CHƯƠNG 65: KIM ĐIỂM
Trong di chỉ Quy Khư ở vùng biển Vực Xoáy San
Hô, chủ thuyền Nguyễn Hắc bất hạnh gặp nạn, trước lúc lâm chung, tôi từng chính
miệng hứa với ông ta sẽ chăm sóc thật tốt cho Đa Linh và Cổ Thái, chẳng ngờ ma
xui quỷ khiến thế nào, Đa Linh lại nhặt được cái đồng hồ vàng của tay thuyển
trưởng cụt tay trên tàu Mariana, trúng phải tà thuật Giáng Đầu trên chiéc đồng
hồ ấy.
Chẳng những thế, sau này chúng tôi xác nhận được từ nhiều nguồn, vị
thuyền trưởng người Pháp buôn lậu đồ cổ ở Nam Dương ấy, chính là người cha ruột
đã mất tích trong chiến tranh Việt Nam của Đa Linh. Chuyện này không thể không
nói là do ý trời khéo sắp, nhưng cũng lại là trời cao vô tình.
Chúng tôi đã tìm đủ mọi cách giữ lại tính mạng
cho cô, nhưng thời gian lênh đênh trên biển quá lâu, lúc về đến đảo Miếu San
Hô, chất độc đã ăn sâu vào cốt tủy, nếu không có tấm áo Phỉ Thúy kia khoác lên
người, sợ rằng Đa Linh đã thối rữa mà chết từ lâu rồi. Thế nhưng, đến cuối cùng
chúng tôi lại không tìm được nội đơn của xác cổ có thể cứu mạng Đa Linh, vẫn
không thể giữ cô lại trên cõi dương gian này.
Sau khi biết được tin này từ bức điện báo của
Răng Vàng, lòng tôi như thể bị chèn một tảng đá lớn, vừa tự trách, vừa hổ thẹn
với linh hồn Nguyễn Hắc trên trời. Tuy cũng biết rằng sức người có hạn, một số
việc có thể làm được, còn một số việc bất luận ra sao cũng không thể hoàn
thành, nguyện vọng khởi tử hồi sinh đã trở thành bọt nước, nghĩ đến thế sự lạnh
giá như băng, sực sự khiến người ta khó mà chấp nhận nổi.
Cả bọn than thở một hồi, đều nói đây là sinh tử
do trời, sức người không thể cưỡng cầu, đã đến nước này cũng chẳng thể làm gì
hơn, đành thay đổi kế hoạch, trở lại Mỹ tham gia đám tang của Đa Linh. Dân mò
ngọc vùng Nam Hải tuân thủ truyền thống khá nghiêm ngặt, theo phong tục của họ,
người sau khi chết, phải thả thuyền đưa Ngũ thánh ra biển thì thi ốt dân mò
ngọc mới có thể nhập thổ vi an, ngoài ra còn phải lập đạo tràng trên đất liền
và dưới nước, cúng tế ba ngày, siêu độ cho người chết sớm ngày thoát khỏi nỗi
khổ luân hồi.
Chúng tôi đến tiệm tạp hóa trong thị trấn nhỏ
vô danh kia, chào từ biệt ông chủ Lý. Ông Lý vội vàng đóng cửa tiệm, mời mọi
người vào trong hỏi han rối rít: “Nom mọi người mặt ủ mày chau, hẳn là lần này
vào núi làm việc không được thuận lợi lắm, thôi thì ngày rộng tháng dài, dẫu có
chuyện gì khó khăn cũng không nên để mắc míu trong lòng.” Nói đoạn, ông lấy
trong tủ ra hai chai rượu, định cùng tôi và Tuyền béo làm mấy chén.
Chúng tôi chối từ không đặng, đành cung kính
tuân theo. Không ngờ ông chủ Lý này tuy tuổi tác đã cao nhưng tửu lượng không
hề giảm sút, ba người làm hết nửa bình rượu lâu năm, liền mở máy nói tràng
giang đại khải, tôi kế hết chuyện hẻm núi Quan Tài tìm nội đơn không thành cho
ông nghe, rồi lấy tập Vũ Hầu Tàng Binh đồ tìm được trong mộ cổ thôn Địa Tiên ra.
Tôi bảo ông chủ Lý: “Có câu, vật về với chủ, bộ
Vũ Hầu Tàng Binh đồ này tổng cộng tám quyển, căn bản chẳng dùng được gì trong
công cuộc kiến thiết hiện đại hóa, ngoài những vị sư phụ tinh thông ngón nghề
chế tạo cơ quan ám khí, có lẽ chẳng còn ai đọc hiểu được nó nữa đâu. Chỉ có ở
trong tay ông đây, nó mới có thể phát huy ít nhiều tác dụng thôi.”
Ông chủ Lý nghe tôi nói vậy thì hết sức kinh
ngạc vội vàng lấy đôi kính lão, không ngừng lật xem từng trang như thể vớ được
món báu vật, vừa xem vừa lẩm bẩm nói: “Tổ sư gia hiển linh, đúng là tổ sư gia
hiển linh rồi!” Tập bản vẽ này là bảo điển của các thợ thủ công thời xưa, dây
cốt và ốc vít bát bảo xuất hiện sau này đều không so được với sự xảo diệu của
các cơ quan mô tả trong đây. Hầu hết các nội dung trong tập sách này đều đã
thất truyền nhiều năm, những tưởng rằng các tuyệt nghệ của Phong Oa sơn phải
điêu tàn tuyệt tích, người thợ già như ông có nằm mơ cũng không ngờ lại có thể
tìm được cả bộ Vũ Hầu Tàng Binh đồ trong mộ cổ, lập tức cảm ơn rối rít, rồi cất
ngay tập sách đi.
Tôi hỏi ông chủ Lý tại sao Vũ Hầu Tàng Binh đồ
lại xuất hiện trong mộ cổ thôn Địa Tiên, chẳng lẽ nữ mộ chủ được trâu vàng cõng
trên lưng ấy cũng là nhân vật của Phong Oa sơn thời Minh hay sao?
Ông chủ Lý cũng là tay lão luyện giang hổ, bèn
kể ra một số chuyện xưa tích cũ, gợi cho chúng tôi nghĩ tới một số đầu mối, suy
đoán ra cái xác phụ nữ thời Minh ấy có thể là con cháu của kỳ nhân thuật số Lưu
Bỉnh Trung, nhà họ Lưu sở trường Kỳ môn Độn giáp, còn tinh thông thuật bố trí
cơ quan cạm bẫy. Tuy không phải là người trong Phong Oa sơn, nhưng nhà Họ Lưu
có giao tình rất thâm hậu với các đời thủ lĩnh, trong nhà có giâu bộ bản vẽ cơ
quan này cũng không có gì kỳ quái.
Nhà họ Lưu chuyên về thuật số và nhà họ Phong
Quan Sơn thái bảo là quan đồng triều, vốỗn đã không hợp nhau, địa tiên Phong
Soái Cổ nhăm nhe muốn đoạt lấy bản vẽ cơ quan ám khí của nhà họ Lưu, bèn ngấm
ngầm trộm ngôi mộ trâu vàng cõng xác mang về. Có điều, Phong Soái Cổ tuy thần
thông quảng đại, nhưng chỉ sở trường các ngón dị thuật tà môn, dù lấy được Vũ
Hầu Tàng Binh đồ cũng khó lòng hiểu hết sự ảo diệu bên trong, vì vậy cơ quan Vũ
Hầu Tàng Binh ở mộ có Ô Dương vương chỉ được cái vỏ bề ngoài, cuối cùng cũng
không hoàn thành. Bộ sách này, cũng được an trí nguyên vẹn vào âm trạch trong
thôn Địa Tiên cùng với các loại thi hài, minh khí Quan Sơn thái bảo trộm được.
Đương nhiên, đây chỉ là suy đoán của chúng tôi,
sau khi núi Quan Tài sụp đổ, tình huống chân thực đã không thể nào khảo chứng
nữa. Ba người cụng chén cụng ly, khi đã ngà ngà, mắt hoa tai đỏ thì bắt đầu dốc
lòng dốc dạ, nói rất nhiều lời gan ruột. Tôi nói chuyện của Út với ông chủ Lý,
bảo rằng học ngón nghề đổ đấu với tôi cũng chẳng ra gì, kỳ thực học xong rồi
cũng chẳng có chỗ dùng, vả lại một khi đã làm cái nghề Mô Kim này, muốn thoát
thân ra thì khó càng thêm khó.
Bản thân tôi chính là một ví dụ, nhớ năm xưa
tôi và Tuyền béo đi Dã Nhân câu ở Đông Bắc, cũng chỉ muốn kiếm một khoản lớn
giúp đỡ đám bạn bè nghèo khó chứ chẳng mơ mộng gì cao xa, nhưng từ khi chúng
tôi lấy được một đôi ngọc hình con Ly trong mộ vị tướng quân nước Kim kia,
những phiền phức không đầu không đuôi cũng bắt đầu tìm đến tận cửa, nhiều lần
chịu tội, nhiều lần chịu khổ, có thể sống đến hôm nay mà không cụt tay què chân
cũng không phải chuyện dễ. Khoảng thời gian ấy, trên người ai mà không thêm vài
vết sẹo ? Cái mũi của Tuyền béo ở núi Côn Luân đã bị gọt mất một mẩu, phá cả
tướng, cũng may chúng tôi tay chân nhanh nhẹn, lại được tổ sư gia phù hộ, nên
mới có thể ba lần bốn lượt xông ra từ cửa âm Tào. Út là cô gái lớn lên trong
núi, học cái nghề đổ đấu mò vàng này, thật không ổn thỏa chút nào.
Nói tới dây, tôi ngoảnh đầu nhìn ra, thấy
Shirley Dương và Út dang ở gian ngoài trò chuyện, không nghe được câu chuyện
của chúng tôi, tôi lại hạ giọng nói với ông chủ Lý: “Phụ nữ ấy à, quan trọng là
phải gả cho người tử tế. Chiến hữu hồi bộ đội của tôi nhiều lắm, quá nửa vẫn
còn độc thân, nên chuyện này ông khỏi cần phải lo, cứ để đấy cho tôi. Mấy ngày
trước tôi hỏi Út rồi, cô bé không muốn ra nước ngoài, nhưng rất muốn đến Bắc
Kinh một chuyến. Tôi và Tuyền béo cũng có chút mặt mũi ở Phan Gia Viên và Lưu
Ly Xưởng, có thể để cô đến làm trong tiệm đổ cổ của Kiều Nhị Gia, học nghề giám
định cổ vật, sau đó gả cho một người đàn ông đáng tin cậy, sống trọn đời hỷ lạc
bình an, ông cũng có thể đi theo hưởng phúc.”
Ông chủ Lý gật đầu nói: “Tôi nhìn người chưa
bao giờ sai, ý cậu chuẩn quá đi rồi. Tôi đây có bệnh cũ trong người, sức khỏe
ngày một yếu đi, nói không chừng mai kia lại xuôi tay về trời thôi, con bé Út
này có được chỗ gửi thân yên ấm, tôi có chết cũng nhắm mắt được rồi.”
Sau đấy, ông chủ Lý lại nói, mới đầu khi thấy
chúng tôi nhận ra được Ô Kim Cang, ông đã đoán chúng tôi đều là Mô Kim hiệu úy
đeo bùa đổ đấu. Ông ta là người đi ra từ xã hội cũ, đương nhiên cũng biết bí
thuật Mô Kim, đồng thời hết sức tin phục thuật phong thủy âm dương, định nhờ
tôi giúp ông chọn một mảnh đất làm âm trạch sau khi chết.
Tôi bèn khuyên rằng, tôi không thể coi là tinh
thông phong thủy, cũng chỉ biết chút da lông bên ngoài mà thôi, chẳng qua dựa
vào tầm long quyết và thuật Phân kim định huyệt tổ truyền để kiếm miếng cơm ăn.
Những gì nghe được thấy được trong đời, đích thực có rất nhiều chuyện can hệ
đến phong thủy, nhưng đồng thời tôi cũng phát hiện, phong thủy không thể làm
thay đổi hung cát họa phúc, nó chỉ là một môn địa lý sinh thái học mà thôi.
Để ông chủ Lý tin lời, tôi kể cho ông nghe câu
chuyện năm xưa ông nội mình từng đích thân trải nghiêm. Trước Giải phóng, ông
nội Hồ Quốc Hoa của tôi làm nghề đoán chữ, xem phong thủy, xem đất mưu sinh.
Những ngành nghề dựa vào thuật số để giúp người chiêm bốc sự cát hung kiếm
miếng cơm này vì có hàm lượng tri thức tương đối cao, nên thường được tôn xứng
là Kim Điểm. Bản lĩnh của Hồ tiên sinh có được từ nửa quyển Thập lục tự âm
dương Phong thủy bí thuật, đều là chân tài thực học, con người lại tinh minh
cẩn thận, nên giành được danh hiệu “Kim Điểm tiên sinh”, xét trong vùng thì gia
nghiệp cũng vào hàng tương đối giàu có sung túc.
Kim Điểm Hồ tiên sinh mỗi ngày đều ngồi quán
xem bói, giảng về mệnh lý, địa lý cho các loại người từ mọi miền Nam Bắc, một
hôm trời mưa lát phất, trên phố người qua lại thưa thớt, buôn bán ế ẩm, các cửa
tiệm đèu tháo đèn đóng cửa sớm. Hổ tiên sinh đang ngồi rỗi uống trà trong quán,
chợt nghe trên phố có tiếng vó ngựa, người trên ngựa đi tới trước cửa tiệm bói,
liền ghìm mạnh cương tung mình nhảy xuống, vội vội vàng vàng chạy vào bên trong.
Hồ tiên sinh vội đứng dậy nghênh đón, đồng thời
đưa mắt quan sát người khách mới đến, chi thấy người đàn ông ấy chừng bốn năm
mươi tuổi, thân hình cao lớn to khỏe, bộ dạng như một tay thổ hào có tiền có
thế, hành sự thẳng thắn mạnh bạo thế này, có lẽ không phải phường giặc cướp,
nhưng thần sắc ông ta u uất, nét mặt rầu rĩ như đón khách viếng đám ma, không
biết có phải vì trong nhà có thân thích gì qua đời hay không nữa.
Hồ tiên sinh không dám thất lễ, liền mời người
khách ngồi xuống, lễ độ rót trà, nói: “Quý khách đến thăm, không biết có chuyện
gì chỉ giáo?”
Tay thổ hào ôm quyền nói: “Tiên sinh nổi danh
Kim Điểm, bọn tôi nghe tiếng đã lâu, hôm nay đội mưa chạy tới, đương nhiên là
không có chuyện không đến điện Tam Bảo, chẳng hay Hồ tiên sinh có hiểu đạo xem
đất không vậy ?”
Hồ tiên sinh dựa vào nghề này để kiếm cơm nuôi
gia đình, thấy khách là tay mơ, làm sao có thể nói là không hiểu, lập tức tự
nâng giá lên nói: “Không phải kẻ hèn này nói ngoa, kẻ hèn năm xưa từng được kỳ
ngộ, bái Thiên Nhật chân quân ở núi Nhạn Đãng làm thầy, học được rất nhiều bản
lĩnh chân truyền, mấy thứ Trạch kinh, Táng kinh, Thanh Nang áo ngữ, Linh Thành
tinh nghĩa, Thôi quan phát vi... không thứ nào không hiểu, không thứ nào không
tinh thông, xem đất chọn nhà là nghề chính, đương nhiên khỏi cần phải nói.”
Tay thổ hào kia nghe thế cả mừng, bấy giờ mới
nói rõ nguyên do. Thì ra, ông ta họ Mã, tên là Lục Hà, quê ở Đổng Lăng, sau này
làm ăn nên chuyển đến sống ở gần hồ Động Đình, mấy năm gần đây, nhà họ Mã cậy
thế hiếp người, trên tư thông quan phủ, dưới qua lại với bọn giặc cướp, lũng
đoạn rất nhiều chuyện làm ăn ở địa phương. Tiền của nhiều, ông ta muốn xây một
trang viên rộng lớn, bèn mời thầy phong thủy về xem đất, chọn trúng một mảnh
đất đẹp, liền cưỡng đoạt chiếm lấy, rầm rộ xây dựng nhà cửa trang viện, bỏ ra
rất nhiều tiền của, xa hoa vô cùng.
Mã Lục Hà cực kỳ tin vào phong thủy, ông ta
chọn mảnh đất ấy cũng bởi nhìn trúng hình thế tiến bảo nạp tài của nó, mọi bố
cục nhà ngang dãy dọc bên trong trang viện, dù lớn dù nhỏ đều mời thầy địa lý
cao minh về chỉ điểm sắp xếp. Sau khi nhà mới xây xong, cả nhà già trẻ mừng rỡ
dọn đến, chẳng ngờ vừa chuyển đến được vài hôm, Mã lão thái gia đã trượt chân
trong vườn, chân tay già nua không chịu được va đập, được nửa ngày sau thì tắt
thở.
Hỷ sự biến thành tang sự, chưa kịp chôn cất Mã
lão thái gia thì con trai cả của Mã Lục Hà ở bên ngoài đã bị kẻ thù giết chết.
Tóm lại, từ khi dọn vào nhà mới, trong nhà liên tiếp có người chết, tính cả
người hầu kẻ hạ, cả nhà bảy mươi mấy nhân khẩu chưa đầy nửa năm, từ trong ra
ngoài đã chết mất mười ba mạng.
Đặc biệt trước khi Mã lão thái gia chết, từng
ngồi đánh mạt chược một mình trong sân giữa đêm hôm khuya khoắt, miệng còn lẩm
bẩm tựa như ba cửa còn lại đều có một bóng ma ngồi chơi vậy, hành động kỳ dị
này làm đàn bà con gái trong nhà sợ đến mặt cắt không còn hột máu, lão thái gia
làm sao vậy? Chẳng lẽ bị ma nhập? Nhưng Mã lão thái gia thường ngày ở trong nhà
rất gia trưởng độc đoán, nói một là một, hai là hai, mọi người tuy thắc mắc
trong lòng, nhưng không ai dám nói thẳng ra. Không ngờ, mới vài ngày sau, ngưòi
đã không bệnh không tật mà qua đời. Lúc tìm người đến khám nghiệm thi thể, thấy
không trúng độc cũng không bệnh tật, tóm lại là chết không minh bạch, đến nay
vẫn chưa có kết quả, giờ người nhà họ Mã nhớ lại chuyện này, vẫn cảm thấy lạnh
hết sống lưng.
Nhưng nói ra cũng lạ, người chết càng nhiêu,
việc làm ăn của họ Mã lại càng hưng vượng, tiền kiếm nhiều đến độ khiến người
ta hoa mắt. Mã Lục Hà ham hố tiền tài phú quý, cắn răng chịu đựng không chịu
chuyển nhà, có điều tài vận vượng thì vượng, nhưng trong nhà lại phải vạ lớn,
trước mắt vẫn không ngừng có người lăn đùng ra chết, thật sự không thể chịu nổi
nữa, ông ta đành tìm người về thay đổi phong thủy, nhưng đã mời hết các thầy
địa lý trong vùng, vẫn không có kết quả gì Mã Lục Hà được người ta giới thiệu,
biết trong thành có vị Kim Điểm Hồ tiên sinh giỏi xem đất, bèn thúc ngựa phi
đến mời Hồ tiên sinh đi xem xem trang viện nhà họ Mã xây trên mảnh đất báu
phong thủy kia rốt cuộc có điểm gì sai sót, mà lại thiệt hại nhân khẩu đến thế,
nếu có kết quả, sẽ không tiếc vàng bạc tạ ơn.
Hồ tiên sinh nghe xong, cũng cảm thấy chuyện
này không phải tầm thường, không ngờ lại chết nhiều người như vậy, hung địa nào
mà lợi hại nhường ấy? Tính ông vốn cấn thận, chỉ sợ không phá giải được thì khó
ăn khó nói với nhà họ Mã, đang định kiếm cớ chối từ, chợt thấy Mã Lục Hà lấy
trong túi ra bốn thỏi vàng đặt trước mặt, bốn thỏi vàng lớn này chỉ là tiền đặt
cọc, sau khi xong việc nhất định sẽ có thêm gấp mười lần thế này, gọi là chút
lòng thành.
Hồ tiên sinh bị vàng làm cho hoa cả mắt, thầm
nhủ: “Hình thế trang viện nhà họ Mã thế nào phải xem thử mới biết được, đây là
tiền ta kiếm bằng bản lĩnh thật, có gì phải ngại? chẳng lẽ lại từ chối vụ làm
ăn đã đưa đến tận cửa? Và lại, Mã Lục Hà này đội mưa mà đến, không thể phụ tấm
lòng người ta được”. Nghĩ đoạn, ông bèn nhận tiền đặt cọc, thu dọn những món
cần dùng, mang theo giấy vàng, chu sa, la bàn, đoản kiếm, đèn báo, dầu tây,
phong đinh, xẻng mỏ vịt, hoa tiêu... toàn những khí cụ để “xem phong vọng
thủy”, rồi thuê một cỗ xe lừa, theo Mã lão lục trở về xem đất.
Đến nhà họ Mã đã là đêm khuya, hai người ở
ngoài ăn cơm uống rượu rồi trọ trong khách sạn, đợi qua ngày hôm sau, Mã Lục Hà
mới đưa Hồ tiên sinh đi từ trong ra ngoài, nhìn hình đo đất. Trong Thập lục tự
Am dương Phong thủy bí thuật mà Hồ tiên sinh được sư phụ truyền cho, có phép
Bát trạch minh khí, chuyên dùng để phân biệt sự hung cát hưng suy của bố cục
trạch viện, bao năm rồi chưa hề sai trật lần nào.
Sau khi vào nhà, Hồ tiên sinh lấy ra một tấm
gương đồng nhỏ, rồi soi ánh mặt trời để xác định phương hướng góc độ. Thuật Mô
Kim có từ thời Tam Quồc, thực tế phát nguyên từ thuật Thần Phù thời Tây Chu,
bất luận tầm long điểm huyệt hay xem hình xét thế, xưa nay đều không dùng la
bàn, dùng la bàn thì không phải là phép cổ.
Hồ tiên sinh theo Mã Lục Hà đi vào, qua nhà qua
sân, xem cách bố trí trong các phòng, cảm thấy trật tự rõ ràng, tuy không đến
mức cao minh, nhưng cũng coi là tạm được. Có điều, trật tự rõ ràng chỉ là một
nhân tố, vẫn còn phải dựa vào phép Bát trạch minh kính tiếp tục tính toán, vì
sách cổ có viết rằng: “Nơi ở, chính là căn cơ của người, lớn nhỏ khác nhau, âm
dương mỗi khác, nếu không cầu toàn, thì dùng không đủ.”
Từ thời Tống, việc bày bố trong âm trạch và
dương trạch đa phần đều theo phép Ngũ tính âm lợi, dựa vào âm đọc cùa họ để
phân ra Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, phối hợp với phương vị Ngũ hành Bát môn mà
sắp xếp. Họ của Mã Lục Hà và nhà này không hề xung khắc, hơn nữa còn lợi tài
hưng vượng, vì thế, nguyên nhân này cũng nhanh chóng bị Hồ tiên sinh loại trừ.
Sau đấy, lại luận tới lý thuyết Đạo gia, suy
tính các chi tiết nhật nguyệt, càn khôn, nóng lạnh, thư hùng, ngày đêm, âm
dương, chỉ thấy trang viên nhà họ Mã “lấy hình thế làm thân thể, giếng nước làm
huyết mạch, lấy gạch ngói làm da thịt, lấy cây cỏ làm lông tóc, lấy môn hộ làm
mũ đội ”, tất cả đều không có điểm nào không thích hợp cả.
Hồ tiên sinh lại đề nghị gặp mặt từng người
trong trang viện họ Mã, cũng không phát hiện ra kẻ nào “hung thần ác sát cả.
Đến lúc này, Hồ tiên sinh không khỏi toát mồ hôi, không hiểu nhà họ Mã gặp phải
ma tà quỷ quái gì, vốn là nơi cát trạch cát địa, lại có tướng phú quý, sao
trong nhà lại liên tiếp có người bạo bệnh mà chết như thế?
Xem hết bên trong trang viện mà không có thu
hoạch gì, Hồ tiên sinh đành ra ngoài xem tiếp, phía sau trang viện nhà họ Mã có
một triền núi, Hồ tiên sinh và Mã Lục Hà dẫn người lên đó, từ trên cao nhìn
xống, chỉ thấy đúng là một mảnh đất báu phong thủy “sơn thanh thủy tú, rồng bay
phượng múa”.
Mã Lục Hà thấy Kim Điểm Hồ tiên sinh mãi vẫn
chưa nhìn ra được nguyên nhân, trong lòng càng thấp thỏm không yên, bèn hỏi ông
đất này thế nào, rốt cuộc là hung hay cát. Hồ tiên sinh đành nói: “Rành rành là
một mảnh đất báu phong thủy quý hóa vô cùng, nhưng tại sao...” đang nói giữa
chừng, ông đột nhiên dừng lại, hít sầu một hơi khí lạnh, sắc mặt biến hẳn, kinh
hãi thốt lên một tiếng: “Quả nhiên hung hiểm!”
CHƯƠNG 66: MŨ MA
Mã Lục Hà bị Hồ tiên
sinh làm cho giật thót mình, biết rằng người này đã tìm được căn nguyên đụng
chạm với hung sát trong nhà mình, vội hỏi: “Tiên sinh, sao lại nói vậy? Hung
hiểm ở đâu?”
Hồ tiên sinh lau mồ hôi
lạnh trên trán, đáp: “Nếu không phải tôi nhìn ra được, già trẻ gái trai nhà họ
Mã đều phải xuống âm Ty làm ma cả đấy.”
Mã Lục Hà nhất mực tin
tưởng thuyết phong thủy, nghe thấy lời này, trong lòng lại càng kinh hãi bội
phần: “Mảnh đất báu phong thủy nhà chúng tôi sao lại có vận hung hiểm thế chứ?”
Hồ tiên sinh chỉ xuống
núi, nói với Mã Lục Hà: “Ông nhìn kỹ xem, ngọn núi cao phía Tây trang viện nhà
họ Mã giống cái gì?” Mã Lục Hà nhìn theo hướng ngón tay, chỉ thấy mé sau nhà
mình có một ngọn núi cao, cảnh sắc đẹp đẽ xanh um, bình thưòng nhìn cũng đã
quen, cho là thường, không hề cảm thấy gì. Nhưng lúc này ngắm nghía kỹ càng,
bất giác cũng kinh hoảng thốt thành tiếng: “Rõ ràng là một cái mũ, đây là... là
mũ của phán quan trong kịch nói.”
Hồ tiên sinh nói: “Ngọn
núi kia trên nhỏ dưới phình, vươn lên sừng sững như mũi dùi, thế núi lánh dương
tìm âm, vừa khéo phủ trùm lên trang viện nhà họ Mã, hình thế này trong phong
thủy có tên tục gọi là mũ ma, chẳng trách việc làm ăn trong nhà lại hưng vượng,
tiền vào cuồn cuộn, vì đây chính là dường thu tiền âm của phán quan Sâm La
điện. Khu nhà này của ông chỗ nào cũng tốt, xây dựng không chút vấn đề, hiềm
nỗi lại nằm bên dưới mũ ma, há chẳng phải coi đây như âm trạch mộ phần hay sao?
Thứ cho tôi nói thẳng, không đầy ba năm toàn gia nhà ông sẽ chết sạch, gà chó
cũng chẳng còn đâu.”
Mã Lục Hà sợ đến hồn
xiêu phách lạc, lập tức níu lấy Hồ tiên sinh khẩn cầu: “Tiên sinh nhất định
phải cứu cả nhà tôi với, tốn bao nhiêu tiền cũng được, xin tiên sinh cứ nói.”
Hồ tiên sinh bèn an ủi:
“Mã lão gia không cần phải lo sợ, chỉ cần bỏ căn nhà này đi, toàn gia nhà ông
dọn đi chốn khác là được, giờ vẫn chưa muộn đâu.”
Mã Lục Hà không nỡ bỏ
mảnh đất báu nạp tài này, liền đảo mắt van nài Hồ tiên sinh: “Xây khu nhà lớn
như vậy tuy tốn kém không ít, nhưng cũng không có gì luyến tiếc cả, chỉ có điều
cái “mũ ma” kia rõ ràng là mảnh đất báu phong thủy thu nạp tiền tài, sao có thể
để uổng phí vậy được, cầu xin tiên sinh ban cho diệu pháp để nhà họ Mã tôi giữ
được tài vận này.”
Sau đấy, Mã Lục Hà lại
lấy ra mấy miếng vàng, nói cứng nói mềm, cầu Hồ tiên sinh ban cho kế sách. Hồ
tiên sinh từ hồi theo thầy học nghề đã biết một câu ngạn ngữ cổ: “Núi sông mà
biết nói, thầy phong thủy chết đói; thảo dược mà biết nói, y sứ không gạo ăn.” Không
nên quá tin vào thuyết phong thủy, nhưng các bậc thánh hiền thời xưa cũng
thường nói chuyện “thiên nhân tương ứng” có lúc địa lý núi sông dường như cũng
có thể ảnh hưởng đến họa phúc cát hung, vì vậy Hồ tiên sinh cho rằng, đạo phong
thủy không phải vô căn cứ, cũng thường nghĩ đến chuyện tìm cho mình một mảnh
đất báu phong thủy, để đến khi trăm tuổi còn lưu lại phúc ấm cho con cháu đời
sau.
Không cầm lòng được
trước lời khẩn nài vật vã của Mã Lục Hà, Hồ tiên sinh đành đồng ý. Kỳ thực,
muốn giữ lại mảnh đất tài lộc “mũ ma” này cũng không phải chuyện gì khó, chi
cần đảo lộn âm dương là được, bỏ dương trạch đi, sau đó đưa mộ phần tổ tiên về
mai táng ở đây, việc làm ăn của nhà họ Mã vẫn càng ngày càng phát đạt.
Mã Lục Hà mừng rỡ khôn
xiết, luôn miệng tán dương Hồ tiên sinh quả không hổ là cao nhân Kim Điểm, ông
ta đã mời hết cả các vị danh gia trong tỉnh, mà không ai nhìn ra được trang
viện nhà họ Mã phạm phải hung sát gì, vậy mà Hồ tiên sinh mắt lửa ngươi vàng,
vừa lên núi nhìn đã thấu được huyền cơ ngay, đúng là bản lĩnh thần tiên, gặp
được cao nhân như thế, nhất định là khí số nhà họ Mã vẫn còn chưa tuyệt.
Đối với chuyện hưng vong
của gia tộc, Mã Lục Hà không dám có chút sơ suất, lập tức mời Hồ tiên sinh ở
lại nơi tốt nhất trong trấn, rồi phái người đến hầu hạ cơm ăn nước uống, đổng
thời một mặt nhờ ông giúp chỉ ra huyệt đạo của địa mạch, mặt khác tiến hành dọn
cả nhà đi nơi khác.
Đúng dịp Mã lão thái gia
vừa qua đời được tròn năm, họ liền chọn ngày hoàng đạo, tập hợp người đào mộ
lên, còn chuẩn bị đủ khí cụ của mặc sư(32) để phòng thi biến. Thời xưa, mọi
người tương đối mê tín, những khi khai quật mộ có hoặc di chuyển mộ phần đều lo
gặp phải thi biến, nên đều mang theo đầu mực của thợ mộc để khắc chế cương thi.
Đầu mực và dây mực dùng để kẻ vạch đo đạc, trong dân gian phổ biến quan điểm
là: “Dây mực thẳng, không thể bẻ cong dối lừa”, dây mực chỉ có thể kẻ đường
thẳng, có thể nói là bảo vật của các mặc sư, dùng càng lâu càng quý báu. Dây
mực là tượng trưng cho chính trực. Từ thời xa xưa. tà đã không thể thắng chính,
các vật kiểu như dùi của thợ đá, thước, dây, búa, bào của thợ mộc, đều có tác
dụng tương tự, có thể trấn áp các thứ yêu tà quái dị. Rường cột và các đồ gỗ
trong nhà mà vô cớ cót két phát tiếng, đều bởi chưa cọ sạch dây mực, lâu ngày
hóa thành tinh linh phát ra tiếng động. Đương nhiên đấy đều là truyền thuyết,
cũng không có chứng cứ xác thực.
Ngoài ra, còn phải chuẩn
bị một ít tiền đồng trước thời Thanh, sau khi quật nấm thấy quan tài, phải áp
lên nắp quan mấy chục đồng tiền, bên ngoài chăng hai sợi dây. Làm vậy để phòng
ngừa cái xác bật dậy phá quan tài. Tiền đồng đè quan cài còn gọi là “nghìn cân
một đồng”, tương truyền, làm như vậy có thể ngăn cách thi thể với dương khí,
ngoài ra còn có thuyết nói tiền đồng chính là tiền quan, đè cho cương thi không
bật lên được. Các thuật sĩ còn cho rằng chữ trên tiền cổ chính là ấn quang, có
thể phá yêu thuật lòe bịp. Truyền thuyết về ấn quan này có rất nhiều, tỷ như có
thuyết nói, thời xưa có kẻ trộm, không cần móc túi vẫn có thể lấy tiền bạc từ
ngoài xa ngàn dặm, vì vậy phàm các nhà giàu đều đặt một xâu tiền cổ hoặc nguyên
bảo có ấn quan trong ngân khố, gọi là tiền “áp khố”, như vậy sẽ không bị trộm
nữa. Vả lại, tiền cổ có ấn quan cũng có thể tránh tà, niên đại càng xưa càng
tốt.
Theo phong tục mai táng
của địa phương, lúc chuyển mộ dời quan cài cần chú ý “vạ miệng”, đây không phải
chỉ tiếng lóng trong đạo lục lâm, mà mộ cổ là lãnh địa của người chết, người
sống đến tìm ngưòi chết, cần phải kiếm lấy cái cớ cho mình yên tâm, vì vậy mới
gượng ép thêm vào rất nhiều điều kỵ húy, “vạ miệng” tức là những cấm kỵ trong
lời ăn tiếng nói, kỵ nhất là những từ kiểu như “chết, xác, âm, chạy, mồ, mả...”
cho rằng những chữ này không được may mắn, trong lúc nói chuyện đều cố gắng
tránh đi. Tuy vậy, hai chữ quan tài phát âm giống như quan tài trong thăng quan
phát tài, vì vậy không cần tránh vạ miệng. Những quy củ nhà quê phức tạp này,
Hồ tiên sinh trước giờ vẫn nắm rõ trong lòng bàn tay, chỉ điểm rõ ràng đâu ra
đấy.
Vào đêm cuối cùng, theo
quy củ, cần mời đạo sĩ đến niệm chú an ủi vong hồn, con cháu thắp hương dập đầu
xong, mới khiêng quan tài ra, cắm phướn cắm đèn dẫn lối, để trâu vàng ngựa
trắng kéo xe, đưa quan tài khâm liệm thi thể Mã lão thái gia đến mảnh đất “mũ
ma” chôn cất lại.
Quan tài là trung tâm
của việc mai táng, vì trong xã hội cũ, người người đều mê tín tin vào phong
thủy, cho rằng đất có đất hung đất cát, sao có sao lành sao dữ, nếu tìm được
một mảnh đất lành làm mộ tổ, chôn cất thi hài tổ tiên, con cháu đời sau có thể
nhờ vào long khí phong thủy ấy mà phát tích. Gia tộc hưng vượng không ngoài
việc làm quan, kiếm tiền, chính vì lẽ này mà quan tài đồng âm với quan tài
trong thăng quan phát tài, nên việc chuyển dời mồ mả tổ tiên là hết sức quan
trọng, nhà họ Mã lại có tiền có thế, kinh động đến nỗi dân chúng khắp vùng đều
kéo về xem náo nhiệt, người đông như nước.
Trang viện về cơ bản đã
bị phá dỡ, nơi chôn cũng đã chọn xong, nhưng để đề phòng long khí trong âm
trạch chạy mất, trước khi đưa quan tài đến không được đào đất lên, đợi khi quan
tài đến nơi, Mã Lục Hà lập tức lệnh cho người nhà bắt tay đào đất. Từ xưa,
người ta đã chú trọng đào sâu chôn chặt, quan tài chôn càng sâu càng tốt, chỉ
có mộ người nghèo mới đào hố nông, dăm bữa nửa tháng là bị chó hoang đào bới.
Nhà họ Mã tuy thừa tiền,
nhưng dẫu sao cũng không phải quý tộc, thời Dân quốc cũng không còn ai xây dựng
minh đường mộ thất dưới lòng đất nữa, nên chỉ đào một cái hố sâu để hạ táng mà
thôi. Mười mấy người to khỏe thay phiên nhau đào bới, được một cái hố còn sâu
hơn cả móng nhà, phỏng chừng cũng sắp xong thì đột nhiên đào được một khối đá.
Mọi người đều lấy làm
kinh hãi, huyệt vị này là do Kim Điểm Hồ tiên sinh chỉ cho, sao bên dưới không
phải đất lành, mà lại có nham thạch? Hồ tiên sinh ngồi bên cạnh trầm tĩnh quan
sát, trong bụng cũng lấy làm lạ, thầm nhủ phen này đúng là thất sách, sao lại
chọn đúng một cái huyệt đá thế này? Không khéo phen này mất mặt chứ chẳng chơi.
Ông đang ngẫm nghĩ tìm cơ hội lẩn đi, chợt thấy sắc mặt Mã Lục Hà nặng trịch,
sầm sì đi tới bên cạnh, bảo ông tới xem thử, tại sao trong huyệt mộ lại có nham
thạch.
Kỳ thực, ý của Mã Lục Hà
đã hết sức rõ ràng, nhà ông ta cũng dỡ rồi, mộ tổ cũng chuyển đi rồi, nhưng
trong huyệt mới lại đào phải nham thạch, tự nhiên phải nghi ngờ Hồ tiên sinh là
hạng giang hồ lừa đảo. Họ Mã này ỷ mình qua lại với quan phủ, hoành hành bá đạo
đã quen, hại chết một vài dân thường cũng chẳng đáng gì, bây giờ đã định chôn
sống luôn Hồ tiên sinh vào cái hố đó.
Hồ tiên sinh hối hận vô
cùng, sớm biết thế này thì ban đầu đã không mở tiệm bói, xưng là Kim Điểm kim
điếc gì, cứ ù lì chăn dê chăn bò cho nhà địa chủ còn hơn, giờ rơi vào tình cảnh
này, tự mình tạo nghiệt thì không thể sống được, đành phải chịu mệnh thôi. Bị
cả đám người dổn ép, ông đành ủ rũ tấp tểnh đi tới trước cái hố, trong đầu
không ngừng xoay chuyên xem nên tán láo thế nào để bảo toàn tính mạng.
Nhưng nước đến chân mới
nhảy, làm gì có cách nào đây? Đang không biết phải nói sao, chợt nghe mấy người
phu đào huyệt xì xào ầm ĩ, nói rằng trên tảng đá đào được kia có chữ, hình như
là một tấm bia đá. Mã Lục Hà vội kêu người đưa tấm bia ấy lên.
Người đông dễ làm việc,
chỉ thoáng sau, tấm bia đá đã được đưa ra khỏi hố, mọi người phủi sạch bùn đất
bên trên, chỉ thấy trên mặt bia khắc sáu chữ lớn. Bấy giờ, rất nhiểu người vây
lại xem xét, ai biết đọc biết viết đều nhận ra được, lẩm bẩm đọc lên thành tiếng:
“Ở thì chết, chôn thì phát.”
Mã Lục Hà gạt đám người
ra xem đi xem lại mấy lượt, kinh hãi đến nỗi một hồi lâu không sao khép miệng
lại được, quỳ sụp xuổng trước mặt Hồ tiên sinh dập đầu cảm tạ rối rít: “Tiên
sinh đúng là thần tiên sống! Mã Lục Hà tôi hôm nay hoàn toàn tâm phục khẩu phục
rồi!”
Hồ tiên sinh vốn tưởng
rằng phen này bị chôn sống lấp hố rồi, không ngờ lại có kỳ ngộ như vậy. Nơi này
xưa nay chưa từng có người xây nhà hay xây mộ, thứ chôn trong đất ắt là di vật
từ thời cổ xưa, thật không ngờ lại ứng nghiệm đến thế. Ông cũng ngây ra hồi lầu
mới định thần lại được, càng cảm thấy Thập lục tự âm dương Phong thủy bí thuật
nói đâu trúng đó, mấy thứ kỹ nghệ giang hồ vặt vãnh không thể nào so sánh được.
Khi ấy, người quây xung
quanh xem đông nghìn nghịt, ai nấy đều coi Hồ tiên sinh như một vị “bán tiên”,
cứ như tinh tú quây quanh vầng nguyệt vậy. Hồ tiên sinh cũng thấy lâng lâng,
lòng mừng khôn tả, song bề ngoài vẫn không dám để lộ ra, chỉ tìm mấy câu xã
giao ứng đáp, rồi chủ trì nghi thức hạ táng quan tài của Mã lão thái gia. Xong
xuôi đâu đấy, ông nhận được rất nhiều tiền tài tạ lễ,
từ đó trở đi, danh tiếng
Hồ tiên sinh vang xa, hễ nhắc đến Kim Điểm Hồ tiên sinh, người nào biết chuyện
đều giơ ngón tay cái lên, khen một tiếng “thuật số như thần, tay vàng điểm chỉ”
nhưng cây to gọi gió lớn, dần dần cũng có rất nhiều tên đạo tặc có ý đồ với nhà
họ Hồ, muốn bắt ông đi giúp chúng tìm long mạch trộm mộ.
Hồ tiên sinh tự thổi
phồng mình một thời gian, thấy hết đám trộm này đến đám giặc khác không ngừng
tìm đến tận cửa, cũng không thể không thu liễm bớt, qua quýt được thì qua quýt,
tránh được thì tránh, nhưng ông cũng biết tránh được mùng một không thoát khỏi
hôm rằm, cứ ở lại trong thành xem bói xem đất, sớm muộn cũng rước lấy vạ lớn,
cái đầu mình rơi xuống cũng không sao, nhưng vợ con trong nhà lấy ai nuôi sống
đây?
Vậy là Hồ tiên sinh liền
gói ghém hết vàng bạc châu báu, đưa cả nhà đi trốn. Ông vốn không phải người Hồ
Nam, nói đi là đi luôn, không có gì vướng bận cả. Hai năm sau, gặp lúc thời
cuộc khó khăn, trong nhà hơi túng thiếu, ông nhớ ra mình còn cái tráp chôn ở
một nơi bí mật bên hồ Động Đình, đó là món tiền dùng khi khẩn cấp ông chuẩn bị
từ lúc gia cảnh còn sung túc, dạo trước đi gấp quá nên không kịp mang theo. Nay
cần dùng đến, Hồ tiên sinh bèn hóa trang thành thương khách trở về lấy tiền.
Hồ tiên sinh tính tình
cẩn trọng, luôn né tránh tai mắt người khác, lại thông đường thuộc lối nên
chẳng tốn mấy công sức đã dễ dàng lấy lại được tráp tiền, đang chuẩn bị mang
tiền về nhà thì chợt nhớ ra Mã Lục Hà, thầm nhủ năm đó mình giúp người này lấy
được địa mạch phát tài “mũ ma”, lúc này Mã gia chắc hẳn càng thêm hưng vượng,
sao không tới đàm đạo một chuyến, biết đâu lại được thêm gì đó.
Nghĩ đoạn, ông quyết
định vòng đường đến tìm gặp Mã Lục Hà, chẳng ngờ đến nơi liên đớ người ra, cả
nhà họ Mã đều đã ngỏm củ tỏi, mộ phần của Mã lão thái gia cũng bị đào trộm. Hồ
tiên sinh cảm thấy hết sức bất ngờ, trong lòng không khỏi thắc mắc: “Chẳng lẽ
ta xem địa mạch không chuẩn, hại chết cả nhà Mã Lục Hà rồi?” Nhưng rồi ông lại
nghĩ: “Không thể nào, bia đá thời cổ đào được trong huyệt mộ ấy, rõ ràng viết
rằng “ở thì chết, chôn thì phát’, chứng tỏ người xưa sớm đã nhận ra mảnh đất
báu phong thủy này, lại không phải có người động chân động tay vào, sao có thể
sai được chứ?”
Hồ tiên sinh lấy làm
nghi hoặc, chuyện này quan hệ đến tính mạng mấy chục con người của một gia tộc
lớn, không hỏi thăm cho rõ thì về nhà cũng canh cánh không yên, bèn đi xung
quanh dò hỏi, cuối cùng cũng biết được toàn bộ sự kiện. Kết quả càng khiến ông
bất ngờ hơn gấp bội.
Thì ra, Mã Lục Hà chuyển
dời âm trạch dương trạch xong, quả nhiên việc làm ăn càng thêm hứng vượng,
thanh thế như mặt trời chính ngọ, tiền tài cuồn cuộn chảy vào kho. Nhưng trời
có gió mưa bất trắc, một ngày nọ, giếng nước trong nhà bị người ta bỏ độc, một
mạch chết mất mấy chục mạng người, tuy trong nhà vẫn có người, nhưng người chết
quá nhiều, trong lúc vội vàng, đến cả quan tài cũng không kịp đặt mua.
Mã Lục Hà lớn tiếng mắng
chửi Hồ tiên sinh là tên bịp bợm, cái mũ ma này vẫn chụp lên đầu người sống nhà
họ Mã không gỡ ra được. Ông ta nổi giận đùng đùng dẫn người vào thành phá tiệm
bói của Hồ tiên sinh, nhưng lúc đó cả nhà Hồ tiên sinh đã dọn đi đâu không biết.
Mã Lục Hà tìm khắp nơi
không thấy, đành hậm hực trở về. Ông ta ngồi thuyền đi đường thủy, không ngờ
dọc đường gặp một trận gió lớn, đánh chìm cả thuyền, cả đám người đều làm mồi
cho tôm cá, không kẻ nào sống sót. Cả một gia tộc lớn cứ vậy mà chết sạch sẽ
không còn một ai.
Thời bấy giờ đang buổi
chiến loạn liên miên, mộ phần của Mã lão gia là mộ mới, bằng như một đống vàng
bạc đặt lù lù trên mặt đất. Sau khi băng cướp lớn ở Tương âm tan đàn xẻ nghé,
có khá nhiều kẻ hoạt động đơn lẻ trong vùng. Một hôm, cả trăm người mang theo
vũ khí chạy qua, trắng trợn đào ngôi mộ này lên, vơ vét sạch sẽ đồ bồi táng của
Mã lão thái gia mang đi.
Bấy giờ, tục hậu táng đã
suy tàn, nhưng vẫn thịnh hành lệ đặt tiền “áp khẩu” cho người chết, trong miệng
ngậm bạc hoặc tiền đồng, mà nhà họ Mã lại tiền nhiều mạnh chi, trong quan tài
quả cũng có một số món xa xỉ đắt tiển, y phục của xác chết không cần phải nói,
chỉ riêng cái túi đựng thuốc bằng gấm đỏ, miệng túi nạm ngọc đã đáng mấy trăm
đổng Đại Dương rồi. Cuối cùng, bọn trộm còn nhổ nốt mấy cái răng vàng trong
miệng Mã lão thái gia rồi mới đập quan tài hủy xác, nghênh ngang rời đi, tình
trạng thê thảm hết chỗ nói.
Về sau, lại có mấy toán
trộm quy mô nhỏ hơn, cùng một số sơn dân quanh vùng đến lọc hố, huyệt mộ càng
đào càng lớn, ở chỗ dạo trước chưa động thổ, lại lộ ra một tấm bia đá. Những
người hiếu sự đều đó đến xem, thấy trên tấm bia mới khai quật được ấy, cũng có
sáu chữ lớn: “Người ngay phát, kẻ gian chết.”
CHƯƠNG 67: SỔ GHI CHÉP
Chuyện này từng rộ lên
một thời, người trong vùng đều xôn xao bàn tán, có người bảo Kim Điểm Hồ tiên
sinh chỉ được cái hư danh, lừa Mã Lục Hà một mớ tiền to, lại chỉ cho ngưòi ta
một cái hung huyệt, kết quả hại chết mấy chục mạng người nhà ông ta. Có lẽ bản
thân Hồ tiên sinh cũng biết có chuyện xảy ra, nên mới dọn nhà trốn đi đâu không
rõ.
Nhưng phần đông mọi
người lại không nhìn nhận như vậy, mảnh đất “mũ ma” này trước sau đào được hai
tám bia đá, chữ khắc bên trên hết sức rõ ràng! Nghĩ kỹ lại những câu “chôn thì
phát, ở thì chết, người ngay phát, kẻ gian chết”, thì không phải Kim Điểm Hồ
tiên sinh chi sai huyệt nhãn, mà là Mã Lục Hà táng tận lương tâm, bao năm nay
minh tranh ám đấu, lại buôn bán thuốc giả, không biết đã hại chết bao nhiêu
mạng người, mấy trăm dặm quanh đây thử hỏi có ai không hận hắn ta? Có thể thấy,
không thể làm những việc trái lương tâm được. Đây là ông trời muốn trừng trị cả
nhà hắn, đúng như câu, trời cao có mắt, mắt thần như điện, báo ứng không sai.
Hồ tiên sinh lại dò hỏi
kỹ hơn, mọi người quả nhiên đều hận nhà Mã Lục Hà thấu xương, người này lừa gạt
thân thích, hãm hại dân chúng, chứa chấp đạo tặc, chuyên làm những chuyện bịa
đặt hãm hại, ăn không nói có, làm cho nơi này khốn khổ vô cùng, gà chó cũng
không yên, có thể nói đã khiến cho trời giận người oán. Đại đa số dân chúng đối
với chuyện cả nhà người này gặp họa đều vỗ tay khen hay, cho rằng đó là “người
ác người sợ trời không sợ, người thiện người bạc trời không bạc; thiện ác đáo
đầu đều có báo ứng, chẳng qua chỉ sớm hay muộn mà thôi”.
Còn hai mảnh bia đá đào
được ở mộ tổ nhà Mã Lục Hà kia cũng rất có lai lịch, theo lời một hòa thượng
già trong ngôi chùa địa phương, rất nhiều năm trước, đích thực từng có địa danh
“núi Mũ Ma”, mảnh đất rộng dưới chân núi từng là nơi xây miếu thành hoàng.
Những ngày lễ tết, người ta đều đốt tiền giấy cho người âm ở chỗ cửa núi. Tương
truyền, bia đá chôn bên dưới ngôi miếu là để cảnh cáo hậu nhân... “âm địa không
bằng tâm địa”, phong thủy long mạch có tốt đến mấy, củng không bằng tự mình
tích đức, làm việc thiện.
Sau này, miếu thành
hoàng bị hủy trong lửa chiến tranh, trải mấy trăm năm dời đổi, di tích cũ sớm
đã không còn, không ngờ mảnh bia vỡ trong lòng đất đến nay vẫn còn, lại vì
chuyện của nhà Mã Lục Hà mà thấy lại ánh mặt trời, để người đời biết được ý
trời sâu thẳm, đạo trời khéo sắp.
Từ đó trở đi, Hồ tiên
sinh cũng không dám vỗ ngực tự xưng tinh thông phong thủy địa lý gì gì nữa, rốt
cuộc ông cũng hiểu được ý tứ trong những lời sư phụ nói năm xưa. Tại sao lại
nói “thiên đạo không lời”? Chỉ vì ông trời không nói chuyện, nhưng cảm ứng của
trời đất vẫn luôn ở trong lòng người, bất luận đắp mộ hay xây nhà, đều phải lấy
tích đức làm gốc, đúng như câu “tâm là chủ khí, khí phù cho đức”, trời chưa
chắc đã có lòng với người, nhưng tâm ý đức hạnh của người lại thường hay cảm
ứng với trời cao.
Tôi kể chuyện này cho
ông chủ Lý biết, để ông hiểu được đạo phong thủy là chỉ “lẽ thiên nhân cảm ứng,
đạo tạo hóa biến dịch”, chứ không đơn giản chỉ là tìm mảnh đất đẹp để chôn cát,
không nên mê tín quá. Từ xưa đến nay, bao nhiêu hoàng đế quân vương sau khi
chết đều được chôn ở long mạch, nhưng cũng không thể ngăn được dòng chảy của
lịch sử thay triều đổi đại.
Ông chủ Lý gật đầu nói:
“Đèn không khêu không sáng, lời không nói không hiểu, tấm giấy bồi cửa sổ mỏng
manh mà không chọc thì cả đời cũng không rách, hôm nay nghe cậu nói vậy, đích
thực rất có lý...” Nói tới đây, ông chợt nhớ đến một chuyện, liền gọi Út vào
dặn dò mấy câu, hình như bảo cô đi lấy thứ gì đó.
Út bới rương lục tủ
trong phòng một lúc lâu, cuối cùng cũng lấy ra một cái tráp bằng gỗ đen, nắp không
có khóa, mà luồn hai sợi dây thừng thắt chặt lại, ở chỗ thắt nút dùng xi niêm
phong, phía trên còn có dấu ấn, bên trong nặng trịch, dường như đựng rất nhiều
thứ.
Tôi và Tuyền béo đều hết
sức tò mò, còn tưởng ông chủ Lý lại khoe với chúng tôi món bảo vật trấn sơn gì,
bèn hỏi ông, trong tráp này đựng thứ kỳ môn ám khí gì vậy.
Ong chủ Lý lắc đầu nói:
“Trong này đựng thứ gì tôi cũng không biết, thậm chí còn chưa từng mở ra xem,
nhưng có lẽ các cậu biết được đôi chút đấy.”
Tôi càng ngạc nhiên hơn:
“Đó của ông ông còn không biết, chúng tôi lại không thể nhìn xuyên thấu cái
tráp, làm sao đoán được chứ?” Nói tới đây, một ý nghĩ chợt lóe lên trong óc,
tôi vội hỏi: “Chẳng lẽ đây là đồ của Mô Kim hiệu úy?”
Ông chủ Lý đáp: “Đúng
thế, lúc trước tôi thấy các cậu có thể nhận ra Ô Kim Cang là biết chắc chắn các
cậu cùng nghề với người khách năm xưa đến đây đặt làm chiếc ô ấy rồi. Vì Ô Kim
Cang này không phải vũ khí tầm thường, chỉ dùng đến khi đổ đấu mò vàng mà thôi.
Năm đó, vị khách thương kia đến tiệm tôi đặt làm một chiéc Ô Kim Cang, đồng
thời gửi lại cái tráp này dặn rằng lúc nào lấy ô sẽ mang cả đi, nhưng ông ta đi
một mạch mấy chục năm không thấy bóng dáng, giờ tôi đã sắp xuống lỗ rồi, cũng
chưa từng gặp lại ông ta.”
Nhắc tới đoạn chuyện xưa
này, ông chủ Lý không khỏi cảm thán hồi lâu. Thời gian thấm thoắt thoi đưa, vật
đổi sao dời, nay Phong Oa sơn đã từ Hà Bắc chuyển đến Tứ Xuyên, trải qua bao
nhiêu năm, bao thứ mang theo mình đều đã mất hết, nhưng cái tráp này vẫn còn
nguyên vẹn, ấy là vì năm xưa đã nhận lời người ta, thì phải giúp họ trông coi
cho tốt.
Ông chủ Lý tự thấy mình
tuổi tác đã cao, sợ rằng không thể giữ gìn vật này được nữa, liền giao tráp gỗ
đen ấy lại cho chúng tôi. Dẫu sao, chúng tôi cũng là Mô Kim hiệu úy, còn hơn để
sau khi ông chết, nó rơi vào tay người ngoài, còn bên trong rốt cuộc đựng những
thứ gì, thì chẳng thể nào biết được.
Sau khi biết tin Đa Linh
qua đời, tâm trạng tôi khá sa sút, thấy cái tráp gỗ này kiểu dáng cổ xưa, đoán
rằng bên trong hẳn đựng các thứ quý trọng, bấy giờ hơi men đã xông lên tận đầu
nên cũng chẳng gấp mở ra xem ngay. Bọn tôi uống đến tận khuya, say khướt mới
nghỉ. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi cám ơn ông chủ Lý, chào tạm biệt rồi lên
đường về. Lần này, chúng tôi chia làm hai nhóm, Shirley Dương và Út đi Hồ Nam
đón lão Trần mù, sau đấy sẽ vể Bắc Kinh tụ họp.
Dọc đường không ai nói
chuyện gì, tôi và Tuyền béo về Bắc Kinh trước, Minh Thúc và Răng Vàng đã đợi
sẵn từ lâu.
Minh Thúc không ngừng
hỏi han chúng tôi đi đố đấu ở đâu, có mở hàng không, tôi không hé nửa chữ, chỉ
bảo Tuyền béo và Răng Vàng dựa theo địa điểm Tôn Cửu gia mô tả trong thư, đào
lấy tư liệu lão ta nghiên cứu chỉnh lý nhiều năm, nhưng không có đổ cổ hay văn
vật gì, hai người họ đành ủ rũ gói đồ đạc trở về.
Tôi đặt cả mấy món đổ
lấy được trong chuyến này lên bàn, đóng cửa lại, cùng Tuyền béo, Răng Vàng bàn
tính xem nên xử lý thế nào. Tôn Cửu gia đã ở lại hẻm núi Quan Tài, đời này chắc
đến chết cũng không chịu lộ diện nữa, tư liệu về quẻ cổ lão ta để lại đều là
thật, chỉ có điều, muốn phá giải được toàn bộ quẻ cổ Chu Thiên, vẫn phải nhờ
đến bậc đại hành gia như Trương Doanh Xuyên giúp đỡ, không phải việc một hai
năm mà có kết quả ngay, vả lại, cũng không thể thiếu tấm gương cổ Quy Khư kia
được.
Dạo trước, tôi cực kỳ
hứng thú với quẻ chu Thiên hoàn chỉnh mười sáu chữ, nhưng trải qua rất nhiều sự
việc, khiến tôi thầm cảm thấy thiên cơ quẻ tượng mê hoặc người ta không ít, năm
xưa Trương Tam Gia hủy đi một nửa quyển Thập lục tự âm dương Phong thủy bí
thuật, rất có thế cũng liên quan đến chuyện này. Ngoài ra, từ trước tôi đã phát
hiện Trương Doanh Xuyên là người đạm bạc, không màng danh lợi, hình như cũng
không coi trọng toàn quẻ Chu Thiên cho lắm. Trương Doanh Xuyên tinh thông lý
học, suy lẽ trời mà hiểu được chuyện người, tầm nhìn rất xa, có thể nhận ra rất
nhiều đạo lý mà người thường không sao thấu hiểu. Anh đã thế, tôi mà bổ khuyết
đầy đủ Thập lục tự âm dương Phong thủy bí thuật cũng chưa hẳn là một chuyện
tốt, huống hổ còn phải tốn rất nhiều tâm sức ngồi nghiền ngẫm, tính tôi làm sao
ngồi yên một chỗ vậy được chứ?
Tôi tính toán trước sau,
cuối cùng quyết định đem hết tư liệu nghiên cứu về quẻ cổ của Tôn Cửu gia
chuyển giao cho Trương Doanh Xuyên. Còn gương cổ Quy Khư và long phù bằng đồng
xanh đều có ý nghĩa phi phàm, đồ đồng xanh vớt ở Quy Khư lên đều là báu vật thượng
cổ, ông chủ thuyền Nguyễn Hắc cùng ra biển với chúng tôi đã vì gương cổ Quy Khư
mà chết, chiến hữu năm xưa Đinh Tư Điềm lại có nghìn vạn ối liên hệ vi diệu với
mảnh bùa hình rồng kia, những thứ này không nên lọt vào tay bất cứ người nào
khác, cứ đưa cho giáo sư Trần xử lý là ổn nhất.
Tuyền béo nâng cái tráp
bằng gỗ đen ông chủ Lý đưa cho lên, hỏi tôi: “Nhất này, thứ này tính sao đây?
Đã về đến Bắc Kinh rồi, cũng phải mở ra xem thử chứ, nom cái tráp này không
nhẹ, lắc lên thấy bên trong lọc cà lọc cọc, có phải đĩnh vàng đĩnh bạc gì không
nhỉ ?"
Từ đầu tôi vẫn cho rằng
cái tráp này là vật của người khác, sao cũng không thể vì người ta không đến
lấy mà mượn cớ chiếm làm của riêng được, nhưng cũng rất tò mò không biết trong
tay tiên bối Mô Kim hiệu úy kia rốt cuộc có bảo bối gì. Trên thế gian này chỉ
còn lại ba lá bùa Mô Kim chân chính, tôi và Shirley Dương, Tuyền béo mỗi người
một lá. Hai lá trong đó do Liễu Trần trưởng lão ở chùa Vô Khổ năm xưa truyền
lại, lá còn lại là Tuyền béo tìm được trong ngôi mộ cổ sau miếu Ngư Cốt.
Từ đây có thế thấy,
người khách đặt chế tạo Ô Kim Cang ở chỗ ông chủ Lý, rất có khả năng chính là
vị tiền bối chết trong hang nhện Long Lĩnh, nếu đúng thế thật, chắc chắn ông ta
vĩnh viễn không thể quay lại lấy món đồ mình gửi nữa rồi.
Năm xưa, vị Ban Sơn đạo
nhân cuối cùng là Gà Gô vì muốn tìm di tích Thông Thiên Đại Phật tự ở thành Hắc
Thủy chôn vùi bên dưới dải cát vàng, đã bái Liễu Trần trưởng lão ở chùa Vô Khổ
làm sư phụ, muốn học Tầm long quyết và thuật Phân kim định huyệt, chẳng ngờ Liễu
Trần trưởng lão lại bất hạnh qua đời, không kịp truyền thụ cho ông Tầm long
quyết. Lúc lâm chung, Liễu Trần trưởng lão từng để lại di ngôn dặn dò Gà Gô đến
hai bên bờ sông Hoàng Hà tìm một vị Mô Kim hiệu úy khác.
Vị Mô Kim hiệu úy ấy
thường cải trang thành khách thương, trên tay luôn cầm một cái bàn tính vàng,
tuy Liễu Trần trưởng lão không nói rõ quan hệ của mình với người này, nhưng
chắc chắn là bạn bè cộng tác trước đó của ông, giao tình không phải tầm thường,
bằng không ông cũng chẳng nhắc đến người này với Gà Gô trong thời khắc cuối
cùng của cuộc đời. Đáng tiếc, Liễu Trần trưởng lão không hề hay biết, Kim Toán
Bàn sớm đã chết trong mê động Long Lĩnh từ lâu. Vả lại, Kim Toán Bàn hành sự ẩn
mật, nếu không phải chúng tôi chạy ra từ mộ u linh thời Tây Chu, tình cờ chui
vào hang nhện ở sâu hơn bên trong, sợ rằng chẳng ai biết được Mô Kim hiệu úy
Kim Toán Bàn đã chôn thây trong đó.
Chuyện này tôi đã nghĩ
đến từ trước, nhưng vẫn không dám xác nhận, bởi không thấy chiếc bàn tính bằng
vàng ròng trong cả mộ u linh lẫn hang nhện. Thứ này vàng chóe, nhất định rất
bắt mắt, vả lại còn là vật tùy thân quan trọng của Kim Toán Bàn, đương nhiên
ông ta sẽ không tùy tiện để rời xa. Từ đây suy ra, chẳng lẽ ngoài chủ nhân đời
trước của ba miếng bùa cổ ra, trên đời vẫn còn một vị Mô Kim hiệu úy thứ tư nữa
chắc?
Nghĩ tới đây, tôi không
kìm được, định mở tráp ra xem trước rồi tính tiếp, tương lai nếu thực sự có
người tìm đến cửa đòi lĩnh lại, cứ trả hết đầy đủ mọi thứ cho người ta là được,
chỉ xem qua một chút cũng chẳng thể hư hỏng thứ gì. Nghĩ đoạn, tôi liên động
thủ cắt đứt sợi dây gân bò đã phủ bụi nhiều năm, vừa mở nắp tráp ra, liền thấy
ánh vàng lóe lên chói mắt.
Cái tráp bằng gỗ đen này
rất giống rương tiền chuyên đựng tiền bạc sổ sách của các thương gia thời xưa,
bên trong là môt chiếc bàn tính vỡ vụn, khung giá, con tính đều đúc bằng vàng
ròng, bên trên khắc rất nhiều ký hiệu nhỏ biểu thị thiên can địa chi, dạng thức
cổ phác đẹp đẽ, không biết đã truyền qua bao đời.
Tôi thầm nhủ, thế này
thì không sai vào đâu được, quả nhiên là vật của Kim Toán Bàn mà Liễu Trần
trưởng lão quen biết, xem ra chúng tôi cũng có duyên với người này. Kế đó,
chúng tôi lại xem xét mấy món còn lại trong tráp, đều là các cuốn sổ ghi chép,
bên trong toàn các chi tiết mua vào bán ra, nhưng đọc kỹ hơn, lại phát hiện
trong đó còn kèm theo rất nhiều thông tin, tôi lật lật mấy trang, dường như có
chép lại cả những sự tích liên quan tới Thập lục tự âm dương Phong thủy bí
thuật nữa.
Tuy tôi định lần này lo
liệu việc chôn cất cho Đa Linh ở Mỹ xong xuôi sẽ không làm nghề đổ đấu nữa, mà
kết hôn rồi sống một cuộc đời bình lặng, nhưng bao nhiêu chuyện tôi trải qua
những năm gần đây, cơ hồ đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến Thập lục
tự âm dương Phong thủy bí thuật, tất cả những người tôi quen biết, bao gồm cả
Trương Doanh Xuyên hậu nhân của Trương Tam Gia, đều không giải thích được tại
sao bộ kỳ thư phong thủy này chỉ còn nửa quyển, dẫu có kể ra được một số lý do,
cũng đều khiến người ta khó lòng tin phục. Lúc này, gặp được cuốn sổ của Kim
Toán Bàn, không ngờ lại ghi chép sự tích về nó, trong lòng tôi hết sức bất ngờ,
càng nôn nóng muốn biết rõ sự tình, bèn đưa hết đồ đạc trong tráp cho Tuyền béo
cất giữ, sau đó lấy cuổn sổ lật xem từng trang dưới ánh đèn.
Tôi đọc cả đêm không bỏ
sót chữ nào, rốt cuộc cũng giải được mối nghi vấn chôn sâu trong lòng bao năm
nay, lại nhớ tới những gì mình và bọn Tuyền béo từng trải qua, cũng không thể
không khâm phục tầm nhìn và kiến thức sâu rộng của Trương Tam Liên Tử, người
viết nên bộ Thập lục tự âm dương Phong thủy bí thuật này, bình yên rút khỏi nơi
đầu sóng ngọn gió là chuyện không phải ai củng làm được.
Mượn chuyện xưa để xét
chuyện nay, khiến lòng tôi có chút cảm ngộ, quyết định sẽ dũng cảm thoái lui,
cũng là để thực hiện lời hứa với Shirley Dương trước đây. Sau khi an táng Đa
Linh, tôi sẽ cùng Shirley Dương, Tuyền béo rửa tay chậu vàng, từ nay gỡ bỏ bùa
Mô Kim, đem số thanh đầu mò được ở Vực Xoáy San Hô bán đi lấy chút tiền vốn,
rồi cùng bọn lão Trần mù, Minh Thúc, Răng Vàng, Cổ Thái ra nước ngoài hợp tác
buôn bán làm ăn, cả đời không hỏi đến chuyện đổ đấu nữa.
Gặp những lúc rảnh rỗi
thanh tĩnh, tôi sẽ xem lại những thứ của tiền bối Mô Kim hiệu úy năm xưa truyền
lại, một là nửa quyển tàn thư Thập lục tự âm dương Phong thủy bí thuật, rồi ba
lá bùa Mô Kim mà tôi, Tuyền béo và Shirley Dương từng đeo. Tôi không biết liệu
những món cổ vật này cùng có số mệnh hay không, nhưng khí số “hưng vong” của
chúng từ rất lâu về trước, đã được sư phụ của Kim Toán Bàn là Trương Tam Liên
Từ nắm rõ cả rồi.
Toàn bộ sự tích của các
Mô Kim hiệu úy đương đại đến đây là hết, trong cuốn sổ của Kim Toán Bàn rốt
cuộc đã ghi lại sự việc gì? Nguyên nhân thật sự khiến Thập lục tự âm dương
Phong thủy bí thuật trở thành tàn thư là gì ? Xin mời xem thêm ba chương ngoại truyện.
CHƯƠNG 68: RỬA TAY CHẬU VÀNG
Trương Tam Gia là bậc
lão thành trong nghề trộm mộ cuối thời Thanh, ông một mình đeo ba lá bùa, người
đời thường hay gọi là Trương Tam Liên Tử, tên thật không rõ là gì, dù thời
trước nhậm chức ở núi Côn Luân, thân trong cửa quan, cũng chỉ dùng họ thật mà giấu
đi tên.
Tên húy của Trương Tam
Gia là gì, đến cả đệ tử con cháu trong nhà cũng đa phần không biết, tại sao lại
thế ? Chỉ vì bình sinh những việc ông làm, thảy đều phạm vào cấm kỵ, trong hai
đạo hắc bạch không ai không biết, cũng thuộc hàng có số có má trong chốn lục
lâm.
Trước thời Dân quốc,
Trung Quốc vẫn còn thuộc chế độ phong kiến, thảng như phạm phải tội lớn tày
trời, có khả năng sẽ bị tru di cửu tộc, một người gây chuyện, thân thích bằng
hữu của y đều bị liên lụy theo, vì vậy người trong giới lục lâm đều không dùng tên
họ chân thực, mà chỉ gọi nhau bằng biệt hiệu, ngoại hiệu, dù một số người danh
tiếng lẫy lừng khắp thiên hạ, đến lúc chết cũng chỉ để lại thế gian một biệt
hiệu mà thôi.
Tuy Trương Tam Gia vướng
vào không biết bao nhiêu vụ án, nhưng thời trẻ ông từng được hoàng đế Hàm phong
phong thưởng, lại thành thạo sự đời, dùng các thứ cổ vật hiếm quý đổ đấu được
kết giao vô số vương công đại thần, quan lại bổ khoái vốn không dám động đến
ông, vì vậy mà môn hạ đệ tử rất đông, gia tài giàu không kế xiết, hào kiệt khắp
ngũ hồ tứ hải đều muón kết giao cùng.
Một năm nọ, Trương Tam
Gia nảy sinh ý định muốn thoái ẩn, ông hiểu được mệnh trời, chán ghét những
chuyện cơm áo gạo tiền của thế gian, định quy ẩn chốn núi rừng, sống nốt quãng
đời còn lại trong bình yên. Ông liền gửi thiếp mời rộng rãi, mời bạn bè ở khắp
nơi đến nhà họ Trương ăn tiệc.
Đã lăn lộn trong hắc đạo
thì không thể tách khỏi đám cường đạo Xả Lĩnh khống chế bảy tỉnh miển Nam sáu
tỉnh miền Bắc, thời bấy giờ, quan và phỉ là một nhà, Trương Tam Gia tự nhiên
cũng phải nhập bọn. Lần rửa tay chậu vàng công khai này, chính là để rút hương
trên Thường Thắng sơn.
Khi đó, thế lực của
cường đạo Xả Lĩnh đã suy vi, rất nhiều người không hề biết Trương Tam Gia chính
là Mô Kim hiệu úy Trương Tam Liên Tử, thêm nữa, thân phận của thủ lĩnh cường
đạo tuy tương đối cao, nhưng thanh danh còn xa mới bì kịp Trương Tam Gia, vì
vậy hành vi này của ông, còn gây vang động hơn cả chuyện trùm cướp rời băng, có
thể coi là một chuyện lớn trong giới lục lâm đương thời.
Những kẻ giang hồ lớp
sau, có ai mà không muốn được mở rộng tầm mắt chứ? Đến ngày mười lăm tháng Sáu
âm lịch, quả nhiên khách khứa chật nhà, tề tựu đông đủ. Những người đến đây,
không ai không phải giang dương đại đạo, giặc cướp lục lâm, bàn ghế kê từ nhà
chính ra đến cổng lớn, hai bên chái nhà cũng chật kín người, rất nhiều kẻ thân
phận thấp đều phải đứng chứ chẳng có chỗ mà ngồi.
Sau khi sắp xong chỗ
ngồi dựa theo thân phận, trước tiên là mở hương đường, bái lạy tổ sư Võ Thánh
chân quân, rồi bắt đầu đại lễ. Kỳ thực, đây cũng chỉ là làm ra vẻ vậy thôi,
nhưng tục lệ thì không thể miễn được, càng không ai dám sơ suất coi thường. Ngó
nhìn trăng trên trời đã tròn, sao cũng lên đủ, người xướng lễ bèn mời thủ lĩnh
Xả Lĩnh ra ngồi bên dưới thần vị trong nhà chính, phụ lễ hai bên khênh một lò
hương tới, bên trong cắm mười chín cây hương lớn, ba trước, bốn sau, năm trái,
sáu phải, một cây ở chính giữa.
Sau một hồi chiêng
trống, giờ hành lễ đã đến, các nhân vật hắc đạo đến xem lễ lập tức im bặt như
tờ. Lúc này, Trương Tam Gia bước ra, quỳ một chân trước mặt thủ lĩnh hành lễ.
Thời bấy giờ, đạo lục lâm vào thì dễ, rút thì khó, người bình thường đều không
dám rút hương, giặc cướp bình thường muốn rửa tay không làm nữa, trừ phi cha mẹ
ruột hoặc vợ con xảy ra chuyện lớn, người chủ sự trong nhà không thể không trở
về thì mới dám nhắc đến chuyện rửa tay chậu vàng. Sau đấy, thủ lĩnh phái người
điều tra đích thực có chuyện như vậy, mới có thể cho y rút hương, bằng không
giết chết không tha. Tuy Trương Tam Gia thân phận khác thường, nhưng vẫn không
tránh khỏi những lễ tiết này, trước tiên phải trần thuật lý do rút hương trước
mặt thủ lĩnh.
Trương Tam Gia bẩm rõ
nguyên do muốn rút hương rời khỏi đảng cướp, không ngoài những câu như bệnh cũ
quấn thân, lại có vợ con nheo nhóc vướng bận, khó thể làm những việc giết người
cướp hàng được nữa, cúi mong tổ sư gia và thủ lĩnh giơ cao đánh khẽ, cho đệ tử
được toàn thân rút lui!
Thủ lĩnh nghe xong vội
đỡ Trương Tam Gia dậy, cười xòa nói: “Chúc mừng Tam ca rửa tay chậu vàng, dũng
cảm thoái lui giữa dòng nước xiết là việc đáng quý vô cùng, Hắc bạch lưỡng đạo
tren thế gian này, bên nào cũng là nước sôi lửa bỏng, có thể cầm cự đến ngày
hôm nay cũng thật không dễ dàng gì, có câu rằng… gió mây thường đến hội, tụ tán
chẳng có kỳ, rút hương rời bọn, nhưng nghĩa khí vẫn còn lưu.”
Vậy là Trương Tam Gia
cùng thủ lĩnh bước tới trước ban thờ, đứng bên cạnh lò hương, miệng lầm bầm
khấn: “Tinh tú đầy trời rải bốn phương, núi cao Thường Thắng ở chính giữa; lưu
lãng giang hỗ mấy chục năm, nhiều phần nhờ các huynh đệ chiếu cố; hôm nay tiểu
đệ phải rời đi, khẩn thỉnh các huynh đệ khoan dung; tiểu đệ về nuôi mẹ già,
nhưng vẫn cùng các huynh đệ đồng mệnh tương liên; binh đến tướng đến, đệ truyền
báo; có nước có lửa đệ thông tri; dưới có hoàng thổ trên có trời, đệ và các
huynh chung một thuyền; chùy sắt vỡ răng miệng không khai, dao thép cắt gan tâm
không đổi; tiểu đệ có sai một lời, ngũ lôi oanh đỉnh diệt toàn gia; xin chúc
sao Khôi tụ kim quang, hương hỏa Thường Thắng át Côn Luân, thế thiên hành đạo
mãi lưu truyền.”
Trong đạo lục lâm, bất kể
ai rút hương, đều phải khấn bài này, nói nhà mình có mẹ già phải phụng dưỡng là
lấy cớ “trăm việc thiện, hiếu đứng đầu”, dẫu có viện cớ bằng trời, củng không
thể ngăn cản người tận hiếu đạo được. Tuy Trương Tam Gia từ nhỏ cô khổ, không
cha không mẹ, nhưng vẫn phải khấn đúng nguyên văn, không thể sửa chữa mảy may,
vả lại trong quá trình khẩn không thể sai sót một chữ, cũng không được dừng lại
nửa chừng để ngẫm nghĩ, bằng không ắt bị coi là trong lòng hổ thẹn, ý đồ bất
chính, đám đạo tặc xung quanh sẽ lập tức nhao lên loạn dao phân thây, băm kẻ
tụng niệm kia thành tương thịt.
Toàn văn bài khấn tổng
cộng có mười chín câu; khấn một câu lại nhổ một cây hương, khi Trương Tam Gia
khấn xong, hương trong lò cũng đã nhổ hết. Lúc này, thủ lĩnh lập tức chắp tay
ôm quyền chúc mừng: “Tam ca đi mạnh giỏi, khi nào nhớ nhà thì quay lại uống
chén rượu.” Đến đây coi như xong lễ từ nay trở đi Trương Tam Gia không còn liên
can gì đến những sự vụ của đạo lục lâm nữa. Mọi người xung quanh cùng bước lên
chúc mừng, bên ngoài trang viện pháo nổ rầm trời, trống nhạc tưng bừng, người
hầu kẻ hạ lập tức bày tiệc lên, nhất thời rượu thịt ê hề, ly chén chạm nhau,
chủ khách đều vui vẻ.
Trong tiệc, đám cường
đạo lục lâm đang chén chú chén anh, chợt có người đề nghị: “Hôm nay là ngày
Trương Tam Gia nhổ hương rời đảng, các lộ hào kiệt đều tụ tập về đây, trên bàn
toàn là rượu ngon thức hiếm, thật thống khoái vô cùng, hiềm nỗi không có thứ gì
để đưa rượu, thế này gọi là chỉ sướng mà chưa vui, khó lòng tận hứng. Giới lục
lâm chúng ta toàn bọn hán tử thô lỗ, tu mi trượng phu, cũng không thể học theo
bọn vản nhân mặc khách chơi trò “hành tửu lệnh”, thế thì nên thế nào đây? Tiểu
tử cả gan, xin được mời các vị cao nhân trong tiệc kể lại những sự đắc ý bình
sinh của mình cho mọi người, hễ nói đến chỗ kỳ dị, vũ dũng, hay người thường
không bì được, chúng ta lại uống một bát lớn để tán thưởng”.
Cả đám đều nhao nhao
khen phải, Trương Tam Gia vốn là người thoải mái, ông hiểu rõ đám này muốn
tranh thủ cơ hội nghe chuyện của mình năm xưa, đương khi cao hứng, sao có thể
chối từ, bèn ngồi giữa bàn tiệc kể chuyện. Có điều, Trương Tam Gia đeo bùa Mô
Kim là chuyện bí mật, không tiện thổ lộ trước chốn đông người, nên chỉ ngắt đầu
bỏ đuôi, kể cho cả bọn nghe mấy sự việc kỳ hiểm mình từng trải trong đời.
Trương Tam Gia là hậu
duệ danh môn, sau khi gia tộc suy vong, từ nhỏ đã phải lưu lạc nơi hẻo lánh,
thời thiếu niên tham gia phá giải mấy vụ kỳ án, nhờ dẹp giặc ở Giang Nam mà
thành danh, về sau làm quan, từng đánh trận với quân Thái Bình, đàn áp khởi
nghĩa nông dân ở vùng An Huy, Giang Tô, đi theo Tả đại nhân trấn áp phiến loạn
Tân Cương, cuộc đời nhiều lần qua lại chốn sa trường, tung hoành nơi chiến địa,
kỳ ngộ nhiều không kể xiết.
Sự tích của Tam Gia, tùy
tiện kể chuyện nào cũng đều là, “nói ra làm trăng sao lu mờ, cất tiếng khiến
sông ngòi chảy ngược” làm cả bọn nghe như say như mê. Ông kể xong, lại dựa theo
thân phận và lai lịch, lần lượt mời mấy vị tiền bối giảng giải sự tích của
mình, đám cường đạo này tung hoành Nam Bắc, qua lại vạn dặm, ngoài giết người
phóng hỏa ra còn làm không ít vụ đố đấu quy mô lớn. Trải nghiệm của bọn họ đều
khiến người nghe rởn cả tóc gáy, người trong giới lục lâm lại rất thích khoe
khoang những sự tích hào kiệt của mình, thật đúng là người nói mặt mày rạng rỡ,
người nghe thần hồn điên đảo, trong tiệc không biết đã dốc cạn bao nhiêu vò
rượu, mọi người say sưa sảng khoái, uống từ chập tối đến tận sáng hôm sau mới
say khướt ra về.
Trương Tam Gia mất hơn
một tháng mới thu xếp xong xuôi mọi việc ở hai giới hắc bạch, bấy giờ mới dẫn
theo gia quyến trở vé quê cũ. Ông còn phải tháo bỏ bùa Mô Kim trước thần vị tổ
sư, sau này không làm Mô Kim hiệu úy nữa.
Trên thế gian này chỉ
còn lại ba lá bùa Mô Kim, là vật truyền từ đời này sang đời khác, theo lệ cổ,
không đeo bùa không được đổ đấu. Trương Tam Gia có một trai một gái, ngoài ra
còn bốn đệ tử. Trừ người con gái không tính, tổng cộng có năm sư huynh đệ. Nhà
họ Trương đều là cao thủ phong thủy, đương thời người đủ tư cách đeo bùa này,
không ngoài Trương Tam Gia và đám đệ tử của ông, nếu nói rộng hơn, thì cũng
không đủ mười người.
Có điều, bùa Mô Kim chỉ
có ba lá, rốt cuộc nên truyền cho ai cũng phải lao tâm khó tứ suy nghĩ một phen.
Bốn người đệ tử của
Trương Tam Gia, người nào cũng có chỗ hơn người, một là Liễu Trần trưởng lão
sau này xuất gia đi tu ở chùa Vô Khổ, năm ấy Liễu Trần trưởng lão vẫn chưa
xuống tóc, nhưng không dùng tên thật trong giới lục lâm, không ai biết được
danh tính tục gia của ông là gì. Người này từ nhỏ đã là một tên đại đạo có tài
phi thiềm tẩu bích, biệt hiệu “Phi thiên thần châu”, chưa một lần thất thủ,
khinh công leo trèo cực kỳ xuất chúng, Tầm long quyết và thuật Phân kim định
huyệt đã học hết chân truyền của Trương Tam Gia. Liễu Trần tính nóng như lửa,
thích quản chuyện bất bình trong thiên hạ, có lòng tế thế cứu nhân.
Một người nữa là Kim
Toán Bàn, xuất thân trong nhà buôn bán, hiểu được các loại kỳ môn ám khí, con
người tinh minh láu lỉnh, nhưng lại có một tấm lòng chính trực hiếm có, chỉ tội
quá đỗi tự cao, không để người thường vào trong mắt, chiếc bàn tính bằng vàng
ròng không bao giờ rời tay, trên hạt bàn tính và khung giá đều khắc chi chít
các ký hiệu Thiên can Địa chi. Chiếc bàn tính này của y không dùng để tính, mà
để suy diễn thuật số Ngũ hành, chiêm nghiệm phương vị bát môn. Kim Toán Bàn và
Trương Tam Gia quen biết từ xưa, giao tình bất phàm, nửa là sư đồ, nửa là bạn
bè.
Người thứ ba là âm Dương
Nhãn Tôn Quốc Phụ, vốn là con cháu thế gia, khi sinh ra đã có một đôi mắt âm
dương, từ nhỏ đã “nhìn được quỷ thần”, vì vậy bị đuổi khỏi nhà, lưu lạc bốn
phương, về sau Trương Tam Gia gặp phải, bèn thu làm đồ đệ. Người này trạch tâm
nhân hậu, đầy bụng kinh luân, lại tương đối truyền thống thủ cựu, tuy học được
một thân bản lĩnh nhưng không thích làm chuyện đổ đấu kiếm tiền, xưa nay chưa
từng tham dự hành động tụ nghĩa chia tài nào trong giới lục lâm, vì vậy đi tới
đâu cũng đều dùng chân danh thực tính.
Người nhỏ nhất, là đệ tử
quan môn của Trương Tam Gia, có biệt hiệu Cối Xay Sắt, tu luyện ngạnh công Thập
Tam Thái Bảo Hoành Luyện, từng làm thảo khấu, cũng từng tham gia khởi nghĩa
nông dân, hồi trước đã giết người vô số, nhưng Trương Tam Gia nói tính khí của
y rất giống với một người huynh đệ năm xưa của mình, lại xét thấy y thủ đoạn
cao cường, làm người thành thực, mới thu vào làm môn hạ.
Hôm ấy, Trương Tam Gia
gọi đệ tử và con cháu đến trước ban thờ, đặt ba lá bùa Mô Kim lên khay ngọc,
nói với mọi người: “Chọn ngày không bằng gặp ngày, hôm nay ta sẽ truyền lại bùa
Mô Kim. Trong thiên hạ không có bữa tiệc nào không tàn, dù lấy được bùa hay
không lấy được bùa, kể từ hôm nay, các con sẽ phải tự lập môn hộ, dựa vào bản
lĩnh của mình mà xông pha bên ngoài. Nhưng có một điều, kẻ nào học Tầm long
quyết và thuật Phân kim định huyệt của Mô Kim hiệu úy mà không đeo bùa Mô Kim
đi đổ đấu, một hai lần có lẽ còn may mắn nhặt được cái mạng về, nhưng đã phạm
phải lệ cổ, sớm muộn cũng không tránh khỏi kiếp số, các con nếu không nghe lời
này của sư phụ, tới khi đại họa giáng xuống đầu, chớ trách kẻ làm thầy này
không nói rõ từ trước.”
Con cháu đệ tử đều biết
Trương Tam Gia là nhân vật thông tuệ cái thế, lời đã nói ra không bao giờ sai,
đương nhiên không dám không nghe, đều nhất loạt bước lên quỳ lạy, nói: “Ba lá
bùa Mô Kim truyền cho ai, đều do sư phụ làm chủ, đệ tử không dám hai lời.”
Trương Tam Gia gật gật
đầu, tuy kể cả con trai thì ông có năm đệ tử, song kỳ thực trong lòng sớm đă
định đoạt sẽ truyền bùa Mô Kim cho ai rồi. Trước tiên, ông bảo con trai mình
lùi ra bên ngoài. Thì ra, bí thuật Mô Kim này truyền thừa nghìn năm nội quy cực
nhiều, bùa thật không truyền cho hậu nhân trong nhà chính là một trong số đó.
So với đám trộm mộ dân
gian không có phép tắc gì, quy định này xuất phát từ việc đổ đấu trộm mộ kiếm
lợi là hành vi cực kỳ tổn âm đức, mặc dù Mô Kim hiệu úy trộm mộ lấy báu vật hầu
hết đều để tế thế cứu dân, nhưng những thứ châu báu ấy đa phần không phải phàm
vật, một khi lộ diện trên đời, nhất định sẽ dân đến minh tranh ám đấu, truy đến
tận cùng thì người đổ đấu đào mộ lấy báu vật ra cũng phải gánh tội nghiệt không
nhỏ, bởi vậy mới có câu “làm một đời, nghỉ ba đời”. Tính từ đời con trai Trương
Tam Gia, thì tới đời chắt của ông cũng không thể đeo bùa Mô Kim làm nghề đổ
đấu, bằng không ắt sẽ bị trời phạt, đoạn tử tuyệt tôn, tan cửa nát nhà.
Cùng là người làm nghề
trong xã hội cũ, nghề mổ lợn xưa cũng có cách nói như vậy. Ở phủ Tế Nam tỉnh
Sơn Đông, đã có truyền thuyết đồ tể bị báo ứng, nhưng không phải chuyện đồn đại
trong dân gian bình thường, mà rất đáng tin. Vì những nghề này đều là tổ tiên
truyền xuống, chỉ truyền cho nam không truyền cho nữ, làm bao nhiêu đời đồ tể
đều có ghi chép rất rõ ràng.
Phàm là đồ tể, cứ cách
ba đời lại có một đời không thể làm đồ tể, tuy cũng phải học lấy tay nghề của
đời cha ông, nhưng không thể tự lập môn hộ, giết mổ súc sinh. Nghe nói, quy tắc
này là vì lo người sát sinh quá nhiều, sợ tuyệt hậu, nhưng nguyên nhân có phải
vậy hay không đến giờ không ai nói rõ được. Tóm lại, cứ ba đời, ắt phải có một
đời không thể giữ lấy nghiệp tổ, mà phải học nghề khác mưu sinh, đợi đến đời
sau mới có thể tiếp tục làm đồ tể.
Nhà họ Mễ đời đời làm
nghề giết mổ dê lợn, truyền đến đời “Mễ đồ tể” liền phạm vào đại kỵ, nghề giết
mổ truyền đến đời y, theo lệ cũ vốn không thể động đến đao đồ tể nữa, nhưng y
không hề để chuyện này trong lòng, vẫn cứ giết lợn mở tiệm thịt bình thường.
Một hôm, trời còn chưa sáng Mễ đồ tể đã thức dậy để giết thịt một con lợn nái,
một mình y vào phòng giết mổ thắp đèn, vật con lợn nái xuống đất, tiện tay lần
mò mạch máu trên cổ, rút đao định chọc tiết luôn. Nào ngờ con lợn kia đột nhiên
cất tiếng, nói bằng tiếng người: “Tôi lẽ ra đến mười lăm tháng Năm mới chết,
hôm nay mới mười bốn, ngày giờ không đúng, sao ông dám giết tôi ”.
Gan kẻ làm đồ tể không
phải người thường có thể sánh được, vả lại Mễ đồ tể dậy quá sớm, mắt mũi kèm
nhèm, còn tưởng mình nghe lầm, lại nghe thấy lợn nói tiếng người, bèn chẳng
nghĩ ngợi gì nhiều, vung đao chọc tiết luôn, mặc cho con lợn nái eng éc giãy
giụa, cũng không buồn mảy may động lòng.
Nhưng đến ngày hôm sau,
chính là mười lăm tháng Năm, Mễ đồ tể vẫn dậy sớm giết lợn, không ngờ hôm nay y
càng mệt mỏi hơn, đến đèn cũng chẳng buồn thắp, đằng nào cũng đã quen tay, lần
mò trong bóng tối vẫn làm được. Có điều, lần này không nghe thấy con lợn bị
giết kia nói chuyện, lúc giết mổ cũng rất thuận lợi, tựa hồ không phí chút sức
lực nào, đến lúc cạo lông, Mễ đồ tể vẫn còn thắc mắc: “ừm, lạ thật, con lợn bị
chọc tiết hôm nay sao không thấy kêu la gì nhỉ ? Mà... mà chân lợn sao ít lông
thế, trơn nhẵn bóng loáng, sờ cứ mềm mềm như chân gái ấy...”
Nghĩ tới đây, Mễ đồ tể
giật mình sực tỉnh, nhận ra mình không hề vào phòng giết mổ mà đang ngồi trong
nhà, trên giường dưới đất be bét máu tươi, trên tay y cầm một cái đùi đàn bà
trắng toát như tuyết. Mỗ đồ tể lập tức ba hồn rời xác, bảy vía thăng thiên,
không dám tin thảm cảnh trước mắt là thật, không ngờ trong lúc mộng du y đã coi
vợ mình như con lợn, tự tay xẻ ra làm tám mảnh, máu tươi khắp nhà vẫn còn nóng
hôi hổi. Kết quả, ngay ngày hôm ấy Mễ đồ tể treo cổ tự vẫn, trước lúc chết còn
dùng máu tươi viết lên tường mấy chữ lớn: “Ngày giờ không đúng.”
Chuyện này nói là lời
đồn đãi ở chốn thôn quê cũng tốt, mà là sự tích chân thực cũng được, tóm lại
những kẻ dựa vào tay nghề kiếm cơm, đều thà tin là có, chớ ngờ là không, vì vậy
Trương Tam Gia không muốn để con trai mình làm Mô Kim hiệu úy nữa. Như vậy,
người có thể đeo bùa, chỉ còn lại bốn đệ tử của ông. Trong bốn người này, âm
Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ là tú tài không đội mũ quan, căn bản không muốn làm
nghề đổ đấu mà cam tâm tình nguyện làm một số việc tầm thường mưu sinh, hoặc mở
trường dạy học, hoặc xem bói chọn đất, tìm nơi xây nhà xây mộ cho người ta, dù
sao thì người này đa tài đa nghệ, không lo vô kế sinh nhai.
Trương Tam Gia thấy âm
Dương Nhãn tâm ý đã quyết, bèn lấy ra một cuốn sách, sách này tên gọi Thập lục
tự âm dương Phong thủy bí thuật, ghi chép lại tỉ mỉ tất cả sở học bình sinh của
Trương Tam Gia.
Mô Kim bí thuật kỳ thực
chính là một phân chi của Dịch, quẻ cổ Chu Thiên tổng cộng có mười sáu chữ,
truyền tới hậu thế chỉ còn lại tám quẻ, tám quẻ này lại phân thành Tiên thiên
bát quái và Hậu thiên bát quái. Tương truyền, Tiên thiên bát quái do Phục Hy
đại đế có được từ hình vẽ trên mai rùa, Hậu thiên
bát quái là của Chu Văn
Vương suy diễn, kỳ thực đều là do người đời sau nghĩ ra, trên thực tế, hai thứ
này khác nhau không lớn, đều thuộc Thiên quẻ lấy “long” làm tượng, vì vậy Chu
Dịch giải quẻ hẳn thuộc về Long quẻ. Trong các hào của Bát quái này, tuy có cả
tượng hưng vong, nhưng xét kỹ ra, đều là số chấn hưng, vì vậy Kinh Dịch từ
thiên mở đầu đến thiên kết thúc, đều nói về Càn nguyên thiên đạo.
Còn tám quẻ đã thất
truyền từ thời Tây Chu kia, lại thuộc vẻ quẻ m, đa số đều lấy “phượng” làm
tượng, người xưa cho rằng quẻ cổ quá chu toàn, đã phát hiện hết thảy mọi bí ẩn
trong trời đất, như vậy ắt sẽ bị quỷ thần đố kỵ, dẫn đến việc chẳng lành, bèn
hủy đi một nửa của mười sáu quẻ, từ đây không còn lưu tồn trên chế gian nữa.
CHƯƠNG 69: VẬT CỰC TẤT PHẢN
Trương Tam Gia từng trộm
mộ cổ thời Tây Chu, từ đó tìm được quẻ tượng Chu Thiên đầy đủ, nên đã dùng quẻ
cổ mười sáu chữ làm mồi dẫn, đưa thuật phong thủy âm dương vào trong, viết nên
một cuốn Thập lục tự âm dương Phong thủy bí thuật trong đó thuật âm dương và
phong thủy mỗi bên chiếm một nửa, thiên âm dương nói về chiêm đoán thuật số, lý
lẽ của tạo hóa, còn thiên Phong thủy thì nói vể thuật thanh ô, đạo phong
thủy... chỉ nửa quyển này đã bao hàm Tầm long quyết và thuật Phân kim định
huyệt của Mô Kim hiệu úy, đổng thời tập hợp mọi tục lệ, quy chế mai táng của
các triều đại ở Trung Quốc, có thể nói là “nghiên cứu mọi lẽ của trời đất, tự
thành ngôn luận một nhà”.
Ở trước mặt bốn người đệ
tử, Trương Tam Gia xé đi một nửa của Thập lục tự âm dương Phong thủy bí thuật,
chỉ để lại nửa quyển về bí thuật Phong thủy, còn phần bí thuật âm dương thì bỏ
vào chậu lửa đốt thành tro. Mấy người đều nghi hoặc khó hiểu, bèn xin sư phụ
chỉ giáo tận tường, cuốn thiên thư này ảo diệu khôn cùng, tại sao lại hủy đi ?
Từ nay trên đời há chẳng phải không còn quẻ cổ Chu Thiên nữa hay sao?.
Trương Tam Gia cười nói:
“Đất ruộng cấy cày, đường thủy đi thuyền, đầu người không thể mọc ra cây trái,
đây đều là đạo trời, hưng vong tạo hóa trên thế gian xưa nay đều đã có định số,
nhưng mấy ai nhìn thấu được bí ẩn bên trong? Chi có thể nói rằng từ thuở hồng
hoang đã thế, hoặc có tiên, tóm lại là người thế tục như chúng ta không nên
biết. Thiên cơ này tuy thâm ảo vi diệu, nhưng lưu lại trên thế gian lại gây họa
cho người không ít nên thiêu hủy đi mới là chính đạo.” Nói xong, ông đưa nửa
quyển tàn thư còn lại cho âm Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ, dặn dò: “Bí thuật phong
thủy của Mô Kim hiệu úy thâm diệu vô cùng, đã thăm dò hết ba đại long mạch từ
Nam chí Bắc, lưu lại nửa quyển tàn thư này trên thế gian, tương lai biết đâu
vẫn còn đất dụng võ, con phải giữ gìn cho tốt, chớ nên để thất lạc”.
Dương Nhãn Tôn Quốc
Phụ vội vàng quỳ lạy cảm tạ ân đức của sư phụ, nuốt nước mắt thu nhận cuốn tàn
thư, từ đó rời khỏi sư môn đi xa. Cuối cùng, Trương Tam Gia nói với ba người
Liễu Trần, Kim Toán Bàn, Cối Xay Sắt, xem ra bùa Mô Kim sẽ rơi vào tay các con
rồi. Hôm nay không phải ngày lành, đợi qua giờ Tý, bái lạy tổ sư gia xong, sẽ
tiến hành nghi thức đeo bùa.
Đêm hôm đó, Trương Tam
Gia dẫn ba đồ đệ ra nhà sau, bảo họ quỳ xuống, dập đầu, dâng hương trước tượng
tổ sư Tào công, rồi truyền cho mỗi người một lá bùa Mô Kim.
Sau đấy, còn phải truyền
quy tắc hành nghề, khí giới, và các chuyện xưa tích cũ. Trước tiên, Trương Tam
Gia hỏi ba người bọn Kim Toán Bàn, có biết tại sao từ xa xưa nghể đố đấu đã tồn
tại trên đời hay không?.
Ba sư huynh đệ Kim Toán
Bàn cũng là hạng lăn lộn giang hồ đã lâu, kiến văn quảng bác, hiểu rõ tận tường
các ngành các nghề, các tục lệ chốn thôn quê, nghe sư phụ hỏi vậy, liền lần
lượt trả lời:
Trong thiên hạ có tam
giáo cửu lưu, tam giáo là “Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo”, cửu lưu là chỉ chín
giai tầng, trong đó lại phân ra thượng cửu lưu, trung cửu lưu và hạ cửu lưu.
Trong tam giáo cửu lưu có rất nhiều ngành nghề mưu sinh, tổng cộng có khoảng
hơn ba trăm sáu mươi ngành nghề.
Thượng cửu lưu, chính
là, nhất lưu Phật tổ, nhị lưu tiên, tam lưu hoàng đế, tứ lưu quan, ngũ lưu viên
ngoại, lục lưu thương, thất lưu cầm đồ, bát lưu thợ, cửu lưu nông phu, đây đều
là những nghề nghiệp chính đáng. Trung cửu lưu là nơi tập trung khá nhiều các
nghệ nhân thủ công, còn hạ cửu lưu, chính là hạng con hát, ca nhi, kỹ nữ.
Trong tam giáo cửu lưu
diễn sinh ra mấy trăm nghề nghiệp, vốn không có nghề đổ đấu. Đổ đấu thuộc về
tám nghề ngoài. Tám nghề ngoài, gồm có kim điếm, ăn mày, cướp đường, trộm cắp,
đổ đấu, đi núi, dẫn lửa, gánh nước, gọi chung là “ngũ hành bát gia”. Kỳ thực,
nếu xét kỹ, trong đây có mấy ngành nghề đều có thể coi là “nghề trộm cướp”,
nhưng trong tám nghề ngoài lại tách ra để tính, chẳng hạn như cướp đường là cướp
trắng trợn ngoài ánh sáng, vì vậy không thể gộp chung với hạng phi tặc trộm
cướp trong bóng tối được.
Nghề đổ đấu, chiếm chữ
“thổ” trong ngũ hành, theo lý cũng thuộc nghề trộm cướp, không khác gì cướp
đường hay phi tặc, chỉ khác là làm chuyện trộm mộ mò vàng. Nói lên cao thì đổ
đấu coi như cướp kẻ giàu chia người nghèo; nói xuống thấp thì là kiếm tiền của
người chết, làm việc tổn hại âm đức, một cao một thấp, khác nhau một trời một
vực.
Mô Kim hiệu úy đương
nhiên không thể so với hạng trộm vặt, xưa nay đều chỉ trộm lấy các thứ kỳ trân
dị báu cứu tế người cùng khổ, xứng với bốn chữ “trộm cũng có đạo”, thanh danh
trên thế gian xưa nay rất tốt. Chì vì từ xưa người nghèo nhiều, người giàu ít,
người giàu quá giàu, người nghèo quá nghèo, vì vậy mới có mấy nghề trộm cướp
trong tám nghề ngoài, chuyên làm việc thay trời hành đạo.
Trương Tam Gia lắc đầu
nói, các con nói nghề đổ đấu này là thế thiên hành đạo, nhưng lại hiểu lầm ý
của hai chữ “thiên đạo” Mô Kim đổ đấu cũng không phải là như vậy. Người ở trên
đời này có giàu có nghèo, giàu có cũng được, bần hàn cũng xong, đây đều là số
mệnh đã định sẵn, cần gì đến đám cường đạo phi tặc thay trời hành đạo ? Đây
chẳng qua chỉ là cái cớ để họ giết kẻ giàu sang cướp lấy tiền tài mà thôi.
Đổ đấu là việc trộm mồ
quật mả người ta, tại sao lại có người lấy nó làm nghiệp mưu sinh? Chỉ vì các
triều các đại đều coi trọng việc hậu táng, bất cứ sơn lăng mộ cổ nào, từ ngày
khởi công xây dựng, đã tiêu phí không biết bao nhiêu máu và mồ hôi của dân
chúng, không chỉ báu vật bồi táng nhiều không kể xiết mà còn phải giết người
chôn sống tuẫn táng theo, cả những người thợ xây lăng cũng khó thoát họa diệt
khẩu.
Phải biết, thiên đạo
khoan dung, trời cao có đức hiếu sinh, dù mộ chủ ấy lúc sống là minh quân khai
quốc hay bậc hiền tài cứu thế, chỉ cần lúc chết, làm việc mai táng quá đỗi xa
xỉ, tất sẽ tổn hao phúc đức; thêm nữa, nơi xây mộ đa phần đều chọn đất báu
phong thủy, chiếm lấy long mạch của thiên địa làm của riêng, cũng coi như phạm
vào điều kỵ của quỷ thần, thiên đạo xưa nay đều không phù hộ cho hạng ấy.
Nghề đổ đấu này, chính
là ứng vào thiên lý tuần hoàn, bất kể sơn lăng mồ mả chôn sâu giấu kỹ tới mức
nào, sớm muộn “Cũng sẽ gặp họa đổ đấu, ăn miếng trả miếng, đây chính là nguyên
tắc của lẽ trời. Vì vậy, đồ đấu mò vàng không đơn giản chỉ là đào trộm mộ cổ;
cướp của người giàu chia cho kẻ nghèo, mà cũng ngầm hợp với lẽ hưng phế trong
đại đạo.
Cũng như nước Đại Thanh
này của chúng ta vậy, thời Khang Hy Càn Long tại vị, nước mạnh dân giàu thịnh
thế nhường nào, vậy mà giờ đây thù trong giặc ngoài, ngổn ngang trăm mối, mắt
thấy sắp diệt đến nơi rồi. Có câu, vật cực tất phản, có lúc hưng vượng tự nhiên
cũng có khi suy vong, xét cho cùng, đều là một chữ “mệnh”.
Ba sư huynh đệ Kim Toán
Bàn đều biết sư phụ Trương Tam Gia tài học bao la vạn tượng, không ngón nghề
nào không tinh thông, còn sở trường chiêm bốc bói toán, đối với những lời này
của ông chỉ thấy tựa hồ có thâm ý, nhưng nhất thời vẫn chưa thể hoàn toàn lĩnh
ngộ, đành quỳ dưới đất cung kính lắng nghe.
Kế đó, Trương Tam Gia
lại kể vế khởi nguyên của Mô Kim hiệu úy, cuối cùng nói tới các loại quy tắc,
sự tích trong nghề. Ông nói, Mô Kim hiệu úy xưa nay không phân biệt sư đồ, ta
truyền cho các con Tầm long quyết và thuật Phân kim định huyệt, đấy là thầy dạy
cho trò, nhưng khi đeo bùa Mô Kim cùng đi đổ đấu thì không thể coi là thầy trò
hay sư huynh đệ nữa, mà chỉ có thể coi là những kẻ đem tính mạng ra buộc chung
với nhau, cũng chính là đồng bọn. Ba huynh đệ các con sau này ra ngoài đổ đấu,
một là không thể phạm vào quy tắc của nghề, hai là không được tham luyến danh
lợi, làm nhục thanh danh của Mô Kim hiệu úy; ba là phải chiếu cố lẫn nhau,
chuyện lớn chuyện nhỏ đều phải thương lượng kỹ càng.
Sở dĩ dặn dò như vậy, là
vì Trương Tam Gia rất hiểu mấy đệ tử này, mỗi người đều có sở trường sở đoản
riêng. Liễu Trần từ nhỏ đã được tẩy cân hoán cốt, giỏi thuật khinh công, có thể
phi thiềm tẩu bích, thủ đoạn Mô Kim lại càng cao cường, nhưng tâm tính từ bi,
ra tay không cứng rắn, có phần quá rộng lượng khoan hòa, hành sự không thể
quyết đoán kịp thời, đây là đại kỵ trong nghề trộm mộ.
Còn Cối Xay Sắt cũng có
một thân bản lĩnh, gan lớn hơn trời, không sợ quỷ thần, luận giết người cướp
hàng thì y là bậc hành gia, nhưng khí chất của kẻ làm giặc cướp quá nặng nề,
tính tình hơi tí là bốc lên, làm việc tương đối cẩu thả, thực là một mối họa.
Kim Toán Bàn tinh thông
dịch lý ngũ hành, là cao thủ trộm mộ, lại hiểu được các loại phương vật kỳ dị
trên thế gian, tuy rằng tâm cơ nhanh nhạy, cẩn thận chu toàn, nhưng thân thủ
lại không giỏi. Một thân công phu như Liễu Trần hay Cối Xay Sắt kia, không phải
những kẻ nửa đường xuất gia như y có thể luyện ra được, muốn học nhảy cao, nhất
thiết phải tắm trong chậu thuốc đun nóng từ năm ba tuổi, còn ngạnh công phu thì
trễ nhất cũng phải bắt đầu luyện từ năm sáu tuổi. Kim Toán Bàn này xuất thân
trong nhà thương lái, từ nhỏ đã sống trong nhung lụa, chưa từng khổ công luyện
tập bao giờ.
Vì vậy, Trương Tam Gia
mới bảo họ ba người kết thành đồng bọn, lấy sở trường bù cho sở đoản, chớ nên
đơn độc hành sự. Sau đó, liền đem xẻng sắt, móng lừa đen, ô Kim Cang... nhất
loạt truyền lại, để ba đồ đệ nhớ kỹ sáu chữ “hợp thì sống, chia thì chết”.
Sau khi Trương Tam Gia
dặn dò hết những chuyện này, ba người bọn Kim Toán Bàn coi như đã là Mô Kim
hiệu úy danh chính ngôn thuận, từ nay trở đi, ba người sẽ kết thành đồng bọn
cùng đi đổ đấu. Sáng sớm hôm sau, Kim Toán Bàn dậy rất sớm, không rủ theo hai
sư huynh đệ kia, mà một mình đến thỉnh an sư phụ.
Thì ra, Kim Toán Bàn vẫn
luôn thắc mắc tại sao sư phụ lại hủy đi một nửa Thập lục tự âm dương Phong thủy
bí thuật, chỉ truyền cho âm Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ một quyển tàn thư, nên muốn
hỏi rõ ràng trước khi rời núi. Vì chuyện này chắc chắn không đơn giản như
Trương Tam Gia giải thích lúc đó.
Trương Tam Gia đang uống
trà, nghe Kim Toán Bàn hỏi tới chuyện này, không trả lời ngay mà hỏi ngựợc lại
xem Kim Toán Bàn nghĩ thế nào.
Kim Toán Bàn nửa đùa nửa
thật nói, tính sư phụ thế nào, đệ tử hiểu quá rồi, xưa nay người nổi tiếng hào
sảng, là bậc hào kiệt trong giới thảo mãng, ghét nhất là đám tiên sinh cổ lỗ
giọng điệu chua cay, chắc hẳn tên âm Dương Nhãn này không được sư phụ ưa thích,
nên chỉ truyền cho hắn nửa quyển tàn thư, để hắn vể cả ngày ôm lấy quyển sách
rách mà rầu rĩ, nghĩ vỡ đầu cũng không hiểu được sự ảo diệu trong nửa quyển còn
lại.
Trương Tam Gia tính tình
rộng rãi, quan hệ của ông với Kim Toán Bàn lại không phải tầm thường, nên cũng
không có gì giấu giếm y, liền nói thẳng: “Kỳ thực, sư phụ cũng là kẻ rất cổ hủ
gàn dở, chẳng qua xưa nay chưa bao giờ giảng đạo thuyết pháp đấy thôi. Nhưng
nói thực, sư đệ âm Dương Nhân Tôn Quốc Phụ này của con đích thực không thích
hợp làm Mô Kim hiệu úy. Thập lục tự âm dương phong thủy bí thuật là tâm huyết
cả đời của ta, ngày ấy hủy đi một nửa, chỉ để lại nửa quyến tàn thư cho, cũng
là hy vọng tuyệt nghệ của Mô Kim hiệu úy chúng ta không bị thất truyền từ đây.
Đạo lý bên trong, Trương
Tam Gia đã nói từ trước, giờ lại giải thích kỹ càng. Căn nguyên của Mô Kim hiệu
úy là Dịch, đạo sinh sinh biến hóa gọi là Dịch, vì vậy trong Dịch chỉ nói
chuyện sinh, mà không nói chuyện khắc, vậy thế nào thì có thể “sinh”.
Sinh, một là chỉ sinh
tồn, hai là chỉ hưng vượng. Trương Tam Gia từng thấy được quẻ cổ Chu Thiên
trong mộ cổ thời Tây Chu, phát hiện cơ số ảo diệu khôn cùng, thêm vào đó, cả
đời ông nhiều lần gặp kỳ ngộ, học được rất nhiều bản lĩnh, bèn kết hợp lại viết
nên Thập lục tự âm dương Phong thủy bí thuật; trình bày hết thảy lẽ âm dương,
lý thuyết hình thế phong thủy trên đời vào trong đó, cũng có nghĩa là, thuật Mô
Kim phát nguyên từ thời Hậu Hán, truyền đến đời Trương Tam Gia, đã đạt đến một
đỉnh cao chưa từng có.
Nhưng quy luật phát
triển của sự vật trong trời đất, là có lên ắt có xuống, có hưng ắt có vong,
Trương Tam Gia thông hiểu quẻ cổ, đương nhiên hiểu rõ đạo lý này, cũng như vầng
dương giữa trời, tỏa chiếu vạn vật, nhưng qua chính Ngọ, ánh dương sẽ càng lúc
càng ảm đạm, dần dần khuất sau núi Tây; đến ngày mười lăm âm lịch, trăng tròn
lơ lửng, nhưng tiếp đó sẽ từ từ khuyết dần.
Lý lẽ biến dịch của tạo
hóa trong đạo trời, nói một cách đơn giản chính là vật cực tất phản, sự vật
phát triển đến một giai đoạn nhất định, thì sẽ đi về một cực khác, vậy làm sao
mới có thể khống chế sự suy thoái đây? Duy chỉ có cách duy trì trong trạng thái
tàn khuyết mà thôi. Đây chính là nguyên nhân mà Trương Tam Gia hủy đi nửa quyển
Thập lục tự âm dương Phong thủy bí thuật.
Mô Kim bí thuật tuy bắt
nguồn từ thời Hậu Hán, nhưng thật ra từ thời Chu đã có những khái niệm ban đầu,
trải qua mấy nghìn năm được các đời Mô Kim hiệu úy từng bước hoàn thiện, trong
thuật phong thủy cổ xưa dần dần dung hơp cả phong thủy thiên tinh, phong thủy
thiền tông, Bát trạch minh kính, phong thủy Hình thế tông Giang Tây... sinh ra
Tầm long quyết và thuật phân kim định huyệt là tập thành của các trường phái
phong thủy.
Đến khi Thập lục tự âm
dương Phong thủy bí thuật xuất thế, lại càng bao la quảng bác, bao hàm cả quẻ
cổ Chu Thiên, căn nguyên của bí thuật phong thủy, xét cứu vạn vật trong thiên
địa, thực xứng với danh kỳ thuật quỷ thần khó đoán, không thể tiến thêm một
bước nào nữa, đấy là điểm vật cực tất phản, từ nay trở đi, bí thuật Mô Kim chi
có thể dần dần suy vi mà thôi.
Vì vậy, Trương Tam Gia
hủy đi nửa quyển về bí thuật âm dương, chỉ lưu lại cho đời sau nửa quyển Thập
lục tự âm dương Phong thủy bí thuật hòng giúp các Mô Kim hiệu úy sau này còn có
cơ chấn hưng, tránh để từ sinh chuyển thành khắc, bị tạo hóa đố kỵ, đoạn tuyệt
danh hiệu Mô Kim hiệu úy.
Trương Tam Liên Từ biết
trộm mộ là nghề đem tính mạng ra liều, truyền nửa quyển Thập lục tự âm dương
Phong thủy bí thuật cho mấy người bọn Kim Toán Bàn đều không ổn, nên mới cố ý
giữ cho âm Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ, để người này truyền lại bí thuật phong thủy
của Mô Kim hiệu úy cho hậu thế, họa may tương lai còn có kì trùng hưng.
CHƯƠNG 70: KHỞI NGUYÊN
Kim Toán Bàn nghe xong
lấy làm tâm phục khẩu phục, khen thầm Trương Tam Gia đã nhìn thấu được vạn vật
trên đời. Ngày hôm ấy, y liền cùng Cối Xay Sắt và Liễu Trần cáo biệt sư tôn bắt
đầu bước lên con đường Mô Kim hiệu úy.
Bấy giờ, đang là buổi
loạn thế thay triều đổi đại, khắp nơi đều là thiên tai nhân họa, dân chúng phải
chịu cảnh khốn đốn, ba người trước tiên lên Mang Sơn ở Hà Nam mở hàng, liên
riếp trộm mấy ngôi mộ cổ, lấy những đó minh khí đáng tiền nhất ra bán đổi lấy tiền
và lương thực cứu tế nạn dân. Mấy vụ làm ăn này của họ đều thuận buồm xuôi gió,
từ đấy trở đi bắt đầu đi khắp Sơn Tây, Thiểm Tây, Hà Nam, Sơn Đồng, không biết
đã đào trộm bao nhiêu sơn lăng mộ cổ.
Từ xưa đã có câu “Mưu sự
tại nhân, thành sự tại thiên”, người sống ở đời, bất luận ngươi bôn ba nước lửa
ra sao, cuối cùng thành công hay không, rốt cuộc vẫn đều do ý trời. Gặp phải
vận tốt, thì thứ gì cũng mua bán được, việc làm ăn lên như diều gặp gió, không
có mộ nào không trộm được; còn như phải lúc thời vận suy vi, thì cũng rút nhanh
như nước thủy triều, đụng việc gì cũng lỗ vốn, phải đem cả tính mạng ra bù.
Thời vận có lúc lên lúc
xuống, không thể khi nào cũng thuận lợi như thế được, có một năm nọ, đến lượt
ba người bọn Kim Toán Bàn gặp vận rủi. Ba người nhắm được một ngôi mộ cổ ở gần
Lạc Dương, bèn nai nịt vào núi, không may đụng phải một trận chiến, lũ bại binh
tháo chạy khỏi chiến trường. Bại binh thế lớn, xua theo vô số nạn dân ùn ùn kéo
đến tràn cả vào trong núi, khiến ba huynh đệ Kim Toán Bàn bị lạc nhau.
Liễu Trần và Cối Xay Sắt
cứu một nhóm nạn dân, trốn vào mộ cổ trong rừng. Trong đám nạn dân ấy, có một
phụ nữ mang thai chờ sinh, trong lúc hỗn loạn đã làm động đến thai khí, khiến
đứa bé chui ra sớm. Chẳng ngờ, thai nhi này lại nằm ngược, mắt thấy sắp nguy
đến nơi, một xác hai mạng nằm lại giữa chốn hoang sơn dã lãnh.
Liễu Trần xưa nay tâm
địa nhân từ, làm sao nhẫn tâm nhìn người khác mất mạng trước mắt, ông nhìn ra
trong cụm mộ cổ này có một ngôi mộ khí thế sâm nghiêm, bèn xem xét địa mạch,
quan sát hình núi, đoán rằng trong mộ chắc chắn có suối Quan Tài, cũng chính là
nguồn suối ở trong chỗ đặt quan tài dưới lòng đất... dân gian có thuyết cho
rằng, đun sôi nước lấy ở suối Quan Tài có thể giúp sinh nở dễ dàng.
Liễu Trần và Cối Xay Sắt
bàn bạc, nhất trí rằng cứu người khấn cấp, bèn nhanh chóng rút xẻng Toàn phong,
đào bới như bay. Chỉ một nấm mộ đất, làm sao ngăn được hai cao thủ Mô Kim cùng
đào bới, chỉ thoáng sau họ đã thấy nắp quan tài. Chẳng ngờ, trong quan tài của
ngôi mộ nhà quê này lại ẩn giấu ám khí, hai người từng trải bao sóng to gió
lớn, nay lại lật thuyền trong mương rạch, Cối Xay Sắt bị cơ quan đánh trúng tử
huyệt, chết ngay tại chỗ.
Liễu Trần bây giờ mới
nhớ ra, năm xưa khi hạ sơn, sư phụ từng dặn đi dặn lại... “hợp thì sống, phân
thì chết”, giờ quả nhiên ứng nghiệm. Nếu như có Kim Toán Bàn ở đây, y tinh
thông thuật số Ngũ hành Bát quái, chắc chắn có thể nhận ta trong quan tài có cơ
quan, nhưng chỉ một ý nghĩ sai lầm đã gây thành họa lớn, giờ có hối hận cũng
không kịp nữa rổi. Về sau, Kim Toán Bàn đến tìm hai người đồng bọn, thấy Cối
Xay Sắt đã phơi xác tại trận, cũng tối sầm mặt mũi ngất đi, chỉ có thể nói là
người không nên tranh với số mệnh. Hai người Liễu Trần và Kim Toán Bàn than thở
một hồi, đoạn nuốt nước mắt hỏa thiêu thi thể Cối Xay Sắt, đem tro cốt bỏ vào
bình sứ.
Liễu Trần và Kim Toán
Bàn thương lượng, theo lời sư phụ : “hợp thì sống, phân thì chết” hai chúng ta
từ nay nếu còn tiếp tục đi đổ đấu, chắc cũng không có kết quả tốt đẹp gì, xem
ra không thể làm nghề này được nữa rồi.
Những năm này, Liễu Trần
đã nhìn hết mọi nỗi khổ của dân gian, tự thấy bản lĩnh của mình có cao mấy cũng
chẳng cứu tế nổi ức vạn thương sinh trong thiên hạ, biển khổ vô biên, quay đầu
là bờ, ông định treo bùa Mô Kim, mang theo bình tro cốt của Cối Xay Sắt tới
Giang Nam tìm ngôi chùa nào đấy xuất gia đi tu, ngày tháng sau này bầu bạn với
thanh đăng cổ phật, sám hối những chuyện đã qua.
Kim Toán Bàn không muốn
đi tu, lại không muốn tháo bùa, thầm nhủ, nếu không đổ đấu thì vẫn có thể theo
nghề cũ, tiếp tục làm thương nhân buôn hàng kiếm lợi, kiếm được tiền cũng có
thể phò nguy cứu khổ. Nghĩ đoạn, y bèn nói với Liễu Trần: “Một lá bèo trôi về
biến lớn, nhân sinh hà xứ bất tương phùng. Hôm nay chúng ta từ biệt, sau này
nhất định còn có ngày gặp lại, nếu huynh gặp phải phiền phức gì cần giúp đỡ, cứ
đến đội thuyền Hoàng Hà tìm đệ.”
Sau khi từ biệt ở khu mộ
cổ, Kim Toán Bàn quả nhiên chỉ hành nghề buôn bán ở lưu vực Hoàng Hà. Y vốn
xuất thân trong nhà thương lái, chuyện buôn bán qua lại đã cực kỳ thành thạo,
nhưng thiên tai liên miên bất tuyệt, việc làm ăn cũng không khá khẩm gì cho
cam, huống hồ ăn trộm lâu ngày thành nghiện, vả lại trong thiên hạ này làm gì
có nghề nào kiếm tiền nhanh bằng đổ đấu? Kim Toán Bàn cậy mình thông minh tuyệt
đỉnh, lại chứng kiến Hoàng Hà lũ lụt tràn lan, người chết đói chết trôi khắp
nơi, nên vẫn ngấm ngầm làm một vài vụ đổ đấu. Y hiểu đây là trò đem mạng ra đặt
cược, nhưng không thể không làm, trong lòng cũng hơi hoang mang, vì vậy mỗi lần
đều lên kế hoạch hết sức chu toàn, không chắc chắn vạn phần thì tuyệt đối không
ra tay.
Có một năm, Kim Toán Bàn
đi đánh hàng, ngồi thuyền xuống hạ du, bấy giờ gặp đúng lúc nước Hoàng Hà dâng
cao, dòng chảy cuổn cuộn, Kim Toán Bàn đang ngồi trên boong nói chuyện phiếm
với mấy khách thương, đột nhiên trời đất biến sắc, vầng dương trên không tựa
như mất hồn, chỉ còn lại một cái bóng tái nhợt, kế đó cả mặt trời cũng không
còn tăm tích, mấy đen từ khắp bốn phía đổ về, mặt sông nổi sương mù mờ mịt, còn
kèm theo những hạt mưa to như hạt đậu và mưa đá đổ xuống.
Chủ thuyền kêu than
không ngớt, thiên địa thất sắc, chứng tỏ con rồng già dưới thủy phủ kia bị kinh
hãi, đây là điềm Hoàng Hà sắp dâng lũ, vội vàng cho thuyền chạy về phía bến
cảng gần đó. Thuyền hàng đội cơn mưa sầm sập vừa dừng lại, nước lớn phía sau
liền ập đến, chỉ thấy trên thượng du sóng lớn đục ngầu, thế nước tựa hồ nối
liền với bầu không, chẳng thể nào phân biệt được đâu là nước lũ, đâu là trời là
đất nữa. Mưa rào, mưa đá giữa cơn cuồng phong, quyện lấy bùn đất dưới đáy sông,
rầm rập đổ xuống, cả thế giới như chìm vào một buổi hoàng hôn đen tối, thật
đúng là “Hoàng Hà dâng lũ đất trời tối, ba đào hồng thủy cuồn cuộn trôi”.
Kim Toán Bàn thấy mưa
lớn sầm sập, bốn phía càng lúc càng tối, biết rằng phen này gặp phải họa lớn,
dù có bản lĩnh bằng trời cũng chẳng kháng cự nổi uy thế của dòng Hoàng Hà đang
nổi giận. Y bỏ mặc hàng hóa chất đầy khoang, cùng mọi người nhảy xuống thuyền,
co cẳng chạy lên chỗ cao. Trong đám người chạy nạn ấy, có mấy kẻ chậm chân, lập
tức bị dòng nước đục ngầu cuốn đi mất, chết trong con nước, đến xác cũng chẳng
tìm về được.
Khi xưa, Trương Tam Gia
từng nói thân thủ của Kim Toán Bàn không ổn, nhưng còn phải xem là so sánh với
ai, đem so với Liễu Trần và Cối Xay Sắt thì y kém hơn rất nhiều, nhưng dẫu sao
cũng là tay lão luyện trong nghề mò vàng đổ đấu nhiểu năm, đem so với người
bình thường, Kim Toán Bàn cũng có thể xếp vào hàng rất nhanh nhẹn. Bị con lũ
đuổi dồn, Kim Toán Bàn chạy thục mạng trong mưa lớn, cuối cùng cũng lên được
một ngọn đồi cao.
Kim Toán Bàn chạy lên
được đồi cao, nằm rạp nhìn xuống dưới, chỉ thấy mây đen dần tan, bầu trời phía
xa xa tựa như một mảng bùn đất màu vàng đen, bên trong ẩn hiện những tia sáng
đỏ sẫm. Hoàng Hà đã nuốt trọn các thôn trang thuyền bè bên bờ với khí chế không
gì cản nổi, những người và trâu bò dê lợn bị nướclớn cuốn đi vùng vẫy nổi trôi
theo con sóng, tất cả đều trở thành thức ăn của lũ binh tôm tướng cá dưới thủy
phủ. Người nào may mắn chạy lên được chỗ cao đều mặt mày xám xịt như chì không
ngừng kêu cha gọi mẹ, nhưng mọi âm thanh trên thế gian, đều đã bị tiếng nước ầm
ầm kia nhấn chìm, cảnh tượng thê thảm không tả xiết.
Trận lũ này đến cực
nhanh, dòng sông đục ngầu suốt hai canh giờ mới lắng xuống, Kim Toán Bàn nhặt
được cái mạng từ cõi chết trở về, tinh thần chưa kịp trấn định lại sau phen
kinh hồn bạt vía, rờ lại đồ đạc trên người mới phát hiện chiếc ô Kim Cang sau
lưng đã biến mất.
Khi ấy, Trương Tam Gia
để cho bọn họ tổng cộng hai chiếc ô Kim Cang, một là cổ vật nghìn năm của Mô
Kim hiệu úy truyền lại, chiếc này ở trong tay Liễu Trần. Chiếc ô Kim Toán Bàn
mang theo bên mình là đồ chế tạo thời Minh, công nghệ và chất liệu đều giống
hệt như chiếc ô cổ, cũng là một món khí giới phòng thân cực kỳ hiếm có. Chắc
chắn trong lúc bỏ chạy tháo thân vừa nãy, y đã để rơi mất ô Kim Cang, giờ chắc
hẳn đã bị nước cuốn đi rồi, làm sao tìm lại được, đành nghĩ cách tìm thợ giỏi
làm một chiếc khác vậy.
Kim Toán Bàn chủ ý đã
định, bèn men theo dốc núi đi xuống, định mua chút đồ ăn của dân trong vùng,
nhưng sau cơn đại nạn, dân chết đói nằm la liệt khắp chốn, ruộng vườn nhà cửa
mất quá nửa, dù có tiền cũng chẳng mua nổi cái ăn. Y đói cồn cào ruột gan, sắp
ngã vật ra tới nơi thì trông thấy rất nhiểu người đi về phía bờ sông, nói là
muốn xem Long vương gia. Kim Toán Bàn lấy làm lạ, bèn theo dòng người đi tới.
Vừa ra bờ sông, ngay cả
Kim Toán Bàn kiến thức rộng rãi cũng không khỏi giật mình kinh hãi. Chỉ thấy,
trên dốc chỗ dòng sông uốn khúc có một con cá lớn mắc cạn, vẫn chưa tắt thở,
đầu cá còn lớn hơn ngôi nhà dân bình thường, những cái vảy lớn khắp người trông
như lá thép, những chỗ không lấm bùn ánh lên sắc xanh đen, mắt cá trợn tròn,
đầu đuôi quẫy loạn, cái miệng đen ngòm mở ra khép vào, tanh hôi không thể tả.
Nhìn kích cỡ cái miệng ấy, sợ rằng cả nghìn cân đại hoàng cũng không đủ cho nó
xơi một miếng.
Dân chúng trong vùng đều
sợ nhũn người ra, run rẩy quỳ trước mặt con cá, thắp hương dập đầu không ngớt,
khẩn cầu Long vương gia nguôi giận, mau về thủy phủ. Nhiều người bước lên đẩy,
định đưa Long vương gia trở lại Hoàng Hà, nhưng cũng chỉ như bọ ngựa lay cột,
không làm nó nhúc nhích chút nào cũng không đi đâu tìm được trâu ngựa tới kéo,
cả bọn chỉ biết trơ mắt nhìn Long vương gia hít vào thì ít thở ra thì nhiều,
cuối cùng trợn mắt chết bên bờ nước.
Kim Toán Bàn xem một lúc
lâu, sau đó lại đến nghe ngóng chỗ dân chúng đang khấn lạy Long vương gia một
hồi, tìm đường vào huyện thành ăn chút gì đó. Nghe người trong vùng nói trăm
năm qua chứa gặp trận lũ nào thế này, tuy đến nhanh rút cũng rất nhanh, nhưng
lại gây ra thiệt hại nặng nề, chẳng những thế Long vương gia ở thủy phủ Hoàng
Hà còn chết trên bờ đây tuyệt đối không phải điềm lành, phía sau nhất định còn
tai họa lớn hơn nữa. Hoàng Hà nước dâng, dìm chết không biết bao nhiêu người và
súc vật, nơi này vốn là đất chó ăn đá gà ăn sỏi; trong vòng mười năm nguyên khí
khó mà hồi phục, không biết còn bao nhiêu người nghèo phải chết đói nữa đây.
Kim Toán Bàn nghe được
những lời này, bèn động lòng trắc ẩn, mắt thấy thiên tai vô tình làm hại lê dân
trăm họ hai bên bờ sông, y thầm nhủ: “Sau trận đại họa này, chắc chắn người
chết đói sẽ đầy đồng, giờ đây thế đạo suy bại, quan phủ bất tài, ngoài ta ra,
còn ai chịu đứng ra lo liệu nữa đây?” Trong lòng có ý thu xếp lương thực cứu
trợ, nhưng hàng hóa của y đã thất lạc trong dòng nước, mất cả tiền vốn, trên
người tuy còn một chút tiền bạc, nhưng đối mặt với hàng nghìn hàng vạn dân gặp
nạn thật chẳng khác nào muối bỏ biển. Y liền nảy ra ý định đổ đấu, tính toán sẽ
làm một vụ thật lớn.
Kim Toán Bàn nhớ đến một
sự kiện mấy năm trước, khi ấy y biết được từ miệng một vị khách thương, ở Long
Lĩnh cách nơi này không xa, có một lăng mộ lớn thời Đường nằm trong khu vực dốc
Xà Bàn quanh co hiểm trở, nếu có thể trộm được một hai món báu vật hoàng gia
trong ấy thì không cần phải lo việc xoay xở tiền bạc nữa. Có điều, mặc dù y
tinh thông Lăng phổ, nhưng lại không thể suy đoán ra được thời Đường có lăng mộ
hoàng thất nào xây ở vùng này.
Y ở khách sạn nghe ngóng
vài tin tức, thăm dò một số đầu mối, hỏi rõ đường đi tới Long Lĩnh rồi vào núi
tìm mộ cổ, quả nhiên thấy hình thế trong núi bất phàm, tuy có vụn vặt tản mạn,
nhưng không thể che giấu được khí tượng rồng bay phượng múa, theo lý phải là
một nơi có lăng mộ hoàng gia. Có điều, gần đây có mấy thôn làng rải rác, thường
có người chăn dê chăn bò lang thang quanh quẩn, muốn đào hang trộm dẫn xuống
địa cung mộ cổ thì dễ, nhưng khó che giấu được tai mắt.
Kim Toán Bàn nghĩ ra một
cách, lại trở về bờ sông Hoàng Hà, thấy thi thể con cá lớn vẫn nằm trên bờ
sông, bèn nói với dân chúng rằng y nguyên xuất tiền xây miếu Long vương thờ
phụng xác cá để cầu thần sông phù hộ nơi này được mưa thuận gió hòa, đồng thời
bịa ra một cái cớ, để mọi người tin rằng miếu Ngư Cốt nhất định phải xây trong
núi, bằng không sẽ lại xảy ra thủy tai lần nữa.
Xây miếu, đắp nhà, trồng
hoa màu để che dấu vết tích đào trộm cổ mộ là thủ pháp thường dùng của Mô Kim
hiệu úy, dân quê không hiểu sự tình, tự nhiên tin là thật. Khi ấy, Kim Toán Bàn
xuất tiền, dân chúng ra sức, vận chuyển hài cốt con cá lớn vào trong núi, xây
thành một ngôi miếu Long vương.
Tranh thủ khoảng thời
gian xây miếu, Kim Toán Bàn cũng bắt tay chuẩn bị đổ đấu, dựa theo kinh nghiệm
của y mà phán đoán, quy mô mộ cổ Long Lĩnh này không nhỏ, truyền thuyết của dân
địa phương về ngôi mộ cổ này cực kỳ thần bí kỳ dị, hẳn cũng không phải chốn dễ
đi. Không có ô Kim Cang hộ thân trong lòng Kim Toán Bàn cứ cảm thấy không được
chắc chắn cho lắm, nhưng chiếc ô còn lại ở trong tay Liễu Trần, hai người ly
biệt nhiều năm không hề liên lạc gì, chính y cũng không biết đồng bạn năm xưa
giờ ở đâu, đành lên thuyền đi Bảo Định ở Hà Bắc, tìm danh gia “Ám khí Lý” đặt
làm một chiếc mới.
“Ám khí Lý” là một trong
các thủ lĩnh ở Phong Oa sơn, tay nghề xuất chúng, có thể chế tạo đủ loại khí
giới, nhưng ông ta xem xong bản vẽ và cách chế tạo ô Kim Cang, cũng cảm thấy
hết sức khó khăn, đáp rằng ô Kim Cang này không phải vật thường, một số nguyên
vật liệu không dễ gì kiếm đủ, hơn nữa còn yêu cầu công nghệ và hỏa hầu hết sức
phức tạp, ít nhất phải một năm mới làm xong.
Kim Toán Bàn đang vội đi
trộm mộ cổ Long Lĩnh, không thể đợi được sáu tháng nửa năm, lại thêm nhiều năm
trôi qua, lời dặn dò năm xưa của Trương Tam Gia đã phai nhạt dần trong tâm trí,
y thầm nhủ, sau khi Cối Xay Sắt thiệt mạng, một mình ta từng nhiều lần trộm
những mộ lớn, đều không hề sơ sẩy, chỉ cần lúc đổ đấu cẩn trọng một chút, với
kiến thức của ta, dẫu có gặp cơ quan ám khí chắc cũng đủ ứng phó, không xảy ra
sai sót gì lớn, làm sao mất mạng trong ấy được? Nhưng lúc này, cái bàn tính
bằng vàng ròng xưa nay y vẫn mang theo không rời một bước bỗng nhiên nứt toác
ra, những hạt tính bằng vàng rơi đầy đất. Cái bàn tính này là bảo vật gia
truyền nhà y, vô duyên vô cớ bị hỏng, đương nhiên đau lòng hết sức. Y ngầm cảm
nhận được, đây không phải điềm tốt lành gì, chợt nảy ra dự cảm Diêm vương muốn
thu lấy cái mạng này của mình rồi.
Kim Toán Bàn thông minh
một đời, mọi chuyện đều suy xét cặn kẽ, nhưng lần này quả là khách tang đến
nhà, họa tinh ập xuống, như bị ma xui quỷ khiến, dù Quan âm Bổ Tát hiển linh
cũng không thể khuyên y quay đầu được. Y dứt khoát dằn lòng xuống, thầm nghĩ,
là phúc thì không phải họa, là họa thì không tránh được, nếu đã đến số chết thì
ở trong nhà đóng cửa ngồi một chỗ cũng không bệnh mà toi đời; nếu mạng vẫn chưa
tuyệt, thì núi đao biển lửa cũng về được, toàn thân từ trên xuống dưới không
tổn hại chút gì, run rẩy sợ hãi thắp hương cầu bồ tát, chi bằng cứ làm việc nên
làm, rổi y lại nghĩ: “Thảng như trộm được châu báu trong mộ cổ Long Lĩnh, cứu
tế nạn dân, tích đức hẳn cũng không ít, nếu như có thể hoàn thành được việc
thiện lớn này, trong cõi u minh nhất định sẽ có quỷ thần tương trợ, nói không
chừng còn tăng thêm tuổi thọ cũng nên”.
Y cảm thấy ngôi mộ cổ
thời Đường ấy tuy lớn, nhưng có thể suy đoán ra được kết cấu địa hình bên
trong, chắc chắn đơn thân độc mã cũng trộm được đồ quý bồi táng, nhưng cũng
nghĩ tới khả năng mình gặp bất trắc trong mộ, vạn nhất có gì sơ sẩy, há chẳng
phải sẽ lặng lẽ chết đi hay sao ? Trong quan niệm truyền thống, thanh danh
thường quan trọng hơn cả tính mạng, đúng như câu “hổ chết để da, người ta chết
để tiếng”, nên Kim Toán Bàn mới đem hết những chuyện từng trải trong đời viết
vào cuốn sổ ghi nợ, kể cả chiếc bàn tính bằng vàng ròng bị hỏng cũng bỏ vào
trong tráp niêm phong, tạm thời gửi lại ở chỗ “Ám khí Lý”, hẹn khi nào tới lấy
ô Kim Cang sẽ mang đi một thể.
Chú
thích:
[←1]
1. Một câu thành ngữ
hiện đại, không rõ xuất xứ, vì được Mao Trạch Đông dẫn dụng trong một bài phát
biểu ở hội nghị TW Đảng Cộng sản Trung Quốc mà trở nên thông dụng.
[←2]
. Tổ tiên của Chu Văn
Vương.
[←3]
. Chu Nguyên là đô thành
thời kỳ đầu của Tây Chu, dỉ chỉ ngày nay vẫn còn ở
huyện Phù Phong và huyện
Kỳ Sơn tỉnh Thiểm Tây.
[←4]
1. Câu trong bài Thủy
điệu ca đầu của Tô Thức. Nguyên văn: “Cao xứ bất thắng hàn”, ý là người ở ngôi
cao cũng không tránh khỏi lạnh lẽo.
[←5]
. Ý chỉ ba triều Hạ,
Thương, Chu.
[←6]
Một loại bẫy mìn, thường
có mồi (chiến lợi phẩm, con tin...) để dụ cho nạn nhân chạm vào chốt lẫy gây
phát nổ.
[←7]
1. Di chỉ kỉnh đô cuối
đời Thương (nay ở gần thôn Tiểu Đồn An Dương tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Năm 1899
phát hiện chữ giáp cốt ở đây).
[←8]
. Sấm trong lòng bàn tay
[←9]
Một câu danh ngôn của
Tưởng Gỉớỉ Thạch, nguyên văn là: Khi chưa đến thời khắc hoàn toàn tuyệt vọng
với hòa bình, tuyệt không được từ bỏ hòa bình, khi chưa đến thời điểm mấu chốt
phải hy sinh, tuyệt không thể tùy tiện nhắc đến hai chữ hy sinh.
[←10]
2. Năm chỉến sĩ anh hùng
của Bát Lộ quân trong kháng chiến chống Nhật, thà chết cũng không chịu đầu
hàng, bị quân địch bao vây, đạn dược đã hết, họ liền ném đá cản bước quân địch,
rồi hủy hết vũ khí, liều mình nhảy xuống vách núi. Khi nước Trung Quốc mới
thành lập, sự tích anh hùng này được dựng thành phim, và đưa vào sách giáo khoa
tiểu học.
[←11]
Thuyết Nhất nguyên duy
vật được phát triển bởi Marx và Engels, cho rằng toàn bộ hiện thực khách quan
(kẻ cả xã hội loài người) về bản chất là vật chất, ý thức chỉ là kết quả cùa sự
phát triển và sự phản ánh của vật chất vận động.
[←12]
di cư theo một tuyến
đường nhất định.
[←13]
1. Chữ quan trong Quan
Tài.
[←14]
2. Chữ quan có nghĩa là
nhìn, xem.
[←15]
Mười sáu quẻ Chu Thiên
hoàn chỉnh.
[←16]
Công cuộc xây dựng bốn
hiện đại hóa của Trung Quốc bao gồm: hiện đại hóa công nghiệp, hiện đại hóa
nông nghiệp, hiện đại hóa quân sự, hiện đại hóa khoa học kỹ thuật.
[←17]
Tiếng lóng giang hồ.
Trong Thủy Hử, hồi 37, khi Tống Giang lần đầu gặp Trương Hoành trên thuyền.
Trương Hoành có hỏi Tống Giang và hai tên công sai áp giải là muốn ăn mì vằn
thắn hay mì dao phay. Mì vằn thắn là cởi hết quần áo nhảy xuống sông tự tử, còn
mì dao phay là mỗi người ăn một dao rồi ném xác xuống sông.
[←18]
Rổng nhảy qua vực
[←19]
Trong địa cung của lăng
tầm bậc đế vương, thường có bệ đá kê quan tài bằng đá trắng, chính giữa là một
lỗ hình chữ nhật, bên trong chứa đất vàng, đây là xẻng đất đầu tiên xúc lên lúc
chọn nơi xây mộ. Hốc chứa đất ấy gọi là giếng vàng, là điểm mốc cơ bản của toàn
bộ bố cục kiến trúc lăng tầm. Xung quanh và bên trong quan quách có bạch ngọc,
hoặc trong miệng người chết ngậm ngọc thạch, gọi là táng ngọc. Sở dĩ làm như
vậy, là vì người xưa cho rằng giếng vàng có thể nối liền âm dương, trao đổi
sinh khí, còn táng ngọc có thể giữ cho thi thể không bị thối rữa. Thời Minh,
Thanh, “giếng vàng táng ngọc” được coi là nghi thức mai táng cao cấp nhất.
[←20]
1. Tiên ở trong bụng
[←21]
1.Hai câu này nằm trong
bài thơ Nhân dân giải phóng quân chiếm lĩnh Nam Kinh của Mao Trạch Đông. Chính
xác mà nói, câu trước “Thiên nhược hữu tình thiên diệc lão" là một câu
trong bài Kim đồng tiên nhân từ Hán ca của thi nhân Lý Hạ thời Đường, Mao Trạch
Đông dẫn lại và thêm vào câu sau. Ý đại khái là: “Trời mà cũng có tình cảm thì
trời cũng sẽ già đi, xu thế phát triển của thế gian chính là sự đổi thay”.
[←22]
Một hình thức phê đấu
thịnh hành thời kì đầu Cách mạng Văn hóa. Trong đại hội phê đấu, người bị phê
đấu bị ấn chặt đầu, cổ, lưng xuống khiến thân trên và thân dưới tạo thành một
góc 90 độ hoặc thậm chí hơn thế, đồng thời hai cánh tay vươn ngược ra phía sau
hoạc sang hai bên, trông như cánh của máy bay phản lực, đầu chúi xuống đất,
mông vểnh lên trời, trước ngực đeo tấm bảng đen.
[←23]
Thị trấn nằm ở phía Đông
Mông cổ, cách Ulan Bator 290km. Năm 1971, nhân vật số 2 của nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa, Lâm Bưu bỏ chạy sang Liên Xô, trên đường đã bị rơi máy bay tại
thị trấn này.
[←24]
Bát môn gồm có: Hưu môn,
Sinh môn, Thương môn, Đỗ môn, Cảnh môn, Tử môn, Kinh môn và Khai môn. Tám cửa
này là từ tám phương vị của Bát Quái mà ra. Đây là một trong những căn cứ dùng
để suy đoán cát hung trong Kỳ Môn Độn Giáp.
[←25]
Tức sách Xuân Thu.
[←26]
Ý chỉ việc đăng cơ làm
hoàng đế. Thời xưa coi phương Nam là chí tôn, còn phương Bắc tượng trưng cho
thất bại, thần phục. Cung điện và chùa miếu đều xây theo hướng chính Nam, chỗ
ngồi của bậc đế vương cũng là lưng hướng về phương Bắc, mặt hướng về phương Nam.
[←27]
Quan này là chữ quan
trong quan tài, còn chữ quan trong Quan Sơn thái bảo được Chu Nguyên Chương ngự
phong là quan trong quan sát.
[←28]
Tranh vẽ cảnh đốt đuốc
đi đêm
[←29]
Nguyên văn: Điền viên
tương vu, hồ bất quy. Đây là một câu trong bài Quy tiên lai từ của Đào Uyên
Minh.
[←30]
Michelangelo Antonioni,
đạo diễn người Ý. Năm 1972, ông quay một bộ phim về Trung Quốc, trong đó có một
vài cảnh bất nhã, và bị phản đối ở Trung Quốc.
[←31]
Vào buổi sớm mùa xuân
hoặc mùa hạ, không khí ở độ cao thấp ổn định, rất ít bụi, nếu có ráng mây rực
rỡ chứng tỏ rằng trong không khí ở phía Đông có rất nhiều giọt nước tạo thành
tầng mây, thời tiết xấu đang áp dần đến, đây chính là nguyên nhân “ráng sớm
đừng ra cửa”; chập tối, vì được mặt trời chiếu sáng cả ngày, nhiệt độ tương đối
cao, tỷ lệ nước ờ vùng không khí ở độ cao thấp thông thường không cao, nhưng vì
sự đối lưu trở nên yếu, bụi bặm có thể sẽ tập trung một lượng lớn ở tầm thấp.
Nếu xuất hiện ráng mây rực rỡ, thì chủ yếu là vì những hạt khô như bụi tán xạ
ánh mặt trời tạo nên, điều này chứng tỏ không khí phía Tây tương đối khô. Theo
quy luật khí lưu di chuyền từ Tây sang Đông, trong tương lai gần thời tiết bản
địa sẽ không xấu đi.
[←32]
Thợ mộc cao cấp, tương
đương với kiến trúc sư.
Nguồn e-thuvienonline.blogspot.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét