Chương 1: Mộ cổ thôn Địa
Tiên
Tương truyền trong mộ cổ cất
giấu rất nhiều báu vật, có nhiều "vật vô danh", là những báu vật kỳ
bí từ xưa không được ghi chép cũng chẳng biết lai lịch, vốn không nên xuất hiện
trong nhân gian, một khi đã lạc vào dân gian, để cho phàm phu tục tử thấy được, sao
có thể không nảy sinh lòng tham? Mặc dù không nhất định đầu cơ trục lợi, cũng
là muốn nhân cơ hội này mà làm nên danh tiếng. Có thể thấy được hai chữ
"Danh Lợi" này thực hại người không nhẹ.
Gương cổ thanh đồng tôi vớt được từ hải nhãn Nam Dương, chính
là "Chu thiên quái kính" thế gian hiếm gặp, những tưởng giáo sư Trần
sẽ đem gương cổ nộp cho nhà nước lưu trữ, chẳng ngờ cuối cùng lại bị lão giáo
sư Tôn "tấm ngẩm tầm ngầm mà đấm chết voi" lừa mất, nếu không phải
tôi nhặt được cuốn sổ ghi chép công việc của lão ở viện bảo tàng, giờ chắc vẫn
để lão che mắt.Bây giờ ba đứa tôi, Shirley Dương và Tuyền Béo cầm cuốn sổ ghi chép tới cửa hưng sư vấn tội, giáo sư Tôn bị tôi nắm thóp, cứ năn nỉ chúng tôi đừng đem việc lão "bí mật nghiên cứu văn vật tại nhà" tố giác ra ngoài, đây không phải chuyện đùa, lão đã đắc tội không ít người, chẳng may bị lãnh đạo cấp trên hay đồng nghiệp nào đó biết được, chắc chắn sẽ mang tội nghiêm trọng thân bại danh liệt.
Mặc dù tôi điên tiết lão giấu riêng tấm gương cổ thanh đồng, nhưng cũng không nỡ bóc trần hại lão bẽ mặt, biết có chừng mực, bèn nói với giáo sư Tôn: "Ông đã biết hối lỗi, giờ chỉ cần nói cho chúng tôi biết phải làm thế nào, chúng tôi có chủ trương bỏ qua chuyện cũ, sau này sẽ coi như không biết chuyện này."
Tôi và Tuyền béo nói ra điều kiện. Trước tiên bắt giáo sư Tôn viết cam kết, bây giờ mặc dù cái trò "Qua cầu rút ván" không còn thịnh hành, nhưng ít nhiều gì thì giấy tờ chứng minh vẫn là cần thiết, nhỡ đâu lão già này mai kia lật lọng, thì lôi giấy trắng mực đen kèm dấu tay này ra là có thể giao lão cho cơ quan chức năng xử lý, nội dung hoàn toàn theo ý tôi, tôi đọc đến đâu lão viết đến đó, mang tiếng là "Cam kết", phải nói là "Khẩu cung" mới đúng.
Sau này còn phải mang cổ kính cổ phù Châu về Hợp Phố, đưa hết cho giáo sư Trần, nói thế nào đi nữa, những báu vật này cũng không đến lượt giáo sư Tôn, nhưng chuyện đó phải để sau, bây giờ chung tôi phải mượn những vật này dùng tạm đã, phải để cho giáo sư Tôn đưa chúng tôi đi kiếm "Đan đỉnh thiên thư" trong "Mộ cổ thôn Địa Tiên".
Vị địa tiên thời minh tinh thông yêu thuật "Quan sơn chỉ mê" kia mặc dù giấu kín phần mộ của mình, nhưng vẫn theo cổ pháp "vấn" của dân trộm mộ. Sử dụng hải khí ngưng tụ không tan trong Thanh đồng quái kính, lại có vài phần cơ hội chiêm nghiệm ra động tĩnh phong thủy của "thôn Địa Tiên", sau đó đám "Mô Kim Hiệu Úy" chúng tôi liền có thể vào đổ đấu, lấy thi đan nghìn năm về, còn chuyện trong "Mộ cổ thôn Địa Tiên" có "Thi đan" không được chép lại trong sử sách, tạm thời cũng không thể biết chắc được, nhưng nếu ta đã biết được manh mối này, để cứu được tính mạng Đa Linh thì không thể làm như không thấy.
Giáo sư Tôn nghe đến yêu cầu này, cứ lắc đầu quầy quậy, nói việc này so với lên trời còn khó hơn, "nến mỡ người, gương cổ thanh đồng" hôm nay đều có ở đây cả, cây nến mỡ người kia được chúng tôi vớt từ hải nhãn về, có điều cũng không phải thực sự là nến làm từ mỡ người, mà lấy mỡ hắc lân giao nhân của Nam Hải chế thành, có thể sáng mãi không tàn, gió thổi không tắt, đến giờ vẫn còn có thể dùng được.
Quẻ phù thanh đồng cũng có một rồng một cá, hai mảnh phù cổ có thể diễn ra nửa quẻ, nhưng cũng không biết hai mảnh này có huyền cơ gì, không giải được ẩn ý không có mắt trên mảnh phù, căn bản không biết dùng làm sao, mà quan trọng nhất là không có thời gian, gương cổ bảo tồn không được bao lâu.
Shirley Dương từ lúc đến nhà giáo sư Tôn, vẫn chưa lên tiếng, nghe vậy thấy kỳ quái, nhịn không được bèn hỏi: "Sao lại nói như vậy? Sao lại bảo gương cổ không còn nhiều thời gian?"
Tôi cũng vỗ vỗ vai giáo sư Tôn, cảnh cáo lão: "Đừng có tưởng ông là Ông Chín, bọn chúng tôi đây đối với khảo cổ học cũng không phải gà mờ, ông mà còn ăn nói lung tung, đừng trách bọn tôi không chừa cho Ông Chín chút mặt mũi."
Giáo sư Tôn đáp: "Cái gì mà Ông với cả Chín, thế mà cũng nói được, trước đây tôi từng bị kích thích, nghe những lời này ngực đã khó chịu rồi, hơn nữa chuyện tới nước này, tôi còn gạt các anh làm gì? Các anh tự xem đi, mặt gương cổ thanh đồng này dùng Quy Khư Long Hỏa chế tạo, không giữ được bao lâu đâu." - Vừa nói vừa giơ mặt gương ra cho chúng tôi xem.
Xi ở mặt trái tấm gương đều đã bị hủy đi, cổ văn sặc sỡ hiện ra trước mắt, tôi, Shirley Dương và Tuyền Béo vẫn canh cánh trong lòng, nghĩ chiếc gương này là "Tần Vương Chiếu Cốt Kính", thấy mặt sau gương, bèn tránh đi theo bản năng không để gương chiếu vào mình, nhiễm phải âm hối thi khí của Nam Hải cương thi.
Nhưng xem ra mặt sau tấm gương cũng không có dị trạng gì, mới nhớ ra đây là Thanh đồng quái kính, không liên quan gì đến "Tần vương chiếu cốt kính" trấn thi ngàn năm, tiến tới nhìn kỹ, mới hiểu được ý tứ của giáo sư Tôn.
Thì ra điểm đặc biệt nhất của gương cổ Quy Khư, chính là được luyện từ ngọn lửa âm hỏa thuần chất, hải khí trong hải nhãn Nam Hải mịt mùng dày đặc, vạn năm không tiêu tan, có thể làm nên sắc đồng như phỉ thúy, nhưng tấm gương này lưu lạc thế gian mấy nghìn năm, trước khi chìm vào đáy biển nó rơi vào tay một "nhà sưu tầm", nói đúng hơn là một kẻ "buôn lậu đồ cổ", căn bản không biết làm sao để lưu giữ món đồ cổ quý hiếm này, có lẽ là lo hải khí trong gương đồng tan hết, mới đi lấy xi che kín mặt sau tấm gương, không ngờ lại chữa lợn lành thành lợn què, xi với thanh đồng sinh ra phản ứng hóa học, mặt sau gương đồng cơ hồ bị ăn mòn hết cả, bây giờ sinh khí của tấm gương cổ chỉ còn lại lơ thơ như tơ nhện. Sắc đồng đều đã thay đổi, ước chừng chẳng bao lâu nữa, quái kính sẽ mất đi hết đồng tính, trở thành một món đồ thanh đồng tầm thường.
Tôi biết giáo sư Tôn không nói dối, có điều thấy những dự tính của việc tìm kiếm "Mộ cổ Địa Tiên" thất bại, không khỏi có chút thất vọng, đang muốn hỏi lại xem có cách nào khác hay không, thì Tuyền Béo lại nói: "Sáng dậy sớm đến giờ, mới ăn có hai cái bánh ránh, qua giờ cơm đến nơi rồi. Bao tử lên tiếng rồi. Tôn lão cửu khỏi phải nhiều lời, mau đưa tiền đây, chúng ta khởi binh đến Chính Dương Cư đánh chén cái đã."
Giáo sư Tôn nào dám không theo. Cũng may vừa mới ôm về một đống tiền lương tiền thưởng, lại còn có kiếm thêm tiền phụ cấp lên lớp, tất tật chưa động đến tí nào, đưa chúng tôi đến "Chính Dương Cư" nổi tiếng lẫy lừng, nhà hàng quốc doanh này chuyên nấu các món Mãn Hán, tôi với Tuyền Béo hâm mộ đã lâu, nghĩ thầm đây đều là giáo sư Tôn nợ chúng tôi cả, không ăn thì thôi, đã ăn thì tự nhiên không chút khách khí, nhưng vừa hỏi mới biết được. Thì ra muốn Mãn Hán đủ món thì phải đặt từ sớm, đành phải ăn mấy món Âu, bày ra đầy một bàn lớn.
Trên mặt giáo sư Tôn bày ra một nụ cười cứng ngắc, chẳng biết là lão xót tiền, hay là lo "bí mật bị bại lộ", nói chung là vẻ mặt lão vô cùng gượng gạo, lão rót cho Tuyền béo một chén đầy trước tiên, cười theo nói: "Mời.... Mời...."
Tuyền Béo hết sức hài lòng, nâng chén rượu lên "Ực" một cái uống hết rượu Mao Đài trong chén, toét miệng cười nói: "Giáo sư Tôn này, đừng tưởng ông là Ông Chín, biết nhiều chữ hơi ông Béo đây, nhưng ông Béo đây vừa nhìn đã biết ông là loại không biết uống rượu, thấy chưa? Tôi vừa uống kiểu hổ mẫn, kiến thức rộng thế có biết không? Mau mau rót đầy cho tôi, để ông Béo đây biểu diễn cho xem chiêu sở trường "thôn tính"."
Tôi phỏng chừng lúc này giáo sư Tôn bị Tuyền Béo "thôn tính" luôn cả tim rồi, nhưng lão bị người ta nắm thóp, biết làm gì hơn ngoài nén giận rót rượu gắp rau cho Tuyền Béo, tôi nhìn mà không khỏi buồn cười, thầm nghĩ thế này mới hả dạ chứ, đang định chọc lão một tí thì lại thấy Shirley Dương ở bên cạnh chau mày nhìn tôi, trong ánh mắt có ý hờn giận, rõ ràng cho là hành động của tôi và Tuyền Béo có phần quá đáng, lão giáo sư Tôn này dù không phải đức cao vọng trọng gì, nhưng dù sao cũng mang tiếng học giả, đã xin lỗi và chuộc tội rồi, sao còn đối xử với lão như vậy?
Tôi cũng mặc kệ, nghĩ thầm: "Thằng cha giáo sư Tôn này đáng ghét quá, nếu không hành cho lão mấy trận, sau này làm sao lão rút ra bài học được, không đánh cho lên bờ xuống ruộng là may cho lão rồi.", Shirley Dương cảm thấy ý tứ không nhường nhịn của tôi, không biết làm gì hơn đành cắm đầu ăn uống, không cười đùa với Tuyền Béo.
Bây giờ giáo sư Tôn mới rót cho Shirley Dương một chén rượu, than thở: "Nghĩ sai thì hỏng hết, tôi đúng là đã nghĩ sai mà hỏng hết rồi, xin cô Dương sau này trở về, ngàn vạn lần đừng nói với ông Trần chuyện này, bằng không đời này tôi chẳng còn mặt mũi nào gặp ông ấy nữa."
Shirley Dương an ủi lão: "Ngài yên tâm đi, tôi đã thề sẽ không hé răng nửa lời, cũng không để cho hai anh đây nói ra, chỉ cần ngài tận tay trao trả gương cổ cho giáo sư Trần là được."
Giáo sư Tôn cũng chỉ chờ những lời này của cô, như nhận được ân xá, vui vẻ nói: "Vậy thì được, vậy thì được rồi..."
Tôi ngồi bên cạnh nghe, ngẩng đầu liền thấy hai mắt giáo sư Tôn lóe lên, ngoài ánh sáng mừng rỡ khi thoát được kiếp nạn, còn ẩn chứa một tia thần sắc rất vi diệu, dù chỉ thoáng qua thôi, nhưng không tránh khỏi con mắt của tôi, lòng tôi chợt lóe, liền buông đũa xuống, nói chen vào: "Không được, gương cổ thanh đồng và sổ nghiên cứu Đại Minh Quan Sơn Thái Bảo, cùng với tờ giấy cam kết, cũng phải đưa tôi giữ trước, tôi phải nghiên cứu một phen xem còn cách nào khác để tìm đến mộ cổ Địa Tiên hay không, đây là chuyện liên quan đến mạng người, không giao cho người khác được."
Nụ cười trên mặt giáo sư Tôn cứng đờ, nhìn tôi một cái, rồi lại nhìn Shirley Dương, xem biểu hiện của lão, dường như đang hỏi: "Hai vị, một người bảo trả, một người bảo không trả, tóm lại ai ra quyết định đây?"
Tôi không thèm để ý đến giáo sư Tôn nữa, quay sang cạn một ly với Tuyền Béo, lai rai nói vài câu chuyện, Shirley Dương thấy vậy, không biết làm gì hơn đành phải nhún vai với giáo sư Tôn, nói một tiếng: "Sorry."
Giáo sư Tôn thế mới biết Shirey Dương thì ra cũng không quyết định được, bèn lại tới mời tôi rượu, năn nỉ nói: "Đồng chí Nhất ạ, anh vuốt mặt cũng phải nể mũi chứ, dạo trước ở Thiểm Tây, các anh tìm tôi hỏi han rất nhiều chuyện quan trọng, lúc ấy tôi biết gì nói nấy không giấu diếm gì, ít nhiều cũng coi như đã giúp đỡ các anh đôi chút, để tôi tự tay đưa trả gương đồng cho ông Trần đi thôi."
Tôi cũng rất là chân thành nói với giáo sư Tôn: "Ông Chín Tôn ạ, nếu không phải ông từng giúp đỡ tôi ở Thiểm Tây, thì giờ tuyệt đối không bỏ qua cho ông, ông giữ riêng món quốc bảo chúng tôi vớt về, có biết đấy là thứ phải đánh đổi bằng mạng người hay không? Việc này tôi có thể không truy cứu nữa, nhưng tôi không hay nói chơi, tôi thực sự có ý định dùng mấy thứ này đi Tứ Xuyên tìm mộ cổ thôn Địa Tiên, trước lúc ấy, dù thế nào đi nữa cũng không thể giao lại cho ông, có điều nếu ông không yên tâm, cũng có thể lựa chọn hợp tác cùng chúng tôi, chỉ cần ông đồng ý góp sức, giúp tôi tìm được vị trí viện bảo tàng mộ cổ này, các quẻ đồ chu thiên cất giấu bên trong, ông cứ việc cầm đi nghiên cứu, đến lúc đó danh tiếng trong giới học thuật ngoài ông ra còn ai vào đây."
Giáo sư Tôn nghe xong thì trầm mặc một lát, lấy chai rượu tu ừng ực mấy hớp, không lâu sau, bắt đầu chuếnh choáng, mắt đỏ tía tai, lão nhìn tôi chằm chằm rồi thấp giọng nói: "Hồ Bát Nhất, cái thằng nhãi nhà anh đang ép tôi dẫn các anh đi trộm mộ à!"
Tôi cười nói: "Ông Chín Tôn rốt cuộc cũng thông suốt rồi, có điều ngài không nhìn ra được à? Chúng tôi cũng toàn những người thành thật, chỉ muốn đi khảo sát thực địa một chút xem mộ cổ Địa Tiên trong truyền thuyết là thật hay giả, với lại ông vụng trộm nghiên cứu thủ đoạn trộm mộ dân gian, chẳng nhẽ không có ý nghĩ lệch lạc bao giờ ư?"
Giáo sư Tôn khổ sở đáp: "Thôn Địa Tiên do dân trộm mộ Quan Sơn Thái Bảo thời Minh lập nên, giấu ở sâu trong núi, tôi nghiên cứu bí thuật trộm mộ dân gian, động cơ cũng như các anh thôi, chỉ là muốn tìm được phương pháp chứng thực sự tồn tại của nó, chứ cũng không nghĩ tới việc đi trộm mộ."
Tôi đinh ninh "rượu vào lời ra", thừa dịp giáo sư Tôn uống nhiều rồi, tôi phải mau hỏi lão cho rõ ngọn ngành, bèn hỏi hắn những truyền thuyết "Quan Sơn Thái Bảo, mộ phần phong vương, thôn Địa Tiên, đan đỉnh dị khí, cơ quan mai phục" có tin được hay không?
Giáo sư Tôn nói, năm đó giặc cỏ càn quét Tứ Xuyên, hơn mười vạn người cũng không đào được nói lên, bây giờ căn bản không còn ai tin rằng "thôn Địa Tiên" tồn tại, tốn bao nhiêu công sức sưu tầm tư liệu, càng ngày càng nhiều chứng cớ chứng tỏ Tứ Xuyên quả thật có "mộ Địa Tiên", trong mộ chôn giấu rất nhiều quan tài minh khí các triều đại, nhưng việc này không được người ta ủng hộ, một vị nhân sĩ có máu mặt còn chỉ trích rằng... cái thuật dân gian này không thể tin được, là do "kiến thức hạn hẹp, mê tín, si tâm vọng tưởng" mà sinh ra những suy luận kỳ quái, đơn giản là ấu trĩ tưởng tượng đến những thứ không thể hình dung, ai tưởng thật người đó chắc chắn có bệnh tâm thần.
Chúng tôi thấy lời nói này đúng là mỉa mai, không ngờ giáo sư Tôn lại bị chụp mũ nặng nề như vậy, không khỏi cảm thấy ấm ức thay lão, trước giờ cái suy nghĩ "Không thấy bảo không có" là một loại tâm lý chung rất phổ biến, kiên trì bảo thủ những tư tưởng và lý luận khoa học cũ, tất nhiên sẽ thiếu dũng khí đối mặt với những sự vật hiện tượng mới lạ, trong lòng tôi nảy sinh đồng cảm, lại chuốc thêm cho lão vài chén, cuộc đời sao có thể như ý mình, ít ra còn có thể mượn rượu giải sầu.
Không ngờ giáo sư Tôn tửu lượng kém quá, vừa mới nhấp vài hớp rượu, lại đang có tâm trạng, thế mà say mụ mị cả người, Tuyền Béo đành phải nửa dìu nửa kéo lão, dẫn ra ngoài nôn mửa, tôi nhìn bóng lưng lão lảo đảo bước đi mà khẽ thở dài, nói với Shirley Dương: "Giáo sư Tôn là một kẻ có tài nhưng không gặp thời, hơn nửa đời này của lão có lẽ sống cũng khó chịu ức chế lắm..."
Shirley Dương chợt nhớ tới một chuyện, rót cho tôi một chén rượu hỏi: "Được rồi, sao các anh lại gọi giáo sư Tôn là "Ông Chín"? Ông ấy đứng hàng thứ chín sao?"
Tôi nói không phải, lão xếp thứ mấy tôi đâu có biết, thực ra "cửu gia" là một cách xưng hô hài hước, vì khoảng thời gian mười năm lao động văn hóa đầy biến động kia, chúng tôi gọi phần tử trí thức là "Lão chín thối", đây là gọi theo các giai cấp "quan, lại, sư, đạo(đạo sĩ), y(thầy thuốc), công(công nhân), săn(thợ săn), dân(nhân dân), nho(trí thức), cái(ăn xin)" mà thành, bởi trí thức đứng hàng thứ chín, hay bởi có vị vĩ nhân nào đó, đã từng đứng trước mọi người mà trích dẫn câu thoại "Ông Chín không thể đi!" trong vở "Dùng trí dọa hổ", ý tứ của người ta là không thể đánh đuổi phần tử trí thức, cho nên lúc đó cái kiểu nói "Ông Chín" này mới trở nên phổ biến, có điều những quan niệm ấy sớm đã bị thời đại đào thải, tôi với Tuyền Béo gọi giáo sư Tôn là "Ông Chính" chẳng qua cũng chỉ muốn trêu lão một chút mà thôi.
Chương 2: Kẻ chạy trốn
Tôi nghe Tôn Cửu gia
lầm bầm những câu văn nửa tục, vừa giống thơ lại vừa giống vè, hơn nữa nội dung
còn rất ly kì cổ quái, nhất thời cũng không sao hiểu được, đến khi nghe thấy
bốn chữ “muốn đến Địa Tiên”, trong lòng mới chợt tỉnh ngộ: “Quá nửa là gợi ý để
tìm ra lối vào mộ cổ Địa Tiên rồi!”
Lúc này Tuyền béo bên
cạnh lên tiếng: “cái lão này, không biết uống thì đừng có uống, ống có tửu
lượng như Tuyền béo đại gia đây không chứ? Đấy, uống cho lắm vào rồi bắt đầu
niệm Tam Tự Kinh, chẳng hiểu là cái cái của khỉ gì nữa…”
Tôi vội vàng bụm miệng
Tuyền béo lại, dỏng tai lên nghe giáo sư Tôn “nói năng lảm nhảm” sau khi uống
say, nhưng lão ta nói đến “muốn tìm Địa Tiên, hãy tìm ô…” là ngừng, gục mặt
xuống bàn hôn mê bất tỉnh, chẳng còn lầm bầm gì được nữa.
Tôi lấy làm khó chịu,
chỉ hận không thể banh miệng giáo sư Tôn ra ngay tại chỗ, bắt lão ta nhắc lại
một lượt từ đầu chí cuối không sót chữ nào, quan trọng nhất là: muốn tìm mộ Địa
Tiên, mả Phong Vương thì phải tìm thấy cái gì? Mấy câu đầu tôi nghe không kỹ
lắm, giờ nhớ lại, hình như là “nương tử gì đấy nấu món lòng cho đại vương” thì
phải.
Shirley Dương có bản
lĩnh nghe một lần nhớ ngay, cô nói:
“Không phải nương tử gì
nấu món lòng gì cả, giáo sư Tôn vừa nãy nói… Hay cho đại vương, có thân không
đầu; nương tử không đến, núi non không khai; đốt củi bắc lò, nấu gan nấu phổi ;
đào giếng lấy muối, hỏi quỷ xin tiền; điểu đạo tung hoành, trăm bước chín hồi;
muốn đến Địa Tiên, hãy tìm Ô…”
Tôi vội vàng chép lại
mấy câu ấy vào sổ. Xem ra Tôn Cửu gia vẫn còn giấu giếm một số manh mối về mộ
Địa Tiên, vừa nãy lão ta tâm trạng kích động uống thêm mấy ly, mới vô ý buộc
miệng nói ra. Trong mấy câu không đầu không đuôi này rối cuộc có gì bí mật,
chúng tôi căn bản không thể lý giải nổi.
Shirley Dương nói: “Hay
cho đại vương… có thân không đầu…chữ vương mà không có đầu, chính là chữ thổ,
liệu có phải trò đố chữ không nhỉ? Ngầm ám chỉ bí mật trong mộ cổ Địa Tiên?
Nương tử không đến núi non không khai, câu này ám chỉ chữ gì nhỉ? Chắc không
phải đố chữ rồi, mấy câu sau đều không thể chiết tự được.”
Lúc này tôi cũng chẳng
hiểu gì cả: “Đại vương có thân không đầu? Ai là đại vương không đầu? Cả khai
sơn nương tử nữa? Câu đầu tiên đã không hiểu, những gợi ý phía sau đương nhiên
cũng không thể tìm ra manh mối gì rồi.”
Tuyền béo nói: “Đế đấy
anh Tuyền đây đi tìm ít nước lạnh, dội cho Tôn Cửu gia tỉnh lại, rồi nghiêm
hình tra khảo, nếu vẫn không chịu nói thực thì cho lão nếm mùi thủ đoạn của anh
em ta, mấy trò độc địa kiểu như nước ớt với ghế hùm ghế hiếc gì đấy, cứ lôi lão
ra mà săn sóc nhiệt tình, đại hình chờ lệnh.”
Tôi lắc đầu nói: “Chúng
ta có phải bọn ở hang Tra Xỉ với quán Bạch Công đâu, giáo sư Tôn cũng không
phải là chiến sỹ cách mạng bị bắt, sao có thể dùng cực hình với lão ta được?
Thôi hôm nay chúng ta đừng giày vò lão nữa. Lát nữa cả bọn ăn xong, đưa lão ta
về nhà, đợi lão tỉnh lại rồi hỏi cũng không muộn, tôi đoán lão ta cũng không
dám che giấu điều gì đâu.”
Sau đó, ba người chúng
tôi đều ôm đầy một bụng nghi vấn ăn nốt bữa cơm, Shirley Dương trả tiền rồi cả
bọn đưa giáo sư Tôn về chỗ tôi ở. Đứng ngoài cổng, giáo sư Tôn mơ hồ hỏi tôi:
“Ủa? Đây là đâu? Đừng bắt tôi đi nông trường, tôi không phải cánh hữu, không
phải kẻ phản bội, tôi chưa từng giết người…”
Tôi vỗ về lão ta: “Yên
tâm, yên tâm, không áp giải ông đi nông trường cải tạo lao động đâu, ông xem,
đây là nhà tôi, chỗ này gọi là Hữu An môn đấy, bị chụp mũ là bọn cánh hữu cũng
chả sao, dù là cánh hữu nước nào, chỉ cần ở Hữu An môn này… thì nhất loạt đều
yên ổn.” Trong lòng tôi càng thêm ngờ vực, thầm nghĩ: “Giáo sư Tôn từng giết người
rồi ư? Lão ta giết ai? Tính tình lão tuy không tốt đẹp gì, nhưng không giống
hạng có thể xuống tay giết người. Giết người không phải giết con gà con vịt,
đâu phải ai cũng có gan ra tay.”
Tuyền béo sốt ruột
chẳng đợi giáo sư Tôn tỉnh rượu, vừa về đến nhà liền chạy ra Phan Gia Viên bày
sạp hàng. Buổi chiều, tôi và Shirley Dương thấy giáo sư Tôn đã tỉnh táo, liền
rót cho lão ta một cốc trà nóng. Tôi đóng cửa phòng lại, kéo ghế ngồi xuống
trước mặt lão, nói toạc móng heo: “Cửu gia, thực không dám giấu, vừa nãy ông
uống quá chén, những chuyện giết người và phản bội năm xưa đều tuôn ra hết rồi.
Nhưng theo tôi quan sát, bảo ông hư vinh thì không sai, nhưng nếu nói ông từng
giết người thì có đánh chết tôi cũng không tin, tôi đoán chắc ông bị oan uổng,
chi bằng nói rõ chuyện ấy cho chúng tôi nghe nào.”
Tội lại vỗ ngực thề có
Mao chủ tịch, chuyện này chỉ cần tôi giúp được, thì dù lên núi đao xuống vạc
dầu cũng không từ nan, đảm bảo sẽ nghĩ ra cách trả lại sự trong sạch cho lão.
Chẳng may lực bất tòng tâm, thì chuyện hôm nay lão nói ra, tôi và Shirley Dương
cũng sẽ chôn chặt trong lòng, tuyệt đối không hé nửa lời với ai khác.
Giáo sư Tôn tự biết
mình say rượu lỡ lời, nhưng thấy tôi và Shirley Dương thành khẩn, đành kể lại
những gì đã trải qua trong thời kì Cách mạng Văn hóa, không ngờ lại có liên
quan rất lớn đến mộ cổ Địa Tiên kia, nguyên nhân giáo sư Tôn muốn tìm ngôi mộ
ấy phải đến tám mươi phần trăm là do trải nghiệm của lão ta ở nông trường cải
tạo lao động năm xưa.
Thời cách mạng Văn hóa,
vì quan hệ không tốt nên Tôn Học Vũ bị vu oan hãm hại, thoạt đầu chỉ bị tố cáo
là tác phong sinh hoạt có vấn đề, sau này không hiểu ở đâu chui ra một tên tiểu
nhân, chụp cho lão ta cái mũ phản bội Cách mạng. Ở đại hội đấu tố công khái,
đâu đến lượt lão biện giải, tưởng sắp bị trói gô đưa đến pháp trường xử tử tại
chỗ rồi, may mà có Trần Cửu Nhân, bạn học cũ của lão ta, cũng chính là giáo sư
Trân đứng ra làm chứng, chứng minh Tôn Học Vũ giác ngộ rất kém, căn bản chưa
từng tham gia cách mạng, chứ đừng nói là phản bội, nhờ thế lão ta mới thoát
kiếp nạn.
Về sau, cặp huynh đệ
hoạn nạn có nhau Tôn Học Vũ và Trần Cửu Nhân đều bị điều xuống Quả Viên Câu ở
Thiểm Tây để cải tạo lao động. Quả Viên Câu thực ra không có vườn hoa quả gì,
mà là một mỏ đá, Trần Cửu Nhân là văn sĩ, làm sao kham nổi công việc cầm búa
đập đá? Chưa được nửa tháng ông đã cơ hồ muốn gục. Cũng may nhờ người nhà nhờ
vả chạy vạy, xin được giấy chứng nhận bị u dạ dày của bệnh viện, đưa ông về Bắc
Kinh chữa bệnh, mới khỏi bỏ xác tại đó.
Nhưng Tôn Học Vũ thì
chẳng có ai lo cho. Lão ta một thân một mình, vợ chết từ lâu, không con không
cái, lại không quen biết ai, đành phải ngày ngày chịu khổ ở nông trường. Cũng
may tố chất thân thể lão tương đối tốt, hồi trước giải phóng lại từng làm việc
nhà nộng nên trong thời gian ngắn vẫn gánh vác được công việc đập đá nặng nhọc,
có điều tinh thần lão ta thì phải chịu áp lực vô cùng lớn, tiền đồ mờ mịt,
không biết tương lại sẽ thế nào. Vả lại những người đến đây cải tạo lao động
còn phải tố cáo lẫn nhau, nếu anh không tố cáo người khác, người khác sẽ tìm đủ
mọi cách để tố cáo anh, những tháng ngày ấy, lão ta cơ hỗ chẳng còn là con
người nữa.
Ở nông trường, Tôn Học
Vũ quen một người từng là trung đoàn trưởng thời kháng MỸ viện Triều, họ Phong,
cũng không biết vì cớ gì mà bị đầy xuống đây cải tạo lao động, vì thường hay
làm việc chung với Tôn Học Vũ nên có chút tình cảm của người cùng cảnh ngộ, nói
chuyện cũng có thể coi là khá hợp nhau. Một hôm, trung đoàn trưởng Phong lén
bảo với Tôn Học Vũ: “Lão Tôn, tôi thực tình không chịu nổi cuộc sống người
không ra người, ma không ra ma này nữa, nghĩ suốt mấy ngày, hôm nay cũng thông
suốt, tôi định trốn, tôi thấy anh cũng sắp không xong rồi, hay là dứt khoát đi
cùng tôi luôn nhé.”
Tôn Học Vũ cả kinh, hỏi
trung đoàn trưởng Phong: “Trốn? Anh không muốn giữ cái đầu nữa hả? Thêm nữa,
nông trường này tuy phòng bị không nghiêm, nhưng nơi đây lại nằm sâu trong dãy
Đại Ba Sơn, dân cư thưa thớt, dù chạy chưa thoát được thì sao? Sau đấy trốn ở
đâu? Bị bắt trở lại còn sống yên được sao?”
Trung đoàn trưởng Phong
dường như rất tự tin, ông ta nói: “Qua ngọn núi này là vào Xuyên rồi. Quê tôi
chính ở Tứ Xuyên, so với việc cứ ở đây chờ chết, tôi thà mạo hiểm băng núi, chỉ
cần về được quê hương là coi như cá về biển lớn, chim về trời xanh rồi.”
Thì ra tổ tiên vị trung
đoàn trưởng họ Phong này là thế gia vọng tộc thời Minh, từng làm Quan Sơn thái
bảo, cũng chính là kẻ trộm mộ. Quan Sơn thái bảo đào được long cốt thiên thư
trong một ngôi mộ cổ cực kì lâu đời ở Tứ Xuyên, về sau có người trong dòng tộc
ấy tham ngộ huyền cơ bên trong, liền đắc đạo thành tiên. Bên trong địa cung của
ngôi mộ cổ ấy, ông ta xây dựng thôn Địa Tiên để làm nơi cất giữ của báu sau khi
trăm tuổi. Tương truyền, ai tìm được thôn Địa Tiên, bái tế Địa Tiên Quan Sơn
thái bảo, sẽ được trường sinh bất tử, không cần ăn uống, không nhuốm chút khói
lửa nhân gian nào nữa.
Nhưng ngôi mộ cổ Địa
Tiên này ẩn giấu quá sâu, không có manh mối nào để tìm kiếm, từ khi nhà Minh
diệt vong đến giờ vẫn chưa ai tìm được. Có điều, năm xưa Địa Tiên đã kể lại cho
hậu nhân hà họ Phong mấy câu ám ngữ: “Hay cho đại vương, có thân không đầu;
nương tử không đến, núi non không khai; đốt củi bắc lò, nấu gan nấu phổi; đào
giếng lấy muối, hỏi quỷ xin tiền; điều dạo tung hoành, trăm bước chín hồi; muốn
đến Địa Tiên, hãy tìm ô dương…”
Trong câu ám ngữ cổ
này, có ẩn giấu bí mật quan trọng về lối vào của thôn Địa Tiên, xưa nay người
nhà họ Phong chỉ truyền khẩu cho nhau, không tiết lộ cho người ngoài. Khi ấy,
trung đoàn trưởng Phong chỉ nói với giáo sư Tôn non nửa, khuyên ông ta cùng
mình chạy về Tứ Xuyên, trốn vào mộ Địa Tiên tránh nạn. Đừng thấy vị trung đoàn
trường họ Phong này từng đi đánh trận mà nhầm, đối với những thứ hư huyền hoặc
mà tổ tiên để lại ông ta cực kỳ mê tín. Chính vì nguyên nhân này, ông mới bị
đày đến đây. Giờ không chịu nổi trò hành xác ngày ngày đào núi đập đá nữa, ông
ta liền nghĩ đến việc bỏ trốn về quê, được trường sinh bất tử hay không vẫn là
điều khó nói, nhưng dù sao cũng có chỗ để đi, đằng nào bây giờ ở trong ngoài
đều chết cả, ngộ nhỡ trong mộ Phong Vương ấy có thiên thư thật, vậy thì có thể
theo tổ tông thành tiên luôn rồi.
Bấy giờ, Giáo Sư Tôn
nghe xong, liền cảm thấy vị họ Phong này chắc chắn đầu óc có vấn đề, phỏng
chừng không chịu được cực khổ, tinh thần đã suy sụp, chuyện gì cũng dám nói
chăng? Thời buổi này mà nói ra những lời ấy, có xử bắn cả chục lần cũng không
quá đáng.
Cuối cùng Giáo sư Tôn
tỏ rõ thái độ, kiên quyết không chịu trốn đi cùng ông ta: “muốn đi thì anh tự
đi một mình, yên tâm, tôi tuyệt đối không đi mật báo sau lưng anh đâu.”
Trung đoàn trưởng Phong
cười gằn: “Tục ngữ nói rất hay, chớ đem chuyện trong lòng nói ra với người
khác, tôi đã kể kế hoạch bỏ trốn với anh rồi, dù anh không tố cáo, e rằng sau
khi tôi trốn mất, anh cũng khó thoát khỏi liên quan. Vậy đi, để tôi giúp anh
một tay.”
Giáo sư Tôn cả kinh kêu
lên: “Anh định làm gì?” Chưa dứt lời, sau gáy đã ăn một cú đập, lão ngất xỉu
tại chỗ, đến khi tỉnh lại thì không thấy bóng dáng trung đoàn trưởng Phong đâu
nữa.
Chuyện trung đoàn
trưởng Phong mất tích gây ra một trận náo động trong nông trường cải tạo, người
ta tìm khắp phạm vi trăm dặm trong núi, nhưng không thấy dù chỉ là một sợi tóc
của ông ta. Ông ta cũng không thể nào mọc cánh mà bay đi được. Lúc này, có
người tố cáo, nói giáo sư Tôn là người cuối cùng ở cùng với trung đoàn trưởng
Phong. Giáo sư Tôn liền bị đưa đi thẩm vấn, nhưng lão cũng biết chuyện này
tuyệt đối không thể nói ra, bằng không ắt sẽ càng truy càng sâu, dù muốn nói
thật cũng chả thể nào nói được, chẳng lẽ lão lại bảo trung đoàn trưởng Phong đã
đi tìm mộ cổ Địa Tiên cầu trường sinh bất tử rồi chắc? Ai tin? Lão đành một mực
khẳng định họ Phong đã bỏ trốn, những việc khác đều nhất loạt chối bay không
biết, lại có vết thương sau gáy làm chứng, bản thân cũng là người bị hại.
Chuyện này tuy đã bỏ
qua, nhưng lời đồn đáng sợ, có người bắt đầu ngờ vực, đại để nói rằng giáo sư
Tôn có tư thù với trung đoàn trưởng Phong, nên đã ngấm ngầm sát hại ông ta,
không biết chôn xác ở đâu. Suy luận này dù không được chính thức công nhận
nhưng lại âm thầm lan rộng, người nào người nấy đều coi giáo sư Tôn như kẻ giết
người, đến tận lúc bè lũ bốn tên sụp đổ, lão ta vẫn không cách nào giải thích
được chuyện này.
Giáo sư Tôn cũng không
biết trung đoàn trưởng Phong có trốn về Tứ Xuyên hay không, vả lại, trung đoàn
trưởng Phong sau này đã được kết luận là trường hợp oan sai, dù năm xưa ông ta
có trốn ở núi sâu, giờ cũng có thể ưỡn thẳng lưng mà đi ra ngoài, nhưng vẫn
không thấy ông ta lộ mặt. Con người này cứ như bốc hơi vậy, bao nhiêu năm nay,
trước sau “sống không thấy người chết không thấy xác”, bởi thế lời đồn rằng ông
ta bị giáo sư Tôn hại chết vùi xác trong núi hoang lại càng có cơ sở hơn, chỉ
tạm thời không có chứng cứ nên không ai làm gì được giáo sư Tôn mà thôi.
Bí ẩn về sự mất tích
của trung đoàn trưởng Phong sau này trở thành tâm bệnh của giáo sư Tôn. Về sau,
trong quá trình làm việc, tiếp xúc với vô số truyền thuyết và ghi chép về mộ cổ
thôn Địa Tiên, ông ta liền đặc biệt lưu tâm, một là muốn tìn được quẻ Chu Thiên
để có sự đột phá trong nghiên cứu, hai là cũng muốn tìm thấy vị trung đoàn
trưởng đã mất tích mười năm kia, rửa sạch nỗi hàm oan khi xưa.
Nhưng giáo sư Tôn cũng
biết, sau khi bỏ trốn, trung đoàn trưởng Phong rất có thể đã làm mồi cho đám
thú dữ trong núi, hoặc ngã xuống khe núi nào đấy chết rồi, khả năng ông ta chạy
về được Tứ Xuyên là cực kỳ thấp, dù tìm ra mộ cổ Địa Tiên cũng chưa chắc gặp
lại được ông ta. Có điều, sâu thẳm bên trong giáo sư Tôn vẫn có một thứ dự cảm
duy tâm: con người trung đoàn trưởng Phong này rất không tầm thường, nói không
chừng ông ta thực sự tìm được lối vào mộ cổ, thậm chí bây giờ vẫn còn sống trên
đời.
Tôi nghe giáo sư Tôn kể
xong, ý nghĩ xoay chuyển trong dầu, đã có ngay một vài chủ ý: “Nhất thời chúng
ta cũng không thể giải được câu đố về thôn Địa Tiên, vả lại, tấm gương cổ bằng
đồng xanh cùng lắm chỉ sử dụng đươc thêm một hai lần nữa, không đến thời điểm
mấu chốt thì không thể tùy tiện lấy ra chiêm đoán địa mạch phong thủy được. Tôi
thấy vị trung đoàn trưởng họ Phong này chính là đầu mối quan trọng để tìm ra mộ
cổ. Các truyền thuyết về vị địa tiên triều minh kia đa phần đều mù mà mù mờ,
xưa nay toàn nói là ở Tứ Xuyên chứ chẳng chỉ ra đại khái một khu vực nào cả,
thậm chí còn không biết ở đất Ba hay đất Thục, Xuyên Đông hay Xuyên Tây. Chưa
nắm được điểm chính yếu đó, việc tìm kiếm sẽ khó khăn vô cùng. Nhưng chỉ cần
thăm dò được quê quán của vị trung đoàn trưởng họ Phong kia ở huyện nào trấn
nào, chúng ta có thế đích thân tới đó tìm hiểu ngọn nguồn, tùy cơ hành sự,
thiết nghĩ muốn tìm lối vào mộ cổ cũng không phải là chuyện quá khó.”
Giáo sư Tôn nhất thời
vẫn chưa hạ được quyết tâm, nhưng lão ta hứa với chúng tôi sẽ tìm cách hỏi dò
quê quán của trung đoàn trưởng họ Phong. Có điều đã mười mấy năm trôi qua,
nhiều nơi hoàn toàn thay đổi, nông trường Quả Viên Câu sớm đã không tồn tại,
ngay cả phiên hiệu bộ đội của trung đoàn trưởng họ Phong còn không biết, muốn
hỏi được thông tin chính xác thật không dễ dàng, việc này phải thông qua một số
kênh đặc biệt, dù có đi dò la ngay lập tức cũng không thể ngày một ngày hai mà
có kết quả ngay.
Tôi đành cất tấm gương
cổ đi, nhẫn nại chờ đợi. Tin từ bên Hồng Kông báo về cho biết bệnh tình của Đa
Linh mỗi ngày một thêm trầm trọng, nhiều chỗ đốm xác bắt đầu xuất hiện dấu hiệu
thối rữa. Tôi cực kỳ lo lắng, cũng với Tuyền béo và Shirley chuẩn bị sẵn sàng,
chỉ đợi tin của giáo sư Tôn là sẽ vào Xuyên lật núi tát sông, chẳng ngờ bên Tôn
Cửu gia kia cũng như đá chìm đáy biển, bạt vô âm tín.
Chương 3: Mây che mù
mịt biết là đi đâu
Shirley Dương thấy
không thể lần lữa được nữa, liền nhờ Minh Thúc đưa Đa Linh sang Mỹ trị liệu,
tốn bao công sức mới ổn định được thi độc trong cơ thể cô. Phương Tây có vị học
giả nghiên cứu Vu thuật Nam Dương nhiều năm, ông ta cho rằng Giáng đầu là một thuật
phù thủy rất cổ xưa, cũng có thể nói là một dạng thôi miên sâu, thông qua môi
trường đặc thù, khiến người sống tiếp nhận ám thị, tin rằng mình đã chết, cơ
thể liền từ từ rữa nát.
Tạm thời không tính
toán việc quan điểm này của ông ta chính xác hay không, khoa học hiện đại tuy
đã phát triển nhưng khoa học phương Tây lại chỉ nghiên cứu vận động vật lý mà
bỏ qua phương diện tinh thần và ý thức của con người, thiếu hụt các nghiên cứu
tâm lý học về những trạng thái bất bình thường như trực giác, linh cảm, siêu
cảm quan… vân vân. Đối với loại tà thuật đi ngược lại thường thức vật lý như
Giáng đầu thuật Nam Dương này, sử dụng phương pháp thôi miên sâu để trị liệu
cũng hoàn toàn vô dụng.
Vì vậy, chúng tôi chỉ
có thể nhờ đến phương pháp cổ xưa nhất, để Đa Linh nằm trong bệnh viện có các
thiết bị trị liệu tiên tiến, đồng thời mời vị đại sư Giáng đầu người Thái di cư
sang Mỹ giúp cô giải trừ tà thuật, mặt khác tiếp tục mở rộng tìm kiếm thông tin
về mộ cổ Địa Tiên. Tôi tính toán, cũng không thể chỉ ôm một cái cây đợi thỏ
được, lại điều tra xem những mộ cổ khác có cất giấu nội đơn hay không. Nhưng cổ
thi kết được “đơn đỉnh” thực vô cùng hiếm có khó tìm, thăm dò đủ mọi nơi đều
không có tin tức gì cả.
Thời gian trôi nhanh
như tên bắn, ngày tháng thoi đưa, đông qua xuân đến, thoắt cái đã nửa năm, mãi
vẫn không thấy kết quả điều tra của Tôn Cửu gia. Ngoảnh đi ngoảnh lại đã đến
mùa hạ, vừa hay trùng dịp mừng thọ giáo sư Trần, tôi dẫn theo Shirley Dương,
Tuyền béo, Răng Vàng, Cổ Thái và Minh Thúc về nước chúc mừng, tiện thể hỏi thăm
bên phía Tôn Cửu gia tiến triển thế nào.
Hôm ấy khách khứa đến
chật cả nhà giáo sư Trần, ồn ào náo nhiệt kẻ ra người vào, tôi đoán Tôn Cửu gia
và giáo sư Trần là bạn bè lâu năm, thể nào cũng có mặt, nhưng đợi mãi đến khi
chuẩn bị nhập tiệc vẫn không thấy lão ta xuất hiện.
Giáo sư Trần đức cao
vọng trọng, thân thích bè bạn đông đảo, riêng học sinh của ông thôi cũng đã kéo
đến lũ lượt từng đoàn. Dù đông vui, nhưng khung cảnh có phần hỗn loạn, nhà giáo
sư Trần tuy rộng nhưng cũng không thể thiết đãi hết bao nhiêu người như vậy.
Tôi và bọn Tuyền béo,
Răng Vàng hoàn toàn không quen đám mọt sách kia. Vả lại mấy người bọn tôi đã
sang Mỹ lang bạt mấy tháng, tự thấy mình đã trải đời, không còn là kẻ tầm
thường nữa, chẳng buồn để ý đến đám phần tử trí thức trong nước kia, mà cũng
chẳng có tâm tư kết giao với họ. Cả bọn chúng tôi tự vui với nhau, ngồi quây
quanh một bàn ở trong cùng uống rượu, tán chuyện huyên thuyên.
Gần đây Tuyền béo tự
cảm thấy mình rất oách, chốc chốc lại giễu cợt đám khách kia ăn mặc nhà quê.
Giờ là năm nào rồi mà vẫn còn đội mũ rộng vành mặc đồ Tây? Tây không ra Tây ta
không ra ta, đúng là mất mặt người Trung Quốc chúng ta quá đi.
Minh Thúc nói: “Có nhầm
không vậy cậu béo, người ta ăn mặc ít nhất cũng có chút khí chất nho nhã lịch
sự, kiểu cách ăn mặc của cậu hồi trước còn chẳng bằng họ nữa là, mà kỳ thực bây
giờ cậu cũng…”
Tuyền béo nghe những
lời này, suýt chút nữa thì đập luôn chai rượu lên đầu Minh Thúc, Răng Vàng vội
khuyên giải: “Bác Minh Thúc, đừng tưởng bác là người Hồng Kông mà oách nhé,
quan điểm của bác thật chẳng ra sao cả. Trước khi bị nhà Mãn Thanh cắt cho nước
Anh, chẳng phải Hồng Kông cũng chỉ là một làng chài ven biển thôi sao? Ngư dân
ăn mặc thế nào, chúng ta cũng thấy rồi đấy, thêm nữa, tổ tiên nhà bác không
phải cũng là trộm vặt ở đại lục ư? Cậu Tuyền béo đây là người thế nào chứ?
Người ta là con cháu cán bộ cao cấp đấy, xuất thân nhà tướng, bất kể mặc gì,
chỉ riêng khí chất ấy đã không ai bì nổi rồi. Có khi chỉ mặc mỗi cái quần cộc
thôi, cũng toát lên vẻ thâm trầm khôn tả ấy chứ.”
Tuyền béo ngoác miệng
mắng: “Thằng cha Răng Vàng này, tiên sư nhà ông, ông nói thế là khen tôi hay
mỉa tôi đấy? Mặc độc cái quần sịp thì thâm trầm thế quái nào được?”
Tôi cũng chõ miệng vào:
“Răng Vàng không nói láo đâu, cậu chưa xem bức tượng ‘Người suy tưởng’ à? Người
ta không phải cũng hở cả mông đít ra đấy thôi? Cậu tìm khắp thế giơi cũng không
ra ai thâm trầm sâu sắc hơn thế đâu, chỉ khí chất lúc ngủ gật trong buồng tắm
của Tuyền béo nhà cậu là xem ra còn so được với người ta.”
Minh Thúc ai oán: “Cái
đám mất dạy các cậu, trình độ bóp méo lịch sử càng lúc càng lợi hại…”
Đang tán nhảm huyên
thuyên thì Shirley Dương đỡ giáo sư Trần đến chỗ bàn chúng tôi ôn lại chuyện
xưa, cả bọn liền vội vàng đứng dậy. Mới mấy tháng không gặp, trán giáo sư Trần
dường như đã có thêm mấy nếp nhăn, tôi liền khuyên giải: “Không được thì bác cứ
nghỉ hưu đi, cách mạng tự có người kế tục, đã đến tuổi này rồi, cũng nên ở nhà
hưởng phước thôi.”
Giáo sư Trần cười cười
nói: “Ngồi cả đi ngồi cả đi… vẫn chưa đến lúc lui bước, nắm xương già này vẫn
còn chút hơi tàn dùng được. Các cậu không ngại đường xa vạn dặm đến thăm lão
già này, làm tôi vui lắm, hôm nay nhất định phải uống thêm mấy ly mới được. Cậu
Nhất, cậu Tuyền, hai người sang Mỹ sống đã quen chưa?
Tuyền béo đáp: “Quen
thì quen rồi, chỉ là cháu thấy lo thay cho bọn họ thôi. Cái đám người Mỹ này,
đúng là ngốc ơi là ngốc, lần trước bọn cháu đi nhà hàng Trung Quốc, thấy một
tay da đen tới ăn, gọi món cá viên, nhai rất sướng mồm, liền giơ ngón tay cái
lên ‘OK’ rõ to. Nhưng hắn có biết mình ăn cái gì đâu, liền tìm người hỏi xem
thứ ấy là gì, kết quả hỏi xong liền đần thối mặt ra, kinh ngạc hết sức. Hắn bảo
có nằm mơ cũng không ngờ được… cá cũng có tinh hoàn. Ngốc đến thế cơ đấy, bác
xem cháu có thể không lo thay cho bọn họ được không?”
Giáo sư Trần bị Tuyền
béo nói cho một hồi cũng ngẩn người ra, cậu ta lại tiếp lời: “Thực ra nghĩ sâu
hơn thì cũng chẳng phải lỗi của họ, con người cháu đây ưu điểm duy nhất chính
là quá ham học hỏi, ra nước ngoài rảnh rỗi chỉ thích nghiên cứu lịch sử địa
phương, xem xem chủ nghĩa tư bản mới ở phương Tây giành được thành công như thế
nào, sao bọn họ lại có nhiều tiền đến thế? Không nghiên cứu thì thôi, vừa đào
sâu nghiên cứu cháu liền giật cả mình, té ra hai trăm năm về trước, bọn họ cũng
toàn là người đến khai hoang thôi.” Tuyền béo càng nói càng hăng, lại định
khoác lác về cách nhìn của cậu ta đối với các nước châu Phi.
Tôi thấy có vẻ không
ổn, vội vàng ngăn cu cậu lại: “Thằng béo nhà cậu nói kiểu ấy là có khuynh hướng
kỳ thị chủng tộc đấy, về nước nói chơi thì không sao, nhưng ở Mỹ tuyệt đối chớ
có nhắc đến, thêm nữa, Á Phi Mỹ La Tinh vốn đứng chung một mặt trận, đời cha
cậu thời trẻ còn phải đi xin ăn, cậu cũng mới ăn no mặc ấm được vài năm chứ
mấy? Sao có thể vong bản kỳ thị những người anh em giai cấp ở châu Phi được?”
Vậy là, tôi với Tuyền béo, Răng Vàng lập tức bắt đầu cuộc thảo luận sôi nổi về
vấn đề chủng tộc và hưng vong của chủ nghĩa tư bản phương Tây, chỉ lo nói cho
sướng cái miệng bỏ mặc giáo sư Trần đứng đờ đẫn bên cạnh. Shirley Dương nói với
giáo sư Trần: “Bác đừng giận, mấy người bọn họ mà ở chung một chỗ thì chẳng bao
giờ nói được chuyện gì nghiêm túc đâu.”
Giáo sư Trần mỉm cười
khoan dung: “Không thể nói vậy được, tôi thấy vấn đề họ thảo luận, cũng… cũng…
cũng… rất có chiều sâu mà.”
Thấy Shirley Dương đưa
mắt ra hiệu, tôi cũng tự biết mình thất lễ, vội lui khỏi cuộc khẩu chiến, để
lại Tuyền béo tranh luận với Răng Vàng và Minh Thúc. Tôi kéo theo Cổ Thái, cùng
Shirley Dương và giáo sư Trần đi ra sân.
Nhà giáo sư Trần có sân
vườn riêng, dù xung quanh ồn ào song nơi đây vẫn giữ được sự yên tĩnh, u tịch.
Giáo sư Trần xoa xoa đầu Cổ Thái, ông cũng lo lắng cho Đa Linh, bèn hỏi tôi xem
sau này dự tính thế nào?
Tôi không dám kể chuyện
của Tôn Học Vũ cho giáo sư Trần, chỉ nói trước mắt đã có chút chuyển biến, bảo
ông không cần lo lắng nhiều.
Giáo sư Trần nói với
tôi: “Chỉ cần tôi giúp được, các cậu cứ nói, vừa nãy vẫn chưa kịp hỏi kỹ, sau
này cậu có dự định gì ở Mỹ không?”
Tôi đáp, gần đây cũng
chưa có thời gian nghĩ kỹ về chuyện sau này, tương lai có thể vẫn làm nghề cũ,
thu mua ít đồ cổ gì đấy ở Mỹ chẳng hạn. Lần trước vớt được rất nhiều thanh đầu
ở Nam Dương, sang Mỹ bán được một đống tiền to, nhiều đến mức làm người ta
choáng váng. Có điều, hồi trong quân đội tôi đã quen sống đơn giản, giờ cảm
thấy nhiều tiền như thế cũng chẳng tác dụng gì. Nhà cao cửa rộng mấy thì tối về
chẳng qua cũng chỉ ngủ trên một cái giường, có núi vàng núi bạc trong nhà, một
bữa chẳng qua cũng chỉ ăn được một bát cơm chứ mấy.
Vì vậy, tôi hi vọng
dùng số tiền này lập ra một cái quỹ, chỉ cần là cô nhi trong chiến tranh, bất
kể là quốc gia nào dân tộc nào trên thế giới, tôi đều sẵn lòng tài trợ cho
chúng đến một đất nước khôngcó khói lửa chiến tranh để sinh sống học tập.
Giáo sư Trần không ngớt
gật đầu khen ngợi: “Năm xưa tôi không nhìn lầm người, tự đáy lòng tôi cũng cảm
thấy vui thay cho cậu đấy. Cha mẹ Shirley Dương đều không còn nữa, tôi coi nó
như con gái ruột vậy, từ nay giao phó nó cho cậu, lão già này cũng có thể yên
tâm rồi. Lão đây xin càm ràm thêm câu nữa, chuyện hôn nhân phải tranh thủ làm
cho mau, không thể lần lữa kéo dài được.”
Tôi luôn miệng dạ vâng,
song cũng không đủ kiên nhẫn tiếp tục nói những chuyện nhà cửa dông dài này,
đang chuẩn bị chuyển sang chủ đề Tôn Cửu gia, dò hỏi giáo sư Trần xem gần đây
lão ta có động tĩnh gì không, thì chợt thấy Tôn Học Vũ cầm một hộp đào thọ từ
ngoài cửa xăm xăm bước vào. Giáo sư Trần bước lên kéo tay lão ta: “Thong dong
đến muộn, phải phạt ba ly.” Đoạn không để giáo sư Tôn giải thích gì, đã kéo lão
ta vào trong phòng khách.
Tôi và Shirley Dương
đưa mắt nhìn nhau, thầm nhủ nhân vật chính rốt cuộc cũng chịu lộ mặt rồi. Vừa
nãy giáo sư Tôn nhìn thấy chúng tôi, thần sắc trên gương mặt rất khó dò, cũng
không biết sự tình có đầu mối gì hay chưa, đành đợi một lát kéo lão ta ra hỏi
cho rõ ràng vậy.
Mãi đến chín giờ hơn,
khách đến chúc thọ giáo sư Trần mới lục tục ra về, để lại đầy một nhà ngổn
ngang chén bát. Tôi bảo bọn Tuyền béo và Răng Vàng đi giúp tiễn khách rồi dọn
dẹp, bản thân thì tranh thủ kiếm cớ, kéo Tôn Học Vũ vào thư phòng của giáo sư
Trần.
Tôi nôn nóng hỏi: “Cửu
gia, đã thăm dò được quê quán của trung đoàn trưởng Phong ở đâu chưa? Sao lâu
la thế?”
Giáo sư Tôn nhíu mày ủ
rũ: “Tôi cũng cuống cả lên đây, nhưng tư liệu có thể tra được chỉ có mỗi hộ
tịch và địa chỉ của ông ta khi mới tham gia quân đội, khó khăn lắm mới tìm được
hồ sơ của ông ta, nhưng trước sau vẫn không tra được tổ tịch nhà họ Phong ở đâu
cả.”
Bấy giờ tôi mới hiểu,
xem ra chuyện này quả không dễ. Cuối thời Minh bọn giặc cỏ vào Xuyên, đến thời
Thanh mạt chiến loạn lại xảy ra liên miên khiến lưu dân di chuyển khắp nơi, mấy
tỉnh Tứ Xuyên, Hồ Nam, Hồ Bắc phải đón một lượng di dân lớn. Vì vậy, địa chỉ hộ
tịch trong hồ sơ, thực ra không phải nguyên quán thực sự của trung đoàn trưởng
Phong, nếu không tìm được người cực kỳ thân thiết với ông ta, chỉ sợ không ai
biết rõ tường tận được.
Lòng tôi đã nguội lạnh
quá nửa, lại hỏi giáo sư Tôn: “Nói vậy là không có hy vọng tìm thấy rồi?”
Giáo sư Tôn đáp: “Tôi
thăm dò nhiều nơi, mãi đến trưa hôm nay mới có chút đầu mối, chỉ là…” Vừa nói,
lão ta vừa lấy một tấm bản đồ Trung Quốc mới mua xong, mở ra chỉ cho tôi xem:
“Ở trong núi ấy thôi mà, mây che mù mịt biết là đi đâu.”
Tôi nhìn kỹ vị trí lão
ta chỉ, thì ra chính là Vu Sơn ở mạn Trường Giang Tam Hiệp. Từ xưa đã có tương
truyền Vu Sơn sớm mây chiều mưa, ngọn Thần Nữ mông lung mờ mịt, thời viễn cổ là
đất phong đồng thời cũng là nơi xây cất lăng mộ của Vu Hàm , vậy nên gọi là Vu
Sơn, tên ấy được dùng cho đến ngày nay. Nơi này quanh năm mây mù bao phủ, che
hết cả thế núi, vì vậy không thể dùng quyết chữ “Vọng” của Mô Kim hiệu úy, vị
trí cụ thể cần phải chính xác hơn nữa mới được. Tôi hỏi giáo sư Tôn: “Vu Sơn
thuộc chi mạch Trung long, trong thuật phong thủy thanh ô có thuyết Quần long
vô thủ, cực kỳ khó nắm bắt. Núi này cũng thuộc phạm vi ảnh hưởng của văn hóa vu
Sở, có nhiều phong tục và truyền thuyết cổ xưa. Giờ tuy đã tra được quê hương
bản quán của trung đoàn trưởng Phong ở huyện Vu Sơn, nhưng phạm vi này vẫn quá
lớn, chẳng lẽ không thể điều tra xem cụ thể là ở trấn nào, thôn nào à? Ông cũng
đừng có mà trích văn thơ ra đây với tôi, cái gì mà mây che mù mịt biết là đi
đâu, trấn nào cũng phải có cái tên mới được chứ.”
Giáo sư Tôn lấy làm khó
xử nói: “Tôi cũng dò hỏi được tên trấn rồi, gọi là trấn Thanh Khê. Nhưng bản đồ
này đã tường tận lắm rồi, bao nhiêu chỗ lớn chỗ nhỏ ở huyện Vu Sơn đều có hết,
song lại không sao tìm được chỗ nào gọi là trấn Thanh Khê cả, vậy nên mới nói ở
trong núi ấy thôi mà, mây che mù mịt biết là đi đâu.”
Chương 4: Bí mật trong
trấn nhỏ
Tôi nghe giáo sư Tôn
bảo bản đồ huyện Vu Sơn không có nơi nào là trấn Thanh Khê, cũng có chút nghi
hoặc khó hiểu, phải chăng là nguồn tin không chuẩn xác? Hay là do lịch sử đổi
dời, địa danh thời cổ đến nay đã không còn được dùng nữa, vì vậy bản đồ mới xuất
bản gần đây không ghi chú lại. Trấn này đã có từ thời nhà Minh, tất nhiên là
một thị trấn cổ, dù đã thành hoang phế thì vẫn phải có di chỉ lưu lại, không
thể nào cả mảnh ngói vụn cũng không còn, cẩn thận tra tìm trong địa chí, nói
không chừng lại tìm được đầu mối.
Giáo sư Tôn gật đầu tán
đồng: “Ban đầu là tôi gạt lão Trần mời các cậu đi Nam Hải trục vớt gương cổ,
trách nhiệm này tôi nhận. Tôi nghĩ rất lâu rồi, quyết định sẽ đi cùng các cậu
chuyến này, có kế hoạch gì chưa?”
Tôi nghĩ ngợi giây lát
rồi nói: “Cửu gia cuối cùng cũng nghĩ thông rồi, chuyện về cổ trấn Thanh Khê có
thể đến huyện Vu Sơn rồi hỏi thăm sau, chúng ta không thể lần lữa thêm nữa,
ngày mai xuất phát luôn, không nên có nhiều người, người biết càng ít càng tốt,
lát nữa chúng ta sẽ tính toán lại một phen.”
Tôi ra khỏi thư phòng,
thấy khách khứa bên ngoài đã về độ bảy tám phần, giáo sư Trần uống say khướt,
sớm đã được người đỡ về phòng ngủ nghỉ ngơi. Tôi bèn gọi Shirley Dương và Tuyền
béo vào thư phòng, khóa trái cửa lại, mật bàn kế hoạch đi Vu Sơn “khảo sát thực
địa.”
Trong thư phòng của
giáo sư Trần, các tủ đầy chật những sách là sách, đương nhiên cũng có không ít
các loại tài liệu văn sử kiểu dư địa chí này nọ. giáo sư Tôn bới loạn lên tìm
ra được mấy bộ sách to như cục gạch, tra tìm lịch trình thay đổi và phát triển
của huyện Vu Sơn, nhưng không phát hiện ghi chép gì liên quan đến đại vương
không đầu, xem ra muốn tìm được đáp án câu ám ngữ mà trung đoàn trưởng Phong đề
cập đến cũng không dễ dàng gì.
Tôi nói với giáo sư
Tôn: “Vu Sơn có đại vương không đầu gì hay không thì tôi không rõ, nhưng nghe
nói hoàng đế Ung Chính nhà Thanh chết vì bị ám sát, bị Lữ Tứ Nương cắt đầu, nên
lúc chôn cất, thi thể phải gắn một cái đầu bằng vàng thay thế. Thế chẳng là có
thân mà không có đầu còn gì? Nhưng ông ta là hoàng đế kia mà, nếu nói là vương,
vậy há chẳng phải giáng cấp ông ta rồi ư? Vả lại, niên đại và vị trí địa lý
cũng không trùng khớp nữa.”
Tôn Cửu gia nói: “Đó là
truyền thuyết dã sử, không đáng tin cậy, thời kỳ văn hóa Vu Sở cũng từng có một
vị tướng quân không đầu, nhưng ông ta cũng không phải vương hầu. Thời cổ đại,
hình phạt chém đầucực kỳ phổ biến, trong buổi loạn thế, rất nhiều vương hầu
khanh tướng thậm chí cả hoàng đế đều gặp phải kết cục đầu lìa khỏi cổ, nếu muốn
liệt kê ra hết, chỉ sợ chẳng bao giờ tìm ra được đầu mối. Vì vậy, chúng ta tập
trung chú ý vào vùng Ba Thục thôi.”
Mọi người thương lượng
hồi lâu, đều không nghĩ ra ở vùng phụ cận Vu Sơn có đại vương không đầu nào.
Shirley Dương nói: “Chỉ sợ vương này không phải là vương, truyền thuyết địa
phương thì cứ phải đến huyện Vu Sơn rồi thăm dò mới chứng thực được. Đằng nào
ngày mai cũng xuất phát vào Xuyên rồi, theo lý chúng ta nên đặt ra kế hoạch chu
toàn mới phải.”
Tôn Cửu gia nói: “Có
cần nghĩ cách kiếm một mảnh giấy giới thiệu gì đấy không? Đến nơi rồi việc ăn ở
đi lại sẽ tiện lợi, nhưng muốn kiếm giấy giới thiệu thì ít nhất phải đợi thêm
một tháng nữa.”
Tôi nói không cần xin
giấy má gì cả, có điều, nếu có giấy giới thiệu cũng tiện thật, thôi thì để tôi
tự viết một tờ, bảo Răng Vàng tìm thợ khắc ấn, làm ngay một con dấu củ cải
trong đêm là được rồi.
Tôn Cửu gia chắt lưỡi
không thôi: “Đúng là gan góc thật, giấy giới thiệu mà cậu cũng dám tự làm à?”
Tuyền béo cười khùng
khục nói: “Thời buổi này người ta nhận dấu không nhận người, mang theo con dấu
củ cải là không phải lo gì cả. Tôn Cửu gia ông không biết chứ, ở Phan Gia Viên
có đầy nghệ nhân sống bằng nghề khắc dấu củ cải đấy nhé.”
Shirley Dương không
biết tác dụng của giấy giới thiệu, lại hỏi tôi cần mang theo trang bị gì? Hoàn
cảnh địa lý tự nhiên ở Vu Sơn như thế nào?
Tôi nói với Shirley
Dương: “Anh chưa đi Vu Sơn bao giờ, nhưng hồi trước trong quân đội, từng có mấy
người chiến hữu quê ở Trùng Khánh, nghe bọn họ nói, Vu Sơn là cửa ngõ phía Đông
của Tứ Xuyên, huyện thành nhiều dốc nhiều bậc thang, địa hình chỉnh thể đại
khái là bảy phần núi một phần đất bằng hai phần nước, Trường Giang vô tận cuồn
cuộn chảy, trong núi nhiều mây nhiều mưa. Công cụ trang bị chúng ta để lại Bắc
Kinh hồi trước không còn nhiều, nhưng anh thấy thế cũng đủ dùng rồi. Lần này
tuy cũng là vào núi, nhưng không giống như sa mạc Tân Cương, thuốc nổ súng ống
đều không thể mang theo, ngoài các công cụ của Mô Kim hiệu úy, chỉ cần thuốc
men cấp cứu, xẻng công binh, đèn chiếu sáng, thiết bị liên lạc cùng trang bị
leo núi đơn giản là được.”
Tuyền béo nói: “Mang
súng theo mới gọi là như hổ thêm cánh, trong tay có đồ nóng, lá gan cũng to hơn
hẳn, tôi đoán cái bọn Quan Sơn thái bảo gì đấy cũng không phải đèn cạn dầu đâu,
quá nửa là một đám giặc cướp thành tinh, giết người như ngóe, mang theo ít
thuốc nổ nữa cho chắc, có câu phòng trước thì không gặp họa…”
Tôi bảo cậu ta: “Mấy
năm nay đường sắt đường bộ đều kiểm tra gắt gao lắm, trên đường không được mang
theo vật phẩm dễ cháy nổ. Với lại ,tất cả các truyền thuyết về mộ cổ thôn Địa
Tiên đều hình dung đó là một nơi thần bí kì dị, chứ chưa từng nói nó nguy hiểm
khủng khiếp thế nào. Tôi thấy, cùng lắm chỉ là một số cơ quan cạm bẫy vớ vẩn
thôi, sau nhiều năm chắc đã mất hết tác dụng rồi. Chúng ta vào núi khảo sát chứ
có phải đi đánh trận đâu, mà nghĩ lại thì ngôi mộ Địa Tiên ở Vu Sơn ấy chẳng
qua là mộ phần của một tên đại địa chủ đời Minh, chú trọng chôn giấu kỹ càng
thôi, chứ không thể nào kiên cố to lớn như lăng mộ hoàng đế được. Vì vậy không
cần mang đại pháo đi bắn muỗi, chuyến này chủ yếu là dựa vào thủ đoạn của Mô
Kim hiệu úy chúng ta.”
Tôn Cửu gia chen vào:
“Hồ Bát Nhất giỏi thật, cậu già dặn kinh nghiệm như thế, câu nào câu nấy đều
nói trúng điểm mấu chốt, còn dám bảo không biết kỹ thuật trộm mộ nữa à? Muốn
tìm được mộ cổ thôn Địa Tiên, cũng phải có hạng nhân tài như cậu mới làm được.”
Tôi nói: “Về mặt phá
giải các mê ngữ và kí hiệu cổ đại, Tôn Cửu gia ông là bậc nguyên lão trong
nghề, nhưng nếu nói đến việc tìm long mạch trong núi, thì ông chỉ là kẻ ngoại
đạo thôi. Có điều, mấy câu vè cái gì mà hay cho đại vương, có thân không đầu,
muốn đến Địa Tiên, hãy tìm ô dương…, phải nhờ ông nghĩ cách phá giải cho, đến
lúc ấy chúng ta đồng bộ tiến hành, chẳng lo không làm được việc lớn.”
Nói thì nói vậy, nhưng
trong lòng tôi chẳng thấy lạc quan chút nào, có lẽ cuối cùng lại công cốc cũng
nên. Truyền thuyết về thôn Địa Tiên quá đỗi thần bí, chính sử không ghi chép
lại. Đoạn ghi chép duy nhất tương đối đáng tin cậy là ở trong quyển bút ký Ba
Thục Tạp Lục của một người Tứ Xuyên thời nhà Thanh. Trong đó đề cập: thuở Minh
mạt Thanh sơ, bọn giặc cướp vào Xuyên, đào quật mồ mả hàng loạt hòng tìm kiếm
đơn đỉnh thiên thư trong mộ Địa Tiên. “Đơn đỉnh” là một từ rất đặc biệt, là tên
khoa học của nội đơn bên trong xác cổ. Nếu chẳng phải hết cách, tôi đã không chỉ
dựa vào một đoạn ghi chép manh mún ấy mà nảy ra ý định đi Tứ Xuyên tìm kiếm mộ
cổ thôn Địa Tiên. Ngoài ra, truyền thuyết bọn giặc cỏ cuối thời Minh đào núi
quật mồ cũng không phát sinh ở khu vực Vu Sơn. Có điều, Ba Thục Tạp Lục không
phải thứ sách nhảm nhí bậy bạ, trong sách ghi chép lại một cách chân thực rất
nhiều truyền thuyết về phong thổ nhân tình ở Tứ Xuyên, nội dung khá đáng tin
cậy.
Lúc này Tuyền béo sực
nhớ ra một vấn đề quan trọng vẫn chưa thảo luận, liền đứng bật dậy nói: “Vừa
nãy cậu Nhất nói rất hay, nhưng về phương diện công tác tư tưởng vẫn chưa đủ,
bản tư lệnh đây bổ sung thêm cho mọi người mấy câu nữa. Đứng trước tiếng khóc
than cầu viện của dân mò ngọc Nam Hải, đều là những kẻ sống bằng nghề, Mô Kim
hiệu úy chúng ta đây tuyệt đối không xuôi tay đứng nhìn. Nghe các cậu nói, Quan
Sơn thái bảo kia hẳn là một tên đại đạo thông thiên, vàng bạc châu báu hắn giấu
trong mộ cổ ở Vu Sơn đảm bảo chất chồng như núi. Tôi thấy đội thám hiểm chúng
ta cần phải dựa trên nguyên tắc thăng quan phát tài không được tham ô lãng phí,
đến lúc ấy cái gì cần đổ đống thì đổ đống, cái gì cần đóng gói thì đóng gói…”
Giáo sư Tôn lập tức
phản đối: “Tuyệt đối không được, chỉ dập lại hình vẽ quẻ Chu Thiên là đủ rồi,
những thứ khác đều không được động tới, tôi xin nhắc lại một lần nữa, tôi đây
không phải vì tiền tài.”
Tuyền béo bảo, ông thế
này há chẳng phải dối mình gạt người sao, tranh danh cũng chằng cao thượng gì
hơn trục lợi đâu? Tôi vội ngăn cậu ta lại nói: “Mỗi người có cách xử sự khác
nhau, không cưỡng cầu được, những chuyện khác tôi mặc kệ, nhưng kim đơn trong
xác cổ thì nhất định phải móc ra. Bây giờ tranh luận chuyện này vẫn còn quá
sớm, đợi đến khi tìm được mộ cổ Vu Sơn rồi tùy cơ hành sự là được.”
Thương lượng xong xuôi,
bốn người chúng tôi liền chia nhau đi thu dọn đồ đạc, sáng sớm hôm sau xuất
phát lên đường. Hành trình đương nhiên khó tránh cảnh có đường đi xe, gặp sông
lụy đò, những chuyện đói ăn khát uống, tàu xe mệt nhọc ấy không tiện kể ra hết
ở đây.
Huyện Vu Sơn chính là
đoạn Vu Hiệp trong Trường Giang Tam Hiệp . Dòng Trường Giang cuồn cuộn, khí thế
nhấn chìm cả núi sông, xẻ đôi núi cao non cả chảy về phía Đông. Khu vực hẻm núi
này chia làm ba đoạn Cù Đường Hiệp, Vu Hiệp, Tây Lăng Hiệp, giữa các hẻm núi
được nối liền với nhau bằng thung lũng rộng, tổng cộng dài gần hai trăm ki lô
mét.
Cù Đường Hiệp nổi tiếng
hùng vĩ hiểm trở, Tây Lăng Hiệp lại là nơi nước xiết nhiều bãi đá ngầm. Nguồn
gốc cái tên Tây Lăng Hiệp này có thể tryu ngược đến thời Hán, giống như những
địa danh Nguyễn Lăng, Vũ Lăng vậy, đều do đất ấy có mộ cổ hay quan tài treo mà
thành tên. Tiếc rằng, hiện giờ đã chẳng thể tìm được di chỉ những lăng mộ ấy,
càng không ai nói được những vùng đất lấy “lăng” làm tên đó rốt cuộc mai táng
những vị cổ nhân nào.
Còn Vu Hiệp lại có đặc
trưng là u tĩnh tú lệ, núi non liên miên, mây mù mờ mịt. Huyện Vu Sơn có đường
quốc lộ chạy vòng quanh núi, có thể ngồi xe khách đường dài đến huyện thành.
Đường núi quanh co, lại gặp ngày sương mù dày đặc, xe chạy rất chậm, xung quanh
là rừng rậm xanh um cùng những dốc núi lởm chởm đầy những tảng đá hình thù quái
dị thấp thoáng ẩn hiện trong màn sương mù, khiến người ta khó mà thưởng thức
được vẻ đẹp của rừng xanh núi biếc.
Chưa đi được nửa quãng
đường, tài xế đã dừng xe lại, chắc có lẽ anh ta không muốn lái xe trong sương
mù, sợ xảy ra chuyện, muốn đợi đến khi mây mù tan bớt mới đi tiếp. Hồi đó
TrungQuốc còn ít xe hơi, người có bằng lái lại càng hiếm hơn, vì vậy cánh lái
xe rất được trọng vọng, ai có người quen làm tài xế, trước mặt người khác cũng
thấy mình oách hẳn lên.
Ở vùng núi lại càng
chuộng nghề này, những cô gái xinh xắn nhà có điều kiện đều nhăm nhe gả cho tài
xế. Cô nào gả được cho tài xế thì vừa oai vừa thích, cô nào không thành thì cả
ngày nước mắt lưng tròng. Các bác tài cũng vênh váo lắm, nói một là không bao
giờ hai, đã không muốn đi thì tuyệt không có hành khách nào dám thúc giục. Nếu
bác tài hứng lên muốn làm vài chén, chiều ngủ một giấc rồi mới chịu lái xe đi
thì hành khách vẫn phải chịu, mỗi ngày chỉ có một chuyến xe, muốn không đi cũng
chẳng xong. Chúng tôi nhập gia tùy tục, cũng đành ăn uống nghỉ ngơi ở một trấn
nhỏ ven đường, tiện thể hỏi thăm thông tin về trấn Thanh Khê và đại vương không
đầu luôn.
Cái thị trấn nhỏ đến
mức chẳng thể nào nhỏ hơn này xây men theo triền núi, kiến trúc đa phần chỉ có
hai màu đỏ trắng, hầu hết đều là nhà cũ đã có từ thời trước Giải phóng. Chúng
tôi ăn trưa ở một quán điểm tâm bản địa ngay cửa trấn. Ông chủ là một tay đầu
trọc lốc, bộ dạng ngu ngơ ngờ nghệch, nói theo kiểu dan địa phương thì là “đầu
to óc quả nho ”, thấy khách đến ăn chỉ biết nhe răng ra cười hềnh hệch, chẳng
chào mời gì cả, nhưng muốn ăn gì y liền làm cho món ấy, tay nghề cũng thuộc
loại khá.
Tôi ăn hai bát bánh
chẻo, bụng đã lưng lửng, cái đầu suốt dọc đường phải chịu tròng trành lắc lư
cũng tỉnh táo hơn nhiều, liền đánh mắt ra hiệu với Shirley Dương và Tôn Cửu
gia, bảo họ cứ tiếp tục dùng bữa, để tôi đi moi chút thông tin. Sau đấy, tôi
đứng lên, bước lại gần mời tay chủ quán trọc đầu kia một điếu thuốc, mượn cớ
bắt chuyện: “Ông chủ này, đầu ông nhẵn bóng ghê nhỉ, nhất định là có phúc tinh
phù hộ rồi.”
Tay chủ quán đầu trọc
nghe thế cả mừng, lại hỏi tôi từ đâu đến. Tôi bảo bọn chúng tôi ở Bắc Kinh đến
đây khảo sát di tích lịch sử, muốn hỏi thăm bác một nơi, bác có biết hay không.
Chủ quán đầu trọc gật
đầu nói: “Hay đấy, không biết nhà anh muốn hỏi thăm chỗ nào vậy?”
Tôi hỏi y có biết trấn
Thanh Khê ở đâu không, vùng này thời cổ đại, có truyền thuyết về vị đại vương
nào bị chặt đầu hay không?
Chủ quán đầu trọc lắc
đầu: “Chưa nghe bao giờ, làm gì có đại vương nào bị chặt đầu chớ? Trước Giải
phóng dân chúng bị thổ phỉ quân phiệt chặt đầu thì nhiều lắm, hồi ấy tôi vẫn
còn bé tí, nghe người già kể, cọc gỗ ở đầu phố đều dùng để chặt đầu đấy…”
Tôi vừa nghe liền biết
tay chủ quán đầu trọc này quả nhiên là óc quả nho, hỏi cũng bằng không, liền
nghĩ đến việc thăm dò người khác, ngoảnh đầu nhìn quanh quất, bỗng nhác thấy ở
góc phố có một cửa tiệm he hé nửa cánh cửa, nhìn bề ngoài hình như bán đồ tạp
hóa.
Nhưng kỳ quái ở chỗ,
trước cửa tiệm lại dùng dây thừng treo một cái hộp gỗ màu đen trông như chiếc
quan tài nhỏ, thân hộp quết rất nhiều sơn sống đen tuyền, phỏng chừng niên đại
rất xa xưa. Lớp sơn bên ngoài đã bong tróc, nhưng chỉ nhìn màu gỗ cũng đủ biết
là gỗ tử đàn. Thứ này nhất đình là cổ vật có chút lai lịch, vả lại hình dáng
không hề tầm thường. Tôi càng nhìn càng thấy lạ, không ngờ ở cái trấn nhỏ hẻo
lánh tầm thường này, lại có vật như thế. Lần này để tôi trông thấy, coi như đám
Mô Kim hiệu úy chúng tôi gặp may rồi.
Chương 5: Caí hộp đen
Ánh mắt tôi dừng lại
trên cái hộp đen treo trước cửa tiệm một lúc lâu, nhìn kỹ rồi, trong lòng thầm
tính toán, thiết tưởng không nhầm được, bèn quay sang hỏi tay chủ quán trọc
đầu: “Hỏi ông chủ thêm một chuyện nữa nhé, tiệm tạp hóa trên phố kia là cửa hàng
quốc doanh hay hộ cá thể vậy?”
Tay chủ quán đầu trọc
vừa luôn tay xào nấu vừa ngẩng lên liếc nhìn cửa tiệm tôi nói, đáp: “Đấy là hộ
cá thể, chủ tiệm tên là Lý Thụ Quốc, người ở Bảo Định đến, chỉ giỏi bốc phét,
không biết làm ăn buôn bán gì cả, cửa tiệm chẳng có thứ nào ra hồn đâu. Chú em
muốn mua gì, chi bằng đi dọc phố xuống chút nữa, có cửa hàng quốc doanh đấy.”
Vừa nghe nói chủ tiệm
tạp hóa là người phủ Bảo Định, tôi biết ngay không thể sai được, liền cán ơn
tay đầu trọc rồi trở lại ngồi xuống bên cạnh bọn Shirley Dương, Shirley Dương
hỏi: “Sao rồi? Có nghe ngóng được tin tức gì không?”
Tôi đáp: “Người ở đây
đều không biết đại vương cụt đầu gì cả, nhưng lại có phát hiện bất ngờ…” Nói
đoạn, tôi đưa tay chỉ tiệm tạp hóa ở góc phố, để mọi người nhìn thấy cái hộp
đen treo ngay trước cửa.
Tuyền béo ngạc nhiên
hỏi: “Cửa tiệm quan tài thôi mà, cậu định mua quan tài cho ai hả?”
Tôn Cửu gia nói đó chắc
chắn không phải mô hình quan tài, ông ta thường xuyên qua lại các vùng nông
thôn, chưa từng thấy trong dân gian có cửa tiệm quan tài nào như vậy, hơn nữa
làm gì có tiệm tạp hóa nào bán quan tài chứ? Không rõ treo hộp đen ngoài cửa
tiệm như thế có ý gì, chẳng lẽ là ăn no rửng mỡ?
Ông ngoại của Shirley
Dương là Ban Sơn đạo nhân nổi danh thời Dân Quốc, nắm được hết những lề thói
chốn gian hồ lục lâm, vì vậy dù sinh trưởng ở nước ngoài, song Shirley Dương
cũng thông hiểu rất nhiều tiếng lóng của giới giang hồ. Tồn Cửu gia tiếng là
giáo sư và Tuyền béo còn đang nghĩ ngợi, thì cô đã nhìn ra chút manh mối, bèn
bảo tôi: “Cái hộp gỗ này thủng lỗ chỗ, giống như thùng ong của người nuôi ong
vậy, có lẽ chủ tiệm xuất thân từ Phong Oa Sơn cũng nên.”
Tôn Cửu gia nghe xong
lầm bầm thắc mắc: “Phong Oa sơn? Nuôi ong mật à? Không thể nào, các cô cậu nhìn
những lỗ ấy mà xem, lớn nhỏ không đều, nông sâu cũng khác, chẳng có quy tắc gì
hết, có lẽ đều là dùng dao khoét ra. Phỏng chừng đây là tập tục gì đó của dân
bản địa, các cô cậu đừng có nôn nóng võ đoán, chúng ta cần phải tôn trọng phong
tục dân gian của quần chúng địa phương mới được.”
Tôi nói: “Về mặt này
thì giáo sư Tôn nhà ông đúng là ngoại đạo rồi, tôi chẳng buồn cãi nhau với ông
làm gì. Chúng ta cũng đừng chỉ nói mồm nữa, cứ vào đấy hỏi mua đồ, xem xem bên
trong có vị nguyên lão nào của Phong Oa sơn ẩn cư hay không là được chứ gì.”
Tuyền béo thực ra cũng
chẳng hiểu quái gì, nhưng vẫn ra vẻ ta đây hiểu biết, huênh hoang bảo Tôn Cửu
gia: “Lòi dốt ra rồi hả? Không biết gì thì đừng có nói nhăng, chớ tưởng ông là
chuyên gia nọ kia gì đấy thì lĩnh vực nào cũng chõ miệng vào được. Giáo sư chuyên
gia không phải Biết Tuốt, sau này đi theo đại gia Tuyền béo đây mà học hỏi thêm
đi, để tôi mở mắt cho.” Nói xong, cu cậu liền và vội hai miếng cơm, xách ba lô
lên, cùng chúng tôi đi tới trước cửa tiệm cũ kỹ kia.
Trong tiệm có một già
một trẻ, người già tầm bảy tám chục tuổi, râu tóc đã bạc trắng, tay nắm hai
viên bi sắt, nằm trên ghế bập bênh gật gù nửa tỉnh nửa mơ, chắc hẳn đây chính
là ông chủ tiệm họ Lý; ngoài ra, còn một cô gái trẻ tầm hơn hai mươi, mi thanh
mục tú, bộ dạng xem chừng rất lanh lợi, tóc thắt hai bím buông xuống trước
ngực, từ đầu đến chân đều toát lên vẻ sạch sẽ gọn gàng, thoạt nhìn đã biết là
con gái Tứ Xuyên, trông không giống như có quan hệ máu mủ ruột rà gì với ông
chủ, có thể là người làm công trong tiệm. Cô thấy chúng tôi bước vào, lập tức
rối rít tiếp đón, hỏi tôi muốn mua thứ gì.
Tôi đưa mắt nhìn quanh,
thấy đồ đạc trong tiệm tuy cũ kỹ, nhưng mọi ngóc ngách đều được quét dọn sạch
bong, có một tủ quầy hàng bằng gỗ, nước gỗ bóng như quết dầu, không biết đã
dung bao nhiêu năm. Trên mặt tủ nổi bật nhất là dãy những hũ thủy tinh, bên trong
chứa đầy các loại kẹo màu sắc sặc sỡ, ngoài ra còn một số thổ sản địa phương.
Các loại hàng hóa trên giá bày hàng, nhất loạt đều được sắp xếp rất gọn gàng
ngăn nắp.
Tôi biết, đám người
Phong Oa sơn cũng là nghệ nhân thuộc bảy mươi hai nghề truyền thống, loại cửa
tiệm này vừa buôn bán công khai vừa giao dịch ngầm, kinh doanh hai loại mặt
hàng hoàn toàn khác nhau, có điều, nếu người lạ xồng xộc đi thẳng vào, chủ tiệm
tuyệt đối không bao giờ làm ăn thực sự với y. Tôi nghĩ phải kiếm cớ trước đã,
vừa khéo vào núi trộm mộ cần dùng một ít đồ lặt vặt, lúc đi vội quá vẫn chưa
chuẩn bị hết, bèn nói với cô gái: “Em gái, bọn anh muốn mua nến, và giấy trắng,
dây thừng, diêm loại thượng hảo hạn, thêm hai cân đường viên nữa.”
Cô gái nghe xong, liền
theo đúng số lượng lấy ra những thứ tôi yêu cầu, Tuyền béo đứng bên cạnh bổ
sung: “Anh bảo cô em này, nến cũng phải chọn loại hảo hạng đấy nhé, không phải
hàng hiệu bọn anh không mua đâu.”
Cô gái nghĩ Tuyền béo
định trêu mình, hơi giận dỗi nói: “Cái anh này định giở trò đấy hả? Có ai đi
mua nến cũng đòi xem nhãn hiệu bao giờ?”
Bấy giờ, ông chủ tiệm
mới he hé mắt, xoay xoay hai viên bi sắt bảo cô gái: “Út à, những vị này đều là
quý khách từ xa đến, không được vô lễ.”
Tôi thấy ông chủ đã
tỉnh giấc, thầm nhủ, cô Út này còn trẻ măng, không giống như người Phong Oa
sơn, còn ông già chủ tiệm tuy tuổi tác đã cao song già mà không lú, nói năng
không tầm thường, chưa biết chừng chính là đại hành gia ở Phong Oa sơn cũng
nên, nghĩ đoạn bèn lên tiếng chào hỏi: “Ông chủ, chúng tôi định mua của ông mấy
món hàng, không biết ở đây có sẵn không?”
Ông chủ không tỏ thái
độ gì, nói: “Hàng hóa đều bày cả trên quầy đấy rồi, quý khách muốn thứ gì cứ
hỏi con bé Út ấy.”
Tôi nghĩ ông chủ này cố
tình giả ngốc với chúng tôi, định dùng tiếng lóng nói rõ ý đồ của mình với ông
ta, nhưng tôi cũng chỉ được nghe ông nội Hồ Quốc Hoa nói qua một ít tiếng lóng,
đa phần đều là từ ngữ trong nghề đổ đấu, còn loại tiếng lóng thông dụng được
gọi là Sơn Kinh thì chỉ biết lõm bõm mấy câu, mà toàn thứ chắp vá không trọn vẹn,
nhất thời không tìm được câu từ nào thích hợp, lại không thể phạm vào cấm kỵ mà
hỏi trực tiếp, tránh để đối phương cho rằng mình là kẻ ngoại đạo. Tôi vội đưa
mắt ra hiệu cho Shirley Dương, bảo cô ra mặt nói chuyện.
Shirley Dương hiểu ý
gật đầu, bước lên nửa vô tình nửa hữu ý nói với ông chủ tiệm: “Đường qua non
cao ngẩng đầu ngắm, thấy trên non có bảng chữ vàng; bảng chữ bạc sau bảng chữ
vàng, dãy dãy đều là chữ phong.”
Ông chủ nghe tiếng bừng
mắt, quan sát từ đầu xuống chân Shirley Dương, cơ hồ không tin nổi những lời
này có thể thốt ra từ miệng cô, còn tưởng mình nghe lầm, lại lập tức dùng Sơn
Kinh hỏi rằng: “Một tấm gương rọi chiếu hai núi, chiếu ra gió vàng thổi đầy
mặt; không biết lộ nào qua Phong Sơn, mà lại biết bảng vàng bảng bạc?”
Shirley Dương không cần
nghĩ ngợi, thuận miệng trả lời ngay: “Con diều trong gió bay men núi, quất ngựa
vung cương vội lên đường; đội ngũ chưa tề xin đừng trách, lễ mạo sơ xài chớ để
tâm.”
Ông chủ tiệm càng lộ vẻ
kinh ngạc, hỏi tiếp: “Lên núi xuống núi? Đến vì cớ chi?”
Shirley Dương đáp:
“Không lên không xuống, muốn thỉnh phong hạp.”
Ông chủ tiệm vuốt râu
khe khẽ gật đầu, nhưng xem chừng vẫn chưa yên tâm lắm, tiếp tục truy vấn:
“Phong gia dễ gặp, phong hạp khó mời, không biết mời đi đâu làm gì?”
Shirley Dương không
muốn tùy tiện tiết lộ hành tung, chỉ thoái thác rằng: “Trà lưu khách danh sơn,
cửa đón bạn ngũ hổ. Đều là người trong núi, hà tất hỏi ngọn ngành.”
Chỉ thấy ông chủ tiệm
vỗ đùi đánh đét, đứng dậy khỏi ghế, khen rằng: “Nói có lý lắm, mấy chục năm nay
chưa từng gặp ai nói năng rành rọt thế này. Út à, mau mời quý khách vào nhà
trong.”
Đoạn đối thoại giữa
Shirley Dương và ông chủ tiệm, tôi còn nghe hiểu được đại khái, chứ Tuyền béo
và Tôn Cửu gia thì đúng là như rơi vào sương mù dày đặc, không hiểu mô tê gì
cả. Tuyền béo nghe tai trái lọt tai phải, đối với chuyện này cũng chẳng buồn
động não làm gì, chỉ có giáo sư Tôn nghe xong cứ ngây ra tại chỗ. Khi cả bọn
vào nhà trong rồi, mới nghe ông ta ở phía sau lẩm bẩm một mình: “Toàn tiếng
lóng của bọn thổ phỉ à!”
Chúng tôi theo ông chủ
và cô Út vào nhà trong, phía sau cửa tiệm là một căn nhà gỗ hai tầng, dùng làm
nơi sinh hoạt thường ngày. Nhưng ông ta không dẫn bọn tôi vào phòng khách, mà
đưa thẳng xuống hầm ngầm dưới đất.
Hầm ngầm này giống như
một xưởng thủ công, bên trong chỉ riêng máy mài cắt đã có bốn năm cái, sát
tường bày đầy các thứ ám khí như ống phóng tên, phi tiêu, phi hổ trảo và đủ
loại vũ khí khác nhau, có thứ từng gặp, có thứ chưa, thậm chí có cả những thứ
chúng tôi còn không biết tên, càng không biết dùng để làm gì.
Giáo sư Tôn ở phía sau
kéo tôi lại, hỏi chuyện này rốt cuộc là thế nào? Cái hộp gỗ treo trước cửa tiệm
là gì? Phong Oa sơn là gì? Sao mới nói mấy câu tiếng lóng, đã dẫn chúng ta vào
trong này như thế?
Tôi cười bảo, Cửu gia
à, đúng là ông phải học hành cho tử tế rồi, tôi đoán từ lúc kiếm được cái danh
hão giáo sư ấy, ông không biết trời cao đất dày là gì nữa phải không? Người
không học hành thì phải xét lại, vì vậy mới cần học, học nữa, học mãi. Một ngày
không học thêm vấn đề, hai ngày không học liền trượt dốc, ba ngày không học
tiêu đời luôn, cứ vậy mãi thì làm sao được chứ?
Giáo sư Tôn nói: “Thôi
đừng đùa tôi nữa, tôi cũng chẳng muốn thế, nhưng mấy món này biết học ở đâu
đây? Rốt cuộc bọn họ có ý gì vậy?”
Tôi đành giải thích sơ
qua với lão ta, từ thời xa xưa đã có một số ngón nghề bị cấm, vì vậy các ngành
các nghề đều có ám ngữ riêng, cũng chính là thứ ngày nay người ta vẫn gọi bằng
“thuật ngữ chuyên ngành”. Nhưng mỗi nghề mỗi khác, để có thể truyền đạt thông
tin rộng rãi, trong bảy mươi hai nghề truyền thống sản sinh ra một loại tiếng
lóng thông dụng, gọi là Sơn Kinh.
Phong Oa sơn là tập hợp
những người thợ chuyên chế tác các loại ám khí. Có điều, cái thứ ám khí này từ
thời cổ đại đã bị nghiêm cấm, còn chặt chẽ hơn cả việc quản chế đao kiếm, xưa
nay chưa ai dám trắng trợn mở tiệm buôn bán cả, mà đều chỉ ngấm ngầm dao dịch.
Trước cửa tiệm treo một cái hộp gỗ đen, bên trên toàn lỗ nhỏ, đó đều là dấu vết
lúc thử ám khí cả đấy. Treo cái hộp đen ấy lên trước cửa, người biết nghề vừa
nhìn liền biết ngay trong tiệm này có bán ám khí, đi vào dùng tiếng lóng nói
chuyện là có thể giao dịch mua bán. Nếu không biết mặt hàng, một là không thể
nhìn ra được, hai là dù có trả bao nhiêu tiền, cũng chẳng mua nổi đồ thật.
Tôi giải thích cho giáo
sư Tôn xong, lại bước đến bắt chuyện với ông chủ tiệm. Thì ra ông chủ họ Lý này
quê quán ở phủ Bảo Định, Hà Bắc. Phủ Bảo Định nổi tiếng là quê hương võ thuật,
bao đời nhà ông chủ Lý đều là nghệ nhân của Phong Oa sơn, chuyên chế tạo các
loại ám khí tinh xảo. Sau sự kiện ngày bảy tháng Bảy , chiến tranh Trung Nhật
bùng nổ, ông chủ Lý chạy nạn vào Xuyên, mai danh ẩn tích, dùng tên giả mở tiệm
bán đồ tạp hóa, trên thực tế vẫn muốn làm nghề cũ.
Nhưng sau Giải phóng,
những ngón nghề truyền thống và cả hệ thống tiếng lóng Sơn Kinh dần thất truyền,
đã mấy chục năm nay ông ta chưa bán được món ám khí nào, đến giờ vẫn treo cái
hộp gỗ đen trước cửa nhà hoàn toàn chỉ là hành vi “thấy yên nhớ ngựa, nhìn vật
nhớ người” mà thôi. Không ngờ hôm nay lại gặp được khách biết bảng hiệu chữ
“Phong”, cũng may các đồ nghề năm xưa ông ta vẫn còn giữ đầy đủ.
Đám mấy người chúng tôi
chuyến này vào Xuyên, ngoài xẻng công binh không mang vũ khí gì khác, cả con
dao lính dù cũng không dám giắt theo, hai bàn tay không đi sâu vào Vu Sơn tìm
mộ cổ, không khỏi có chút thiếu thốn. May gặp được bảng hiệu chữ “Phong” ở thị
trấn nhỏ này, hiển nhiên cũng muốn mua một ít khí giới thuận tay. Thời buổi
ngày nay mấy thứ tụ tiễn với phi tiêu đã chẳng còn ai biết dùng nữa, bọn tôi
chỉ tìm vài thứ lợi khí có lưỡi sắc phòng thân mà thôi.
Ở đây có Nga Mi thích,
nhỏ gọn sắc bén, được rèn từ thép tinh luyện lại tiện mang theo, nên mỗi người
đều lấy một thanh giấu trong mình. Tuyền béo lại nhìn trúng cái nỏ liên châu
duy nhất, thứ này xạ trình không bằng súng trường, nhưng một hộp bốn mươi hai
mũi Táng Môn tiễn có thể phát ra liên tục, mũi tên có khả năng xuyên thủng áo
giáp trong khoảng cách mấy chục bước, cũng chỉ có bàn tay khéo léo của người
thợ Phong Oa sơn mới chế tạo ra được thứ vũ khí lợi hại nhường này mà thôi.
Tuyền béo lại gặng hỏi:
“Ông chủ à, hàng họ của ông ở đây đúng là thứ gì cũng có, tôi hoa hết cả mắt
lên rồi, không biết món nào mới là bảo bối trấn sơn đây? Mang ra cho chúng tôi
mở rộng tầm mắt cũng được.”
Ông chủ cười ha hả,
nói: “Bảo là bảo bối trấn sơn thì thực không dám nhận, có điều, ở đây tôi có
một món vũ khí rất tinh xảo, cũng là tác phẩm đắc ý trong đời lão già này. Để
nó quanh năm ngày tháng ở chốn này cho gỉ sét ra thì uổng quá, chỉ là không
biết các cô cậu đây có hứng thú không? Được rồi, cứ xem qua rồi tính tiếp, các
vị anh hùng, mời thưởng thức…” Nói đoạn, ông ta mở một cái hộp dài, bên trong
có món đồ bọc kín bằng mấy lớp vải gấm. Đến khi ông chủ Lý mở lớp vải gấm ra,
tôi và Tuyền béo, Shirley Dương đều đồng thanh thốt lên kinh ngạc: “Ô Kim Cang!”
Ô Kim Cang là vũ khí hộ
thân của Mô Kim hiệu úy, năm xưa Liễu Trần trưởng lão ở Vô Khổ tự từng để lại
một chiếc, Shirley Dương mang từ Mỹ về, có điều khi chúng tôi đi đào mộ Hiến
vương ở Vân Nam đã làm thất lạc. Công nghệ chế tạo cũng như chất liệu của cái ô
này đều là bí mật, thất truyền đã lâu, muốn tìm người làm lại là bất khả, thật
chẳng ngờ ông chủ Lý lại từng chế tạo ra một chiếc thế này. Một ý nghĩ chợt lóe
lên trong đầu tôi: “Chẳng lẽ ông chủ này cũng từng làm Mô Kim hiệu úy?”
Tôi vội hỏi rõ nguyên
do, thì ra thời Dân Quốc ông chủ Lý đã nổi tiếng như cồn, trong hai đạo hắc
bạch không ai không biết “Ám khí Lý” ở phủ Bảo Định, thường hay có nhiều vị
khách từ khắp ngũ hồ tứ hải tìm đến đặt ông ta làm những món đồ ly kỳ cổ quái.
Nhiều năm trước, từng có một vị thương nhân cầm bàn tính, đặc biệt đến đặt làm
chiếc ô Kim Cang này, đồng thời còn để lại bản vẽ và bí phương về tỷ lệ hợp
kim. Có điều, khi ông chủ Lý làm xong chiếc ô Kim Cang thì người khách kia lại
“hạc vàng đi mất không còn bóng ”, chẳng thấy quay lại lấy hàng, đến giờ qua
bao nhiêu năm, thiết tưởng người kia cũng chẳng còn trên đời này nữa.
Tôi cầm ô Kim Cang trên
tay, lật đi lật lại xem xét, cảm giác rất thật, chẳng khác gì chiếc ô hồi
trước. có thứ này trong tay, dù lên núi đao hay xuống biển lửa tôi cũng chẳng
chau mày, trong lòng không khỏi mừng rỡ như điên, lập tức y theo giá ông chủ
đưa ra mà đếm tiền trả ngay, không mặc cả mặc nhẽ gì hết.
Tôi thấy ông chủ Lý này
cũng là hạng lão làng giang hồ, nói không chừng có thể thăm dò chút tin tức
cũng nên, bèn hỏi ông ta xem trấn Thanh Khê ở đâu? Thời xưa ở vùng này có vị
đại vương nào bị chặt đầu không?
Ông chủ tiệm nói: “Thấy
các vị không tiếc tiền bạc mua những thứ vũ khí sắc bén, lại đều là bậc hành
gia biết người biết của, chuyến này đến Vu Sơn chắc chắn không phải để làm
chuyện vặt vãnh. Vả lại, giữa hai hàng lông mày có nét âu lo, thiết tưởng cũng
không phải vì tiền tài mà đến, nếu lão già này không nhìn nhầm, qua nửa là việc
cứu người chi đây. Cùng là người trong giang hồ với nhau, theo lý tự nhiên lão
phải ra sức tương trợ, nhưng lão cũng chỉ là người sống nơi đất khách, mấy chục
năm nay bệnh tật đầy người, thường ngày rất ít ra khỏi cửa, đối với phong vật
địa phương không hiểu biết lắm, sợ rằng không giúp được các vị rồi.”
Tôi khách khí nói: “Tấm
lòng của ông chủ chúng tôi xin nhận, để chúng tôi đi tìm người khác hỏi thăm
vậy.” Nói xong, tôi định dẫn cả bọn cáo từ.
Chợt ông chủ Lý lên
tiếng: “Gượm đã nào, tôi còn chưa nói hết. Bên cạnh lão già này chỉ có đứa cháu
gái nuôi là con bé Út đây, quê nó vốn ở Thanh Khê, sao không để nó nói cho các
vị biết.” Dứt lời, ông ta gọi Út đến, bảo cô kể chuyện về trấn Thanh Khê cho
chúng tôi.
Út không biết chúng tôi
định làm gì, ngạc nhiên hỏi: “Trấn Thanh Khê? Đã chẳng còn từ mười mấy năm
trước rồi mà, đường dốc ngược lên, chẳng đi được đâu, các anh tìm chỗ ấy làm gì
kia?”
Chương 6: Đường năm
thước
Tôi nghe ông chủ Lý nói
tổ tiên nhà Út ở trấn Thanh Khê, liền thầm nhủ: “Rốt cuộc cũng có manh mối
rồi.” Đoạn vội vàng hỏi cho kỹ càng. Thì ra trong dãy Vu Sơn có một thị trấn
rất cổ, gọi là trấn Vu, đây là địa danh do quan phủ đặt, người địa phương không
ai không biết.
Có điều, tương truyền
nơi này là địa điểm xây mộ của Vu Hàm, vì vậy người trong trấn tránh chữ “Vu”,
đều gọi trấn này là “Thanh Khê”, người ngoài đa phần không biết chuyện này.
Trong núi vốn có tài nguyên khoáng sản rất phong phú, sau càng ngày càng cạn
kiệt dần, lại thêm nhiều lần chịu nạn binh lửa, nên người trong trấn lần lượt
bỏ đi, trấn Thanh Khê càng lúc càng hoang vắng.
Những năm sáu mươi bảy
mươi của thế kỷ hai mươi, cả nước hừng hực tinh thần chuẩn bị chiến tranh, đề
phòng mất mùa. Để quán triệt thực thi công tác ba phòng “phòng không, phòng
độc, phòng vũ khí hạt nhân”, chính quyền cho xây dựng hầm phòng không và kho
tàng trong đường hầm khai khoáng trước đây. Khoảng năm 1971, dân cư ở trấn
Thanh Khê và vùng phụ cận đều được di chuyển đến mấy huyện xung quanh, nhưng ở
đây có quá nhiều giếng khai thác khoáng sản, bề mặt đất bị phá hoại nghiêm
trọng, hầm phòng không xây đoạn nào sập đoạn ấy, tiến trình thi công cực kỳ
không thuận lợi. Rồi cùng với sự thay đổi của thời thế, hầm phòng không xây
dựng được một nửa thì ngừng lại bỏ hoang. Năm tháng trôi qua, cả thị trấn cổ
sớm đã trở thành một vùng đất hoang bị lãng quên.
Út tuy là người trấn
Thanh Khê, nhưng không phải họ Phong, cũng không biết thời xưa có truyền thuyết
về vị đại vương không đầu nào không. Lúc dân Thanh Khê bỏ trấn mà đi, cô theo
người nhà dọn đến nơi này, cha mẹ đã qua đời trong Cách mạnh Văn hóa, cô chỉ
còn lại một thân một mình rồi được ông chủ Lý thu nhận.
Út rời nhà năm mười một
tuổi, những sự vật ở trấn Thanh Khê cô vẫn còn nhớ được già nửa. Cô nói, có ba
con đường đến Thanh Khê, một là đường thủy, giờ đang giữa mùa hè, nước sông
dâng cao đột ngột, dòng chảy rất xiết, khó mà đi được; đường bộ thì nhiều năm
không tu bổ, nhiều chỗ sụt lún, cũng không thể đi nốt; chỉ có một đoạn sạn
đạo(1) cổ xưa là còn nguyên vẹn, sạn đạo được xây từ thời Tần, rộng nhõn năm
thước, vì vậy gọi là “đường Năm Thước”. Đi đường này vòng quanh núi vào Thanh
Khê cũng tốn rất nhiều công sức.
Sạn đạo: đường xây bằng
cầu treo hoạc ván gỗ xếp hai bên sườn núi đá, dùng để di qua các khu vực núi
non hiểm trở.
Tôi lập tức trải bản đồ
ra, nhờ Út chỉ rõ phương vị tuyến đường, tốt nhất là nói thêm về vị trí cụ thể
của những hầm mỏ, hầm phòng không ở trấn Thanh Khê nữa.
Lúc này, ông chủ Lý
chợt lên tiếng: “Xem bản đồ gì chứ? Để con Út dẫn mọi người đi Thanh Khê là
xong, sau này có cơ hội, cậu dẫn nó ra bên ngoài, cho nó biết chút sự đời, học
được ít bản lĩnh thực sự cũng tốt.”
Tôi không ngờ ông chủ
Lý lại để Út làm hướng đạo cho đội thám hiểm. Chuyện này tuy tôi cầu còn không
được, nhưng mặt khác, tôi lại rất sợ cô gặp phải chuyện gì nguy hiểm. Chúng tôi
vào Vu Sơn tìm mộ cổ chỉ vì muốn cứu người, tôi và Shirley Dương, Tuyền béo thì
khỏi cần nói, Tôn Cửu gia thời Cách mạng Văn hóa cũng là người từng trải qua
bao khảo nghiệm thực tế, nhưng Út làm sao mạo hiểm được? Lỡ cô có chuyện gì bất
trắc, tôi há chẳng phải là “dỡ tường bên này vá tường bên kia” ư?
Tôi đang định khước từ,
lại nghe ông chủ Lý nói: “Con Út nhà tôi tính tình lanh lợi, lại gan dạ, theo
tôi học nghề nhiều năm, đã được truyền thụ hết tinh hoa của nghề làm ám khí,
lại lớn lên trong núi, những chuyện trèo đèo lội suối không phải ngại, chắc
chắn có thể giúp các cô các cậu đây ít nhều đấy.”
Út không chịu, cô nói
với ông chủ Lý: “Không được đâu, ông chừng này tuổi rồi, cháu đi thì lấy ai
chăm ông ăn cơm uống trà?”
Ông chủ Lý cười cười
nói: “Con bé ngốc, ông năm nay đã hơn tám mươi tuổi đầu, còn sống được mấy ngày
nữa đây? Cháu đang độ rực rỡ như hoa thế này, chẳng lẽ về sau cháu định gả cho
cái thằng trọc đầu xào xào nấu nấu kia à? Ông tuy già rồi, nhưng mắt còn tinh
lắm, nhìn dáng dấp cử chỉ đủ thấy các vị huynh đệ đây có nhân có nghĩa, đều là
người làm việc lớn cả, cháu cứ theo bọn họ xông pha, phát tài to, kiếm nhiều
tiền đi, đến khi ấy nếu ông chưa chết thì cháu quay về đón ông ra ngoài hưởng
phúc cũng được.”
Ông chủ Lý một mực bảo
Út dẫn chúng tôi vào núi, lại nhờ tôi đưa cô ra thành phố làm việc. Tôi và
Shirley Dương bàn qua với nhau, cảm thấy có người bản địa dẫn đường là tốt
nhất, chỉ cần không để cô đi trước mạo hiểm là được, liền nhận lời ông chủ Lý,
tạm thời nhận cô làm sư muội của tôi. Kỳ thực, tôi cũng chẳng rõ thứ vai vế này
rốt cuộc xác định kiểu gì nữa.
Bấy giờ giáo sư Tôn ở
nhà ngoài đi vào nói: “Vừa nãy tôi ra ngoài xem thử, hình như xe sắp chạy rồi
đấy, chúng ta tranh thủ thời gian lên đường thôi.”
Tài xế vùng núi đều
không chịu đợi ai bao giờ, chúng tôi đành gói vội một số thứ lặt vặt cần dùng,
cuống cuồng tạm biệt ông chủ Lý. Năm người xách ba lô hớt hơ hớt hải chạy ra
khỏi tiệm tạp hóa, nhảy lên xe khách đã nổ máy. Thân xe không ngừng tròng trành
lắc lư, chạy khỏi trấn nhỏ trong núi.
Tôi ngồi ở hàng ghế
sau, nhìn chiếc ô Kim Cang trên tay, thầm nhủ: đúng là một cuộc kỳ ngộ, mong
rằng đây là điềm tốt, chúng tôi có thể thuận lợi tìm thấy mộ cổ Địa Tiên. Nghĩ
tới đây, tôi lập tức hỏi Út xem phụ cận Thanh Khê có truyền thuyết gì về địa tiên
hay không.
Út nói: “Ở quê em đúng
là có truyền thuyết trong mồ Phong Vương chôn địa tiên, nhưng mọi người đều bảo
địa tiên đấy là yêu tiên, ngôi mộ ấy chính là mộ yêu tiên, vì địa tiên biết yêu
pháp mê hoặc lòng người, ông ta tung tin rằng hễ ai vào mộ cổ sẽ được trường
sinh bất lão, lừa gạt không biết bao nhiêu người đi bồi táng theo ông ta. Có
điều đấy đều là những truyền thuyết từ lâu lắm rồi, giờ chẳng ai biết chuyện mộ
Địa Tiên ấy là thật hay giả nữa, nhưng ở trấn Thanh Khê quả thực có nhà họ
Phong.”
Tôi muốn hỏi thăm thêm
một số việc nữa, nhưng thấy Út có vẻ không nỡ xa ông chủ Lý, cứ lưu luyến
ngoảnh nhìn ra ngoài cửa xe, bèn an ủi cô: “Hồi còn nhỏ hơn em bây giờ, anh đã
phải xa nhà, hô vang khẩu hiệu trời cao đất rộng mặc sức vẫy vùng, vượt nghìn dặm
xa ra đi rèn luyện, cậu béo này chính là bạn đồng hành với anh năm ấy đấy.”
Tuyền béo nghe tôi nhắc
đến những ngày tháng hào hùng xưa kia, cũng máu lên nói: “Bấy giờ đúng là bạn
bè đương tuổi thanh xuân , trong đầu toàn là ý nghĩ tạo phản, hồi ấy cười giễu
Hoàng Sào chẳng trượng phu mà lại. Cô em đây hai mươi tuổi đầu rồi, còn làm
nũng ông chủ Lý cơ à? Anh Tuyền béo của em đây năm ấy mười tám tuổi thôi đã một
mình vào núi trông ruộng ban đêm rồi đấy nhé, gặp cả ma, kêu trời không thấu
gọi đất chẳng xong, lại chẳng có bùa chú gì mà niệm, đành liều mình chống đỡ…”
Út dẫu sao cũng còn
trẻ, tâm tính hết sức hiếu kỳ, nghe Tuyền béo nói đến chuyện gặp ma, không nhịn
được liền hỏi chúng tôi rốt cuộc là sao?
Tôi có ý muốn thử độ
gan dạ của Út, nếu mới nghe một câu chuyện ma mà cô đã sợ run lên thì chi bằng
mau chóng đưa cô trở về. Nghĩ đoạn, tôi bèn nói: “Chuyện này anh nghe rồi, đấy
là chuyện Tuyền béo gặp phải ở vùng Đông Bắc sau khi anh vào bộ đội, nói ra
đúng là rởn hết gai ốc, đằng nào chúng ta ngồi trên xe cũng không có việc gì,
để cậu ta kể cho mọi người nghe.”
Shirley Dương và giáo
sư Tôn cũng lấy làm tò mò, đều ngồi một bên yên lặng lắng nghe. Tuyền béo hắng
giọng mấy tiếng, rồi bắt đầu tán phét:
Địa điểm là công xã Đại
Cáp Thích Tử, bên ngoài đồn tiểu đội sản xuất Đoàn Sơn, thời gian là năm 1970,
cũng vào một buổi tối mùa hạ. Đêm giữa hạ ở trong núi lẽ ra phải rất mát mẻ,
nhưng hôm ấy chẳng hiểu sao, có lẽ tại sắp có mưa lớn, nên oi bức lạ thường,
trên trời chẳng có lấy một ngôi sao.
Đúng hôm đó, Tuyền béo
và một thanh niên trí thức khác bị phân công lên núi trông ruộng, chính là mấy
mẫu đất ở lung chừng dốc núi. Trên đó trồng toàn ngô, mà bọn lợn rừng thích
nhất là gặm món này, chúng ăn đã nhiều, giẫm nát còn nhiều hơn, ruộng ngô bị
chúng phá thì xong luôn, vì vậy ban đêm phải có người canh gác, hễ nghe thấy
động tĩnh gì liền chạy ra khua chiêng gõ trống đuổi lợn rừng.
Đêm ấy, người thanh
niên trí thức kia lại có việc đột xuất, Tuyền béo đành một mình lên núi trông
ruộng. Ban ngày cậu ta bẫy được một con thỏ, lúc ra cửa lại tiện tay xách theo
một bình rượu quê, vui vẻ ăn uống một mình. Cậu ta thịt thỏ ngay ngoài ruộng,
miệng ư ử hát một đoạn trong vở kịch kiểu mẫu Đèn Đỏ , đợi con thỏ được nướng
chín từ trong ra ngoài, liền gặm một miếng thịt thỏ tu một ngụm rượu quê, tinh
thần phơi phới, cảm thấy ngày tháng trong núi này cũng khá dễ chịu, chỉ tiếc
dạo này bọn lợn rừng không đến quấy phá, chẳng tìm được cớ bắn vài phát súng
cho đã ghiền.
Đang khi đắc ý, chợt
nghe sẫm nổ ì ùng, những hạt mưa to như hạt đậu tương ào ào trút xuống. Tuyền
béo vội kẹp bình rượu quê, xách con thỏ gặm được một nửa chạy vào trong lán cỏ
tránh mưa. Không ngờ lán cỏ chỗ nào cũng dột, không chui rúc vào đâu được. Cậu
ta thoáng nghĩ ngợi, đầu bên kia ruộng ngô có gian nhà xay bột, bỏ hoang nhiều
năm rồi, sao không qua đó mà tránh mưa nhỉ?
Gian nhà xay bột vô
cùng sơ sài này có từ thời trước Giả phóng, nhưng không hiểu sao bao năm nay
không ai ra vào. Tuyền béo chẳng nghĩ ngợi nhiều, giơ chân đạp bật cửa gỗ ra,
bên trong tối như hũ nút, toàn bụi bặm những dẫu sao cũng tốt hơn ở bên ngoài
bị mưa xối cho ướt như chuột lột. Cậu ta dốc hết chỗ rượu quê còn lại vào bụng,
rồi nằm chỏng vó lên cái rương gỗ ngủ luôn, lát sau đã ngáy khò khò như sấm
động.
Tuyền béo ngủ giấc ấy
rõ say, cũng không biết ngủ đến lúc nào, giữa chừng bị tiếng sấm làm giật mình
tỉnh giấc. Cậu ta thoàng thắc mắc sao mãi trời vẫn chưa sáng, rồi trờ mình định
ngủ tiếp.
Lúc này, chợt nghe bên
tai vang lên tiếng bà khóc lóc. Tuyền béo vốn gan dạ, lại vô tâm, chỉ biết việc
ngủ của mình. Chẳng ngờ, tiếng khóc bên tai mỗi lúc một gần, cảm giác như chui
vào trong óc vậy, cậu ta nửa mê nửa tỉnh ngoác miệng chửi: “Khóc cái mẹ mày ấy
mà khóc!”
Bị cậu ta chửi cho,
tiếng khóc bi thảm kia liền im bặt, Tuyền béo cũng chẳng buồn nghĩ xem là chuyện
gì, tiếp tục vùi đầu ngủ say sưa. Một lúc sau, chợt nghe bên tai có tiếng đàn
bà nói: “Đừng đè lên giầy ta, đừng đè lên giày ta, đè lên giầy ta, ta lấy mạng
ngươi…”
Câu này nói rõ mồn một,
Tuyền béo đang mơ mơ màng màng cũng nghe không sót chữ nào, cả người nổi hết
gai ốc gai gà, lập tức bật dậy. Dù gan to bằng trời, cậu ta cũng phải toát mồ
hôi lạnh, nhìn lại thì thấy trong nhà xây bột làm gì có người đàn bà nào, trông
ra bên ngoài vần dương rực rỡ, trời đã sáng bảnh từ bao giờ rồi.
Tuyền béo thầm lấy làm
lạ, lầm bầm chửi mấy câu rồi đứng lên xem xét. Thì ra trên tấm ván gỗ cậu ta
nằm, có một đôi giày gấm của phụ nữ đặt ngay ngắn, mũi giày còn thêu hai đóa
mẫu đơn kiều diễm. Tuyền béo quệt mồ hôi lạnh trên trán, cáu tiết lẩm bẩm: “Con
mụ này, chơi thật đấy à!” rồi nhặt hai chiếc giày ném xuống đất, hằn học giẫm
lên mấy phát, sau đó nghênh ngang bỏ đi.
Về làng, cậu ta kể
chuyện này với mọi người, ai nấy đều nói mười mấy năm trước, có thiếu phụ nọ
treo cổ tự tử trong gian nhà xay bột ấy, trước lúc chết cô ta đi một đôi giày
gấm mới tinh. Nhưng bấy giờ đôi giày đã được chôn theo người, gian nhà xay bột
cạnh ruộng ngô ấy cũng chẳng ai lui tới, sao lại có chuyện Tuyền béo trông thấy
đôi giày ở đó đêm qua được? Chẳng lẽ gặp ma sao? Có người hiếu sự còn chạy đến
nhà xay bột xem, cũng không thấy giày dép gì, mọi người đều bảo Tuyền béo trộm
rượu uống say mê muội cả đầu óc.
Tuyền béo chẳng coi đấy
là chuyện nghiêm túc, mà bao nhiêu năm rồi cũng chẳng thấy oan hồn nào đến đòi
mạng. Có điều, hôm nay hồi tưởng lại, đêm khuya núi vắng, nằm đè lên đôi giày
của ma nữ ngủ một đêm, quả thực cũng thấy hơi lạnh gáy, có trời mới biết đêm
hôm ấy cậu ta gặp phải tà ma quỷ quái gì.
Đây là chuyện thực
Tuyền béo gặp phải lúc đi về nông thôn tham gia lao động sản xuất, có điều lúc
này đem kể ra trên xe khách, cu cậu đương nhiên có ý khoe khoang, không chịu có
thế nào kể thế ấy mà thêm mắm dặm muối, bổ sung rất nhiều đoạn rùng rợn khiến
người ta nghe mà rởn cả tóc gáy.
Nhưng cô Út này rất gan
dạ, câu chuyện của Tuyền béo căn bản chẳng dọa được cô. Cô chỉ thấy có chút tân
kỳ mới lạ, chứ chẳng sợ sệt gì, còn cười Tuyền béo là đồ ngốc, bịa chuyện dọa
người mà cũng chẳng biết kể cho sinh động.
Tôi thầm gật đầu tán
thưởng: “Con bé này quả nhiên có gan mạo hiểm.” Nhân thể đang muốn hỏi thăm về
các truyền thuyết quanh vùng phụ cận mộ cổ Địa Tiên, tôi bèn thừa cơ khen Út
gan dạ hơn người, có phải ở quê toàn nghe chuyện ma không? Hay là kể cho bọn
anh nghe mấy chuyện xem nào.
Út nói trấn Thanh Khê
có lịch sử rất lâu đời, đã khai thác khoáng muối Vu suốt mấy trăm năm. Muối Vu
là một loại muối địa chất đặc biệt, có thể gia công thành muối ăn. Thời xưa,
thuế muối đánh rất nặng, tự tiện khai thác muối là tội chém đầu, dân chúng đa
phần đều làm lén lút hòng mưu lợi lớn, bởi vậy ở trấn Thanh Khê số lượng giếng
khai thác lớn nhỏ phải lên đến con số hàng nghìn. Đến thời Thanh tài nguyên gần
như cạn kiệt, trong núi không còn mạch muối nào mới nữa, về sau lại tiến hành
xây dựng hầm phòng không quy mô lớn, khiến trong núi toàn những hang những hốc.
Thiên nhiên, nhân tạo,
bán nhân tạo…các loại hang động hốc núi đan xen chằng chịt lên nhau, có nơi sâu
đến mấy chục mét, người bên ngoài muốn đi một bước cũng khó. Những chỗ đào sâu
khó tránh trông thấy nhiều thứ ly kỳ cổ quái, vì vậy mà có rất nhiều truyền thuyết
khác nhau, hồi nhỏ Út hay đến hầm mỏ chơi, dù sao thời ấy vẫn còn chưa hiểu
chuyện, cũng chẳng thấy sợ hãi gì.
Tôi nghe vậy, không
khỏi thầm kêu khổ, chút hy vọng cuối cùng đều quăng xuống sông xuống biển rồi.
Các loại công trình ở Thanh Khê đã đào rỗng cả quả núi, vậy mà bấy nhiêu năm
vẫn không ai phát hiện được mộ cổ Địa Tiên, chẳng biết Quan Sơn thái bảo rốt
cuộc đã sử dụng thủ đoạn gì để che trời giấu biển? Mà cũng rất có khả năng, mồ
Phong Vương chỉ là một truyền thuyết hão huyền, căn bản không tồn tại trên cõi
đời này.
Có điều, trong lời kể
của Út có nhắc đến chuyện khai thác muối trong hang. Muối Vu là thứ tài nguyên
đã cạn kiệt, giờ không còn nữa. Hồi xưa tôi làm công binh, cũng chưa từng nghe
nói có thể đào được muối trong núi, nhưng chuyện này lại khá phù hợp với câu
“Đào giếng lấy muối, hỏi quỷ xin tiền” trong bài ẩn ngữ chỉ lối tìm đến mộ cổ
Địa Tiên kia.
Nghĩ tới đây, tôi liền
đem bài vè “Hay cho đại vương, có thân không đầu; nương tử không đến, núi non
không khai; đốt củi bắc lò, nấu gan nấu phổi; đào giếng lấy muối, hỏi quỷ xin
tiền; điểu đạo tung hoành, trăm bước chín hồi; muốn đến Địa Tiên, hãy tìm ô
dương…” ra hỏi xem Út có biết những câu này ẩn chứa bí mật gì hay không?
Út cũng chẳng hiểu gì
cả, cô chưa bao giờ nghe nói nhà họ Phong vẫn âm thầm truyền lại cho con cháu
đoạn ẩn ngữ này, đương nhiên không biết trong những câu chữ ấy có gì bí hiểm,
nhưng nếu nói đến “Đào giếng lấy muối, hỏi quỷ xin tiền”, thì chắc chắn là cổ
trấn Thanh Khê không chệch đi đâu được. Thời xưa, hầm khai thác muối Vu gọi là
giếng muối, có điều đây là cách gọi bản địa, người ở nơi khác đa phần đều chưa
từng nghe qua.
Giếng muối Vu thường do
các phú hào địa phương chiếm giữ, người nghèo chỉ có thể làm lao công, phu mỏ.
Trong mỏ muối Vu thường có khí mê tan, đồng thời nước ngầm dưới lòng đất có thể
phun lên bất cứ lúc nào, các phu mỏ xuống giếng làm việc phải hết sức mạo hiểm,
thường xuyên có một lượng lớn phu mỏ chết oan dưới giếng, vì vậy trong vùng mới
có câu ngạn ngữ rằng: “Đào giếng lấy muối, hỏi quỷ xin tiền.”
Tôi thấy cuối cùng cũng
có chút manh mối, không khỏi mừng thầm, nhưng chỉ nhờ đoạn này thì vẫn khó lòng
giải thích ý nghĩa toàn bài. Phỏng chừng, muốn hiểu được câu đố về thôn Địa
Tiên này, vẫn phải phá giải câu đầu tiên “Hay cho đại vương, có thân không đầu”
trước, rồi lần lượt suy diễn từng bước mới xong. Dân cư trấn Thanh Khê xưa sớm
đã phân tán đi các nơi, muốn tìm thêm ài người hỏi thăm cũng không được, mà
những truyền thuyết cổ xưa kia chắc chắn còn lâu đời hơn cả mộ cổ triều Minh,
người thời nay chưa chắc đã biết. Những mạch suy nghĩ trong đầu tôi cứ rối tung
beng cả lên, đang chưa biết sắp xếp thế nào, chợt thấy bên ngoài cửa xe mây mù
tan hết, xa xa hiện lên một ngọn núi cao ngất, dáng đẹp tuyệt trần, toát lên
một vẻ u tĩnh mông lung, bất giác làm tôi ngẩn người ra ngắm.
Giáo sư Tôn bên cạnh
cũng thở dài tán thường: “Đây chính là đỉnh Vọng Hà, tương truyền năm xưa lũ
lụt hoành hành khắp thiên hạ, Đại Vũ chỉ huy dân chúng trị thủy. Đó là hành vi
thay đổi cả càn khôn, không thể thiếu sự tương trợ của quỷ thần, vì vậy thần nữ
hạ phàm, đứng ở đất này chỉ đường cho thuyền bè, năm tháng dài lâu liền hóa
thành đỉnh núi, vì vậy còn có tên là đỉnh Thần Nữ.” Chợt lão ta sực nhớ ra gì
đó, tự mình hỏi mình, rồi lại tự trả lời: “Nương tử không đến, núi non không
khai, Khai sơn nương tử nhắc đến trong đoạn mê ngữ này, lẽ nào là chỉ đỉnh Thần
Nữ?”
Nguồn e-thuvienonline.blogspot.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét