CHƯƠNG 59: HIỆN TƯỢNG SIÊU
NHIÊN
Tuy tôi vẫn lờ mờ có cảm
giác này, nhưng trước sau không đoán nổi rốt cuộc là chuyện gì xảy ra, chẳng lẽ
lại là hiện tượng siêu nhiên mà Shirley Dương từng nhắc đến hồi trước? Cho tới
khi Tôn Cửu gia đứng trước mặt khua tay múa chân một hồi, tôi mới bừng tỉnh
ngộ... tai kiếp thực sự mà thôn Địa Tiên đang đối mặt, còn kinh khủng gấp bội
động đất, núi lở.
Tôi không biết Tôn Cửu
gia làm sao nghĩ ra được vấn đề này trong lúc núi lay đất lở hỗn loạn như vậy,
chỉ có thể đoán được, lão ta muốn nói với chúng tôi rằng, địa chấn trong núi là
do một trận hồng thủy gây nên.
Di tích cổ hẻm núi Quạn
Tài ở khu vực Thanh Khê này có di chỉ của những mỏ khai thác muối quy mô lớn
tích lũy suốt mấy nghìn năm, bên trong lỗ chỗ như tổ ong tổ kiến. Suốt mấy trăm
năm trước, Cửu Từ Kinh Lăng giáp dưới lòng đất không ngừng sinh sôi phát triển,
tầng nham thạch và bùn đất xung quanh núi Quan Tài bị nó đào bới, rất nhiều khu
vực sớm đã rỗng không.
Thêm nữa, hẻm núi Quan
Tài từ thời xưa đã lũ lụt tràn lan, lượng nước trong khe núi hết sức dồi dào,
trong đợt sang chấn lớn nhất của ngày hôm nay, cũng chính là lúc lũ sâu quan
tài trong thôn Địa Tiên bỏ chạy thục mạng, tầng nham thạch bị Cửu Tử Kinh Lăng
giáp đâm xuyên vặn xoắn, cuối cùng cũng sụp đổ hoàn toàn, mấy mạch nước ngầm và
một lượng lớn nước mưa tích lũy trong lòng núi tựa như những con rồng khổng lồ
hung mãnh vụt xuất hiện, khí thế long trời lở đất, không ngừng từ phía trên núi
Quan Tài ập xuống công kích cả ngọn núi.
Tầng nham thạch vây bủa
quanh bên ngoài núi Quan Tài khắp nơi đều có hầm khai thác muối khoáng chằng
chịt đan xen nhau, cũng có cả hang động thiên nhiên, giữa các hầm mỏ và hang
động là một tầng ngăn cách vô cùng mỏng manh yếu ớt, không thể ngăn nổi cả ngọn
núi Quan Tài bị dòng nước ngầm xối xả làm cho chuyển động.
Trong sức mạnh cuồng bạo
như chẻ tre của tự nhiên vĩ đại, núi Quan Tài tựa hồ một cỗ quan tài nổi dập
dềnh giữa cơn lủ lớn, bị dòng nước xiết đẩy đi, dọc đường nước chảy bèo trôi
xuyên qua tầng đá yếu ớt, rất có thể sẽ bị dòng nước đẩy ra hẻm núi lớn bên
ngoài, đồng thời, chỉ cần ngọn núi Quan Tài này đủ chắc chắn, cuối cùng thậm
chí còn có thể chảy vào dòng Trường Giang.
Cửu Tử Kinh Lăng giáp
không ngừng xâm thực địa mạch, khiến mạch nước ngầm đổi dòng, khiến núi Quan
Tài chuyển động dưới tác động của dòng nước lũ xối xả, cả ngọn núi phá vỡ tầng
tầng vách đá yếu ớt, tựa như năm xưa Ô Dương vương khơi dòng, xuyên qua mấy
hang động, tới tận khi núi Quan Tài tiến vào hẻm núi mới hoàn toàn sụp đổ. Đây
tựa như một lộ trình do Tử thần chỉ lối, trạm cuối tất nhiên là nơi kiếp nạn
cuối cùng xảy ra. Nhưng núi Quan Tài này rốt cuộc sẽ mang thôn Địa Tiên di động
được bao xa ? Không ai có thể đoán được khoảng cách này, chỉ biết mỗi khi quả
núi di động một mét, chúng tôi lại tới gần Thần Chết thêm một mét.
Tôn Cửu gia tuy không
thể miêu tả và giải thích một cách trực quan, nhưng tôi và Shirley Dương cũng
không phải đầu đất, thấy lão ta nhắc tới dòng nước trong hẻm núi, liền như có
ai đâm toạc lớp giấy bồi trên ô cửa sổ, mạch suy nghĩ rốt cuộc cũng xoay
chuyển, những việc tiếp sau không cần phải nói nữa.
Thoạt tiên, chúng tôi đã
đưa ra rất nhiều suy đoán về việc thi tiên trong thôn Địa Tiên rời núi, nhưng
tính hiện thực của mọi khả năng đều không lớn lắm, gần như là chuyện không thể,
duy chỉ không nghĩ đến việc ngọn núi Quan Tài này có thể di động. Theo truyền
thuyết từ thời kỳ Ô Dương vương để lại, thi tiên trong Bàn Cổ thần mạch có thể
ám vào thân thể người sống và người chết, sau khi chôn dưới lòng đất có thể
khiến người chết không cương hóa, không thối rữa, nhưng một khi rời khỏi mảnh
đất báu phong thủy này, người chết bị thi tiên ám vào sẽ khiến ôn dịch lan
tràn, hại chết vô số người và súc vật. Nền văn hóa Vu Tà từng thịnh vượng một
thời thuở ấy, chính vì bị thứ này liên lụy mà tàn phá tiêu vong.
Nhưng sau khi núi Quan
Tài bị dòng nưóc ngầm cuồn cuộn cuốn ra khỏi lòng núi, có phải sẽ đúng như
trong bức tranh tiên tri kia miêu tả... tất cả người chết trong thôn Địa Tiên
sẽ tràn đi khắp bốn phương tám hướng, trời đất hoàn toàn biến thành núi thây
biển máu ư? Lẽ nào hiện tượng “siêu nhiên” còn khó tin hơn việc cả trái núi
đang di động ấy, thật sự sẽ xuất hiện trong hẻm núi Quan Tài ở vùng Vu Sơn này ?
Tôi biết, tất cả sự phát
triển biến hóa của sự vật đều phải nhờ vào nguyên nhân nội tại và ngoại tại
cùng thúc đẩy tạo thành, Quan Sơn thái bảo tinh thông thuật số, cách bố trí
trong thôn Địa Tiên thật sự bí hiểm vô cùng, từ khi phá giải “Quan Sơn chỉ mê phú”
đến lời tiên tri hiện tại, cơ hồ không có chuyện gì không thể xảy ra được nữa
rồi.
Nghĩ tới đây, tôi không
khỏi nổi giận trong lòng, thầm hạ quyết tâm, phen này dẫu có tan xương nát thịt
cũng không thể để lũ thi tiên trong núi Quan Tài này thoát ra. Lão Phong Soái
Cổ kia trăm phương ngàn kế muốn mình sau khi chết sẽ hóa thành tiên, điều này
trong xã hội cổ đại cũng tạm chấp nhận được, nhưng rõ ràng lão còn hiềm người
bồi táng theo mình vẫn chưa đủ, trong Sát Sinh đạo, dùng “sát kiếp” để độ
người, chết bao nhiêu cũng chưa đủ... tính mạng người sống, chết một hai người
thì đúng là nhìn mà kinh hãi, còn khi số lượng người chết lên đến trăm vạn, hai
trăm vạn thì chẳng qua chỉ là một con số thống kê khiễn người ta đờ đẫn mà thôi.
Chết mấy trăm năm rổi
vẫn còn muốn thi thể mình rời núi dùng sát kiếp độ người, suy nghĩ này chỉ kẻ
điên rồ như địa tiên Phong Soái Cổ mới có, nhưng vừa khéo ứng với cách nói
thiên tài đa số đều là những kẻ điên khùng, cũng không thể không thừa nhận, bố
cục trong mộ cổ Địa Tiên này chỉ có hạng kỳ nhân tuyệt thế tính toán sâu xa như
Phong Soái Cổ mới đủ khả năng khống chế mà thôi.
Năm người chúng tôi chen
chúc trong một cái hốc bên dưới vách đá, chỗ này vốn dùng để quan tài treo,
chật hẹp hơn mộ thất thông thường nhiều, những chấn động liên tiếp không ngừng
khiến cả bọn không thể hành động gì được, tuy trong lòng nóng như lửa đốt, song
cũng chỉ biết nghe theo mệnh trời.
Khổ sở cầm cự như thế
một hồi, trên thực tế có thể cũng chẳng bao lâu, nhưng dù chỉ có mấy phút đồng
hồ, chúng tôi cũng cảm thấy dài đằng đẵng như cả mấy thế kỷ. Núi Quan Tài và
dòng nước xiết phía sau tựa hồ đã phá vỡ mấy tầng nham thạch chắn phía trước,
những rung động tựa như địa chấn kia dần dần giảm bớt, chỉ còn tiếng nước ầm ầm
vang dội bên tai.
Tôi vươn người ra khỏi
huyệt động nhìn ngó chỉ thấy thôn Địa Tiên tối om như mực, cơ hồ núi Quan Tài
vẫn chưa lên đến mặt đất. Lúc này, chợt thấy trên vách đá phát ra tiéng động
cực kỳ chói tai, tựa như vò số mũi khoan kim loại đang cọ xát vào nham thạch
với tốc độ cao, nhấn chìm cả tiếng nước chảy, nhất thời khiến cả bọn đau nhói
hai tai. Chúng tôi vội bịt chặt tai, há miệng ra, cố gắng giảm bớt cảm giác đau
đớn, nhưng âm thanh ấy tựa như hữu hình hữu chất, vẫn không ngừng từ bốn phương
tám hướng xuyên vào tận óc.
Tôi vội bịt chặt tai lăn
tròn dưới đất, lăn ra khỏi hốc đá, mấy người còn lại cũng lần lượt bò theo,
người nào người náy sắc mặt xám xịt như chì, tựa hồ cả hồn phách đều bị tiếng
kim loại kèn kẹt sắc bén kia nghiến nát, nhưng núi Quan Tài này có địa thế vừa
dài vừa hẹp, bên trong đâu đâu cũng tụ âm, vì vậy sau khi ra khỏi hốc đá, tình
hình cũng không khá lên chút nào.
Cũng may, âm thanh kin
kít dày đặc này đến nhanh đi cũng cực nhanh, chỉ chốc lát sau, tiếng động đá từ
sắc bén chuyển sang trầm đục, biến thành những âm “bựt bựt tưng tưng”, chấn
động lần nữa xuất hiện trở lại.
Mọi người đều biết âm
thanh vừa rồi là do Cửu Tử Kinh Lăng giáp phát ra, nghe hết sức đáng sợ, chỉ
không biết là điềm báo điều gì sắp xảy đén, lúc này trong tai đã bớt ong ong
đau nhức, hai người mặt đối mặt nói lớn tiếng đại khái cũng miễn cưỡng nghe được
đối phương nói gì. Shiriey Dương chỉ vào bầu không tối đen như mực hỏi tôi: “m
thanh vừa nãy... có phải Cửu Tử Kinh Lăng giáp chết rồi không?”
Tôi gật gật đầu, cũng có
khả năng này, Cửu Tử Kinh Lăng giáp là loài thực vật hút máu sống dưới lòng
đất, nghe nói rễ của nó đều mọc từ trong đồ đồng có từ thời Tam Đại, không thế
rời khỏi địa mạch, bằng không Cửu Tử Kinh Lăng giáp sẽ lập tức khô kiệt mà
chết. Núi Quan Tài bị dòng nước ngầm đẩy khỏi vị trí ban đầu, Kinh Lăng giáp
quấn chặt lấy các vách núi tuy rằng mạnh mẽ, nhưng cũng không thể ngăn trở được
xu thế di động của cả tòa núi, nghe những âm thanhấ, không khó tưởng tượng,
chắc hẳn Cửu Tử Kinh Lăng giáp bị bứt lên khỏi đất mà chết rồi.
Tôn Cửu gia chõ miệng
vào nói: “Những ân oán của chúng ta cứ tạm gác sang một bên đi, hiện giờ, núi
Quan Tài coi như đã bị trốc cả gốc lên rồi, tiếp sau đây chắc chắn sẽ bị dòng
lũ cuốn vào hẻm núi lớn, nếu muốn ngăn cản thi tiên rời khỏi mộ cổ, chúng ta có
lẽ vẫn còn chút thời gian. Một khi để ngọn núi trôi vào hẻm núi, thì tất cả coi
như xong...”
Tuyên béo không muốn
nghe Tôn Cửu gia lải nhải, vung xẻng công binh lên định đập vào đầu lão ta phát
nữa. Tôi vội ngăn cậu ta lại, không có lòng độ lượng với người khác thì khó
thành đại sự, huống hồ dù phanh thây xé xác Tôn Cửu gia, kiếp nạn ắt hẳn sẽ xảy
ra này cũng không thể tránh khỏi, việc cần kíp trước mắt là phải nghĩ cách thay
đổi “vận mệnh” đã được định sẵn sẽ xuất hiện trong lời tiên tri kia.
Núi non run rẩy lắc lư
khiến người ta khó lòng đứng vững, tôi đành bảo mọi người dựa vào vách đá, lòng
chỉ muốn nhanh chóng nghĩ ra một đối sách, vô số ý nghĩ hiện lên trong đầu, bất
luận là chạy trốn hay ngăn cản thôn Địa Tiên di chuyển vào hẻm núi, thì trước
tiên cũng phải hiểu rõ được mình đang ở trong tình thế nào, biết mình biết người
mới bách chiến bách thắng, hành động mù quáng chỉ dẫn đến hậu quả ngược lại mà
thôi.
Tình thế lúc này, thật
đúng là nằm mơ cũng không thể tưởng tượng nổi, sau khi tách ra khỏi đám đồ đồng
có khởi nguồn của Cửu Tử Kinh Lăng giáp, núi Quan Tài bị dòng nước lũ xối đi,
không ngừng ầm ầm trượt trong các hang động dưới lòng đất, cả quả núi chao đảo
dập dềnh, bốn vách đá xung quanh cũng thật kiên cố, tạm thời không xuất hiện hiện
tượng sụp đổ.
Những đoạn rễ chết khô
của Cửu Tử Kinh Lăng giáp tựa như một lớp vỏ cứng bao bọc xung quanh núi Quan
Tài, cũng di chuyển cùng với quả núi. Chiếc quan tài đá khổng lồ này tuy không
có nắp đậy, nhưng lại được tấm lưới bằng đồng do Kinh Lăng giáp tạo thành che
kín, đá vụn không rơi vào trong được, vì vậy hầu hết kiến trúc trong thôn Địa
Tiên vẫn được bảo tồn hoàn hảo.
Nhưng muốn bước đi mấy
bước trong khi xung quanh không ngừng tròng trành va đập dữ dội còn khó hơn lên
trời, trước tình huống này, liệu còn cách nào nữa đây? Chợt nhớ lại ví dụ lúc
trước của Shirley Dương, đại kiếp nạn sắp bùng phát ở thôn Địa Tiên tựa như kết
cục đã hoàn thành của một cuốn tiểu thuyết, nhân vật trong câu chuyện tuyệt đối
không thế thay đổi kết cục được định sẵn, tôi có cảm giác vận mệnh giống như
một cái xiềng vô hình, mặc dù vô ảnh vô hình, nhưng lại không thể giằng ra,
không thể đập vỡ, không thể hất bay, dù ta có gắng sức liều mạng thế nào chăng
nữa, kết quả cũng không hề thay đổi.
Kết quả thôn Địa Tiên
theo núi Quan Tài tiến vào hẻm núi lớn vẫn chưa phải đáng sợ nhất, đáng sợ là
bản thân là người trong cuộc, biết rõ kết cục cuối cùng sẽ là một tai họa mang
tính hủy diệt nhưng lại không cách nào vãn hồi. Tuy tôi biết, mọi chuyện đều
phải nhìn thoáng ra, nhưng giờ cũng không khỏi dần dần cảm thấy bản thân mình
yếu ớt nhỏ bé, càng lúc càng chìm sâu vào tuyệt vọng.
Đương lúc cả bọn bối rối
chưa biết phải làm sao, núi Quan Tài đang rung lắc dữ dội đột nhiên chấn động
mạnh, tuy không biết tình huống bên ngoài thế nào, nhưng dựa vào cảm giác thì
hình như nó đã bị kẹt ở khu vực chật hẹp trong hang động dưới lòng đất.
Mấy người chúng tôi đều
đầu váng mắt hoa, xương cốt khắp người rã rời cả ra, tim đập thình thịch như
trống làng, khó khăn lắm núi Quan Tài mới dừng lại được, người nào người nấy
đều như được ân xá, nằm rạp xuống đất không nhúc nhích nổi.
Nhưng cùng trong một cái
chớp mắt ấy, trên đầu lại chợt vang lên tiếng rào rào loạn xạ. Thì ra, núi Quan
Tài khựng lại nửa chừng, Cửu Tử Kinh Lăng giáp quấn bên trên bị tầng nham thạch
dưới lòng đất ngăn trở, phía sau lại có dòng nước ngầm xối xả liên tục bất tận,
trong tiếng gió âm vù vù, từng mảng rẻ cây lập tức bị đá núi cắt đứt lìa, từ
trên không rơi xuống như mưa tên bão đạn.
Lúc này, trong núi tối
om như mực, trong mấy mảnh rễ cây rơi xuống đầu tiên, có một đoạn to như lưỡi
mâu vừa khéo sướt qua mặt tôi cắm xuống đất, ngoài ra còn một mũi gai bị gãy
ghim vào ba lô sau lưng, mấy người còn lại cũng xém chút nữa bị đóng đinh xuống
đất. Mượn ánh sáng của đèn chiếu gắn trên mũ, tôi trông rõ mồn một, đoạn rễ của
Kinh Lăng giáp cắm trước mặt đã chết khô, nhưng những gai móc sắc bén vẫn còn
nguyên vẹn, từ trên cao rơi xuống hoàn toàn có thể đâm xuyên qua người, tạo
thành vết thương chí mạng.
Không đợi mọi người kịp
định thần lại, trong nháy mắt, tiếng những chiếc rễ Cửu Tử Kinh Lăng giáp bị
giằng xé đứt lìa bên trên đột nhiên trở nên dồn dập, lại thêm nhiều gai nhọn
rơi xuống trong tiếng rít gió rợn người. Khi đứng giữa lằn ranh sống chết, con
người luôn có thể kích phát sức mạnh tiềm ẩn bên trong, cả bọn vốn đã sức cùng
lực kiệt, nhưng bản năng cầu sinh lại thúc đẩy sinh ra một luồng sức mạnh mới,
chúng tôi vùng vẫy đứng dậy, liều mạng di chuyển về phía cái hốc vừa náu mình
lúc nãy.
Tôn Cửu gia kêu lên:
“Nấp cái gì? Đằng nào số mệnh đã định sẽ phải đưa thi tiên rời núi, giờ muốn
chết cũng khó, trời sập xuống cũng không đè chết chúng ta được đâu...”
Lão ta còn chứa dứt câu,
đột nhiên im bặt, tôi nhìn ba người còn lại, vốn cả bọn đều đã trốn vào bên
dưới vách đá, nghe giọng Tôn Cửu gia có gì đó không ổn, vội ngoảnh đầu lại, chỉ
thấy một mũi gai từ trên cao rơi xuống đã ghim lão ta xuống đất. Lão ta đang
hoang mang nhìn chằm chằm vào mũi gai to tướng đâm xuyên cơ thể, tựa hồ không
thể tin vào mắt mình.
Shirley Dương thấy Tôn
Cửu gia bị mảnh rễ cây ghim xuống đất, liền chẳng nói chẳng rằng chạy ra khỏi
hóc đá, định liều mạng cứu người.
Tôi thấy vậy, lo đến nỗi
gân xanh trên trán giật giật không ngừng, vươn tay ra ngăn Shirley Dương lại,
không ngờ bàn tay chụp vào khoảng không, vội vàng theo sát sau lưng cô, nhưng
mới bước được hai bước, đã nghe Cửu Tử Kinh Lăng giáp bị đứt lìa bên trên không
ngừng rơi xuống rào rào, tôi vội giương Ô Kim Cang che chắn, đánh bật một đám
rẽ cây sắc nhọn ra xa.
CHƯƠNG 60: QUAN TÀI TREO
Lúc này, Shirley Dương
đã nhổ đoạn rễ cây đâm xuyên đầu vai Tôn Cửu gia ra, trên đó toàn vảy ngược,
vừa rút một cái, lập tức giật theo cả một mảng thịt lớn, máu tươi bắn tung tóe
khắp mình mẩy mặt mũi chúng tôi, nhưng Tôn Cửu gia vẫn nhịn đau, không kêu lấy
một tiếng.
Chúng tôi không đủ thời
gian xem xét thương thế của Tôn Cửu gia, nhân lúc những mảnh Kinh Lăng giáp
chưa tiếp tục rơi xuống đợt tiếp theo, vội gọi Tuyền béo và Út ra rìa hốc tiếp
ứng, hai người vừa kéo vừa nâng, đưa Tôn Cửu gia vào trong hốc đá chứa quan tài
treo.
Tuyền béo phẫn nộ: “Nhất
ơi là Nhất, hai người chán sống rồi hả? Liều mạng vì lão Tôn này có... đáng
không?”
Tôi tiện tay lau máu
tươi trên mặt, đáp lấy lệ: “Vụ mua bán này đằng nào cũng coi như lỗ vốn rồi,
ngại gì lỗ thêm một ít nữa, chỉ cần giữ được mạng, sau này sớm muộn sẽ gỡ lại,
giờ cứ coi như cho vay nặng lãi đi.”
Shirley Dương lại nói:
“Không đơn giản vậy đâu, tôi cứu giáo sư Tôn là vì đột nhiên nghĩ đến một điểm
mù, sự việc đã được số mệnh định sẵn sẽ xảy ra ấy... có lẽ không phải như chúng
ta tưởng tượng, tấc cả đều đã bị những tù nhân trong thạch laoở mộ Địa Tiên làm
hiểu lầm rồi.”
Cửu Tử Kinh Lăng giáp
quấn xung quanh núi Quan Tài tuy đá đứt rễ, nhưng những đoạn rễ quấn chặt trên
vách đá vẫn không ngừng cọ xát vào nham thạch, khiến núi Quan Tài bị cản lại ở
một chỗ hẹp trong hang động ngầm dưới đất, lúc này chấn động đã lắng xuống phần
nào. Tôi nghe Shirley Dương nói thế, nhất thời cũng không hiểu lắm, vội lắc đầu
mấy cái thật mạnh, vẫn cảm thấy trước mắt sao bay tá lả, bèn lơ mơ hỏi: “Chẳn
lẽ lời tiên tri trong nhà lao đá ấy không phải là thật ?”
Shirley Dương nói, ít
nhất những chuyện đã xảy ra đều ứng nghiệm rồi, nhưng những chuyện tiếp theo
chưa chắc đã như chúng ta tưởng tượng lúc đầu. Bích họa trong địa lao được vẽ
theo quẻ số tinh tượng, em nhớ hồi trước anh từng nói, vạn vật trên thế gian
này đều từ só sinh ra tượng, trong bức tranh tiên tri cuối cùng, thi tiên ngồi
trên đạo tinh rời khỏi núi...
Tôi gật đầu: “Đạo tinh
ấy chắc là ứng lên đám người chúng ta, coi bộ chúng ta cũng là thân bất do kỷ,
dù làm gì, cuối cùng cũng khiến thi tiên trong mộ cổ thoát ra khỏi núi.”
Shirley Dương lại nói
tiếp, giáo sư Tôn nói, trước khi thi tiên rời núi, dù gặp nguy hiểm mấy chúng
ta cũng không thể chết, nhưng anh có từng nghĩ, bức bích họa mang theo lời tiên
tri kia tuy trừu tượng khó hiểu, nhưng đạo tinh chỉ có một, vả lại không thể
phán đoán xem lúc rời núi là còn sống hay đã chết, có thể ngay cả khi chúng ta
đều chết trong núi, thi tiên cũng có thể ám lên thi thể của một người trong bọn.
Đương nhiên... trước khi thôn Địa Tiên tiến vào hẻm núi, mọi suy đoán đều không
có căn cứ, ý của em là, chuyện này không thể phán đoán theo lẽ thường, chớ nên
dùng ý nghĩ chủ quan mà suy đoán.
Tôi nghe Shirley Dương
nói tới đây, đã hiểu được ý cô, việc không hẳn như Tôn Cửu gia nhận định, mà là
trước khi rời khỏi núi Quan Tài này, chúng tôi có thể mất mạng bất cứ lúc nào
dù cả bọn chết hết cũng không thể xoay chuyển càn khôn, thi tiên trong thôn Địa
Tiên cuối cùng nhất định sẽ thoát ra ngoài, nhưng tình hình thực tế ra sao thì
không đến thời khắc cuối cùng, vẫn không thể nào suy đoán được.
Lúc này, tôi không khỏi
sinh nghi, bèn quay lại liếc Tôn Cửu gia một cái, chỉ thấy Út đang xử lý vết
thương cho lão ta, bôi thuốc cầm máu tác dụng nhanh lên vết thương bị đâm xuyên
trên vai, Tôn Cửu gia sắc mặt đờ đẫn, bị thương nặng như vậy mà dường như không
hề thấy đau đớn.
Tôi đột nhiên nhớ ra, cử
chỉ hành vi của Tôn Cửu gia thực không khác gì một cái xác sống, hơn nữa lão ta
cũng không thể giải thích được tại sao trên người mình có thi khí bao bọc, lại
có cả thi trùng xuất hiện, lẽ nào người này còn có âm mưu sâu xa gì nữa chăng?
Có lẽ nào Tôn Cửu gia chính là thi tiên không? Hay lão ta đã bị Phong Soái Cổ
ám lên mình rồi ?
Một loạt nghi vấn xoay
chuyển trong óc tôi như đèn cù, nhanh chóng khuấy thành một vòng xoáy khổng lồ,
càng nghĩ càng cảm thấy mình chìm đắm vào trong đó, không thể bứt ra được, mọi
giả thiết đều trở nên phi logic, chỉ riêng sự tồn tại của một kẻ khắp người đầy
dấu hiệu thi biến như giáo sư Tôn, cũng đã vượt xa phạm trù thường thức và năng
lực lý giải của tôi rồi.
Tôn Cửu gia thấy tôi
nhìn chằm chằm lão ta, liền kéo tôi một cái, nói: “Lúc trước tôi khóa cửa đường
hầm bí mật lại, không phải muốn hại mọi người đâu. Nghe cô Dương nói, giờ tôi
đã nghĩ thông rồi, năm người chúng ta dù sống hay chết cũng không thể thay đổi
được kiếp nạn đã định sẽ bùng phát ở thôn Địa Tiên, hy vọng các cô các cậu đừng
để trong lòng, phải biết... mọi chuyện tôi làm đều là nhìn việc không nhìn
người, tôi xưa nay không hề có oán cừu gì với các cô các cậu, chỉ muốn dốc hết
khả năng của mình, ngăn cản thi tiên thoát khỏi núi Quan Tài mà thôi.”
Tôi thấy Tôn Cửu gia tuy
hành sự cực đoan quá khích, nhưng hẳn lão ta đã nói hết những gì có thể nói
rói, cứ tiếp tục dằng dai nữa cũng chẳng ý nghĩa gì, bây giờ chỉ cần ngấm ngầm
đề phòng, tìm cơ hội dụ rắn rời hang là được, bèn nói: “Đừng nói những luận
điệu hoang đường này với tôi làm gì, tôi không hiểu cái quái gì là nhìn việc
không nhìn người, việc đều do người làm ra cả, nhìn việc chính là nhìn người,
có điều chuyện giữa chúng ta nhất thời không thể giải quyết gọn gàng được, họa
lớn đang ở trước mắt, vẫn phải nghĩ cách thoát thân trước rồi hẵng hay”
Tôn Cửu gia thở dài một
tiếng, nói: “Hồ Bát Nhất, cậu đúng là rộng lượng khoan dung với kẻ khác, đời
này những gì tôi nợ các cậu sợ rằng không thể trả được, nếu Phong Học Vũ tôi
còn có kiếp sau, dẫu làm trâu làm ngựa cũng phải báo đáp mọi người, nhưng núi
Quan Tài này bị dòng nước lũ xối xả đẩy về phía hẻm núi lớn, chỉ mấy người
chúng ta muốn ngăn cản khí thế trời long đất lở này, thật không khác gì châu
chấu đá xe, tôi coi như đã nhìn thấu rồi, cánh tay không khỏe bằng cẳng chân,
người không nên tranh với số mệnh, chúng ta cứ ở đây nhắm mắt chờ chết thôi.”
Tôi và Tuyền béo xưa nay
là hạng người “không sợ Lý Quỳ hung, chỉ sợ Lưu Bị khóc”, Tôn Cửu gia đã nói
đến nước này, đương nhiên cũng không tiện làm khó lão ta nữa, nhưng tôi không
muốn ngồi một chỗ chờ chết. Núi Quan Tài tạm thời bị tầng nham thạch dưới lòng
đất chặn lại, chứng tỏ tổ sư gia phù hộ, để cho đám Mô Kim hiệu úy chúng tôi
một cơ hội sống sót, thiên cơ thần diệu, điềm trời khó hiểu, ai dám nói chắc
được kiếp nạn cuối cùng có xảy ra hay không? Vạn nhất đám người thủ lĩnh cho Ô
Dương vương kia tính sai, chúng tôi ngồi đây chờ chết há chằng phải đã đánh mất
cơ hội tốt hay sao?
Tôi và Tuyền béo trao
đổi qua một chút, quyết định trưng cầu ý kiến của Shirley Dương và Út trước,
rốt cuộc nên mạo hiểm xông ra ngoài núi hay ở đây chờ chết? Vì đồng chí Lenin
từng nói: từ kinh nghiệm của tất cả các cuộc vận động giải phóng cho thấy,
thành bại của cách mạng luôn quyết định bởi mức độ tham gia của phụ nữ vào quá
trình giải phóng.
Út không có ý kiến gì,
nhưng đối diện với lựa chọn sống chết, đương nhiên cô muốn sống không muốn
chết, còn Shirley Dương cũng cho rằng, việc là do người làm, những tù nhân
trong thạch lao từng bị cực hình tàn khốc hành hạ, khi họ tính toán thiên cơ
cho Phong Soái Cổ, có lẽ đã chôn xuống một mối họa ngầm. Tuy rằng khả năng này
không lớn, nhưng không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con? Không đến thời
khắc cuối cùng, không ai có thể đoán biết bất cứ điều gì.
Tôi thấy ngoài Tôn Cửu
gia, ý kiến mọi người đều đã thống nhất, bèn quyết định tranh thủ thời cơ lúc
ngọn núi dừng lại trong lòng đất, leo qua vách đá dựng đứng chạy khỏi núi Quan
Tài. Lúc này, những đoạn rễ Cửu Tử Kinh Lăng giáp trên cao cũng đã thôi rơi
xuống, đây chính là thời cơ tuyệt hảo để bắt đầu hành động. Tôi lập tức cùng
Tuyền béo xốc Tôn Cửu gia không chịu đi đâu kia lên, lần lượt chui khỏi hốc đá
ẩn mình, men theo đường điểu đạo ngoằn ngoèo đục trên vách đá, tiến lên cao.
Núi Quan Tài giống như
một cỗ quan tài đá khổng lổ không nắp, trên bốn vách đá xung quanh có rất nhiều
khe nứt và hang hốc chứa vô số quan tài treo, đại đa số là những quan tài nhỏ
khâm liệm các cơ quan nội tạng của người xưa. Trên vách đá chằng chịt điểu đạo
và sạn đạo, trong các khe đá mọc rất nhiều rêu mốc, mùi hôi thốc từ sâu bên
trong xộc lên tận não. Nhìn từ xa, những thứ ấy tựa như hoa văn rồng bay phượng
múa trên quan tài cổ, người đi bên trong, thực chỉ nhỏ bé như một con sâu quan
tài bò trong các kẽ nối giữa mảnh ván quan tài mà thôi.
Thông đạo nối nhau trên
vách đá dựng đứng ấy có một phần là sạn đạo cổ, dùng cọc gỗ đóng vào vách đá,
bên trên đặt đá phiến, còn đa phần là điểu đạo khoét lõm vào các khe nứt. Những
đoạn sạn đạo kết cấu cọc gỗ ván đá kia phần lớn đều đã hư hại trong trận động
đất lúc nãy, chỉ còn lại vài chiếc cọc gỗ mục nát đột nhiên chìa ra, chúng tôi
đành lần dò trong điểu đạo, vòng qua mấy hang động, quanh co đi lên phía trên.
Lần mò leo bám trong
bóng tối đến giữa chừng, giơ đèn pin mắt sói rọi lên trên, tôi đã có thể thấy
trên đỉnh đầu phủ một lớp Cửu Tử Kinh Lăng giáp chằng chịt, tuy đã có khá nhiều
đoạn rễ đứt lìa vì va đập, nhưng đấy chỉ là một số đoạn nằm ở nhánh cuối, nhánh
phụ, chủ thể Kinh Lăng giáp quấn quanh núi Quan Tài vẫn còn gần như hoàn hảo,
gai nhọn chằng chịt, không có khe hở nào để chui ra.
Lúc trước, cả bọn vốn
cho rằng Kinh Lăng giáp này đã rơi xuống quá nửa, nhân lúc núi Quan Tài còn
chưa xông ra đến hẻm núi lớn, có thể thoát thân ra ngoài, không ngờ vẫn kín mít
như bưng thế này, phen này, phỏng chừng kế hoạch leo núi thoát ra đành phải gác
lại.
Cả bọn không biết làm
sao, đứng trên chỗ cao này lâu chỉ sợ tuột chân rơi ngã, đành vòng đường cũ đi
xuống, không ngờ trong Bàn Cổ thần mạch lại phun ra vô số nước ngầm đen như
mực. Thì ra, khu vực dưới chân núi có nhiều khe nứt bị Kinh Lăng giáp xé toạc
ra nhất, nước ngầm từ bốn phía hòa với dòng suối máu trong mạch núi, hóa thành
những dòng nước đục cuồn cuộn, mực nước trong núi Quan Tài không ngừng dâng cao
đã nhấn chìm gần một nửa thôn Địa Tiên, nhất thời, trong núi tanh thối nồng nặc.
Những ngôi mộ cổ bên
dưới thôn Địa Tiên, cùng vô số thi thể trong Linh Tinh điện đều bị nước cuốn
ra, nổi lên theo làn nước đen không ngừng dâng cao. Chúng tôi nhìn không rõ
cảnh tượng phía xa, nhưng mặt nước trong tầm chiếu sáng của ngọn đèn gắn trên
mũ lềnh phềnh đầy xác cổ và quan quách minh khí, tất cả đều đang xoay tròn
trong xoáy nước. Tôi chợt thấy lạnh buốt cả cõi lòng, trước mắt chính là cảnh
tượng biển máu núi thây, tình thế bây giờ đúng là tiến thoái lưỡng nan, lối
thoát ra ngoài núi đều đã bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp bít kín, còn trong núi, mực
nước đang dâng lên với tốc độ chóng mặt, rơi xuống vùng nước mù mịt đầy thi khí
kia cũng đừng hòng sống sót. Lâm vào chốn thiên la địa võng núi Quan Tài này,
thật đúng là mọc cánh cũng khó thoát.
Đang khi chúng tôi còn
bối rối chưa biết xoay xở ra sao, đột nhiên một âm thanh kinh thiên động địa
vang lên, tựa như xé đồng bẻ sắt, tiếng cọ xát không ngớt vang lên trên đỉnh
đầu, thì ra tầng tầng Cửu Tử Kinh Lăng giáp bao bọc xung quanh núi Quan Tài rốt
cuộc cũng không chống nổi thế nước cuồn cuộn xung kích, song lại bị tầng nham
thạch ở xung quanh cản trở, từng mảng từng mảng bong ra rơi xuống.
Cửu Tử Kinh Lăng giáp
chằng chịt giăng mắc, gai móc quấn vào nhau, một phần rơi khỏi núi Quan Tài,
cũng kéo theo cả những phần còn lại bóc ra khỏi khối núi.
Thể tích và trọng lượng
của núi Quan Tài lập tức giảm bớt, bị dòng nước ngầm cuồn cuộn hung dữ xối vào,
liền phá vỡ tầng nham thạch mong manh chắn đường, tiếp tục lắc lư chao đảo di
chuyển về phía trước.
Lúc Cửu Tử Kinh Lăng
giáp bị tróc ra, cả trái núi rung dộng dữ dội, chúng tôi ở bên trong khe hở
trên vách đá, suýt chút nữa bị va đập hất xuống nước, sau đó là những chuyển
động liên tiếp hết đợt này đến đợt khác tựa như dời non lấp bể, không cho người
ta ngừng tại để lấy hơi, hang dộng trong lòng đất nghiêng ngả xiêu vẹo, núi
Quan Tài cũng men theo địa thế ấy mà không ngừng chuyển động.
Chúng tôi trốn trong một
mộ thất để quan tài treo chật hẹp trên vách đá, lục phủ ngủ tạng xóc lên xóc
xuống theo cả khối núi, chỉ thấy đầu váng mắt hoa, tay chân thân thể đều mất
cảm giác thăng bằng, đầu óc chỉ còn một mảng trống rỗng, hoàn toàn không biết
mình đang ở chốn nao.
Không biết núi Quan Tài
di chuyển trong lòng đất được bao xa, cuối cùng đột nhiên dừng sững lại, bên
tai chỉ nghe tếng nước xối ầm ầm như sấm dậy, lại thấy phía trước có ánh sáng
chói mắt, tôi còn tưởng là ảo giác, nhưng gió lạnh thốc vào mặt khiến tinh thần
người ta tỉnh táo lại phần nào, định thần nhìn lại, mới phát hiện khối núi rỗng
ruột này đã tiến vào đến khu vực hẻm núi Quan Tài rồi.
Giờ đang là mùa lũ, hẻm
núi Quan Tài đầy những ngọn núi sừng sững, giữa những ngọn núi cao ngất, thế
nước như rồng như hổ gào thét gầm rú. Dòng nước lũ dưới lòng đất phun thành một
ngọn thác trên vách đá ngay phía trên dòng sông dưới đáy sơn cốc, núi Quan Tài
trôi theo dòng nước, đầu phía trước đụng vào vách đá đối diện, đoạn sau mắc lại
ở miệng thác, cứ vậy treo lơ lửng giữa từng không.
Thể tích núi Quan Tài
tuy không nhỏ, nhưng ra đến hẻm núi lớn này lại trở nên nhỏ bé vô cùng, không
thể so sánh với những ngọn núi đá sừng sững xung quanh, may mà hẻm núi dốc đứng
chật hẹp mới khiến núi Quan Tài chưa rơi thẳng xuống dòng sông lớn bên dưới.
Nhưng khối núi bị dòng nước xối, lại bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp xâm thực cả mấy
trăm năm, lúc này cả bốn vách đá “mặt quan tài” đều đã thủng lỗ chỗ, tổn hại
nặng nề, giống như một cỗ quan tài treo mục nát nghìn năm, trần mình giữa cuồng
phong bão tố, bất cứ lúc nào cũng có thể bị dòng nước xiết xối cho vỡ tan tành.
Lúc này, bên ngoài núi
đang là ban ngày, chúng tôi ở trên vách đá vẫn chưa định thần lại, sờ đầu sờ
chân thấy vẫn còn ở nguyên vị trí cũ, ai nấy đều thầm thấy mình may mắn, nhưng
trong đầu vẫn mông lung hỗn loạn, chỉ còn một ý nghĩ duy nhất là mau chóng ròi
khỏi nơi này, hoang mang ngơ ngác bò lên đỉnh vách đá nghiêng ngả nhìn ngó xung
quanh, chỉ thấy trên đầu là một dải trời xanh ngắt, giữa hai vách đá cao nghìn
thước sừng sững là mây trôi bồng bềnh, núi Quan Tài tựa như một cỗ quan tài
treo lơ lửng ở giữa, dòng sông bên dưới nước chảy cuổn cuộn, thế nước sục sôi
dữ dội.
Tôi nằm rạp người trên
đỉnh vách đá ván quan tài, ngoảnh lại nhìn xuống khu vực bên trong núi Quan
Tài, tư duy bị những trận rung lắc dữ dội làm cho tản mạn giờ mới tập trung lại
được. Lúc này, thôn Địa Tiên xây trên địa mạch Bàn Cổ sớm đã sụp đổ, thần mạch
Bàn Cổ cũng bị phá vỡ, nước máu tích ở đằng trước khối núi vẫn chưa bị dòng lũ
xối hết. Vì khối núi bị nghiêng, đoạn trước của núi Quan Tài chóng vào vách núi
dựng đứng phía đối diện, đoạn sau vẫn mắc ở miệng thác nơi dòng nước ngầm phun
ra, dòng nước đục ngầu đen như mực đưa vô số xác chết trong các huyệt mộ dưới
lòng đất lên mặt nước, đẩy về phía vách núi.
Thi thể những người tuẫn
táng kia bị gió núi thổi vào lập tức sinh ra một tầng đốm đen, thấy vậy, tôi
kinh hãi kêu lên: “Chết ròi, người chết trong chôn Địa Tiên sắp thi biến hóa
thành ‘hắc hung’ rồi!”
Tôn Cửu gia kêu khổ
không ngớt: “Đó không phải cương thi, cương thi một là không thể nghe tiếng gà
gáy, hai là không thể thi biến giữa ban ngày, càng không thể không có quan
quách, những thứ này đều là thi tiên do Phong Soái Cổ luyện hóa ra đấy!”
Trong truyên thuyết dân
gian, cương thi hóa hung gọi là “sùng”, có thể vồ người hút tủy, bất luận là
“phi cương” hay “hành cương” hễ đến khi gà gáy trời sáng sẽ lập tức đổ vật ra
như khúc củi khô. Vả lại, cương thi nhất thiết phải ở trong quan tài mới thi
biến, người chết trong Linh Tinh điện ngoài Phong Soái Cổ ra, đều không được
khâm liệm trong quan quách, bao nhiêu thi thể như vậy đột nhiên xuất hiện đốm
đen trong núi rõ ràng là hết sức bất bình thường, vì vậy Tôn Cửu gia mới cho
rẳng bọn họ đều là thi tiên đã luyện ra được hình hài.
Lúc trước, mọi người còn
tưởng trong mộ chỉ có một thi tiên là Phong Soái Cổ, không ngờ lại nhiều đến
vậy, tận mắt chứng kiến đại kiếp nạn trong điểm trời đã xuất hiện, đám người
chúng tôi coi như không còn cách nào vãn hồi được nữa rồi.
Tôn Cửu gia nói: “Thi
tiên vẫn chưa hiện hình hoàn toàn, chúng ta mau đến gần xem rốt cuộc chúng là
thứ gì, dù phài liều mạng... cũng phải hủy diệt hết chúng nó đi.”
Tuyền béo ở trên cao, lá
gan đã nhỏ đi mất bảy phần vội nói: “Không phải Tuyền béo này không trượng
nghĩa, nhưng bọn chết tiệt ấy nước lửa đều không làm gì được, chúng ta biết làm
gì với chúng đây ? Theo tôi thì ai lo việc người nấy cho xong, Nhất ơi, chúng
ta mau té thôi.”
Tôi nhìn ngó quanh quất,
lập tức đưa ra quyết định, bảo cả bọn: “Núi Quan Tài này có thể vỡ tan tành bát
cứ lúc nào, phía sau đang nằm trong dòng nước xối xả của ngọn thác, muốn rời
khỏi đây chỉ có cách từ phía đầu quan tài bám vách đá leo lên thôi.” Nói xong,
liền dẫn đầu men theo vách đá quan tài đi về phía đầu đang chống lên vách núi
đối diện. Mấy người bọn Shirley Dương gọi nhau bám theo sau tôi.
Dưới dòng thác xối, núi
Quan Tài không ngừng chấn động, mọi kiến trúc bằng đất đá ở nửa sau dang dần
dần bị dòng nước cuốn vào khe núi, những thứ rơi vào dòng nước xiết bất luận
lớn hay nhỏ, đều chỉ trong nháy mắt đã biến mất không còn tăm tích. Nửa sau núi
Quan Tài chi còn lại cái vỏ không, mỗi giây mỗi phút trôi qua đều có khả năng
sụp đổ rơi xuống, người ở bên trên, tựa như đang ở giữa dòng thiên hà nghiêng
ngả, nguy hiểm tột cùng.
Chật vật mãi mới đến
được chỗ đầu quan tài chống vào vách núi, núi Quan Tài cũng càng lúc càng tan
rã sụp đổ nhanh hơn, thanh thế có thể nói là kinh hồn bạt vía, trăng sao biến
sắc. Tôi thấy Tôn Cửu gia vẫn muốn leo xuống xem xét những cái xác mọc đốm đen
khắp ngưòi kia, vội kéo lão ta lại. Núi Quan Tài chỉ trong giây lát nữa sẽ hoàn
toàn sụp đổ rơi xuống dòng sông bên dưới, những thứ trong thôn Địa Tiên bất kể
sống hay chết cũng đều bị nước sông cuốn đi, chúng tôi không cần phải phí công
vô ích làm gì, thần cơ diệu toán của Phong Soái Cổ chỉ chớp mắt sẽ hoàn toàn
tan thành bọt nước. Cũng may, chúng tôi không hoàn toàn tin vào điểm triệu
trong lời tiên tri kia, giờ còn không bỏ chạy tháo thân, thì còn đợi đến khi
nào?
Tôn Cửu gia vẫn không
yên tâm, chẳng màng an nguy của bản thân, một mực muốn đích thân xem xét rõ
ràng. Tôi vốn định mặc xác lão ta, nhưng rất nhiều chuyện vẫn còn dính dấp đến
con người này, bèn bảo Shirley Dương dẫn theo Út leo lên điểu đạo đục trên vách
đá, còn mình và Tuyền béo thì kéo Tôn Cửu gia bắt phải đi.
Leo bám trên vách núi
tầm mười mấy mét, đoán rằng núi Quan Tài cũng đến lúc rơi xuống sông rồi, nhưng
chúng tôi đều có cảm giác sự việc này quá đỗi kỳ quặc, không có vẻ gì sẽ kết thúc
ở đây, lại thấy mây mù trong hẻm núi hơi là lạ, không kìm được ngoảnh đầu xem
thử, không nhìn thì thôi, vừa quay lại nhìn, cả bọn đều bở vía.
Chỉ thấy, trên vách đá
bên dưới chúng tôi, không ngờ lại bò đầy những xác chết gặp nước nổi lên ở thôn
Địa Tiên, số lượng nhiều không kể xiết. Những người chết bồi táng theo Phong
Soái Cổ ấy, người nào người nấy toàn thân mọc kín lông mao mốc meo. Lúc này,
dưới đáy hẻm núi sương đen mù mịt, đống đổ nát còn sót lại của núi Quan Tài ẩn
hiện trong màn sương dày đặc, tựa như một hang ma ổ quỷ nổi lên giữa cơn hồng
thủy, tình cảnh thật chẳng khác nào “Phong Đô thành vừa mở, thả ra mười vạn ác
quỷ” vậy.
CHƯƠNG 61: LONG THỊ
Tôi biết ngay có chuyện
chẳng lành, tử thi trong thôn Địa Tiên đã chạy cả ra ngoài rồi. Điềm trời mà
những người bảo vệ lăng mộ Ô Dương vương tính toán, đến cuối cùng quả nhiên đều
ứng nghiệm, giờ có nói gì cũng đã muộn, sự việc đa được số mệnh định sẵn, rốt cuộc
không ai thay đổi được.
Những cái xác bò ra từ
núi Quan Tài cơ hồ đã phủ kín cả vách đá xanh sẫm, phóng mắt nhìn qua chỉ thấy
một mảng đen kịt, cái xác cổ phần đầu vỡ toác làm đôi của địa tiên Phong Soái
Cổ cũng xuất hiện trong đám xác chết, được một lũ tử thi tiền hô hậu ủng, càng
lúc càng đến gần chỗ chúng tôi. Trong lúc hỗn loạn, cũng không nhìn rõ bọn
chúng di chuyển thế nào, chỉ thấy trong chớp mắt đã đến sát dưới chân rồi.
Sự việc phát triển quá
nhanh, không để người ta kịp suy xét tính toán, tôi vội tiếp tục dịch chuyển
lên trên, chỉ mong tránh lão Phong Soái Cổ đã hóa thành thi tiên kia càng xa
càng tốt, nhưng hai chân tựa như đổ đầy chì, tuy lòng nóng như lửa, nhưng bước
chân trên điểu đạo dốc đứng lại hết sức khó khăn chậm chạp.
Tôn Cửu gia lòng đã
nguội lạnh như tro tàn, trên vai bị thương, một cánh tay hoàn toàn không thể
hoạt động, cả người ngã bổ xuống con đường chật hẹp trên vách đá, không muốn
chạy nữa. Chỉ thấy, cái xác địa tiên Phong Soái Cổ như thạch sùng bò tường leo
thẳng lên, cuốn theo một luồng sương đen, hôi thối dị thường, từ bên dưới lao
lên nhằm thẳng vào thân thể lão ta.
Tôi không kịp ra tay cứu
trợ, toàn thân lạnh toát, thầm nhủ phen này Tôn Cửu gia coi như xong đời, đang
định chạy tháo mạng thì trước mắt lại xuất hiện một cảnh tượng không thể tin
nổi. Thi tiên kia dường như không thấy Tôn Cửu gia, cứ thế lướt qua bên người
lão ta, tiếp tục bò thẳng vào Tuyền béo ở cách nó xa hơn.
Tuyền béo hét ầm lên,
lập tức quay đầu nhảy về phía một cỗ quan tài treo nằm chếch phía trên. Cậu ta
cuống lên thì liều mạng, chẳng còn để ý cao thấp gì nữa, cỗ quan tài ấy giống
như một cái đinh gỗ nhô ra khỏi vách đá, cú nhảy của Tuyền béo làm ván quan tài
thủng một lỗ lớn, cọc gỗ chống đỡ bên dưới cũng gãy mất một cây, máy cây cọc
còn lại không chịu nổi trọng lượng đè xuống, phát ra những tiếng “rắc rắc rắc”,
tựa hồ sắp gãy đến nơi.
Tuyền béo nằm rạp người
trên quan tài, nhất thời không dám nhổm lên, chỉ sợ hễ nhúc nhích cử động, cả
người lẫn quan tài sẽ lập tức rơi xuống dòng sông cuộn sóng đục ngầu bên dưới.
Cậu ta nhảy cú này, coi như đã đặt mình lên một hòn đảo trơ trọi, bốn phía xung
quanh đều không còn chỗ trốn, chỉ mong tạm thời tránh thoát mối họa trước mắt
rồi tính sau, chẳng ngờ "thi tiên” trên vách núi dựng đứng kia vẫn bám
theo như hình với bóng, đuổi sát không buông.
Tôi ở bên cạnh nhìn thấy
rõ mồn một, trong đầu chợt lóe lên một ý niệm, tại sao thi tiên Phong Soái Có
lại bỏ gần tìm xa, vòng qua Tôn Cửu gia mà lao tới chỗ Tuyền béo như vậy? Chẳng
lẽ Phong Soái Cổ chết rồi vẫn nhận ra được hậu duệ của nhà họ Phong Quan Sơn
thái bảo hay sao? Chuyện khác thì tôi không rõ, nhưng đã làm nghề đổ đấu này tự
nhiên không thể tách khỏi những thứ xác cổ, minh khí, quan quách, bao năm nay
mưa dầm thấm đất, kiến thức của tôi cũng không thể nói là không nhiều, theo tôi
được biết, phàm xác chết bật dậy vồ người,hiển nhiên là do bị dương khí của
người sống hẫp dẫn, trong dân gian lẫn đạo giáo đều gọi đây là hiện tượng “long
thị".
Trong truyền thuyết, mắt
rồng chỉ có thể nhìn thấy những thứ có sinh mệnh, còn mắt cương thi hoàn toàn
vô dụng, chỉ có thể dựa vào cảm ứng với dòng điện hay luồng khí truyền ra từ
sinh vật hoặc vật môi giới, vì vậy trong dân gian mới có cách nói “long thị” này. Thi tiên Phong Soái Cổ vòng qua
Tôn Cửu gia, chứng tỏ điều gì? Lẽ nào Tôn Cửu gia không phải “xác sống”, cũng
không phải “người sống”, ngay cả linh hồn cũng không có, mà chỉ là một “cái
bóng” trong mắt chúng tôi thôi ?
Tôn Cửu gia tâm tư thâm
trầm, dường như đã hoàn toàn kế thừa được truyền thống hành sự bí ẩn dị thường
của Quan Sơn thái bảo, trông thấy thi hài của cha anh mình ở hẻm núi Quan Tài,
mà lão ta vẫn có thể không chút động lòng, lại hao phí gần hết một đời để lên
kế hoạch vào thôn Địa Tiên trộm mộ hủy xác... những hành vi ấy người bình
thường không dễ gì làm được, nhưng vẫn có thể xem là hợp tình hợp lý. Những
hiện tượng bất thường thực sự ở Tôn Cửu gia, đều xuất hiện sau khi chúng tôi
tiến vào mộ cổ Ô Dương vương.
Cũng chính trong địa
cung từng mai táng Ô Dương vương những bí mật ẩn giấu của Tôn Cửu gia mới dần
dần hé lộ, một học giả khảo cổ không ngờ lại sở hữu thuật yêu tà đã thất truyền
từ lâu, mà đấy mới chỉ là “một góc của núi băng”. Tiếp đó, mọi người còn phát
hiện ra, trên người lão ta xuất hiện thi trùng, tỏ ra vô cùng sợ hãi móng lừa
đen, gần như là một cỗ xác sống biết đi, nhưng lão ta lại hoàn toàn không có
phản ứng gì trước gương cổ Quy Khư, ngọn nến dùng để chiêm nghiệm hung cát dữ
lành trong bí thuật Mô Kim cũng không có tác dụng với Tôn Cửu gia, tựa như
người này không phải là gì cả, không phải ma, không phải người, càng không phải
xác sống. Nếu loại trừ những khả năng này, vậy lão ta có thể là thứ gì chứ? Lão
ta có hữu hình hữu chất, có máu có thịt, bước đi có bóng, lẽ nào người này mới
là thi tiên thực sự trong núi Quan Tài hay sao?
Lúc trước, tôi cũng từng
có suy đoán như vậy, nhưng không có bằng cớ xác nhận, vẫn muốn mang lão ta rời
núi rồi điều tra kỹ lại sau, nhưng lúc này, lại thấy dị tượng xuất hiện trên
người Tôn Cửu gia. Những tồn tại nẳm ngoài lẽ thường rất dễ khiến người ta sợ
hãi, trong tiềm thức, tôi vốn chẳng hề tin vào những chuyện kỳ dị thế này,
nhưng sự việc sờ sờ trước mắt, muốn không tin cũng không được, nghĩ tới đây, da
đầu tôi chợt thấy tê rền rần như chạm phải điện.
Trong một thoáng ngắn
ngủi như chớp lóe ấy, tôi cũng không thể nghĩ ngợi quá nhiều, rạp mình trên
điểu đạo ngây ra một giây, đã thấy Tuyền béo rơi vào hoàn cảnh bị cô lập, tình
thế nguy hiểm vô cùng, tôi lập tức gạt hết những ý nghĩ rối như tơ vò ấy ra
khỏi đầu, cũng không buồn để ý đến Tôn Cửu gia nằm bất động kia nữa, vội vàng
vẫy tay ra hiệu với shirley Dương đã leo lên chỗ cao hơn, bảo cô nhanh chóng
cứu viện.
Vì phương pháp liên lạc
của chúng tôi trước nay vẫn tương đối lạc hậu, gặp tình huống khoảng cách tương
đối xa, về cơ bản đều dựa vào hò hét để gọi nhau, trao đổi thông tin chủ yếu
bằng tay, nhưng ở với nhau lâu ngày thành ra ăn ý,chỉ cần một động tác tay đơn
giản cũng có thể truyền đạt ý đồ. Shirley Dương ở bên trên nhoài người ra nhìn,
lập tức hiểu ngay, cô cũng biết tình thế trước mắt như ngàn cân treo sợi tóc,
hết sức nguy ngập, ném phi hổ trảo xuống đã không kịp. Cũng may, trong hẻm núi
này đâu đâu cũng có quan tài treo, cô liền gọi út, hai người hợp sức đẩy một cỗ
quan tài treo ở đằng trước xuống vách núi dựng đứng.
Tuyền béo thấy trên đầu
có quan tài rơi xuống, vội vàng lách người né tránh, cỗ quan tài ấy “vù” một
tiếng rơi xuống bên cạnh cậu ta, vừa hay đúng chỗ Phong Soái Cổ, lập tức đập
trúng cái đầu bị vỡ toang từ phần miệng của ông ta, làm nó văng ra khỏi cổ, chỉ
còn lại cái xác không đầu vẫn bám trên vách núi.
Shirley Dương định tranh
thủ cơ hội này thả phi hổ trảo xuống tiếp ứng, nhưng lúc này lũ xác chết bò ra
khỏi núi Quan Tài đã ùn ùn trào lên, hình thành thế hợp vây trên vách núi.
Shirley Dương và Út đành không ngừng đẩy quan tài, ván đá, cọc gỗ xuống, nhưng
gần chỗ bọn họ chỉ có ba bốn cỗ quan tài treo gãy nát, làm sao ngăn nổi đám tử
thi ở thôn Địa Tiên rời núi.
Tôi biết rõ lúc này đã
là cơ hội cuối cùng, liển bức hỏi Tôn Cửu gia: “Bây giờ lũ thi tiên trong núi
Quan Tài đã chạy ra cả rồi, ông cũng phải nói xem rốt cuộc ông muốn làm cái gì,
đừng để chúng tôi chết hóa thành một lũ ma hồ đồ chứ.”
Tôn Cửu gia ngơ ngẩn
hoảng hốt, sắc mặt thâm trầm như nước, cũng không buồn nhìn tôi, chỉ đăm đăm
nhìn cái xác không đầu của Phong Soái Cổ trên vách núi, thẫn thờ đáp: “Tôi muốn
làm gì? Tôi muốn...” Lời còn chưa dứt, điểu đạo nơi chúng tôi đặt chân thình
lình sụt lún, Tôn Cửu gia cũng biết chuyên chẳng lành, chỉ kịp kêu “ối chao”
một tiếng, thân thể đã mất khống chế trên con đường đục lõm vào vách đá rộng
chưa đầy một mét. Sự việc diễn ra quá đột ngột, tôi thậm chí còn không kịp phản
ứng, đến khi hiểu ra thì lão ta dã trượt xuống khỏi vách núi cùng đám đá vụn,
rơi thẳng xuống màn sương đen mù mịt trong núi Quan Tài, không còn thấy tăm
tích đâu nữa.
Tôi vội cúi người xuống
quan sát, không thấy Tôn Cửu gia ngã xuống chỗ nào, nhưng lại trông thấy từ cần
cổ cái xác không đầu của Phong Soái Cổ, nhung nhúc bò ra một vật thể đen ngòm
như mực, tựa hố đám lông đen mọc trên xác chết, vừa ngắn vừa nhỏ. Xác cổ nằm
trong quan quách kín bưng nhiều năm, đột nhiên tiếp xúc với không khí lưu động
bên ngoài, lớp da của thi thể sẽ nảy sinh biến hóa dữ dội, co rút khô héo trong
chớp mắt, đồng thời mọc ra một lớp lông mao mốc meo, nhưng ngoại trừ Phong Soái
Cổ ra thì các xác chết trong thôn Địa Tiên đều lồ lộ trong hang động ngầm suốt
mấy trăm năm, chẳng hề có quan quách khâm liệm, vậy mà lại xuất hiện thi biến
thế này, quả là hết sức bất thường.
Sương mù đen trong hẻm
núi mỗi lúc một nhiều, vệt sáng trời khi có khi không trở nên ảm đạm lạ thường,
nhưng lần này, khoảng cách giữa tôi và thi thể Phong Soái Cổ rất gần, nhìn thấy
hết sức rõ ràng, vật chất màu đen ở bên trong xác chết chính là bóng ma” rất
giống hình người mà chúng tôi từng trông thấy trong hang ngọc phía trước Linh
Tinh điện. Trong bức Bỉnh chúc dạ hành đồ cũng ngầm miêu tả thứ vật chất màu
đen như bóng ma này.
Bọn chúng tuồng như có
thể hút chặt lên vách núi để di động nhanh chóng, tỏa ra một mùi xác thối kỳ
dị, hình thái bên ngoài không cố định, hơn nữa còn không sợ nước lửa đao
thương, xác chết bị thứ này bám vào có thể không thối rữa, không cương hóa,
thậm chí cả máu thịt trong cơ thể cũng không hề biến chất. Thời kỳ Vu Tà, người
ta coi nó là hoạt đan trấn thi, còn Quan Sơn thái bảo Phong Soái Cổ lại xem đấy
là điềm báo thi hài hóa thành tiên.
Ngoài bức tranh do Phong
Soái Cổ vẽ, cùng với các xác chết ở Linh Tinh điện và bên trong mộ thất, chắc
tôi còn trông thấy vật này ở một số nơi khác nữa, hình như ở ngay trong núi
Quan Tài, thậm chí là mộ cổ Ô Dương vương, và khu vực quan tài treo trong hẻm
núi, chỉ có điều, ấn tượng ban đầu luôn giữ vai trò chủ đạo, tôi luôn cho rằng
đấy là “thi tiên” do thứ gì đấy luyện hóa thành, mà quên mất vô số chi tiết sờ
sờ trước mắt. Thứ vật chất màu đen này có lẽ là một loại cỏ rêu sống trong môi
trường ẩm mốc tối tăm, hoặc nói cách khác, chính là rêu xác vẫn được đề cập đến
trong đạo phong thủy.
Thuật phù thủy Vu Tà và
thuật Quan Sơn chỉ mê mà nhà họ Phong nắm giữ, đều phát xuất từ phép phong thủy
cổ, trong đó phong thủy thiên tinh chiếm tỷ trọng rất lớn. Những thứ này và
thuật phong thủy âm dương được Mô Kim hiệu úy truyền đời trên thực tế đều là
phân nhánh của quẻ cổ Chu Thiên, hoàn toàn có thể nói là đồng tông đồng nguyên,
cùng một tông chỉ là trong vòng tạo hóa, trời và người hợp nhất, chỉ có điều
phong thủy cổ thâm ảo khó hiểu hơn nhiều, có rất nhiểu lý luận không thiết
thực, sau thời Hán đa phần đã không còn sử dụng nữa. Nhà họ Phong nhờ trộm mộ ở
khu vực hẻm núi Quan Tài này mà học được dị thuật, nội dung vân là phép cổ từ
thời Tam Đại, có rất nhiều điểm khác biệt so với thuật phong thủy của Hình thế
tông mà tôi xưa nay vẫn tiếp xúc, vì vậy mạch suy nghĩ trong đầu tôi từ đầu tới
giờ vẫn chứa hề chuyển ngoặt theo hướng này, giờ đây đột nhiên tỉnh ngộ ra, lập
tức hiểu được bảy tám phần.
Hẻm núi Quan Tài có hàng
nghìn hàng vạn cỗ quan tài treo khác nhau, mà thần mạch Bàn Cổ trong núi Quan
Tài lại là đất cực âm tàng phong tụ khí, bên trong chôn vùi vô số quan tài nhỏ,
những cơ quan nội tạng của xác chết ấy đặt trong núi nhiều năm sinh biến, mọc
lên một lớp rêu màu xanh đen, có thể ký sinh lên người sống hoặc xác chết. Loại
rêu thịt này chính là “hoạt đơn” mà các thầy mo thời kỳ Ô Dương vương dùng để
giữ gìn dung nhan và chống thối rữa cho xác chết.
Về sau, các thấy phù
thủy phát hiện vật này tuy có thể bảo tồn xác chết vạn năm không tiêu tan,
nhưng lại không thể để nó rời khỏi núi Quan Tài, một khi rời khỏi đất tàng
phong tụ khí, nó sẽ lợi dụng hình hài vật chủ mà sinh sôi nhanh chóng, sinh
linh trên thế gian ắt sẽ gặp phải họa hại khôn lường, vì vậy trên bia cáo tế
mới đề cập đến chuyện “đào đứt địa mạch, bít núi trấn áp”, núi Quan Tài trở
thành cấm địa thời cổ đại.
Dị thuật Phong Soái Cổ
học được, quá nửa xuất phát từ núi Quan Tài, thêm vào đó, ông ta lại mê muội
với việc tham ngộ thiên cơ để chứng đại đạo, vì vậy mới sinh ra vọng tưởng
“hoạt đơn” trong núi, ý đồ lợi dụng vật này để tu luyện thành tiên, bèn xây
dựng mộ cổ thôn Địa Tiên hòng khôi phục long khí trong địa mạch. Thực ra, cũng
không thể nói là Phong Soái Có tính toán sai lầm, đến giờ nhân quả tuần hoàn,
tất cả đều xuất hiện đúng như sự tính toán và bố trí của ông ta thuở sinh tiền,
nếu những “thi tiên” kia từ đây tản đi khắp nơi, thật không biết sẽ có bao nhiêu
người sống bị bọn chúng độ hóa nữa?
Trong bộ sách Thập lục
tự âm dương Phong thủy bí thuật mà tôi thuộc như cháo chảy, quyển chữ “Vật”
cũng có ghi chép về thứ rêu xác này, viết rằng “bên dưới mạch xấu không gì tốt
lành, rêu xác lâu ngày sinh ra thịt, để lâu năm kết thành hình người, truy đuổi
cắn nuốt dương khí của người sống, hễ rời khỏi mộ sẽ gây ra đại dịch trên thế
gian”. Đó đều là vật hung sinh ra trong những chốn mồ hoang mộ cổ, xét từ góc
độ nào đấy, chúng khá giống với Cửu Tử Kinh Lăng giáp bảo vệ lăng mộ, chỉ có
điều, một cương một nhu, vả lại thứ rêu xác này gần như không có nhược điểm nào
cả.
Trong hẻm núi Quan Tài,
từ quan tài treo trên vách đá cho tới địa cung mộ cổ, chỗ nào cũng có rêu mốc
thối rữa, nhưng tôi nhất thời bị che mắt, hiểu lầm rằng hẻm núi này là chốn đất
báu phong thủy, nơi các bậc tiên hiền ẩn sĩ chôn xác, không hề nghĩ đến chuyện
thi tiên trong truyền thuyết thì ra lại là thứ rêu mọc từ xác chết kia.
Trên vách núi dựng đứng,
mặc dù tôi đã hiểu được chân tướng của thi tiên, nhưng cũng chẳng ích lợi gì,
rêu xác ký sinh trên tử thi và truyền thuyết về thi tiên trong mộ Địa Tiên về
cơ bản là một. Lúc này, thứ rêu xác màu đen trong thi thể của toàn bộ người
chết trong thôn Địa Tiên đều đang nhung nhúc nhu động ra khỏi thân thể vật chủ,
bám vào vách núi bò đi khắp tứ phía. Nếu để bọn chúng thoát ra khỏi hẻm núi
này, ắt sẽ gây họa lớn cho nhân gian.
Tôi thấy lúc này có lấy
cứng chọi cứng cũng vô ích, nhân lúc Shirley Dương đẩy quan tài xuống chọi rơi
hai cái xác cổ bị rêu xác bám lên, vội vàng dịch người đến chỗ phía trên Tuyền
béo, rồi cùng Shirley Dương và Út thả phi hổ trảo xuống, kéo cậu ta lên khỏi cỗ
quan tài treo lung lay như sắp rụng đó. Tuyền béo vừa đánh một vòng qua cửa địa
ngục, liền đưa tay lên quệt mồ hôi trên mặt, rối rít hỏi tôi: “Tôn Lão Cửu tèo
rồi hả?”
Tôi gật gật đầu: “Chắc
là rơi xuống sông bị nước cuốn đi rồi, cũng có thể rơi vào núi Quan Tài tan
xương nát thịt, trước mắt không thể xác định, chỉ tiếc tôi vẫn còn một câu rất
quan trọng chưa kịp nói với lão ta, phỏng chừng không còn cơ hội để nói nữa
rồi.. ”
Shirley Dương và Út thấy
Tôn Cửu gia không rõ tung tích, không khỏi buồn rầu, nhưng tố chất tâm lý của
Shirley Dương rất tốt, lúc này vẫn giữ được bình tĩnh, cô hỏi tôi: “Anh Nhất,
những thi thể trong thôn Địa Tiên hình như đều bị thứ sinh vật gì đó ký sinh,
xem ra chúng ta không ngăn chặn chúng được đâu, giờ phải làm sao đây?”
Shirley Dương tâm cơ
nhạy bén, phản ứng còn nhanh hơn, sau khi nhìn rõ diện mạo của thi tiên, quả
nhiên đã có suy nghĩ giống tôi. Tuy cô không hiểu gì về phong thủy, nhưng cũng
đã đoán ra ngay trên những cái xác ấy có vật ký sinh, có điều, nay chúng tôi đã
rơi vào tuyệt cảnh, muốn sống sót thoát khỏi chỗ này còn khó, lấy đâu ra cách
đối phó với đám rêu xác trong núi Quan Tài này chứ?
Núi Quan Tài nằm vắt
ngang hẻm núi đã dần dần sụp đổ, nhưng âm khí trong lòng núi mãi không tan,
sương đen cuồn cuộn tuôn ra tựa hồ vô cùng vô tận. Từng đợt từng đợt mây mù
thoáng ẩn thoáng hiện, khiến ánh sáng trong hẻm núi càng lúc càng nhạt nhòa,
trước tình thế ấy, tôi cũng chỉ biết lo lắng suông mà thôi. Nếu tiếp tục men
theo điểu đạo sạn đạo lên trên, không biết lúc nào mới trèo qua được vách đá
dựng đứng cao cả nghìn thước này, vả lại tâm lý và thân thể của cả bọn đều đã
đạt tới cực hạn, chỉ sợ leo chưa được nửa chừng đã bị lũ rêu xác đang sinh sôi
nhanh chóng kia bắt kịp lấy mạng.
Út thấy tôi trù trừ do
dự, vội năn nỉ tôi chớ có ý định nhảy xuống nước thoát thân, cô không sợ trèo
đèo vượt núi, chỉ mỗi tội không biết bơi, từ xưa đã có một nỗi sợ thâm căn cố
đế với những dòng nước xiết.
Tôi bảo cô không cần lo
lắng, tôi sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện chạy bằng đường thủy, trong hẻm núi
này nước chảy rất xiết, dù người bơi giỏi đến mấy, nhảy xuống đó cũng chẳng
sống nổi. Nhưng lòng tôi lúc này cũng đang như lửa đốt, lũ rêu xác ở xung quanh
phỏng chừng chỉ mấy phút nữa sẽ áp sát tới, rơi vào cảnh ngộ khốn cùng này, trừ
phi mọc cánh bay thẳng lên trời, bằng không làm sao có thể thoát khỏi đại nạn
dây?
Tuyền béo ngó nghiêng
xuống dưới, đoạn nói: “Đường thủy tuy nguy hiểm, nhưng dựa vào cặp giò của
chúng ta mà chạy thì mười phần chết tám là cái chắc, trước mắt chỉ có cách học
theo Tôn Lão Cửu, nhảy xuống nước lẩn vào Long cung mà thoát thân...”
Tôi hiểu Tuyển béo hơn
ai hết, cậu ta là loại người chết đến đít vẫn còn cứng miệng, câu nói vừa rồi
chắc chắn chỉ để mình thêm vững dạ mà thôi. Nhưng kẻ nói vô tâm, người nghe hữu
ý, mấy lời này lọt vào tai tôi, đặc biệt là hai từ “Tôn Lão Cửu” và “Long
cung”, bất giác một ý nghĩ lóe lên trong đầu...
Trên người Tôn Cửu gia
có rất nhiều dấu hiệu khiến người ta khó lòng hiểu nổi, lão ta bám mình trên
vách đá, không ngờ lại có thể tránh được rêu xác, khiến tôi khi ấy còn ngờ vực
là thi tiên mở long nhãn, trong trạng thái “long thị” không thể nhìn thấy loại
tồn tại không phải người, không phải ma như lão ta. Tuy tôi đã nghe nói đến
truyền thuyết này từ rất lâu, nhưng cách nói “người không thấy gió, ma không
thấy đất, cá không thấy nước, rồng không thấy mọi vật”, lại là từ miệng Trương
Doanh Xuyên, đây cũng chính là chỗ bí ảo của gương cổ Quy Khư và hai miếng quẻ
phù bằng đồng xanh.
CHƯƠNG 62: THIÊN NỘ
Mỗi khi tôi nhớ đến
miếng quẻ phù bằng đồng xanh ấy, thảm trạng bị lôi hỏa thiêu đốt của Lão Dương
Bì sau khi thi biến mười mấy năm trước lại hiện lên rõ mồn một như vừa mới hôm
qua. Thứ rêu xác kia là do xác thối trong huyệt nhãn phong thủy chuyển hóa mà
thành, nếu đã mở ra long thị, đương nhiên cũng thuộc một dạng thi biến, những
thứ rêu thịt rêu xác này cực kỳ âm trầm thối nát, lửa thường không thể hủy diệt
nó được, có lẽ mảnh long phù bằng đồng xanh trong túi tôi đây, mới là cơ hội
duy nhất.
Ý niệm vừa lóe lên, tôi
lập tức xé toác cái túi kín mang theo bên mình, lấy ra mảnh long phù đồng xanh,
Tuyền béo ở bên cạnh hình như cũng sực hiểu ra ý đồ của tôi, vội kêu lên:
“Không được đâu, vốn đã chẳng đổ đấu được món gì ra hồn, lại còn phải bù cả
miếng quẻ phù vào nữa, tham ô lãng phí là tội lớn lắm, buôn bán lỗ vốn tuyệt
đối không nên làm...”
Tôi biết miếng bùa bằng
đồng này đối với chúng tôi có ý nghĩa không phải tầm thường, nhưng trong ba món
đồ đồng xanh ở Quy Khư mà chúng tôi có được, hai món còn lại đã bị mất hết tính
đồng, chỉ còn lại miếng long phù đứng đầu trong bốn miếng quẻ phù này, vả lại,
nó còn được chôn trong động Bách Nhãn nhiều năm, hải khí ngấm vào trong đồng
không tiêu tán, sau khi cân nhắc thiệt hơn, tôi thấy chỉ còn cách dằn lòng bỏ
đi vật này mới có khả năng phá hủy hoàn toàn thôn Địa Tiên. Đồng thời, sinh tử
của bốn người chúng tôi cũng đều do nó quyết định.
Nghĩ tới đây, tôi bèn nghiến
răng, nhìn cái xác không đầu bên dưới đã đến gần trong gang tấc, vung tay ném
long phù xuống. Hải khí bên trong chất đồng của long phù trải qua mấy nghìn năm
vẫn chưa tan, chỉ thấy rêu xác bên trong hình hài người chết khi phun nuốt khí
đen, đã cuốn lấy cả miếng long phù vào bên trong.
Gần như đồng thời, trong
hẻm núi, mây đen đã che đầy trời, tối đến mức mặt đối mặt cũng không nhìn thấy
đường nét hình dáng của người kia, một đợt sấm ì ùng vang lên trong màn mây mù
mịt. Tôi biết, đây là điềm sấm sét sắp giáng xuống, vội vàng bảo mấy người kia
nằm rạp xuống đất. Tôi chưa kịp cúi người né tránh, đã thấy một tia sét tựa như
rồng uốn xẹt qua trước mắt, làm khoảng không gian giữa hai vách núi dựng đứng
bừng lên một quấng sáng chói mắt, sấm vang sét giật ngay bên cạnh, tiếng nổ ầm
ầm đinh tai nhức óc, khiến nghìn vạn cỗ quan tài trong hẻm núi đều nhất tề rung
lên bần bật.
Những người canh giữ mộ
cổ Ô Dương vương bị Quan Sơn thái bảo Phong Soái Cổ giam cầm, từng giúp ông ta
suy đoán thiên cơ, cuối cùng ứng nghiệm như thần, núi Quan Tài đã bị cơn lũ
cuốn từ lòng đất ra đến hẻm núi lớn bên ngoài, nẳm lơ lửng vắt ngang trên dòng
sông cuốn cuộn gào thét, vô số thi tiên trong núi thừa cơ thoát ra ngoài, hoàn
toàn ứng hợp với tượng “phá sơn xuất sát” miêu tả trong điềm trời.
Chúng tôi bị vây khốn
trên vách đá trong hẻm núi, không còn đường thoát, trong lúc tuyệt vọng đã chụp
được một cọng rơm cứu mạng. Nói không chừng, đồ đồng xanh ở Quy Khư lại cổ thể
xoay chuyển càn khôn, mấy món quẻ phù, gương đồng ấy đều là bí khí phong thủy
từ thời thượng cổ, ngoài tác dụng chiêm nghiệm phong thủy, quẻ tượng ra, hải
khí ẩn giấu bên trong chát đồng cũng là thứ phi phàm.
Năm xưa, Láo Dương Bì
mất mạng trên thảo nguyên Mông Cổ, trước lúc lâm chung đã lén lút nuốt quẻ phù
vào bụng, khiến lũ hoàng bì tử đào huyệt trộm xác, lại thần xui quỷ khiến thế
nào bị chúng tôi đào lên, cuối cùng thì bị sét đánh, thi thể Lão Dương Bì và
con chồn lông vàng đến trộm quẻ phù đều bị lôi hỏa giáng trúng, cháy thành một
đống than.
Đáng tiếc, người xưa đã
khuất, tôi vĩnh viễn không thể biết được dụng ý thật sự của Lão Dương Bì nữa,
nhiều năm sau đó, tôi lại từ chỗ lão Trần mù và Tôn Cửu gia ít nhiều nghe được
chút thông tin, dựa vào đó suy đoán, có thể thấy năm xưa Lão Dương Bì quả thật
có ý đồ quá phận. Từ xưa, lão đã nghe nói long phù không mắt là bí khí phong
thủy, toan chiếm lấy làm của riêng sau khi chết hòng giúp con cháu đời sau được
phát vượng, nên mới sắp xếp ra chuyện quái đản như khỏa thân chôn chổng đẩu
xuống đất như thế. Chỉ là, lão không biết hành vi ấy rất dễ bị trời trừng phạt,
cuối cùng phải nhận lấy kết cục “mưu mô vô dụng, quỷ kế thành không”
Trước khi tìm thấy di
thể của trung đoàn trưởng Phong trong hẻm núi Quan Tài, tôi từng trông thấy
trong quan tài treo trên vách đá có xác của một ẩn sĩ không bị thối rữa, cái
xác ấy vẫn còn nguyên cả râu tóc, thần thái y như lúc sống, thoạt nhìn toát lên
vẻ tiên phong đạo cốt, hoàn toàn không giống xác cổ nghìn năm, có lẽ là cương
thi từ thời cổ đại còn lưu tồn đến ngày nay. Bấy giờ, tôi đang chuẩn bị sử dụng
quẻ phù và gương cổ suy đoán phương vị của mộ cổ Địa Tiên ngay cạnh cỗ quan tài
treo ấy, kết quả khiến gần đó giáng xuống một trận sấm sét ì ùng, làm cả bọn
kinh hãi một phen.
Trải qua hai trường hợp
như vậy, khiến tôi lờ mờ có cảm giác miếng long phù bằng đồng xanh này còn ẩn
giấu rất nhiều bí mật, đây có thể là một miếng “lôi phù”. Kỳ thực, khi xác khô
thi biến, trong xác có rất nhiều khí ác cực âm, gặp phải dương khí ở thế giới
bên ngoài sẽ nảy sinh hiện tượng âm dương va chạm, lại được luồng khí hỗn độn
mờ mịt bất minh trong đồ đồng xanh ở Quy Khư kia hấp dẫn, liền gây ra phóng
điện ở tầng mây thấp, sản sinh sấm sét trong thời gian cực ngắn.
Người cổ đại tin vào câu
chuyện thần thoại “ở trong Lôi trạch có Lôi thần, đầu rồng mình người, vỗ bụng
thành sấm”, ngỡ rằng sấm sét lôi điện đánh người phá nhà là do trời cao nổi
giận, trừng phạt con người. Đến thời Hán, người ta bắt đẩu dùng lý luận hai khí
âm dương tác động lẫn nhau để giải thích hiện tượng sấm sét, đưa ra quan điểm
“m dương kề nhau, cảm thành sấm, kích thành sét”, có nghĩa là, âm khí và dương
khí tiếp xúc, phát sinh chấn động sẽ hình thành sấm, khi chấn động kịch liệt sẽ
hình chành sét giáng xuống.
Mặc dù tôi cũng từng có
ý nghĩ này, nhưng không thể xác định sự tình thực hư, lúc này đã rơi vào đường
cùng, không còn phương cách nào khác nữa, khó khăn lắm tôi mới nghĩ ra được một
cách, trong đầu chỉ còn ý nghĩ trời không tuyệt đường người, tâm trạng đâu mà
xem xét nó có khả thi hay không, lập tức cắm miếng long phù nhắm vào đống rêu
xác kia ném tới, vừa khéo rơi đúng vào cổ cái xác không đầu của Phong Soái Cổ.
Ai ngờ thi khí trong núi
Quan Tài kia quá nặng nề, trong đạo phong thủy gọi là “phá sơn thấu huyệt, quần
long kinh chập”, là điềm cực hung, lập tức khiến trong hẻm núi sâu này xuất
hiện sấm sét. Sấm sét này không phát ra từ tầng mây trên cao, mà lại nảy sinh
trong màn sương đen dưới đáy hẻm núi, chỗ tiếp giáp với mặt nước.
Thường có câu, “sấm đánh
không kịp bưng tai”, sấm sét trong hẻm núi bảo đến là đến, trong tiếng sấm ì
ùng lúc đấu, bốn bề vẫn còn tối như hũ nút, nhưng khi một tia chớp hình cành
cây chĩa nhánh vạch ngang hẻm núi tựa như rồng thần thoạt hiện, ánh điện quang
chói mắt lập tức chiếu sáng bừng cả vách đá lên.
Điểu đạo nơi chúng tôi
náu mình cực kỳ dốc và chật hẹp, đa phần không rộng quá một thước, khi tia sét
lướt qua bên cạnh, tôi còn chưa kịp rạp người né tránh, tranh thủ ánh sáng lóe
lên trong chớp mắt ấy, có thể nhìn thấy bốn phía xung quanh đều phủ đầy rêu
xác. Thi thể của vô số người chết trong thôn Địa Tiên hầu hết đều đã bị xé toạc
hình hài, bên trong lộ ra từng mảng rêu xác đen kịt nhu động, hình thái thiên
kỳ bách quái, nhầy nhụa máu tươi bám lên vách đá, chen chúc lúc nhúc bò lên cao.
Tia sét tựa như con rồng
lướt qua bầu không kia lóc lên rồi vụt tắt, hẻm núi Quan Tài lại chìm vào màn
sương đen mù mịt mênh mang, không gian trong hẻm núi từ tối tăm chuyển sáng rói
lại chìm vào bóng đêm chỉ trong một cái chớp mắt, hai mắt tôi bị ánh chớp làm
lóa, chưa kịp chớp chớp đã nghe tiếng sấm nổ ùng ùng, tiếng vang còn chứa dứt,
dưới đáy khe núi tăm tối bỗng bùng lên vô số quả cầu lửa, tất cả đám rêu xác
đều bị lôi hỏa giáng trúng, dường như mảng thi khí mù mịt như sương ở xung
quanh cũng bùng cháy, thiêu đốt cả không khí.
Lôi hỏa lan ra cả hai
vách núi ké bên núi Quan Tài, tựa một cơn lốc xoáy vừa nóng bỏng dị thường lại
vừa lạnh buốt thấu xương cuốn lấy, tôi nằm mơ cũng không thể ngờ mình lại gây
nên biến động lớn chừng này, chỉ thấy những mảng rêu xác lớn nhỏ xung quanh đều
bị cầu lửa bao bọc, không ngừng vùng vẫy rơi khỏi vách đá dựng đứng, bèn vội
vàng nằm rạp xuống né tránh. Lúc này, không biết có phải tai bị ong ong vì
tiếng sấm hay không, mà tôi lại nghe thấy trong hẻm núi dường như toàn những
tiếng gào rít thê thiết dị thường.
Trong lý luận thông
thường của thuật phong thủy thanh ô, vẫn cho rằng lửa trên thế gian ngoài quỷ
hỏa thần bí ra, còn ba loại lửa khác nữa, lần lượt là nhân hỏa, long hỏa và
thiên hỏa. Long hỏa có thể cháy trong nước, nhân hỏa là thứ lửa bình thường khi
đốt củi đốt than; còn thiên hỏa tức là lôi hỏa, hay còn gọi là hận thế hỏa, nếu
đức hạnh của người đời suy đồi bại hoại, hoặc có hiện tượng vật già hóa tinh
hóa quái, sẽ rất dễ bị lôi hỏa giáng xuống. Dân gian cho rằng, đó là Lôi thần
mở mắt, chuyên tru diệt yêu tà gian ác, kỳ thực, đó chính là dị biến của “khí”
trong bốn yếu tố phong thủy “hình, thế, lý, khí”. Dị biến dẫn đến thiên địa mất
cân bằng, mới khiến trong tầng mây có lôi điện giao kích.
Trong không khí nồng nặc
mùi ô zôn tanh tanh, cùng với mùi hôi thối khi đốt xác chết, làm chúng tôi cơ
hồ tắc thở, Hai mắt tối sầm lại. Bốn người chúng tôi vội đeo mặt nạ phòng độc,
nằm rạp người xuống không dám nhúc nhích, cũng may quần áo mặc trên người đều
bằng chất vải chịu nước chịu lửa, lại thêm mặt nạ phòng độc ngăn cách hơi thở
của người sống với bên ngoài nên mới may mắn thoát nạn, bằng không chỉ trong
giây lát, cả bọn đã bị lôi hỏa thiêu chết trong hẻm núi Quan Tài này rồi.
Bốn người đều kinh hồn
táng đởm, không biết đã bao lâu trôi qua, tôi nhìn qua lỗ quan sát của mặt nạ
phòng độc, chỉ thấy màn sương thi khí bị lôi hỏa thiêu đốt dã tan hết, ánh mặt
trời lại chiếu rọi xuống hẻm núi sâu, vô số muội than đen kịt bay khắp trời,
vẫn còn một vài đốm lửa chưa tắt hẳn, Xem chừng kiếp nạn đã qua, bấy giờ tôi
mới cởi bỏ mặt nạ phòng độc, một luồng gió núi lành lạnh ùa tới, tuy rằng mùi
cháy khét nồng nặc trong không khí vẫn chưa tan hết, nhưng cảm giác bức bối khó
chịu nơi lồng ngực đã lập tức bớt đi phần nhiều.
Mọi người trên vách đá
đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy trong tầm mắt toàn những cảnh tượng ghê hồn khiếp
vía, sau phen chết hụt, càng khiến người ta thổn thức không thôi. Thôn Địa Tiên
trong núi Quan Tài bị lôi hỏa giáng xuống, mưu đồ phá sơn xuất sát của địa tiên
Phong Soái Cổ tựa như băng chảy mây tan, trong khoảnh khắc đã thành tro bụi.
Vệt nắng trên đỉnh hẻm núi lại hiển lộ, ngoài những vết tích cháy đầy vách đá,
không còn xác chết nào nữa, chỉ có vô số mảng muội than đen kịt sót lại sau khi
lôi hỏa thiêu đốt thi hài dập dờn phiêu đãng trong làn gió núi, như một trận
tuyết đen giăng giăng khắp bầu trời trong hẻm núi.
Trong núi Quan Tài gác
nghiêng lên hai vách núi đá, “ván quan tài” ở bốn phía xung quanh đã bắt đầu
rạn nứt đổ vỡ, địa mạch Bàn Cổ và thôn Địa Tiên trong núi đều bị nước lửa hủy
hoại sạch trơn, trong đống bùn nước nhầy nhão chỉ còn lại một đống gạch ngói
tan hoang, ngọc thạch bên trong và nham thạch vỡ vụn, những khối đá, mảng ngói
vỡ không ngừng rơi xuống dòng nước bên dưới.
Điều khiến người ta bất
ngờ nhất là, thôn Địa Tiên quả nhiên đã ứng với điềm “phá sơn xuất sát”, sự
việc đã định sẵn trong mệnh trời rốt cuộc vẫn xảy ra, đây là kết quả chân thực
mà những người bảo vệ lăng mộ Ô Dương vương dùng quẻ cổ suy diễn cho Phong Soái
Cổ, nhưng trong quẻ tượng này lại ẩn giấu lời nguyền ác độc của bọn họ.
Ngay cả bậc kỳ nhân có
dị thuật thông thiên như Phong Soái Cổ cũng không phát giác được bên trong quẻ
tượng này lại chôn giấu huyền cơ, những người bảo vệ lăng mộ bị Quan Sơn thái
bảo dùng cực hình hành hạ ấy chỉ tính ra “phá sơn xuất sát” là điểm triệu cuối
cùng của thiên tượng, nhưng lại giấu đi kết quả sẽ xuất hiện ngay sau đó, khiến
thôn Địa Tiên mà Phong Soái Cổ dốc hết tâm cơ xây dựng cuối cùng bị hủy bởi lôi
hỏa.
Trải qua những sự việc
này, khiến chúng tôi không thể không tin, trong một cõi nào đó, đích thực có
thiên ý sắp đặt. Kỳ thực, các bậc tiên hiền cổ đại sớm đã nói rõ đạo lý này: “U
thâm vi diệu, ấy là cơ trời; tạo hóa biến dịch, ấy là lẽ trời; đem thiên lý ứng
với người, ấy là phải; tiết lộ thiên cơ để mê hoặc người, trời ắt trừng phạt.”
Có thể dùng nguyên lý
biến hóa của trời đất để chỉ dẫn cho mọi người, như vậy mới có thể sinh sôi
không ngừng, khoan hậu bao dung; nhưng thiên cơ vi diệu sâu xa, phàm phu tục tử
ở cõi thế tục không nên trộm ngó bí mật trong đó, bằng không ắt sẽ dẫn đến tai
họa, hại mình hại người. Có lẽ thuật luyện đơn tu tiên, chưa chắc chỉ là kỳ
thuật trong truyền thuyết, nhưng cần phải có tấm lòng phẳng lặng, không muốn
không cầu, luyện tập lâu dài sẽ có thể cường gân kiện cốt, diên niên ích thọ.
Tiếc rằng địa tiên Phong Soái Cổ kia vổn là kẻ tuyệt thế kỳ tài, nhưng lại mê
muội với pháp môn cứu thế độ người, còn ấp ủ những ý nghĩ ngông cuồng trái
phận, bức ép những người dân còn sót lại từ thời kỳ Ô Dương vương suy tính thiên
cơ, ý đồ luyện ra thi tiên kết quả bị bọn họ lừa gạt đến nỗi tự châm lửa thiêu
mình, nhân lấy kết cục tan thành tro bụi.
Hẻm núi Quan Tài này mây
mưa vô thường, trời vừa mới quang, đột nhiên lại có mây mù tụ hợp, thoáng cái
đã thấy mưa to như trút sầm sập đổ xuống, rửa hết những bụi tro bay lơ lửng
trên không trung. Chúng tôi bị mưa xối cho toàn thân ướt sũng, lập tức cảm thấy
xương cốt rã rời, ba vạn sáu nghìn lỗ chân lông từ trên xuống dưới thảy đều đau
nhức, đành nán lại trong hốc đá đặt quan tài treo trên lưng chừng vách đá nghỉ
ngơi cho lại sức.
Mọi người tuy mệt mỏi rã
rời, nhưng cả bọn sống sót qua kiếp nạn, lại được nhìn thấy ánh mặt trời, mà
thứ đặc sản “thi tiên” của núi Quan Tài cũng bị hủy diệt, ai nầy đều lấy làm
vui mừng.
Tôi và Tuyền béo nhắc
lại chuyện bị Tôn Cửu gia dụ đến núi Quan Tài đổ đấu, coi như một cú va vấp, cả
chuyến đi này hoàn toàn bị người ta lợi dụng làm tay đấm. Trong địa mạch Bàn Cổ
tuy có thi đơn, nhưng lại không phải thứ nội đơn có thể cứu mạng Đa Linh, hai
thứ này hoàn toàn khác nhau; vả lại, cuối cùng Tôn Cửu gia vẫn không rõ tăm
tích, muốn tìm lão ta hỏi tội cũng khó. Nhưng phen này có thể an toàn trở ra,
không bị mất chân cụt tay, cũng coi như là tổ sư gia hiển linh, khí số của Mô
Kim hiệu úy chúng tôi chưa tuyệt rồi.
Hai chúng tôi càng nói
càng phẫn hận, nước bọt bắn tung tóe, những lời ác độc có thể nghĩ được đều
tuôn ra hét một lượt, bây giờ thôn Địa Tiên đã không còn tồn tại nữa, nếu Tôn
Cửu gia có mặt ở đây lúc này, không khéo chúng tôi ăn tươi nuốt sống lão ta tại
chỗ cũng nên.
Út không hề biết chuyện
đi Nam Hải mò ngọc, cũng không hiểu tại sao chúng tôi lại cáu tiết lên như thế,
chỉ cảm thấy đi một vòng trong huyệt mộ của Phong Soái Cổ mà vẫn còn sống sót
trở ra đã coi như niềm vui bất ngờ rồi, bèn lên tiếng hỏi rõ đều đuôi câu
chuyện.
Tuyền béo lập tức gập
ngón tay đếm ra mười tội lớn của Tôn Cửu gia, đến cả vấn đề tác phong năm xưa
cũng tính vào, đương nhiên chuyện này chỉ là cậu ta nghe hơi nồi chõ thôi. Nghe
nói, năm xưa khi Tôn Cửu gia vừa từ nông trường cải tạo lao động về, đã lợi
dụng cơ hội tham gia công tác khảo cổ tại hiện trường lén lút quan hệ với nữ
chủ nhà, kết quả bị nông dân trong thôn bắt được quả tang. Thời bấy giờ, đó là
chuyện lớn tày đình, lão ta bị tẩn cho một trận tại chỗ, nếu không phải có các
đồng nghiệp nói đỡ thì đã bị dân làng bắt trói giải đến công an rồi.
Về sau, tổ chức yêu cầu
Tôn Cửu gia viết kiểm điểm, lão ta lại giảo biện nói rằng mình và người đàn bà
nông thôn kia không hề có vấn đề về mặt tác phong. Sự việc lúc ấy hết sức đặc
thù, vì bấy giờ ở nông thôn toàn nhà bằng gạch mộc, nhiều rận vô cùng, chúng
nhảy lên khắp người, lão ta và bà chủ nhà ban đêm rảnh rỗi không có việc gì
làm, bèn ngồi trên giường lột hết quần áo ra bắt rận cho nhau, ngoài ra không
làm bất cứ điều gì khác. Thái độ của Tôn Cửu gia trước sự việc này cực kỳ ngoan
cố, nhất quyết không chịu thừa nhận chân tướng, khai ra sự thật.
Tuyền béo còn nói, Tôn
Cửu gia chính là loại người như vậy, len lỏi vào kẽ hở của công cuộc cải cách
mở cửa, chấn hưng kinh tế, còn kiếm được cái học hàm giáo sư rởm, kỳ thực đằng
sau lớp vỏ bọc ấy vẫn còn không biết bao nhiêu tội ác phản động chưa lộ ra,
hạng người này lẽ ra phải xử bắn bảy tám chín mười lần mới thỏa lòng thỏa dạ
được. Cậu ta vốn đã chướng mắt giáo sư Tôn từ trước, lúc này mồm mép trơn tuột,
bịa tạc lung tung bao nhiêu tội ác xấu xa có thể tưởng tượng được đều áp cả lên
người lão ta.
Tuyền béo càng nói càng
chẳng ra sao, Shirley Dương và Út đều lắc đầu không tin. Shirley Dương nói:
“Giáo sư Tôn không thể nào là gián điệp của Cục Tình báo Trung ương Mỹ được,
nhưng ông ta là hậu duệ của Quan Sơn thái bảo, cũng không phải người làm công
tác khảo cổ thông thường. Thân phận chuyên gia giải đọc long cốt, có lẽ đúng là
một lớp ngụy trang của ông ta. Việc mà cả đời này ông ta muốn làm, e rằng chỉ
có mỗi chuyện vào thôn Địa Tiên tìm Phong Soái Cổ thôi, tính cách kiên nhẫn tàn
khốc cơ hồ đã đến mức biến thái, người bình thường căn bản không thể làm nổi,
chuyện này hẳn bắt nguồn từ những gì ông ta phải trải qua trong quá khứ. Việc
đã đến nước này rồi, các anh có hận ông ta mấy cũng vô dụng, nghe tôi khuyên
một câu, tha được cho người ta thì hãy tha đi.”
Tôi nhắc lại lời Shirley
Dương: “Tha được cho người ta thì tha, nhưng Tôn Cửu gia... lão ta có phải là
người không? Trên người lão ta có dấu vết bị thi trùng cắn xé, vai bị Cửu Tử
Kinh Lăng giáp xuyên qua mà vẫn như không, thi tiên căn bản không cảm giác được
sự tồn tại của lão ta, thứ hư vô như cái bóng ấy, rốt cuộc là gì đây ?”
Bọn tôi vừa băng bó vết
thương, vừa thấp giọng bàn luận những dấu hiệu khó thể tin nói xuất hiện trên
người Tôn Cửu gia, nhưng trước sau vẫn không nắm được điểm mấu chốt, không ai
nhìn thấu nổi bí mật của hậu duệ cuối cùng nhà họ Phong. Đang lúc chuyện trò,
chợt thấy một cái bóng to tướng lướt qua vách đá sát bên, cả bọn thảy đều kinh
ngạc, trong chớp mắt chỉ thấy vật thể ấy to đến lạ thường, trên người khoác áo
bào đen, leo bám trên vách đá dựng đứng mà như đi trên đất bằng, bóng lưng lao
vút qua màn sương mù nhanh nhẹn tuyệt luân, đến mức khiến người ta khó mà tưởng
tượng nổi.
CHƯƠNG 63: NGƯỜI BẠN TRẦM LẶNG
Tôi thấy có thứ gì đó
lướt qua trên vách núi, thân hình thoăn thoắt, nhanh không thua gì loài khỉ
vượn, chỉ thấy trước mắt hoa lên một cái, thẩm nhủ chẳng lẽ là con khi Ba Sơn
mà người nhà họ Phong thuần dưỡng, nhưng thể hình con khỉ Ba Sơn trong hầm
phòng không Thanh Khê dường như không lớn đến vậy, chẳng lẽ trong núi Quan Tài
vẫn còn sót lại “thi tiên” hay sao?
Đúng lúc này, cái bóng
leo bám trên vách đá kia đột nhiên dừng lại ở chênh chếch chỗ chúng tôi, tôi
vội dụi dụi mắt, định thần nhìn kỹ, lại càng thêm kinh ngạc bội phần. Bọn tôi
đang ở giữa đoạn điểu đạo vừa chật vừa dốc, cách chúng tôi chừng vài chục mét,
có mấy cây cọc gỗ đóng trên vách đá, dùng để đặt quan tài, con khỉ Ba Sơn đang
cõng giáo sư Tôn trên lưng, dừng lại trên đó bất động trong mưa. Một người một
khỉ, cứ thế ngoái đầu lại nhìn chằm chằm vào chúng tôi, nét mặt đơ ra như gỗ.
Tôi đoán, con khỉ Ba Sơn
kia không theo bọn tôi vào hẻm núi Quan Tài, nhưng nó có linh tính, cứ quanh
quẩn ở gần đây, cảm giác được dưới lòng đất có biến động lớn, liền một mạch
vượt núi băng đèo chạy tới, đồng thời tìm được Tôn Cửu gia trong núi Quan Tài
sắp bị hủy diệt, bèn cõng lão ta leo lên vách đá, đối mặt với chúng tôi lần nữa.
Tôi thấy Tôn Cửu gia
buông thỏng một cánh tay, khắp người toàn bùn đen, gương mặt bị nước mưa xối
vào trông nhợt nhạt hết sức, lão ta không cất tiếng, nhưng tôi có cảm giác, ông
chỉ muốn xem xem chúng tôi có chuyện gì hay không, rồi sẽ lặn đi từ nay không
gặp lại mọi người nữa.
Chúng tôi và Tôn Cửu gia
cùng con khỉ Ba Sơn cứ nhìn nhau từ xa trên vách đá, mấy phút liền không ai
thốt lên một lời, vách đá trong hẻm núi Quan Tài này dốc đứng, tôi muốn lại gần
lão ta thêm một bước cũng không thể.
Chuyến này, chúng tôi
nhặt được mấy cái mạng ở thôn Địa Tiên trở về, may mà mấy người đều không
thương tổn gì, nghĩ lại những gì vừa trải qua, cảm giác như vừa gặp một cơn ác
mộng, đối với những chuyện đã qua, tự nhiên cũng nhìn thoáng hơn rất nhiều, cảm
thấy hành vi của Tôn Cửu gia về tình thì chấp nhận được, nhưng về lý thì khó
tha, tuy tôi và Tuyền béo ngoài miệng nói dữ, nhưng thực tâm cũng chẳng muốn
truy cứu lão ta gì nữa.
Lúc này, tận mắt trông
thấy Tôn Cửu gia được con khỉ Ba Sơn kia cứu ra khỏi núi Quan Tài, tảng đá đè
trong lòng rốt cuộc cũng rơi xuống. Chỉ thấy lão ta hình như muốn trốn đi thật
xa, không biết bao giò mới gặp lại, tôi chợt nhớ ra còn một câu thoại vẫn chưa
nói vói lão, bèn khum tay trước miệng, hét về phía lão ta trong màn mưa: “Tôn
Cửu gia, món nợ giữa chúng ta còn chưa xong đâu, mong rằng ông trời phù hộ cho
ông được bình an vô sự, ít nhất là cho đến khi ông chạm mặt tôi lần nữa.” Tôn
Cửu gia nghe tôi nói thế cũng không biểu lộ gì, chỉ nhìn chằm chằm vào chúng
tôi một lúc, gương mặt không còn chút sắc máu thoáng lướt qua một nụ cười lạnh
lẽo khó nhận ra, đoạn lão ta khẽ vỗ lên vai con khỉ Ba Sơn một cái. Con khỉ
hiểu ý, không buồn liếc nhìn chúng tôi thêm lần nào nữa, vươn cánh tay tung
mình bám lên vách đá, nó cõng một người trên lưng mà vẫn có thể leo bám trên
vách núi dựng đứng nghìn mét không hề khó khăn, nhổm lên hụp xuống mấy cái đã
lên càng lúc càng cao, rồi biến mất trong màn mưa như trút.
Tôi và Tuyền béo vươn
người thò ra khỏi điêu đạo, ngước nhìn lên vách đá phía trên, chỉ thấy mưa và
sương mù mờ mịt, nào còn tăm tích của một người một khỉ ấy, trong lòng chợt
thấy trống trải hoang mang, đành rụt người vào, tiếp tục ở lại trong hốc đá
tránh mưa.
Lúc này, hẻm núi Quan
Tài mứa gió tơi bời, chúng tôi không dám mạo hiểm leo bám lên vách đá ẩm ướt
trơn tuột, đành kiên nhẫn đợi mưa lớn tạnh hẳn. Núi Quan Tài nằm vắt vẻo giữa
hẻm núi đã hoàn toàn sụp đổ, vỡ thành vô số khối đá lớn, bị dòng thác cuốn
xuống con sông bên dưới, giờ đang là mùa lũ, thế nước trong núi rất mạnh, các
di tích như mộ Địa Tiên, Linh Tinh điện rơi xuống nước, lập tức bị nhấn chìm
không thấy tăm hơi.
Cả bọn an một ít lương
khô rồi ngồi bó gối, mỗi người đều có tâm sự riêng, trầm mặc không nói năng gì,
sau phen lao lực, cơn buồn ngủ ập đến, bất giác, cả mấy người đều lần lượt
thiếp đi.
Vùng đất Vu Sơn xưa nay
vẫn nổi danh là chốn thâm u sớm mây chiều mưa, lúc tôi tỉnh giấc, cơn mưa trong
núi vẫn chưa dừng, mãi đến sáng hôm sau, mây mới tan, mưa mới tạnh, có thể vượt
núi băng đèo rời khỏi hẻm núi Quan Tài. Dọc đường, chúng tôi chỉ hái vài quả
dại trong khu rừng gần đó lót dạ, uống chút nước suối giải khát. Chốn hoang sơn
dã lãnh này chẳng có đường đi, lúc ở trên núi trông lộ trình có vẻ không xa
lắm, nhưng khi băng rừng vượt suối, vẫn phải đi mất gần một ngày trời. Suốt cả
chặng dường, bọn tôi không gặp bóng người nào, càng không thấy tung tích Tôn
Cửu gia, cũng không biết lão ta vẫn còn nán lại trong hẻm núi hay đã chạy đến
nơi nào nữa.
Tối hôm sau, chúng tôi
mới đến dược cổ trấn Thanh Khê không một bóng người, vùng núi hiếm khi được
ngày quang mây, không sương không khói, chỉ thấy những vì tinh tú lấp lánh trên
bầu trời đêm, sông Ngân hiện lên rõ mồn một trước mắt. Vì cả bọn đều có vết
thương trên mình, khó lòng ở lại lâu, trời vừa sáng, chúng tôi lại lập tức ra
khỏi núi theo đường sạn đạo, trước tiên tới trạm y tế huyện Vu Sơn trị liệu,
đồng thời thương lượng xem nên xử lý Tôn Cửu gia thế nào. Tuyền béo nói, lão họ
Tôn này thật đáng căm hận, phải băm vẳm lão ra mới được, nhưng cũng chớ vội làm
gì, hòa thượng chạy được thì chùa vẫn còn đó, khi nào về Bắc Kinh sẽ tới hốt ổ
nhà lão, lên trời thì đuổi tới điện Lăng Tiêu, xuống biển thì truy tới cung
Thủy Tinh, dù lão có là Kim Sí Đại Bàng bên cạnh Như Lai thì cũng phải đến Tây
Thiên vặt trụi lông lão, không ăn được bữa Mãn Hán toàn tiệc ở quán Chính Dương
Cư thì không xong.
Tôi lo nhất là Tôn Cửu
gia còn có mưu đồ gì khác, trên người lão ta xảy ra rất nhiều hiện tượng kỳ
quái khó lòng lý giải nổi, càng suy đoán lại càng cảm thấy lão ta không phải
người bình thường, thảng như chúng tôi vô ý giúp kẻ xấu làm điều ác, thì tội
này thật quá lớn, bất luận thế nào cũng phải nghĩ cách tìm bằng được lão ta.
Có điều, tôi cảm thấy
biện pháp vé Bắc Kinh hốt ổ nhà Tôn Cửu gia của Tuyền béo cũng chẳng ý nghĩa
gì, xét về thủ đoạn hành sự bí hiểm, Tôn Cửu gia này so với đám tổ tiên Đại
Minh Quan Sơn thái bảo của mình tuyệt đối chỉ hơn chứ không kém. Nếu tôi đoán
không sai, trước khi cùng chúng tôi xuất phát rời Bắc Kinh, lão ta đã hạ quyết
tâm bỏ hết gia nghiệp, không trở lại đó nửa rồi.
Ngay trong ngày, tôi và
Shirley Dương ở huyện lỵ gọi điện thoại đường dài về nhà giáo sư Trần ở Bắc
Kinh, thử thăm dò chuyện của Tôn Cửu gia. Quả nhiên không sai, Tôn Cửu gia đã
bàn giao công việc, viện cớ bệnh tật xin nghỉ hưu sớm về quê, cả gian nhà tập
thể kia lão ta cũng trả lại nốt. Hiện giờ, người ở Bắc Kinh cũng chỉ biết có
chừng đó thông tin.
Tôi thấy việc này không
có kết quả, nghĩ nhiều cũng vô dụng, đành tạm gác lại một bên, tĩnh tâm bồi
dưỡng sức khỏe. âm khí trong mộ cổ Ô Dương vương và núi Quan Tài quá nặng nề,
thân thể bốn người chúng tôi đều tích tụ không ít thi độc, đầu tiên là ho sù sụ
không ngừng, hô hấp khó khăn, sau đấy còn thường nôn ra máu bầm, nán lại trong
bệnh viện gần một tuần mà vẫn chưa khỏi hẳn.
Hôm ấy, trời vừa tối,
tôi nằm trên giưòng bệnh truyền dịch, mơ mơ màng màng gặp phải một cơn ác mộng,
tình cảnh trong mộng mờ mịt xa xăm, dường như tôi trở lại thôn Địa Tiên trong
núi Quan Tài, đi vào gian chính của nhà cũ họ Phong, thấy trong nhà hương khói
nghi ngút, trên tường treo một bức ảnh thờ, phía trước bày một bàn thờ, trên
bàn có bảy đĩa tám bát đựng các món điểm tâm, hoa quả, cùng với ba cái đầu máu
chảy ròng ròng của tam sinh trâu, dê, lợn, phướn trắng đong đưa phơ phất, rõ
ràng là minh đường của người làm nghề sông nước.
Tôi bước tới trước ban
thờ, định nhìn cho rõ xem người trong ảnh là ai. Dưới ánh nến vàng yọt trong
nhà, tôi loáng thoáng nhận ra bóng dáng của một thiếu nữ con lai. Tôi thầm nhủ:
“Đây không phải Đa Linh ư? Sao cô ấy lại chết... ai đưa linh vị của cô ấy về
thờ trong thôn Địa Tiên thế này?” Đang kinh ngạc không hiểu chuyện gì, tôi chợt
nghe trên bàn thờ vang lên tiếng ùng ục, như thể có con lợn đang vục mõm ăn
nước gạo vậy.
Tôi vội cúi đầu nhìn
thử, thấy cái đầu lợn bày trên bàn thờ không hiểu sao lại sống dậy, đang tham
lam vơ vét các món điểm tâm hoa quả cúng trên bàn, máu và nước miếng văng tứ
tung, trông hết sức hung tợn đáng sợ.
Tôi thấy thế lền nổi
giận, trong lòng dấy lên một cảm giác chán ghét khó tả, lập tức vớ lấy cán cây
phướn trước bàn thờ, chọc vào cái đầu lợn kia, chẳng ngờ cán phướn bằng giấy
bồi mềm quá, hoàn toàn không dồn được sức vào. Bất giác, tôi cuống lên, trán
đầy mồ hôi, đang nóng lòng, chợt cảm thấy vai mình bị ai đẩy đẩy mấy cái, lập
tức giật mình tỉnh mộng.
Tôi trông thấy Shirley
Dương và hai người kia đang ở bên cạnh đánh thức mình dậy mới biết vừa rồi chỉ
là mơ, nhưng giấc mơ này thật hết sức kỳ quặc, vả lại còn vô cùng chân thực,
khắp người tôi đã ướt sũng mồ hôi lạnh. Tôi thầm cảm thấy đây là giấc mộng
chẳng lành, lòng vẫn hoảng hốt không yên.
Út tò mò hỏi tôi mơ thấy
gì mà sợ đến nông nỗi này, gặp ác mộng thì phải lập tức nói ra, chỉ cần nói ra
là không linh nữa.
Tuyền béo cũng lấy làm
lạ: “Nhất này, lá gan cậu xưa nay đâu có nhỏ, cũng tại trên đời không có cây
gậy đủ dài, chứ không cho cậu một cây gậy như thế, dám cậu cũng chọc một lỗ
trên trời lắm, sao mới nằm mơ một giấc đã sợ thế này rổi?”
Tôi nói, mấy người đừng
nói linh tinh, thường có câu nghĩ gì mơ nấy, giấc mơ không phải điềm báo cát
hung phúc họa gì cả. Có lẽ tại gần đây tôi nghĩ ngợi quá nhiều về việc của Đa
Linh, nên mới gặp cơn ác mộng không đầu không đuôi như thế thôi. Nói đoạn, tôi
liền kể lại những gì trông thấy trong mơ cho họ nghe.
Cả bọn nghe xong đều có
một dự cảm chẳng lành, chỉ sợ tính mạng Đa Linh phen này khó giữ. Tuy có lỗi
với lời ủy thác trước lúc lâm chung của Nguyễn Hắc, nhưng chúng tôi đã tận lực,
chung quy vẫn không tìm được nội đơn của xác cổ nghìn năm, Đa Linh rốt cuộc
sống hay chết đành trông cả vào phúc phận của cô thôi.
Sau đấy, chúng tôi lại
nói sang chuyện Đa Linh trúng phải tà thuật Giáng Đầu của chính cha ruột mình,
thật đúng là tạo hóa trêu ngươi, ý trời khó đoán. Có điều, sự kiện ở Nam Hải
nếu suy xét đến cùng, vẫn là trách nhiệm của Tôn Cửu gia. Suốt nhiều ngày gần
đây, chúng tôi không hề có chút tin tức nào của con người này, cũng không biết
lão ta đã lẩn đi đâu mất.
Tôi đoán, Tôn Cửu gia sẽ
không rời khỏi khu vực Thanh Khê, dẫu sao đây cũng là nguyên quán của lão ta,
thi thể cha và anh trai lão ta cũng ở cả nơi này, nên định khi nào thương thế
hồi phục đôi phần, sẽ tiến vào hẻm núi Quan Tài tìm kiếm lão lần nữa.
Chúng tôi đang bàn tính
làm cách nào để tìm Tôn Cửu gia, đột nhiên ngoài cửa sổ có ai ném vào một cái
bọc, đó vật bên trong dường như cũng không nặng lắm, phát ra một tiếng “cạch”
khe khẽ, rơi xuống đất. Tuyền béo lập tức đứng dậy ra ngoài xem, huyện lỵ này
có hai khu vực cũ mới, bệnh viện nằm ở rìa khu thành cổ, nhân khẩu không tập
trung đông đúc, lại đang giữa mùa hạ, không khí ẩm thấp oi bức, ban đêm tuy có
đốt hương muỗi nhưng cửa sổ phòng bệnh vẫn mở ra cho mát, bên ngoài chỉ có mấy
ngọn đèn đường lẻ loi chiếu sáng, không bóng người nào. Rốt cuộc, Tuyền béo
đành đóng cửa sổ lại, đề phòng có chuyện gì ngoài ý muốn phát sinh.
Shirley Dương nhặt cái
bọc lên, mở ra xem, thấy bên trong có mấy bó cỏ dại hình thù quái dị, ngoài ra
còn một xấp giấy viết thư, miếng long phù không mắt bằng đồng xanh kia không
ngờ cũng ở bên trong. Cô cầm lấy đưa cho tôi nói: “Chắc là Tôn Cửu gia bảo con
khỉ Ba Sơn lẻn vào huyện lỵ đưa thư cho chúng ta. Anh xem trong thư viết gì
vậy?”
Tôi nôn nóng xem cho rõ
ràng, vội vàng mở thư ra, vừa xem vừa đọc lại cho ba người kia. Bức thư do Tôn
Cửu gia tự tay viết, ký tên thật của lão ta là “Phong Học Vũ”, văn chương lưu
loát dài dòng, đại để nói lão ta tự cảm thẩy hổ thẹn với mọi người, không còn
mặt mũi nào đến gặp. Có điều, chuyện đổ đấu ở thôn Địa Tiên núi Quan Tài lần
này, toàn nhờ vào Mô Kim hiệu úy tương trợ, tuy sau này có thể không còn gặp
lại nhau nữa, nhưng có nhiều chuyện, lão ta không thể không nói cho rõ ràng.
Trong thư, Tôn Cửu gia
nói đời này mình chưa bao giờ được thanh thản, trong lòng lúc nào củng đè nặng
một trái núi lớn, hoàn cảnh xuất thân cùng vô số nguyên nhân nội tại và ngoại
tại khác đã khiến lão ta không có nổi một người bạn để giải bày tâm sự, có thể
tín nhiệm được, cũng chỉ có con khỉ Ba Sơn ẩn náu trong hẻm núi Quan Tài kia.
Có điều, ông bạn già này của lão ta tuy tuyệt đối trung thành đáng tin cậy, lại
rất có linh tính, nhưng dẫu sao cũng không thể nói được tiếng người, giống như
một bộ phim của Rumani có nhân vật chính là chó săn vậy, nó vĩnh viễn chỉ là
một “người bạn trầm lặng”.
Lâu dần lâu dần, Tôn Cửu
gia liền hình thành nên tính cách âm trầm lạnh lùng, trong thế giới quan của
lão ta, ngoài việc của nhà họ Phong, trong thiên hạ không còn đại sự nào đáng
nói nữa. Vì ở bên ngoài mộ cổ Địa Tiên có Cửu Tử Kinh Lăng giáp mỗi mười hai
năm chỉ có mấy ngày trong năm Tý là lúc Kinh Lăng giáp ngủ đông, người bên
ngoài mới có cơ hội tiến vào núi Quan Tài. Vì vậv, con cháu của Phong Soái Kỳ
đã nhiều lần bỏ lỡ thời cơ, trung đoàn trưởng Phong vì dọc đường nhiễm bệnh nên
quá mất thời hạn, nhất thời lửa giận công tâm, khiến hai chân bị liệt, nên mới
chất trước khóa Cửu Cung Ly Hổ.
Tôn Cửu gia thấy nhân
khẩu trong nhà rơi rụng dần, nếu mùa hạ năm nav vẫn không thể tìm được lối vào
thì e rằng cả đời này cũng không còn hy vọng nào nữa. Trải qua nhiểu năm bày
mưu tính kế, sắp xếp chuẩn bị, cuối cùng lão ta cũng có được thiên thời, địa
lợi, nhân hòa, kế hoạch tuy rất chu đáo cẩn mật, nhưng dẫu sao cũng không thể
lường hết mọi chuyện, từ lúc bắt đầu tiến vào hẻm núi Quan Tài đã xảy ra rất
nhiều chuyện lão ta không ngờ đến.
Vốn dĩ, Tôn Cửu gia đã
thuộc làu “Quan Sơn chỉ mê phú” thật sự, chỉ là lo lắng đám Mô Kim hiệu úy
chúng tôi sẽ bỏ rơi lão ta, vì vậy mới giấu giấu giếm giếm mãi, trước đó còn
sắp xếp mấy tình huống, để mọi người tiếp tục với các thông tin rời rạc nửa
thật nửa giả ở những địa điểm khác nhau, rồi thêm vào chút khổ nhục kế hòng
đánh lừa dư luận, đến lúc mấu chốt mới tự mình lần lượt chỉ ra điểm quan trọng.
Kỳ thực, trong bài “Quan Sơn chỉ mê phú” thật sự kia, đã bao hàm cách phá giải
khóa Cửu Cung Ly Hổ rồi, trở ngại duy nhất chính là ghép lại những mảnh vỡ của
tấm bản đồ phong thủy, nhưng lão ta không liệu trước được việc truyền nhân của
Phong Oa sơn nửa đường gia nhập đội thám hiểm, rất nhiều kế hoạch đã sắp xếp từ
đầu không thể không thay đổi, dẫn đến cục diện dần dần trở nên hỗn loạn không
thể khống chế.
Điều khiến Tôn Cửu gia
bất ngờ nhất là một loạt các sự vệc xảy ra ở cầu Hách Hồn do lũ chim yến tạo
thành, lão ta vốn định lợi dụng lũ châu chấu giáp vàng mai phục trong hẻm núi
để phân tán sự chú ý của mọi người, sau đó chỉ ra đường sống, từ chỗ thác hóa
thạch tụt xuống cây xà gỗ để thoát thân.
Sở dĩ sắp xếp như vậy là
vì sau khi xuống dưới hẻm núi, sẽ tiến vào địa cung Ô Dương vương, trước đó,
lão ta cần làm một “thủ thuật” với thân thể mình. “Thủ thuật” này, thực ra là
một “yêu thuật” từ xưa truyền lại, Quan Sơn thái bảo nhờ trộm mộ của ẩn sĩ thời
cổ mà phát tích, phát hiện ra rất nhiều thuật phù thủy, tà pháp sớm đã thất
truyền cả nghìn năm nay. Trong đó có một môn, là dùng kim châm bằng xương đâm
vào não, tương truyền có thể khiến tam muội chân hỏa trong cơ thể tắt ngấm. Vì
trên cơ thể người sống luôn có ba ngọn đèn, tượng trưng cho dương khí của người
sống, độ sáng tối ba ngọn đèn này thể hiện sự hưng vong của vận khí, phẩm đức
chủ nhân, mắt thường không thể nhìn thấy được, chỉ có ma quỷ và cương thi mới
trông thấy. Đâm một cây kim bằng xương vào huyệt vị sau gáy, có thể làm tắt ba
ngọn mệnh đăng này, lúc trộm mộ có thể tránh được chuyện gặp ma, hoặc có thi
biến, nhưng một khi dùng thuật này, tuyệt đối không thể nói với người bên cạnh,
chỉ có thể tự biết, một khi nói ra, sẽ lập tức hồn phi phách tán, lúc chết muốn
làm ma cũng không xong.
Tà thuật này bắt nguồn
từ đất Ba Thục cổ xưa, trên thực tế, đây chính là tiền thân của thuật châm cứu
huyệt vị, trong các bức bích họa, nham họa lưu lại từ thời văn minh Vu Sở từng
miêu tả rất kỹ lưỡng những trường hợp tương tự. Thầy phù thủy thi triển yêu
thuật, người bị kim bằng xương đâm vào, sẽ như có quỷ thần nhập thể, lên núi
đao xuống biển lửa hoàn toàn không cảm thấy đau đớn, vì huyệt vị mũi kim đâm
vào chính là trung khu thần kinh kiểm soát cảm giác đau đớn, người cổ đại không
hiểu sự kỳ ảo bên trong, bèn cho rằng đấy là tà thuật.
Nhưng ở trước Long môn
nơi thác đá, sự việc đã phát triển đến mức Tôn Cửu gia không khống chế nổi nữa,
lúc rơi xuống xà gỗ vắt ngang vách núi lão ta bị đập đầu, mũi kim vừa đâm vào
gáy không biết biến đâu mất, có thể đã ngập lút vào trong đầu, cũng có thể trong
lúc hỗn loạn đã bị rơi ra. Sau khi vào địa cung Ô Dương vương, lão ta phát hiện
thần kinh của mình dần trở nên tê liệt, cơ thể bị thi trùng cắn xé mà hoàn toàn
không có cảm giác gì, nhưng sự thể đã không còn cách nào vãn hồi, sợ rằng trong
những năm còn lại, lão ta sẽ phải làm một cái xác sống không còn tri giác Chẳng
những vậy, hễ căng thẳng kích động quá độ, lão ta lại cảm thấy mạch máu toàn
thân căng phồng lên, phỏng chừng có thể vỡ mạch máu mà chết bất cứ lúc nào.
Tôn Cửu gia lòng dạ sắt
đá, sự việc đã xảy ra rồi, đành chấp nhận số mệnh, cũng không lấy đó làm oán
hận. Lão ta trời sinh tính tình lạnh nhạt, coi nhẹ cả mạng mình lẫn mạng người
khác, có điều, bấy giờ lão ta cũng chỉ định đơn độc một mình tiến vào thôn Địa
Tiên, dựa vào bí thuật làm tắt ba ngọn đèn sinh mệnh, lại có gương có Quy Khư
trừ tà, chỉ cần tìm được mộ Địa Tiên, hẳn vẫn ứng phó được.
Chẳng ngờ ma xui quỷ
khiến thế nào, những dấu hiệu thi biến trên người lão ta làm chúng tôi sinh
nghi, khiến láo ta bại lộ thân phận sớm hơn dự định. Để kịp vào thôn Địa Tiên
trước khi Cửu Tử Kinh Lăng giáp phong tỏa núi Quan Tài, dẫu biết rõ phen này có
đi mà không có về, lão ta cũng đành giở ra kế hiểm, dụ cả bọn cùng tiến vào một
lượt.
CHƯƠNG 64: CỬU TỬ HOÀN HỒN THẢO
Sự việc phát triển đến
bước này, từ lâu đã vượt khỏi phạm vi dự tính mà Tôn Cửu gia có thể tưởng tượng
được, lão ta càng không ngờ những hành vi của mình đều bị Phong Soái Cổ tính
toán ra từ lúc còn sống, lòng không khỏi nguội lạnh như nắm tro tàn, cứ tưởng
thi tiên trong mộ ắt hẳn sẽ thoát ra ngoài núi, gây nên một trận ôn dịch quy mô
lớn. Bất kể trong tai kiếp đó có bao nhiêu người chết, tội nghiệt cuối cùng đều
tính do lão ta gây nên, đến khi xuống suối vàng cũng hổ thẹn với liệt tổ liệt
tông, tinh thần lão ta cơ hồ rơi vào trạng thái suy sụp.
Chẳng ngờ vào lúc cùng
đường tận lối lại có bước ngoặt, đây có lẽ cũng chính là “ông trời có mắt”. Có
câu “bọ ngựa bắt ve, sẻ vàng nấp sau”, không chỉ đám người vào núi đổ đấu chúng
tôi, mà ngay cả địa tiên Phong Soái Cổ cũng bị ăn quả lừa của những người bảo
vệ lăng mộ Ô Dương vương năm xưa, có thể nói, Quan Sơn thái bảo và Mô Kim hiệu
úy đều không bì nổi với tâm kế sâu xa độc địa của những người bảo vệ bí mật núi
Quan Tài kia, nghĩ lại thật khiến người ta dựng hết cả tóc gáy.
Điểm trời mà những người
bị giam cầm ấy suy diễn ra trước lúc chết là núi Quan Tài sau khi rời khỏi lòng
đất, cuối bùng bị lôi hỏa thiêu hủy, người chết trong thôn Địa Tiên đều bị
thiêu rụi không còn cả tro than, cơ hồ tất cả những chuyện ấy đều đã được định
sẵn trong cõi xa xăm rồi, mọi si tâm vọng tưởng của thế gian, chẳng qua chỉ là
một màn mây khói lướt qua mắt mà thôi.
Tôn Cửu gia lúc đó ngã
xuống khỏi vách đá, rơi vào đống người chết trong núi Quan Tài, trong bóng tối
mờ mịt may mà không đụng phải tảng đá tan thây nát thịt, sau đó sấm sét nổi lên
trong hẻm núi, thôn Địa Tiên chìm trong ngọn lửa. Tôn Cửu gia lúc này chẳng
phải người cũng chẳng phải ma, tránh khỏi đợt sấm sét, lại được con khỉ Ba Sơn
nghe tiếng mò đến cứu viện, đá băng qua vách núi dựng đứng đào tẩu giữa trời
mưa như trút.
Sau đó, trong thư lại
nhắc đến, gương cổ Quy Khư là vật báu cổ đại, không thể vì hải khí tiêu tán mà
hỏng mất. Trong một khu nhà phía Tây thành Bắc Kinh có một cái giếng khô bỏ
hoang, trong đó có giấu một số thứ, có thể dựa theo bản đồ trong thư để tìm đến
đào lên, sau đó đem vật ấy phụ trợ với hình khắc ở mặt sau tấm gương đồng, nói
không chừng có thể tìm được quẻ cổ Chu Thiên thất truyền đã lâu.
Tôn Cửu gia xuất thân
thế gia, tuy rằng các ngón nghề của tổ tiên Đại Minh Quan Sơn thái bảo có mười
phần, lão ta cũng chứa học hết một, nhưng từ nhỏ lão đã biết các loại chữ triện
Trùng Ngư cổ, ký hiệu cổ, sau khi được phóng thích khỏi nông trường cải tạo lao
động Quả Viên Câu, hồi phục công tác lại quanh năm nghiên cứu Long cốt thiên
thư thời kỳ Hạ Thương Chu, tiếp xúc với rất nhiều bản khắc trên giáp cốt và đồ
cổ đồng xanh. Có điều, tâm tư lão ta không đặt vào công việc, đồng thời không
thể xử lý tốt quan hệ với những người xung quanh, nên thường xuyên bị một số
nhân sĩ có quyền lực chèn ép, xưa nay chưa hề có cơ hội ngóc đầu.
Vì vậy mặc dù có được
một số thành quả, nhưng Tôn Cửu gia đều lần lữa không báo lên cấp trên mà âm
thầm giấu đi để nghiên cứu, ngày tháng tích lũy, quy mô nghiên cứu đã tương đối
khả quan. Quẻ cổ Chu Thiên, chính là mấu chốt của âm dương, là quỹ tích của
thiên địa, tuyệt đối không thể dựa vào máy quẻ đồ và chữ triện cổ vụn vặt mà dễ
dàng phá giải toàn diện được.
Từ khi có được tấm gương
cổ Quy Khư, Tôn Cửu gia phát hiện quẻ đồ trên mặt sau tấm gương này ảo diệu vô
cùng, nếu có thời gian dông dài, kết hợp với thành quả nghiên cứu quẻ cổ Chu
Thiên của lão, không chừng có thể khiến toàn quẻ Chu Thiên tuyệt tích đã lâu
tái hiện lại trên thế gian.
Nhưng so với quẻ cổ Chu
Thiên đã thất truyền cả nghìn năm, Tôn Cửu gia còn có việc quan trọng hơn cần
làm. Thời cơ mười hai năm một lần đã tới, việc trong mộ cổ Địa Tiên đã vô cùng
cấp bách, không cho phép lão ta hao phí thêm bảy tám năm thời gian nghiên cứu
Thập lục tự thiên quẻ. Khi ấy, lão ta lại có ý định mang theo gương cổ vào
trong mộ trấn áp thi tiên, nên đành đem hết tư liệu nghiên cứu và các quẻ đồ,
quẻ tượng mình thu thập được chôn trong đường hầm dưới đáy giếng khô.
Năm 1971, cả nước Trung
Quốc đều sôi sục chuẩn bị chiến tranh, đề phòng mất mùa, triển khai rộng rãi
phong trào đào hầm sâu, trữ lương nhiều. Bấy giờ, Bắc Kinh cũng tiến hành mở
rộng hệ thống công trình phòng thủ dưới đất, cái giếng khô giấu đồ ấy thông với
một đoạn đường hầm đã bị bít kín bỏ hoang. Trong thư, Tôn Cửu gia có vẽ một bản
đồ sơ lược, đánh dấu vị trí và các lối vào, lão ta hy vọng chúng tôi về Bắc
Kinh có thể đào những thứ ấy lên, sau này có cơ duyên, họa may có nắm được toàn
bộ quẻ cổ Chu Thiên, coi như là một sự bồi thưòng và báo đáp của lão ta.
Sau đó, lão ta lại viết,
gửi kèm theo thư này còn có mấy món đồ, một là miếng long phù bằng đồng xanh bị
thất lạc trong hẻm núi Quan Tài, mộ cổ thôn Địa Tiên bị lôi hỏa thiêu đốt, có
lẽ vì hải khí trong miếng Long phù này quá thịnh, cũng có thể do hình thế phong
thủy trong địa mạch Bàn Cổ ở núi Quan Tài biến động quá lớn, nhưng bất kể vì lý
do gì, hai miếng bùa và một tấm gương cổ mang từ Bắc Kinh tới đây, rốt cuộc vẫn
giữ được không tổn hại chút nào.
Ngoài ra, núi Quan Tài
là chốn cấm địa tế tự của các thầy mo thời cổ đại, âm khí bên trong hết sức
nặng nề, mộ cổ Ô Dương vương ở chỗ địa mạch hình đầu xác chết cũng thuộc loại
này, tuy chúng tôi đã có mặt nạ phòng độc bảo hộ song vẫn khó thể chu toàn,
những phần da lộ ra ngoài cũng có thể nhiễm phải khí độc thối rữa hủ hóa, vì
vậy, trên người cả bọn sẽ lần lượt xuất hiện các đốm đen và vết tụ huyết, sau
đó còn nôn máu, ho ra đờm đen, tuy không mất mạng, nhưng về lâu về dài vẫn sẽ
để lại mầm bệnh khó dứt trong cơ thể.
Bởi thế, trong bao lão
ta có gửi kèm mấy bó Cửu tử hoàn hồn thảo, tên khoa học gọi là Herba
Selaginellac, vật này chuyên mọc ở nơi thâm sơn cùng cốc, khi không đủ dinh
dưỡng và nước, nó sẽ khô quắt lại ở trạng thái chết giả, toàn bộ sự trao đổi
chất trong tế bào đều ngừng lại, nhưng không lâu sau lại có thể hoàn hồn tái
sinh, vì vậy mới gọi là Cửu tử hoàn hồn thảo, trong dân gian cũng hay gọi là
“trường sinh bất tử thảo” hoặc “Thiên nhiên thảo”, dùng bên ngoài có thể thay
thuốc cầm máu trị thương, uống vào có thể tiêu ứ trừ độc, hóa giải khí âm đã
bám vào tận xương tủy. Tôn Cửu gia dặn chúng tôi đến tiệm thuốc trong huyện lỵ
mua mấy vị thuổc Nam dùng để tiêu đờm giải độc như thịt cá sấu khô, đem mấy bó
Trường sinh bất tử thảo đốt thành tro, rồi trộn lẫn liên tục uống trong ba
ngày, có thể triệt để trừ hết mầm bệnh trong người. Trước đây, trên vách đá ở
hẻm núi Quan Tài mọc rất nhiều loại cỏ này, đều là thứ chín rễ chín lá, không
phải tầm thường, nhưng giờ thì không dễ gì gặp được nữa, mấy bó này tuy ít,
nhưng cũng đủ cho năm sáu người dùng.
Cuối cùng, Tôn Cửu gia
viết trong thư rằng: “Giờ nợ nần của chúng ta coi như đã dứt, tôi không còn lưu
luyến gì với thế giới bên ngoài nữa, vả lại sau khi kim xương đâm vào não, thần
hồn sẽ tan biến, chết rồi sợ rằng muốn làm ma cũng không được. Thời gian còn
lại của tôi không nhiều, sau khi an táng di thể của cha và anh trai, tôi sẽ ở
lại hẻm núi Quan Tài này chờ chết, không muốn gặp người ngoài nữa, khi các cô
các cậu đọc được phong thư này, có thế xác tôi đã lạnh, được con khỉ Ba Sơn mai
táng ở một nơi bí mật nào đó rồi. Khu vực hẻm núi Quan Tài này toàn núi cao
chót vót, vách đá ngất ngưởng, dẫu có chôn vùi đại quân mấy chục vạn người cũng
không có manh mối đâu mà tìm, vì vậy các cô các cậu khỏi uổng phí tâm sức vào
núi tìm tôi nữa, cũng xin các cô các cậu chớ nên tiết lộ chuyện của tôi với bất
cứ người nào khác.”
Chúng tôi đọc xong bức
thư con khỉ Ba Sơn đưa tới, trong lòng bán tín bán nghi, từ lúc trải qua sự
kiện thôn Địa Tiên, cách nhìn của mọi ngưòi đối với Tôn Cửu gia đã thay đổi
hoàn toàn. Trước đây, chúng tôi cảm thấy con người này chẳng qua chỉ là một
chuyên gia về văn tự cổ lắm tư tâm, tính tình gàn bướng ngang ngược, lại quá
khích cực đoan bất cận nhân tình, nhưng sau khi sự việc xảy ra, nghĩ lại mới
thấy Tôn Lão Cửu này chẳng những thân thế đặc thù, hơn nữa còn rất giỏi ẩn
mình, là một nhân vật thông minh tuyệt đỉnh, đúng như câu “đại tượng vô hình,
đại trí giả ngu”. Không biết có phải do di truyền từ tổ tiên Quan Sơn thái bảo
nhà lão ta hay không mà tác phong hành sự của người này hoàn toàn không để lộ
ra dấu vết gì, đến thần tiên cũng khó lòng đoán thấu được.
Chúng tôi tự phụ là
người kiến thức quảng bác, lịch duyệt phi phàm, vậy mà đều bị Tôn Cửu gia này
qua mặt, trước khi tiến vào núi Quan Tài, chẳng ai phá được lớp vỏ ngụy trang
của lão ta. Thật đúng như trong cuốn Mặt dày tâm đen có viết “tâm đen mà vô
sắc, mặt dày mà vô hình” thử hỏi người phàm mắt thịt làm sao nhìn thấu được
chứ? Đây chính là chỗ cao minh của Tôn Cửu gia.
Nếu cứ như lão nông
Hương Cảng Minh Thúc kia còn đỡ, bề ngoài có vẻ tinh minh giảo hoạt, nhưng cảnh
giới quá thấp, còn chưa mở miệng, người ta biết lão là kẻ không đáng tin cậy,
cứ thế thì ai còn tin lão? Phàm gặp chuyện gì, cũng đều không thể bị loại người
như Minh Thúc che mắt. Tôi thấy, so với Tôn Cửu gia thâm tàng bất lộ kia, Tiểu
Gia Cát Minh Thúc thật tình có thế coi như một người thực thà trung hậu.
Út vốn là người bản địa,
nhận biết được tính chất của thảo dược, cô nói, loại Cửu tử hoàn hổn thảo mọc ở
hẻm núi Quan Tài nay đã gần như tuyệt tích, có được mấy bó này là quý lắm rồi,
đích thực có thể hóa giải chất độc trong cơ thể. Tôi vẫn chưa yên tâm, lại tìm
một thầy lang Trung y già trong huyện lỵ, hỏi rõ vị chính vị phụ trong đơn thuốc
cho chắc chắn, bấy giờ mới y theo cách của Tôn Cửu gia uống vào.
Chỉ vài ngày sau, sức
khỏe cả bọn đều có chuyển biến tốt, khi bàn bạc đường đi nước bước sau này, mấy
người đều cảm thấy vẫn nên nghĩ cách tìm Tôn Cửu gia. Nhưng hẻm núi Quan Tài
địa thế hét sức phức tạp, địa hình hiểm trở thâm u, bên trong hẻm núi quanh năm
mây mù bảng lảng, lại có vô số các loại quan tài treo, bên cạnh Tôn Cửu gia còn
có con khỉ Ba Sơn kia giúp đỡ, chúng tôi ngoài sáng, lão ta trong tối, muốn tìm
được người này thật không phải chuyện dễ dàng.
Chúng tôi vào núi tìm
kiếm thêm lần nữa, quả nhiên không có kết quả, xét thấy căn bản không thể tìm
được Tôn Cửu gia đang lẩn tránh trong hẻm núi một mình chờ chết, cả bọn lấy làm
chán nản, đành chuẩn bị trở vể Bắc Kinh.
Trước khi rời đi, ăn
xong bữa tối trong huyện lỵ, tôi và Tuyền béo bắt tay sắp xếp lại hành lý. Phen
này vào núi tuy không tìm được nội đơn của cổ thi, nhưng cũng không phải không
có thu hoạch, đầu tiên là mang ra được mấy bức họa trong thôn Địa Tiên, đều là
bút tích thật của Quan Sơn thái bảo Phong Soái Cổ. Người này tuy không nổi danh
bằng ngón nghề bút mực, nhưng mấy bức Quan Sơn tướng trạch đồ ấy đều thuộc loại
thủ bút và để tài hiếm gặp, có thể đem nhờ Kiều Nhị gia ở Lưu Ly Xưởng định giá
hộ.
Ngoài ra, còn có một cái
hộp mạ vàng Tuyền béo vớ được trong âm trạch ở thôn Địa Tiên. Lúc đó, cả bọn
trông thấy trong mộ cái xác nữ được trâu vàng cõng trên lưng, trong lòng ôm cái
hộp này. Mộ thất ấy là do Quan Sơn thái bảo di chuyển từ bên ngoài vào trong
thôn Địa Tiên, cơ quan trâu vàng cõng xác thiết kế cực kỳ xảo diệu, một khi
trộm mộ xông vào gian chính sẽ kích hoạt chốt lẫy ẩn giấu bên trong trâu vàng,
lập tức khiến con trâu húc lật tường mộ, đưa xác mộ chủ vào gian sau.
Chúng tôi chỉ có thể
đoán mộ thất có trâu vàng này được xây vào thời Minh, nhưng không có cách xác
định danh tính mộ chủ, lai lịch xuất thân thế nào, tại sao lại có ngôi mộ kết
cấu tinh xảo nhường ấy.
Tuyền béo đã quen thói
trộm chẳng về không, vớ được một món minh khí vào tay, nhưng sau đó gặp phải
bao mối hiểm nguy, sớm đã quên béng chuyện này, lúc sắp dọn đồ đạc mới nhớ tới,
vội vàng lấy ra định mở xem bên trong có gì.
Cái hộp mạ vàng này hết
sức tinh xảo đẹp đẽ, mộ chủ lại là phụ nữ, vì vậy chúng tôi đoán bên trong chắc
hẳn là các loại trang sức vàng bạc bồi táng, hoặc trân châu bảo thạch kiểu như
xuyến ngọc chẳng hạn. Nom cơ quan trong mộ xảo diệu như thế, thân phận mộ chủ
ắt hẳn cũng thuộc loại bất phàm, minh khí tùy thân đương nhiên phải cực kỳ quý
trọng, lắc lắc thấy nằng nặng, nhưng cũng không có âm thanh gì. Tôi và Tuyền
béo đều nôn nóng muốn xem cho thỏa, thấy cái hộp có khóa, không dám dùng biện
pháp mạnh đế khỏi hủy hoại đồ vật đáng tiền bên trong, bèn nhờ Út giúp một tay.
Đợi Út mở xong cái khóa
bạc, chúng tôi cùng ngó vào trong hộp, sau khi nhìn rõ vật bên trong, không
khỏi nửa bất ngờ, nửa thất vọng. Bên trong cái hộp mạ vàng chẳng có nửa món
vàng bạc châu báu gì, mà là máy quyển sách cũ dày cộp, giấy màu vàng sậm. Tôi
lật ra xem thử, thấy không giống như điển tịch kinh quyển, trong sách toàn
những hình vẽ ly kỳ cổ quái, lời chú giải quái gở khó hiểu, hệt như thiên thư
(sách trời) vậy.
Thường có cầu “Thiên thư
không chữ”, vì bên trong thiên thư thật sự toàn quẻ tượng quẻ đồ, thoạt nhìn
đều là các ký hiệu thần bí như nòng nọc chim cá, không hề có lấy một chữ, nếu
có chứ thì đều là sách giải quẻ của hậu thế sau này. Nhưng tôi dám khẳng định,
mấy quyển sách dày bịch này, tuyệt đối không phải loại chu Dịch mà tôi thường
hay tiếp xúc, xem kỹ lại, mới phát hiện chúng rất giống đồ phổ cấu tạo các loại
cơ quan, ám khí thời cổ đại.
Có câu, khác nghề như
khác núi, lần đầu tiên tôi trông thấy loại sách cổ này, cũng không dám tùy tiện
xác định bừa bãi, may mà có Út đã học hết bản lĩnh của Phong Oa sơn ở đây, tôi
bèn đưa cô xem kỹ xem có hiểu được mấy quyển sách này rốt cuộc ghi lại nội dung
gì hay không.
Út lật mấy trang sách,
cũng kinh ngạc ra mặt, bộ sách cổ này hình như chính là Vũ Hầu Tàng Binh đồ. Vũ
Hầu Tàng Binh đồ tuy là hậu nhân mượn danh Gia Cát Vũ Hầu mà viết ra, xuất hiên
sớm nhất vào khoảng thời Đường Tống, nhưng các loại cơ quan ám khí ghi chép bên
trong đều ảo diệu tinh kỳ, so với trâu gỗ ngựa máy thời Tam Quốc trong truyền
thuyết thì chỉ có hơn chứ chẳng kém gì.
Vũ Hầu Tàng Binh đồ là
báu vật trấn sơn của Phong Oa sơn, có thể nói nó tương đương với Thập lục tự Ẩm
dương Phong thủy bí thuật của Mô Kim hiệu úy, bao đời thợ thủ ông Phong Oa sơn
đều coi tập bản vẽ này là tuyệt học đáy hòm, đáng tiếc là nó thất truyền đã
lâu. Ông Lý, ông nuôi của Út, tuy rằng tay nghề tinh thâm, sản phẩm tinh xảo có
thể dối gạt cả quỷ thần, nhưng thực ra cũng chưa học được ba bốn phần bản lĩnh
trong Vũ Hầu Tàng Binh đồ.
Những ngón nghề tuyệt
học này xưa nay đều là căn bản an thân lập nghiệp của các nhà, đại đa số sư phụ
truyền cho đệ tử đều theo kiểu “mèo dạy hổ”, giữ lại bản lĩnh cứu mạng là trèo
cây không truyền. Thêm nữa, lại còn những quy củ kiểu như “truyền nam không
truyền nữ, truyền trưởng không truyền thứ”, khiến cho các môn tuyệt nghệ càng
truyền càng ít dần, thường xuyên rơi vào tình trạng mấp mé thất truyền, thậm
chí là đoạn tuyệt hương hỏa.
Gần một thế kỷ nay, các
ngành khoa học kỹ thuật trên thế giới phát triển từng ngày, ngành nghề truyền
thống của Trung Quốc khó tránh khỏi có chút “thổ tả”, những thứ xưa cũ bị mai
một nghiêm trọng, đến giờ lại không thế kế thừa hoàn thiện những gì còn sót
lại, mà vẫn tiếp tục đánh mất. Tay nghề ám khí của thợ thủ công Phong Oa sơn
chính là một ví dụ, vì vậy Vũ Hầu Tàng Binh đồ đối với Út mà nói quả có hơi
thâm thúy khó hiểu, cô căn bản không hiểu được bao nhiêu nội dung trong đó
Tuyền béo vừa thấy minh
khí trong hộp mạ vàng hóa ra là máy quyển sách rách, lập tức mất hứng, chỉ giữ
lại cái hộp, định mang ra Phan Gia Viên đẩy đi,r ồi hỏi tôi mấy quyển bản vẽ
này xử lý thế nào.
Tôi bảo, thực ra Vũ Hầu
Tàng Binh đồ không phải vật tầm thường, có điều người ngoài ngành xem không
hiểu gì mà thôi. Có câu, mỗi vật đều có chủ nhân thích hợp, thứ này rơi vào tay
người thường thì thật uổng phí của trời. Phen này chúng ta vào hẻm núi Quan Tài
tìm thôn Địa Tiên, em Út đây đã giúp đỡ rất nhiều, chi bằng hãy tặng Vũ Hầu
Tàng Binh đồ này cho ông chủ Lý, coi như trả món nợ ân tình, nói không chừng
ông Lý còn biết được lai lịch xuất xứ của bộ sách này, chúng ta tiện thể mở
mang kiến thức luôn.
Tuyền béo hân hoan đồng
ý, cậu ta nói thứ này ở trong tay chúng ta cũng chẳng ích lợi gì, cầm đến tiệm
tạp hóa của ông chủ Lý, có thể đổi lấy dăm ba cái Ô Kim Cang, dẫu sau này không
đi đổ đấu nữa thì sang California cắm trên bãi cát bên bờ biển cũng có thể làm
dù che nắng, nói không chừng còn có thể mở ra một trào lưu mới ở Mỹ, thậm chí
trên toàn thế giới ấy chứ.
Trong lúc nói chuyên,
Shirley Dương lại đến bàn bạc với tôi, trước mắt tính mạng Đa Linh đang nguy
ngập trong sớm tối, nhưng bọn tôi lại toi công ở thôn Địa Tiên, chi bằng đi
đường vòng về Hồ Nam một chuyến, tìm lão Trần mù xem bói xem thế nào. Năm xưa,
lão là thủ lĩnh của phái Xả Lĩnh, kiến thức lịch duyệt bất phàm, cũng chỉ có
cách nhờ lão giúp nghĩ xem còn biện pháp nào khác hay không.
Tôi thầm nghĩ, như vậy
cũng tốt, lão Trần mù ấy từng thống lĩnh bọn đạo tặc ở mười ba tỉnh Nam Bắc,
thực sự là một nhân vật “gọi gió được gió, hô mưa được mưa”, tới khi bắt đầu
trộm mộ ở Bình Sơn vùng Tương Tây, không biết gặp phải thứ xúi quẩy gì hay đụng
phải hung thần ở đâu, chẳng những không thể vùng lên lần nữa, ngược lại còn ngã
dúi ngã dụi, cực kỳ không thuận, chưa qua được núi Già Long đã tổn hao rất
nhiều nhân thủ, những người còn lại cũng ngỏm hết trong núi, chỉ còn mình lão
may mắn thoát thân, nhưng mù mất đôi mắt, đành ẩn tích mai danh sống đến ngày
hôm nay.
Nhưng lão Trần mù năm
xưa thông thuộc “Lăng phổ”, thủ hạ tai mắt đông đảo, biết được rất nhiều thông
tin về cổ mộ khắp nơi, đến cả mộ hoàng bì tử ở miền Đông Bắc hiếm người nào
trong quan nội biết đến, lão cũng hiểu biết đôi phần. Hiện giờ, chúng tôi chi
còn cách nhờ lão vắt óc nghĩ lại cho kỹ... xem trong mộ cổ mồ hoang nào còn có
khả năng chôn thi đơn dị khí nữa không.
Lão hiện đang ở Tương m,
từng là sào huyệt cũ của bọn đạo tặc Thường Thắng sơn, nghe lão Trần mù nói,
theo lệ cũ, những đầu mối về mộ táng các triều đại ở các vùng miền, cùng sự việc
tụ tập trộm mộ kiếm lợi, đều phải ghi lại tường tận vào sổ sách, nếu may mắn,
nói không chừng có thể tìm thấy thông tin liên quan sót lại từ thời trước giải
phóng, như vậy còn hơn chúng tôi cứ đâm bừa tìm bãi không có mục tiêu thế này
nhiều.
Tuy rằng chuyện này chưa
chắc đã khả thi, nhưng hiện tại không ai có phương pháp nào hay hơn, cả bọn bèn
quyết định thẳng tiến Hồ Nam, không ngờ đúng lúc này, chúng tôi lại nhận được
một tin tức chẳng lành, Đa Linh ở Mỹ đã qua đời.
Nguồn e-thuvienonline.blogspot.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét