Xin đất làm nhà
Từ khi Trạng Quỳnh bị Chúa Trịnh đánh thuốc độc chết, nước nam ta không còn Trạng nữa, nhưng những người tài giỏi thì không thời nào không có. Con cháu Trạng cũng đều là những người thông thái khác thường.Dù nhà nghèo, nhưng không ai chịu ra làm quan. Xiển là chắt Trạng Quỳnh. Bố Xiển ngoài ba mươi tuổi mới sinh Xiển. Xiển mặt vuông chữ điền, tai to như tai phật, mồm rộng, mắt sáng. Người ta gọi Xiển là Xiển Bột vì quê Xiển ở làng Hoàng Bột (Thanh Hóa).
Nghe nói vùng Yên Lược, thuộc huyện Thọ Xuân, gần rừng núi, có nhiều đất hoang, Xiển di cư lên đấy ở.
Theo lệ làng, Xiển phải biện trầu rượu xin làng cho trú ngụ, rồi lại phải biện trầu rượu một lần nữa xin làng một mảnh đất lấy chỗ dựng túp lều tạm thời làm nơi ăn ở. Lý trưởng đánh trống họp làng, nhưng thực ra “làng” chỉ là bọn chức sắc, cường hào mà thôi. Thấy họ hay hạch sách, kênh kiệu, Xiển ghét lắm. Lần thứ hai mang trầu rượu ra đình, Xiển gãi đầu gãi tai thưa:
- Dạ, trình các cụ, con mới đến đây, ơn nhờ các cụ cho ở để hầu hạ các cụ, nhưng chưa có nhà cửa gì cả, muốn xin miếng đất đầu làng chó ỉa (1) xin các cụ xét cho.
Lý trưởng thấy rượu thì tít mắt, liền nói:
- Tưởng gì chứ miếng đất đầu làng chó ỉa ấy thì được, nào xin mời các cụ ta chén đi thôi!
(1) Làng ở đây chỉ lý hương hào mục.
Rao làng
Ngày
trước, dân ngụ cư là kẻ thấp kém nhất trong làng. Cho nên, đến Yên Lược, vừa
dựng xong túp lều, Xiển bị bọn lý trưởng bắt ra làm mõ.
Một
hôm, lý trưởng thấy một chị hàng bát ngồi ỉa ở cái bãi rậm đầu làng, liền bắt
lấy gánh bát rồi sai Xiển đi mời “làng” ra đình chia phần. Xiển vâng vâng dạ
dạ, vác mõ đi, cứ sau một hồi mõ “cốc cốc” lại rao:
-
Chiềng làng chiềng chạ! lắng tai mà nge mõ rao: Cụ lý bắt được mụ hàng bát ỉa
bậy đầu làng, mời “làng” mau ra đình mà chia phần!
Nghe
nói chia phần, bao nhiêu chứ sắc, thân hào, vội vã kéo nhau ra đình. Ðến cổng
đình, gặp Xiển, ai cũng nhao nhao hỏi:
-
Chia phần gì thế mày?
-
Con mẹ hàng bát ấy đâu rồi?
-
Có nhiều không hả mày?
Xiển
lễ phép đáp:
-
Bẩm các cụ, con mẹ hàng bát ỉa bậy đầu làng. Dạ, nhiều lắm ạ, một đống to lù lù
thế kia, có lẽ một cụ được đến vài ba bát chứ không ít đâu!
Vừa
nói, Xiển vừa chỉ về phía hai cái sọt bát đang để ở hè đình.
Đổi bò gầy lấy bò béo
Làng
Yên Lược có một cái văn chỉ lộ thiên thờ Khổng Tử. Trâu bò trong làng thả ăn cỏ
ở gần đấy kéo vào phóng uế cả ra bệ thờ. Bọn lý trưởng, cường hào thấy không
tiện, bèn họp làng, giao cho Xiển phải trông nom, rào giậu lại, và đặt ra lệ hễ
bò nhà ai vào, làng sẽ bắt làm thịt chia phần. Lệ làng đặt ra, các nhà có bò
đều dặn con hoặc người ở hết sức giữ gìn. Xiển có một con bò ốm, gầy như cái mo
khô, cứ thả cho ăn ở gần đấy. Một hôm…
Xiển
để bò vào trong khu văn chỉ, cố ý cho dân làng biết.
Ðang
thèm thịt bò, bọn lý trưởng, cường hào lập tức cho người bắt làm thịt. Xiển nói:
-
Lệ làng đặt ra, tôi không dám kêu ca gì, chỉ xin làng nhớ cho từ nay trở đi bất
cứ bò nhà ai, hễ vào văn chỉ là bắt làm thịt tuốt.
Sau
đó ít lâu, Xiển mua mấy cỗ bài tam cúc, chia cho bọn trẻ chăn bò rủ chúng tìm
đám đất khô ráo, phẳng phiu ngồi đánh. Bọn trẻ thích quá, xúm nhau, chúi mũi
vào ván bài, chẳng để ý gì đến bò mẹ nữa. Xiển lừa cho tất cả đàn bò lại gần
khu văn chỉ, rồi mở cổng ra. Thấy cỏ bên trong xanh tốt, một con vào, hai con
vào, ba con vào, thế là những con khác cũng chen nhau vào theo. Xiển đóng cổng
lại rồi chạy về gọi dân làng ra bắt bò. Bắt được hơn một trăm con, phần nhiều
là của bọn lý hương cường hào giàu có trong làng. Chúng bàn nhau:
-
Lần này, nhiều người đều phạm phải lệ làng, không lẽ ta đem làm thịt tất cả,
vậy thì xin xí xoá.
Xiển
nhất định không nghe, lấy cớ rằng lần trước làng đã ăn thịt bò của mình rồi,
nay làng tự ý bỏ lệ, Xiển sẽ kiện quan. Sợ Xiển làm to chuyện, chúng bàn nhau
đền cho Xiển một con bò, rồi bổ cho các nhà có bò bị bắt chia nhau chịu tiền.
Xiển nhất định không nghe, nói:
-
Chỉ có hai cách: một là đem làm thịt tuốt, hai là đem chia đều cho dân làng,
mỗi nhà một con.
Bọn
lý hương cường hào bàn với nhau mãi, cuối cùng phải bằng lòng theo cách thứ
hai, vì chia như vậy thì chúng còn được mỗi nhà một con, chứ đem làm thịt thì
mất cả. Thế là, không những Xiển đã đánh đổi được bò béo, mà những nhà trong
làng cũng được mỗi nhà một con.
Hâm cứt
Vì
là dân ngụ cư, Xiển thường bị bọn cường hào trong làng chèn ép. Ðể trả thù,
nhân một hôm cả bọn đang họp việc làng, chè chén cãi nhau ỏm tỏi, Xiển tìm một
cái nồi vỡ, bỏ vào tít cứt người lẫn nước, đem đến chỗ đầu gió vừa đun vừa
khuấy. Gió đưa mùi thối bay vào chỗ bọn cường hào đang họp. Chúng không chịu
được, chạy ra quát tháo ầm ĩ. Xiển xin lỗi và phân trần:
-
Thưa các ông, nhà tôi có một ổ chó con trở chứng, đòi ăn cứt sốt, cho nên phải
đun cho chúng một ít.
Lý
trưởng trừng mắt hỏi:
-
Ai bảo chú làm thế
Xiển
đáp:
-
Thưa các ông, người ta thường nói: “Lau nhau như chó đau tranh cứt sốt”. Thấy
người ta nói như vậy thì tôi cũng làm như vậy thôi.
(Theo
dân gian)
Chửa án tiêu
Bị
chơi nhiều vố đau quá, quan huyện dò mãi mới biết là Xiển, tức quá, nhưng có
muốn gây chuyện cũng không được vì ông là người khác huyện. Lão huyện bèn đem
chuyện ấy nói lại với án Tiêu và tỏ ý nhờ quan thầy trả thù hộ.
Lần
ấy, án Tiêu về quê ngoại là làng Yên Lược ăn giỗ. Lão bắt dân làng phải dọn dẹp
đường sá sạch sẽ, mang cờ quạt đón rước thật long trọng. Sáng sơm mai, án Tiêu
mới về thì chiều nay đường làng đã được quét sạch như chùi, cây cối hai bên
đường phát quang cả.
Gà
gáy, Xiển dậy lấy cứt chó đem ra đường cái, cứ cách một quãng bỏ một bãi, bãi
nào cũng cắm một quả ớt lớn (Thanh Hoá gọi ớt là hạt tiêu). Sáng ra, khi mọi
người kính cẩn đón rước án Tiêu, Xiển vác cờ đi trước, cứ hễ trông thấy bãi cứt
có cắm quả hạt tiêu, ông lại chửi: “Tổ cha đứa nào ỉa ra tiêu”. án Tiêu nằm trong
cáng nghe tiếng chửi, biết là Xiển chửi mình nhưng không đủ lý do để bắt bẻ,
đành gọi bọn lý hương lại, quở trách không chịu đôn đốc dân phu quét dọn đường
sá cho sạch và bảo chúng truyền lệnh rằng: “Quan huyện trong người khó ở, mọi
người không được to tiếng, ồn ào!”
Quan đấy
Năm
nào cũng vậy, cứ gần tết Nguyên đán, viên tri phủ Hoàng Hóa cùng vợ đi chợ tết.
Từ phủ ra chợ Bút Sơn rất gần, nhưng vốn tính hách dịch, quan phủ bắt lính cáng
ra tận cổng chợ và mang theo hai cái lọng xanh che. Hồi này, Xiển Bột hãy còn
nhỏ, xong thấy cái oai rởm của quan thì ghét lắm. Xiển mang một con chó con đi
chợ, nhưng không bán, cứ ôm ở trước bụng, lúc thì chen đi trước quan, lúc thì
lùi lại đi sau quan. Thấy Xiển mang chó, ai cũng tưởng Xiển mới mua, liên hỏi:
-
Chó bao nhiêu?
Xiển
trả lời: – Quan đấy!
Quan
phủ biết thằng bé ôm chó chửi xỏ mình, cho lính bắt lại hỏi:
-
Ai xui mày ăn nói như thế?
Xiển
đáp:
-
Bẩm quan, nhà con muốn nuôi mọt con chó con để dọn cứt cho em, nên bố mẹ con
bảo con đi mua.
Quan hỏi: – Mày là con cái nhà ai?
Xiển trả lời: – Bẩm con là chắt cụ Trạng
Quỳnh ạ!
Quan nghe nói Xiển là chắt cụ Trạng Quỳnh thì
có ý gờm, nhưng chưa tin lắm.
- Ðã là chắt cụ Trạng tất phải hay chữ. Thế
mày có đi học không?
Xiển đáp: – Bẩm quan, con là học trò giỏi
nhất vùng này ạ, quan lớn không đi học nên không biết đó thôi.
Thấy Xiển vẫn tìm cách xỏ mình, quan nổi giận:
- Mày vô lễ! Nhưng đã nhận là học trò giỏi
thì phải đối câu này. Hay tao tha tội. Dở tao đánh đòn.
Quan đọc: “Roi thất phân đánh đít mẹ học trò”.
Xiển hỏi:
- Xin phép hỏi: “Roi” đối với “lọng” có được
không ạ?
Quan đáp: – Ðược.
Xiển lại hỏi:
- Thế “đít” đối với “đầu”, “mẹ” đối với “cha”
có được không ạ?
Quan lại đáp: – Ðược!
Xiển toan hỏi nữa. Quan Quát: – Không được
hỏi nữa. Ðối đi!
Xiển liền đối: “Lọng bát bông che đầu cha
quan lớn!”
Không ngờ Xiển lại dám chửi mình một lần nữa,
để chữa thẹn, quan lấy giọng bề trên mắng Xiển qua loa một vài câu, rồi quát
bảo lính hầu sửa soạn ra về.
Tứ chứng nan y
Xiển làm thuốc. cho nên vua thường vời vào
kinh chữa bệnh. Một hôm, vua đang nô đùa cùng bầy cung phi, thì thấy Xiển bước
vào. Vua ngạc nhin hỏi có việc gì. Xiển đáp:
- Hạ thần nghe nói Hoàng thượng mắc phải bốn
bệnh hiểm nghèo mà sách gọi là “tứ chứng nan y”, nên vội vàng vào thăm Hoàng
thượng.
Vua khó chịu nói:
- Thiên hạ ác miệng nói càn như vậy, chứ lâu
nay Trẫm vẫn khẻo mạnh, có việc gì đâu! à thế “tứ chứng nan y” là nhứng bệnh gì?
Xiển tâu: – Dạ “tứ chứng nan y” họ nói đó là
què, mù, câm điếc.
Vua nổi giận:
- Ðộc ác đến mức ấy là cùng! Trấm mà biết kẻ
nào bịa chuyện phao đồn ra đầu tiên thì Trẫm sẽ cắt lưỡi chứ không tha!
Xiển nói:
- Hạ thần nghe thiên hạ đồn như vậy. Bây giờ
mới biết là sai. Nhưng nghĩ cho kỹ, thì lại thấy là có nguyên do cả đấy ạ!
Vua
hỏi: – Nguyên do như thế nào?
Xiển
giả bộ rụt rè: – Xin Hoàng thượng tha tội kẻ hạ thần mới dám nói.
Vùa
bằng lòng. Xiển nói:
-
Thiên hạ thấy Hoàng thượng suốt năm chỉ quanh quẩn trong cung điện nên họ lầm
tưởng là ngài què. Nước sắp mất mà Hoàng thượng vẫn ung dung vui thú, nên họ
lầm tưởng là ngài mù. Trước cảnh núi sông bị quân giặc dày xéo mà Hoàng thượng
cứ ngồi im, nên họ tưởng là ngài câm. Khắp nơi người ta đều kêu Hoàng thượng là
kẻ hèn yếu, khiếp nhược nhưng ngài vẫn làm ngơ ký hòa ước hàng giặc, nên họn
lầm tưởng là ngài điếc.
Vua
biết Xiển chửi mình, tức uất người nhưng không đủ lý lẽ để bắt tội được.
Xiển vào dinh tổng đốc xin tiền
Gặp
lúc hỏng thi, Xiển và mấy anh em bạn đồng môn ngồi buồn mới giở trò bù khú với
nhau. Anh em biết Xiển có tài ứng đối, thách Xiển vào xin tiền quan tổng đốc.
Bấy
giờ tổng đốc Thanh Hóa khét tiếng là một người hiếu sát. Xiển bắt anh em giao
kèo: nếu xin được tiền thì anh em cứ tính một đền thành ba, nghĩa là anh em sẽ
phải trả cho Xiển một số tiền gấp ba số tiền Xiển xin được của quan. Bằng không
dám xin, hoặc xin không được thì Xiển phải thết anh em một bữa no say. Tưởng
đùa vui, nào ngờ Xiển vào tận dinh quan. Ai nấy chắc phen này Xiển sẽ làm ma
không đầu.
Một
buổi sáng nọ, quan vừa mở mắt ra công đường đã thấy Xiển quỳ ở ngoài sân. Quan
quắc mắt hỏi:
-
Thằng kia! Mày tới đây có việc gì?
Xiển
thưa:
-
Bẩm cụ lớn, con muốn nhờ tay cụ lớn hóa kiếp cho con.
Quan
quát: – Thằng này muốn chết à?
Xiển
trịnh trọng nói:
-
Bẩm chính thế à. Con nghe nói lưỡi gươm cụ lớn sắc lắm, nên muốn xin cụ lớn một
nhát để hồn về chín xuối cho được mát mẻ.
Quan
gắt:
-
Thật là đồ điên, cuồng, ngu, ngộ. Vì sao mày lại muốn chết?
Xiển
đáp:
-
Bẩm cụ lớn, con là học trò thi hỏng, nhà lại nghèo, nghiệp đèn sách chẳng ra
sao, nghĩ tủi thân hổ phận chả muốn sống nữa.
Quan
thấy Xiển dáng người học trò nho nhã, lại đối đáp đâu ra đấy một cách bình tĩnh
liền bảo:
-
Nếu học trò học giỏ mà hỏng thi thì cũng còn đáng thương. Nếu dốt mà hỏng lại
đòi chết thì chết cũng đánh đời. Vậy hãy ứng khẩu một bài thơ lấy đề là “điên
cuồng ngu ngộ” ta xem.
Xiển
vâng lời, ứng khẩu đọc một hơi, mối câu có một trong bốn chữ của đầu đề:
Cao Tổ điên hào kiệt
Võ Ðế ngộ thần tiên.
Tặng Ðiểm cuồng thiên địa
Nhan Tử ngu thánh hiền
Võ Ðế ngộ thần tiên.
Tặng Ðiểm cuồng thiên địa
Nhan Tử ngu thánh hiền
Nghe
nói xong, quan biết Xiển có ý xỏ ngọt mình, song thấy Xiển là kẻ xuất khẩu
thành chương, kính điển lau làu, văn thơ hàm súc, tỏ ra là người học thức rộng,
lại có khí phách, liền thưởng cho ba chục quan tiền và bảo lui về.
Thế
là từ đó, ngoài cái tên Xiển Bột còn có một cái tên nữa là Xiển Ngộ.
Đánh trống cấm
Sau
một thời gian làm mõ, Xiển lại phải làm đầy tớ hầu điếu tráp cho lão chánh
tổng. Một lần, lão chánh tổng đi chơi xa, Xiển theo hầu.
Khi
đến làng nọ thấy có một cái trống mặt to bằng cái nong, hai thầy trò lấy làm lạ
quá, vào xem. Có tới mười người khách qua đường cũng đang bàn tán về cái trống
đó, trên tang trống có đè mấy chữ: “trống cấm”, nên chả ai dám lại gần. Bỗng
Xiển lớn tiếng:
-
Có ai dám đố tôi đánh cái trống cấm này không nào?
Một
người cười:
-
Ðến cố tổ nhà anh sống lại cũng không dám đụng đến nữa là anh.
Xiển
một hai cam đoan là đánh được, không sợ gì cả. Trong số đó có một người buôn
bán giàu có, trong túi sẵn tiền, cho là Xiển khoác lác, ngứa tai lắm, bảo:
-
Anh đánh được đủ ba hồi chín tiếng tôi sẽ cho anh năm chục quan tiền!
Xiển
nói:
-
Năm chục chả bõ, ít ra cũng phải một trăm.
Người
kia bằng lòng, bảo:
-
Ðược, anh không làm được đúng như lời nói, thì phải ở cơm không cho tôi mười
năm.
Hai
bên làm giấy giao kè, có một người đứng tên làm chứng.
Xiển
bắc thang, vác dùi trèo lên, dang thẳng cánh nện đủ ba hồi chín tiếng. Trống
kêu, vang cả tai, nhức cả óc. Vài ba người nhút nhát, sợ liên lụy, vội tháo
lui. Chiếu theo giao kèo, Xiển bắt người kia phải giao đủ số tiền.
Nghe
trống đánh bất thình lình, dân làng kinh ngạc, lũ lượt kéo nhau ra đông như
hội. Lý trưởng, tay cầm hèo, len qua đám đông, khệnh khạng bước vào đền quát
tháo ầm ĩ. Xiển ra trước mặt lý trưởng vái chào rồi gãi đầu gãi tai nói:
-
Dạ trình ông, tôi là khách qua đường, thấy cảnh làng ta trù phú, thấy đền ta
linh thiêng, nên có năm chục quan tiền trước để hầu thánh sau hầu làng. Nhưng
vì không biết làm thế nào gặp ông cùng tất cả dân làng được, buộc lòng phải
đánh vài hồi trống, xin các ông đánh chữ đại xá cho.
Thấy
có món tiền lớn, lý trưởng cùng hội đồng chức sắc thích quá, bàn nhau hãy trích
ngày ra mười quan làm bữa chén đãi ông khách hảo tâm.
Tri huyện Lê Kim Thằng
Một
hôm, nhân có lệnh của bọn chức dịnh bắt tất cả trẻ già trai gái làng hoàng Bột
phải ăn mặc chỉnh tề để đi đón quan huyện Lê Kim Thằng về làng hiểu dụ, Xiển
nghĩ ra ngay một kế. Xiển lẻn vào buồng ông nội lấy trộm chiếc áo thụng đỏ mặc
vào, rồi đi thẳng ra đình, giả vờ chạy đi chạy lại lăng xăng ngay trước mặt
quan huyện. Quan lấy làm lạ, cho lính gọi lại hỏi. Xiển xưng tên họ và nói là
học trò. Huyện Thằng liền mượn ngay việc ăn mặc ngộ nghĩnh của Xiển ứng khẩu
đọc một câu, bắt phải đối:
-
Áo đỏ quét cứt trâu.
Xiển
đối ngay:
-
Lọng xanh che đít ngựa.
Huyện
Thằng không ngờ bị một vố, tái mặt, dọa:
-
Thằng này láo! Ðã thế, phải đối thêm câu này nữa, không đối được, tao sẽ cho ăn
đòn.
Thấy
tóc Xiển đỏ hoe vì đãi nắng lâu ngày, Huyện Thằng liền ra câu đối:
-
Học trò là học trò con, tóc đỏ như son là con học trò.
Xiển
không cần nghĩ ngợi lâu, đối tức khắc:
-
Tri huyện là tri huyện Thằng, ăn nói lăng nhăng là thằng tri huyện!
Huyện
Thằng tức ứa máu, nhưng vì Xiển đối rất chỉnh, không bẻ vào đâu được, đành câm
miệng.
Xiển trả lời vua
Ðồn
rằng có một lần vua ngự tuần ra Thanh Hóa. Nghe nói con cháu Trạng Quỳnh vẫn
còn, vua bèn cho đòi đến. Xiển vâng lệnh tới hầu. Vua hỏi:
-
Trước khi Trạng chết có trối trăng lại điều chi không?
Xiển
đáp: – Dạ có ạ!
Vua
bảo: – Thế nhà ngươi hãy thuật lại lời Trạng trối trăng cho ta nghe.
-
Dạ tâu Hoàng thượng, cố tôi trước khi từ trần chỉ trối lại có một câu thôi ạ!
-
Một câu cũng được, cứ nói ta nghe.
-
Dạ, nhưng tôi không dám nói ạ!
-
Tại sao!
-
Dạ, nói ra sợ Hoàng thượng không được vui lòng.
-
Ðược cứ nói, dù câu nói ấy thế nào ta vẫn không bắt tội.
Xiển
năm bảy lần từ chối, vua năm bảy lần gặng hỏi, sau cùng Xiển mới thưa:
-
Dạ, tâu Hoàng thượng, ông tôi kể lại rằng: “Trước khi cố tôi nhắm mắt, con cháu
xúm xít quanh giường hỏi cố tôi có dặn con cháu điều chi không. Nhưng cố tôi
không trả lời. Con cháu không yên tâm, cứ gặng hỏi mãi, cố tôi chỉ quát lên một
câu: “Hỏi cái mả cha bay hay sao mà hỏi mãi thế?”, rồi tắt thở.
Vả quan huyện
Có
một viên quan huyện hay nịnh hót quan trên để chóng được thăng quan tiến chức.
Một trong những viên quan hắn thường bợ đợ là án sát Nguyễn Văn Tiêu, tục gọi
là án Tiêu.
Ðể
nịnh quan thầy, hắn ra lệnh cho dân hàng huyện không ai được nói đến tiếng
“tiêu”, ví dụ như hạt tiêu thì hải nói là hạt ớt… Hễ ai thấy người nào trái
lệnh thì được phép vả vào mồm ba cái thật đau, rồi đem trình quan trị tội. Lệnh
ban ra khiến Xiển đã ghét quan huyện lại càng ghét thêm. Ông mang một ít quần
áo rách mướp xin vào bái quan. Quan hỏi có việc gì, Xiển thưa là nhà nghèo quá,
gia tài chỉ còn một ít quần áo rách, nhờ quan cầm hộ cho lấy ít tiền về làm vốn
sinh nhai. Tức thì quan nổi trận lôi đình thét mắng đùng đùng, vì xưa nay có ai
dám cả gan đem quần áo rách đên bán cho quan bao giờ? Ðợi quan nguôi giận, Xiển
mới nói:
-
Dạ thưa ngài, xin ngài thương kẻ học trò nghèo túng này, không gì cũng mang
danh là người quân tử…
-
Quân tử gì mày! Ðồ quân tử cùng quân tử cố!
Xiển
trần tình:
-
Dạ, Khổng Minh túng Khổng Minh cầm ạ!
Nghe
câu nói khó hiểu, quan chau mày suy nghĩ một lúc mới biết lời mắng của mình:
“Quân tử cùng quân tử cố” với lời trần tình của Xiển: “Khổng Minh túng Khổng
Minh cầm” (1) đã làm thành đôi câu đối hay tuyệt. Quan phục tài Xiển, thưởng
cho một quan tiền, nhưng lại chọn cho cái thứ tiền chôn giấu dưới đất lâu ngày
bị han rỉ hết cả. Xiển đỡ lấy quan tiền, cầm một đồng dằn mạnh xuống đất, tiếng
kêu nghe cành cạch, rồi nói:
-
Bẩm quan, tiền này không “ớt” được ạ!
Quan
vô tình mắng:
-
Mày điên à! Tiền này mà không tiêu được ư?
Chỉ
chờ có thế, Xiển liền vả cho quan ba cái tát vào mồm như trời giáng. Quan hô
lính bắt trói. Xiển ngăn lại nói:
-
Chắc ngài vẫn chưa quên cái lệnh kiêng tên húy quan án ngài mới ban ra. Tôi làm
vậy cũng chỉ là thi hành cái lệnh ấy của ngài mà thôi!
Quan
sợ bọn lính biết chuyện thì mình thêm xấu hổ, liền đuổi Xiển ra.
Con xin xuống ạ
Một
anh trộm vào nhà một đôi vợ chồng trẻ, nấp trên chạn nhà, rình cơ hội. Trong
đêm tối nghe có tiếng lục cục và tiếng chị vợ thì thầm: “Nó đâu rồi?”
-
Ðây, đây! – Tiếng anh chồng.
-
Nằm trên à? – Tiếng chị vợ.
Trộm
ta lo quá, chắc vợ chồng nhà nó biết mình nằm trên chạn này rồi. Ðang nghĩ cách
tháo, thì bỗng chị vợ thú quá kêu lên:
-
Có sướng không? Có sướng không?
Trộm
ta hoảng quá, van lạy rối rít:
-
Lạy bà, lạy cả hai ông bà tha cho, con xin xuống ngay bây giờ đây ạ!
Làm ma mẹ
Bọn
chức sắc, hương lý trong làng lúc nào cũng nghĩ đến rượu thịt. Thấy bà mẹ Xiển
vừa mới mất, chúng bắt phải làm ma, mời “làng” đến ăn uống.
Nhà
Xiển nghèo lắn, đến khoai sắn còn không có ăn thì lấy gì làm ma, nhưng không
làm chúng sẽ đuổi đi khỏi làng. Nghĩ được một mẹo, Xiển bèn đi nói khéo với
những tên chóp bu:
-
Chả nói các cụ cũng thừa biết, nhà túng quá, xin các cụ rộng lượng để được chôn
cất ngày hôm nay cho mồ yên mả đẹp; còn việc ma chay, xin các cụ cho khất đến
tuần mồng một sắp tới, vì còn phải vay mượn bà con xa gần, không gì cũng phải
kiếm con lợn dăm chục cân, mươi đấu gạo xôi…
Thấy
nhà Xiển nghèo túng thật, các “cụ” đành cho khất vậy.
Tuần
mồng một tới, Xiển mua chịu được một con lợn thật to, thật béo, nhà chủ giao
hẹn ba hôm sau phải trả đủ tiền. Xiển làm thịt ngay, rồi cất thịt vào trong
buồng. Xiển nhờ người mời “làng” đúng chiều hôm ấy tới uống rượu. Khi “làng” đã
tề tựu đông đủ, Xiển mới đem ít mỡ bỏ vào xanh với mười củ hành, rán lên. Mùi
mỡ bay ra thơm phức khiến “làng” đang ngồi la liệt trong cái rạp dựng ở ngoài
sân, cứ nuốt nước miếng ừng ực. Xiển bưng xanh mỡ cất đi, rồi lừa lúc không ai
để ý, châm một mồi lửa lên mái bếp.
“Làng”
đang chờ cỗ bưng ra, sốt cả ruột, bỗng nghe tiếng hô hoán nhìn ra thì thấy cái
bếp đang bốc cháy. “Làng” hoảng quá, xôn xao ùn ra khỏi rạp. hầu hết những
người đi đám đều quần trắng áo dài chỉnh tề, không dám xông vào chữa cháy. Bà
con xóm giềng kẻ xách thùng, người vác câu liêm, chạy đến, thì cái bếp đã thành
một đống lửa. Xiển mặt mũi, quần áo như ma lem, kêu khóc thảm thiết:
-
Ối trời đất ôi là trời đất! Ối cha mẹ ơi là cha mẹ ôi! Ối
làng nước ôi là làng nước ôi! Cháy mất hết cả bếp nước, cả cỗ bàn rồi, còn lấy
gì mà làm ma làm chay nữa… i hi hi!
“Làng” tưởng cỗ bàn cháy thật, còn xơ múi gì
nữa, không ai bảo ai, kẻ trước người sau, ra về cả.
Gà gáy đêm ấy, Xiển gánh thịt lợn đi chợ xa
bán. Chiều hôm sau, Xiển mang tiền về trang trải xong nợ, còn thừa một ít, mua
ngay mấy cây tre làm lại cái bếp.
Nguồn saigoninfo.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét