Tiếng đồn bay đến kinh đô, nhà vua liền du ngoạn và ngự giá ở Thượng Mỗ. Được mắt thấy tai nghe, một cô thôn nữ đẹp như bông sen nở bên hồ, lại có giọng hát hay như chim hót, khẩu khí ứng đối trôi chảy như một trang kiệt nữ, sánh với bậc kỳ tài… nhà vua liền đón về cung và phong làm cung phong làm phi đệ nhị, phụ trách lễ nhạc cung đình, chuyên dạy hát ca trù phục vụ những cuộc đại lễ.
Sống ở nơi đài các, nhưng bà phi luôn nhớ
tới quê hương bản quán. Khi lâm bệnh, bà ước nguyện được về nơi quê cha đất tổ,
lúc mất được hoà trong cảnh gió nội hương đồng. Cảm kích trước công lao và đức
hạnh của bà phi, khi bà mất, nhà vua đã cử hành tang lễ trọng thể và đưa thi
hài của bà về cánh đồng làng Thượng Mỗ. Nhân dân thương tiếc lập đền thờ bên
Đầm Giếng, gần khu Mả Vương. Lăng mộ, đền thờ còn tồn tại đến ngày nay. Làng
Đại Phú còn được gọi là làng “Nhà trò”.
Đền Đầm Giếng xưa là một
am nhỏ, phía sau đền có cây bàng cổ thụ xoè tán che mát như một chiếc lọng lớn,
xung quanh cây cối um tùm, chim kêu ríu rít. Nay, đền được tôn tạo nhiều lần,
nay có đủ nghi môn, tiền tế, đại bái và hậu cung. Phía trong đền có tượng Đức
bà sáng mặt, đôn hậu, lịch lãm. Bức hoành phi ghi bốn chữ “Kim chi ngọc diệp”
(tức là cành vàng lá ngọc) được khắc treo từ thời Lê Chính Hòa (1702). Nhiều
câu đối ngợi ca công đức của bà: “Tiếng hát trong như ánh trăng làm rung vòng xuyến của cung phi/Ân
trạch lớn như sóng nước phù cho cây cối của làng Mỗ tươi tốt”.
Hàng năm, cứ đến ngày mồng 3 tháng 2 âm
lịch, ngày giỗ của bà phi, nhân dân tổ chức lễ trọng. Bài văn tế “Đệ nhị cung
phi hoàng hậu” được lưu trữ cẩn thận cùng với cuốn ngọc phả ghi công đức của
bà. Sau phần lễ, đều có hát ca trù. Nhiều giáo phường ca trù nổi tiếng ở Hà
Tây, Hà Nội về hát “Hầu Bà chúa của ca trù”.
Theo" Truyền thuyết về bà chúa ca trù đất Thượng Mỗ "-
Nguồn
catruthanglong.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét