Chương 37: Nước tù
không có rồng
Tàu Chĩa Ba là một con
tàu cổ, có thể xem như văn vật, nghe nói hồi trước còn từng bị bọn hải tặc
trưng dụng. Thân tàu tuy trải qua mấy lần đại tu và cải tạo, nhưng kết cấu
chính vẫn từ những khối gỗ liễu biển ban đầu. Hai năm trước, người Anh đã thu
mua lại rồi tiến hành cải tạo thêm lần nữa. Trong khoảng thời gian con tàu này
neo ở bến tàu đảo Miếu San Hô, Nguyễn Hắc và mấy dân chài trong vùng được thuê
đến để tiến hành duy tu bảo dưỡng, đồng thời tham gia vào công tác cải tạo.
Đội trục vớt người Anh
đã bỏ rất nhiều tâm huyết để cải tạo con tàu gỗ liễu biển, ý đồ muốn xâm nhập
vùng biển vực xoáy San Hô mò thanh đầu, không ngờ còn chưa khởi hành thì đã
chết cả bên trong khoang đáy.
Dân trên đảo Miếu San Hô giấu kín như bưng chuyện
này, hầu hết mọi người, kể cả gã lái buôn chợ đen Võ thọt đều không biết sự
việc cụ thể thế nào, chỉ có Nguyễn Hắc là dường như biết được một vài chi tiết
bên trong, nhưng giờ ông ta đã chết rồi, chẳng thể cạy miệng người chết để moi
thông tin, gặp phải thứ gây chết người giấu trong tầng kép, chúng tôi thật hoàn
toàn không biết phải ứng phó thế nào.
Nhưng ra biển vớt thanh
đầu là công việc nguy hiểm nhường nào chứ? Ghét của nào trời trao của ấy, sau
khi con cá mập húc vỡ tấm ván chắn tầng kép bí mật, một dòng nước đen ngòm
không chút sinh khí từ hốc mắt bộ xương người chết trong tầng kép cứ thế tuôn
ra. Tôi vội kéo Tuyền béo đang ngồi chồm hỗm dưới đất dậy, cuống cuồng lôi cậu
ta lùi ra sau mấy bước.
Lúc này, nước trong
khoang đáy đã rút bớt chỉ còn ngập trên mắt cá một chút, nhấc chân là có tiếng
“ì oạp ì oạp” Tuy nhiên mực nước trong Quy Khư cực kỳ không ổn định, lúc lên
lúc xuống, hoàn toàn không theo quy luật, nên rất khó lường trước được tình
hình. Xem ra, nếu còn nấn ná ở đây, bọn tôi dám chắc cũng lại chết không minh
bạch giống mấy người Anh kia thôi. Trong đội trục vớt người Anh có không ít
chuyên gia thám hiểm và trục vớt hàng hải, kinh nghiệm phong phú, trang bị đầy
đủ, vậy mà còn mất mạng, vậy thì sự việc diễn ra chắc phải rất bất ngờ, khiến
họ không kịp phòng bị gì cả.
Tôi và bọn Tuyền béo
lùi liền mấy bước, chỉ thấy cái bóng trong đóa hoa đá biển tan chảy dần thành
nước đen trào ra qua hốc mắt xác chết, đèn pin trên tay chúng tôi cùng lúc chớp
lóe mấy cái, nhiễu loạn, thoắt sáng thoắt tối, bên trong kêu “tạch tạch tè tè”
không dứt. Không như pin lắp trong ngọn đèn pha đã vỡ, điện áp pin đèn lặn nước
chỉ có “3,8 V 0.5 A”, thật khó tưởng tượng, tại sao đèn thạch anh lại có thể
phát ra những âm thanh như vậy.
Đèn pin chớp tối chớp
sáng hoa cả mắt, tôi vội đập đập cho nó mấy phát, luồng sáng mới ổn định trở
lại, nhưng bóng đèn thạch anh bên trong thì hình như đã bị tiêu hao quá mức,
ánh sáng chiếu ra ảm đạm hơn nhiều so với trước.
Trong thứ ánh sáng yếu
ớt trong khoang đáy, tôi cảm giác làn nước dưới chân lạnh lẽo đến khó tả, dường
như thứ trốn bên trong tầng kép kia đã lẩn xuống nước, bất cứ lúc nào cũng có
thể vươn cánh tay ma quỷ ra tóm chặt gót chân tôi. Có lẽ vì nhìn không rõ là
thứ quái quỷ gì, cảm giác buốt lạnh kia càng lúc càng thêm đè nặng. Phút chốc,
tôi bỗng cảm thấy vô cùng kinh sợ nước.
Cả bốn người bọn tôi
cùng hoảng hốt, lùi liền thêm mấy bước, chạm phải một đống rương chứa đồ chồng
chất lên nhau ở sau lưng thì hết cả đường lùi. Cổ Thái vốn đã sợ ma, càng thêm
cuống, chỉ chực cướp đường bỏ chạy. Tôi tóm chặt lấy cậu ta quát: “Không được
vọng động.” Không đèn không đuốc tối om om thế này thì chạy đi đâu được? Đằng
nào cũng đụng phải rồi, cứ cho là trong khoang đáy này thực sự có mãnh quỷ hung
linh gì đó ẩn nấp, nếu không dứt điểm được nó ở đây, bốn chúng tôi dẫu có chạy
thoát khỏi tàu Chĩa Ba cũng vẫn sẽ bị nó bám riết không tha. Giờ mà chạy loạn
lên như chó nhà có tang, thì chắc chắn là u mê tự dẫn xác đi cống cái mạng mình
rồi.
Kỳ thực, đối mặt với
tình thế trước mắt, tôi cũng chưa thể đưa ra phán đoán nên chạy hay không, có
điều phải giữ nguyên tắc không thấy thỏ không thả chim ưng, trước khi xác định
có thể thoát khỏi khoang đáy này an toàn, không thể dễ dàng đem mạng của cả bọn
ra mạo hiểm được. Ánh sáng đèn pin quá yếu, ở trong khoang tàu tối đen như mực
này thực chẳng có tí tác dụng nào, không thể trông mong gì ở mấy cái đèn đó
nữa. Tôi mò mò trong túi, cuối cùng moi ra được một ống lân quang cuối cùng còn
sót lại.
Từ dạo hành nghề Mô Kim
hiệu úy, do thói quen nghề nghiệp, tôi hết sức ỷ lại vào các thiết bị chiếu
sáng, chỉ sợ mang không đủ nhiều. Ống lân quang chứa toàn phốt pho trắng, ánh
sáng quá gắt, mạnh hơn ánh sáng huỳnh quang nhiều lần, không thích hợp sử dụng
ở môi trường phía trên mặt nước. Giờ đèn pin đã vô dụng, tôi cần nguồn sáng
gấp, liền mang ống lân quang ra kéo chốt, ném xuống chỗ nước sâu mấy mét trong
khoang đáy.
Phốt pho trắng lập tức
bùng lên sáng chói, tuy đã giảm đi phần nào qua làn nước cản, nhưng mắt tôi vẫn
đau nhói. Trong ánh sáng trắng lòa, chỉ thấy nước đen chảy từ trong đóa hoa đá
biển đang ngưng tụ dần thành một cái bóng thấp thoáng như hình người. Nước đen
dập dềnh vừa khéo chặn con đường thông lên khoang trên, mấy con quái ngư vừa
nãy vẫn đập đầu vào ván tàu bị dòng nước đen cuốn đến liền lặng lẽ gục chết.
Trong chớp mắt, mấy con
quái ngư đang dập đầu như giã tỏi đã biến thành đám xác chết không hồn nằm lăn
lóc. Lũ cá này rời nước vẫn sống nhăn, vậy mà vừa bị thứ nước đen ngòm dính vào
liền lăn ra chết cả, khiến khoang tàu đột ngột trở nên tĩnh lặng như tờ. Quầng
nước khủng khiếp kia vẫn tựa như một tấm vải đen nổi dập dềnh, trôi qua xác con
cá mập trắng, chậm rãi tiến về phía chúng tôi.
Tôi thấy làn nước đen
tràn qua xác con cá mập trắng lộ hẳn ra trên mặt nước, thầm than không ổn. Nếu nó
chỉ tồn tại được dưới nước, chúng tôi may ra còn có con đường sống, ai dè nó
lại còn trườn tiếp lên cả ván tàu và xác cá chết, thử hỏi chúng tôi chạy đi đâu
được nữa đây? Bốn người chỉ kịp hét lên một tiếng, vội dạt hết ra tránh né.
Trong ánh sáng trắng của phốt pho, mảng nước đen ngòm ấy bất thình lình dựng
đứng, phóng vèo lên trần. Tất cả các bộ phận bằng liễu biển trong khoang tàu
lập tức cũng tiết ra thứ nước đen như máu bầm ấy.
Tuyền béo nhảy lên một
cái thùng gỗ chứa đồ dự trữ, kêu lên với tôi: “Tư lệnh Nhất, mau lấy tấm gương
đồng ra chiếu nó!” Tôi nhảy bên này, né bên kia tránh, rồi cũng trèo lên được
một cái hòm gỗ, nghe Tuyền béo nói thế, bèn thò tay vào cái túi cất Tần Vương
Chiếu Cốt kính; tấm gương đồng lạnh lẽo ở ngay trong đó, nhưng thứ nước đen
chảy ra từ đóa hoa đá biển không phải tầm thường, gương đồng chỉ có thể trấn áp
cương thi, làm sao mà đối phó được thứ nước chết chóc tựa như bóng ma khủng
khiếp kia chứ?
Tôi thấy nước đen đã
bay lên trần, để lộ ra một khoảng trống trước cửa, bèn hướng về phía Shirley
Dương chỉ tay vào cửa khoang tàu, bảo cô nhân cơ hội này dẫn theo Cổ Thái thoát
ra ngoài, tôi và Tuyền béo sẽ nghĩ cách kéo dài thời gian. Shirley Dương không
phải loại người thích kèo nhèo ỉ eo, chắc cũng biết khoang tàu hết sức chật hẹp,
cả bốn người cùng nấn ná bên trong thực khó làm được gì, mà còn dễ sinh chuyện
ngoài ý muốn, nên lập tức chụp lấy cánh tay Cổ Thái kéo cậu ta chạy về phía cửa.
Đám nước đen trên trần
dường như có tri giác, biết được Shirley Dương và Cổ Thái muốn chạy trốn, liền
lướt qua trần nhà, tựa như một lá cờ đen trong ngọn cuồng phong, đổ ập tới.
Shirley Dương thấy tình thế không ổn, vội kéo tay Cổ Thái ngoặt gấp, giẫm nước
bắn tung tóe chạy vào mé trong khoang. Vậy là bốn người vừa tản ra, lại bị ép
ngược vào một bên khoang chứa hàng.
Bên cạnh chúng tôi
chồng chất thùng hàng, dưới chân là xác con cá mập trắng, con đường thoát duy
nhất chỉ có thể theo lỗ hổng ở đáy khoang xuống nước, cũng chỉ là tự nhảy vào
miệng cá mập, không chết cách này thì chết cách khác mà thôi. Cái bóng đen kia
như vô hình vô chất, phiêu hốt tựa loài quỷ mị, trong ánh sáng phốt pho, chỉ
thấy trước mắt loáng lên, bóng ma đã lù lù trước mặt. Tôi biết, dù là ai, hễ
chạm phải cái bóng này tim cũng sẽ ngừng đập, chết ngay tại chỗ, mà xem ra lúc
này không còn thứ gì có thể cản nó được nữa rồi.
Cái chết đã ở ngay
trước mặt, trong lòng tôi không khỏi trào dâng cảm giác sợ hãi, sống lưng lạnh
buốt. Có điều, ngay sau đấy, tôi lại phát giác ra có gì đó không ổn lắm, cảm
giác lạnh này không phải do hoảng sợ quá độ sinh ra. Tôi dường như đang dựa
lưng vào một khối đá lớn lạnh như băng, cảm giác lạnh lẽo đều từ đó mà ra cả.
Theo ấn tượng còn sót lại trong ký ức của tôi, khoang tàu này vốn hình như
không có thứ gì lạnh lẽo âm hàn đến thế, tôi nhất thời cũng quên mất hiểm cảnh
trước mắt, bất giác đưa tay sờ, mới sực nhớ. Trước khi tiến vào vực xoáy San
Hô, bọn tôi vớt được một cỗ quách đá nổi trên mặt nước, quan tài đá bên trong
vẫn hoàn hảo như mới, được làm từ “thạch kính”, thứ chất liệu cực hiếm trên thế
gian này.
Thạch kính chính là do
cổ mộc dưới đáy biển hóa thành, bề mặt trơn bóng như gương, tích tụ âm khí dưới
biển, được sóng biển mài giũa nghìn vạn năm, bên trong gợn vân sóng trùng trùng
điệp điệp, đường vân càng dày thì càng cứng chắc. Các sách về thuật phong thủy
hay nhắc đến thứ đá này đá nọ trấn được quỷ được tà ma. Nhà thời cổ đều có dựng
bình phong, một là để chặn giữ gia tài không cho thoát ra ngoài, hai là ngăn
không cho ma quỷ vào nhà. Ban đầu, bình phong đều được xây bằng đá xanh, về sau
mới dần chuyển sang dùng gạch, song những người hiểu được lẽ mầu nhiệm bên
trong vẫn chôn đá dưới chân tường.
Nhân dân bị áp bức quá
sẽ vùng lên làm cách mạng, chó cùng rứt giậu, phương pháp và đường sống sót
trong tuyệt cảnh thường thường đều bị ép ra trong lúc vạn bất đắc dĩ, ý nghĩ
vừa lóe lên trong đầu, tôi đã lập tức nảy ra phương án hành động. Người ta vẫn
nói, trong đám nghệ nhân đổ đấu trộm mộ thì mạng Mô Kim hiệu úy là cứng nhất,
nếu đúng là trời không tuyệt đường con người, thì cỗ quan tài thạch kính sau
lưng này chính là cơ hội duy nhất để chúng tôi sống sót. Lúc mới vớt được,
chúng tôi dùng nó để bảo quản những vật phẩm dễ biến chất trên tàu, sau khi
tiến vào vùng biển vực xoáy San Hô, đã dùng vợi rất nhiều, quan tài giờ đã gần
như rỗng, nắp để một bên. Tôi thấy bóng ma kia đã tới gần, bèn vội vàng cùng
Tuyền béo bắt tay làm thang, để Shirley Dương cùng Cổ Thái giẫm vào mà leo lên
đống thùng chứa đồ chồng chất bên cạnh.
Đám nước đen kia cũng
thật nhanh, chỉ chớp mắt đã lướt tới dưới chân chúng tôi, khí lạnh âm u tỏa
cuồn cuộn. Tôi kéo tay Tuyền béo một cái, cùng nhanh chóng nhún người nhảy vào
trong quan tài đá. Đám nước đen cũng bám vách quan tài, chảy vào theo. Tôi và
Tuyền béo cùng quát lên: “Mả cha nhà mày...” rồi vội nhảy tót ra ngoài. Ánh
sáng lân quang trong góc không chiếu được vào lòng quan tài đá, khiến bên trong
vốn đã âm u, nay lại càng ngập ngụa âm khí nặng nề.
Tôi phỏng đoán, đám
nước đen nếu thực sự là hồn ma ám trên con tàu, thì chỉ cần đậy nắp quan tài
lại, nó sẽ vĩnh viễn không thoát ra được nên nào dám chần chừ do dự. Không để
nước đen kịp trào ra, hai thằng khiêng luôn cái nắp đậy ụp quan tài, rồi nhảy
tót lên đó ngồi. Quan tài đá vừa đậy nắp, liền khít khịt không một khe hở, chỉ
nghe bên trong có tiếng nước cuồn cuộn như thể mặt biển nổi sóng phẫn nộ, mãi
hồi lâu mới bình lặng.
Tiếng sôi sục bên trong
quan tài đá lặng đi, tôi mới đưa mắt quan sát xung quanh, thấy bốn bức vách lúc
này khô kiệt không trào nước đen ra nữa. Gỗ liễu biển cứng chắc cả nghìn vạn
năm tựa hồ mất đi tinh khí, chỉ chớp mắt đã hóa thành gỗ mục gần như rữa nát,
con tàu từng bao phen lập nên kỳ công này coi như đã hỏng hẳn rồi. Tuy là mất
con tàu, nhưng cả bọn chúng tôi tìm được nẻo sống giữa chốn tử vong, ai nấy đều
cảm thấy vô cùng may mắn. Nếu lúc trước không vớt được cỗ quan tài cổ này, hoặc
không đem nó bỏ vào khoang đáy, hôm nay sợ rằng kết cục của chúng tôi cũng
chẳng khác gì mấy gã người Anh xấu số kia. Chỉ là, trong tầng kép kia rốt cuộc
là thứ gì? Là ma hay thứ gì khác, đến giờ chúng tôi vẫn chưa biết được.
Thấy Shirley Dương từ
đống thùng chứa đồ leo xuống, tôi liền bảo cô dẫn Cổ Thái lên trước, rồi gọi
Tuyền béo tìm mấy sợi dây thừng buộc hàng. Loại thừng này bện bằng dây leo, xơ
dừa và tóc người, ngâm dưới nước bao nhiêu năm cũng không đứt được. Bọn tôi đem
dây thừng buộc mấy chục vòng xung quanh quan tài, thắt bảy tám cái nút chết,
bấy giờ mới yên tâm thở phào nhẹ nhõm. Lúc này, con tàu cũng sắp phân rã, thân
tàu phát ra những tiếng ken két rợn người, phỏng chừng chẳng mấy sẽ rơi khỏi
chỗ mắc cạn chìm xuống nước, cỗ quan tài đá kia cũng sẽ chìm theo tàu xuống đáy
Quy Khư.
Tôi đưa tay chạm vào
Tần Vương Chiếu Cốt kính trong túi, rồi vẫy vẫy Tuyền béo. Hai thằng bèn bò ra
khỏi khoang tàu đang lung lay như muốn sụp. Mặt nước vẫn phẳng lặng như lúc ban
đầu, Shirley Dương đã tập hợp với hội Minh Thúc và thả xuống hai cái xuồng cao
su. Minh Thúc, Cổ Thái và Đa Linh ngồi chung một xuồng, thi thể Nguyễn Hắc quấn
vải trắng cũng đặt trên đó. Tôi và Tuyền béo bèn nhảy lên cái xuồng Shirley
Dương đang ngồi còn lại.
Tôi vừa đặt chân lên
xuồng cao su, tàu Chĩa Ba sau lưng liền bị lệch tâm, vỡ toác thân, các vật dụng
cũng như mảnh tàu vỡ lả tả rơi, chỉ trong một thoáng, trên mặt nước chỉ còn lác
đác dăm mảnh gỗ. Cả bọn chúng tôi cứ thế im lặng nhìn con tàu gỗ liễu biển vỡ
vụn chìm xuống. Nghĩ đến nó từng cùng chúng tôi vào sinh ra tử, vượt qua bao
sóng to gió lớn, giờ biến mất tăm trong chốn Quy Khư đáy biển này, trong lòng
ai nấy không khỏi trào lên cảm giác khó tả nên lời.
Minh Thúc đã nghe
Shirley Dương kể vắn tắt về quá trình chúng tôi tìm được Tần Vương Chiếu Cốt kính
trong xác tàu đắm, nhưng khi thấy tàu Chĩa Ba chìm dần xuống đáy nước, sắc mặt
lập tức trở nên rất khó coi: “Còn hy vọng có thể tìm được đồ sửa tàu... nhưng
giờ cả tàu cũng mất rồi, chỉ còn lại hai cái xuồng nhỏ, chúng ta ở giữa biển,
mấy trăm dặm xung quanh không có tí dấu vết nào của đất liền, giờ làm sao trở
lại đảo Miếu San Hô được đây?”
Shirley Dương nói: “Vấn
đề lớn nhất lúc này là chúng ta đang lạc lối bên trong Quy Khư, phải tìm cách
trở lại mặt biển trên kia mới có khả năng tìm được cứu viện. Anh Nhất, anh xem
chúng ta phải làm thế nào?”
Tôi đưa mắt nhìn xung
quanh, chỉ thấy hải khí mờ mịt, trên cao, âm hỏa thoắt ẩn thoắt hiện trên tầng
nham thạch, tựa như bầu trời đảo lộn, ngước mắt nhìn ra xa không thấy điểm tận
cùng của chốn Quy Khư thần bí, Đông Tây Nam Bắc hướng nào cũng như hướng nào,
thật khó lòng phán đoán đâu mới là nẻo đúng.
Nghe Shirley Dương hỏi,
tôi đành nhe răng ra cười khổ: “Nơi này cũng lớn thật đấy, giá có cái xuồng máy
thì tốt quá, chứ với sức hai cánh tay mà muốn chèo xuồng cứu sinh thoát ra
ngoài thì đúng là mơ mộng hão huyền.” Tôi chỉ nói sự thực, trước mắt chúng tôi
đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề. Làm sao có thể chỉ dựa vào xuồng cứu
sinh để sống sót? Làm thế nào có thể trở về mặt biển phía trên kia? Làm thế nào
có thể liên tục chèo xuồng trong một thời gian dài? Vả lại, hai cái xuồng nhỏ
này làm sao chịu được những cơn sóng biển lúc có lúc không? Ai dám chắc dưới
biển không có những con cá lớn nuốt được cả thuyền bè?
Minh Thúc nghe tôi nói
thế lại càng ảo não hơn: “Quy Khư với cả quy khiếc cái gì? Kinh Phật có nói,
‘nhược thủy tam thiên, không chết khó vượt’, chắc chắn là chúng ta rơi xuống
nhược thủy rồi. Nhược thủy chính là nước chết, không có cửa sống đâu, đừng có
mơ sống sót trở về được nữa. A Hương nhà tôi thật tội nghiệp, bị các người lừa
sang Mỹ, sau này ai chăm lo cho nó được đây?”
Thấy lão lại kêu gào,
tôi bèn gắt lên: “Nhược thủy chỉ là một lời nói ví von thôi, trên đời này làm
gì có nhược thủy chứ? Mọi người cũng đừng ủ rũ nữa, Mô Kim hiệu úy ngoài thuật
Mô kim ra, còn có một bản lĩnh khác, chính là thuật phong thủy chuyên phân tích
địa lý địa mạch. Hải nhãn chính là do hải khí của mạch Nam Long ngưng kết mà
thành, trong các sách phong thủy đều nói, nước tù (nước chết) không có rồng, mà
hải khí long hỏa nơi này thịnh vượng vô cùng, nếu là nước chết, tuyệt đối không
thể có long khí nhường này được. Vì vậy, theo tôi thấy, nước ở Quy Khư này chắc
chắn là nước chảy (nước sống). Có điều, đây là dòng chảy ngầm rất khó nắm bắt
được, dưới nước ngoài rất nhiều xác tàu đắm và di tích kiến trúc cổ xưa, còn có
suối nước nóng phun trào và những khe rãnh rất sâu. Bên dưới vùng biển vực xoáy
San Hô hẳn phải có một nguồn địa nhiệt và nước ngọt rất lớn, bằng không, hàm
lượng muối trong nước biển quá cao, lũ trai ngậm ngọc kia cũng không thể sinh
tồn được. Nếu có thể tìm cách dò ra hướng chảy của mạch nước ngọt ấy, may ra có
thể thoát khỏi rặng san hô như chốn mê cung này trở lên mặt biển. Có điều,
chúng ta cũng không thể đi lung tung, trước tiên hãy đến chỗ di chỉ thành cổ an
táng Nguyễn Hắc, nghỉ ngơi chỉnh đốn đội ngũ đã, rồi mới tính kế lâu dài sau.
Nhìn hình nhìn thế, tìm đường tiến lui vốn là sở trường của Mô Kim hiệu úy, nửa
cuốn Thập lục tự âm dương phong thủy bí thuật của tôi không phải trò đùa đâu.”
Tôi đem bí thuật của Mô
Kim hiệu úy ra dọa người, song kỳ thực trong lòng cũng không nắm chắc gì hết.
Có điều, Minh Thúc kia tuy khởi nghiệp bằng nghề chạy tàu ở Nam Dương, nhưng tổ
thượng nhà lão cũng là quân trộm mộ đổ đấu, cõng xác lật quan tài ở phương Nam,
bản thân lão ta cũng thường xuyên buôn bán các loại xác khô, thôi thì từ Vương
tử Tây Vực, đại tướng quân trong sa mạc, công chúa Lâu Lan, xác thơm Thiên Sơn,
hay xác ướp Tần Hán... chẳng có thứ gì mà lão chưa từng mua vào bán ra cả,
đương nhiên, mấy cái danh hiệu của xác chết ấy quá nửa do lão bịa ra cả. Lão tự
cho mình cũng có một nửa là nghệ nhân đổ đấu, mà trong mắt những kẻ trộm mộ
thông thường, Mô Kim hiệu úy có thể nói là tướng soái trong nghề, bản lĩnh
thông thiên, vì vậy khi tôi nhắc đến bí thuật Mô Kim, Minh Thúc cũng lập tức
yên tâm phần nào. Mục tiêu giờ đã được xác định, cả bọn bèn chia nhau ra chèo
xuồng, hai chiếc xuồng nhỏ chầm chậm dịch chuyển trên mặt nước.
Tuyền béo vừa khua mái
chèo, vừa ngắm nghía cái đồng hồ vàng vớt được trong xác tàu Mariana. Cái đồng
hồ ấy phản chiếu ánh sáng, lại càng thêm rực rỡ sáng lạn, Tuyền béo ngắm nghía
hồi lâu cũng không nhận ra là hiệu gì, bèn đưa cho Shirley Dương giám định thử
xem có phải đồng hồ Omega không.
Tôi vừa nhìn thấy cái
đồng hồ vàng ấy, liền tức khắc nhớ ra lúc ở bên trong xác tàu Mariana, đã từng
trông thấy sau lưng Cổ Thái có một cái bóng râu ria đeo đồng hồ vàng qua tấm
gương vỡ. Đó chính là bóng ma của thuyền trưởng. Lúc bấy giờ, tình hình dưới
nước rất hỗn loạn, ngoài tôi ra những người khác đều không phát hiện, có điều
sau đấy Cổ Thái cũng không có gì bất thường, nên tôi cũng tạm thời gác chuyện
này sang một bên. Nghĩ tới đây, tôi bất giác len lén đưa mắt nhìn sang phía Cổ
Thái.
Cổ Thái bị thương nhẹ,
sư tỉ Đa Linh của cậu ta đã xử lý cấp cứu cho rồi, lúc này tuy mệt mỏi, nhưng
với sức khỏe và sự dẻo dai của mình, cậu ta vẫn kiên trì giúp mọi người chèo
xuồng.
Lúc tôi nhìn sang, Cổ
Thái đang không ngừng ngoảnh đầu nhìn mặt nước phía sau. Tôi thấy hành vi của
cậu ta là lạ, bèn hỏi xem ngoảnh đầu lại làm gì. Cổ Thái nghe vậy, liền trợn
mắt lên đáp: “Ma đấy, có ma đấy!”
Chương 38: Hải Hòa
Thượng
Tôi vội ngoảnh đầu lại
nhìn xuống mặt nước phẳng lặng, chỉ thấy biên độ của những con sóng lớn dần lớn
dần, hai chiếc xuồng cứu sinh nhỏ dập dềnh lên xuống theo nhịp sóng, ngoài ra
không còn hiện tượng dị thường gì khác, bèn nói với Cổ Thái: “Thằng nhãi này,
đã bảo cậu đừng nhắc đến ma quỷ gì nữa rồi cơ mà? Chẳng nhớ gì cả. Núi cao ắt
có quái, rừng sâu chắc có tinh, đến những nơi thế này tốt nhất đừng có mà nói
nhảm.” Nói đoạn, tôi lại mượn tấm gương nhỏ mang theo người của Shirley Dương,
len lén giơ lên soi về phía Cổ Thái, nhưng tấm gương ấy nhỏ quá, mà hai cái
xuồng lại cứ dập dềnh lên xuống trên mặt nước, nên chẳng thể nào nhìn rõ được
hình ảnh phản chiếu trong gương.
Đa Linh lo lắng cho Cổ
Thái, vội hỏi: “Sư đệ, sao cứ nhắc đến ma quỷ hoài vậy?” Cổ Thái nói mấy câu
bằng tiếng thổ ngữ của đảo Miếu San Hô với Đa Linh. Minh Thúc từng sống ở Nam
Dương một thời gian dài, nghe hiểu được khá nhiều, lão nghe xong bèn dịch lại
cho chúng tôi, thì ra Cổ Thái đang kể lại chuyện xảy ra bên trong khoang tàu
Chĩa Ba.
Tàu Chĩa Ba được đóng
chủ yếu bằng liễu biển, từ xưa đến nay, cũng chẳng có mấy con tàu như thế, đến
cả Minh Thúc cũng chưa từng gặp bao giờ. Liễu biển thực ra không phải gỗ, nhưng
có tính cực âm hàn, vì vậy mới được gọi là “liễu”. Thời xa xưa, liễu được coi
là đứng đầu trong “ngũ quỷ”. Tương truyền, lấy lá liễu ra nghiền thành nước bôi
lên mí mắt, đi đêm có thể trông thấy ma quỷ.
Thời xưa, khi chọn mộ
táng, người ta rất coi trọng “phong” và “thụ”. “Phong” ở đây là đất phong, còn
“thụ” là một trong năm loại cây có ma quỷ ám vào. Những cây kiểu như cây liễu,
cây hòe... đều có thuộc tính cực âm, không thích hợp trồng trong sân nhà người
sống, vì chúng thực sự là những cây thuộc về âm trạch. Dân gian có câu: “Trong
nhà trong sân, chớ trồng ngũ quỷ” chính là ý này.
Dù là Mô Kim hiệu úy
hay dân mò ngọc, cũng đều hiểu rõ một đạo lý chung: “Đã đặt tên ấy, ắt có
nguyên nhân”, dù là những cái tên người hết sức bình thường đến độ chẳng thể
nào bình thường hơn được nữa như Trương Tam, Lý Tứ, Vương Nhị... thì cũng đều
dựa theo thứ bậc, tính thị hay đặc trưng mà đặt ra. Cái tên gọi “liễu biển” này
cũng không phải cứ thế mà phịa ra được. Ngoài hình dạng rất giống nhau ra, nó
cũng có tính chất hấp nạp âm khí hệt như cây liễu trên lục địa. Tương truyền, người
chết đuối dưới biển thì hóa thành quỷ biển, lũ quỷ này thường hay tụ tập nơi
cây liễu biển, trải qua nhiều năm, liễu biển dần kết tụ được một đám ma khí.
Người sống chạm phải thứ ma khí này, lập tức bị khí âm cảm nhiễm mà chết.
Tin cũng được mà không
tin cũng được, dẫu sao thì trong cây liễu biển nghìn năm cũng luôn tồn tại một
thứ âm khí vô hình vô chất. Giống như một số vỏ trai vỏ sò khi sinh ra đã có
hình ảnh giống Đức Phật y đúc, âm khí trong liễu biển nhiều khi cũng có hình
dạng như bóng người. Tàu thuyền đóng bằng loại liễu biển này có thể phá sóng
đạp gió, ra khơi xa cũng chẳng ngại ngần. Dù có gặp bão lớn, chỉ cần trên tàu
có một bộ phận nào đó dùng liễu biển nghìn năm, thì hầu như lần nào cũng có thể
hóa nguy thành an. Tương truyền, tất cả đều nhờ vào âm khí của ma quỷ bên trong
liễu biển phù trợ. Có điều, trên biển có rất nhiều cấm kỵ, trong khoang tàu
đóng bằng liễu biển nhất định phải có một ngăn bí mật thờ ma nước. Ngoài ra,
còn có một thuyết mê tín cho rằng, kẻ nào nhắc đến quỷ biển trên tàu đóng bằng
liễu biển, kẻ ấy chắc chắn sẽ chết không toàn thây.
Bên trong ngăn bí mật
thờ quỷ biển, đa phần đều đặt đóa hoa đá biển khóa kèm một bộ xương hải tặc.
Bởi lẽ, khi tàu đóng bằng liễu biển ra khơi, âm khí trên tàu sẽ dào dạt tuôn,
nhân viên và thủy thủ sẽ vì thế mà liên tiếp mất mạng. Chỉ có hoa đá biển mới
hấp thu được thứ âm khí ma quỷ này. Xung quanh hoa đá biển thường có một loài
sinh vật nửa cá nửa tôm, gọi là “hải hòa thượng”, là một loài sinh vật lưỡng
thê, rời nước vẫn sống được, bị người bắt liền dập đầu xin tha, miệng lẩm bẩm
rì rầm như đang niệm “A di đà Phật”. Bình thường, nó chuyên liếm thứ nước đen
do hoa đá biển hấp thụ ám khí tiết ra, những người đi biển mê tín cho rằng thứ
nước đen ấy là oán khí của u linh bên trong liễu biển tích tụ lại mà thành.
“Hải hòa thượng” còn được gọi là cá bồ tát, trong đầu có “hắc xá lợi”, chính là
những viên tròn tròn mà Tuyền béo tưởng là hắc trân châu. Có “hải hòa thượng”
trên tàu thì có thể siêu độ cho các vong linh ám trên liễu biển, vì vậy ngư dân
nào vớt được “hải hòa thượng” cũng đều lập tức phóng sinh, tuyệt đối không có
ai dám cả gan ăn. Còn bộ xương của hải tặc, cũng là vật trấn tàu không thể
thiếu, chuyên dùng để trấn áp vong linh trên tàu.
Ở Nam Dương, các loại
phong tục kỳ quái kiểu này thật nhiều không kể xiết, song giờ cũng đã mai một
gần hết, ngay như tàu đóng bằng liễu biển cũng gần như tuyệt tích trên thế gian
rồi. Có điều, những thứ cấm kỵ khó hiểu ấy dù không thể tin hết, song cũng
không thể không tin, đội trục vớt người Anh kia, chính vì không tin vào những
chuyện tà môn, định bắt mấy con “hải hòa thượng” ra làm tiêu bản nên mới bị âm
khí trên tàu xâm nhập mà không dưng mất đi tính mạng.
Minh Thúc hồi trước
cũng nghe phong thanh được một ít, nếu bọn Đa Linh, Cổ Thái không nhắc đến thì
lão cũng quên béng đi mất, vả lại, lão cũng chỉ biết đại khái, chưa tận mắt
chứng kiến bao giờ. Lúc này, Cổ Thái kể lại chuyện ngày xưa Nguyễn Hắc dặn dò
cậu ta và Đa Linh, chúng tôi mới biết thêm một chút, Cổ Thái tin chuyện này vô
cùng, từ đầu chí cuối cậu ta vẫn cho rằng sau khi Nguyễn Hắc chết, oan hồn liền
bám vào tầng kép bên trong tàu Chĩa Ba. Biết vậy, tuy vừa kinh vừa sợ, nhưng
giờ phải bỏ tàu mà đi, cậu ta lại không khỏi cảm thấy lưu luyến, không ngừng
ngoái lại nhìn, muốn xem xem trong đám quỷ biển dưới nước có sư phụ Nguyễn Hắc
của mình hay không.
Nói tới đây, nước mắt
Đa Linh và Cổ Thái lại lã chã tuôn rơi. Hai người đặt mái chèo gỗ sang bên, đưa
tay quệt nước mắt, xuồng bên phía họ lập tức chậm lại. Tôi bèn nhân cơ hội ấy
dùng tấm gương nhỏ soi bóng lưng của Cổ Thái, đang định nhìn cho rõ, thì chiếc
gương trên tay đã bị Shirley Dương giật mất. Cô thấp giọng thì thào: “Anh lại
giở trò gì ra đấy? Đang yên đang lành, không dưng đem gương ra soi bọn họ làm
gì?”
Tôi bèn kể chuyện nhìn
thấy bóng ma thuyền trưởng trong xác tàu đắm cho cô. Shirley Dương cười cười
chế giễu: “Vừa mới rồi anh còn trách móc Cổ Thái suốt ngày nói chuyện ma quỷ,
giờ thì hay ho nhé, mồm vẫn nói tay vẫn làm, kiểu gì thì anh cũng đúng, có phải
không?”
Tôi nói với Shirley
Dương: “Tương lai của chúng ta sáng ngời, nhưng con đường phía trước thì còn
lắm chông gai, giờ lại đang lạc lối ở chốn Quy Khư mịt mùng này nữa, chúng ta
không thể nào không cẩn thận đề phòng được. Ai có thể chứng minh trên đời này
có hay là không có ma quỷ đâu chứ? Ngộ nhỡ chẳng may có thứ gì đấy không sạch
sẽ ám lên người Cổ Thái, cô và tôi tự nhiên cũng không thể buông tay đứng nhìn
được. Có điều, đợi đến khi sự việc xảy ra thì muộn mất, lúc ấy gạo nấu thành
cơm, ván đóng thuyền rồi, chẳng còn làm gì được nữa đâu. Tôi cảm thấy từ lúc ở
dưới nước Cổ Thái đã không được ổn lắm rồi, cô không thấy gì sao?”
Shirley Dương lắc đầu:
“Tôi thấy hai chị em Đa Linh và Cổ Thái đều là người thật thà chất phác, lúc ở
trong xác tàu Mariana cũng không thấy Cổ Thái có gì không bình thường cả. Tôi
biết, anh lo lắng cho tiền đồ mờ mịt của đám người chúng ta, nhưng cũng không
nên tự tạo thêm áp lực quá lớn cho mình làm gì. Tôi thấy trong phòng của thuyền
trưởng có một bức tranh vẽ ông ta, một người râu rậm đeo đồng hồ vàng tay cầm
tẩu thuốc. Căn phòng đó chật hẹp, mà chúng ta lại mang theo rất nhiều thiết bị
chiếu sáng, ánh sáng phản xạ chiết xạ giao thoa đan xen trong nước, có lẽ thứ
anh nhìn thấy trong gương chính là hình ảnh phản xạ của bức tranh ấy cũng nên.”
Tôi nghe cô nói liền
không khỏi tròn mắt lên, lẽ nào đúng là tôi hoa mắt nhìn lầm? Trong môi trường
tối tăm, thiếu dưỡng khí và áp lực cao dưới nước, cộng với ánh sáng không ổn
định của các thiết bị chiếu sáng dưới nước, chuyện này cũng không thể nói chắc
được. Có lẽ, bóng ma trong gương kia chỉ là ảo giác thôi cũng nên. Nhưng ngay
sau đó, tôi lại nghĩ lại, trong cả quá trình chúng tôi lặn xuống tìm kiếm Tần
Vương Chiếu Cốt kính, đã xảy ra rất nhiều sự việc khó có thể lý giải, chẳng lẽ
tất cả mọi chuyện ấy đều là bình thường hay sao? Thuốc xua cá mập đeo trên
người chúng tôi tại sao lại cùng lúc tan hết chỉ trong nháy mắt? Tại sao lũ cá
dữ ấy lại truy đuổi chúng tôi như là phát điên lên vậy? Cẩn tắc vô áy náy, giờ
đội chúng tôi đã mất đi một thành viên, muốn đưa những người còn lại sống sót
trở về, làm sao tôi có thể xem nhẹ bỏ qua những sự việc quái đản ấy được chứ?
Khinh núi chớ khinh biển, biển lớn từ cổ chí kim đã nuốt chửng không biết bao
nhiêu sinh linh, vong hồn oán quỷ dưới đáy biển này tuyệt đối không ít hơn trên
lục địa bao nhiêu, vả lại, những chuyện dưới biển thật khó giải thích, chẳng
biết còn phức tạp hơn trên rừng sâu núi thẳm bao nhiêu lần nữa. Mô Kim hiệu úy
chúng tôi thường hay khoa trương, nói rằng mình không phải người tầm thường,
nên toàn gặp những việc phi thường, kiến văn của hạng phàm phu tục tử không thể
đem ra so sánh với chúng tôi được, nhưng ra đến biển, bọn chúng tôi cũng chẳng
khác nào kẻ mù dở, thậm chí còn không hiểu biết bằng Minh Thúc, thật đúng là
mỗi nghề mỗi vẻ.
Shirley Dương định an
ủi tôi mấy câu, nhưng nghe tôi xả ra một tràng như thế, cũng không khỏi nhíu
hàng lông mày lá liễu lại. Đối với hành động lặn xuống trục vớt Tần Vương Chiếu
Cốt kính vừa rồi, trong lòng cô cũng còn rất nhiều nghi vấn, song trước mắt lại
không có đầu mối gì, chỉ thấy cứ vừa khua động mái chèo gỗ, vừa ngẩn ngơ thất
thần nhìn xuống nước không nói không rằng.
Lúc đó, Tuyền béo chợt
lên tiếng: “Hai người thật đúng là chẳng ra sao cả, đừng có chuốc thêm việc vào
mình nữa chứ. Tốt nhất là nên tập trung tinh thần, nghỉ ngơi lấy lại sức rồi
nhân lúc hải nhãn không có nước, chèo thuyền thẳng ra ngoài là xong xuôi, chẳng
phải lo nghĩ gì sất. Với lại, hai người cũng đừng có thì thà thì thào lén lút
nữa, lão giặc già Hồng Kông bên kia đang giở trò kia kìa.”
Tuyền béo muốn bảo tôi
để ý động tĩnh của Minh Thúc. Chúng tôi bèn đưa xuồng cứu sinh áp sát lại gần
xuồng của ba người bọn Minh Thúc, chỉ nghe lão ta đang an ủi Cổ Thái và Đa
Linh, rồi bảo mình thật lòng rất thích hai người bọn họ, khuyên hai chị em đừng
sang Pháp tìm người thân làm gì nữa, chi bằng ở lại bái lão làm sư phụ còn hơn.
Lão còn vỗ ngực huênh hoang: “Tại sao lại gọi ta là Minh Thúc chứ? Bởi vì ta
đây chính là ánh sáng quang minh, ở Nam Dương có ai mà không biết, chỉ cần đi
theo Minh Thúc này thì sẽ vĩnh viễn không bao giờ bị bóng tối bao trùm…”
Tôi và Tuyền béo lập
tức xỉa xói cho lão một trận: “Bác bốc phét lên cao quá cẩn thận ngã dập mông
đấy. Bác là cái gì tưởng chúng tôi còn không rõ hay sao? Một tên đầu cơ phá sản
từ lúc nào biến thành thánh nhân thế nhỉ? Đúng là da mặt còn dày hơn cả tường
thành nữa.”
Cho dù trước lúc lâm
chung Nguyễn Hắc không có lời nhờ vả, tôi cũng không thể mở mắt trân trân ra
nhìn Cổ Thái và Đa Linh nhảy vào cái hố lửa mang tên Minh Thúc này được. Sau
khi tìm được cha ruột của Đa Linh, cô hẳn sẽ có được một cuộc sống vốn thuộc về
mình; còn Cổ Thái mới chỉ mười lăm mười sáu tuổi đầu, tiền đồ rộng mở thênh
thang. Cậu ta không giống như tôi với Tuyền béo hồi mười lăm mười sáu, chúng
tôi thời bấy giờ không có quyền lựa chọn tương lai cho mình. Năm đó, có một câu
vè là “Không hỏi đức trí thể, chỉ hỏi hàng thứ mấy. Không hỏi hàng thứ mấy, thì
hỏi năm mươi mấy.” Ý là, thanh niên phải lên núi lên rừng, nếu trong nhà có
nhiều anh chị em thì anh cả ở lại, anh hai đi, anh ba ở lại, em út đi. Vì vậy,
khi tham gia đội thanh niên về nông thôn sản xuất, người ta đều hỏi xếp thứ mấy
trong nhà. Ngoài ra, những thanh niên được ở lại thành phố có thể thay thế vị
trí của cha mẹ, nhưng điều kiện tiền đề là phải xem cha mẹ năm mấy tuổi rồi.
Vậy mới nói, đám người thế hệ chúng tôi trước năm ba mươi tuổi đều chẳng có
quyền lợi gì đối với vận mệnh của chính mình cả.
Còn Cổ Thái không chỉ
có thể lựa chọn theo sư tỉ Đa Linh của mình sang Pháp, Shirley Dương cũng có
thể sắp xếp cho cậu ta sang Mỹ đi học hoặc dứt khoát ở lại đảo Miếu San Hô theo
Võ thọt học buôn bán làm ăn, cần gì phải đi theo lão giặc già Minh Thúc học mấy
ngón nghề vô dụng của lão rồi đi làm toàn những việc liều mạng lên núi đao
xuống chảo dầu cơ chứ.
Tôi hiểu rất rõ, Minh
Thúc chẳng qua chỉ nhắm vào thân phận Long hộ của Cổ Thái, hình xăm Thấu hải
trận trên người cậu ta, sợ là trên đời đã không còn cái thứ hai nữa rồi. Bị tôi
và Tuyền béo vạch mặt, lão già nào dám đắc tội với hai chúng tôi, đành cố nuốt
cơn tức, thèm thuồng nhìn chòng chọc lên lưng Cổ Thái. Lão không biết chuyện
lúc ở dưới nước Cổ Thái đã bị cá mập tấn công, vẫn cứ ngỡ hình xăm Thấu hải
trận là bí mật không truyền ra ngoài của Đản nhân thời cổ đại, chỉ hận không
thể xăm lại toàn bộ những hình vẽ phức tạp ấy lên người mình rồi nhảy xuống
biển mò ngọc, đánh nhau với cá dữ.
Xuồng cứu sinh đã lênh
đênh trên mặt nước hồi lâu, mắt thấy khoảng cách với tòa thành cổ nổi trên mặt
nước kia mỗi lúc một gần hơn, tôi tạm thời không phân tâm để ý đến Minh Thúc
nữa, chỉ cùng Shirley Dương tập trung chú ý về phía trước. Không biết trong di
tích cổ còn bảo tồn được tương đối hoàn hảo kia có nguy hiểm gì hay không,
chúng tôi vừa chèo xuồng tiến lên, vừa bảo Tuyền béo chuẩn bị vũ khí và thiết
bị chiếu sáng.
Đúng lúc ấy, Minh Thúc
dường như phát hiện ra trên lưng Cổ Thái có gì đó, chỉ tay vào hình xăm kêu lên
với chúng tôi: “Tổ... tổ tiên của Đản nhân... hình như đều từ trong hải nhãn
này ra ngoài... trên lưng thằng nhãi này... hình xăm... trong hình xăm... có...
có ngọn núi trước mặt kia kìa!”
Chương 39: Điện rồng
Ngồi trên chiếc xuống
cứu sinh nhỏ, Minh Thúc chợt nhận ra hình xăm trên lưng Cổ Thái có điều kỳ lạ.
Trong hình xăm Thấu hải trận ngoằn ngoèo chằng chịt ấy, không ngờ lại có ngọn
núi của vùng Quy Khư thần bí, lão kinh ngạc ra mặt, vội vàng báo với chúng tôi
thông tin mới mình vừa phát hiện.
Mặt nước dập dềnh cuộn
sóng, tôi nghe Minh Thúc bảo trong hình xăm có quang cảnh bên trong Quy Khư,
bèn ngừng tay chèo, rồi chỉ huy cả bọn cho hai chiếc xuồng áp sát vào nhau, cố
định bằng dây thừng gắn móc. Minh Thúc nôn nóng nói liền một hơi: “Đản nhân là
dân lang bạt trên biển từ thời Tiên Tần, hình xăm trên người Long hộ chính là
được truyền từ thời đó đến nay, có thể thấy, Quy Khư bên dưới vực xoáy San Hô
này có lẽ chính là sào huyệt của tổ tiên nhà bọn họ. Các chú mau đến xem xem,
hình xăm trên người thằng nhãi này có giúp chúng ta tìm được lối thoát ra bên
ngoài kia không?”
Chúng tôi mượn ánh sáng
phát ra từ tầng nham thạch phía trên, chăm chú nhìn lưng Cổ Thái. Khắp người
cậu ta đều xăm hình cá hình rồng vờn trên sóng biển, ý là tự cho mình thuộc
loài có vảy, lúc xuống biển giết trai mò ngọc không bị các loài thủy tộc làm
hại, tục gọi là “thấu hải”. Cách thức xăm mình và bí dược sử dụng để xăm xưa
nay đều không truyền ra ngoài. Tương truyền, từ mười tuổi là Đản nhân đã bắt
đầu xăm mình. Hình xăm Thấu hải trận trên người biểu thị đứa trẻ đã trở thành
Long hộ, có thể một mình xuống biển thăm dò long huyệt. Trải qua năm tháng,
tuổi tác lớn dần, hình xăm đó không những càng ngày càng thêm rõ nét và phức
tạp, mà màu sắc cũng trở nên rực rỡ hoa lệ hơn. Đến khi về già, hình xăm lại
dần trở nên mơ hồ mờ nhạt, tới lúc đó thì Long hộ sẽ không thể xuống biển mưu
sinh được nữa.
Tôi từng đặc biệt lưu ý
đến hình xăm trên lưng Cổ Thái, nhưng lúc này nhìn kỹ lại lần nữa, không ngờ lại
thấy có rất nhiều biến hóa so với trước, thấp thoáng ẩn hiện giữa những hình
xăm ngư long vờn sóng, còn có một tầng đồ án mờ mờ, phải tập trung ánh mắt vào
đó nhìn chăm chú một lúc lâu mới có thể nhận ra được ngọn núi nhô lên khỏi mặt
nước. Ngọn núi ấy rỗng lòng, bên trong có cây trụ đá đổ nghiêng đè lên một con
cương thi mặt mũi hung dữ nanh ác nằm giữa đống xương người chất ngất. Dưới
chân núi là một rặng san hô trùng điệp hang động đan xen chằng chịt, cơ hồ có
cả mộ huyệt của giao nhân với hình ảnh mấy cái xác giao nhân hình dạng cổ quái
vô cùng và một bộ xương rồng cuộn tròn nằm sâu bên trong.
Cổ Thái không hề biết
hình xăm trên người mình còn có hình ẩn hết sức chi tiết như thế, lại càng
không thể rõ bản thân và chốn Quy Khư thần bí này có quan hệ như thế nào. Cha
mẹ cậu ta mất sớm, chắc hẳn còn một số bí mật của Đản nhân vẫn chưa nói hết cho
cậu ta. Tôi xem kỹ thấy hình xăm Thấu hải trận không còn điểm gì đặc biệt khác,
bèn vỗ vỗ vai Cổ Thái, bảo cậu ta không cần lo lắng: “Nhãi con, coi như cậu
được về quê cha đất tổ rồi đấy nhé.”
Nói đoạn, tôi giơ ống
nhòm lên, nhìn ngọn núi hãy còn cách chúng tôi chừng mấy trăm mét. Đỉnh núi đá
xám chì lởm chởm nổi bật trên nền sóng dập dềnh. Trong Quy Khư hải khí phun
trào từng đợt, khí lưu đan xen hỗn loạn, sương khói mù mịt, nhìn qua ống nhòm
chủ yếu thấy những đường nét chính, di tích cổ nổi lên từng khối từng khối rải
rác sừng sững, đôi lúc phảng phất như có những bóng người hư ảo.
Tôi nhìn đi nhìn lại
mấy lượt, sau đó đưa ống nhòm cho Tuyền béo xem. Hai chúng tôi đều mang máng có
cảm giác vô cùng quen thuộc. Mười mấy năm trước, trong động Bách Nhãn nằm giữa
thảo nguyên Mông Cổ và sa mạc, chúng tôi từng thấy ảo ảnh về một tòa thành ma ở
Quy miên địa. Kiến trúc cổ xám xịt ấy không ngờ lại rất giống nơi đây. Nếu ngọn
núi này không phải ảo ảnh trên mặt nước, vậy thì quá nửa là có liên quan rất
lớn đến trải nghiệm lần đó của chúng tôi rồi. Từ hồi xưa tôi đã có một dự cảm
rất mãnh liệt, rằng tòa thành cổ mà tôi trông thấy trong ảo ảnh ở động Bách
Nhãn, chính là nơi số mệnh đã định sẵn tôi sẽ phải đến, không ngờ hôm nay lại
ứng nghiệm thế này.
Minh Thúc quay sang hỏi
Shirley Dương: “Trong đám chúng ta, kỳ thực cũng chỉ có cô Dương mới là người
hiểu biết nhất. Cô xem, hình xăm trên người cậu nhóc này có phải là bản đồ Quy
Khư không? Có nó chỉ đường dẫn lối... chúng ta liệu có... trở về được không?”
Shirley Dương nói:
“Đường nét của Thấu hải trận đích thực rất giống địa hình của Quy Khư, ngọn núi
nổi trên mặt nước kia cũng khá giống núi trong hình xăm, nhưng đồ án trên lưng
Cổ Thái quá trừu tượng, cùng lắm chỉ là một tiêu chí, không thể coi là bản đồ
chính xác được. Vả lại, tôi cảm thấy... đây không phải ngọn núi, cũng không
phải di tích cổ thành, mà là… mộ táng người Hận Thiên thì đúng hơn.”
Minh Thúc cả kinh thốt
lên: “Mộ cổ của người nước Hận Thiên? Quy mô này hình như hơi lớn thì phải? Vậy
cái xác bị cây cột trụ khổng lồ đè lên, lại còn những ký hiệu lằng nhằng dưới
chân núi này là thế nào? Bên dưới cổ mộ có xương rồng hả?”
Shirley Dương đáp lời
Minh Thúc: “Nước Hận Thiên xưa nay vẫn được coi là ‘Mê tông chi quốc’ trong
lịch sử, vả lại, hiểu biết của người đời đối với Quy Khư thật quá ít ỏi, giờ
chúng ta cũng chỉ là đang suy đoán lung tung mà thôi, kết luận điều gì cũng vẫn
còn quá sớm. Lại nói, sóng biển mỗi lúc một lớn, còn tiếp tục ở lại trên mặt
nước, sợ rằng xuồng cứu sinh sẽ bị sóng đánh lật mất. Dù phía trước là hung hay
là cát, chúng ta cũng chỉ còn cách mạo hiểm xông lên thăm dò thôi vậy.”
Tôi và Tuyền béo đều
biểu thị đồng ý, nước ở chốn Quy Khư mênh mông không bờ bến này lúc lên lúc
xuống, không biết lúc nào sẽ có sóng lớn ngập đầu, ngộ nhỡ xuồng cao su lật,
người rơi xuống nước thì chỉ có làm mồi cho lũ cá dữ dưới kia. Bốn phía mênh mang
không có nơi nào đặt chân được, chỉ có di tích cổ của người Hận Thiên là nơi
tạm thời tránh sóng gió duy nhất. Vậy là, cả bọn lại cầm mái chèo gỗ lên, quạt
nước đưa hai chiếc xuồng cứu sinh tiến về phía trước.
Tôi ôm đầy một bụng
nghi hoặc, không nén được phải cất tiếng hỏi Shirley Dương: “Hình xăm Thấu hải
trận trên người Cổ Thái cũng kỳ lạ thật đấy, hay là cậu ta là ‘Người đến từ
Atlantic’ thật nhỉ?”
Shirley Dương trầm ngâm
suy đoán: “Nước Hận Thiên trơ trọi ngoài biển, cách xa vùng trung tâm nền văn
minh Hoa Hạ, vì vậy rất nhiều người không tin nơi này từng có một nền văn minh
thanh đồng phát triển thịnh vượng. Đất nước của bọn họ có lẽ tiêu vong vào
khoảng cuối thời kỳ Chiến Quốc, những người sống sót lưu lạc trên biển, bị giai
cấp thống trị Tần Hán coi là Đản nhân. Theo tôi thấy, Cổ Thái chính là hậu duệ
của người nước Hận Thiên. Thủy tính tinh thông, cùng với hình xăm miêu tả
truyền thuyết về nước Hận Thiên trên lưng cậu ta, chính là minh chứng rõ nhất.”
Trong thuật Ban Sơn
phân giáp của Ban Sơn đạo nhân thời xưa, có một loại kỳ thuật gọi là thuật ẩn
tướng, dùng bí dược xăm lên da người, hình xăm sẽ lập tức ẩn đi, sau khi ngâm
nước muối mới hiện ra. Có lẽ, Đản nhân sở hữu rất nhiều bí phương, trong đó bao
gồm cả loại thuốc nước sử dụng vật liệu đặc thù dưới biển để xăm mình. Bí mật
cổ xưa của người Hận Thiên được giấu trong hình xăm Thấu hải trận, truyền từ
đời này đến đời khác, chỉ khi ngâm vào nước ở Quy Khư mới hiển lộ chân tướng.
Không có điều kiện đó, người ngoài sẽ vĩnh viễn không thể phát hiện được truyền
thuyết ẩn giấu về di tích cổ của nước Hận Thiên.
Trong các khe sâu dưới
đáy nước Quy Khư có suối nước nóng phun trào, ngoài ra, nơi này còn có những
xung mạch tần số thấp làm nhiễu loạn tín hiệu điện tử, không hiểu là từ thứ gì
phát ra nữa. Nước ở nơi này không mặn cũng không nhạt, đại để chắc còn chứa một
chất gì mà nước biển ở nơi khác không có, nồng độ có lẽ dần tăng theo độ sâu
của nước biển, nên thuốc xua cá mập dùng bí phương phối chế của chúng tôi xuống
đến độ sâu thích hợp lập tức bị hòa tan. Đồng thời, chất thuốc ngấm trong hình
xăm của Cổ Thái cũng nảy sinh phản ứng, tạo nên một cái bóng mơ hồ, sau đó,
hình xăm ẩn bên dưới mới hiển lộ ra ngoài. Nhưng dưới đáy nước Quy Khư kia rốt
cuộc có thứ gì vậy? Cửa sinh của nơi này nằm ở đâu?
Trong lúc nói chuyện,
xuồng cứu sinh đã đến gần ngọn núi đá nhô trên mặt nước. Mấy chục mét phía
trước có mấy khung cửa đá lừng lững, màu sắc chất đá rất khác biệt, nhất thời
chúng tôi cũng khó phán đoán được nên tiến vào từ đâu. Tôi giơ tay lên bảo cả
bọn giảm tốc độ, lúc này ở nham tầng phía trên, ánh sáng của âm hỏa đã bị hải
khí nồng đậm che lấp, âm hỏa chuyển thành màu máu, tựa như có từng dòng máu
tươi chầm chậm lưu động phía trên, nhuộm mặt nước thành một màu đỏ sẫm.
Ngồi trên hai chiếc
xuồng nhỏ tròng trành, ngoảnh mặt nhìn bốn phía, cả bọn chúng tôi đều có chung
một cảm giác: địa hình của chốn Quy Khư thần bí này, càng nhìn lại càng thấy
giống trong bụng một con cá voi khổng lồ, âm hỏa ở vách đá trên cao kia phảng
phất như mạch máu của cá voi không ngừng lưu thông, trong bụng cá, biển máu
cuộn trào, không có gió mà nước biển vẫn nổi sóng, xuồng cứu sinh của chúng tôi
tựa như hai chiếc lá dập dềnh, vừa thoát khỏi hiểm họa này đã phải đối mặt với
nguy cơ khác.
Tuyền béo cuống quýt
giữ chặt vòng sắt cố định mái chèo trên xuồng cứu sinh, kêu toáng lên: “Tư lệnh
Nhất, còn không mau tiến vào bên trong là chiếc xuồng này tiêu đời đấy, đã đến
đây rồi thì còn do dự gì nữa chứ?”
Tôi thoáng động tâm,
liền nói với mọi người: “Tôi thấy những cánh cổng đá này không hề đơn giản, màu
sắc khác nhau dường như ngầm hợp với phương vị ngũ hành thì phải. Can chi ngày
hôm nay đều thuộc hành hỏa, con rắn biển kia cùng rơi xuống Quy Khư với chúng
ta, vừa xuống đây liền toi mạng, có lẽ chính vì nó toàn thân đầy vảy trắng,
trắng thuộc hành kim, phạm phải xung khắc với hành hỏa. Bây giờ muốn sống, thì
theo tôi chèo xuồng tiến vào sơn động có cánh cổng màu đen kia.”
Những người còn lại đều
gật đầu khen phải, vung chèo quạt nước, tranh thủ khoảng thời gian ngắn ngủi
giữa hai đợt sóng đưa xuồng tiến vào cửa động dưới ánh sáng mờ ảo đỏ sẫm như
máu. Mới tiến vào sơn động trong lòng núi ngập nước tới một nửa ấy, sóng đã
lặng hẳn, hai chiếc xuồng cứu sinh lập tức trôi êm ả. Shirley Dương ngồi ở mũi
xuồng gí đèn pha chiếu sáng dò đường, chỉ thấy hang động màu xám chì này hóa ra
là một gian đại điện bị nước biển xói lở bào mòn, cửa hang kia chính là cửa
điện.
Cấu trúc gian đại điện
này có vẻ cổ phác đơn sơ, không hề có mái cong hay đấu củng[49], nhưng quy mô
hùng vĩ, dùng toàn đá tảng cỡ lớn, khí thế mạnh mẽ uy phong, phong thái thâm
nghiêm hừng hực. Tiến vào lòng điện, không gian rộng lớn mà đen tối u ám khiến
người ta có cảm giác bất an và ức chế lạ thường. Chúng tôi mới chỉ nhìn thấy
một nửa cảnh tượng, dưới làn nước xanh âm u kia, vẫn còn quá nửa di tích đang
bị nhấn chìm. Người xưa thường coi sự to lớn kỳ vĩ là cái đẹp, vì vậy trong
lịch sử cũng thường có những hành động vĩ đại kiểu như đục núi tạo tượng, xây
đền xây điện giống như thế này. Thế giới cũng có rất nhiều kỳ tích kiến trúc cổ
xưa, đa phần đều là sản phấm của mấy nghìn năm trước. Đức tin chân thành cùng
nghị lực sắt đá có thể dời núi lấp biển ấy của người xưa đều là những thứ mà
con người hiện đại như chúng ta thật không thể nào so bì được.
Chúng tôi ngồi xuồng
cao su theo dòng nước tiến vào giữa gian đại điện, thấy cảnh tượng hùng vĩ đều
giật cả mình, không khỏi thở dài trước khí phách trải nghìn năm dâu bể vẫn vô
cùng hoành tráng. Nước biển bên ngoài giội vào vách đá liên tục, ầm ầm vang dội
tựa như cả bầy hải thú gào thét, khiến người ta phải run lên sợ hãi, đến hạng
người phổi bò chẳng để tâm chuyện gì như Tuyền béo lúc này cũng im thin thít
không dám mở miệng nói tiếng nào.
Cột sáng đèn pha trên
hai chiếc xuồng cao su liên tục quét khắp hướng, chỉ thấy trên mặt nước trong
gian đại điện sừng sững vô số tượng thần cao lớn uy vũ bằng đồng thau, diện mạo
hết sức hung ác điên cuồng, mở mắt trừng trừng nhìn xuống, thần sắc cực kỳ nặng
nề nghiêm trọng. Một số bức tượng ngập nửa người, một số đổ vật, nghiêng ngả,
làm hư hại cả một phần tường và trụ đá, gian điện này được xây dựng khá kiên
cố, không thấy có vẻ gì là sắp sụp đổ cả.
Trong thời kỳ văn minh
đồng thau, đồng là trọng khí của quốc gia, kỹ thuật luyện đồng cùng với quy mô
mỏ đồng đều là những yếu tố quyết định sự hưng vong cường thịnh của đất nước.
Shirley Dương từng nói, muốn luyện được một món đồ đồng lớn như chiếc Tư Mẫu
Mậu đỉnh, chỉ riêng nhiên liệu thôi cũng gần như phải đốt hết mấy trăm mẫu rừng
nguyên sinh rồi. Giới hạn về tài nguyên khiến đồng thau trở nên cực kỳ quý giá,
chỉ được dùng trong các lĩnh vực quan trọng như nghi lễ tôn giáo hoặc chiến
tranh, ngoại giao mà thôi. Nhưng tận mắt nhìn vô số tượng thần bằng đồng thau
trong gian đại điện này, có thể suy đoán, từ mấy nghìn năm trước người dân nước
Hận Thiên đã hiểu biết và tận dụng được âm hỏa dưới đáy biển, không cần dùng
nhân hỏa và thiên hỏa cũng có thể chế tạo đồ đồng, trình độ kỹ thuật cũng rất
cao, khiến tượng đồng ngâm mấy nghìn năm dưới nước mà vẫn không suy suyển hư
hại. Nếu không được tận mắt chứng kiến, người đời sau như chúng tôi e là khó
lòng tưởng tượng nổi.
Tôi đột nhiên phát hiện
trên đỉnh đại điện hình như có thứ gì đang động đậy, bèn bảo Shirley Dương
chiếu xéo ngọn đèn pha lên. Cả bọn vừa ngước mắt nhìn, tức thì hít ngược vào
một hơi khí lạnh. Trên cột trụ của đại điện, có dây xích đồng treo mười mấy cái
đầu người bằng đồng thau, mỗi cái đầu ấy có lẽ phải nặng vài trăm cân, trông
như thể bị chém đầu rồi mới đem treo lên để thị chúng vậy. Trong một góc tối,
những thân thể bằng đồng mất đầu nằm lặng lẽ. Không biết là thứ vũ khí sắc bén
gì mà có thể chặt đứt đầu cả người đồng nặng nề to lớn như thế?
Shirley Dương cũng lấy
làm lạ, lúc nãy nói nơi đây là mộ huyệt của người Hận Thiên cũng chỉ là suy
đoán theo lý, nhưng nhìn những tượng đồng ngả nghiêng, đầu một nơi thân một nẻo
trong gian điện này, thì tuyệt đối chẳng giống một ngôi mộ cổ chút nào. Lúc
này, hai chiếc xuồng cao su vẫn chầm chậm tiến lên, có một bức tượng đồng thau
nghiêng xuống nước, đầu dựa vào trụ đá, nước biển ngập đến vai. Shirley Dương
bèn chỉnh ngọn đèn pha chiếu về phía đó, cột sáng dừng lại trên gương mặt hung
tợn dữ dằn.
Khi mực nước trong Quy
Khư dâng cao, cả ngọn núi này sẽ chìm nghỉm, tượng đồng bị nước biển ăn mòn
suốt nghìn năm, bám đầy xác các loài sinh vật thích bám trên nham thạch và kim
loại, nhưng pho tượng vẫn còn các đường nét lờ mờ nhận ra được. Minh Thúc thì
thào nói với Cổ Thái: “Cậu nhóc, tổ tiên của cậu bộ dạng trông như thế này đấy,
thành tâm thành ý vái một vái đi, để họ phù hộ chúng ta được trở về bình an.”
Cổ Thái hoang mang không hiểu gì, nhìn những bức tượng đồng cao lớn, vẻ mặt bất
an hỏi Minh Thúc: “Minh Thúc... tổ tiên tôi... sao lại bị chặt đầu thế?” Minh
Thúc bị Cổ Thái bất thình lình hỏi cho một câu, cũng không biết nên trả lời thế
nào. Nhưng lão đang muốn làm sư phụ người ta, làm sao chịu để đồ đệ hỏi cho tắc
tị được, đành quát Cổ Thái không được nói lung tung nữa, dù là đổ đấu mò vàng
hay cõng xác lật mộ hay lặn biển mò ngọc vớt thanh đầu, tất cả những cái nghề
đem mạng ra giỡn ấy, đều có hai điều đại kỵ chung. Thứ nhất, chính là không
được tò mò, thấy chuyện gì lạ cũng nhất định phải giả vờ như không thấy, tuyệt
đối không được hỏi gì.
Cổ Thái nghi hoặc hỏi
tiếp: “Tại sao thế? Có ma quỷ à?” Minh Thúc tức tối đập “bốp” một cái lên đầu
cậu ta: “Đồ ngu, còn hỏi nữa! Hồ Bát Nhất không phải đã nói với cậu từ nãy rồi
sao, cậu vừa mới phạm phải điều đại kỵ thứ hai đấy, không được nhắc đến ma quỷ!”
Tôi chẳng rỗi hơi đi để
ý xem Minh Thúc truyền dạy kinh nghiệm phong phú của lão cho Cổ Thái như thế
nào, chỉ muốn xem cho rõ hơn chút nữa, bèn cùng Tuyền béo quạt nước liên tiếp,
áp xuồng sát lại, lấy dao găm cạo một ít trầm tích bám trên bề mặt, làm lộ hẳn
ra gương mặt nhe nanh nhe vuốt của tượng đồng. Cả bọn chiếu đèn pin quây lại
xung quanh, chỉ thấy diện mạo của người khổng lồ bằng đồng xanh ấy thập phần
quái dị, càng nhìn càng thấy kỳ lạ, trong đầu đều hiện lên một câu hỏi: “Người
Hận Thiên rốt cuộc là giống người gì? Với lại, cái tên Hận Thiên đó có ý nghĩa
gì?”
Trong quan niệm truyền
thống của Trung Quốc, phương Bắc là lớn nhất, ở giữa là chính, trời là tôn quý
nhất, cho dù trong ngôn ngữ thường ngày cũng không ai dám tùy tiện đắc tội với
ông trời, nhưng chỉ riêng cái tên “Hận Thiên” này thôi đã hoàn toàn lật ngược
quan niệm coi trọng ông trời ấy rồi. Tổ tiên Đản nhân rốt cuộc là đã làm gì
vậy? Mấy người chúng tôi mỗi người góp một câu, song đều chỉ là đoán bừa, không
đi vào trọng điểm.
Tuyền béo nói: “Tôi
biết hồi trước ở Nam Hải có một tên Nam Bá Thiên, nhưng hình như sớm đã bị đội
Nương tử quân của cách mạng tiêu diệt rồi. Nam Bá Thiên là tên địa chủ chuyên
bóc lột quần chúng nhân dân, nhưng cũng không nghe nói hắn dám làm gì đắc tội
với ông trời cả. Năm đó, Hồng vệ binh tuy có lòng đấu với ông trời một phen
đấy, hiềm nỗi không đủ máy bay nên đành thôi vậy. Có điều, hùng tâm tráng chí
ấy còn có thơ ca làm chứng nhé, không phải vẫn nói ‘Dám đổi nhật nguyệt thay
trời mới’ đấy còn gì?”
Tôi nghe Tuyền béo mở
mồm ra bốc phét vung lên, lại đưa mắt nhìn tượng người khổng lồ mặt mũi nanh ác
bằng đồng thau, cảm thấy hình tượng này đúng là không phải tầm thường, trong vẻ
uy vũ nghiêm nghị dường như toát lên mầy phần tà khí, bèn nói với mọi người:
“Các đồng chí, mọi người có từng nghe kể truyền thuyết về Thượng đế và Satan
của người phương Tây không? Ác ma Tây phương Satan hình như chuyên môn đối lập
với ông trời thì phải? Nước Hận Thiên này có liên quan gì đến truyền thuyết tôn
giáo phương Tây không nhỉ? Vì trong truyền thuyết của Trung Quốc, Diêm vương
dưới địa ngục và Long vương dưới biển, hình như đều là cán bộ lãnh đạo về cơ sở
nắm giữ các công tác cụ thể, do Ngọc Hoàng Đại Đế trên trời phân công xuống,
quan hệ giữa họ là cấp trên và cấp dưới, có lẽ cũng khá khách khí với nhau.
Hình như, trong quan niệm truyền thống của người phương Đông không hề tồn tại
suy nghĩ oán hận thiên thần. Đây là một thế giới quan vững chắc hình thành từ
trong truyền thống rồi.”
Tuyền béo nói: “Ê, cậu
nói cũng có lý ra phết đấy, Satan và dân nước Hận Thiên không khéo lại là một
đấy, nghe nói Satan ở trên trời trở mặt với lãnh đạo, rồi tự mình xuống địa ngục
phát cờ dẫn đội, chuyên chống đối lại lão già râu trắng trên trời. Vả lại, cậu
nghe cái tên ấy mà xem... Satan (Sa Đản), chắc chắn là có quan hệ gì với Đản
nhân rồi, không khéo thời trẻ hắn ta cũng từng làm cái nghề xuống biển mò ngọc
rồi cũng nên ấy chứ.”
Minh Thúc và Cổ Thái,
Đa Linh nghe tôi và Tuyền béo phân tích theo kiểu “nghe vậy mà không phải vậy”
ấy, đều đần thối mặt ra, không biết nên nói gì cho phải. Chỉ có Shirley Dương
còn tương đối tỉnh táo, cẩn thận rọi đèn pha quan sát khắp bốn phía, đột nhiên
đập tay lên người tôi nói: “Anh Nhất, hai người đừng nói bậy nữa...” sau đó giơ
tay chỉ vào những đầu người bằng đồng thau phía bên trên: “Bí mật của nước Hận
Thiên ẩn giấu trên những cái đầu người khổng lồ bằng đồng kia kìa. Các anh có
biết ở phương Tây, ngoài kẻ địch của Thượng đế là Satan ra, còn có... ma cà
rồng hút máu rất sợ ánh sáng mặt trời hay không?”
Chú thích
[49] Một kết cấu đặc
biệt trong kiến trúc Trung Hoa, là tổ hợp gồm những thanh ngang từ cột trụ chìa
ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu.
Chương 40: Có gân mà
chẳng có xương
Khúc sầu thương vừa
dứt, Đa Linh và Cổ Thái lại khóc lóc thêm một lúc lâu nữa rồi mới chỉnh trang
xong di thể của sư phụ họ. Nguyễn Hắc hai bàn tay trắng, không có di sản, quý
nhất chỉ có viên “trụ nhan châu” giá trị liên thành ngậm trong miệng. Nguyễn Hắc
nghèo khổ, nửa đời mò ngọc vất vả, sau khi chết được hưởng đãi ngộ ngậm ngọc xa
xỉ của bậc đế vương khanh tướng, lại còn được táng trong vỏ trai, cũng coi như
là chết đúng nơi đúng chỗ rất thỏa nguyện rồi.
Có điều chúng tôi bới
mãi trong đống vỏ trai chất cao như quả núi nhỏ ấy mà chả thấy cái vỏ trai nào
đủ lớn lại còn nguyên vẹn để làm quan quách. Trên các vách đá vây quanh lòng
giếng trời, đâu đâu cũng có thể thấy những bức bích họa miêu tả lại cảnh người
xưa giết trai lấy ngọc, bên dưới lại chất ngất nghìn vạn cái vỏ trai rỗng
không, tôi dám chắc mười phần, chỗ này thuở xưa vốn là nơi chuyên giết trai.
Lúc ở trên biển, chúng tôi đã bắt được con trai vỏ xà cừ cực lớn, vỏ óng ánh
như tuyết, hai mảnh cài vào nhau khít chặt, không thể tìm được khe hở nào, nếu
ở đây cũng tìm được vỏ loại trai ấy thì mới gọi là linh vật thích hợp nhất để
làm quan tài.
Tôi không cam lòng, bới
sâu hơn nữa vào gò vỏ trai, định xem bên dưới có chôn cái vỏ trai ăn thịt người
nào còn nguyên vẹn hay không, chẳng ngờ mới chốc lát đã thấy lộ ra một tấm đồng
lớn. Phủi đi hết vỏ trai vỡ vụn và bùn cát, tôi thấy tấm đồng tuy bị nước biển
ăn mòn nhiều năm, song bề mặt chỉ có vài đốm đỏ lấm tấm, vẫn có thể nhìn rõ rất
nhiều hình phụ nữ khỏa thân nô đùa sóng biển, điệu bộ vô cùng yêu kiều hấp dẫn.
Chúng tôi không ngờ lại
đào được thứ này, nhất thời không biết tấm đồng điêu khắc đẹp đẽ ấy là vật gì,
tại sao lại bị chôn trong đống vỏ trai. Mặt trên tấm đồng có hai vòng đồng,
phỏng chừng đây là một cái nắp có thể mở ra được. Tôi định nói, không khéo lại
là một cỗ quan tài, nhưng ý nghĩ xoay chuyển, lại cảm thấy hình khắc bên trên
và hình dạng cái nắp đều không có vẻ thích hợp, làm gì có nắp quan tài nào lại
đúc thêm vòng đồng kia chứ? Nghĩ tới đây, lời đã ra đến miệng rồi lại nuốt vào.
Vì không rõ rốt cuộc đó là thứ gì, không dám tùy tiện nhấc tấm đồng lên, tôi
bèn vẫy tay ra hiệu cho Tuyền béo tiếp tục dọn bớt vỏ trai vỏ sò.
Tuyền béo gạt hết vỏ
trai vỏ sò xung quanh, khiến vật thể bên dưới lộ ra hoàn toàn. Thì ra, nơi này
chôn một cái vỏ ốc xanh to như lu nước, miệng vỏ ốc bị tấm đồng kia bịt kín.
Hoa văn trên vỏ ốc tự nhiên tạo hình thành một cô gái quần áo tha thướt, có cả
ngón tay dài nuột nà, eo thon nhỏ mặt mũi dễ coi, không khác gì người sống cả.
Tôi cũng thường nghe nói, trên vỏ trai vỏ ốc tự nhiên sinh ra đã có hình La
hán, Quan âm, nhưng phải đến hôm nay mới được tận mắt chứng kiến. Thì ra, câu
chuyện trên vỏ trai có hình người, không phải chỉ là lời đồn đại vô căn cứ của
đám dân chài lưới. Cái vỏ ốc có hoa văn hình dạng như cô gái này cũng có thể
coi là một món dị bảo dưới biển rồi.
Tôi gọi Minh Thúc lại
xem thử, lão cũng không biết cái vỏ ốc bị bịt bằng tấm đồng này dùng để làm gì,
chỉ phỏng đoán đây có lẽ là quan quách của người Hận Thiên thời xưa. Dạo trước,
tôi cũng từng có lần nghe nói đến quan tài bằng vỏ trai. Thời cổ đại, đích thực
cũng có phong tục mai táng kiểu vậy, nhưng đa phần đều dùng vỏ trai chứ không
phải loại vỏ ốc to như cái lu đựng nước thế này. Ngoài ra những người được táng
trong quan tài vỏ trai đa phần đều là ngư dân, và đều là những gã trai trẻ chưa
có vợ. Tương truyền, phong tục kỳ dị hiếm thấy này, đại khái xuất phát từ ý đồ
muốn kết âm duyên với trai tinh mà ra.
Tuyền béo nói: “Đúng
rồi, nếu không sao trên cái nắp bằng đồng này lại có nhiều đàn bà con gái thế
kia chứ, mà trên vỏ ốc cũng có bóng hình của mỹ nhân do tự nhiên tạo ra nữa.
Bên trong cái quan tài vỏ ốc này, chắc chắn phải là một tên háo sắc lắm, cưới
một cô vợ vẫn chưa thấy đủ, nhìn kiểu sắp đặt thế này, không biết hắn định chết
rồi cưới bao nhiêu cô vợ ở cõi âm đây nhỉ?” Nói đoạn, cậu ta liền cúi đầu đếm
số lượng các cô gái khắc trên tấm đồng, đếm mãi một lúc lâu mà không xong.
Minh Thúc nghe chúng
tôi nói đây có thể là một cái quan tài bằng vỏ ốc cực kỳ hiếm thấy, mà phàm đã
có quan tài thì ắt phải có minh khí, thử hỏi lão làm sao không động lòng cho
được? Lão khọm già Hồng Kông lập tức giở kế khích tướng, xun xoe nói với tôi và
Tuyền béo: “Phong tục nhơ nhuốc kết âm duyên với trai tinh ở nơi quê mùa ấy,
làm sao lại liên quan đến cỗ quan tài bằng vỏ ốc này được chứ? Tôi thấy cái vỏ
ốc xanh này tuyệt đối không phải vật tầm thường đâu, thi thể bên trong chưa
chắc đã là của kẻ háo sắc, mà dù sao cũng chết mấy nghìn năm rồi, hậu nhân
chúng ta làm sao có thể biết được đạo đức phẩm hạnh lúc sinh tiền của người ta
như thế nào chứ?”
Tuyền béo nghe xong,
nhe răng ra nói: “Hừ, bác Minh Thúc kia, sao bác vẫn không tin vào đôi huệ nhãn
của Tuyền béo này thế hử? Cái bánh tông trong quan tài nếu ngậm ngọc trong mồm,
thi thể chắc chắn vẫn chưa thối rữa đâu. Không tin chúng ta đánh cược, tôi đảm
bảo chắc trăm phần trăm kẻ bên trong chính là một tên háo sắc, bằng không sao
lại lưu manh giả danh cán bộ khắc lên nắp quan tài nhiều hình đàn bà con gái
thế làm gì chứ? Những kẻ háo sắc tính dục rất vượng, lông chân chắc chắn vừa
đen lại vừa dài, đây chính là một chứng cứ rất rõ ràng đấy.”
Tôi thầm nhủ, lông măng
ở chân và bắp đùi của những người thường xuyên bơi lội đúng thực là rất phát
triển, người ở vùng biển vực xoáy San Hô này, lông chân tự nhiên lại càng dày
rậm hơn nhiều. Đối với quý tộc của nước Hận Thiên, sau khi chết ngậm viên “trụ
nhan châu” trong miệng cũng không phải chuyện gì to tát, mà cái vỏ ốc này lại
kín mít không có kẽ hở, nói không chừng xác chết bên trong vẫn còn nguyên vẹn,
cả lông tóc trên người đến hôm nay sợ rằng cũng không suy suyển chút nào. Tuyền
béo cũng không phải kẻ ngốc, cậu ta đánh cược xem chân người chết trong quan
tài có lông hay không, chẳng những có sáng ý, mà còn tự mình chiếm trước bảy
phần thắng rồi. Ngộ nhỡ xác chết bên trong đã rữa nát, vậy thì cùng lắm cũng
chỉ hòa với Minh Thúc mà thôi.
Tuyền béo giở giọng
khích bác, khiến lão nông dân Hồng Kông Minh Thúc nhịn không nổi, nghiến răng
nhận lời đánh cược, xem cái xác cổ bên trong quan tài vỏ ốc rốt cuộc có phải
một tên háo sắc hay không. Hai bên thỏa thuận, vật cược của Tuyền béo là cái
đồng hồ vàng cậu ta vớt được, còn Minh Thúc sau khi phá sản thì nghèo rớt mồng
tơi, trên người không có thứ gì đáng tiền, đành lấy một viên Nam châu trong
phần chia của mình ra đặt cược.
Shirley Dương nói với
tôi: “Anh đừng để họ làm loạn nữa, anh cũng muốn làm vậy à?” Tôi cười khì khì
đáp: “Thế thì có sao chứ? Chúng ta... khảo sát khoa học thôi mà, giáo sư Trần
không phải cũng đã nói, đối với khoa học, đối với chân lý, nhất định phải mạnh
dạn nêu giả thuyết, cẩn thận tìm kiếm sự thật đó sao? Lúc còn sống cái xác cổ
này có phải là một kẻ cực kỳ mê luyến nữ sắc hay không, đây cũng là một đề tài
quan trọng trong phạm trù nghiên cứu học thuật đấy, tôi nhớ cũng có rất nhiều
học giả cắm đầu cắm cổ đi nghiên cứu về tên háo sắc Hải Lăng Vương[51] gì
đó kia mà. Bọn họ nghiên cứu được, chẳng lẽ Mô Kim hiệu úy không được nghiên
cứu à? Vả lại, nếu cái vỏ ốc xanh này là quan tài thật, vừa khéo dùng để an
táng Nguyễn Hắc cũng tốt mà. Ông ta cũng là ‘trai chưa vợ’, táng bên trong vỏ
ốc, há chẳng phải hợp hơn tên lưu manh háo sắc thời cổ đại này hay sao?”
Tôi hỏi Cổ Thái và Đa
Linh xem hai người có đồng ý hay không. Chị em họ chưa từng trải qua những sự
việc thế này, nên chỉ biết tỏ ý nghe theo sắp xếp của tôi. Vậy là, tôi lập tức
bảo Tuyền béo cạy nắp quan tài lên, cố gắng không làm sứt mẻ để sau còn dùng an
táng cho Nguyễn Hắc.
Shirley Dương cũng hết
cách, đành khuyên Minh Thúc đừng đánh cược với Tuyền béo nữa. Minh Thúc nói:
“Đã đặt cược rồi, lấy đâu ra cái lý trở mặt như vậy được? Có điều, tiểu thư
Shirley Dương cũng không cần lo lắng, Minh Thúc này là người như thế nào chứ?
Tôi còn chẳng nhớ mình từng mua bán qua tay bao nhiêu cái xác cổ rồi, mà có
thấy người chết nào vẫn còn giữ được lông chân đâu, cho dù là thi biến hay dùng
hàn ngọc bịt kín thất khiếu để hơi xác không bay mất cũng thế thôi. Tóm lại,
người chết sau một thời gian nhất định, trong hoàn cảnh đặc thù, thi thể có lẽ
vẫn còn tươi mới như lúc sống, nhưng lông chân thì chắc chắn sẽ bị rụng hết.”
Minh Thúc đắc ý ra mặt,
lại cười hì hì tiếp lời: “Tiểu thư Dương, cô xem hai tên nhãi kia, trước giờ
vẫn chẳng coi người già như tôi đây vào đâu, cũng không biết thế nào là trời
cao đất dày. Nói gì thì nói, hai người bọn họ còn thiếu kinh nghiệm lắm, non
nớt lắm, gừng càng già càng cay, cũng phải để tôi dạy cho họ một bài học chứ
lại.”
Tôi và Tuyền béo nghe
Minh Thúc nói mình đã nắm chắc phần thắng, liền ngẩng đầu đưa mắt nhìn nhau,
trong lòng đều lấy làm tức tối, thầm mắng lão giặc già Minh Thúc này đúng là
gian xảo thật. Bấy giờ tôi mới nghĩ kỹ lại, đúng là không nhớ từng thấy cái
bánh tông nào mọc lông chân cả, lần này đánh cược vội quá, thua to rồi. Có
điều, tôi cũng chẳng lo lắng lắm, vì tôi quá hiểu con người Tuyền béo, cậu ta
ngoại trừ cắt da cắt thịt thấy đau ra, thì còn một nỗi đau khác, ấy chính là
phải tiêu tiền. Chỉ cần không chiếm được lợi ích của kẻ khác, Tuyền béo đã thấy
mình thiệt thòi rồi, cậu ta làm sao có thể để lão nông dân Hồng Kông kia thắng
tiền của mình được cơ chứ?
Lúc này, Tuyền béo đã
lấy đồ nghề ra, đeo khẩu trang lên, vẫy vẫy tay với chúng tôi, ý bảo mọi người
lùi lại mấy bước, tránh để âm khí ẩm mốc trong quan tài phả ra chạm vào người,
rồi châm lửa thắp một ngọn đèn đốt bằng mỡ giao nhân lên. Có điều, lúc này căn
bản chẳng thể phân biệt được đâu là Đông Tây Nam Bắc, nên chẳng qua cũng chỉ là
thắp ngọn đèn lên theo thói quen mà thôi. Xong xuôi đâu đấy, cậu ta mới nắm
chặt vòng đồng, vận hết sức lực hét lớn một tiếng “mở” rồi kéo tấm đồng bị ấn
hõm vào bên trong miệng cái vỏ ốc xanh ra. Chỉ thấy bên trong vỏ ốc đích thực
không phải trống rỗng, dường như vẫn còn cả thịt ốc. Nắp quan tài vừa mở, liền
có một luồng khí trắng bay lên không trung, tựa như có vật báu bên trong, nhưng
mùi bốc ra thì tanh thối tởm lợm vô cùng.
Đợi khí thể màu trắng
kia tan hết, chúng tôi mới dám lại gần xem thử, chỉ thấy trong quan tài vỏ ốc
quả nhiên có một cái xác. Tôi và Tuyền béo, Minh Thúc chẳng buồn để tâm xem cái
xác cổ ấy hình dáng thế nào, chỉ nôn nóng nhìn xuống hai chân nó. Cái xác cổ
nằm cuộn bên trong vỏ ốc co như cái lu nước, hai chân trắng bệch dị dạng, nhưng
không hề thấy sợi lông chân nào cả.
Minh Thúc thấy vậy liền
đắc ý nói: “Thế nào, chân không có lông, lúc sinh tiền cái xác cổ này chắc chắn
không phải tên háo sắc, thằng béo kia, thua là phải nhận đấy nhé...”
Tuyền béo chìa ra một
bộ mặt hết sức thành khẩn nghiêm túc nói với Minh Thúc: “Chân không có lông
chưa chắc đã không phải là tên háo sắc, không có lông chứng tỏ... chứng tỏ...
chứng tỏ tên này có xu hướng tình dục biến thái, còn đáng căm giận hơn bọn lưu manh
hiếu sắc nữa. Vả lại, ban đầu chúng ta không phải đánh cược chân cái xác này có
lông đen hay không, mà là lúc sinh tiền cái xác có này có phải tên háo sắc
không? Bác muốn tôi phục thì đương nhiên cũng không thành vấn đề, nhưng ít nhất
cũng phải đưa ra chứng cứ rằng cái xác này lúc sống không phải là kẻ háo sắc
chứ?” Cậu ta rõ ràng là đang cưỡng từ đoạt lý, nhưng lại khiến người ta không
thể cãi vào đâu được.
Minh Thúc lại rơi vào
bẫy của Tuyền béo, suýt chút nữa thì tức hộc máu, định quay sang nhờ Shirley
Dương làm trọng tài. Lúc này, Shirley Dương đang quan sát cái xác cổ trong vỏ
ốc, vừa xem xét vừa nói: “Đừng cãi nhau nữa, cái vỏ ốc này vốn không phải quan
tài để khâm liệm người chết, nếu như quả núi đầy hang động và các gian điện thờ
này là mộ cổ của người nước Hận Thiên thật, thì tôi nghĩ cái vỏ ốc này rất có
thể được dùng để chứa vật bồi táng, đồng thời, giếng trời này chính là một gian
điện ngách chôn người và vật phẩm tuẫn táng theo chủ mộ.”
Tôi nghe vậy liền ngẩn
người ra, tuy những nguyên lý ban đầu của phong thủy dịch lý khởi nguồn từ thời
Tây Chu, nhưng kể từ thời Ân Thương, bất luận là thành trì nhà cửa của người
sống hay mộ huyệt an táng người chết cũng đều đã có những chuẩn tắc nhất định,
tỉ dụ như hình dạng phải “trung, chính, phương, trực”, rồi xu hướng “tọa Bắc
triều Nam”... Trên thực tế, những quy tắc này chính là nguyên hình của đạo
phong thủy, thậm chí cả những quy chuẩn kiểu “Bắc là dương, Nam là âm, núi
hướng Bắc sông hướng Nam là âm, núi hướng Nam sông hướng Bắc là dương...” cũng
đã xuất hiện trong mộ táng thời Ân Thương rồi, có thể lý thuyết Âm Dương xuất
hiện còn sớm hơn lý thuyết suy diễn ngũ hành sinh khắc rất nhiều. Có điều, nếu
nói ngọn núi có gian đại điện thờ tượng thần Xạ Nhật bằng đồng xanh này là một
ngôi mộ cổ thì quả thực quá khó lý giải. Trước thời Xuân Thu Chiến Quốc, không
thể nào có chuyện xây đại điện hùng vĩ thế này trong mộ phần người chết được.
Tôi đoán Shirley Dương
cũng biết rõ điều này, nhưng cô đã nói vậy, chắc hẳn phải có lý của mình. Chỉ
thấy Shirley Dương đeo găng tay vào, nhè nhẹ kéo cái xác bên trong vỏ ốc ra. Tứ
chi của cái xác trên tay cô mềm oặt, thân thể như dải lụa, chẳng khác nào một
cái vỏ da không chứa xương cốt gì, nhưng tai mắt mũi miệng lại còn đầy đủ, mái
tóc xanh mướt cũng không thiếu một cọng. Thi thể mặc một bộ Thiên châu y[52] hai
tay hai chân để trần, đầu đội mũ ngư cốt, thì ra là một cô gái.
Vừa nãy chúng tôi chỉ
để ý xem hai chân cái xác cổ, nên không ai ngờ hóa ra nó lại là xác nữ, trong
lòng đều không khỏi lấy làm hổ thẹn. Tôi thấy Shirley Dương dám ôm cái xác nữ
toàn thân không xương không cốt ấy ra khỏi vỏ ốc, vội kêu lên: “Thế cũng được
à? Mau bỏ xuống, cẩn thận thi biến đấy!”
Shirley Dương nói cô
muốn tìm xem bên trong cái vỏ ốc khổng lồ này có bản đồ Quy Khư không. Cái xác
phụ nữ kia mềm như bùn nhão, không có xương cốt, tương truyền thời cổ có Từ Yển
Vương[53] là người có gân mà chẳng có xương, không ngờ bọn tôi lại gặp một
cái xác như thế ở đây. Sỡ dĩ nói trong vỏ ốc đều là vật bồi táng, hoặc đồ vật
quý được chôn giấu ở đây, là bởi cái xác nữ này dường như không giống chủ mộ
cho lắm, mà giống như một món đồ sưu tầm thần bí nhiều hơn. Vả lại, vỏ ốc còn
chứa rất nhiều thứ cổ quái khác nữa. Trong lúc nói chuyện, cô đã đặt cái xác xuống
tấm đồng Tuyền béo vừa giật ra, rồi lại lấy bên trong vỏ ốc một đôi kiếm đồng
cổ màu đen như mực, một cái khay ngọc để bói mai rùa, mấy ngọn nến làm từ mỡ
giao nhân, ngoài ra còn một bình ngọc màu đen hình dáng cổ phác, miệng bình
niêm phong rất chặt, cầm cái bình ấy lên thấy khá nặng, hình như bên trong đựng
đầy thứ gì đó.
Tôi và Shirley Dương
đều lấy làm tò mò, những thứ kỳ quái trong vỏ ốc này rốt cuộc để làm gì? Chúng
tôi đang định lần lượt xem cho rõ, thì bỗng thấy Minh Thúc và hai chị em Đa
Linh đều tái mặt nhìn chằm chằm vào cái xác nữ không xương kia, mắt mở trân
trân không chớp, cơ mặt dường như đều đang co giật. Tôi vội hỏi: “Minh Thúc,
chuyện gì thế?”
Minh Thúc như bị một
thứ áp lực vô hình đè nặng, thở hồng hộc, cổ họng nghẹn lại, chỉ mở miệng cất
tiếng thôi cũng ngốn của lão gần hết sức lực: “Đó... không phải… không phải thi
thể của người đàn bà đâu... thứ ấy... là yêu tinh đấy!”
Chú thích
[50] Ý là: bắn rớt
mặt trời, chạy lên mặt trăng.
[51] Kim phế đế
Hải Lăng Vương được mệnh danh là thiên hạ đệ nhất dâm đế trong lịch sử Trung
Quốc.
[52] Áo kết từ các
hạt châu.
[53] Từ Yển Vương,
tên là Đản, sinh vào năm Chu Chiêu Vương thứ ba mươi sáu. Sử chép, Từ Yển Vương
“sinh ra mà bào thai không rách, bị cho là điềm chẳng lành, bị mang vứt xuống
sông”. Còn theo sách Thi Tử ghi lại thì Từ Yển Vương sinh ra “có gân mà chẳng
có xương”. Có lẽ là thân thể người này tương đối mềm dẻo, tựa như không có
xương vậy thôi. (Chú thích của tác giả).
Nguồn doc.178vn.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét