục mấy phần, đầu có tỉnh táo lại, liền biết ngay có cao nhân trợ
giúp, mạng mình coi như được cứu rồi, nhưng không biết là anh hùng phương nào
có tấm lòng trương nghĩa, mở mồm định hỏi song cơ thể tê liệt quá lâu, chưa
thốt được nên lời.
Mụ già cưỡi con lừa
trắng vô cùng khiếp đảm, mặt biến sắc, mắt lấm lét hết nhìn trái lại nhìn phải.
Con béo nhỏ bên cạnh mụ ta cũng sợ hãi chẳng kém, run rẩy trốn dưới chân con
la, không thôi tò đầu thò cổ ra nghe ngóng.
Lão Trần nhìn thấy ba
thanh niên người Miêu, hai nam một nữ đang rẽ cỏ đi ra, trông cách ăn vận thì
đều là người Băng Gia Miêu, sau lưng mỗi người đeo một cái sọt tre to tướng,
không biết bên trong đựng những gì.
Cô gái Miêu tay cầm ô
hoa đi đằng trước. Người Băng Gia Miêu có phong tục con gái ra khỏi nhà đều
phải mang theo ô, còn phải dùng dây lưng hoa quấn eo, những thứ này đều có tác
dụng phòng ngừa rắn độc và xua đuổi ma núi. Lão Trần nhìn rõ mọi chuyện, lúc
này mồm cũng đã nói được, bèn chẳng màng thân phận gì nữa, vội vàng liến
thoắng: “Tiên cô ơi, tuy tôi mặc quần áo Tát Gia nhưng cũng là người Mãnh Gia,
xin hãy ra tay cứu mạng, tôi nhất định sẽ hậu tạ.”
Lão Trần giỏi mưu mô
tính toán, thấy họ là người Miêu thì vội vàng xưng rõ gia môn, nhận mình là
người Mãnh Gia. Mãnh cũng chính là Miêu, đều là người Miêu với nhau cả, cô ta
lẽ nào thấy chết mà không cứu?
Không ngờ ba người Miêu
kia không hề để ý đến lão, miệng lầm rầm vây quanh mụ yêu phụ cưỡi lừa, xòe ô
hoa chĩa vào mụ ta, thì ra trên mấy chiếc ô đều gắn rất nhiều mảnh gương chuyên
dùng để phá thuật Viên quang. Lão Trần chỉ cảm giác sương đen dưới trăng đồng
loạt dạt đi, đầu óc cũng tỉnh táo vài phần, định thần nhìn lại, trước tấm bia
vỡ làm gì có Bạch Lão thái thái nào.
Chỉ thấy một con báo
toàn thân trốc xám loang lổ cưỡi trên lưng một con thỏ trắng rõ to. Con báo da
bọc xương, bộ lông trên mình đã trụi gần hết, chỉ còn lại lớp da già nua màu
xám khô đét, nhưng hai con mắt sáng quắc vẫn lấm lét dán vào ba người Miêu
trước mặt. Bị vây trong ba chiếc ô gương, con báo nhỏ lông vàng đốm hoa kinh hoàng
hoảng loạn, chỉ biết xoay quanh một chỗ, vẻ dương dương tự đắc lúc đầu đã hoàn
toàn biến mất.
Lão Trần biết rằng
thuật Viên quang của con báo già đã bị ba người Miêu phá bỏ, phép thuật vừa mất
nó bèn hiện nguyên hình, lão cũng thấy cơ thể đã có thể cử động, bèn bật người
lên như cá chép, xông tới định giết chết con báo rửa hận.
Con báo già thấy những
người mới đến không dễ dây dưa, biết rằng đã gặp chuyện chẳng lành, bèn thúc
con thỏ đang cưỡi một cái. Con thỏ cõng nó trên lưng lao vào cô gái Miêu trước,
khi sắp đụng phải cô gái thì đột ngột chuyển hướng, vòng trở lại tấm bia vỡ,
đứng trên tấm bia nhảy vọt lên không, định dùng kế dương Đông kích Tây, nhân
lúc ba người Miêu trở tay không kịp, nhảy qua đầu một người bỏ chạy.
Người ta thường ví
“nhanh như thỏ”, bởi loài động vật này khi chạy trốn có một tốc độ phi thường,
có thể sánh ngang chớp giật. Lão Trần nhìn hoa cả mắt, chỉ còn biết kêu: “Hỏng
rồi, để nó xổng mất rồi.”
Không ngờ cú nhảy của
con thỏ tuy nhanh nhưng thân thủ người Miêu còn nhanh hơn, đúng lúc nó cõng con
báo nhảy vọt qua đầu một người Miêu, người đó bỗng thét lên một tiếng, lộn
người nhanh nhẹn không kém chim bay, lăng không tung ra một cú đá móc Tử Kim
Quán thần tốc, nhắm trúng mục tiêu. Con báo và con thỏ tức thì trúng cước bay
văng đi, đập vào tấm bia vỡ, xương cốt gãy răng rắc.
Con báo già trúng đòn
xương cốt nát nhừ, thân mình mềm oặt rơi xuống bãi cỏ nằm bất động. Con thỏ
cõng nó bị gãy một chân sau, mồm ộc máu tươi, lê cái chân gãy nhảy như bay vào
bãi cỏ hoang, nhanh chóng mất dạng.
Trên tấm bia vỡ còn con
báo nhỏ, chính là con đã moi ruột con mèo què, chẳng cần hai người Miêu còn lại
tới bắt, nó đã đập đầu vào tấm bia đá, trợn ngược hai mắt, nôn mật mà chết. Đồ
nhát gan này đã bị cảnh tượng chết thảm của con báo già dọa cho chết khiếp.
Lão Trần mắt tròn mắt
dẹt nhìn gà người Miêu một cước đá chết con báo, hai từ “ác liệt” cũng chẳng
thể diến tả hết sức mạnh ghê gớm đó. Lão Trần là người đi nhiều hiểu rộng, biết
cú đá vừa rồi rõ ràng không phải đá móc Kim Tử Quán gì trong võ thuật, mà chính
là thế “Khôi Tinh Thích Đẩu” của đạo nhân Ban Sơn chuyên dùng để đá cương thi,
sao gã người Miêu này lại biết tuyệt kỹ của Ban Sơn đạo nhân? Trừ phi…
Trong lúc lão Trần còn
mải băn khoăn, gã người Miêu đá chết con báo đã tiến lại gần, nói với lão bằng
ám ngữ của giới lục lâm: “Hái sao phải mời Khôi Thinh thủ, Ban Sơn chẳng dời
Thường Thắng Sơn; hương đốt toàn long phụng như ý, nước uống thảy tứ hải ngũ
hồ.”
Lão Trần nghe mấy cụm
từ quen thuộc, “Thường Thắng sơn” chính là ám chỉ phái Xả Lĩnh, lại nhắc đến
“Khôi Tinh’ với “Ban Sơn chẳng dời Thường Thắng sơn” thì biết ngay đối phương
là thủ lĩnh Ban Sơn đạo nhân. Lão bất giác đỏ bừng mặt, thầm rủa tay đạo sĩ rởm
chuyên giết người phóng hỏa này quả không trượng nghĩa, đến Tương Tây mà không
mặc đạo bào, lại đi cải trang thành người Miêu Băng Gia, hại lão ban nãy hoảng
loạn không nhận ra, còn bẽ mặt cầu xin. Nhưng giang hồ vốn lấy chữ ‘lễ” làm
đầu, lão thân làm thủ lĩnh Thường Thắng sơn, đương nhiên không thể thất thố,
bèn đáp lại theo quy tắc lục lâm: “Thường Thắng sơn có cao lâu, anh hùng bốn
phương họp lại, long phụng như ý thâm giao, tứ hải ngũ hồ dào dạt.”
Lễ trả xong liền nghe
gã người Miêu kia bật cười ha ha, chắp tay nói: “Trần huynh, vẫn khỏe chứ, nếu
tiểu đệ nhớ không nhầm thì Trần lão đại là người Hán Tát Gia, vừa nãy sao lại
đổi môn đình, tự xưng là người Miêu Mãnh Gia thế? Không phải là muốn bỡn cợt
bọn tôi đấy chứ?”
Lão Trần ưa giữ thể
diện, vội tìm lý do lấp liếm, nói tổ tông nhà mình đích thị là người Miêu, chỉ
vì trà trộn với người Hán quá lâu nên thường quên mất nguồn cội, khi nãy nhìn
thấy bóng dáng người Miêu bỗng nhiên cảm giác rất chi gần gũi, dẫu sao thân hay
không cũng là người đồng hương, ngọt hay không cũng là nước quê nhà, một cay
bút sao có thể viết ra hai chữ “Miêu”.
Thì ra ba người Miêu
này đều là Ban Sơn đạo nhân, gã thủ lĩnh biết sử dụng “Khôi Tinh Thích Đẩu” gọi
là Gà Gô. Phép thuật của phái Ban Sơn đã truyền được không dưới hai ngàn năm,
người tài kẻ sĩ liên tục ra đời, nhưng đa số đều là tuổi trẻ tài cao hào quang
sớm tắt. Bọn họ xưa nay chỉ âm thầm đào mồ quật mả, tuyệt không giao du với
người ngoài, nghe thiên hạ rỉ tai nhau rằng “Ban Sơn đạo nhân xới mộ cổ hòng
cầu tiên dược bất tử”, không biết thực hư thế nào.
Đến thời Dân Quốc, phái
Ban Sơn càng suy tàn, may sao trong đám đạo nhân nổi lên một kẻ có thể lấy một
chọi trăm như Gà Gô. Anh ta thấy neeus chỉ dựa vào số đạo nhân Ban Sơn ít ỏi
còn sót lại, việc kiếm tìm tiên dược thực khó hơn bắc thang lên trời, đành phá
bỏ điều cấm kỵ từ ngàn năm, thuyền xuyên trao đổi thông tin với Xả lĩnh lực sĩ.
Xả Lĩnh lực sĩ biết rằng Ban Sơn đạo nhân chỉ thích kiếm tìm tiên dược, không
ham hố bạc vàng, lại thêm Gà Gô bản lĩnh cao cường, đối đãi với người khác
khảng khái nghĩa khí, cho nên cũng muốn kết giao với anh ta.
Lão Trần và Gà Gô là
đại thủ lĩnh hai phái Xả Lĩnh và Ban Sơn đương thời, biết nhau đã lâu, tuy là
huynh đệ kết bái tương giao, nhưng chuyện lễ tiết vẫn cứ phải giữ, bèn tiên
phát lại lần nữa ngay trong rừng. Hỏi ra mới hay, hai người một nam một nữ còn
lại đều là sư muội sư đệ đồng tông đồng tộc với Gà Gô, người nữ tinh thông dược
tính của muôn loài hoa cỏ, đạo danh Hoa Linh, người nam mang dòng máu Sắc Mục,
tóc trên đầu xoăn tít, dáng dấp không giống người Trung Nguyên, đạo danh là Lão
Tây. Đạo danh không giống đạo hiệu, mà là tên lóng và biệt hiệu của Ban Sơn đạo
nhân. Hai người này tuổi mới đôi mươi, kinh nghiệm non nớt, nhưng trong đám Ban
Sơn đạo nhân, Gà Gô cũng không còn trợ thủ nào khác, đành tạm dẫn họ theo.
Ba người bọn Gà gô định
đến vùng giáp giới Tương Kiêm đào mộ Dạ Lang Vương, bên ấy lắm động dân sinh
sống, mặc đồ đạo gia sẽ rất bất tiện nên họ cố ý cải trang thành người Miêu
Băng Gia. Trên đường ngang qua Lão Hùng Lĩnh, nghe nói có Hoàng yêu ẩn náu
trong bia miếu cổ, dùng thuật Viên quang hại người, không biết đã giết bao mạng
người vô tội, bèn đội mưa vòng đường núi tới định định trừ khử Hoàng yêu, may
sao vừa khéo cứu được mạng lão Trần.
Gà Gô bảo Lão Tây và
Hoa Linh mỗi người xách một cái xác báo, đoạn chắp tay cáo biệt lão Trần: “Cánh
chúng tôi quanh năm vất vả bôn ba, không có lấy nửa ngày nhàn hạ, giờ thân mang
việc gấp, hẹn ngày tái ngộ, xin được cáo từ.”
Lão Trần tức tốc thầm
nghĩ, thấy mấy cái sọt sau lưng đám Ban Sơn đạo nhân có vẻ nằng nặng, hẳn là
đựng khí giới đào mộ. Thuật Ban Sơn Phân Giáp là tuyệt học trong nghề trộm mộ,
chi bằng nhờ họ giúp một tay, phá được cổ mộ trong Bình Sơn rồi, mình sẽ đoạt
lấy vàng bạc châu báu, còn đơn dược thì phần cho họ. Xưa nãy lão chưa từng động
đến mộ cổ đời Nguyên, e có chút khó khăn, nếu có thể hợp sức hai phái Ban Sơn
Xả Lĩnh thì lo gì đại sự không thành? Cuộc trao đổi này nhất định có lợi, nghĩ
vậy lão vội kể về ngôi mộ cổ đời Nguyên trên Lão Hùng Lĩnh, có ý mời Ban Sơn
đạo nhân ra tay tương trợ.
Gà Gô nghe nói Bình Sơn
xa xưa vốn là nơi luyện đan cầu dược của Hoàng đế thì lập tức xiêu lòng. Nhưng
vụ quật mộ Dạ Lang Vương đã ấp ủ nửa năm nay, giờ chỉ còn sáu bảy ngày là hoàn
tất, trong khi ngôi mộ cổ Bình Sơn vẫn rất mù mờ, sợ khó bật ngay được, bèn hẹn
với lão Trần sau khi đào xong mộ Dạ Lang Vương sẽ lập tức quay lại Bình Sơn hợp
tác với Xả Lĩnh lực sĩ, từ giờ cho đến lúc đó, lão Trần hãy cứ dẫn người đi dó
thám trước địa hình.
Mộ cổ đời Nguyên trôn
sâu táng lớn, song cũng chả là gì đối với thuật Ban Sơn Phân Giáp. Có điều từ
khi đặt chân tới Lão Hùng Lĩnh, Ban Sơn đạo nhân phát hiện ra trong núi sâu
thường xuất hiện hai dải cầu vồng vắt lên trời, chỉ biến mất khi bình minh lên,
giờ vẫn không rõ là bảo khí vàng bạc châu báu trong mộ cổ, hay là yêu khí chốn
rừng sâu.
Chương 10: Thám Bình Sơn
Thủ lĩnh Ban Sơn Gà Gô
cảnh báo lão Trần, anh ta từng thấy trong núi sâu có khí mây không lành, tuy
nói mộ cổ nếu chứa bảo vật châu báu quý hiếm thường có mây lành vấn vít nhưng
cũng không loại trừ khả năng chốn núi sâu rừng thẳm có ẩn nấp yêu ma. Nói đoạn
anh ta chỉ vào hai cái xác báo, ý bảo bằng chừng đấy, rồi dặn dò lão Trần dẫn
quân thám thính nhất định không được lơ là cảnh giác, muốn quật mộ cổ Bình Sơn
phải dùng kỳ thuật mới xong, đợi mấy hôm nữa hai bên hội ngộ bàn bạc kỹ lưỡng
cũng chưa muộn.
Lão Trần không phản đối
cũng chẳng đồng ý, chỉ gật gật đầu, lão muốn khi về vênh vang với đám đàn em,
bèn hỏi xin Gà Gô xác con báo già.
Gà Gô ngậm ngùi đồng ý:
“Thịt báo tuy chua nhưng xương báo trăm tuổi đem nghiền vụn có thể làm thuốc
chữa bệnh thần kinh, là loại dược liệu vô cùng quý hiếm. Con báo xám đốm tráng
này đạo hạnh uyên thâm, nhưng chậm chạp hom hem chắc chưa tu thành kim đơn.
Thịt nó già nhách không thể ăn nổi nhưng xương cốt vẫn có thể lấy làm thuốc,
hoặc chế hương mê.”
Lão Trần nói tiếng cảm
ơn, rồi nhận lấy xác con báo già. Lão biết thuật Viên quang của Trung Quốc cổ
đại chia làm hai phái thật giả, người biết thuật Viên quang thật trong quá
trình “viên quang” thực sự có khả năng nhìn thấy một số thứ, có thể phân biệt
được những đồ vật con người từng gặp qua, có điều phải mời thần tiễn thần, bùa
chú cũng lên đến trăm loại vô cùng ảo diệu rườm rà; còn thuật Viên quang giả là
thủ đoạn lừa đảo của đám thuật sĩ giang hồ, đầu tiên lấy nước kiềm vẽ hình
người lên giấy, sau phun nước là có thể hiện hình.
Con báo này làm ổ ở
trong mộ hoang, bao năm nay vung vãi nước đái lên cây cỏ xung quanh, không màu
không mùi ai bước chân vào địa bàn này sẽ bị nó mê hoặc tâm trí, trừ phi có
ngoại lực tác động, người trúng thuật mới có thể tỉnh táo lại, nếu không chỉ còn
cách mặc nó xâu xé, đây giống như thuật Viên quang thực sự. Con báo già cũng
phải tập trung toàn bộ tinh lực để thi thuật, khiến người ta đầu óc mụ mị nhìn
ra những cảnh tượng cổ quái. Nhưng hễ người bị hại tỉnh lại, kể thi thuật sẽ
phải gánh hậu quả, con báo già lõi đời xảo quyệt còn có thể bỏ chạy, chứ như
con báo nhỏ không chịu nổi, liền nôn thốc mật mà chết.
Có xương cốt con Hoàng
yêu này nghiền thành bột, uống vào có thể hóa giải mọi loại ma thuật. Lão Trần
lấy xác con báo, từ biệt ba vị Ban Sơn đạo nhân, tìm đường quay về nghĩa trang
trên núi, lúc này trời cũng đã tảng sáng.
Suốt cả đêm, bọn La Lão
Oai đứng ngồi không yên, nghĩ Trần thủ lĩnh gặp bất trắc trong núi, chia nhau
đi tìm mấy lượt mà không thấy bóng dáng lão đâu. Đang định điều binh lên tìm
kiếm thì thấy lão Trần lững thững từ dưới chân núi đi lên, vừa đi vừa cao giọng
ngâm nga: “Trời đất có chính khí, tỏa ra cho muôn loài, là sông núi dưới đất,
là trăng sao trên trời…”, cử chỉ nhàn nhã ung dung, thần thái phi phàm thoát
tục, cà bọn vô cùng bái phục, thầm ngưỡng mộ Trần lão đại quả nhiên xuất khẩu
thành thơ, vội vàng chạy ra đón rước.
Lão Trần rất biết dát
vàng lên mặt, thêm mắm giặm muối kể lại đầu đuôi sự tình, nào là lão đuổi theo
con mèo què ra sao, lạc vào rừng mộ cổ thế nào, rồi trong tấm bia cổ có con báo
già dùng yêu thuật hại người, lão liền tiện tay trừ khử, lúc quay về lại gặp
một đám Ban Sơn đạo nhân, bọn họ cứ khẩn khoản níu giữ nên lão đành ở lại cùng
bàn tính kế hoạch đào mộ đến tận lúc trăng lặn đằng Tây, thành ra mới dây dưa mất
mấy canh giờ. Nói xong lão quẳng xác con báo già cùng cái tai người chết xuống
đất cho bọn La Lão Oai ngắm nghía thỏa thích.
Bọn La Lão Oai và Hoa
Ma Linh cứ trầm trồ mãi, tán dương lão Trần thân thủ cao cường, con báo thành
tinh này gian xảo là vậy mà trúng phải một cước của đầu đảng Xả Lĩnh liền tan
tành xương cốt. Lão Trần trong lòng đắc ý, nhưng ngoài mặt vẫn tỏ vẻ thờ ơ lãnh
đạm, bảo gã câm Côn Luân Ma Lặc mang cái xác báo đi lột da róc xương, còn Hoa
Ma Linh thì mang tai của Hao Tử Nhị Cô dán vào chỗ cũ để bà ta được toàn thây
trạm cương, sau sẽ bọc liệm nhập quan.
Sáng hôm ấy cả bọn ăn
vội vàng mấy chiếc bánh bao nhân thịt, rồi vào bản kiếm một dộng dân làm người
dẫn đường. Người Miêu ở Tương Tây chia làm “Miêu lạ” và “Miêu quen”, “Miêu
quen” là ngưỡng người thân Hán, biết nói tiếng Hán thậm chí còn thông gia với
người Hán; ngược lại người “Miêu lạ” thường ẩn cư nơi rừng sâu, ít qua lại với
người ngoài.
Người lão Trần kiếm
đương nhiên là một người Miêu quen nhất trong số những người “Miêu quen”. Người
này là dân Miêu gốc, nhưng thường đi theo thương nhân Tát gia tới đây buôn bán,
nên rất thông thuộc tiếng Hán cũng như phong tục người Hán, lại biết truyền thuyết
vùng Mãnh Động, là một lựa chọn vô cùng thích hợp. Lão Trần nói dối người dẫn
đường rằng đám bọn họ nghe nói Bình Sơn núi cao sừng sững, là nơi cảnh đẹp hiếm
có trong dân gian, chuyến này đánh hàng qua Lão Hùng Lĩnh, tiện đường muốn tới
đó du ngoạn, người Miêu kia tham khoản thù lao được hứa trả, nhận lời ngay. Khi
ấy đang mùa mưa, trong núi dầm dề cả ngày đoàn người chân đi giày cỏ đầu đội
nón tơi, tiến thẳng vào Bình Sơn thăm dò vị trí mộ cổ.
Lão Hùng Lĩnh nằm trong
nội địa Tương Tây, rừng sâu vực thẳm, cách biệt với thế giới bên ngoài, nhìn xa
giống như một con gấu khổng lồ đang nằm ngủ. Bình Sơn được sơn dân địa phương
tin là hóa thân của hổ, là một nhánh của Lão Hùng Lĩnh, lại càng hẻo lánh hoang
sơ, không dấu chân người. Bọn lão Trần dưới sự dẫn dắt của người Miêu, xuyên
qua rừng rậm, chui vào khe động, lội suối vượt đèo, những gian nan dọc đường
không nói cũng biết.
Xuất phát từ lúc bình
minh đến tận giữa trưa, mặt trời lên tới ngọn cây, đoàn người cuối cũng cũng
đặt được chân lên dốc núi hiểm trở sau Lão Hùng Lĩnh. Đỉnh núi bên này cỏ hoang
cổ thụ um tùm, nhìn từ trên cao có thể trông thấy địa mạch Bình Sơn bên dưới.
Phóng tầm mắt nhìn xuống, chỉ thấy toàn vách đá cheo leo như những chiếc dùi
dựng đứng, đỉnh núi san sát nối dài về phía xa, như ngàn ngọn măng nhú khỏi mặt
đất, vạn thẻ ngọc chĩa thẳng lên trời, núi tựa núi, đỉnh sát đỉnh, lấp đầy
khoảng cách giữa đất và trời, miên man vô tận.
Người Miêu dẫn đường
trỏ một ngọn núi bên dưới vách đá đang đứng, nói: “Nói để các vị hay, đằng kia
là núi Bình Sơn đấy!” Cả bọn nhìn theo tay anh chàng người Miêu, thấy núi thần
kỳ được tạo hóa ưu đãi, địa hình hiểm trở nhìn đâu cũng thấy vách đá cheo leo
không có đường đi. Tuy địa thế nguy hiểm nhưng Bình Sơn lại được bao quanh bỏi
núi non trập trung, bốn bề san sát núi rừng xanh ngắt, khói mây bảng lảng như
trong một bức tranh. Nhìn sâu vào lòng núi, quả nhiên thấy vài nơi có sương
trắng bay lên, ánh cầu vồng thấp thoáng giữa màn sương mù.
La Lão Oai thấy thế
mừng rỡ hỏi: “Trần thủ lĩnh, cái mộ cổ đó chắc bị sụp rồi, Bình Sơn này được
quây trong núi, khí thủy ngân trong mộ không bay đi được, liền ngưng tụ thành
sương thủy ngân, còn cái cầu vồng kia chác là bảo khí xung thiên trong mộ cổ có
phải không? Con bà nó trắng trắng, đỏ đỏ, coi chả sướng mắt bỏ mẹ ra…”
Lão Trần đáp: “Chưa
biết được, có điều hình như dáng ngọn núi này quả thật đặc biệt: thế núi thu
lại, màu đất rắn chắc, mạch đất bắt từ trên cao, nước dễ dàng chảy ra tứ phía.
Long thần trên núi không xuống nước, long thần dưới nước không lên núi, nhìn kỹ
sơn và thủy nơi này, thấy chân long khí át vạn tượng, chác chắn là đất quý
không sao tả xiết. Đứng ở đây không thể nhìn được lối vào mộ cổ, chúng ta phả
vào gần hơn nữa xem sao.” Lão Trần vốn giỏi các phương kỹ kỳ môn độn giáp,
chiêm bốc ttinh tường, lại thông hiểu phong thủy hình thể tông Giang Tây, nhưng
không biết gì về thuật phong thủy đào mộ Phân kim định huyệt của Mô Kim hiệu
úy, nên nhìn từ trên cao không thấy được vị trí mộ cổ.
Lão liền nhờ người Miêu
nọ dẫn đường, nào ngờ nói mãi anh ta không chịu: “Nói để các vị khách quan hay,
chớ thấy Lão Hùng Lĩnh đã là hoang vu biệt lập, Bình Sơn chúng tôi đây tuy cảnh
sắc kỳ diệu, quả là thiên hạ độc nhất vô nhị, nhưng đứng đây xem thì được chứ
nào ai dám tới đó. Trên núi ấy nhiều linh chi và cửu long bàn nên mãng xà cũng
nhiều lắm, những người đó hái thuốc đều một đi không trở về. Trong lòng núi còn
có một ngôi mộ cổ, cách đây một trăm năm có một trận động đất lớn, làm mộ cổ
nứt ra mấy kẽ, bảo khí bên trong toát ra bức người, bao nhiêu đám trộm mộ rồi
thổ phỉ kéo nhau tới kiếm cơ hội đổi đời đều không ai sống sót trở về, vào bao
nhiêu bỏ mạng bấy nhiêu. Nghe nói trong núi có táng Thi Vương, các vị đều là
thương nhân an phận thủ thường, đang yên đang lành hà cớ gì đi vào nơi ác hiểm
đó. Hãy nghe lời tôi, dừng lại ở đây, đặng sớm lên đường về quê..."
La Lão Oai nghe nóng
đầu, liền đánh anh người Miêu ngã lăn ra đất, đoạn móc khẩu súng lục gí vào đầu
anh ta: "Con bà mày, mở to mắt ra mà nhìn, ai an phận thường? Man di sống
trong rừng rú chưa nghe nói đến uy danh Diêm vương La Lão Oai ta hở? Bảo mày
dẫn đường thì dẫn đường, con mẹ mày còn nói thêm nửa câu tao bắn nát sọ, lúc về
còn giết cả nhà mày luôn!"
La Lão Oai là tư lệnh
một nhóm phiến quân lớn ở Tương Âm, trước đây giết người như ngoé, trẻ con nghe
danh còn không dám khóc đêm, có điều ở vùng Lão Hùng Lĩnh Tương Tây hoang vu
này, động dân nào biết đến hắn là tư lệnh La.
Trăm nghe không bằng
một thấy, bị khẩu súng lục lạnh băng kề vào đầu, anh chàng động dân nọ sợ són
cả ra quần, lúc ấy mới biết đám thương nhân này đều là cướp, thấy ai chướng mắt
liền trừng mắt giết ngay, anh ta nào dám trái lời, vội vàng lập cập nói:
"Nói... Nói để các vị hảo hán hay, muốn lên núi phải mang theo mấy cây gậy
đuổi rắn..."
Không đợi anh ta nói
hết, La Lão Oai liền đá thêm phát nữa: “Mày còn lải nhải cái gì, cái thây mày
chính là gậy đuổi rắn đấy, mày đi trước rẽ cỏ cho ông, đi mau!”
Lão Trần xưa nay luôn
tâm niệm thay trời hành đạo, tuy hành vi bạo ngược của La Lão Oai khiên lã xốn
mắt, nhưng giữa họ có quan hệ lợi dụng qua lại, không ai thiêu ai được, nên lão
chỉ đành mắt nhắm mắt mở, mặc cho La Lão Oai áp giải người Miêu nọ lên núi Bình
Sơn tìm khe nứt của ngôi mộ cổ.
Cả bọn đi xuống, vòng
qua sườn núi tới trước sơn khẩu ngọn Bình Sơn, ở đây có một cánh cổng đá tự
nhiên được hình thành từ vòm hang trên khồn, thổ dân bản địa quen gọi là “địa
môn”, đối xứng với “thiên môn” trên núi, đi qua đó coi như đã vào trong núi.
Bình Sơn được bao quanh bởi núi rừng rậm rạp, tuy bé hơn nhiều so với những
ngọn núi sừng sững xung quanh, nhưng ít nhất cũng cao vài trăm trượng.
Lại gần mới biết, toàn
bộ ngọn núi là một khối đá lớn màu xanh sẫm, loại đá này có thuộc tính âm hành,
chạm phải sẽ thấy rất lạnh, địa mạo địa chất đều khác xa xung quanh. Tạo hóa kỳ
diệu đã đẽo gọt khối đá xanh khổng lồ nằm ở đây từ thuở khai thiện lập địa
thành hình dạng một chiếc bình cổ, đáy bình chìm sâu vào lòng đất, thân bình
nghiêng về hướng Bắc nhue muốn đổ, vách núi phía sau cứ chênh vênh giữa không
trung như thể suốt mấy nghìn năm, ngàn lần nguy hiểm nhưng cũng vạn phần ly kỳ,
tạo nên một cảnh sắc vô cùng hiếm có.
Do ngọn núi quá
nghiêng, sức nặng đá núi dồn xuống, trải qua vài trận động đất, bên sườn Nam đã
xuất hiện vô số vết nứt nhỏ được gió núi táp bùn đất lấp đầy, mọc lên từng dải
thực vật chen chúc, những chỗ chưa bị nứt vẫn còn nguyên chất đá màu xanh sẫm.
Cỏ cây xanh ngắt điểm xuyết bên trên trông như nét hoa văn trang trí trên chiếc
bình cổ chỗ đậm chỗ nhạt, chằng chịt san sát.
Có chừng hơn mười khe
nứt lớn rải rác trên thân núi, chưa được bùn đất lấp đầy trông như bị dao chém
rùi bổ hoác ra, trong khe núi mây mù che kín, sâu không thấy đáy, hai bên vách
đá lỉa chỉa kỳ tùng, nguy hiểm khôn lường.
Về địa mạo hình thế của
ngọn Bình Sơn, bọn lão Trần, La Lão Oai đã quan sát ngay từ lúc đứng trên vách
núi Lão Hùng Lĩnh, giữa mỗi khe nứt lớn đều được dựng cầu đá nối liền từ thời
xưa. Đám người men theo đường núi leo lên, trông bé nhỏ tựa một bầy kiến bò
trên chiếc bình sứ khổng lồ. Từ sơn khẩu có một con đường đá xanh rộng rãi, bám
theo sườn núi mà lượn tít lên trên, xuyên qua lớp lớp vách đá và cây cối, ngoằn
ngoèo uốn khúc chín mươi chín vòng liên miên trùng điệp, như một con rồng xanh
uốn mình phi lên trời cao.
Lúc cả bọn bắt đầu lên
núi, trời đã hơi âm u, tới được lưng chừng thì chẳng còn thấy cầu vồng vắt
ngang sườn núi đâu nữa, thay vào đó là sương mây mù mịt, mưa bay lất phất. Con
đường đá xanh bị hơi nước che phủ trở nên trơn tuột, mưa mù giăng khắp núi rừng
cây cối, mông lung mơ hồ.
Cả bọn bị mắc mưa,
trong lòng rối bời, sợ đường núi trơn trượt nguy hiểm, định tìm nơi trú tạm.
Nào ngờ đúng lúc đó, mặt trời đột nhiên ló ra khỏi đụn mây, muôn ánh hào quang
chiếu xuống núi rừng. Toàn bộ đá núi suối rừng tận trong những nơi thâm u chợt
hiện ra trước mắt họ như có phép thần kỳ, rõ ràng đến từng lá cây ngọn cỏ.
Nhưng chỉ trong giây lát, còn chưa kịp nhìn kỹ, sương mù dày đặc từ khe núi đã
lại bay lên, phủ kín góc rừng vắng lặng.
Bọn lão Trần đứng ở
lưng trừng núi chiêm ngưỡng cảnh sắc kỳ tuyệt ấy, chỉ thấy mây mưa giăng kín
gần trong gang tấc, khe rãnh suối rừng hiện ra trong tích tắc, thảy đều trầm
trồ ca ngợi Bình Sơn quả là nơi động phủ thần tiên ẩn sau màn khói mây biển ảo,
trước kia ai mà ngờ được trong lão Hùng Lĩnh hoang vu tiêu điều lại có một nơi
cảnh sắc tuyện vời đến vậy.
Trên ngọn Bình Sơn siêu
nghiêng có hai đĩnh núi, một nằm ngay nơi cổ bình bằng phẳng, bề mặt có một khe
nứt rất rộng; đỉnh còn lại cao hơn một chút, nằm ngay miệng bình, bên trên mọc
nhiều cây cỏ lạ lung và lởm chởm đủ loại đá, vách dựng đứng, kỳ vĩ mà hiểm trở.
Bọn lão Trần đứng trên cổ bình, quan sát hồi lâu mà chẳng thấy con mãng xà nào.
Anh chàng người Miêu dẫn đường cả đời cũng chưa bước chân lên núi này, mấy
chuyện trên Bình Sơn chỉ là nghe người ta nói lại, nên không thể biết vết nứt
của mộ cổ ở đâu. Lão La thấy vậy nổi giận đùng đùng, định cho anh ta một phát
đạn, may có lão Trần ngăn lại.
Lão Trần nhìn thấy trên
Bình Sơn, nơi nào có đất thì cây cối um tùm, nơi nào không có đất thì lộ ra lớp
đá xanh sẫm, nếu dung thuật nhìn vết bùn phân sắc cỏ của quyết “vọng” e khó mà
tìm ra được địa cung và vị trí mộ cổ, vả lại Bình Sơn đất đá kiên tầng này đến
tầng khác để tìm địa cung mộ đạo thì dù có huy động ngàn vạn quân cũng khó làm
được.
Giờ đành phải lôi quyết
“văn” ra thử xem sao. Lão Trần dẫn cả bọn tới một khe sâu trên đỉnh núi, chỉ
thấy bên dưới sương trắng mù mịt, nhìn không thấy đáy. Lão bèn bảo La Lão Oai
bắn mấy phát sung xuống khe núi, còn mình áp tai lên vách đá, thực hiện thủ
pháp thăm dò vị trí ngôi mộ cổ trong núi.
La Lão Oai chĩa sung
xuống vực, lên nòng nổ ngay một viên đạn, tiếng sung nổ vang vọng trong sơn
cốc. Nhân cơ hội này, lão trần liền thi triển thuật “văn sơn biện long” nghe
gió nghe sấm trong quyết “văn”. Lão sinh ra đã có năm giác quan bén nhạy hơn
người, độc nhất vô nhị trong thiên hạ, lúc ấy áp tai vào vách đá, nghe tiếng
súng nổ vọng lại từ đáy vực rỗng, thấy không gian bên dưới ước chừng rộng ngang
một tòa thành.
Sauk hi La Lão Oai nổ
liền sáu phát đạn xuống
vực sâu, lão trần đã
nghe ra khái quát vài con đường dẫn vào huyệt mộ và ba tòa địa cung, đây rất có
khả năng là khu đạo quán cung điện trong núi được người Nguyên chiếm làm huyệt
mộ, trong đó, khu địa cung lớn nhất nằm ngay phía dưới vực sâu này.
La Lõa Oai thấy núi
Bình Sơn quả nhiên có cổ mộ lớn, địa cung “rộng ngang một tòa thành” , lối vào
lại nằm ngay bên dưới vách đá này, vậy thì mệ kiếp, phải có bao nhiêu là vàng
bạc châu báu! Tiền tài khiến người ta lóa mắt, La Lão Oai lúc này đã có phần
sốt ruột, thấy Lão Trần và mấy người còn lại đều đang dán mắt xuống vực, sẵn
trong cái sọt của Côn Luân Ma Lặc vứt dưới đất có lương khô, bình nước và một
cuộn dây thừng, hắn bèn nhặt lấy cuộn thừng ném xuống trước mặt anh chàng người
Miêu, ép anh ta dung dây thừng tụt xuống thám thính địa cung. Hắn nói lạnh
tanh: “Nói để La soái nhà mày hay coi, tại sao mộ cổ có đi mà chẳng có về, đồ
man di nhà mày còn hé răng nửa chữ không thì đùng trách La soái ta chỉ biết
giết mà không biết chon. “Nói xong, hắn lôi xềnh xệch anh chàng người Miêu tới
bênh miệng vực, ra sức đẩy anh ta xuống dưới.
Nguồn tangthuvien
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét