Chương 52: Giao lão
Chúng tôi đều không ngờ
trong hang động tối đen dưới đáy nước lại chui ra một con tàu, vừa liếc thấy
một khối đen lù lù, mũi tàu điêu khắc hình quỷ biển đã đến trước mặt rồi. Cái
đầu tàu hình mặt quỷ gỉ hoen gỉ hoét ấy, hóa ra chỉ là phần mũi của xác một con
tàu lớn, bọn tôi vừa nhìn qua tiêu ký đầu quỷ hung ác kia đã liền biết ngay đây
là một tàu hải tặc bị đắm. Cả bọn đang ôm chặt cây san hô, nào kịp tránh, bị
luồng nước từ đáy sâu cuộn lên xốc thẳng vào người. Mảnh xác tàu lướt sát sàn
sạt qua phía trên đầu chúng tôi, húc thẳng vào hóa thạch san hô phía sau, rồi
rơi ầm xuống, làm dấy lên thêm một trận bùn đất mịt mù, một phen nữa khiến lũ
tôm cá ở xung quanh kinh hãi bơi túa đi.
Tôi thấy tình cảnh ấy,
hiểu ngay rằng mảnh vỡ tàu hải tặc chôn vùi ở đây không biết bao nhiêu năm rồi
ấy, đã bất thình lình bị một luồng sức mạnh khổng lồ đẩy bắn ra ngoài. Nhưng
nhân vật chính vẫn chưa xuất đầu lộ diện. Không còn thời gian đâu mà hồi tưởng
lại khoảnh khắc kinh hồn bạt vía lúc nãy nữa, tôi vội hướng ánh mắt về phía
hang động đen ngòm. Hai con mắt khổng lồ phản chiếu ánh sáng của trăm viên minh
châu, trông tựa như hai ngọn đèn đường, chớp chớp tắt tắt, đang từ trong hang
động tối tăm dịch chuyển ra ngoài.
Con quái thú hung hăng
ẩn mình trong hang động ấy lớn đến độ khiến người ta phải trợn mắt kinh hoàng,
cặp mắt đục ngầu của nó quét qua quét lại, thân thể khổng lồ nhích động, cuốn
theo những luồng sóng ngầm mạnh mẽ, khiến cả khu rừng san hô nơi đáy nước như
rung chuyển.
Tôi ngẩng đầu nhìn lên,
trong các hang hốc nhỏ chi chít như lỗ tổ ong trên cây san hô hóa thạch, lốc
nhốc giao nhân đen kịt ra ra vào vào, số lượng không đếm xuể, đã che kín cả mặt
nước rồi. Ba cái xác trẻ con tàn khuyết của bọn tôi lúc này đã chẳng còn giữ
được hình dạng ban đầu, không rõ có thể xua được lũ ác quỷ kia hay không nữa.
Hệ thống quẻ Chấn rõ
ràng đã không còn công hiệu, chúng tôi lại còn gây họa khiến trai tổ mất mạng,
làm con quái vật kia xông ra đoạt minh châu khảm trên tượng người đồng. Cứ tiếp
tục thế này, ngoài tự đâm đầu vào chỗ chết ra, chúng tôi cũng chẳng còn làm
được gì nữa, đành tranh thủ lúc hỗn loạn đột phá vòng vây liều mạng lên mặt
nước, thông qua đường hầm trong cây gỗ Kiện Mộc trở lại phía bên ngoài, còn làm
thế nào thoát ra khỏi Quy Khư, giờ đã không phải là vấn đề cấp bách trước mắt.
Hiện tại, nơi này đã loạn cào cào như ong vỡ tổ, bất luận thế nào cũng không
thể ở lâu nữa
Nghĩ tới đây, tôi đưa
tay làm động tác gọi cả bọn bỏ chạy. Không ngờ Tuyền béo tự tung tự tác, thấy
con hải quái kia vẫn chưa bò ra khỏi hang, liền gài luôn thuốc nổ ở cửa hang,
nhắm đúng lúc nó chui ra lập tức cho nổ. Có điều, hóa thạch san hô cực kỳ kiên
cố, sóng xung kích từ vụ nổ không thể phá sập được cửa hang, mà chỉ hất văng
được mấy con giao nhân ở gần, và làm sụt vài tảng đá nhỏ mà thôi.
Lũ giao nhân ở quanh
đấy đều bị vụ nổ bất ngờ làm kinh hoảng, cuống quýt chạy túa đi, cảnh tượng hỗn
loạn tột cùng. Đang lúc bát nháo như vậy, nếu chúng tôi nổi lên mặt nước, cho
dù bọn giao nhân không chủ động tấn công, cũng không thể tránh khỏi bị va chạm.
Giao nhân không có môi ngoài, mấy cái răng sắc nhọn như những lưỡi dao xen kẽ
của chúng chìa cả ra ngoài, chỉ cần cọ cho một phát, đảm bảo cả mảng thịt lớn
cũng bị lóc ra như chơi.
Mấy người chúng tôi
đành phải chôn chân tại chỗ, giơ ba cái xác trẻ con ra trước để phòng lũ giao
nhân đang bơi loạn xị gần đó. Tôi còn phải một tay giữ chặt lão khọm già Hồng
Kông đang cuống lên muốn bỏ chạy, ra hiệu bảo cả bọn không ai được liều lĩnh hành
động, phải nắm bắt đúng thời cơ mới được nổi lên mặt nước. Đột nhiên nước trong
động san hô sôi trào lên, một vật thể khổng lồ từ trong hang động tối tăm đội
bùn cát chui ra. Ánh sáng trắng nhàn nhạt từ những viên ngọc hắt lên màn nước
đục ngầu tạo thành những mảng xam xám lấp lóa, khiến tôi không thể nhận ra con
quái thú kia rốt cuộc là loài gì, chỉ lờ mờ trông thấy một khối đen lù lù to
tướng, lỗ chỗ rất nhiều vệt trăng trắng, từa tựa giác hút.
Cảnh tượng đó làm bọn
tôi kinh hoảng, song cũng lại không sao nén nổi tò mò. Tôi thầm nhủ, lực cản
của những dòng chảy hỗn loạn mạnh như thế, vậy mà con quái này có thể dễ dàng
hất văng cả mảnh xác tàu nặng đến hàng tấn trong hang động ra ngoài, chẳng lẽ
là một con mực khổng lồ nữa? Hay là một con cua khổng lồ thích ẩn mình trong
các hang sâu dưới đáy biển? Có điều, chỗ này tuy ở dưới đáy biển thật, nhưng độ
sâu chưa đến năm chục mét, nếu nó có quanh năm ru rú trong động san hô thật,
thì dường như không phải thứ sinh vật khổng lồ vẫn ẩn dật tít đáy biển sâu thi
thoảng mới nổi lên một lần kia.
Rốt cuộc Minh Thúc vẫn
là người thông hiểu những chuyện trên biển nhất, mặc dù cát bùn cuộn lên mù
mịt, ánh sáng từ trăm hạt minh châu khảm trên tượng người đồng bị che khuất,
cảnh tượng trước mắt mơ hồ mờ mịt, song vừa nhìn con quái thú khắp mình toàn
vảy đen, giác hút màu trắng ấy, lão dường như đã đoán ra được điều gì đó, vội
chỉ tay vào lũ giao nhân đang bơi loạn xạ ngầu, rồi lại vỗ vỗ lên bụng mình,
làm động tác như đang sinh con. Trong lúc hoảng loạn, cả bọn không hiểu ý lão
cho lắm, không biết có phải ý lão muốn bảo chúng tôi, rằng lũ giao nhân màu đen
kia, đều sinh ra ở trong hang động tối tăm hay không?
Nghĩ vậy, tôi chợt giật
nảy mình, sống lưng lạnh toát, lẽ nào Minh Thúc muốn nói: “Thứ ở bên trong hang
động tối tăm ấy, không phải hải quái gì, mà là mẫu thể của lũ giao nhân?”
Lũ ác ngư xuất hiện ở
vùng Nam Hải này, toàn thân đầy vảy thịt màu đen, vây trước có ngón tay bén
nhọn, nên được gọi là giao nhân. Nhưng chúng không phải giống nhân ngư được
nhắc đến trong các thư tịch cổ. Nhân ngư Nam Hải nói chung rất hiếm, hầu như
không tồn tại ở những nơi khác. Nhân ngư nhắc đến trong sách cổ thực ra là một
loài cá có bốn chân ở vùng Đông Hải.
Có một truyền thuyết cổ
xưa, nói rằng giao nhân bái nguyệt mà hoài thai. Những lúc trăng tròn, chúng sẽ
nổi hết lên mặt biển, hấp nạp tinh hoa của trăng sáng mà thụ thai. Nhưng sau
khi chúng tôi tiến vào vực xoáy San Hô, phát hiện dưới đáy vùng biển này thế
núi quây tròn, hải khí ngưng tụ, bầu trời lúc nào cũng có mây đen che phủ,
sương mù lan tỏa khắp mặt biển, căn bản không thể nào trông thấy trăng sao gì
hết. Chỉ khi nào hải khí trào lên, tạo thành xoáy nước lớn, hút hàng nghìn vạn
tấn nước vào trong, mây trời mới bị ảnh hưởng của dòng khí lưu mà để lộ ra vầng
trăng sáng như gương trên bầu không trong giây lát. Lũ trai ốc ở đây không hấp
thụ ánh trăng sinh ngọc, mà toàn mượn ánh sáng từ âm hỏa để thành châu. Thứ ánh
sáng từ âm hỏa âm lãnh dị thường, so với vầng nguyệt lại còn sáng hơn, nên ngọc
trai hình thành bên trong Quy Khư này còn sáng hơn, tròn hơn, giá trị vượt xa
so với minh châu Nam Hải mà chúng tôi mò được.
Truyền thuyết về sự
sinh sôi nảy nở của bọn giao nhân ở vùng duyên hải có vô khối, mỗi chuyện mỗi
khác, xưa nay chưa từng có kết luận chính xác. Nhưng trong cả nghìn năm, bọn chúng
gần như tuyệt tích, thành thử ra đến giờ cũng không có học giả nào thực sự
nghiên cứu vấn đề này. Lúc tôi trông thấy giao nhân ùn ùn chui từ những hang
hốc trên hóa thạch cây san hô khổng lồ, ngoài kinh ngạc, cũng có thoáng nghĩ
không hiểu chúng từ đâu sinh ra. Bây giờ lại thấy Minh Thúc chỉ chỉ trỏ trỏ vào
con quái vật biển đen ngòm trong hang tối, tôi sực nhớ, còn một truyền thuyết
khá ít người biết đến về sự sinh sôi nảy nở của cái giống giao nhân này. Những
cái giác hút màu trắng ẩn hiện trong màn cát bùn mù mịt kia, có lẽ chính là
cuống rốn của lũ giao nhân, còn con đại quái vật trong hang tối tăm, chính là
mẹ tổ đã sống nghìn năm của cả đàn giao nhân này: Giao lão.
Thời xa xưa, những kẻ
mò ngọc mưu sinh cũng thường bị lũ giao nhân hung tàn ăn sống nuốt tươi. Tương
truyền, giao nhân từng một độ trở thành đại nạn của vùng Nam Hải, uy hiếp đối
với những kẻ mò ngọc tuyệt đối không thua gì cá mập. Những người mất mạng trong
miệng chúng thực nhiều không kể xiết. Theo truyền thuyết ấy, sào huyệt của lũ giao
nhân nằm bên trong một hang động san hô. Trong hang động ấy, có một con giao
lão toàn thân đều là cuống rốn. Giống này cực kỳ quái dị, tử cung cuống rốn đều
ở bên ngoài cơ thể, lũ giao nhân thông thường đều do nó sinh ra cả. Ở một số
miếu thờ Hải thần cổ, vẫn còn bảo tồn được một vài di tích liên quan đến truyền
thuyết này.
Minh Thúc chỉ chỉ trỏ
trỏ một hồi, bọn chúng tôi cũng đã hiểu rõ, phen này đúng là khéo quá hóa vụng,
cái khay ngọc không thể khởi động được dòng chảy ngầm đưa chúng tôi ra khỏi Quy
Khư, ngược lại còn dụ con hải quái khổng lồ ra khỏi sào huyệt. Trước nay đã có
ai trông thấy con giao lão bao giờ đâu, bây giờ đột nhiên đụng phải, cả bọn
chúng tôi đều không biết phải ứng phó thế nào.
Những dòng chảy ngầm
hỗn loạn càng lúc càng thêm mãnh liệt, nếu không phải đang ôm chặt hóa thạch
cây san hô, sợ rằng chúng tôi sớm đã bị nước xiết cuốn trôi đi mất rồi, lấy đâu
ra cơ hội mà thoát khỏi chốn hiểm nguy này. Chỉ có vầng trăng trong nước kia
vẫn tỏa ra thứ ánh sáng băng lạnh, lấp lóa biến ảo, bóng nước chập chờp như
muốn khiến người ta mắt hoa đầu váng, cảm giác không khác nào đang ở trong một
cơn ác mộng vĩnh viễn không bao giờ chấm dứt vậy.
Để giảm bớt áp lực của
dòng nước và ánh sáng nhập nhèm biến ảo, mỗi người chúng tôi cùng nắm chặt cánh
tay của người bên cạnh, áp mặt vào cây san hô. Tuy chấn động từ bên trong hóa
thạch truyền ra khiến toàn thân tê chồn, song cảm giác đầu óc quay cuồng như
muốn vỡ tung rốt cuộc cũng bớt đi phần nào. Tôi liếc số đo trên khí áp kế,
dưỡng khí trong bình lặn đã gần hết, phen này nếu không bị con giao lão kia
nuốt sống thì cũng chết đuối ở đây, xem ra thế nào cũng khó lòng thoát chết rồi.
Tôi đang tuyệt vọng vì
tình cảnh trước mắt, đắn đo không biết có nên sử dụng thuốc nổ cho cả bọn một
cái chết nhanh gọn thống khoái hay không, thì thân thể to lớn dị thường của con
yêu quái kia đã bò ra khỏi hang, kéo theo rất nhiều mảnh tàu đắm và đồ đồng cổ,
trong các cuống rốn trắng hếu chảy ra những dòng nước đen kỳ quái. Tôi không
khỏi thoáng ngẩn người, cái hang động sâu không thấy đáy này ở tận bên dưới Quy
Khư, sao lại có xác tàu đắm thời xưa được chứ? Lúc này, con trai tổ đã chết,
các loại trang bị định hướng như la bàn đều trở lại hoạt động bình thường. Tham
chiếu theo la bàn gắn trên đồng hồ thợ lặn, có thể hang động này thông với khu
phế tích nơi chúng tôi đụng độ con rắn biển khổng lồ. Thông đạo này trước giờ
vẫn bị con giao lão chắn mất, chỉ cần nó chuyển mình đi nơi khác, vậy là chúng
tôi có thể vòng qua lặn trở về chỗ rừng san hô phía trên kia rồi.
Có điều, ý nghĩ ấy chỉ
lóe lên trong đầu tôi trong giây lát rồi lập tức tan biến, dẫu rằng thứ bí dược
có thể phòng ngừa chứng khí ép vẫn chưa hết hiệu lực, thì dưỡng khí trong bình
lặn cũng khó mà duy trì được lâu nữa. Chúng tôi lại không biết đoạn đường hầm
này dài bao nhiêu, chỉ sợ đi chưa được nửa thì cả bọn đã chết ngạt ở trong đó
rồi cũng nên.
Chúng tôi rơi vào cảnh
tiến thoái lưỡng nan, chỉ biết ôm chặt cây san hô hóa thạch, mở mắt trừng trừng
ra nhìn con giao lão đội bùn cát chui ra khỏi hang ổ. Bùn cát xám xịt cuộn lên
tạo thành một tấm màn đục ngầu, trên mình nó vẫn còn vô số giao nhân chưa ra
khỏi bào thai, khá nhiều con đã bị chấn động ép bật ra ngoài. Lũ con chưa thành
hình vùng vẫy giãy chết, nhưng con giao lão không hề để ý, cứ một mạch tiến
thẳng về phía cái khay ngọc đang phát sáng rực rỡ.
Cây san hô hóa thạch
dưới đáy nước chấn động dữ dội, con quái vật khổng lồ kia húc thẳng vào cái
đỉnh đá khổng lồ. Chỉ thấy trong làn nước đục ngầu lộ ra một bộ mặt quái dị đầy
những vảy thịt nhăn nheo, hai con mắt màu xám đục tựa như hai cái túi hơi, ánh
lên những tia lạnh lẽo không chút sinh khí. Thân mình con quái vật mọc đầy
những móc câu và gai thịt. Người ta thường nói, những giống quái vật dưới đáy
biển sâu đều to như trái núi, con giao lão ẩn mình dưới hang động này tuy không
to đến mức ấy, nhưng trong hoàn cảnh hỗn loạn này, chúng tôi cũng chẳng thể nào
trông thấy toàn bộ hình dáng của nó được.
Đa Linh kinh hãi tột
cùng, bộ mặt quái đản ghê rợn của con giao lão khiến cô run bần bật, bàn tay
mềm nhũn, thanh cổ kiếm tuột ra chìm luôn xuống đáy nước. Tuyền béo nhanh tay
nhanh mắt, không nỡ để mất món đồ cổ giá trị, vội theo cây san hô dịch chuyển
xuống dưới, cố vươn tay chộp thanh kiếm trước khi nó rơi vào cái miệng khổng lồ
của con quái thú.
Hành vi này của Tuyền
béo thật chẳng khác nào bẻ răng cọp, con giao lão chỉ cần hơi nhích về phía
trước một chút là có thể đớp cho cậu ta một phát rồi. Dưới nước tuy có lực nổi,
nhưng dòng chảy ngầm rất xiết, một khi buông tay ra khỏi cây san hô, chưa chắc
đã có thể nổi lên được, mà có khi còn bị dòng chảy cuốn lấy, đẩy dạt theo
phương ngang, vô cùng dễ lâm vào cảnh tự mình cắm đầu vào cái miệng to như chậu
máu của con quái thú. Vì vậy, Tuyền béo không dám buông tay ra khỏi cây san hô,
chộp được cổ kiếm, liền tức khắc bám leo lên trên như bị lửa đốt đít.
Tôi thấy Tuyền béo quá
liều lĩnh, vội cúi xuống tiếp ứng. Nhưng nói thì chậm, sự việc diễn biến lại
quá nhanh, con giao lão kia hơi ngẩng đầu lên, nhằm Tuyền béo mà hút mạnh.
Những dòng chảy ngầm tán loạn xung quanh đều bị hút về phía cái miệng đầy răng
ghê tởm của nó. Mấy người bọn tôi đang bám trên cây san hô, cũng bị dòng nước
cuốn chặt, tựa như mấy lá cờ rách buộc trên dây phơi quần áo, phấp pha phấp
phới cơ hồ như sắp bị cuồng phong cuốn bay mất.
Lúc này, tôi chợt phát
hiện ra con giao lão đang bám vào bên cạnh cái đỉnh đá khổng lồ, tuy cách cái
khay ngọc đang tỏa sáng và cả chúng tôi rất gần, song nó lại chẳng thể nhích
thêm dù chỉ một phân một tấc. Dường như thân thể khổng lồ ấy đã bị khóa chặt
xuống đáy biển, không thể di chuyển quá xa, nên nó chỉ ra sức hút nước, định
cuốn cả người lẫn khay ngọc vào trong miệng. Nó dồn hết sức lực để di chuyển,
song cũng chỉ có thể nhích động chậm chạp bên mép đỉnh đá, mãi vẫn không thể
nào chạm đến quầng sáng tựa như một vầng trăng ma quỷ ấy.
Khó khăn lắm tôi mới
tóm được Tuyền béo, song đang bám trên cây san hô lại thình lình tuột tay, lập
tức bị dòng nước hút theo. Đúng lúc ấy, bỗng thấy đau nhói lên, thì ra Shirley
Dương đã kịp vươn một tay ra kéo quai đeo cái túi trên vai tôi lại. Ba người bị
dòng chảy ngầm xô đẩy dữ dội, sống chết cũng phải cố, không dám buông tay.
Trong thoáng hoảng hốt đó, tôi chợt trông thấy cái đỉnh đá khổng lồ đang chầm
chậm chuyển động, bất giác sực hiểu ra tất cả: cái chốt khởi động, hóa ra chính
là con giao lão ẩn mình sâu bên trong hang động tối tăm kia.
Chương 53: Tuyệt cảnh
Thân thể khổng lồ của
con giao lão dường như đã bị xích ở trong hang, nó rục rịch muốn nuốt số minh
châu tỏa ra ánh sáng lành lạnh như ánh trăng gắn trên tượng người đồng, song
lại cách mấy mét, không sao chạm tới được. Con quái vật vịn vào đỉnh đá khổng lồ,
vươn cổ hút nước. Cái đỉnh đá trông như thể một cái cối xay khổng lồ từ từ
chuyển động, cứ nhích một chút, con giao lão vùng vẫy nhoi ra thêm một chút,
thì tượng người đồng nâng khay ngọc kia lại dâng cao lên một chút. Tất cả cuống
rốn khắp thân thể con giao lão liên tục rỉ nước đen, càng cố nhích lên phía
trước, nó lại càng tốn sức.
Mấy cái xác trẻ con cụt
chân cụt tay sớm đã tan hết vào nước biển từ lúc nãy, tôi và Shirley Dương,
Tuyền béo níu chặt lấy nhau, cùng bị dòng nước xiết xô đẩy chới với khó mà đứng
yên được. Nhưng cũng chính trong tình cảnh đặc biệt ấy, tôi mới phát hiện ra hệ
thống quẻ Chấn trên tượng người đồng được dùng để dẫn dụ con giao lão rời hang.
Sức mạnh kinh hồn bạt vía của con giao lão làm đỉnh đá chuyển động, xích đồng
quấn trên đỉnh đá dần xoắn lại, khiến mấy phiến đá nặng hàng tấn trông tựa như
nắp cửa cống bên cạnh cây san hô từ từ nhích ra một khe nhỏ. Dòng chảy ngầm
mạnh mẽ từ bên trong lập tức xoay chuyển các dòng nước hỗn loạn theo chiều kim
đồng hồ, bao nhiêu cá tôm trong động san hô đều bị nó cuốn theo, vô số vật bồi
táng chìm dưới đáy lần lượt nổi lên như thể mất trọng lượng, ào ào biến vào
xoáy nước.
Địa hình trong Quy Khư
giống con cá voi cực lớn, đầu hướng về phía Tây, đuôi hướng về phía Đông, thân
mình nằm phục dưới đáy biển Nam Hải, lỗ thở chính là đảo u linh bên trên cây
thần mộc. Dựa theo phương hướng mà phán đoán, thì hướng mấy phiến đá kia mở ra
chính là đối ứng với miệng con cá voi. Thi thể của cương nhân Nam Hải đặt trong
cỗ quan quách đá khóa chặt vào cái mai rùa hoặc con rùa còn sống. Hải khí quanh
năm cách tuyệt đột nhiên thông thoát, khiến sinh ra dòng xoáy tương tự như hải
nhãn. Khi phiến đá chặn cửa mở ra, quan tài đá sẽ bị dòng xoáy vừa xuất hiện
hút ra khỏi miệng cá voi, vĩnh viễn chìm xuống đáy biển, nghi thức “hải táng”
hoàn thành. Nhưng để dẫn dụ được con giao lão ẩn náu trong hang sâu ra, nhất
thiết phải có trăm viên minh châu làm mồi, không có đủ minh châu Nam Hải, nghi
thức hải táng ly kỳ này chắc chắn không thể thực hiện được. Hơn trăm viên minh
châu Nam Hải, nào phải thứ mà hạng người tầm thường dễ có trong tay, chẳng biết
là mấy năm hay mấy chục năm mới kiếm đủ. Từ đây có thể thấy, người xưa coi
trọng sự chết hơn cả sự sống, để được vĩnh sinh sau khi chết, họ sẵn sàng trả
giá cực lớn mà không hề tiếc nuối.
Lúc trước, chúng tôi cứ
tưởng khi trăng tròn thì dòng chảy ngầm trào lên, đưa quan tài lên mặt biển,
nhưng xem ra suy nghĩ ấy là hoàn toàn sai lầm rồi. Người Hận Thiên cho rằng sau
khi chết, linh hồn sẽ lên mặt trăng, sau đó sinh mệnh tiếp tục tồn tại trong
một hình thái khác. Đường hầm trong cây gỗ Kiện Mộc được xây dựng chính là để
cho vong hồn sử dụng mà đi đến cõi mới, còn thi thể thì vẫn thuộc về biển cả
mênh mông. Quẻ Chấn là hệ thống đưa thi thể ra biển, sợ rằng phương pháp siêu
độ vong linh này không thích hợp cho người sống sử dụng, chúng tôi muốn lợi
dụng nó để thoát khỏi Quy Khư, thực tình là chẳng có phần trăm hy vọng nào sất.
Đầu óc đang mù mịt cả
đống ý nghĩ, đột nhiên tôi cảm thấy cánh tay mỏi nhừ tê cứng, dần dần không níu
nổi cánh tay Tuyền béo nữa. Tuyền béo nhận ra mình sắp bị con giao lão hút vào
miệng, cũng chẳng còn tiếc gì thanh cổ kiếm, nhân lúc dòng nước chảy mạnh, liền
thình lình buông tay. Thanh kiếm đồng lao chẳng vào mồm con giao lão, lưỡi kiếm
sắc xuyên qua đầu lưỡi, một dòng máu bẩn tuôn chảy hòa vào nước biển, song con
giao lão vẫn hoàn toàn không để ý, hướng về phía quầng sáng tiếp tục ra sức hút
mạnh.
Tuyền béo ném bỏ thanh
kiếm đồng, rảnh được một cánh tay nữa, vội ôm chầm cánh tay tôi, rốt cuộc cũng
bám được vào cây san hô hóa thạch. Tôi và Shirley Dương cũng bám chặt vào thân
cây, chỉ thấy dòng chảy cuồn cuộn đẩy mảnh vụn xác tàu và xương cốt dưới đáy
nước lên, cơ hồ như một trận vòi rồng, thế mà tượng người đồng nâng khay ngọc
tỏa sáng kia vẫn hết sức vững chãi, gần như không hề lay chuyển. Cả bọn chúng
tôi lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, chỉ còn biết bám chặt cây san hô, mở
mắt trân trân nhìn con giao lão bám vào cái đỉnh đá khổng lồ từ từ nhích dần
lên cao cùng với vầng trăng ma quỷ cũng mỗi lúc một dâng cao, chẳng có cách gì
ngăn chặn tình thế càng lúc càng thêm xấu đi, chỉ mong con hải quái nhanh chóng
hút được minh châu rồi rút trở về hang động nơi nó náu thân, đóng mấy cửa cống
kia lại, bằng không, chúng tôi ắt sẽ bị dòng nước càng lúc càng thêm dữ dội kia
cuốn vào cõi chết.
Tôi không muốn chờ
chết, bèn tính liều một phen bám xuống dưới gốc cây san hô, phá hủy cái khay
ngọc kia đi. Kỳ thực, lúc này người ở gần tượng đồng nhất chính là Minh Thúc,
nhưng lão khọm già ấy sớm đã kinh hoảng đến nỗi run như cầy sấy, chẳng thể mong
chờ được. Tôi nghiến răng, lấy hết can đảm bám vào thân cây, tuột dần xuống
giữa dòng chảy ngầm cuồn cuộn. Nhưng đúng lúc ấy, tình hình bỗng dưng biến
chuyển bất ngờ, thông qua cây san hô hóa thạch, tôi có thể cảm nhận được những
chấn động dị thường đang truyền lên từ đáy biển.
Mượn ánh sáng tỏa ra từ
chiếc khay ngọc, tôi trông thấy xoáy nuớc phía sau cửa cống bằng đá đột nhiên
biến mất. Thì ra, con trai tổ chết đi, cũng bằng như phá hỏng thế phong thủy
của Quy Khư, chút hải khí còn sót lại đang dần tiêu tan. Hang động san hô chằng
chịt phức tạp dưới này, cùng với cái hang như bụng cá voi ở phía trên kia vốn
luôn được hải khí bao bọc, khiến nước biển lúc lên lúc xuống, biến hóa vô
thường. Nay hải khí mất đi, một số động san hô tương đối yếu ớt sẽ mau chóng
sụp đổ, mở đầu cho một chuỗi tai họa khủng khiếp sắp giáng xuống toàn bộ Quy
Khư.
Lúc này, bọn giao nhân
hung dữ kia, chẳng phải bị hút vào dòng xoáy thì cũng đã bỏ chạy thục mạng rồi.
Hóa thạch san hô quả nhiên bắt đầu đổ sập, đá rơi xuống bít cả cửa cống. Tôi
vội vàng từ bỏ ý nghĩ phá hủy cái khay ngọc, quay sang huých hai người đang hốt
hoảng cuống cả tay chân là Đa Linh và Minh Thúc, nhắc họ ngàn vạn lần không
được buông tay khỏi cây san hô lớn nhất. Trong biến cố trời long đất lở sắp xảy
đến, người nào lo thân người nấy còn chưa xong, dù có lòng muốn ứng cứu lẫn
nhau, e cũng lực bất tòng tâm mà thôi.
Chỉ thấy xung quanh
chấn động như muốn đổ ụp xuống ngay, cái hang sâu chỗ con giao lão trú ẩn nứt
toác ra, rặng san hô đè lên thân thể nó đồng thời cũng lỏng ra. Nhân cơ hội ấy,
con giao lão liền trườn mình ra ngoài, lê thân thể nặng nề bám lên cái đỉnh đá,
chẳng ngờ dùng sức quá mạnh, làm đứt mấy sợi xích. Tượng người bằng đồng bên
trong cái đỉnh đung đưa như muốn đổ vật ra.
Tôi vẫn còn đang muốn
nhln cho rõ hơn thì bên dưới đỉnh đá lại nứt toác ra một vệt lớn, tạo ra một
xoáy tròn hút nước biển vào trong. Thấy thế, tôi vội lách người né, chợt nước
từ dưới lại phụt lên, phỏng chừng có dòng chảy ngầm vừa mới bùng phát. Tượng
đồng chịu mấy lực tác động cùng một lúc, dù chắc chắn mấy cũng không thể chịu
nổi nữa, cả trăm hạt minh châu to như mắt rồng bắn tóe ra như tiên nữ rải hoa.
Tôi cũng không sao bám
vào thân cây san hô hóa thạch được nữa, thân thể bị đẩy lên phía trên, áp lực
nước khủng khiếp khiến người ta cảm giác như thể hồn lìa khỏi xác vậy. Sau mấy
phen trời xoay đất chuyển, rốt cuộc tôi cũng ló đầu lên khỏi mặt nước, suýt nữa
thì bị sặc chết. Vừa trồi lên, tôi tức khắc giật tung ống thở và kính lặn,
nhanh chóng đảo mắt tìm những người còn lại. Cũng may, cả bọn đều giỏi bơi lặn,
cũng biết mượn dòng nước phun trào nổi lên, không ai bị thương gì cả, song khó
tránh khỏi một phen kinh hãi, người nào người nấy há miệng thở hổn hển, không
thốt lên được tiếng nào.
Chốn Quy Khư này trên
có cửa sổ trời, dưới có dòng chảy ngầm. Dòng chảy bên dưới động san hô trào lên
liên tục, chúng tôi chưa kịp thở lấy hơi, thế nước đã lại dâng cao cuồn cuộn,
nhấn chìm cả bộ xương cá voi đang để xác cương nhân Nam Hải, thoắt cái nước đã
dâng quá cửa hang bên dưới cây Kiện Mộc, xem ra sắp ngập tận nóc hang đến nơi
rồi.
Trong động san hô tối
om như mực, cả trăm viên minh châu tản văng ra sớm đã bị dòng nước xiết cuốn đi
không còn tăm tích. Tôi bám lấy lớp vỏ cây thần mộc sần sùi, hét lên với cả
bọn: “Hết dưỡng khí rồi, không thể ở lại đây nữa, mau chui vào hang cây...”
Những người còn lại lập
tức hiểu ý: nước ngầm dâng lên sẽ nhanh chóng ngập đầy hang động, còn không mau
rời khỏi mộ cổ trong động san hô này, cả bọn không chết vì bị dòng nước cuốn
xuống đáy biển thì cũng chết đuối chết ngạt mất thôi. Chỉ có cách chui vào
thông đạo bên trong cây gỗ Kiện Mộc, theo đường cũ bò về di tích cổ thành, may
ra mới thoát được kiếp nạn này. Vậy là, không ai còn thời gian để suy nghĩ,
quyết định dốc nốt chút sức tàn bơi đến cửa hang ngay, chuẩn bị lấy hơi lặn vào.
Minh Thúc chỉ cuống
cuồng lo chạy tháo mạng, hụp xuống đầu tiên. Tôi hít sâu một hơi, cũng định lặn
xuống, nhưng mới hít được một nửa, động san hô đã ầm ầm rung chuyển. Thì ra,
hải khí là một cỗ sinh khí bất diệt của mạch Nam Long, sau khi nó yếu đi và
biến mất, một số rặng đá ngầm và san hô hóa thạch lập tức trở nên giòn xốp mủn
nát. Chỉ thấy, trên đầu như có một con rồng lướt qua không trung, tảng nham
thạch bị cây Kiện Mộc xuyên qua nhanh chóng tách làm hai nửa sập xuống. Lúc
này, mực nước ở trên cổ thành đang thấp, nên không có nhiều nước đổ xuống,
ngược lại còn tạo ra một lối thông giữa động san hô và hang động Quy Khư ở phía
trên.
Chúng tôi tái mét mặt
mày trước thanh thế kinh thiên động địa của vụ chấn động, chỉ biết ôm riết lấy
cây thần mộc ngây ngẩn ra, quên cả kế hoạch lặn xuống chui vào cửa hang. Ngước
mắt nhìn lên, đã lờ mờ trông thấy âm hỏa lập lòe, tựa như những con rồng lửa
đang cuồn cuộn chuyển động trên tầng nham thạch.
Minh Thúc ló đầu lên
mặt nước, kêu toáng lên: “Không xong, con giao lão dưới đáy nước cũng bị dòng
chảy ngầm đẩy lên, nó ôm lấy thần mộc, chặn mất lối vào rồi.” Lão khọm già cuống
cà kê, kêu xong lại định hụp xuống trốn chạy, nhưng thực sự thì lão cũng chẳng
biết có thể chạy theo đường nào nữa.
Tôi nhao ra chộp cánh
tay Minh Thúc giữ lại, cũng chẳng buồn giải thích, cứ thế đẩy lão dựa sát vào
thân cây thần mộc. Việc đã đến nước này rồi, thôi thì đành tùy cơ ứng biến,
đánh liều chui qua chỗ vừa đổ sụp kia để trở lên di tích Quy Khư, sau đó leo
lên đỉnh khúc cây để tránh dòng chảy ngầm và con hải quái đang trồi lên vậy.
Ngay sau đó, tôi đẩy Đa
Linh và Cổ Thái, Minh Thúc đi trước, như một con sói già nhanh nhẹn, mau chóng
dẫn theo hai chị em Cổ Thái bò lên cao. Tôi cũng để Shirley Dương lên trước.
Dòng chảy ngầm thúc lên mỗi lúc một mạnh hơn, tôi giữ chặt Tuyền béo, hét lớn:
“Tuyền béo, cậu được không?”
Tuyền béo vuốt nước
trên mặt hét lại: “Vì bia miễn phí và gái đẹp trên đảo Miếu San Hô... con bà
nó, ông mày xông ra đây.” Nói đoạn, cậu ta ưỡn cái bụng béo lên, cả tay lẫn
chân quắp chặt cây thần mộc, nhích dần lên. Chuyến này vớt được rất nhiều đồ
tốt, tuy rằng rơi vào cảnh thập tử nhất sinh, song Tuyền béo vẫn hết sức phấn
khích, sức lực tăng lên đột biến, nói cách khác, chính là “tiền đốt đít”, đến
cả bệnh sợ độ cao xưa nay không cách nào trị nổi, cu cậu cũng quên béng đi rồi.
Tôi bám cây gỗ Kiện
Mộc, theo sát Tuyền béo, không những phải chú ý đến thân cây gỗ trơn tuột dưới
chân, mà còn phải không ngừng né đá vụn, nhưng chẳng có thời gian mà sợ nữa,
chỉ cần leo lên trên xong là coi như nhặt lại được cái mạng trở về, vạn nhất
trượt chân rơi xuống hoặc bị đá đè chết, thì cũng đành chấp nhận số mệnh mà
thôi.
Khó khăn lắm cả bọn mới
qua được tầng nham thạch sụp đổ, bên cạnh toàn là những tượng nô lệ bằng đồng
nghiêng ngả, bốn phía vẫn vang động ầm ầm không dứt. Tôi tranh thủ cúi nhìn bên
dưới, mặt nước cuồn cuộn đục ngầu như sôi, thấp thoáng cái bóng đen khổng lồ,
cặp mắt hung tàn xám xịt to như hai ngọn đèn chòng chọc trông lên.
Tôi vừa kinh hoảng vừa
lấy làm nghi hoặc, “vầng trăng” dưới nước do trăm viên minh châu tạo thành đã
tan biến, con giao lão ấy sao vẫn chưa chịu quay về sào huyệt? Nó quyết ý phải
xơi thịt chúng tôi bằng được chắc? Nhưng ngay sau đó, khi ngẩng đầu lên nhìn
bầu không, tôi lập tức hiểu ra nguyên cớ, không khỏi thầm than một tiếng “chó
cắn áo rách”. Thì ra nguyên nhân là ở lỗ hổng trên đảo u linh mà cây gỗ Kiện
Mộc trỏ thẳng tới kia, lúc này hải khí đã tan, mây mù quanh năm che phủ mặt
biển cũng không còn nữa, lại đang lúc nửa đêm, trăng sao sáng rỡ, vằng vặc rọi
vào Quy Khư. Con giao lão dưới đáy biển trông thấy trăng sáng, làm sao lại chịu
quay về hang ổ cơ chứ?
Chỉ thấy sóng nước cuốn
lên, con giao lão thân đầy vảy thịt đen đúa ấy đã rẽ nước trườn lên thân cây
Kiện Mộc. Những ổ trứng và cuống rốn khắp mình nó chứa toàn niêm dịch, giúp nó
bám vào thân cây, rồi nhích cả thân thể nặng nề leo lên. Tôi chửi thầm một tiếng,
rút dao lặn cắt đứt dây buộc cái bình dưỡng khí trống rỗng, ném xuống con quái
vật. Nhưng làm thế phỏng có ích gì đâu?
Tôi vừa thúc giục vừa
đẩy bọn Tuyền béo nhanh leo gấp hơn, ngàn vạn lần không được ngoảnh đầu nhìn
xuống. Lên đến đây, coi như đã bị ép đến cùng đường mạt lộ rồi, cả bọn đều đã
ném bỏ bình dưỡng khí sạch trơn, sử dụng dao lặn đâm vào thân gỗ, dốc toàn bộ
sức lực còn sót lại mà leo. Tuyền béo leo được một đoạn, chân tay bỗng mềm nhũn
ra, cúi đầu liếc xuống phía dưới một cái, tức thì hoa mắt váng đầu, trượt luôn
khỏi thân cây trơn tuồn tuột. Tôi thấy vậy, vội vươn tay ra chộp lấy, song cũng
bị đà rơi của cậu ta kéo theo, hai tên cùng lăn lông lốc xuống dưới.
Chương 54: Quá Long
Binh
Cây gỗ Kiện Mộc này
phần chóp khá rộng rãi, có rất nhiều mũi tên đá gắn vào theo đủ phương hướng
khác nhau, nhìn từ xa lại, trông như là tán cây. Kỳ thực, những mũi tên đá này
là hóa thạch của một loài sinh vật biển, có các đường vân khá giống như đường vân
trên vỏ trai vỏ ốc, xem ra không phải do bàn tay con người gắn vào, mà do từ
thời viễn cổ, bọn chúng bám vào thân cây tựa như lũ ốc bám vào cọc gỗ bây giờ,
hình thành nên một kỳ quan hiếm thấy.
Tôi bị Tuyền béo kéo
ngã lăn xuống, trong tiếng kêu kinh hãi của những người còn lại, bỗng thấy lưng
nhói đau, hóa ra đã đập trúng một mũi tên đá chìa ra. Mũi tên ấy như một tán
cây, đỡ chúng tôi lại, nhưng thứ sinh vật biển hóa thạch này cứng hơn gỗ cả
trăm lần, đập một cái mà tôi đau điếng cơ hồ muốn gãy mấy dẻ xương sườn, suýt
ngất.
Có điều, chuyện đen đủi
còn ở phía sau. Cây gỗ này có rất nhiều mũi tên đá, đan xen chằng chịt, tạo
thành hơn trăm chỗ bình đài nghiêng nghiêng, tựa như từng tán từng tán cây tùng
cây bách già mọc chìa ra nơi vách núi. Những khi triều lên, đảo u linh bị nhấn
chìm, nước biển qua lỗ thông trên cao, năm năm tháng tháng xối xuống “tán cây”,
những mũi tên đá trên thân cây tuy đã gắn rất chắc, nhưng dần dà không khỏi nứt
rạn, một số thậm chí gãy lìa rơi xuống.
Tôi và Tuyền béo đập
vào một “tán cây” như thế, vẫn chưa kịp bò dậy, thì mũi tên đá bên dưới nứt
toác thêm, hơi khựng lại, rồi “rắc” một tiếng gẫy lìa. Hai thằng lại tiếp tục
lăn xuống, sau khi đập gãy thêm ba bốn mũi tên khác, mới dừng lại được.
Tuyền béo sợ nhất là bị
rơi từ trên cao xuống, khí thế ngút trời bình thường của cậu ta lúc này đã bay
sạch sành sanh đi đâu chẳng rõ, cứ ôm chặt lấy bắp đùi tôi, nhắm tịt mắt lại
gào lên: “Tư lệnh Nhất ơi, nể mặt Đảng, nể mặt nhân dân, mau kéo tôi lên với!”
Tôi vốn không được da
dày thịt chắc như Tuyền béo, sau mấy cú va đập, xương cốt toàn thân đã nhức
nhối vô kể, lại bị cậu ta ôm riết lấy chân, nên không tự chủ được mà từ từ
trượt xuống. Tôi nghiến chặt răng, vận hết sức dùng con dao thợ lặn đâm vào
thân cây thần mộc, dù gì cũng coi như tạm thời ngăn được đà trượt xuống, nhưng
bắp đùi thì sắp bị Tuyền béo bóp cho đứt lìa đến nơi mất rồi. Cúi đầu nhìn
xuống, chỉ thấy con giao lão đang cắm đầu cắm cổ bò lên, những mũi tên đá chúng
tôi đụng gãy vừa nãy lao phầm phập trên không xuống, cắm hết vào mình nó, máu
tươi phun như suối, nhuộm đỏ cả nước biển xung quanh.
Giờ mà rơi xuống, dù
may mắn không bị con quái vật tởm lợm kia nuốt chửng thì cũng đập người vào mấy
tượng nô lệ mới ngập nước ngang lưng kia mà vỡ đầu chết tuốt. Tôi dồn hết sức
bình sinh, quên cả cảm giác đau đớn thấu xương thấu cốt đang hành hạ, một tay
dùng dao găm bổ vào cây thần mộc, tay kia bám vào mũi tên đá, từ từ nhích dần
lên từng chút một, kéo theo Tuyền béo bám chặt phía dưới. Chỉ cần có thể đứng
lên trên một “tán cây”, là có thể tiếp tục leo lên chỗ mọi người rồi.
Tôi và Tuyền béo nhích
dần lên, nhưng chưa được nửa mét thì con dao găm quá giới hạn chịu đựng, lưỡi
dao gãy lìa ra làm đôi. Con dao gãy, tôi chỉ còn lại một cánh tay bám vào mũi tên
đá là vận sức được, toàn bộ trọng lượng cơ thể và cả Tuyền béo đều đeo cả vào
đó, ngón tay thoắt tê cứng, mắt thấy sắp chuội ra đến nơi, tình hình đã đến mức
không thể cứu vãn, chỉ đành nhắm mắt lại chờ chết.
Đúng lúc này, đột nhiên
có người tóm lấy cánh tay tôi, trọng lượng đeo nặng dưới chân cũng bất ngờ giảm
đi phần nào, mở mắt ra nhìn, thì ra là Shirley Dương thấy chúng tôi gặp nguy,
vội cùng Cổ Thái leo xuống tương trợ, kéo tôi và Tuyền béo lên. “Tán cây” dưới
chân không chịu được trọng lượng của bốn người, gãy sụp xuống. Cũng may là ngay
trước khoảnh khắc ấy, chúng tôi đã kịp bám vào thân cây, mới không bị rơi xuống
theo.
Mũi tên đá này rất lớn,
trọng lượng sợ phải đến mấy trăm cân, từ trên cao rơi xuống, lực rơi ít nhất
cũng phải cả tấn. Chỉ thấy mũi tên dẹt đầu xoay vòng vòng trên cao rơi xuống,
phang thẳng vào đầu con giao lão, rồi lại bật ra rơi tiếp, “ùm” một tiếng, cắm
xuống mặt nước. Cái đầu cá khổng lồ của con giao lão bị phạt lìa hẳn một nửa,
máu tanh phọt lên cao mấy mét liền.
Lúc này, con quái vật
giao lão bị phạt mất nửa cái đầu ló ra khỏi mặt nước, chúng tôi mới nhìn rõ
được diện mạo của nó. Chỉ thấy thân thể nó dài gấp mấy lần cá voi, e rằng chỉ
có loài Liopleurodon đã tuyệt chủng từ trăm triệu năm trước mới có thể sánh
bằng, lại lởm chởm đầy cuống rốn và vảy đen, cái đầu nó từa tựa đầu cá trê, bên
mang mọc ra mấy trăm sợi xúc tu dài cả chục mét, dưới bụng có mười đôi vây,
răng như những chiếc móc ngược, cái mõm cá rộng ngoác mỗi lúc mở ra khép vào
đều xộc ra những luồng hơi tanh tưởi nhức cả mũi.
Con giao lão nương theo
dòng nước ngầm phun lên bám vào cây gỗ Kiện Mộc, bị mũi tên đá rơi xuống cắt
mất nửa cái đầu, song vẫn chưa chết hẳn, ngược lại còn trợn trừng cặp mắt cá
xám đục, to như quả bóng, nhìn chằm chằm vào vệt ánh trăng lọt xuống qua lỗ
hổng phía trên, bộ dạng trông cực kỳ điên cuồng, dẫu bị thương rất nặng, cũng
quyết không chịu trở lại đáy biển.
Một con cá mập xanh bị
dòng chảy níu lại, luống cuống không biết chọn đường thế nào, lại đâm đầu vào
chỗ cây thần mộc, liền bị con giao lão vươn xúc tu quấn lấy, nhét tọt vào miệng
nhai sống, mùi máu tanh trong không gian càng thêm nồng nặc khó chịu. Con quái
vật chẳng buồn để ý đến thân thể nó đang chảy máu như suối, dùng mười cặp vây
trợ lực, tiếp tục bám leo lên cao. Chúng tôi trông thấy con quái vật máu chảy
ròng ròng ở bên dưới vẫn có thể ăn tươi nuốt sống cả con cá mập hung hăng như
không, trong lòng càng thêm kinh hoảng, nào còn dám nhìn kỹ hơn, vội cố sống cố
chết leo lên càng cao càng tốt, tránh nạn được thêm phút nào hay phút ấy.
Đúng lúc ấy, hải khí
ngưng kết trong Quy Khư hoàn toàn tiêu tan, âm hỏa vụt tắt, mất đi ánh sáng màu
trắng nhờ, trong bóng tối chỉ còn nghe thấy tiếng nước cuộn sục sôi, vách núi
nứt ầm ầm, tựa như cả bầu trời đang muốn sụp đổ. Mặt nước khắp bốn phương tám
hướng dâng cao nhấn chìm di tích thành cổ, tạo thành một xoáy nước bên dưới cây
thần mộc. Chúng tôi bám vào những mũi tên đá trên đỉnh cây thần mộc, hồn xiêu
phách tán, xương cốt toàn thân mềm nhũn ra như bơ xốp, không dám nhúc nhích
động cựa chút nào.
Đám tượng nô lệ bằng
đồng dưới chân cây gỗ Kiện Mộc bị nước xối dữ dội, nghiêng ngả va đập vào nhau,
ngã đổ rầm rầm, các dây xích không chịu được dòng chảy mãnh liệt, đứt rời ra,
bắn tung lên từng đoạn. Cây gỗ Kiện Mộc cao lớn dị thường đã trải qua ức vạn năm
này cắm nghiêng xuống đáy biển, cũng liên tục phải chịu đựng các đợt sóng ngầm
xung kích, lúc này bị đứt gần hết dây xích chằng giữ bên dưới, có nguy cơ gãy
đổ bất cứ lúc nào.
Đa Linh sức đơn lực
bạc, tố chất tâm lý không thể sánh với những người khác, gặp phải đợt chấn động
mãnh liệt u trời long đất lở trước mắt, kinh hoảng đến nỗi không thốt nổi nên
lời, cứ đờ ra không nhúc nhích được. Lúc này, bầu không lại dường như có sấm
sét, trong tiếng ầm ầm, thân cây gỗ rung lên, Đa Linh chân tay mềm nhũn chuồi
ra, thân thể tuột xuống dưới.
Tôi và Shirley Dương
trông thấy cô lăn xuống khỏi đỉnh cây gỗ, lập tức vươn tay ra, định tóm lại,
song cây gỗ Kiện Mộc rung lắc quá, nên cả hai đều chộp vào khoảng không. Chớp
mắt một cái, Đa Linh đã rơi xuống mặt nước cuồn cuộn. Trong màn nước đen tối,
chỉ có thân hình khổng lồ của con giao lão thấp thoáng ẩn hiện, nào có còn bóng
dáng Đa Linh đâu nữa, chỉ e ngay lúc cô vừa chạm xuống nước thì đã bị con quái
thú ấy nuốt chửng mất rồi.
Cổ Thái thấy Đa Linh
ngộ nạn, trợn trừng cặp mắt vằn đầy những tia máu, định nhảy xuống nước tìm cô.
Tôi vội nắm chặt thắt lưng, kéo giật cậu ta lại, người rơi xuống đó thì làm sao
còn sống nổi nữa, nhảy xuống cứu người cũng chỉ là tự đâm đầu chết uổng. Có
điều, lúc này tiếng sóng nước ầm ầm, núi lở biển sụt vang động, nhấn chìm hoàn
toàn mọi âm thanh khác, lại thêm sóng âm làm tai chúng tôi đau nhói, không ai
có thể nghe ai nói gì, tôi không có cách nào nói với Cổ Thái được, đành ra sức
níu chặt cậu ta lại, tránh để cậu ta xuống nước chết uổng.
Đột nhiên có cơn gió
lạnh ập vào mặt, tôi ngẩng lên nhìn, chỉ thấy trên cao có mấy chục dòng nước
lớn đổ xuống, long hỏa hải khí trên nham tầng đã tiêu tán, xem tình hình thì
lại sắp hình thành xoáy nước lớn nữa rồi. Có lẽ đây cũng là lần cuối cùng xoáy
nước xuất hiện ở vực xoáy San Hô, tầng nham thạch đứt vỡ, khiến mấy xoáy nước
nối liền thành một con rồng nước ngoằn ngoèo, hàng vạn tấn nước biển đổ xuống
tựa như dựng lên trong Quy Khư một bức tường nước khổng lồ.
Lực kéo do tầng nham
thạch dưới đáy biển đứt gãy gây ra, khiến điểm cao nhất của Quy Khư, cũng tức
là hòn đảo u linh lộ ra trên mặt biển bị tách lìa ra ở chỗ lỗ hổng. Dưới biển
xuất hiện một khe sâu lớn, nước biển từ độ cao hơn trăm mét bên trên đổ xuống
ầm ầm như sấm. Hệ thống quẻ Chấn, tuy là huyền cơ người xưa thiết kế để đưa
người chết ra biển, song sợ rằng ngàn vạn lần họ cũng không thể ngờ được, sau
nghìn năm, nó lại khiến Quy Khư chấn động tách ra làm đôi thế này. Quả đúng là
Chấn kinh bách lý, lực chấn dộng này phải lan xa đến khắp cả vùng biển vực xoáy
San Hô rộng lớn, nào đâu chỉ có trăm dặm. Quẻ tượng trong Dịch rất nhiều, vậy
mà người nước Hận Thiên lại cứ chọn quẻ Chấn thượng chấn hạ làm đường tống tiễn
người chết, lẽ nào trong quẻ tượng ấy đã dự đoán được đất nước này sẽ bị hủy
diệt, cùng với biến hóa sẽ xảy ra ở chốn Quy Khư cả nghìn năm sau?
Mặt biển xuất hiện vệt
nứt trông như vết sẹo khổng lồ, sâu chừng một hai trăm mét, rộng khoảng bảy tám
chục mét, đường nét và những chỗ lồi lõm hai bên rất đối xứng, tựa như có một
lực lượng siêu nhiên khủng khiếp đã xé toạc mặt biển ra vậy. Đỉnh cây thần mộc
chỗ chúng tôi đang đeo bám vào, nằm ở chính giữa khe nứt, bốn bề và dưới chân
là nước biển sôi sục, thế nước chấn động cả đất trời, chỉ có bầu không lộ ra
trên cao là tĩnh lặng đến bất thường. Trăng sáng trên cao, những vì tinh tú lấp
lánh như cát li ti phủ khắp bầu trời. Nhìn biển khơi đang trưng ra gương mặt dữ
tợn nhất của mình, và bầu trời sao bình yên tĩnh lặng như mộng ảo, mấy người
chúng tôi nhất thời đều ngẩn ngơ thất thần, ngỡ bầu trời đêm trên cao kia chẳng
qua chỉ là một giấc mơ không có thật mà thôi.
Con giao lão lúc này
cũng bị nước biển xối cho không cựa quậy nổi nữa, có điều, còn trông thấy ánh
sáng lấp lánh của trăng sao trên trời, nó lại càng liều mạng bám chặt vào cây
gỗ Kiện Mộc. Nước biển và dòng nước ngầm bên dưới phun lên hòa lẫn vào nhau,
chẳng mấy chốc đã lấp đầy cả Quy Khư. Có điều, khi nước ngầm bên dưới không
phun lên nữa, trên mặt biển vẫn cuồn cuộn một xoáy nước đường kính rộng tới mấy
dặm. Trung tâm của xoáy nước này chính là ở chỗ cây thần mộc cắm xuống đáy
biển, nước liên tục bị hút vào trong, cơ hồ vĩnh viễn không thể đổ đầy động
không đáy bên trong châu mẫu hải. Chốn Quy Khư mà rất nhiều thư tịch cổ đề cập
đến rốt cuộc cũng để lộ bộ mặt thật. Ngoại trừ động quỷ ở thành cổ Tinh Tuyệt
ra, trên thế gian này đích thực vẫn còn một số vực sâu không đáy mà con người
vẫn chưa thể thăm dò hoàn toàn, Quy Khư này chính là một trong số đó.
Giờ đây, trong Quy Khư
đã hình thành một lực trường cực mạnh, không ngừng hút nước biển vào. Cây Kiện
Mộc khổng lồ cắm nghiêng xuống đáy biển đã bị khoét rỗng từ nghìn năm trước để
làm con đường siêu độ vong hồn, giờ đứng giữa dòng nước xiết khủng khiếp, thân
gỗ rốt cuộc cũng xuất hiện những đường nứt gãy, cả nghìn pho tượng nô lệ bằng
đồng dùng để cố định cây gỗ thì bị hút xuống đáy sâu. Biến động dưới đáy biển
kéo theo những cơn sóng cao như quả núi, mắt thấy mặt biển tách đôi sắp sửa
khép lại, nhưng chúng tôi ở trên đỉnh cây Kiện Mộc khổng lồ chỉ biết nhìn mà
thở dài tiếc nuối. Kiện Mộc chỉ là một cái cây khổng lồ từ thời viễn cổ, chẳng
thể nào thông lên tận mặt trăng. Chỗ chúng tôi đứng cách mặt biển một quãng,
hoàn toàn nằm ngoài khả năng có thể vượt qua của con người. Thời khắc này, chỉ
có mọc thêm đôi cánh họa may mới thoát được khỏi đây.
Cả bọn chúng tôi cơ hồ
đã không còn ý chí, tinh thần lẫn thể lực đều cạn kiệt, mặt mũi thẫn thờ, chỉ
biết bám vào mũi tên đá nhắm mắt chờ chết. Đúng lúc ấy, cây gỗ lại lắc lư một
trận, rồi bất thình lình đổ vật xuống. Thì ra, con quái vật giao lão bị mũi tên
đá rơi trúng, phạt mất nửa cái đầu, thương thế vốn đã đủ trí mạng rồi, song nó
quá khỏe mạnh dẻo dai nên không chết ngay tại chỗ, mà vẫn một lòng bám lên cây
thần mộc để cắn nuốt ánh trăng. Dòng chảy xiết bên dưới, cộng với sức nặng của
con quái vật khổng lồ, đã khiến một đoạn cây gỗ Kiện Mộc dài dễ đến hai chục
mét bị lay lắc gãy lìa ra.
Đỉnh cây gỗ Kiện Mộc
lởm chởm tên đá xòe ra như tán cây có lực nổi khá lớn trong dòng nước, vả lại
thân cây cắm nghiêng, nên đoạn gãy không bị xoáy nước hút xuống đáy sâu, mà
ngược lại còn được nước dâng đẩy nhanh lên mặt biển phía trên. Cơ hồ như cùng
lúc ấy, vết nứt trên mặt biển cũng khép lại, che kín dòng chảy ngầm hỗn loạn
trong Quy Khư bên dưới. Con giao lão ôm chặt một đầu khúc cây Kiện Mộc gãy,
cùng chúng tôi nổi lên, nhưng vì mất máu quá nhiều, rốt cuộc cũng trợn trừng
cặp mắt xám xịt mà chết, kéo theo dòng máu tanh đen thẫm dập dờn phía sau.
Chúng tôi không ngờ lại
tìm được đường sống giữa cõi chết, đều ngạc nhiên đến há hốc mồm miệng, tròn
mắt nhìn nhau, ngẩng đầu trông ánh trăng lành lạnh tỏa chiếu xuống mặt biển
phẳng lặng, thực lòng không tin nổi mình lại có thể sống sót thoát ra khỏi Quy
Khư. Nhưng bọn tôi còn chưa kịp mừng rỡ, thì đã phát hiện cái xác to khủng
khiếp của con giao lão vẫn đang bám cứng vào đầu kia khúc cây thần mộc. Khúc
cây dài gần hai chục mét, căn bản không thể nào nâng được cái xác quái thú nặng
nề, e chỉ nổi được một lúc rồi sẽ bị kéo chìm xuống mất.
Khúc cây lúc này vẫn
chưa trôi ngang qua đảo u linh đang chìm nghỉm, lực hút của Quy Khư tạo ra trên
mặt biển một vòng xoáy mơ hồ theo chiều kim đồng hồ. Khúc cây nổi lên nhanh,
chìm càng nhanh hơn, chớp mắt đã có hai phần ba ở dưới mặt nước rồi. Trong óc
tôi lóe lên một ý nghĩ: “Không có tàu thuyền làm sao rời khỏi vực xoáy San Hô
này được? Khúc cây Kiện Mộc này há chẳng phải bè cho chúng ta vượt biển hay
sao? Có nó là vẫn còn một tia hy vọng có thể thoát ra khỏi vùng biển quỷ quái
này.”
Nghĩ tới đây, tôi không
dám chần chừ do dự nữa, vội gọi Tuyền béo giúp sức, giật lấy con dao lưỡi cong
của Cổ Thái, ra sức chém bổ xuống cái xác con giao lão. Cổ Thái tựa như kẻ si
đần, cứ đờ đẫn nhìn đăm đăm về phía trước, đôi mắt tuyệt đối không còn chút
sinh khí nào, miệng lẩm bẩm: “Sư tỉ cũng chết rồi...”
Chúng tôi tuy rất đồng
cảm với cậu ta, nhưng giờ là thời khắc quan trọng quyết định sự sống chết của
cả bọn, chẳng ai còn thời gian mà khuyên giải gì nữa. Tôi và Tuyền béo, Shirley
Dương đều tranh thủ từng giây từng phút chặt chém cái xác con quái vật biển
sâu. Minh Thúc cũng như phát điên bò lại, dùng răng cắn vào những cái vây bám
chặt lấy thân cây. Cả không gian tanh nồng, máu tươi phun tóe ra, nhưng cái xác
con giao lão quả thực quá lớn, vảy thịt vừa dày vừa cứng, chúng tôi trong tay
có mỗi dao găm và đoản kiếm, rốt cuộc chỉ còn biết mở mắt trân trân nhìn khúc
cây xoay tròn trong xoáy nước trên mặt biển, từ từ chìm xuống.
Tôi cuống đến nỗi tim
đập thình thịch, cơ hồ muốn vọt cả lên miệng. Tình hình này đúng là hết cách
rồi, còn không mau nhảy xuống nước, ắt sẽ bị khúc cây và xác con giao lão kéo
theo xuống đáy biển, nhưng nhảy xuống vùng biển vực xoáy San Hô đầy rẫy cá mập
này cũng cần dũng khí rất lớn. Đằng nào thì cũng chết ở đây, thà bị kéo xuống
Quy Khư chết đuối còn hơn là bị lũ cá mập ấy phanh thây xé xác.
Tôi đang do dự, không
biết có nên nhảy ra khỏi khúc cây hay không, thì mặt biển bỗng cuộn sóng lăn
tăn, thình lình nổi lên rất nhiều khối đá ngầm lớn, nâng cả khúc cây Kiện Mộc
lên. Sau một hồi lắc lư lảo đảo, khúc cây chầm chậm chuyển động về phía Tây.
Trăng sao trên bầu trời
sáng vằng vặc, nhưng dưới ánh trăng lành lạnh, tôi vẫn không nhìn ra được tại
sao những khối đá ngầm đen ngòm ấy có thể chuyển động. Cả bọn đều không hiểu
đang xảy ra chuyện gì, bất giác cùng sững lại. Tôi biết Minh Thúc từng trải qua
rất nhiều biến cố trên biển, về mặt này, lão khọm già có thể nói là một “nhân
vật quyền uy”, liền vội hỏi lão tại sao mặt biển không dưng xuất hiện một đống
đá ngầm biết chuyển động, là hung hay là cát?
Minh Thúc sợ trượt chân
rơi xuống biển, ôm riết lấy một mũi tên đá, kêu lên: “Chú Nhất này, cũng may là
Minh Thúc này bình thường làm hơi bị nhiều việc tốt, tích được phúc đức, thành
thử ra cát nhân mới có thiên tướng, lần này các chú theo tôi, coi như là nhặt
được cái mạng về rồi đấy. Đây là do Ngư chủ tiên sư với Mẹ tổ phù hộ, ‘Quá long
binh’ đấy!”
Hồi xưa tôi ở Phúc
Kiến, cũng từng nghe chuyện “Quá long binh” ở Nam Hải, hiện tượng này cũng như
Hải thị thần lâu, là một kỳ quan hiếm gặp vô cùng. “Quá long binh” là chỉ lũ cá
voi hoặc rùa biển kết thành đàn, ló lưng hoặc mai lên mặt nước, nhìn từ phía
xa, cảnh quan cực kỳ hoành tráng. Ngư dân cho rằng hiện tượng “Quá long binh”
cũng có điềm hung cát khác nhau, nếu là đàn cá voi hoặc đàn rùa biển nổi lên
thời là điềm lành, nhưng nếu có một lượng lớn các loài cá biển cùng nổi lên mặt
nước, thì lại là dấu hiệu năm đó sẽ mất mùa hải sản, đại họa sắp giáng xuống
đến nơi.
Kỳ thực, hiện tượng
“Quá long binh” này, là do đáy biển có biến cố quá lớn, khiến các loài thủy tộc
phải kết thành bầy mà di cư đi nơi khác. Có khả năng, chính là hải khí ở vực
xoáy San Hô biến mất, đàn rùa trong Quy Khư mới buộc phải nổi lên mặt nước, vừa
khéo nâng cả khúc cây Kiện Mộc chúng tôi đang bám vào lên theo. Hồi trước, tôi
và Tuyền béo cũng từng trông thấy rất nhiều mai rùa trong động Bách Nhãn ở giữa
thảo nguyên và sa mạc. Ở hang động “Quy miên địa”, hải khí biến ảo, tạo thành
ảo ảnh một tòa thành cổ. Giờ nghĩ lại, di tích cổ ấy, chính thị là mộ cổ trong
Quy Khư. Trăm nghìn năm trước đây, ở vùng biển vực xoáy San Hô này, nhất định
cũng có mấy lần đàn rùa phải di cư, có điều, lũ rùa biển năm đó đào tẩu khỏi
Quy Khư, đều chôn xác trong động Bách Nhãn ở thảo nguyên cả rồi.
Minh Thúc nhắc bọn tôi
tranh thủ thời cơ, mau cầm dao chặt đứt rời xác con giao lão kia ra. Tôi thấy
sự tình có cơ xoay chuyển, lại nghĩ đến hai thầy trò Nguyễn Hắc và Đa Linh đều
đã vĩnh viễn ở lại chỗ tận cùng của dư mạch Nam Long, trong lòng không khỏi bồi
hồi hụt hẫng, bỗng cảm thấy toàn thân bải hoải, đứng cũng không vững nữa, bèn
thuận thế ngồi xuống. Có điều, tôi vừa chạm tay vào khúc cây, liền có mấy mảng
gỗ tróc ra rơi xuống nước, cúi đầu xem thử, lại thấy những vết nứt trên thân gỗ
thoắt cái sâu rộng hơn rất nhiều. Tôi giật bắn mình, kêu lớn: “Chết cha, khúc
gỗ này bị nước biển xối vào bao nhiêu năm, giờ đã cực kỳ yếu ớt, xem chừng sắp
vỡ tung ra đến nơi rồi!” Còn chưa kịp nhắc những người khác, khúc cây đang nổi
dập dềnh đã toác ra.
Chương 55: Người Hà Lan
bay
Cây gỗ Kiện Mộc cắm
trong Quy Khư nghìn vạn năm không mục ruỗng là nhờ cả vào sinh khí bất diệt của
dư mạch Nam Long, giờ đây khi đã rời khỏi Quy Khư, lại liên tiếp va đập mạnh
mấy lần, lớp vỏ cây xù xì, cùng với những hóa thạch sinh vật biển trông như những
mũi tên đá gắn chặt trên đó bắt đầu thi nhau bong tróc. Xác con giao lão bị
sóng biển nhồi quật cũng từ từ trượt khỏi khúc cây đang nổi dập dềnh. Chúng tôi
đoán chừng con “thuyền độc mộc” thiên nhiên này chẳng mấy nỗi nữa sẽ bị sóng
nước quật vỡ, nhưng dưới bầu trời đêm lấp lánh đầy sao, bốn bề là biển cả mênh
mông vô tận, cũng chẳng còn biết phải làm sao. Chuyện đã tới nước này, thôi thì
đành thuận theo tự nhiên, số trời bảo thế nào phải nghe vậy mà thôi.
Tôi nhìn đàn rùa dập
dềnh bên cạnh, vắt óc nghĩ đối sách, chợt thấy trên một cái mai rùa cách chỗ
mình không xa lắm hình như có một người đang nằm sấp. Người này mặc bộ đô lặn
có tiêu ký màu vàng, trông hết sức nổi bật, mái tóc dài buông xõa, chẳng phải
Đa Linh thì còn ai vào đây được nữa? Cô nằm im bất động trên mai rùa, không
biết là sống hay chết. Con rùa lớn trôi nổi theo dòng biển, đột nhiên lại chìm
xuống, thân thể Đa Linh lập tức bị sóng biển đẩy sang một bên.
Có thể sau khi rơi từ
trên cây gỗ Kiện Mộc xuống, Đa Linh không chết, mà dựa vào tài bơi lội của dân
mò ngọc, đã bám vào một con rùa lớn đang chạy thoát khỏi Quy Khư, được nó kéo
theo lên mặt biển. Tôi thấy Đa Linh lăn từ trên mai rùa xuống biển, đang trôi
qua bên cạnh “con thuyền độc mộc”, bèn không kịp nghĩ ngợi gì nhiều, vội gọi Cổ
Thái một tiếng, rồi nhao đến đoạn cuối khúc gỗ, bám vào một mũi tên đá nhảy
xuống nước, tóm tóc Đa Linh kéo lại. Bọn Cổ Thái cũng vừa kịp chạy tới, mỗi
người góp một chân một tay đưa Đa Linh lên khúc gỗ.
Tôi bám vào mũi tên đá
leo trở lên khúc gỗ Kiện Mộc, chỉ thấy Shirley Dương đang ra sức cấp cứu. Đa
Linh sắc mặt tái nhợt như tờ giấy, bất tỉnh nhân sự, nhưng sau khi được cấp
cứu, rốt cuộc cũng ọe ra vài ngụm nước biển, có chút sức sống trở lại.
Tôi như gỡ được tảng đá
lớn đè trong lòng, đưa mắt nhìn Cổ Thái, thấy cậu ta hướng về phía Đông dập đầu
bái lạy, hình như đang cảm tạ Nguyễn Hắc trên trời linh thiêng, phù hộ cho Đa
Linh từ cõi chết trở về, lại giống như đang quỳ lạy tổ tiên Đản nhân nhà cậu
ta. Tuyền béo đỡ Cổ Thái dậy nói: “Đừng đập đầu vào khúc gỗ làm gì nữa, thằng
nhãi này, cậu còn chê nó chìm chưa đủ nhanh hay sao? Cám ơn trời đất cái quái
gì chứ, cái chết không thuộc về giai cấp vô sản, năm xưa anh cậu đây vào núi đổ
đấu...”
Trên biển kỵ nhất là
nhắc đến những chữ “lật, đổ, chìm”, Tuyền béo còn chưa dứt lời đã bị Minh Thúc
bịt mồm lại: “Thằng béo này, cả bọn sắp bị cậu hại chết rồi đấy, khinh núi chớ
khinh biển, những lời phạm vào đại kỵ này mà cũng dám nói ra à!”
Tuyền béo lập tức bốc
hỏa lên đầu, đang định lên án kịch liệt quan điểm hoang đường của lão khọm già
phản động, nhưng đúng lúc đó, cả bọn bỗng cảm thấy dưới chân rung mạnh, ai nấy
nghiêng ngả xiêu vẹo hết lượt, không đứng vững nổi nữa. Khúc cây dưới chân
không ngừng toác ra, tróc từng mảng từng mảng lớn. Tôi thầm kêu một tiếng, mới
rồi còn tưởng khúc gỗ này ít nhất cũng nổi được khoảng hai ba tiếng đồng hồ,
nhưng giờ xem chừng nó sắp bung bét hết đến nơi rồi.
Lúc này, đàn rùa đã lặn
xuống đáy biển, không hiểu đi đâu, mặt biển mênh mông trải rộng hút tầm mắt,
tuyệt nhiên không thấy bóng dáng vật thể gì khác. Một cơn sóng ập tới, một phần
khúc Kiện Mộc nổi lên mặt biển bị đánh vỡ tung. Cả bọn chúng tôi rơi hết xuống
nước, đành bám lấy một vài mảnh gỗ đang trôi nổi dập dềnh. Vùng biển này có rất
nhiều cá mập, mà dẫu may mắn không gặp phải lũ cá dữ, thì cứ ngâm mình trong
nước biển lạnh như băng thế này, thử hỏi chúng tôi sẽ cầm cự được bao lâu đây?
Tôi đeo theo tấm gương
đồng nặng nề, bám vào mấy mảnh gỗ, nhưng mảnh nào cũng mục nát bươm ra, làm sao
chịu nổi sức nặng của người, đành phải kéo chốt cứu sinh trên vai. Một túi khí
nhỏ phồng lên, nổi bồng bềnh trên sóng nước. Tôi đang thầm kêu khổ trong lòng,
chợt nghe Shirley Dương gọi lớn: “Anh Nhất, mau xem đi, có tàu kìa!”
Tôi tưởng mình nghe
lầm, ở vùng biển vực xoáy San Hô này làm sao lại có tàu được? Nhưng lúc này,
bọn Tuyền béo cũng nhao nhao reo hò ầm ĩ, hình như đúng là có tàu thật. Tôi
định thần nheo mắt nhìn lại, thì ra không phải tàu bè ở ngoài vào. Cây gỗ Kiện
Mộc khổng lồ vốn bị khoét rỗng, bên trong chất đầy các loại đồ bồi táng kỳ
quái, sau khi cây gỗ ấy vỡ ra, những thứ bên trong liền tung lóe trôi nổi trên
mặt nước, trong đó không ngờ lại có cả một con tàu cổ còn nguyên vẹn. Con tàu
này nông choẹt, cột buồm rất thấp, thân tàu hình bầu dục, trông giống như món
đồ bồi táng chuẩn bị cho vong linh dưới đáy biển, nói theo cách của chúng tôi,
thì nó chính là một món minh khí.
Giữa những cơn sóng xô
liên tiếp, trong chốc lát chúng tôi cũng không nhìn rõ con tàu này là như thế
nào, nhưng khó khăn lắm mới gặp được cọng rơm cứu mạng, đừng nói là minh khí,
mà dù là tàu ma tàu quỷ gì thì cũng phải leo lên trước rồi tính sau thôi vậy,
nếu còn chần chừ nữa, chỉ sợ có sóng lớn, cả bọn ắt sẽ bị đánh cho trôi đi tứ
tán.
Tôi vội tự cổ vũ mình,
xốc lại tinh thần, bơi đến bên cạnh con tàu. Phải đến gần mới nhìn rõ, thì ra
đáy con tàu được làm từ một cái mai rùa lớn, kích cỡ áng chừng to hơn cái xuồng
cứu sinh thông thường một chút, năm sáu người lên chắc cũng không thành vấn đề.
Trên tàu có một khoang hẹp, người không chui vào được, chứa các đồ bồi táng
kiểu như san hô, ngọc thạch gì đó, vì chuẩn bị cho người chết, nên cũng không
có món nào có giá trị sử dụng cả. Cánh buồm làm từ da cá voi, dây chão bện bằng
gân cá mập, còn lại thảy đều giống một con tàu gỗ bình thường. Thân tàu trông
mới nguyên, vẫn sử dụng được. Nhưng con tàu cổ này chỉ như một mô hình phỏng
chế mà thôi, nếu gặp sóng to gió lớn, chắc chắn sẽ phải vùi thây dưới đáy biển.
Có điều, bọn tôi cũng
không lo được nhiều đến thế, vội đỡ nhau leo lên “con tàu ma”, nằm trên mai rùa
thở hổn hển, chẳng ai còn sức lực mà nhúc nhích gì nữa. Giờ không phải mùa gió,
hải khí ngưng kết ở dư mạch Nam Long đã tiêu tán, mười phần thì chắc đến tám
chín là không phải nơm nớp lo âu như lúc đến nữa rồi, chỉ cần Mẹ tổ phù hộ cho
không có lốc xoáy hay bão lớn, thì chúng tôi ở trên con tàu mong manh này, ít
nhất cũng tạm thời không lo thành mồi cho cá mập.
Đa Linh vẫn hôn mê bất
tỉnh, những người khác đều mệt lử, uể oải nằm nhắm mắt ngủ, lúc này dẫu trời có
sập xuống cũng không ai muốn mở mắt. Hai mí mắt đánh nhau một hồi, rốt cuộc tôi
cũng mơ hồ thiếp đi mất khoảng một hai tiếng, trong đầu vẫn đang mang máng nghĩ
đến thuật Ban Sơn Trấn Hải, vắt óc suy nghĩ xem làm cách nào lợi dụng kỳ thuật
của Ban Sơn đạo nhân đưa con tàu mai rùa này trở về đảo Miếu San Hô trong tình
trạng không có nước uống và lương thực.
Đến nửa đêm, cơn đói
khát trong bụng bắt đầu hành hạ, tôi ngoảnh lại thì thấy Shirley Dương đã dậy
từ lúc nào không biết. Cô dựa người vào cột buồm bằng xương cá voi ngước mắt
chăm chú nhìn bầu trời đầy sao. Tôi cũng ngước lên nhìn sao sáng lấp lánh đến
xuất thần, những sự kiện trong lần ra biển này lần lượt tua lại trong óc, từ
đáy lòng chợt dâng lên một cảm giác bồi hồi, không kìm nén nổi liền cất tiếng
bảo Shirley Dương: “Mới đầu cũng biết vùng biển vực xoáy San Hô hung hiểm khó
lường, nhưng vẫn cắm đầu cắm cổ xông tới, giờ rơi vào cảnh này, minh khí thanh
đầu giá trị liên thành chất đầy trong khoang mà chẳng đổi được một bình nước
lạnh, nửa miếng lương khô. Nghĩ lại mới thấy, lúc đó chắc chúng ta lên cơn điên
mất rồi...”
Shirley Dương nói: “Chỉ
có anh điên thôi, tôi cùng lắm chỉ ngốc, bị anh lừa đến đây điên theo anh.”
Tôi vội biện bạch: “Tôi
có điên cũng là do giáo sư Trần xúi bẩy đấy nhé. Nói ra thì cũng thật khâm phục
các vị tiền bối cả đời mò vàng trộm mộ thời xưa, cuộc sống chỉ biết hôm nay
không biết ngày mai, bốn biển là nhà này, thật sự là không phải ai cũng chịu
đựng nổi. Sống thế này chẳng biết mỗi ngày chết mất bao nhiêu tế bào não nhỉ?
Chắc tôi cũng đến lúc phải sống an phận một chút rồi.”
Shirley Dương khẽ thở dài:
“Anh giác ngộ được như vậy thì tốt quá, nhưng giang sơn dễ đổi, bản tính khó
dời. Trong mắt anh, cảnh đẹp mãi mãi ở nơi xa, đảm bảo anh chẳng ngồi yên được
mấy ngày đâu mà. Có điều, lần này lênh đênh phiêu bạt trên biển, tôi cũng chỉ
mong Thượng đế phù hộ, đừng để chúng ta trở thành người Hà Lan bay mới được.”
“Người Hà Lan bay” là
tên gọi khác của những con tàu ma, đặc chỉ những con tàu bị nguyền rủa, phải
vĩnh viễn trôi nổi trên biển, không thể cập bờ trong truyền thuyết, hồi xưa tôi
cũng từng nghe Shirley Dương nhắc đến rồi, giờ nghĩ lại, cũng không khỏi thấy
sống lưng gai lạnh, vội vàng nghĩ cách dồn sự chú ý sang hướng khác, quay qua
kiểm lại số thanh đầu vớt được trong chuyến đi lần này.
Trước đây làm Mô Kim
hiệu úy vào núi đào mồ, mười lần gộp lại cũng không bằng thu hoạch lần này. Bên
trong Quy Khư ở Nam Hải có mấy món đồ tốt, thì gần như bị chúng tôi vớt hết cả
rồi, trong đó quan trọng nhất, đương nhiên phải kể đến Tần Vương Chiếu Cốt kính
đứng đầu trong Tần Vương bát kính. Nếu có thể mang thứ này về giao cho giáo sư
Trần, thì cũng coi như đã hoàn thành được một tâm nguyện.
Có điều, tấm gương đồng
này âm khí quá nặng nề, từ lúc tìm được nó trong xác tàu đắm, tôi vẫn bỏ trong
túi chưa lấy ra xem, lúc này rỗi việc bèn tiện tay lôi ra cùng Shirley Dương
quan sát kỹ lưỡng một lượt. Trên biển trăng sáng vằng vặc, nhưng dưới ánh trăng
ấy, tấm gương cổ lại không hề phản chiếu chút ánh sáng nào, mặt gương đã tổn
hại hết sức nghiêm trọng, thân gương khắc chi chít toàn chữ triện nhỏ li ti. Đồ
thời Hạ đơn giản không có hoa văn mấy, đồ thời Ân cổ phác mạnh mẽ, hoa văn như
vệt sâu bò, nhưng chữ khắc trên Tần Vương Chiếu Cốt kính lại như đàn nòng nọc,
tựa hồ ẩn chứa quẻ tượng gì đấy, tôi đoán thứ này có lẽ được đúc vào khoảng
thời Tây Chu cũng nên.
Tôi đang ngắm nghía tấm
gương, thì khóe mắt chợt dừng lại trên con nhân ngư bốn chân ở góc gương, liền
ngây người ra tại chỗ luôn. Tạo hình của con cá bốn chân ấy rất đơn giản, nhưng
mắt cá lại trống không, hệt như tấm long phù tôi phát hiện mười mấy năm trước ở
động Bách Nhãn. Tấm long phù không mắt ấy cũng chẳng rõ là cổ vật từ triều nào
đại nào, bị bỏ trong quan tài đồng của Hoàng đại tiên làm minh khí, giờ nghĩ kỹ
lại mới thấy tấm long phù và hình nhân ngư bốn chân điêu khắc trên tấm gương
đồng này xét về kiểu dáng, khoản thức đều rất giống nhau.
Lão Trần mù làm nghề
xem bói ở Bắc Kinh dường như biết được sự bí ảo bên trong tấm long phù, nhưng
lần trước vội quá, sau khi tôi nhắc chuyện tấm long phù không có mắt, lão chỉ
giơ bốn ngón tay lên làm hiệu, sau đó liền biến mất. Tôi từng nghĩ đi nghĩ lại,
song cũng không đoán ra “bốn” nghĩa là thế nào? Giờ nhìn thấy trên tấm gương
này có hình trang trí là một con cá bốn chân, trong lòng lại càng thêm mờ mịt,
lẽ nào lão giơ bốn ngón tay lên là chỉ bốn loại đồ cổ bằng đồng thau, rồng và
cá là một trong số đó? Còn hai thứ nữa là gì? Những con thú đồng không có mắt
này, rốt cuộc dùng để làm gì? Bên trong ẩn chứa bí mật gì đây? Hình vẽ nòng nọc
trên Tần Vương Chiếu Cốt kính dường như cũng ẩn tàng quẻ số, có lẽ mấy thứ long
phù long phiếc thần bí này không khéo lại liên quan đến quẻ tượng Toàn thiên
(Tiên thiên và Hậu thiên) thời Tây Chu cũng nên.
Quẻ Toàn thiên, bao hàm
vô cùng vô tận các cơ số, có thể luận ra đủ loại quẻ tượng. Quẻ tượng phải dùng
đến bốc từ để giải đọc, những thứ này đối với kẻ trình độ gà mờ như tôi thực
tình còn khó hơn cả lên trời. Nhưng bao đời tổ tiên nhà Cổ Thái đều lưu truyền
khẩu quyết nguyên thủy nhất của quẻ Toàn thiên này. Khẩu quyết tuy không phức
tạp lắm, nhưng nội dung thì còn thâm ảo hơn những gì hậu nhân của người viết
Thập lục tự âm dương phong thủy bí thuật Trương Doanh Xuyên nghiên cứu nhiều
lần. Có điều, các đời Đản nhân xưa nay chỉ coi những lời bốc từ này là phù chú
hộ thân dưới đáy biển, dường như không hề biết nguồn gốc lai lịch của chúng là
từ đâu.
Nghĩ tới đây, tôi
ngoảnh đầu liếc Cổ Thái đang say ngủ, thầm nghĩ chi bằng đợi cậu ta tỉnh lại,
thử hỏi về Tần Vương Chiếu Cốt kính xem sao, biết đâu thằng nhãi này lại hiểu
được huyền cơ trong mấy con thú đồng không có mắt ấy. Tôi đang ngồi nghĩ ngợi
vẩn vơ thì Tuyền béo và Minh Thúc cũng lần lượt tỉnh giấc vì đói quá. Mặt biển
sóng yên gió lặng, không rõ con tàu rách nát này đã trôi dạt đến nơi nào rồi
nữa. Mọi người dốc nốt mấy giọt nước cuối cùng vào thấm cổ họng, rồi bàn xem
nếu lát nữa có cá nhảy bay qua mạn thuyền thì làm cách nào bắt được vài con ăn
sống cho đỡ đói. Tôi cũng cảm thấy dạ dày cồn lên dữ dội, bèn gói Tần Vương
Chiếu Cốt kính cất đi, nói với cả bọn: “Cách mạng chính là ăn cơm, không nhồi
đầy bụng thì chẳng có sức làm gì cả, đối với việc ăn uống cần phải có thái độ
hết sức nghiêm túc, không được qua loa sơ sài, vì vậy chúng ta phải mau
chóng...”
Tôi và Tuyền béo, Minh
Thúc bàn bạc qua loa một chút, chủ yếu chỉ là nghĩ cách bắt cá. Minh Thúc nói,
ở Nam Hải này hay có cá chuồn nhảy lên mặt nước, kết thành từng đàn lớn đùa
giỡn trên sóng, lúc nào trời sáng, chỉ cần lấy minh châu ra làm mồi là có thể
dụ lũ cá chuồn mọc hai cái vây như đôi cánh lướt qua mạn tàu. Nhưng lúc này mới
là nửa đêm, chúng tôi ngồi ở mũi tàu đợi mãi mà chẳng thấy bóng dáng con cá
nhảy nào cả.
Tôi chẳng biết làm gì
hơn, cũng đành đợi đến khi trời sáng rồi tính sau vậy. Quay lại giữa tàu, thấy
Shirley Dương đang kiểm tra Đa Linh vẫn hôn mê bất tỉnh. Giữa biển lớn mênh
mông không thầy không thuốc, nếu cô cứ hôn mê mãi thế này, chỉ sợ sẽ nguy đến
tính mạng mất, tình hình không lạc quan một chút nào cả.
Shirley Dương phát hiện
tình trạng Đa Linh xấu đi, vội bảo tôi bắt mạch xem thế nào. Nhưng tôi vừa chạm
vào cổ tay Đa Linh, liền cảm thấy dưới ống tay áo hình như có gì đó, như thể cô
đeo đồng hồ vậy. Tôi vốn tưởng là đồng hồ lặn, liền định gỡ nó ra, không ngờ,
trên cổ tay Đa Linh lại là cái đồng hồ vàng Tuyền béo gỡ từ cánh tay người chết
trong xác tàu dắm. Tuyền béo thấy thế, liền định giật lại cái đồng hồ nhưng mặt
đồng hồ đã gắn chặt vào da thịt trên cổ tay Đa Linh rồi, có khi phải dùng dao
mới cạy ra được.
Tôi nhìn cái đồng hồ
vàng, ngạc nhiên thốt: “Cái đồng hồ này… sao lại ở trên người Đa Linh?” Đang
nghi hoặc chưa biết nào, chợt ngửi thấy trong gió có mùi tanh tưởi xộc lên tận
mũi. Chúng tôi từng nhiều lần tiếp xúc với tử thi, đều nhận ra ngay mùi xác
thối, nhưng trên tàu không có thi thể thối rữa, mùi ấy ở đâu ra mới được chứ?
Minh Thúc lại còn buôn
bán xác cổ mười mấy năm, vừa ngửi đã biết tuyệt đối là mùi xác chết. Mấy người
hít hà ngửi nhau một hồi lâu, mới xác định mùi xác thối này tỏa ra từ Đa Linh,
kiểm tra kỹ càng, phát hiện trên người cô đích thực là có mấy đốm ban không rõ
lắm, mũi miệng có mấy giọt chất tanh lòm chảy ra. Ngay từ đầu tôi đã cảm thấy
trong con tàu Mariana bị đắm ấy có gì không ổn, cái đồng hồ vàng của thuyền
trưởng rất có vấn đề rồi. Giờ tôi chẳng còn lo tổn thương đến da thịt Đa Linh
nữa, vội lấy dao găm nạy đồng hồ ra, ném xuống biển.
Minh Thúc kinh hãi kêu
lên: “Chết cha rồi, cái đồng hồ ấy vớt được trong xác tàu đắm, chỉ sợ đã bị
trúng phải thuật Giáng Đầu của người Nam Dương rồi, vứt bỏ phỏng có ích gì chứ?
Giờ Đa Linh đã trúng phải tà thuật, mùi xác thối ấy còn ghê hơn bệnh truyền
nhiễm nữa, nếu không mau ném con bé xuống biển cho cá ăn thì chúng ta đừng hòng
sống sót trở về.”
Chương 56: Cứu mạng
Sinh Thúc bôn ba ở Nam
Dương suốt một thời gian dài, thấy cái đồng hồ vàng bốc mùi xác thối nồng nặc,
liền nhận định ngay nó đã bị trúng thuật Giáng Đầu. “Giáng, Cổ, Thống” được gọi
là Tam đại tà thuật của Nam Dương. “Thống” là thuật dùng các loại pháp môn mà
người bình thường không thể tưởng tượng được để chế thành kỳ độc; nguyên lý của
“Cổ” không nằm ngoài một chữ “hoặc”, là một loại tà pháp khiến người ta mê thất
tâm trí bằng sâu độc; còn thuật “Giáng Đầu”, là yêu thuật sử dụng phù chú, tinh
thể, hồn ma làm trung gian hại người, trong đó, các loại “thi giáng, quỷ giáng”
đều có thể nhanh chóng hại chết rất nhiều người và súc vật, mức độ nguy hại
không thua gì ôn dịch truyền nhiễm, cực kỳ khó đối phó.
Ở vùng Nam Dương, các
thủy thủ và thương nhân tàu trên biển, quanh năm phải giành giật miếng ăn trên
đầu ngọn sóng, nếu bất hạnh gặp phải sự cố trên biển, thân thể mồi cho cá thì
thôi, nhưng có một số xác chết bị phong bế bên trong xác tàu, hoặc bị sóng biển
đánh dạt lên bờ, ngư dân Nam Dương có rất nhiều người coi việc vớt thanh đầu là
con đường làm giàu nhanh chóng, hễ gặp xác chết là lột hết đồ đạc đáng tiền
trên người, sau đó bỏ xác cho trương phình thối rữa chứ chẳng thèm chôn cất. Vì
vậy, để đề phòng bất trắc, một số thủy thủ đã dùng thuật Giáng Đầu ám lên các
đồ trang sức vàng bạc mang theo người, nhằm báo phục lũ hải tặc giết người cướp
của, hoặc những kẻ mưu cầu món lợi bất nghĩa trên thân thể người chết. Kẻ nào
lấy vật của người chết vì tai nạn trên biển, ắt sẽ trúng phải tà thuật, chết
thảm vô cùng.
Những chuyện này, tôi
và Tuyền béo đều từng nghe loáng thoáng, có điều lúc lặn vào trong xác tàu
Mariana, trông thấy cái đồng hồ vàng chóe kia, Tuyền béo lại không sao kìm được
cái bản tính tham lam món lợi nhỏ của cậu ta, lòng tham nổi lên thì có mười vạn
Kim cương La hán hợp lực cũng không đè xuống nổi, nên mới tiện tay dắt dê mà
cầm lên.
Có điều, sinh khí trong
Quy Khư quá thịnh, thuật Giáng Đầu không hiển lộ, về sau ai nấy cuống lên chạy
tháo mạng, Tuyền béo đánh rơi mất cái đồng hồ ở đâu không rõ. Lẽ ra đánh rơi
rồi thì coi như xong, thế cũng là một điều may mắn, nhưng chẳng ai ngờ được,
cái đồng hồ vàng mang vạ ấy lại rơi vào tay Đa Linh.
Con tàu mai rùa mà
chúng tôi đang ngồi đây, thực ra không to hơn cái bè là mấy, sáu người ngồi là
đã phải chen chúc rồi, vừa không có nước, lại cũng không có lương thực, có chịu
được sóng gió hay không còn chưa biết, huống hồ giờ lại thêm một Đa Linh bốc
mùi xác thối, toàn thân bắt đầu xuất hiện các đốm ban chỉ có ở xác chết. Theo
kết luận của Minh Thúc, cô đã trúng phải thuật Thi giáng, tuy vẫn còn sống,
nhưng thân thể đang dần biến thành một cái xác thối rữa, nếu không nhanh chóng
ném xuống biển, những người trên tàu này chắc chắn sẽ nhiễm phải ôn dịch mà
chết.
Minh Thúc thê thiết kêu
rống lên: “Chú Nhất, chú Tuyền béo... cả cô Shirley Dương nữa, mọi người phải
cân nhắc cho kỹ, đừng vì một con bé mò ngọc không đâu mà khiến tất cả mất mạng.
Sau này trở về đảo Miếu San Hô, Minh Thúc tôi nhất định sẽ bỏ tiền làm lễ siêu
độ cho con bé. Nó trúng phải thuật Giáng Đầu rồi, đằng nào cũng chết, chúng ta
hà tất phải chết theo nó làm gì chứ.”
Cổ Thái thấy Đa Linh
bắt đầu xuất hiện đốm ban như xác chết, lại thấy Minh Thúc làm bộ làm tịch,
muốn thuyết phục chúng tôi ném Đa Linh vẫn đang sống sờ sờ xuống biển, lập tức
trợn trừng mắt lên như một con thú nổi điên, rút dao găm ra định liều mạng với
lão khọm già Hồng Kông ấy.
Minh Thúc là lão già
gian xảo thành tinh, làm sao lại sợ một thằng nhãi mười mấy tuổi đầu như Cổ
Thái được? Trong mắt thoáng lóe lên ánh hung quang, rõ ràng là đã động sát cơ,
lão lẳng lặng đặt tay lên cán con dao găm lặn nước. Tôi thấy ý tứ của lão khọm
đã quá rõ ràng, việc trước mắt quan hệ đến sinh tử tồn vong, nói không chừng
cũng chỉ còn cách giết luôn cả Cổ Thái, ném xác xuống biển để khỏi lưu lại hậu
họa sau này.
Con tàu mai rùa trôi
lênh đênh trên mặt biển dưới bầu trời đầy sao, gió biển nhè nhẹ phơ phất thổi
lên cánh buồm da, biển cả tĩnh lăng đến lạ thường, nhưng không khí trên tàu
căng thẳng đến mức cơ hồ như đông đặc lại. Tình hình xem ra cực kỳ nan giải.
Tuy Minh Thúc chỉ bo bo muốn giữ cái mạng của mình đòi ném Đa Linh xuống biển,
nhưng rốt cuộc cũng chỉ là hành động chó cùng rứt giậu, cơ bản là hơi xác thối
từ Đa Linh mỗi lúc một nồng nặc, một khi để cô bé biến thành xác thối, những
người khác chắc chắn sẽ bị truyền nhiễm, đến lúc đó thì cả bọn đều chết hết ở
đây. Có điều, tôi cũng tuyệt đối không thể nhìn người sống sờ sờ bị ném xuống
biển cho cá ăn được.
Tôi đành đứng chắn vào
giữa Cổ Thái và Minh Thúc, để hai người họ tạm thời không thể hạ thủ với nhau.
Minh Thúc hét lên với tôi: “Chú Nhất, không phải chúng ta vô tình vô nghĩa,
muốn trách thì trách con bé Đa Linh ấy tự nhặt cái đồng hồ vàng lên chứ. Minh
Thúc tôi chừng này tuổi đầu rồi, cái gì cần hưởng thụ cũng đã hưởng thụ hết,
giờ chết cũng chẳng còn gì tiếc nuối. Nhưng các cô các chú còn trẻ, tương lai
còn dài, đừng chán sống như thế...”
Cổ Thái ở sau lưng tôi
rống lên: “Anh Nhất, đừng ném chị tôi xuống biển, chị ấy còn thở mà... còn sống
mà!” Shirley Dương cũng rối rít nói: “Anh Nhất, chớ có nghe lời Minh Thúc, thế
là mưu sát đấy! Chúa sẽ không tha thứ cho đâu.”
Hoàn cảnh của tôi lúc
này thực vô cùng khó xử, một mạng người đổi lấy năm mạng người, bên nào nặng
bên nào nhẹ đã rất rõ ràng, nhưng đây đâu phải chợ rau chợ cá mà dễ dàng cân đo
đong đếm như thế. Tôi lại liếc mắt nhìn sang chỗ Tuyền béo, chỉ thấy cậu ta cảm
khái mà rằng: “Nhất ạ, lựa chọn chúng ta đang phải đối mặt bây giờ, không khỏi
khiến tôi nhớ đến bộ phim Buổi đầu chiến tranh của điện ảnh Albania, nhân dân
Albania anh hùng là ngọn đèn sáng của châu Âu. Trong phim, đội du kích anh dũng
sáu người ấy có một nữ du kích xinh đẹp bị thương, để yểm hộ cho các đồng chí
an toàn rút lui, cô đã không chút do dự lựa chọn ở lại ngăn cản quân Đức, kết
quả là bị bọn Đức bắn chết trên ngọn núi cao. Sự nghiệp mò ngọc vớt thanh đầu
của chúng ta, tuy rằng không thể gạch dấu bằng với cuộc chiến chống chủ nghĩa
phát xít vĩ đại của nhân dân thế giới được, nhưng mà...”
Tôi nghe Tuyền béo ba
hoa tràng giang đại hải mà phát ngán, chuyện gì qua cái mồm cậu ta xong cũng
đều biến vị, hỏi cũng như không, vội vàng ngắt lời: “Đa Linh không phải đội
viên đội du kích, có can hệ gì đến điện ảnh Albania đâu?” Có điều, dây dưa trì
hoãn được một chút, trong đầu tôi đã nảy ra ý, bèn quay đầu lại nói với Minh
Thúc: “Lúc Nguyễn Hắc hấp hối, đã nhờ chúng ta đưa Đa Linh và Cổ Thái sang
Pháp, lúc đó mọi người đều chính miệng đáp ứng, nhưng giờ xác Nguyễn Hắc vẫn
còn chưa lạnh mà đã định ném xác đồ đệ ông ta xuống biển, thậm chí còn định
giết Cổ Thái diệt khẩu, thế là lẽ gì chứ? Tôi từng đánh trận, cũng từng nổ súng
giết người, bao nhiêu năm nay đã trải qua nhiều chuyện sinh sinh tử tử, nhưng
bác bảo tôi hạ thủ giết người bạn cùng mình vào sinh ra tử, thì thế nào tôi
cũng không ra tay được.”
Minh Thúc thấy tôi không
chịu, vội vàng khuyên can: “Có bảo cậu phải đích thân động thủ đâu, chúng ta
ném con bé xuống biển cho nó tự sinh tự diệt là được rồi. Không phải chúng ta
ác độc gì, nhưng trên con tàu nát này, trừ phi Nam Hải Quan Âm hạ phàm, bằng
không thử hỏi có ai cứu được người trúng thuật Giáng Đầu chứ? Đừng mềm lòng
nữa...”
Tôi vỗ vai Minh Thúc
nói: “Bác nói đúng rồi đấy, Quan Âm Nam Hải thì chúng ta không mời được, nhưng
đồ của Phật gia thì vừa khéo có một món.” Nói đoạn, tôi liền cho tay vào túi
Tuyền béo lấy ra chiếc áo phỉ thúy vớt được trong xác tàu đắm. Cỗ bảo y này tám
chín phần là để cung phụng Phật tổ trong một ngôi chùa lớn nào đấy bên Thái,
không hiểu sao lại bị trộm ra, rồi chìm theo tàu Mariana xuống đáy biển vực
xoáy San Hô. Bộ y phục này, vốn là thánh tích được bao đời cao tăng khai quang,
mặc lên người thì đông ấm hè mát, chẳng những diên niên ích thọ, tiêu trừ bệnh
tật mà còn có thể trừ ma đuổi tà nữa.
Tuy nói Phật khí đã
khai quang có thể đuổi tà, nhưng đây chỉ là truyền thuyết ở vùng Nam Dương,
chẳng biết thật giả thế nào, song tôi lại biết, ngọc được coi là tinh hồn của
đá, thường có câu “nhất phỉ thúy, nhì ngọc thạch, ba mã não”, chỉ là ngọc cổ đã
có thể ngăn thi thể thối rữa, là phỉ thúy lại càng tốt hơn, chỉ cần bọc tấm
“Phật y” bằng phỉ thúy này lên người Đa Linh, biết đâu có thể ngăn thuật Giáng
Đầu phát tác. Nói gì thì nói, đây cũng là một biện pháp khả thi, ít nhiều cũng
tốt hơn là mọi người cùng nhiễm ôn dịch hoặc ném Đa Linh xuống biển.
Mọi người nghe tôi nói
xong, đều lộ vẻ mừng rỡ, vừa nãy đúng là cuống quá hóa hồ đồ, không ai nghĩ đến
tấm Phật y cứu mạng này, cả bọn vội vàng giúp Đa Linh mặc lên người. Chất ngọc
đã trấn áp được hơi xác, dần dần mùi hôi thối thậm chí không còn phảng phất
trong gió biển nữa, nhưng Đa Linh vẫn sốt cao, miệng không ngừng nói mơ, có giữ
được tính mạng hay không là điều rất khó nói.
Để Đa Linh dễ thở hơn,
Shirley Dương cắt một đường ngắn ở gần cổ áo cô bé, thì phát hiện trên cổ Đa
Linh đeo một mặt dây chuyền hình chiếc hộp nhỏ, có thể đóng mở. Cô tiện tay mở
ra, bên trong có ảnh một đôi vợ chồng, Cổ Thái bảo, đó là ảnh cha mẹ ruột Đa
Linh.
Tôi thấy tò mò, cũng
ngó đầu vào xem, không ngờ vừa liếc mắt nhìn, lập tức sững người ngạc nhiên.
Người Pháp trong tấm ảnh bé tí xíu ấy nhìn trông quen mắt quá, giống hệt như
bóng ma tôi trông thấy trong xác tàu Mariana? Lẽ nào thuyền trưởng tàu Mariana
chính là người cha quốc tịch Pháp đã thất tán của Đa Linh? Sau khi theo quân Pháp
rút khỏi Việt Nam, ông ta bèn ở lại Nam Dương làm nghề buôn lậu, chuyên đánh đồ
cổ? Nếu đúng là vậy thật, thì vị thuyền trưởng buôn lậu cổ vật này, dùng tà
thuật Giáng Đầu để hại người, không ngờ lại hại đúng con gái ruột của mình. Xem
trong cõi u minh đúng là có nhân quả tuần hoàn, sợ rằng Đa Linh vĩnh viễn không
thể tìm được người thân ở bên Pháp rồi.
Trong đầu nghĩ vậy,
song tôi cũng không nói với những người khác, tránh để Đa Linh và Cổ Thái biết
rồi lại lo lắng đau lòng. Sau khi sắp xếp cho Đa Linh xong xuôi, mặt trời đã
nhô lên trên biển, ai nấy vừa đói vừa khát, đành dùng bí thuật của Ban Sơn đạo
nhân truyền lại, bắt cá ăn cho đỡ đói, vớt “giếng biển” giải khát, sử dụng
phương pháp cổ xưa nguyên thủy nhất để giải quyết tình hình khốn đốn trước mắt.
Minh Thúc và Shirley
Dương dùng gân cá mập trên tàu làm thành một cái lưới không lớn lắm, cũng may
còn mang theo được hơn ba chục viên minh châu, lấy ra làm mồi, dụ bọn cá chuồn
lao lên ngay sát mạn tàu, có con còn tự nhảy luôn vào khoang tàu. Ở Nam Hải có
một loại sứa trong suốt, dân mò ngọc gọi là “giếng biển”, chúng cũng bị ánh
sáng của minh châu thu hút, nổi lên mặt biển. Loại sứa này, sau khi vớt lên,
dùng dao găm rạch ra, bên trong có một túi mềm trong suốt, tựa như túi mật,
đựng nước trong vắt, vừa mát vừa ngọt, tuy mỗi con sứa biển chỉ được chừng một
ngụm, song cũng tạm đủ để giải quyết mối nguy trước mắt.
Có điều, ánh sáng của
minh châu vùng biển vực xoáy San Hô này quá thịnh, buổi đêm không thể đem ra
dùng được, sợ sẽ dụ lũ cá lớn dưới đáy biển trồi lên làm lật cả tàu bè. Cứ thế,
chúng tôi áp dụng phương pháp cổ xưa của Ban Sơn đạo nhân, bắt cá vớt sứa ăn
qua ngày. Cũng may, Minh Thúc có kinh nghiệm hàng hải rất phong phú, nhận biết
được các dòng chảy, sau mấy ngày trôi nổi lênh đênh, cuối cùng chúng tôi cũng
thoát khỏi vùng vực xoáy San Hồ, gặp được tàu bè qua lại gần đảo Miếu San Hô.
Lúc bọn tôi về đến đảo,
giáo sư Trần và Răng Vàng đã nóng ruột gần phát điên, khổ nỗi tàu bè vào trong
vực xoáy San Hô lại không liên lạc được nữa, cũng chẳng có ai dám mạo hiểm tiến
vào đó tìm kiếm. Hai người họ đành đợi hết ngày này qua ngày khác, trông ngóng
đến mòn con mắt, rốt cuộc nhóm trục vớt chúng tôi cũng đã trở về.
Chúng tôi lên bờ, chẳng
kịp thuật lại những chuyện kinh hoàng đã trải qua cho giáo sư Trần nghe, lập
tức cùng Tuyền béo, Cổ Thái khiêng Đa Linh chỉ còn thoi thóp chút hơi tàn, chạy
thẳng đến chỗ tay buôn chợ đen Võ thọt trên đảo, bảo y mau mau tìm bác sĩ.
Võ thọt thấy bọn tôi
người nào người nấy cháy nắng đen nhẻm, da phồng rộp, quần áo rách rưới bẩn
thỉu, không khỏi giật bắn mình, không thể ngờ lại có người sống sót từ vùng
biển vực xoáy San Hô trở về, hỏi rõ sự tình mới biết Đa Linh đã trúng phải
thuật Thi giáng. Cái đảo Miếu San Hô bé bằng nắm tay này thì lấy đâu ra bác sĩ,
vả lại, có bác sĩ Trung y bác sĩ Tây y gì cũng vô dụng, Đa Linh bị trúng tà
thuật của Nam Dương chứ đâu phải mắc bệnh thường. Nếu không có mấy trăm phiến
ngọc phỉ thủy phủ lên người, e rằng toàn thân sớm đã phù thũng thối rữa biến
thành xác chết từ lâu rồi.
Võ thọt bảo, có điều
các vị cũng chớ lo cuống lên, trong làng chài có một vị sư phụ biết thuật Giáng
Đầu, mau đến gặp ông ấy xem thế nào. Nói đoạn, y vội dẫn chúng tôi đến nhà ông
thầy mo kia. Ông thầy mo thấy Đa Linh bị trúng thuật Thi giáng, không dám chậm
trễ, vội đốt nến trắng gí khắp người cô bé một lượt. Da Đa Linh lập tức tiết ra
mấy giọt chất lỏng trắng nhầy nhầy.
Ông vu sư cứ lắc đầu
lia lịa, nói cô này xem ra hết cứu rồi. Thuật Thi giáng và Quỷ giáng quá độc
địa, tuy Đa Linh không bốc mùi xác thối nữa, nhưng hơi người sống đã tan hết,
được bọc trong áo phỉ thúy của Phật gia dù có thể không chết, thì cũng chỉ như
người thực vật thôi, vĩnh viễn chẳng bao giờ tỉnh lại. Xem tình hình này, mấy
hôm nữa sợ rằng có đút cháo đút nước cũng không nuốt được, trừ phi bỗng có thi
đơn nghìn năm, nói không chừng mới cứu nổi cái mạng nhỏ của cô bé về.
Tôi biết ở vùng Nam
Dương này người ta cũng công nhận các thuyết về nội đơn với ngoại đơn. Thi đơn
cũng là một loại nội đơn, một thứ ung nhọt hoặc kết thạch (giống như sỏi thận)
vẫn tiếp tục phát triển trong cơ thể sau khi sinh vật chết đi. Nhưng tình huống
cơ thể sinh nội đơn sau khi chết thực sự quá hiếm hoi. Nội đơn là thứ phải nhờ
vào linh khí của trời đất, tinh hoa của nhật nguyệt mới ngưng luyện thành hình,
cả đời này tôi mới chỉ trông thấy có một lần, chính là thi đơn trong cơ thể con
chồn lông vàng. Còn những xác cổ khác, cùng lắm cũng chỉ ngậm trong miệng một
viên ngọc, lấy đâu ra nội đơn với chẳng ngoại đơn gì chứ.
Thi thể và nội đơn của
con hoàng đại tiên ấy đều đã bị hủy mất rồi, cái thứ hiếm có khó tìm ấy, nếu
không phải cơ duyên đặc biệt, cả đời e rằng đến một lần gặp cũng chẳng có. Tôi
thở dài một tiếng, tuy có phụ sự nhờ vả của Nguyễn Hắc, song đích thực chúng
tôi đã tận hết sức mình rồi.
Lúc này, giáo sư Trần
đã biết được đầu đuôi sự tình qua Shirley Dương. Ông già cảm thấy mình cũng có
một phần trách nhiệm rất lớn đối với sự việc của Đa Linh, vẻ âu lo lồ lộ trên
nét mặt, muốn giúp mà cũng chẳng có cách nào. Nhưng rồi, hình như ông lại sực
nhớ ra điều gì đó, vội lẳng lặng kéo tôi sang một bên, thấp giọng thì thào:
“Nội đơn sống trong xác cổ thực sự là vô cùng hiếm, tôi sống ngần này tuổi đầu
rồi cũng chưa gặp bao giờ. Nhưng tôi nhớ từ rất nhiều năm trước... hồi ấy đương
là thời kỳ quân phiệt hỗn chiến, ở vùng giao giới giữa Hồ Nam và Quý Châu từng
xảy ra một vụ xác cổ quấy nhiễu dân tình. Tương truyền, đấy là cương thi đời
Nguyên trong mộ cổ Bình Sơn ở Tương Tây, lúc thi biến, trong miệng từng phun ra
một viên nội đơn màu đỏ chói...”
HẾT
Nguồn doc.178vn.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét