Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

12 thg 1, 2014

Mộ Hoàng Bì Tử - Chương 1-6 (Thiên Hạ Bá Xướng)

Chương 1:

Tổ tiên nhà tôi có một cuốn tàn thư, tên là Thập lục tự âm dương phong thủy bí thuật, do một vị Mô Kim hiệu úy tiền bối soạn ra.
Nhờ cuốn tàn thư này, tôi đã trở thành một Mô Kim hiệu úy chuyên đi đổ đấu đào mộ, trải qua quãng thời gian xảy ra vô số sự việc, đồng thời cũng gặp được vô số người. Đối với tôi, mấy năm trải nghiệm ấy, có thể nói là: Nam hoang suýt chết không hối hận chuyến này kỳ tuyệt nhất bình sinh[1]. Ngoảnh đầu nhìn lại cả chặng đường, chỉ thấy toàn gió tanh mưa máu, cũng may là rảo khắp núi xanh người vẫn chửa già[2], giờ đây tôi sắp sửa cáo biệt cái nghề Mô Kim hiệu úy rồi.

Trước khi sang Mỹ, trong lúc sắp xếp hành trang, tôi nhặt ra được một quyển album, tiện tay mở xem, liền thấy một tấm ảnh cũ, cảnh nền phía sau là cao nguyên Nội Mông bao la, tôi và Tuyền béo trong ảnh đội mũ lệch, vai vắt túi quân dụng. Giờ nhìn lại cũng hơi tức cười, nhưng hồi đó tôi chẳng hề có cảm giác gì, còn thấy thế mới đúng mốt. Sau khi chụp hình lưu niệm, tôi và những người bạn trong tấm ảnh này lập tức đi sâu vào thảo nguyên rộng lớn, tôi vẫn nhớ rất rõ, dạo đó chúng tôi phải đến Hulunber[3] săn lùng một con yêu long màu đen...
Chú thích
[1] Hai câu trong bài Lục nguyệt nhị thập nhật dạ độ hải (Đêm ngày hai mươi tháng Sáu vượt biển) của Tô Đông Pha đời Tống, ý rằng chuyến đi miền Nam của ông dù cửu tử nhất sinh cũng không hối hận, vì những điều tai nghe mắt thấy trên đường đều hết sức kỳ lạ tuyệt vời, bình sinh mới gặp lần đầu.
[2] Câu này nằm trong bài hợp xướng Thanh Bình Nhạc của Mao Trạch Đông.
[3] Nay là thành phố cấp tỉnh lớn nhất Trung Quốc, thuộc khu tự trị Nội Mông Cổ.

Chương 2: Mùa đông đó kém

Mùa thu năm 1969, cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng đất nước của nhân dân Việt Nam đang bước vào giai đoạn lửa bỏng dầu sôi. Thời điểm đó, tôi là một trong vô vàn các thanh niên trí thức lên núi xuống đồng, quán triệt chỉ thị tối cao của Đảng: thanh niên trí thức về nông thôn, nếm gió tuyết, luyện tim hồng, đấu trời đất, rèn cốt sắt, được tổ chức Thanh niên phân về tham gia đội sản xuất ở khu vực miền núi Đại Hưng An Lĩnh.
Thời gian thấm thoắt, loáng cái đã trôi được mấy tháng, cảm giác hưng phấn và mới mẻ lúc vừa lên núi sớm đã bay sạch sành sanh, thay vào đó là cuộc sống tẻ nhạt lặp đi lặp lại hết ngày này đến ngày khác. Khe núi nơi tôi đóng quân bé tẻo teo bằng lòng bàn tay, tổng cộng chỉ có hai ba chục hộ dân, mấy trăm dặm xung quanh dường như đều là rừng nguyên sinh tuyệt nhiên không có dấu chân người.
Dân làng này ở núi ăn núi, ngoại trừ mấy mẫu ruộng khai khẩn ở nơi bằng phẳng, trồng dăm thứ lương thực ăn hàng ngày, thực phẩm còn lại chủ yếu đều vào trong núi kiếm. Trên núi có đầy hoẵng, hươu bào, thỏ rừng, gà rừng, lại còn cả mộc nhĩ, nấm hương trong rừng, toàn thứ ngon lành béo bổ, muốn ăn no ăn ngon là chuyện nhỏ.
Có điều mùa đông năm đó tuyết trên núi rơi quá sớm, gió Tây Bắc đột nhiên tăng cường, tiết trời bất ngờ trở lạnh chỉ trong thời gian rất ngắn. Mắt thấy tuyết lớn sắp sửa bịt kín cả lối vào núi đến nơi, mà chưa ai kịp chuẩn bị dự trữ lương thực cho mùa đông. Mùa thu những năm trước, người miền núi đều nhân lúc lợn rừng, thỏ rừng đang béo ú cố săn bắt thật nhiều, xẻ thịt hong gió phơi khô cất đi, dùng để vượt qua mùa đông tàn khốc dài đằng đẵng của vùng Đại Hưng An Lĩnh.
Thời tiết bất thường mười năm không gặp này nói đến là đến, mới giữa thu, một trận tuyết lớn đã trút xuống, rồi gió Tây Bắc ào ào thổi về. Các hộ đi săn không khỏi cuống cả lên, vội vác súng dắt chó săn, chen nhau đổ lên núi săn bắn dự trữ cho mùa đông giá rét. Các hộ đi săn phải tranh thủ từng khắc một, dồn hết nhân lực đi bẫy cáo, bắn thỏ, kẻo để muộn thêm chút nữa, bão tuyết trong núi mà nổi lên rồi thì đừng hòng còn săn bắn được gì nữa. Cả làng đang phải đối mặt với một mùa đông đói rét khủng khiếp.
Tuyền béo là chiến hữu được phân về đây cùng tôi, dạo này đang rỗi việc ngứa ngáy hết cả tay chân, suốt ngày hậm hực sao không có sự vụ gì náo loạn lên một chút. Cậu ta thấy cánh thợ săn lập nhóm lũ lượt vào núi đi săn thì khoái chí ra mặt, xoa tay xoa chân bàn bạc với tôi, tính sẽ theo đám thợ săn vào núi tóm mấy con gấu nâu mang về.
Nhiệt tình của tôi với chuyện đi săn trong núi, đặc biệt là hứng thú với những trò vừa phải đấu trí vừa phải đấu sức như trò “bẫy cáo”, chẳng mảy may kém Tuyền béo một li một tấc nào, có điều lúc bình thường cũng không sẵn cơ hội để mang súng dắt chó vào rừng chơi một phen cho thỏa. Nhưng tôi cũng đoán chắc mười mươi, ông bí thư chi bộ sẽ không cho chúng tôi tham dự lần hành động này. Một là vì đám thanh niên trí thức chúng tôi chân ướt chân ráo tới đây chưa được nửa năm đã quậy tơi bời vô số bận, làm ông bí thư già nổi sung, quyết định phải đặc biệt để mắt chiếu cố tới bọn tôi. Dạo gần đây, nhiệm vụ ông phân cho bọn tôi nếu chẳng phải đi giẫy cỏ mộ, thì cũng là ngồi canh đống gỗ của lâm trường, toàn mấy việc phải ngồi một chỗ chán chẳng buồn chết. Hai là chuyến đi săn để dự trữ cho mùa đông này là việc lớn trong làng. Đây là hành động tập thể, cần có kinh nghiệm phong phú và sự phối hợp chặt chẽ giữa các thợ săn, để lũ thanh niên trí thức ẽo ợt từ thành phố đến tham gia, chẳng may có sơ suất gì, cả làng sẽ phải ôm bụng đói qua cả mùa đông rét mướt, trách nhiệm này chẳng ai gánh nổi cả, nên tuyệt đối không thể nào mạo hiểm.
Chúng tôi đỏ mắt nhìn các nhà chọn ra những tay săn cường tráng nhất, tổ chức thành “Đội chiến đấu”, dẫn theo đàn chó săn hùng dũng kéo vào núi, đạp tuyết trắng thẳng tiến lên tuyến đầu săn bắn. Trong lòng tôi quả thực đã sốt ruột lại còn tức anh ách, dù biết căn bản chẳng có tí hy vọng nào, nhưng tôi vẫn ôm một tia hy vọng đi tìm ông bí thư nì nèo. Chỉ xếp cho bọn thanh niên trí thức chúng tôi mấy việc chi viện hậu cần thôi cũng được, cứ bắt ở lại trong làng mãi thế này, không bức bối đến phát rồ lên mới lạ.
Tuyền béo dẫn chỉ thị tối cao của Mao chủ tịch ra nhấn mạnh với bí thư chi bộ: “Chúng cháu đều từ ngũ hồ tứ hải đến, vì mục đích chung mà tập hợp lại với nhau ở đây. Cháu đại biểu cho năm thanh niên trí thức này, thật lòng thỉnh cầu bác, dù thế nào cũng phải cho chúng cháu tham gia vào dòng thác đấu tranh cách mạng nhằm săn bắn dự trữ lương thực cho mùa đông này...”
Ông bí thư già không đợi Tuyền béo ta dứt lời, dùng ngay một câu chỉ thị tối cao khác bóp chết lời thỉnh cầu của chúng tôi: “Đừng có lằng nhằng, mấy thằng nhãi các cậu? Mao chủ tịch không phải để các cậu lấy ra hù dọa tôi đâu nhé..., phải rồi ... Người còn nhấn mạnh phải chống tự do chủ nghĩa, phải phục tùng sự sắp xếp của tổ chức. Bận rày người làng đều đi săn, ở nhà rặt đàn bà con nít người già yếu bệnh tật, các cậu nhìn tuyết rơi xem, ngộ nhỡ có con gấu chó nào chưa tích đủ mỡ cho mùa ngủ đông mò đến thì phiền to đấy. Thôi quyết như vậy đi, thanh niên trí thức các cậu, một nửa ở lại canh giữ thôn làng, còn Bát Nhất và Tuyền béo, bảo Yến Tử dẫn hai đứa đến lâm trường, vừa vặn đổi cho ông Cao Sơn về đây. Tôi nói các cậu biết, mấy ngày tôi vắng mặt cấm có được quậy phá, nghe chưa.”
Quả nhiên không ngoài dự đoán của tôi, về mặt đường lối chẳng còn gì để thỏa hiệp với điều chỉnh nữa rồi. Đã nói đến nước này, tôi cũng đành bó tay. Nhưng trong bụng vẫn ngấm ngầm suy tính, ra mạn gần lâm trường có thể rình cơ hội đi bắt cáo, dù sao cũng đỡ chán hơn ở lại làng đảm nhiệm “công tác tư tưởng”. Nghĩ vậy, tôi liền từ biệt ba bạn thanh niên trí thức còn lại, xốc bó chăn đệm lên lưng, cùng Tuyền béo theo chân Yến Tử đến lâm trường bên dưới ngọn Đoàn Sơn canh mấy đống gỗ.
Trong làng có mấy nhà được chọn làm “nhà thanh niên”, thanh niên trí thức về tham gia lao động sản xuất được phân ở cố định trong mấy nhà đó, còn cơm thì cứ lần lượt đến các hộ gia đình ăn chung, gặp gì ăn nấy. Cô nàng Yến Tử này là “chủ nhà” của tôi và Tuyền béo, cũng là tay thợ săn cừ khôi, ông bí thư phân công cô nàng dẫn chúng tôi đi trông giữ lâm trường chủ yếu là vì lo nhỡ đâu chúng tôi gặp phải dã thú tấn công.
Yến Tử mất cơ hội vào nơi săn bắn, chẳng phàn nàn câu nào. Âu cũng bởi đám thanh niên trí thức bọn tôi biết nhiều hiểu rộng gấp mấy lần dân miền núi, đặc biệt là hai thằng trên thông thiên văn dưới tường địa lý lại bốc phét thành thần như tôi với Tuyền béo. Những lúc đi với thanh niên trí thức, cô có thể nhân đó tìm hiểu thêm về thế giới bên ngoài vùng núi rộng lớn mà từ nhỏ cô chưa từng rời khỏi này. Vậy là Yến Tử khoác súng săn, chỉ mang thêm mấy thứ đồ dùng thiết yếu, cùng tôi và Tuyền béo xuất phát luôn. Từ làng đến lâm trường phải vượt một rặng núi, vòng qua hai cái đèo, đường đi khá xa. Dọc đường gió Tây Bắc cứ thổi vù vù, cuốn tuyết đọng trên tán cây bay mù trời. Lại còn bầu trời dù đang giữa ban ngày ban mặt vẫn cứ xám xìn xịt, khiến người ta chẳng thể phân biệt được có phải tuyết vẫn đang rơi hay không. Tôi đã chụp cái mũ da chó kín mít, nhưng bị gió quất cho một hồi đâm ra tê dại hết cả đầu.
Có điều nghe Yến Tử kể, thời tiết như thế vẫn chưa là gì, ở vùng núi này, đến tháng Chạp cuối đông, tuyết trong rừng ngập tận thắt lưng, lội tuyết cực kỳ tốn sức, chỉ cần đi một quãng ngắn thôi đã ướt đẫm mồ hôi rồi. Nhưng tuyệt đối không được nghỉ, chỉ cần dừng bước xả hơi, gió lạnh thấu xương phắt qua một cái, mồ hôi khắp người sẽ đóng thành băng ngay lập tức. Những người chưa nếm qua mùa đông trong núi sâu thì không tưởng tượng nổi đâu, đáng sợ nhất phải kể đến “bạch mao phong” mà dân vùng núi vừa thoáng nghe đã tái mét cả mặt. “Bạch mao phong”, chính là gió cuốn tuyết bay, những cơn trốt xoáy trắng bạc đó lợi hại còn hơn đao kiếm, sức người căn bản không chịu đựng nổi. Vì vậy các hộ săn bắn vùng núi này đều lo chuẩn bị thức ăn từ trước, đến lúc trời đông tháng giá chỉ ngồi lỳ trên cái kháng[4] đất trong nhà cho qua hết mùa đông.
Đi gần hết ngày mới đến được lâm trường, chỗ này ở sát vùng núi Đoàn Sơn hay có gấu người xuất hiện. Một con sông chảy qua giữa vùng lưng rậm đồng tuyết, vừa khéo tách đôi khu vực núi và rừng ra làm hai. Trên núi Đoàn Sơn cây cối um tùm, chẳng thiếu thức ăn, nên lũ gấu người trên ấy chẳng mấy khi mất công vượt sông sang khu rừng bên này làm gì. Còn đám thợ săn cũng chẳng dại vô cớ đi chọc vào lũ thú hung tàn thành tinh được mệnh danh là Vua của núi rừng ấy.
Đến mùa xuân nước lên, người ta buộc gỗ khai thác được ở lâm trường làm bè thả trôi theo dòng nước xuống hạ du. Ở hạ du sông có một tuyến đường sắt và một đoàn xe lửa nhỏ, chuyên dùng để vận chuyển gỗ. Quang cảnh ở đây rất giống với Giáp Bì câu được miêu tả trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Lâm hải tuyết nguyên[5]. Ở miền Đông Bắc, quả đúng có một nơi tên là Giáp Bì câu thật. Nhưng lâm trường ở ngọn núi Đoàn Sơn này cũng có một cái tên khá oách, Mộ Hoàng Bì Tử. Cái tên này thoạt nghe có vẻ rất thần bí, đến cả thợ săn lão thành như bố của Yến Tử cũng chẳng nổi được lai lịch của nó rốt cuộc là thế nào, chỉ bảo mạn gần đấy có rất nhiều hoàng bì tử. Hoàng bì tử hay hoàng đại tiên là cách gọi loài chồn vàng của người dân vùng này. Hồi xưa, hoàng đại tiên quậy rất ác, nhưng giờ thì chẳng ai nhắc đến nữa rồi.
Tuy lâm trường núi Đoàn Sơn rất thô sơ, lại ở nơi hẻo lánh, nhưng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội không thể thiếu nó được, vì vậy chúng tôi mới phải đội gió đạp tuyết đến đây canh gác. Có điều, nói thực một câu, mùa đông ở lâm trường cũng chẳng có việc gì ra hồn để mà làm cả, việc duy nhất cần xử lý, chỉ là qua một dạo nữa xuống dưới hạ du giúp người ta đưa gỗ lên chuyến tàu cuối rời khỏi đây mà thôi.
Lâm trường này có một dãy nhà dựng bằng gỗ bạch dương, mùa xuân và mùa hè đều có công nhân lâm trường sống và làm việc. Vì năng lực vận chuyển có hạn, chặt nhiều cây cũng chẳng chuyển đi hết được, vì vậy cứ xong nhiệm vụ sản xuất, đến tầm tết Trung thu là bọn họ kéo nhau rời khỏi lâm trường về nhà ăn tết, khi ấy, lâm trường được giao về cho trại Cương Cương ở gần đấy nhất cử người đến coi sóc.
Trước khi chúng tôi đến, lâm trường do ông lão Cao Sơn và cháu gái, một cô nàng tên là Họa Mi phụ trách coi quản. Theo phân công của bí thư chi bộ, chúng tôi phải đổi lượt cho họ về làng, nhưng lúc ba bọn tôi đến nơi, liền phát hiện lâm trường có gì đó rất không ổn. Căn nhà nhỏ của người gác rừng trống huếch trống hoác, tro than trong bếp lò lạnh ngắt lạnh ngơ, chẳng thấy bóng dáng hai ông cháu nhà họ đâu cả.
Tôi không khỏi lấy làm lo lắng, vội cùng hai người còn lại chia nhau tìm khắp một lượt trong lâm trường, chẳng thấy tí tăm tích nào. Càng lúc càng lo sốt vó, tôi bảo Tuyền béo và Yến Tử: “Năm nay thời tiết lạnh nhanh quá, trước đấy cũng chẳng có dấu hiệu gì cả, sợ rằng bọn dã thú trong núi cũng phải tranh thủ săn bắt trước khi giá rét, liệu có phải hai ông cháu họ đã bị lũ ác thú kiểu như mèo rừng báo đốm gì đấy bắt đi rồi không nhỉ?”
Chó săn trong làng đều bị dẫn vào núi đi săn cả, nên chúng tôi không mang theo con chó nào. Giờ đây gió tuyết mịt mùng, quanh ngọn Đoàn Sơn toàn núi cao rừng rậm, địa hình quá chừng phức tạp, tuyết xuống che phủ hết cả dấu vết của người và thú để lại, dẫu có cả trăm người đi lùng sục, cũng chưa chắc đã tìm ra bọn họ, càng huống hồ bây giờ chỉ có trơ ra ba mống bọn tôi. Tôi và Tuyền béo tức thì nghĩ ngay đến việc về làng gọi cứu viện, nhưng lại sực nhớ trong làng chẳng còn ai, nhất thời cũng bó tay không biết phải làm sao.
Cũng vẫn là Yến Tử cẩn thận hơn, cô quan sát trong căn nhà gỗ nhỏ thật kỹ thêm lượt nữa, lương thực và thịt khô vẫn còn chút ít, súng săn và cái ống sừng trâu đựng hỏa được với đạn sắt của ông Cao Sơn thì không thấy đâu. Thợ săn rất giỏi quan sát dấu vết, Yến Tử không phát hiện có dấu tích nào của động vật trong nhà, đồ đạc sắp xếp gọn ghẽ đâu ra đấy, hình như họ còn làm rất nhiều cơm nắm nữa, chắc không phải đã xảy ra chuyện gì bất trắc. Có lẽ ông Cao Sơn dẫn cô cháu gáí đi săn thỏ rồi cũng nên, hoặc cũng có thể ông già lo tuyết lớn bịt kín lối ra vào núi, không đợi chúng tôi đến đổi gác đã về làng trước luôn rồi. Ông già Cao Sơn này săn bắn mấy chục năm nay, kinh nghiệm đầy mình, tuổi tác tuy cao, thân thủ không được nhanh nhẹn như thuở trước, nhưng đã có khẩu súng săn bên mình rồi thì chỉ cần giữa đường không gặp phải gấu người cái vừa đẻ con, chắc cũng không có gì đáng ngại,
Thấy trong lâm trường không có dấu vết lạ, ba đứa chúng tôi mới hơi yên tâm một chút. Dọc đường bị đói rét, khổ sở không sao tả xiết, lúc này có chuyện gì gấp gáp cũng cứ vứt hết sang một bên đã, nhiệm vụ cấp bách nhất trước mắt là phải sưởi ấm và nhét đầy cái bụng. Vậy là chúng tôi lật đật đốt lò, bỏ mấy cái bánh nướng lạnh ngắt cứng đơ lên mặt bếp nướng sơ sơ, ăn tạm chống đói. Ăn no xong thì trời cũng tối mịt, cả ba liền bắt đầu nói chuyện nhăng cuội cho đỡ buồn, thi nhau tán phét tán lác y như lúc thường. Tuyền béo kể chuyện thổ phỉ ở vùng Đông Bắc trước giải phóng, mấy chuyện này đều do ông già nhà cậu ta kể từ trước, tôi nghe không dưới chục lần rồi, nhưng Yến Tử mới được nghe lần đầu, nên có vẻ rất say sưa.
Chỉ thấy Tuyền béo phun nước bọt tung tóe, vung chân vung tay kể chuyện: bọn thổ phỉ tụ tập thành băng đảng đi cướp của dân lành, ở vùng Đông Bắc còn gọi là “hồ phỉ” hay “hồ tử”. Nghe nói bọn này không giống đám cướp đường ở nội địa, mà có hệ thống hẳn hoi, tổ sư là Mao Văn Long, tổng binh của Bì Đảo[6] cuối đời nhà Minh. Sau khi quan Hữu phó đốc giám ngự sử Viên Sùng Hoán lập kế giết chết Mao Văn Long, đám quan binh thủ hạ dưới trướng họ Mao liền tan rã lưu lạc đến các đảo ven biển hoặc trong núi sâu vùng Đông Bắc. Ban đầu, đám người này vẫn còn tự cho mình là quan binh nước Đại Minh, không làm những chuyện đánh cướp dân lành, nhưng trải qua trăm năm, cơ cấu tổ chức ngày một phức tạp hơn, dần dần đã trở thành lũ phỉ tàn ác vô lương, không chuyện gì là không dám làm. Mãi đến trước giải phóng, đám thổ phỉ này vẫn tôn thờ Mao Văn Long làm tổ sư gia.
Các toán phỉ này, về sau còn được gọi là “liễu tử”, tùy theo danh hiệu của tên cầm đầu mà tên của các toán phỉ cũng khác nhau, chẳng hạn như “Nhất Thiết Tiên”, “Thảo Thượng Phi”, “Tang Đại Đao”, “Phượng Song Hiệp” vân vân...
Trước giải phóng, thủ lĩnh của toán phỉ lớn nhất vùng Đông Bắc là một gã đầu trọc biệt hiệu là “Già Liễu Thiên[7]”, thời trẻ vốn là võ tăng trong chùa, học được một thân công phu Thiết Bố Sam, nhưng sau khi hoàn tục, tóc hắn cũng không mọc lại được nữa. “Già Liễu Thiên” là kẻ lòng dạ tàn độc, hai tay đã nhuốm đầy máu tanh của cán bộ và quần chúng.
Sau khi quân Nhật đầu hàng, vùng Đông Bắc tiến hành cải cách ruộng đất. Để bảo vệ thành quả cách mạng không bị lũ thổ phỉ phá hoại, Đông Bắc lập một toán quân tiễu phỉ, trải qua một loạt những cuộc chiến tàn khốc gian khổ tuyệt trần, cuối cùng đã diệt trừ sạch “bốn rường tám cột” trong toán phỉ do “Già Liễu Thiên” cầm đầu. “Bốn rường tám cột” là một dạng danh xưng trong nội bộ tổ chức bọn phỉ, ngoài đại đương gia được gọi là “Đại Quỹ”, còn có “bốn rường”, lần lượt là “Đỉnh Thiên”, “Chuyển Giác”, “Nghênh Môn”, “Lang Tâm”; còn “tám cột” bao gồm: “Kê Kỳ”, “Qua Tuyến”, “Đổng Cục”, “Truyền Hiệu”, “Tổng Thôi”, “Thủy Tướng”, “Mã Hiệu”, “Trương Phòng”, đám này mà toi đời, thì cả toán thổ phỉ cũng coi như hoàn toàn tan rã.
Trong nhóm “bốn rường tám cột” này, nhân vật quan trọng nhất là “Chuyển Giác”, dân vùng Đông Bắc còn gọi là “Thông Toán tiên sinh”. Y là quân sư của cả băng phỉ, chuyên dùng một số phương thuật mê tín để “đoán Bát môn”, quyết định mọi hành động tiến thoái của cả băng phỉ. Quân sư tiêu đời, “Già Liễu Thiên” mất kẻ tâm phúc, trở thành “tư lệnh không quân” đúng nghĩa. Có điều, kẻ này vô cùng giảo hoạt, nhóm tiễu phỉ từ đầu chí cuối không làm sao bắt nổi, mấy lần liền đều để hắn chuồn mất ngay trước mắt. Một số dân địa phương mê tín đồn đại rằng, tên trùm phỉ này thời trẻ đã từng cứu mạng hoàng đại tiên, cả đời này được hoàng đại tiên bảo vệ, gặp nguy cấp có thể độn thổ bỏ trốn, dù có phái thiên binh thiên tướng đến cũng chưa chắc đã tóm được.
Có điều, thế gian lắm chuyện ly kỳ, thổ phỉ kỵ nhất chữ “chết”, nhưng dù không bao giờ nhắc đến chữ này, vẫn chẳng thể thoát. Làm thổ phỉ nào có kết cục tốt đẹp, xưa vẫn có câu “tự tạo nghiệt, không thể sống”, có lẽ “Già Liễu Thiên” tội ác ngập đầu, khí số đã tận, năm đó trong núi vừa khéo xảy ra một trận rét hiếm thấy, dân gian thường gọi những năm như thế là “tử tuế”, hoàng đại tiên cuối cùng cũng không che chở nổi cho hắn.
Chú thích
[4] Một loại giường đất, bên dưới là bếp lò sưởi ấm, thường thấy ở vùng Đông Bắc Trung Quốc.
[5] Tiểu thuyết của nhà văn Khúc Ba, nói về một nhóm bộ đội thuộc Liên quân Dân chủ Đông Bắc thực hiện nhiệm vụ tiễu phỉ.
[6] Một hòn đảo nhỏ nằm ở cửa sông Áp Lục, gần Triều Tiên.
[7] Che cả trời.

Chương 3: Mộ Hoàng Bì Tử

Cái biệt hiệu “Già Liễu Thiên” này đại khái chắc là lấy từ ý: Hòa thượng che ô, vô pháp vô thiên mà ra. Dân gian đồn thời làm hòa thượng hắn từng cứu hoàng đại tiên, nên cả đời đều được lũ chồn lông vàng ấy bảo vệ, không ai đụng đến nổi. Chuyện này dĩ nhiên là nhảm, sự thực là hắn ta chẳng những chưa từng cứu con chồn vàng nào, mà còn hại chết vô số nữa là đằng khác.
Khi đội tiễu phỉ truy kích, gặp đúng đợt tuyết rơi sớm, trời đất băng giá, cuói cùng đã tìm thấy xác hắn trong một hang tuyết. Tên trùm phỉ treo cổ tự sát trên một cành cây mọc chìa ra, đối diện xác hắn, một con chồn vàng nhỏ cũng bị treo cổ chết, tử trạng giống hệt nhau, cùng bị một sợi thừng nhỏ tròng siết ngang cổ. Một người một chồn, lưỡi lè mắt trợn, thi thể lạnh cứng.
Tuyền béo ra vẻ huyền bí, kể rất sống động, lại còn giả bộ như người bị treo cổ lè lưỡi, dọa Yến Tử sợ xanh cả mắt. Tôi thì hết sức thờ ơ, dù sao cũng nghe Tuyền béo kể chuyện này không biết bao nhiêu lần rồi, vả lại cái chết của “Già Liêu Thiên” quá đỗi kỳ quặc. Nếu bảo hắn vì rơi vào cảnh cùng đường mạt lộ mà treo cổ tự vẫn hòng trốn tránh sự phán quyết của quần chúng nhân dân thì cũng khá có lý, nhưng con chồn vàng chết treo đối diện với hắn quả thực quá ly kỳ. “Già Liễu Thiên” là hạng thổ phỉ đạo tặc, có đức độ tài cán quái gì, nào phải hoàng đế Sùng Trinh nhà Minh đâu, lẽ nào con chồn vàng kia muốn làm thái giám tuẫn táng cho hắn?
Nhưng Yến Tử lại không nghĩ như tôi, cô nàng tin Tuyền béo sái cổ, vì vùng này cũng có vô số truyền thuyết tương tự. Tương truyền hoàng đại tiên chỉ bảo vệ cho một đời người, ai cứu hoàng đại tiên, tỷ dụ như giúp hoàng đại tiên vượt qua kiếp nạn gì đó, sẽ được hoàng đại tiên bảo vệ. Y muốn gì, lũ chồn vàng cũng sẽ đi trộm mang về cho, suốt đời suốt kiếp không phải lo cơm ăn áo mặc. Nhưng chỉ cần y dương thọ vừa tận, con cháu đời sau sẽ phải gánh hết họa hại của hoàng đại tiên. Những món đồ trước đây ăn trộm về cho nhà ấy, đều phải trả ngược lại bằng hết. Nhưng thế vẫn chưa xong, cuối cùng hoàng đại tiên còn phái một con chồn vàng nhỏ đến đổi mạng với hậu nhân của nhà ấy. Yến Tử cho rằng tên trùm phỉ “Già Liễu Thiên” này, chắc hẳn là tổ tiên đời trước đã được hoàng đại tiên bảo vệ, vì vậy đến đời hắn mới phải nhận lấy kết cục ấy.
Thời trước giải phóng, trong làng cũng từng xảy ra chuyện như thế này. Một người tên là Từ Nhị Hắc, đời trước nhà anh ta được hoàng đại tiên bảo vệ. Năm đó, lúc cha Từ Nhị Hắc lâm chung, vừa mới chập tối, vô số chồn vàng đã vây trước cổng nhà chạy rần rần, như đang bàn bạc xem mấy ngày nữa sẽ mang họa gì đến cho nhà họ Từ vậy. Lũ chồn vàng này đúng là hiếp đáp người quá đáng, Từ Nhị Hắc nổi điên, vác bẫy đặt trước cửa, chỉ một đêm tổng cộng bắt được hơn hai chục con chồn vàng. Lúc ấy đang là ngày đông tháng giá, giọt nước nhỏ ra cũng đóng băng luôn. Từ Nhị Hắc liền rạch sống lưng của từng con chồn, cứ nguyên máu chảy ròng ròng như thế gí chặt xuống đường ray xe lửa bằng sắt của người Nhật Bản xây dưới chân núi. Máu nóng sau lưng lũ chồn chạm vào sắt thép lập tức đông cứng thành băng, mặc cho chúng giãy giụa thế nào cũng không thể giằng ra được. Đêm đó, Từ Nhị Hắc dính cả một chuỗi dài chồn vàng lên đường ray, đến rạng sáng, xe lửa chạy qua, toàn bộ hơn hai chục con chồn vàng bị nghiến nát be bét.
Kết quả là chuốc vạ, trời vừa tối, xung quanh thôn làng, khắp rừng khắp núi dậy lên tiếng kêu gào khóc lóc của lũ chồn lông vàng, khiến bọn chó săn trong làng đều cúp đuôi nín bặt. Lúc tờ mờ sáng, có người trông thấy một đàn chồn lông vàng đông nghịt chạy sầm sập về rừng, kế đó lại có người phát hiện ra Từ Nhị Hắc đã treo cổ tự sát, tử trạng giống hệt tên trùm thổ phỉ trong câu chuyện của Tuyền béo.
Tuyền béo và Yến Tử bắt được sóng của nhau, tán thỏa thê chuyện trên trời dưới đất. Bên ngoài vùng núi này, cuộc vận động rầm rộ kia[8] đang quét bay mọi thứ mê tín dị đoan, ngưu quỷ xà thần. Làn sóng vận động ấy lẽ đương nhiên cũng cuốn đến vùng núi Đại Hưng An Lĩnh, đến cả ông bí thư chi bộ già chỉ thuộc mặt có mười mấy chữ, cũng hễ bắt đầu buổi họp là vanh vách: “Đường lối cách mạng của Mao chủ tịch là đường sáng thênh thang ở giữa, bên trái có một cái hố là phái tả khuynh, bên phải có một cái hố là phái hữu khuynh, mọi người nhất định không thể đứng nhầm đội ngũ đi nhầm đường, bằng không chỉ sơ sẩy một chút thôi là lọt xuống hố ngay.” Vì vậy, ba đứa bọn tôi tán phét mấy chuyện truyền thuyết dân gian trong căn nhà gỗ nhỏ này, cũng không khỏi có chút không hợp thời thế cho lắm. Chỉ có điều, núi cao hoàng đế ở xa, lại không có người ngoài, chúng tôi chỉ bàn chuyện gió trăng, không nói chuyện thế sự, so với thế giới bên ngoài kia thì nhẹ nhàng thoải mái hơn nhiều lắm.
Yến Tử cũng đòi tôi có tin tức gì mới lạ thì kể cho cô nghe với, trời bên ngoài vừa tối vừa lạnh, ngồi trên kháng sưởi ấm tán gẫu đúng là hết sức khoan khoái, nhưng mấy tháng nay tôi cũng ru rú trong núi, lấy đâu ra chuyện mới, mấy tin tức cũ thì đều kể hết cả rồi. Tôi bèn nói với cô và Tuyền béo: “Hôm nay như phải tà ấy nhỉ, sao cứ nhai đi nhai lại mỗi chuyện lũ chồn vàng thế? Chẳng phải trên Đoàn Sơn có một nơi gọi là Mộ Hoàng Bì Tử à? Đó là chỗ tập trung chồn vàng, cách đây chẳng xa lắm. Tôi đến đây tham gia lao động sản xuất đã mấy tháng rồi, thế mà chưa bao giờ lên Đoàn Sơn cả, tôi thấy hay là chúng ta đừng chỉ nói mồm nữa, chi bằng dứt khoát tự lực cánh sinh, kiếm ăn kiếm mặc một phen đi. Đêm nay lên núi đặt bẫy, bắt sống mấy con chồn lông vàng về chơi cho vui, có được không?”
Tuyền béo nghe thế thì sướng rơn, trong núi còn có trò gì vui hơn là bẫy chồn lông vàng với bẫy cáo nữa đâu, lập tức nhảy cẫng lên: “Hồ Bát Nhất cậu nói chỉ được cái đúng, giờ vẫn chưa đến tiết Tiểu Tuyết, chồn lông vàng không đáng mấy tiền, nhưng xách đến hợp tác xã mua bán đổi một cân kẹo hoa quả thì chắc chắn không thành vấn đề. Bao nhiêu ngày nay chúng ta không được cái kẹo nào vào mồm rồi, con bà nó, nếu mãi thế này, chắc tôi quên bà nó kẹo ăn vào cay cay hay mằn mặn mất. Chỉ biết nói không làm là quân bịp, chỉ làm không nói là thằng ngu, nói được làm được là tốt, ta cứ lấy hành động thực tế để chứng minh đi thôi...” Nói đoạn cậu ta ưỡn ngực nhảy tót xuống khỏi cái kháng đất, tiện tay vơ cái mũ da chó chụp lên đầu, hăm hăm hở hở muốn đi bẫy chồn lông vàng ngay.
Yến Tử vội ngăn lại: “Không được đi không được đi, các anh lại muốn làm bậy rồi, bí thư chi bộ đã dặn, không được để các anh tự do đi quậy phá đâu, ba người chúng ta phải ở đây canh giữ lâm trường cho tốt.”
Tôi thầm tức cười, bí thư chi bộ thôn là chức quan bé bằng cái hạt vừng, lẽ nào ông ta nói ra là bọn tôi phải răm rắp phục tùng? Chức tước của ông già nhà tôi to hơn cái chức bí thư thôn ấy không biết bao nhiêu lần, mà ông ấy nói tôi đây còn chẳng thèm để vào tai nữa là. Ngoài Mao chủ tịch ra, tôi đây chẳng nghe lời ai hết. Cuộc sống trong núi đơn điệu như thế, khó khăn lắm mới nghĩ ra được chút trò vui, sao có thể dễ dàng bỏ lỡ. Có điều nghĩ vậy nhưng không thể nói trắng ra được, tôi làm ra vẻ thành khẩn nói với Yến Tử: “Quần chúng cách mạng cơ bản đều đã được vận động đi lên núi chiến đấu với thiên nhiên, kiếm thức ăn dự trữ cho mùa đông giá lạnh cả rồi, lẽ nào chúng ta lại cứ ở mãi đây không ra sức ra công? Cô đừng coi thường lũ chồn vàng ấy, chúng tuy nhỏ nhưng cũng có vài lạng thịt với bộ da lông, chúng ta bẫy thêm vài con chính là góp thêm một viên gạch nhỏ vào công cuộc kiến thiết xã hội chủ nghĩa, chi viện cho cách mạng thế giới đấy.”
Yến Tử nghe mà mơ mơ màng màng, “góp một viên gạch nhỏ vào công cuộc kiến thiết xã hội chủ nghĩa” thì đúng là việc nên làm, nhưng gấu người trên núi Đoàn Sơn thì chẳng phải thứ cô dám tùy tiện dây vào. Các hộ săn bắn ở vùng này chẳng có vũ khí gì hiện đại, họ có ba phương pháp truyền thống: một là đặt bẫy, thường là bẫy kẹp hay bẫy thòng lọng, chuyên dùng để tóm một số loài thú vừa giảo hoạt lại chạy rất nhanh, như cáo, chồn lông vàng... chó săn chẳng thể nào làm gì được bọn này, chỉ có thể dùng trí đặt bẫy; cách nữa là cho chó săn truy đuổi, chó săn giỏi nhất chính là món bắt thỏ rừng; ba là dùng súng ống cung nỏ, trong đó súng săn bắn đạn sắt nhồi hỏa dược là thứ vũ khí chủ lực, nhồi thuốc sáng đen vào trước, rồi đặt dây dẫn hỏa, cuối cùng nhét viên đạn sắt vào, dùng que sắt nén thật chặt xuống, viên đạn bị ngòi dẫn hỏa giữ lại sẽ không tuột ra khỏi nòng súng, phải điểm hỏa bên trên rồi mới có thể phát xạ. Tốc độ nhồi thuốc chậm, xạ trình quá gần đều là những nhược điểm chí mạng, song dùng để bắn hương bào, hoẵng hoặc lợn rừng thì cũng khá thích hợp.
Ba phương pháp này của thợ săn, duy nhất chỉ không thể đối phó được với bọn gấu người da thô thịt dày. Lần trước ở khe Lạt Ma gặp phải gấu người[9], suýt chút nữa là toi mạng, vì vậy lần này khi Yến Tử vừa nhắc đến gấu người, tôi cũng giật thót mình, nhưng liền sau đó lại nói ngay: “Làm gì mà phải sợ bóng sợ gió thế? Gấu người có phải đao thương bất nhập đâu, mà buổi tối bọn chúng đều rúc hết vào hang gấu rồi, chúng ta nhân lúc tối trời lên núi bẫy vài con chồn lông vàng rồi về ngay, mạo hiểm một chút có đáng gì, mà cũng đừng quên rằng đội ngũ của chúng ta là bất khả chiến bại đấy nhé.”
Tuyền béo đứng bên cạnh chân đã cuống lên giẫm bình bịch, một mực giục chúng tôi xuất phát ngay, làm cách mạng không phân sớm muộn, nhưng phải chớp thời cơ, nghe tôi khuyên giải một hồi, cuối cùng Yến Tử cũng đồng ý. Thực ra thì cô nàng cũng muốn đi bắt chồn lông vàng lắm chứ, chỉ có điều lời ông bí thư già ở trong cái làng này cũng tương đối có uy tín, cần phải có người làm công tác tư tưởng, giúp cô vượt qua chướng ngại tâm lý này là xong.
Bên ngoài căn nhà gỗ rất lạnh, nhưng tuyết đã thôi rơi, vầng trăng lớn trắng nhợt nhạt, quầng trăng báo trước tuyết lớn sắp sửa ập đến. Gió núi thổi vù vù ngoài khe, ở xa thoạt nghe như thể ma núi đang thút thít than khóc ỉ ôi. Lúc ở làng đến lâm trường, tôi đã có ý muốn bắt vài con chồn lông vàng hoặc cáo, nên món gì cần mang đều có mang theo hết.
Vậy là nhóm ba người chúng tôi nương theo ánh trăng đến bên bờ con sông cạnh lâm trường.
Mặt sông đã đóng băng, trên mặt băng phủ tuyết, đứng sát bờ sông, cách lòng sông đến mười mấy mét vẫn nghe thấy tiếng nước chảy ùng ục dưới băng. Mới nửa mùa thu, đột nhiên đã có luồng không khí lạnh ập về, nên nước sông đóng băng nhưng chưa chắc, giẫm thẳng lên mặt băng để qua sông chắc chắn sẽ bị thụt chân rơi xuống. Bởi vậy, phương pháp an toàn nhất là giẫm lên những súc gỗ tròn bị đóng băng kẹt cứng giữa lòng sông.
Ánh trăng chiếu lên nền tuyết, quầng sáng bàng bạc phủ khắp mặt đất, trên mặt sông gồ lên những khối gỗ dài, toàn bộ đều là gỗ súc chưa kịp vận chuyển xuống hạ du, tạm thời bị đông cứng ở đây. Giẫm lên trên đó, cho dù băng có nứt vỡ, lực nổi của gỗ cũng giúp ta không bị chìm xuống nước.
Nhìn thì mặt sông có vẻ không rộng lắm, nhưng lúc phải qua sông mới phát hiện con sông này tuyệt đối không thể xem là nhỏ, ba chúng tôi kéo giãn cự ly, giẫm lên từng súc gỗ tiến về phía trước. Vì trời lạnh, mặc quần áo dày, bước chân cũng rất nặng nề, băng vụn dưới chân kêu loạt sà loạt soạt. Tuy là rất kinh rất hiểm, nhưng cũng chẳng hiểu tại sao, trong lòng bọn tôi lại chẳng sợ chút nào, ngược lại còn thấy hơi kích động, máu mạo hiểm ăn vào xương cốt không sao kìm nén được nữa, cảm thấy hành vi này mới thật gọi là kích thích.
Qua con sông này chính là đến nơi cấm địa đối với những hộ đi săn trong vùng, núi Đoàn Sơn. Rừng cây trên núi quá rậm rạp, Yến Tử cũng không dám chắc đi vào khu rừng này rồi có còn đi ra được hay không. Bọn chúng tôi tuy rằng gan lớn hơn trời, song cũng không dám mạo hiểm tiến vào. Cũng may là khu Mộ Hoàng Bì Tử ở ngay dưới chân núi Đoàn Sơn, cách bờ sông không xa lắm. Chỗ ấy có một cái gò đất lớn gồ lên, bên trên chẳng cây có gì mọc nổi, mà chỉ có vô số các hang động, lũ chồn lông vàng lớn nhỏ già trẻ đều rúc ở trong ấy. Có lẽ vì cái gò đất này trông giống nấm mộ, bên trong lại thường xuyên có lũ hoàng bì tử ra vào, thành ra mới gọi là Mộ Hoàng Bì Tử cũng nên.
Chúng tôi không đi thẳng đến chỗ Mộ Hoàng Bì Tử, mà tìm ở gần đấy một khu rừng thông đỏ khuất gió, ở cuối ngọn gió, lũ chồn lông vàng và các loài dã thú khác trên núi sẽ không đánh hơi được tung tích của ba bọn tôi. Xem ra chỗ này đúng là một điểm mai phục thiên nhiên tốt nhất rồi. Tôi gọi Tuyền béo và Yến Tử lại, ba đứa ngồi chồm hỗm sau một thân cây bàn bạc xem nên ra tay như thế nào.
Khi ra khỏi nhà, Tuyền béo đã tiện thể xách ở làng đi hai bình rượu, rượu này là loại nhà tự nấu. Lúc mới đến căn nhà gỗ nhỏ ở lâm trường, cu cậu đổ vào bi đông đựng nước đun nóng lên, lúc qua sông cứ ôm khư khư trong lòng, giờ mới lấy ra, không ngờ vẫn còn hơi nong nóng. Tôi nhìn cậu ta uống mà cũng nhỏ nước miếng, bèn giật lấy làm vài ngụm. Cái thứ rượu này ngọt lờ lợ, khó uống kinh khủng, có lẽ là dùng lõi ngô với cọng cao lương để nấu ra cũng nên.
Tuyền béo nói: “Đừng có kén cá chọn canh, uống tạm vài ngụm đi cho ấm người rồi còn làm việc, có rượu quê này mà uống đã là tốt lắm rồi. Cái khe núi chỉ có mấy mẫu ruộng đất bạc màu, lấy đâu ra lắm lương thực cho cậu nấu rượu chứ. Nhưng mà tôi còn trữ nguyên một bình rượu ngon mang ở nhà đến đấy, đợi bắt được chồn lông vàng, chúng ta làm vài món ngon ngon, rồi nhâm nhi vài chén cho đỡ buồn.” Sau đó, cu cậu lân la hỏi tôi cách bẫy hoàng bì tử như thế nào.
Tôi cười hì hì, lấy trong túi đeo chéo ra một quả trứng gà, hơi ngượng ngùng nói với Yến Tử: “Xin lỗi nhé Yến Tử, tôi thấy con gà mái hoa mơ nhà ta hôm nay đẻ được hai quả trứng, tiện tay bèn mượn một quả, thời gian thúc bách nhiệm vụ gấp gáp, vì vậy vẫn chưa kịp báo lại với cô. Nhưng sau tôi lại nghĩ trứng gà thì hơi xa xỉ với bọn cáo và chồn lông vàng, vậy là bèn bứt một nắm lông của con gà mơ đó...”
Yến Tử tức tối thúc mạnh một cú vào vai tôi: “Anh trộm trứng gà thì thôi, sao lại còn bứt lông con gà hoa mơ nhà tôi chứ!” Tuyền béo vội vàng khuyên can: “Thôi thôi, chúng ta đấu văn không đấu võ, lúc về tôi sẽ bắt thằng này viết kiểm điểm, đào sâu động cơ sai lầm trong căn nguyên tư tưởng của hắn, nhưng giờ thì cứ để hắn thẳng thắn thật thà chỉ cách dùng lông gà bẫy chồn vàng đi đã.”
Tôi nói, muốn bẫy được chồn lông vàng kỳ thực rất đơn giản, mùi vị của lông gà đã đủ chọc cho bọn quỷ này đứng ngồi không yên rồi. Bố Yến Tử là một tay chuyên bẫy cáo kỳ cựu, mấy bác thợ săn già có một món bảo bối truyền gọi là cái “bì hỗn độn”. Cách chế tác loại “bì hỗn độn này nay đã thất truyền từ lâu. “Bì hỗn độn” vật y như tên, là một cái túi da đặc chế. Tương truyền rằng, người ở đây khi thuộc da đã ngâm trong một loại bí dược, dù là khứu giác nhạy bén nhất như loài cáo cũng không thể ngửi ra được nó có mùi lạ gì cả. Cái túi da này cả miệng túi hình lục lăng chỉ đút vào được chứ không rút ra được. Viền miệng túi bên ngoài hình tròn có thể co dãn đàn hồi, cáo hay chồn lông vàng đều có thể chui đầu vào. Nhưng nếu chui sâu vào bên trong nữa, cái viền ngoài này sẽ càng lúc càng lớn, nhưng phần bên trong của miệng túi lại là hình lục giác, chuyên kẹt cứng vào chỗ khớp xương của bọn chồn cáo. Thân thể cái giống này có thể co rút, duy nhất chỉ có lỗ hình lục giác là chúng không thể chui được. Cái “bì hỗn độn” này chui vào thì dễ chui ra thì khó, chỉ cần chúng muốn rút đầu ra, miệng túi sẽ thắt chặt lại đến khi chúng chết ngạt mới thôi. Món bảo bối “bì hỗn độn” này sở dĩ cao minh, là bởi nó có thể giữ được nguyên vẹn bộ da của con mồi, chẳng hạn da cáo có đáng tiền hay không là phải xem cái đuôi, ngộ nhỡ chẳng may đặt bẫy thòng lọng hay bẫy kẹp làm hỏng mất cái đuôi, thế thì bộ da cáo ấy chẳng còn giá trị gì nữa ròi.
Giờ trong làng chỉ có nhà Yến Tử là có một cái “bì hỗn độn”, tổ tiên cô nàng đời đời đều làm thợ săn, cái túi “bì hỗn độn” này cũng không biết đã truyền được bao nhiêu đời rồi, lũ cáo và chồn lông vàng chết bên trong cũng chẳng thể nào đếm nổi. Cũng vì món đồ này quá độc ác, gần như trăm phát dính cả trăm, mà các thợ săn lại kỵ nhất bắt những con mồi đang có thai hoặc nuôi con nhỏ, làm như vậy bị coi là rất không may mắn, vậy nên bố Yến Tử cũng không hay dùng đến. Còn tôi thì từ lâu đã muốn thử xem cái túi “bì hỗn độn” trong truyền thuyết này thần kỳ thế nào rồi, vậy nên lần này đã lén trộm mang theo.
Lấy lông gà quết lên một chút lòng trắng trứng bỏ vào trong túi da làm mồi, số còn lại tôi đổ tạm vào cái bình nước không, đã không nỡ cho bọn chồn lông vàng ăn, dĩ nhiên cũng chẳng nỡ lòng nào vứt đi, để lại đấy lát về rán lên ăn cho sướng. Kế đó, chúng tôi lấy một ít cành khô lá rụng ngụy trang thêm, bên trên rải mấy nắm tuyết, cuối cùng lại dùng cành cây quét hết dấu chân và mùi người vương lại, thế là xong một cái bẫy. Việc còn lại chỉ là ở đằng xa quan sát, xem xem có con chồn lông vàng đen đủi nào dính chưởng hay không.
Chúng tôi ngụy trang cái “bì hỗn độn” xong xuôi, liền quay lại phía sau thân cây thông đỏ chờ đợi, nhưng cả vùng sơn lâm tuyết địa ấy mãi chẳng có gì, trăng đã lên giữa trời, tôi sắp hết nhẫn nại đến nơi. Đúng lúc ấy, trên đụn tuyết cuối cùng cũng có động tĩnh, ba người bọn tôi lập tức phấn chấn hẳn lên. Tôi định thần nhìn kỹ lại, tức thì giật thót mình kinh ngạc, mẹ ơi là mẹ, đây chắc hẳn là Hoàng đại tiên cô đã thành tinh trong cái gò Mộ Hoàng Bì Tử ấy rồi!
Chú thích
[8] Ý chỉ cuộc Cách mạng Văn hóa.
[9] Xin xem lại Ma Thổi Đèn 1, Thành Cổ Tinh Tuyệt.

Chương 4: Bẫy đêm

Trăng sáng chiếu tàn tuyết, gió bấc rít bùi ngùi[10]. Chúng tôi nấp phía sau cây thông đỏ, đã đắp tường tuyết để chắn gió, nhưng ba chúng tôi ở cuối ngọn gió, thời gian lâu thì vẫn bị lạnh đến run lập cà lập cập, thật sự là sắp hết chịu nổi rồi, nhưng đúng lúc này, rốt cuộc cũng có động tĩnh, tôi vội vàng ấn tay xuống, thấp giọng thì thào bảo với Tuyền béo và Yến Tử: “Xuỳ... nguyên bì tử đến rồi.”
Bình thường, chúng tôi nhắc đến lũ chồn lông vàng này, đều gọi bằng “hoàng bì tử”, nhưng ở vùng núi này có quy củ, sau khi thấy hoàng bì tử thì không thể tùy tiện nhắc đến chữ “hoàng” một cách bừa bãi được. Từ thời xa xưa vùng Đại Hưng An Lĩnh đã có nhiều mỏ vàng, người sống trong núi thường có câu “vàng khảm khắp ba nghìn dặm núi lớn”, chính là chỉ ý này. Nơi này có núi là có khe, có khe là có vàng, nhưng đó đều là chuyện từ thời trước giải phóng. Theo quan niệm truyền thống, hoàng bì tử và hoàng kim phạm xung, đều là “lão hoàng gia”, vì vậy khi đi bẫy hoàng bì tử hoặc tìm mạch vàng, tuyệt đối không được nhắc đến chữ “hoàng”, mà phải thay bằng chữ “nguyên”, bằng không nhất định sẽ về tay không.
Liếc thấy bên Mộ Hoàng Bì Tử có động tĩnh, ba chúng tôi lập tức phấn chấn hẳn lên, đặc biệt là tôi và Tuyền béo. Từ lúc lên núi về quê đến giờ, “khí thế hừng hực” thời hai chúng tôi làm Hồng vệ binh chẳng có chỗ nào phát tiết, thậm chí có khi còn muốn đập đầu vào tường ấy chứ. Lúc này tập trung tinh thần bắt chồn vàng, coi như hành động tác chiến chính quy, toàn bộ thân tâm đều dồn cả vào đó, khỏi cần phải nói cũng biết là bọn tôi nghiêm túc như thế nào rồi.
Tôi nín thở nhìn qua lớp ngụy trang quan sát động tĩnh phía sau đụn tuyết, chỉ thấy một cái cổ dài, bên trên là cái đầu nho nhỏ ló ra phía sau đụn tuyết, hai con mắt lớn lấp lóa linh động, cảnh giác ngoảnh đầu quan sát hai bên, một lúc lâu sau chủ nhân của tất cả những thứ trên mới lộ hoàn toàn thân thể ra. Đến đây, Yến Tử thấp giọng thốt lên: “Một con cái, bộ da đẹp quá!”
Tôi cũng không khỏi thầm kêu lên một tiếng trong lòng, trước đây ở trong làng cũng thấy khá nhiều chồn vàng bị người ta bắt về, có con chết mà cũng có con sống. Con nào còn sống thì cũng mắt la mày lén, con chết thì càng chẳng cần phải nói, dù thế nào cũng không thể dính dáng gì đến chữ “đẹp” cho được. Nhưng con vật xuất hiện trước mắt chúng tôi lúc này lại da mượt lông mướt, hai mắt sáng quá chừng, khí chất và thần thái đều bất phàm tựa như một tinh linh của rừng thẳm, nhìn nó đứng trên đụn tuyết mà tựa như một quý phu nhân thân thể tha thướt. Không hiểu tại sao, cảm giác đầu tiên của tôi khi thấy nó là, đó là người, chứ không phải một con thú, lòng thầm nhủ đây hẳn chính là Hoàng đại tiên cô rất linh nghiệm mà người trong vùng vẫn hay nhắc đến đó sao? Bắt mấy con chồn lông vàng bé con con thật cũng chẳng có gì hay ho, may mà lại gặp đúng đồ tốt, muốn bắt thì phải bắt loại hoàng bì tử xuất sắc thế này mới được.
Vị “Hoàng tiên cô” này có lẽ là mới chui ra khỏi một cái hang cây nào đó ở gần đây đi kiếm thức ăn, vì chúng tôi mai phục ở rất xa, nên tuy rằng nó hết sức cảnh giác, nhưng hiển nhiên vẫn không thể phát hiện ra sự tồn tại của chúng tôi. Nó bắt đầu đi vòng quanh cái “bì hỗn độn”, nó đi rất chậm chạp nhàn nhã, không hề có chút vội vàng, dường như không đói lắm, cũng chẳng để tâm lắm đến mùi lông gà hỗn hợp với lòng trắng trứng trong túi tỏa ra, mà chỉ cảm thấy tò mò trước cái túi da hình dạng cổ quái, nhưng cũng vẫn hơi rụt rè sợ hãi, không dám tùy tiện đến gần xem cho rõ.
Tuyền béo đã hơi nôn nóng: “Cái con của nợ này sao không chui vào bẫy đi?” Cậu ta định gọi Yến Tử lấy súng bắn, nhưng bị tôi ấn xuống, nổ súng thì thành đi săn rồi, mà bắn nó thì bộ da chẳng còn giá trị gì nữa. Vả lại, điều quan trọng nhất là, làm vậy sẽ mất đi lạc thú lớn nhất của việc bẫy hoàng bì tử. Trò này hay ở chỗ phải đấu tâm đấu trí với con chồn, xem cái “bì hỗn độn” mà bọn tôi ngụy trang rốt cuộc có thể làm nó trúng kế hay không, vất vả nằm trên băng tuyết đợi bao nhiêu lâu như thế chỉ là đợi giây phút này thôi, nhất định phải bình tĩnh mới được.
Tôi đoán có khả năng Hoàng tiên cô không đói, nhất định là nó đang đấu tranh tư tưởng kịch liệt lắm. Cũng có thể tổ tiên chồn lông vàng nhà nó đã truyền lại một thông tin, dạy rằng trên đời này có một thứ gọi là “bì hỗn độn” chỉ có vào mà không có ra, con chồn lông vàng nào chui vào đấy thì chắc chắn sẽ bị thợ săn lột da. Nhưng nó lại không dám khẳng định rằng cái túi bằng da ở trước mắt mình có phải chính là “bì hỗn độn” đã hại chết vô số hoàng bì tử trong truyền thuyết hay không. Nhìn thế nào thì cái túi da này cũng chẳng có gì đặc biệt, chẳng giống chút nào với loại bẫy kẹp thường thấy, lật lên lật xuống cũng chẳng hề giống thứ gì nguy hiểm hết, hơn nữa trong túi lại tỏa ra một thứ mùi thần bí không ngừng khiêu khích nó, kích thích dịch vị dạ dày nhanh chóng trào ra...
Tôi vừa quan sát, vừa suy đoán tâm tư của con Hoàng tiên cô, tận hết khả năng làm cho lạc thú bẫy chồn lông vàng này lên đến cực điểm, người ta nói: muốn ăn thì phải dậy sớm, làm việc chăm, tôi và bọn Tuyền béo ở vùng núi này cũng khá lâu rồi, không khéo đời này còn phải cắm rễ ở đây làm cách mạng cũng nên. Nhưng ngoài làm việc chăm chỉ ra, cũng rất cần phải tìm chút trò vui giải trí, chỉ là bình thường ở trong làng bị ông bí thư soi rất kỹ, không có cơ hội lên núi chơi, cả ngày từ sáng đến tối nếu không làm việc thì cũng là học tập, thôi thì học thuộc lòng Ngữ lục với chẳng chỉ thị, rồi lại viết phê đấu, kiểm điểm, tâm đắc. Ngoài mấy thứ ấy ra thì việc lớn nhất là tính xem mỗi ngày mình làm được bao nhiêu công, rồi bị trừ bao nhiêu công vì tội lười nhác. Tôi và Tuyền béo đều là giống ham chơi, không chịu nổi tịch mịch, hiếm khi có dịp vào trong núi bắt chồn vàng, càng huống hồ, lại gặp được một con Hoàng tiên cô thế này. Chỉ khi nào qua tiết Tiểu Tuyết, da thú mới bán được giá, nhưng dù là bây giờ, riêng cái bộ da con Hoàng tiên cô này cũng thừa đủ đổi chục cân kẹo hoa quả rồi. Chúng tôi mừng thầm trong bụng, càng nghĩ lại càng hưng phấn.
Song tôi cũng ngấm ngầm lo lắng, sợ rằng mình đắc ý quá mà quên hết mọi việc, sơ sẩy làm kinh động con Hoàng tiên cô chạy mất. Đúng là “sợ của nào trời trao của ấy”, Tuyền béo ngồi xổm cả buổi, bụng đầy những hơi, nhìn thấy Hoàng tiên cô cao hứng quá, không nín được, liền xả ra cả một tràng rắm kêu tành tạch vang vọng khắp rừng. Tôi và Yến Tử thấy cậu ta đánh rắm, tinh thần đang lên lập tức xìu xuống chán nản, miếng ngon đến miệng rồi mà còn chạy mất.
Thường có câu: “Rắm kêu không thối”, nhưng không thối thì cũng là rắm, một chút tiếng động ấy cũng đủ làm con Hoàng tiên cô trên đụn tuyết kinh hãi rồi. Lúc này, con hoàng bì tử ấy đang vòng ra phía dưới miệng tới da, cũng tức là ở giữa chỗ chúng tôi đang mai phục và cái bẫy “bì hỗn độn”. Nó vốn đã định rúc đầu vào trong túi, đang ngập ngừng chuẩn bị chui vào thì bị tiếng rắm của Tuyền béo làm giật mình, lông khắp người dựng đứng cả lên, nhảy tót một cái, người cong lại chuẩn bị vọt đi như mũi tên lao về phía rừng sâu.
Trong núi, bọn hoàng bì tử này là xảo quyệt nhất, chỉ cần chạy được vào rừng cây, là nó có thể lợi dụng tất cả mọi hoàn cảnh tự nhiên có thể lợi dụng được, luồn hang leo cây thứ gì cũng giỏi. Chẳng những vậy, nó còn chạy vòng vèo rất nhanh, tiến lui như tia chớp, đến cả chó săn cũng không đuổi kịp. Nhưng con Hoàng tiên cô này chưa kịp lùi thì đã nghe thấy tiếng súng nổ, thì ra Yến Tử bên cạnh tôi cũng chăm chú quan sát con mồi từ nãy, thấy nó định chạy, liền mặc kệ chẳng buồn tính xem cự ly xa thế này liệu có bắn trúng mục tiêu được không, đã giơ súng săn lên “pằng” một phát.
Khoảng cách xa như vậy, súng săn dĩ nhiên không thể bắn trúng. Chỉ là trong đêm yên tĩnh, tiếng súng vang rất lớn, làm tuyết đọng trên cành cây rơi xuống ràn rạt, hơn nữa phát súng này lại có hiệu quả đặc biệt bất ngờ. Con Hoàng tiên cô kia đã như chim sợ cành cong, vừa nghe thấy có động là bỏ chạy thục mạng theo phản ứng bản năng. Nhưng chưa kịp chạy được mấy bước, lại nghe sau lưng có tiếng súng, bọn phi cầm tẩu thú trong rừng núi có một nỗi sợ bản năng với súng ống, biết rằng thứ âm thanh này chỉ mang lại sự chết chóc. Nhất thời hoảng hốt, nó cũng không kịp chọn đường mà chạy, cộng với thói quen hay luồn hang lúc chạy trốn, kết quả là lại chui thẳng vào cái “bì hỗn độn” ở ngay trước mặt.
Con Hoàng tiên cô vừa chui vào túi da liền hiểu ngay là mình mắc bẫy, nhưng đã chui vào cái bẫy tuyệt chiêu này rồi thì có hối hận cũng chẳng làm gì được. Lúc này nó mới chui vào được một nửa, vội vàng định co người rút ra. Nhưng cái “bì hỗn độn” thiết kế thực sự quá độc, miệng túi hình lục lăng có thể co giãn được, từ bên ngoài thọc vào thì càng kéo miệng túi càng lớn, nhưng nếu từ bên trong kéo ra, kéo theo cái chốt lẫy trên miệng túi sẽ lập tức làm nó thắt chặt lại. Cái khóa lục lăng vừa mỏng vừa chặt sẽ mắc kẹt vào khớp xương của con Hoàng tiên cô, làm nó đau đớn ngã vật ra ngất xỉu tại chỗ.
Từ lúc Tuyền béo đánh rắm làm kinh động Hoàng tiên cô đến lúc Yến Tử nổ súng làm nó sợ hãi chạy vào tuyệt lộ, rồi đau quá ngất xỉu đi, nói thì lâu, nhưng diễn tiến lại cực nhanh, tất cả chỉ diễn ra trong khoảng thời gian một hơi thở là cùng. Ba chúng tôi phục dưới gốc cây thông đỏ đều trố mắt ra nhìn, chẳng đứa nào ngờ được sự việc lại xảy ra như thế, ngẩn ngơ mất một thoáng rồi mới hoan hô chạy ra nhặt “bì hỗn độn” về.
Tôi vừa nhặt cái “bì hỗn độn” lên, liền nghe sâu trong núi vẳng ra một tràng những tiếng gầm gừ trầm đục. Trong bóng tối, những âm thanh ấy có một sức uy hiếp vô hình nhưng rất to lớn, lập tức làm chúng tôi sợ đớ cả người ra. “Gần Mộ Hoàng Bì Tử có hang gấu!” Ba chúng tôi mặt mũi tái mét, đưa mắt nhìn nhau một cái, rồi cũng không biết ai dẫn đầu, cùng hét lên, co giò giẫm lên tuyết chạy thục mạng về phía bờ sông.
Mùa đông năm nay đến rất sớm, bọn gấu người chưa tích đủ lượng mỡ đã phải chui vào hốc cây hang đá trốn mùa đông, vẫn chưa hoàn toàn rơi vào trạng thái chết giả, nếu chúng bị tiếng súng làm giật mình tỉnh giấc rồi theo dấu đuổi tới đây thì đúng là chết toi cả lũ. Có điều, tôi cũng không nghĩ ngợi được xa, cứ chạy về đến lâm trường là an toàn hơn một nửa rồi. Ba bọn tôi lại giẫm lên những súc gỗ tròn bị đông cứng trên mặt sông, theo đường cũ trở lại lâm trường, dọc đường vừa chạy vừa thở hổn hà hổn hển, vào căn nhà gỗ rồi nhìn thấy bộ dạng nhếch nha nhếch nhác của nhau, ai nấy đều lấy làm tức cười.
Tuyền béo đốt ngọn đèn dầu lên, cậu ta đã nôn nóng muốn xem thành quả thắng lợi lắm rồi, bèn mở banh miệng túi, xách con Hoàng tiên cô lên. Cu cậu thấy nó im lìm bất động, đuôi thẳng đờ, còn tưởng là nó đã chết rồi. Nếu không lột da sống, chất lượng da sẽ bị kém đi mấy phần, mà tôi và Tuyền béo đều không biết lột da thú, từ đầu chí cuối vẫn chỉ định mang con chồn sống ra hợp tác xã cung ứng đổi kẹo. Lúc này thấy Hoàng tiên cô hình như đã đứt hơi, trong lòng đều lấy làm tiếc, vậy là mười cân kẹo hoa quả thoắt cái dã biến thành có hai cân thôi rồi.
Yến Tử thường xuyên đi bẫy hoàng bì tử, biết được tập tính của lũ này, vội vàng lên tiếng nhắc Tuyền béo: “Anh chớ có buông tay, cái giống này giỏi giả chết lắm, buông tay một cái là nó chạy tót mất ngay, cẩn thận nó còn một chiêu...”
Tuyền béo vốn định ném con Hoàng tiên cô xuống đất, vừa nghe Yến Tử nhắc nhở, liền lập tức cong ngón tay lại thành trảo, bóp chặt lấy chân sau và cái đuôi con vật. Lúc này, một chuyện ly kỳ liền xảy ra, con Hoàng tiên cô quả nhiên là đang giả chết, hơn nữa dường như nó còn hiểu được lời Yến Tử, biết rằng giả chết không xong, không đợi cô vạch trần chiêu chức thoát thân thứ hai của nó, đã lập tức xì ra một luồng hơi thối từ lỗ đít.
Ngọn đèn dầu trong nhà tuy không sáng lắm, nhưng vẫn có thể trông thấy từ phía sau con hoàng bì tử Tuyền béo đang tóm trong tay phọt ra một đám khí thể nồng đậm. Thứ khí thể trông tựa sương mù ấy còn chưa tan đi, tôi đã thấy có một mùi thối kỳ dị xộc thẳng lên mũi, hơi thở tắc nghẽn, lập tức đầu óc choáng váng, mắt hoa lên, tai ù đi, chỉ muốn há mồm ra nôn oẹ. Tôi vội vàng chạy ra mở cửa, gió lạnh bên ngoài vừa ùa vào, cảm giác kinh tởm ấy cũng bớt đi một chút, nhưng cũng vẫn cực kỳ khó chịu.
Yến Tử cũng trúng chiêu, cô nàng chạy thẳng ra bên ngoài vốc hai nắm tuyết xoa lên mặt. Lúc này tôi mới phát hiện Tuyền béo vẫn còn trong nhà, trong lòng lập tức thấy lo lo. Bên trong ấy mùi thối nồng nặc không thể vào được, vừa định lên tiếng gọi thì đã thấy cậu ta từ cửa sổ lao ra, cả gương mặt đều bị hơi thối của con Hoàng tiên cô hun cho xanh mét. Vì cậu ta đang xách con thú trên tay, cũng không kịp né tránh, nên dính chiêu thực sự không nhẹ chút nào. Mắt cậu ta bị hơi thối làm cay xè, nước mắt chảy đầm đìa, không nhìn được cửa ra chỗ nào, kết quả là tông luôn vào cửa sổ, phá cửa chui ra, nhưng dù thế, tay Tuyền béo vẫn tóm chặt con Hoàng tiên cô. Cu cậu một tay vốc tuyết đắp lên mặt, vừa đắp vừa chửi bới: Tiên sư cha bố nhà mày, rơi vào tay ông đây còn muốn trốn hả? Mười cân kẹo hoa quả của tao đấy... có chết ông mày cũng không buông tay đâu con.”
Hoàng tiên cô bị Tuyền béo bóp cho ngất xỉu lần nữa, tôi thấy cuối cùng cũng bắt được hoàng bì tử, vả lại gấu người trong núi Đoàn Sơn cũng không đuổi theo, trong lòng vô cùng phấn chấn, bèn bảo cậu ta: “Hơi thối của hoàng bì tử không thể quật ngã được tim sắt gan đồng, Tuyền béo cậu khá lắm, trời sắp sáng rồi, mau xích nó vào đi, ngày mai đem đi đổi kẹo, tốt nhất là kiếm thêm hai hộp thuốc lá. Mả cha nó, ngày nào cũng cuộn loa kèn thổi phù phù, chất lượng thuốc quá tệ, thực sự cần phải cải thiện đấy cậu ạ.”
Vừa nhắc đến chuyện đem con hoàng bì tử đi đổi kẹo đổi thuốc, chúng tôi đều hưng phấn hẳn lên, xem ra đi canh lâm trường thật đúng là một công việc hay ho. Tối mai lại tranh thủ đi bắt thêm con cáo nữa, vậy là phát tài to. Tuyền béo nghĩ đến chuyện có thể bắt thêm nhiều chồn lông vàng nữa thì sướng rơn, cứ hua chân múa tay suốt. Chúng tôi lấy dây thép buộc chân sau con Hoàng tiên cô, rồi xích ở góc tường, sau đó ba đứa lục một ít bánh kê bánh bao đậu của ông già Cao Sơn để lại trong vại ăn cho đỡ đói.
Lúc ăn mấy cái bánh bao đậu dinh dính răng, cả bọn đều lấy làm kỳ quái. Giờ còn lâu mới đến tết, ông Cao Sơn lấy đâu ra hơn nửa vại kê với đậu thế này? Chẳng lẽ ông già này đào tường khoét vách xã hội chủ nghĩa chắc? Huống hồ ông và cô cháu gái làm sao ăn được hết bao nhiêu bánh bao đậu thế này? Trong chuyện này ắt hẳn phải có gì lạ đây, nhưng nhất thời chúng tôi cũng không nghĩ ra có gì không ổn, chỉ mang trong mình một chuỗi nghi vấn, rồi lại ăn thêm rất nhiều bánh bao đậu.
Lúc này con Hoàng tiên cô vừa bị Tuyền béo bóp ngất xỉu cũng tỉnh lại, tôi véo một ít bánh bao đậu ném cho, nhưng nó không ăn, chỉ ngồi chồm hỗm ở góc tường nhìn cái chân bị buộc dây thép của mình, giống như một phu nhân xinh đẹp ưu sầu ủ ê. Bộ dạng ấy toát lên một vẻ u sầu khó tả, trong đôi mắt to tướng long lanh, từng giọt từng giọt nước mắt nhỏ xuống.
Tuyền béo lấy làm thích thú, mở miệng mắng: “Cha bố nhà mày còn khóc lóc gì nữa, tao đang định thẩm vấn mày đây, mau thành thật khai ra, rốt cuộc mày đã ăn trộm bao nhiêu con gà của quần chúng nhân dân rồi? Tao nói cho mày biết, ngày mai trời vừa sáng tao sẽ đại biểu cho nhân dân áp tải mày đến hợp tác xã cung ứng làm thành khăn choàng cổ lông đấy nhé.”
Tôi và Yến Tử ôm bụng cười bò, cả bọn đang vui vẻ thì bên ngoài căn nhà gỗ nhỏ đột nhiên vang lên tiếng đập cửa, một tiếng khóc chói tai như tiếng cưa gỗ theo gió vẳng đến. Tôi vội vàng xách khẩu súng săn đẩy cánh cửa gỗ ra, màn đêm phủ khắp bên ngoài, gió bấc thổi vù vù, cả lâm trường rộng lớn trống huếch hơ không một bóng người.


Chú thích
[10] Hai câu trong bài thơ Tuế mộ của Tạ Linh Vận thời Lưu Tống. Bản dịch Nguyễn Khắc Phi. Lịch sử văn học Trung Quốc (tập 1)/NXB Giáo Dục, 2002.


Chương 5: Truyền thuyết gấu

Chúng tôi đang “thẩm vấn” con Hoàng tiên cô thì đột nhiên nghe thấy tiếng gõ cửa, tôi vội vàng đứng lên ra mở, nhưng bên ngoài căn nhà gỗ chẳng có gì cả, gió gào lên thê thiết tựa như oán hồn bị đánh vào cõi u minh đang rên rỉ khóc than, bị cuồng phong quất qua, liền bay tơi tả trên không trung, lẩn vẩn mãi không tan. Nhưng tôi cảm thấy rõ rành rành, tuyệt đối không phải gió đang tác quái. Bầu trời đang chuyển đến một thứ tín hiệu chẳng lành, đó là tiếng khóc than vẳng đến từ chỗ Mộ Hoàng Bì Tử ở đầu ngọn gió. Sâu trong bóng tối mịt mù kia, đích thực là có giống chồn ấy đang khóc lóc.
Tôi phát cáu lên, xem ra con Hoàng tiên cô này quả nhiên không đơn giản, có lẽ là đêm nay chẳng được bình yên rồi, nhất định bọn chồn vàng sẽ đến quậy, càng tốt, đỡ tốn công ông nội chúng mày ngày mai phải lên núi đặt bẫy. Tốt nhất là làm một mẻ lưới bắt hết bọn chúng ở lâm trường lột bà nó hết da chúng mày ra đổi thuốc đổi rượu.
Yến Tử cũng theo tôi ra cửa quan sát, vừa cúi đầu liền phát hiện ra trên mặt tuyết có thứ gì đó. Tôi ngoảnh lại xem, chỉ thấy khoảng đất trước cửa không hiểu từ lúc nào đã có thêm một cái bát sứ, trong bát đựng mấy hạt đậu tương. Mấy hạt đậu sáng bóng lên thật khác thường, chúng tôi lấy làm kỳ quái, liền mang bát vào trong nhà. Mấy hạt “đậu tương” trong bát được ánh đèn chiếu vào, liền sáng lóa lên láp lánh ánh vàng. Bấy giờ bọn tôi mới phát hiện ra đó không phải đậu tương, mà là năm mảnh vàng bé bằng hạt đậu.
Ba bọn tôi đứa này nhìn đứa kia, đứa kia nhìn đứa này, trố mắt ra một hồi lâu mới định thần lại được, lẽ nào bọn hoàng bì tử muốn dùng mấy miếng vàng này chuộc con Hoàng tiên cô về? Tuyền béo thấy tiền sáng mắt lên, vội vàng đóng chặt cửa lại, nhặt một hạt vàng đưa lên miệng toan cắn. Hồi ấy cậu ta đâu có biết phân biệt vàng giả vàng thật thế nào. Chẳng qua thấy vàng chói lóa mắt ở ngay trước mặt, khó tránh khỏi có chút luống cuống tay chân, không biết phải nên làm gì mà thôi.
Tôi vội đập tay Tuyền béo một phát, màu sắc của mấy miếng vàng này hơi khác thường, không khéo bị bọn chồn lông vàng hạ độc chứ chẳng chơi. Tôi cẩn thận xém kỹ, thấy trong bát tổng cộng có sáu hạt, kích cỡ không khác nhau là mấy, nhưng hình dạng thì khác, không có quy tắc gì, xem chừng là cậy từ chỗ nào đó xuống. Lại còn cả cái bát vỡ đựng mấy miếng vàng kia nữa, trông có vẻ như đồ cổ cũng có niên đại lâu đời, chỗ bị hư hại trên mép bát có hoa văn màu xanh hình nửa cái đầu quỷ. Tôi đưa bát lên mũi hít khẽ, thấy có mùi xác thối khiến người ta muốn mửa.
Cả mấy miếng vàng lẫn cái bát vỡ, mười phần chắc tám là đồ bồi táng trong mộ cổ. Lúc mở cửa, tuy chúng tôi không thấy bóng dáng con chồn lông vàng nào, nhưng tình hình đã rõ mười mươi, bọn oắt con ấy muốn dùng mấy mảnh vàng để chuộc con Hoàng tiên cô bị chúng tôi giam giữ. Chuyện này nghĩ lại hơi dựng tóc gáy, bọn hoàng bì tử trong rừng sâu núi thẳm này thành tinh rồi chắc? Đến cả việc đem vàng ra đổi mạng cũng biết nữa chứ.
Yến Tử hơi sờ sợ, có ý chi bằng lấy vàng rồi thả con Hoàng tiên cô ra, bằng không để bọn hoàng bì tử này quấn lấy thì đừng hòng dừng lại được. Tuyền béo thì không nghĩ thế: “Thời buổi này đến cả lũ chồn lông vàng cũng học được mấy trò xấu xa này rồi, không ngờ lại còn dùng viên đạn bọc đường để làm hủ bại ý chí sắt thép của chúng ta. Nằm mơ đi con, đừng có hòng. Tôi thấy chúng ta cứ nên tịch thu số vàng, mà con chồn cái này cũng không thả ra được. Tôi định ngày mai lên núi bứng cả cái sào huyệt Mộ Hoàng Bì Tử của chúng nó đi, tiện thể chặt cổ tuốt cả lò bọn chồn cáo này để trừ hậu họa, biết đâu còn kiếm được nhiều vàng hơn thế này ấy chứ.”
Tôi gật đầu đồng ý, mới bắt một con chồn vẫn còn chưa đã nghiền, ngày mai còn phải làm tiếp.
Ba chúng tôi đang bàn bạc thì bên ngoài lại vang lên tiếng gõ cửa gấp gáp. Lần này thì sống lưng hơi lành lạnh thật rồi, nhưng thời đó thì chẳng ai tin mấy chuyện tà quái cả, ba người bèn chia nhau cầm vũ khí chuẩn bị đánh bọn chồn lông vàng, nhưng vừa mở cửa, thì hóa ra không phải người lạ, mà là ba thanh niên trí thức cùng đến đây tham gia lao động sản xuất với chúng tôi, hai nam một nữ, Phùng Kiến Thiết, Trần Kháng Mỹ, Vương Quyên.
Ba người này vốn ở lại trong làng trông nhà, canh ba nửa đêm chạy đến lâm trường chắc chắn là có chuyện gì rồi. Tôi vội vàng kéo bọn họ vào trong nhà, cho ngồi lên kháng đất sưởi ấm. Tuyền béo lo lắng quá mức, bèn thò tay sờ mông Vương Quyên, làm cô nàng sợ quá nhảy tót từ trên kháng xuống đất. Tôi vội vàng giải thích hộ Tuyền béo: “Hiểu lầm, hiểu lầm, cậu ta sợ các cậu là hoàng bì tử biến thành, thế nên mới sờ thử xem các cậu có mọc đuôi không ấy mà.”
Bọn Phùng Kiến Thiết, Vương Quyên đều không hiểu tôi nói gì, tôi cũng chẳng giải thích thêm nữa, vội hỏi họ xem tại sao lại đi cả đêm đến lâm trường, chẳng lẽ trong làng xảy ra chuyện gì? Hay là các thợ săn vào trong núi gặp nguy? Phùng Kiến Thiết cũng không nhì nhằng dây dưa, lập tức kể lại đầu đuôi sự tình. Thì ra cháu gái của ông già Cao Sơn gác lâm trường này từ nhỏ đã mắc chứng động kinh, gần đây bệnh tình bắt đầu ngày một nặng hơn. Ông già ấy định vào trong núi săn gấu người, lấy mật gấu sống làm thuốc trị bệnh cho cháu gái. Nghe đồn thứ ấy trị động kinh có hiệu quả rất thần kỳ. Ông già này không chỉ ương tính, mà còn rất quyết liệt, cứ lẳng lặng không nói với ai, lén lút chuẩn bị đầy đủ hết mọi thứ rồi dẫn theo cô cháu gái vào rừng săn gấu. Nhưng ông ấy tuổi tác cao quá rồi, không còn được như trước nữa, chưa tìm được gấu người thì đã ngã vào hố tuyết. Đợi cô cháu gái chạy về tìm được người đến giúp, thì ông già Cao Sơn đã xong đời rồi.
Bí thư chi bộ sợ bọn đến lâm trường đổi ca chúng tôi không gặp ông già Cao Sơn, sẽ vào núi tìm khắp nơi rồi lại gặp phải nguy hiểm. Nhưng trong làng đã chẳng còn thanh niên trai tráng nào có thể đi đêm nữa, may là quãng đường từ làng đến lâm trường cũng khá an toàn, đường cũng dễ, vậy là ông bèn sai ba thanh niên trí thức dẫn theo một con chó săn đến đây thông báo tình hình, tiện thể dặn dò chúng tôi tuyệt đối không được vào trong núi. Ông già Cao Sơn chết oan chết uổng, thợ săn trong làng vẫn đang trong núi sâu săn bắn thức ăn dự trữ mùa đông, giờ trong làng cũng đủ loạn rồi, bên phía lâm trường này không thể xảy ra thêm chuyện gì được nữa.
Ông già Cao Sơn là nhân vật thuộc hàng nguyên lão trong làng, thời trẻ chuyên đi sâu vào trong núi săn bắn. Tôi đến đây tham gia lao động sản xuất mấy tháng rồi, cũng hay được ông chiếu cố cho nhiều, nay nghe tin dữ truyền đến, trong lòng thật hết sức khó chịu, chỉ có thể nói mấy câu nhát gừng với bọn Phùng Kiến Thiết. Vì thời tiết thay đổi, khả năng sắp tới còn có một trận tuyết lớn, nên họ không ở lại lâu, báo tin xong rồi ba người lập tức trở về làng.
Tiễn ba bọn họ về xong, tôi bắt đầu thầm tính toán. Mật gấu người Đông Bắc còn được gọi là “đông đảm”, sánh ngang với “vân đảm”, vả lại chỉ có mật gấu người mới trị được chứng động kinh co giật, còn mật gấu chó gấu đen bình thường chỉ là thứ hạ phẩm không có tác dụng. Ông già Cao Sơn đã mất mạng vì cái mật gấu người này, không có thứ ấy, bệnh của cháu gái ông sẽ không thể trị khỏi. Tôi giờ nghèo mạt rệp nên chẳng giúp gì được họ, điều duy nhất có thể làm chính là vào núi Đoàn Sơn bắt gấu người lấy mật. Không chỉ tôi có ý nghĩ này, cả Tuyền béo và Yến Tử cũng động lòng, ba người nói cái là hợp ý ngay. Cái thời mười tám mười chín ấy chính là lúc người ta không sợ trời cũng chẳng sợ đất, lại càng chẳng phải lo lắng điều gì, vậy là ba đứa tôi liền hợp kế tính xem nên hành động thế nào luôn.
Trên thực tế, tên khoa học của gấu người gọi là “Bì[11]”. Khác với gấu thường, gấu người lông tuyền một màu vàng nâu, không chỉ cổ dài hơn, mà chi sau cũng cao hơn gấu đen thông thường, sức khỏe vô cùng, cái cây to một người ôm mà bảo nhổ bật lên là nhổ bật lên ngay. Khi gặp người, bọn này thường hay đứng thẳng lên mà đuổi bắt, tư thế với ngũ quan đều khá giống người, tính tình thì hung hãn mạnh mẽ, có thể dễ dàng bắt được bò ngựa làm thức ăn, vì vậy mới gọi là gấu người. Thợ săn vùng núi cũng không dám dây dưa với gấu người, chứ nói gì đến chuyện săn chúng lấy mật. Nhưng cũng không phải là không thể bắt gấu người, chỉ có điều phải mạo hiểm rất lớn, chỉ cần một khâu có sai sót nhỏ thôi là toi mạng ngay. Vì rằng loài mãnh thú này thể lực rất khỏe, lại da dày thịt chắc, mỡ nhiều, dù bị trúng đạn lủng bụng, máu chảy lòi ruột, nó vẫn có thể móc bùn đất và nhựa thông bít vết thương lại rồi tiếp tục đuổi giết. Bởi thế cho dù tài bắn súng có giỏi đến mấy, vũ khí sắc bén mấy, muốn săn được nó cũng tuyệt đối khó khăn vô cùng.
Thường có câu: “Gặp mạnh dùng trí, gặp yếu bắt sống”. Từ xưa đến nay, có rất nhiều truyền thuyết về các thợ săn săn được gấu người, đại đa số đều là dùng trí tuệ cả. Trong đó, câu chuyện lưu truyền rộng rãi nhất đại khái kể rằng, cái giống gấu người ấy thích chọn những bọng cây đại thụ nghìn năm tuổi làm hang ổ. Không khí bên trong bọng cây nóng như có lò sưởi, băng tuyết đều tan hết, gấu người ăn no rồi chui vào trong ấy. Các thợ săn tìm được hang gấu, rồi liền ném vào trong một miếng gỗ, gấu người tính ngu, thấy có mảnh gỗ rơi xuống liền đưa tay bắt lấy, lót bên dưới mông. Cứ thế các mảnh gỗ mỗi lúc một nhiều, con gấu người cũng cứ thế vừa nhặt vừa kê, càng lúc càng ngồi cao hơn. Đợi đến lúc nó ngồi ngang tầm với miệng cái hang cây, các thợ săn liền nhắm chuẩn thời cơ, dùng búa lớn chặt phăng đầu nó đi, hoặc dùng mũi giáo thọc vào các khe hở trong hang cây đâm chết nó.
Hồi trước trong làng có tay thợ săn kinh nghiệm rất phong phú, anh này vào trong núi bắt gặp gấu người lúc nó qua sông, bèn nấp vào quan sát. Đó là một con gấu cái khổng lồ, mang theo hai con gấu con. Con gấu mẹ đặt một con con lên đầu rồi nhảy tủm xuống nước bơi qua sông. Sau khi lên bờ nó sợ gấu con chạy lung tung, bèn lấy một tảng đá chặn lên con gấu con, sau đó quay trở lại đón con kia. Người thợ săn bèn nhân cơ hội ấy bắt con gấu con bị đá đè kia đi, gấu mẹ nổi giận lôi đình, ở bờ sông bên kia kéo hai chân con gấu con còn lại lên xé toang nó ra làm hai mảnh. Qua chuyện này, có thể thấy bản tính giống này hung tợn và ngu độn đến độ nào.
Từ khi đến đây, chúng tôi đã được nghe kể khá nhiều những truyền thuyết kiểu này, nhưng truyền thuyết chung quy cũng chỉ là truyền thuyết, nêu coi là thật mà thực hiện theo đó cũng chưa chắc gì đã đắc dụng. Huống hồ bọn gấu người ở núi Đoàn Sơn đều có thói quen cố định, bọn chúng tuyệt đối không bao giờ xuống núi qua sông đến gần khu lâm trường, mà chỉ hoạt động ở vùng núi sâu cây cối rậm rạp. Chúng tôi bàn bạc mấy cách nhưng dường như đều không ổn, đang sốt ruột thì Yến Tử đột nhiên vỗ vào cái vại đựng bánh đậu dính nói: “Tôi bảo sao ông già Cao Sơn ấy lại làm cả vại cái món dính nháp này, thì ra là muốn dùng để bắt gấu người, cách này nhiều năm nay không ai dùng rồi, cũng không biết có được hay không nữa.”


Tôi và Tuyền béo đều hoang mang không hiểu gì, đến khi Yến Tử giải thích rõ ràng, chúng tôi đều thấy dùng cách dùng bánh bao đậu dính để bắt gấu người khá hay, có điều tuy có thể thực hiện được, nhưng dù sao đây cũng là một phương pháp rất cổ lỗ đồng thời cũng cực kỳ nguy hiểm. Cuối cùng, chúng tôi cũng quyết định mạo hiểm thử một lần. Lúc tối đi bẫy hoàng bì tử, từng nghe thấy trong núi Đoàn Sơn có tiếng gấu người gào rú, vậy là bớt được rất nhiều phiền phức, đã có thể phán đoán được đại khái vị trí của hang gấu rồi. Bắt gấu người lấy mật, trò này tuyệt đối là đủ kích thích, hơn nữa ngoài cái mật có thể chữa được bệnh cho cháu gái ông già Cao Sơn, còn hai bàn tay gấu với thịt gấu mang đến hợp tác xã cung ứng, ít ra cũng đổi được nửa năm công điểm cho tôi và Tuyền béo. Thời bấy giờ, một ngày chúng tôi chỉ kiếm được năm điểm, tương đương với một hào rưỡi nhân dân tệ bây giờ, làm việc vất vả mấy tháng trời mà chẳng đủ mua một tấm vé xe về nhà thăm người thân. Bất kể là nghĩ từ góc độ nào, vụ này cũng đều tuyệt đối đáng để liều một phen.
Cuộc sống thường nhật của bọn thanh niên trí thức về chốn rừng sâu núi thẳm này tham gia lao động sản xuất như tôi và Tuyền béo có thể khái quát lại một cách đơn giản như sau: “Ngẩng đầu nhìn cây, cúi đầu nhìn đá, gặm bánh ngô lạnh, mơ về cái kháng ấm”. Thằng nào cũng chỉ mong sao tìm được chuyện gì mới lạ kích thích để làm, lần này kiếm được cái cớ danh chính ngôn thuận lên núi săn gấu người, chúng tôi đều hưng phấn đến không ngủ được, đằng nào thì trời cũng sắp sáng đến nơi rồi, vậy là bèn ở luôn trong căn nhà gỗ ấy nghỉ ngơi qua loa một lúc.
Trời vừa sáng, chúng tôi bèn mang theo một túi to thứ bánh bao đậu dính của ông già Cao Sơn để lại, rồi kiếm mấy cái ống gỗ tròn được khoét rỗng ruột, ngoài ra còn thêm một cái rìu cán dài chuyên dùng để chặt cây, đây đều là những công cụ thiết yếu để săn gấu. So sánh ra, súng săn rõ ràng là hơi thừa, có điều để đề phòng trong núi Đoàn Sơn còn có các loài mãnh thú khác, súng săn với cây chĩa ba vẫn không thể không mang theo bên mình được.
Từ lúc ấy đến khi trời sáng không thấy có bọn chồn vàng tới phá rối nữa, nhưng nhốt con Hoàng tiên cô trong căn nhà gỗ này thì không khéo để nó chạy thoát mất. Vậy là Tuyền béo đi kiếm một cái lồng bằng gỗ hồi trước mấy người công nhân khai thác dùng để nhốt sóc, trói chặt con chồn hôi bằng dây thép, lấy quả dưa tê bịt miệng, sáp nến bịt lỗ đít, rồi bỏ vào trong lồng đeo luôn sau lưng, đợi khi nào cắt được tay gấu, moi được “đông đảm” thì nhất loạt xách đến hợp tác xã kết toán một thể.
Đêm trước tuyết không rơi, nhưng tuyết đọng trên cành cây và dưới mặt đất vẫn chưa tan hết, ánh nắng ban mai chiếu lên, trên núi dưới núi trông như thể một người đẹp mặc đồ trắng, đeo trang sức bạc vậy.
Gấu người nghiền nhất là món bánh bao đậu này, chúng tôi đã mang theo nhiều như thế thì cũng không phải sợ đụng độ với nó trong rừng như đêm hôm trước. Ba chúng tôi qua sông rồi vẫn đi lên chỗ Mộ Hoàng Bì Tử, tìm kiếm hang gấu người ở gần quanh đấy.
Dọc đường phải leo trèo qua mỏm qua khe, càng đi rừng cây càng rậm rạp, dần dần che khuất cả mặt trời, từ đầu giờ chiều thì sắc trời đã trở nên xám xịt, xem chừng như sắp đổ tuyết đến nơi. Yến Tử trời sinh cái tính nóng như lửa, “đông đảm” có thể trị bệnh cứu người, vậy thì còn gì để nói nữa đâu, cứ thế mà làm thôi. Nhưng dù sao cô cũng lớn lên giữa chốn núi rừng này, xưa nay vẫn biết gấu người rất lợi hại, thấy tôi và Tuyền béo đều chẳng hề sợ sệt quái gì, cũng không khỏi có chút ngạc nhiên, thắc mắc lẽ nào bọn tôi không sợ gấu người sao? Tôi được thế bèn thừa cơ bốc phét, gấu có gì đáng sợ đâu chứ? Nghe nói bọn Đế quốc Mỹ thường ví đám Liên Xô theo chủ nghĩa xét lại ấy là gấu khổng lồ, chẳng lẽ chúng ta lại sợ cái bọn gấu ấy à? Nghe nói bên ấy có thằng cha nhép nhép vích vích gì đấy, ngày nào cũng ăn bánh mì bơ, còn nhân dân lao động thì sao? Cả bánh mì đen cũng chẳng có mà ăn đâu, thế mà được à? Để giải phóng những người cơ khổ khắp thế giới khỏi cơn nước lửa, chúng ta nhất định phải bắt thêm nhiều hoàng bì tử, móc nhiều mật gấu, góp phần sức lực chi viện cho cách mạng thế giới.
Tuyền béo thấy tôi ở đằng trước bốc phét thả dàn với Yến Tử, liền thừa cơ nói móc ngay. Cậu ta bảo Yến Tử: “Đừng có nghe cái cậu này, hôm qua bắt được con hoàng bì tử, cậu ta liền quên luôn mình họ gì, đã bốc cao lên đến độ chi viện cho cách mạng thế giới cơ đấy. Yến Tử ơi, tôi bảo cho cô biết nhá, người thầy vĩ đại của cách mạng thế giới, đồng chí Lenin đã từng dạy chúng ta rằng: có một số tên không tự giác, kéo lá cờ lên che đậy, tự lừa mình rồi lại còn đi lừa gạt người khác nữa. Cô có biết trong chúng ta ai là cái loại người ấy không thế?”
Tôi đang định xỉa lại, nhưng lúc này bọn tôi đã đến bên dưới một cái cây cổ thụ cao ngất ngưởng, sợ rằng cũng không dưới nghìn tuổi rồi. Thân cây cao vút, to như cái chuồng trâu, nhưng cây thì đã chết khô. Trên thân cây lộ ra một cái hang to tướng, bên trong cuồn cuộn bốc lên những làn hắc khí. Con Hoàng tiên cô trong lồng lúc này bỗng trở nên bất an lạ thường, tựa hồ như đang sợ hãi gì đó lắm. Tôi thầm nhủ cái hốc cây này có khi bỏ cả con bò mộng vào cũng vừa chứ chẳng chơi, mười phần chắc đến tám chín là hang gấu rồi. Tiếng gấu gầm bọn tôi nghe thấy lúc bẫy chồn lông vàng tối hôm qua hình như cũng từ đây vẳng đến. Ba chúng tôi lập tức dừng bước, hăm hăm hở hở chuẩn bị săn gấu, Nhưng lúc đứng lại quan sát kỹ càng, lại thấy giữa các khe đá, kẽ cây mọc đầy những cái nấm mập mạp to tướng, xung quanh đầy các loại kỳ hoa dị quả không biết tên. Khung cảnh toát lên một vẻ cực kỳ cổ quái, hơn nữa lại cũng không có mùi tanh thối nồng nồng đặc biệt của hang gấu. Nếu không phải là hang gấu, vậy bên dưới cái hốc cây này rốt cuộc là thứ gì?


Chú thích
[11] Bì là tên khoa học theo tiếng Trung. Tên La tinh của loài này là Urcus arctos.

Chương 6 : Cắt tay móc mật


Cây cổ thụ nghìn năm chết khô này, thoạt nhìn đã khiến người ta cảm thấy vô cùng kỳ lạ. Kỳ lạ ở chỗ cái cây không hề hài hòa chút nào với hoàn cảnh xung quanh. Tuy giờ chưa phải mùa đông hẳn, nhưng trận tuyết sớm đã khiến cả khu rừng biến thành một thế giới màu trắng bạc, duy chỉ có xung quanh cái cây này là không có tuyết đọng, mà bên trong hốc cây lại đầy nấm quý và các loại quả kỳ lạ. Mới đầu, vừa trông thấy hốc cây lớn này tôi đã nghĩ ngay đó chính là hang gấu, nhưng khi đến gần lại không ngửi thấy mùi tanh thối xộc lên, không khỏi lấy làm nghi hoặc.
Tôi đang định hỏi Yến Tử sao xung quanh cái cây khô này không có tuyết đọng. Nhưng vừa thấy tôi định há miệng ra, cô vội xua xua tay, hạ giọng: “Nói khẽ thôi, chỗ này chính là hang gấu rồi đấy. Bọn gấu người tuy đần độn, nhưng làm hang ổ rất giỏi, không vừa tanh vừa thối vừa ẩm như hang bọn gấu đen bình thường đâu.” Vì bên trong hang gấu rất nóng, nên xung quanh cái cây này mới không có tuyết. Một vòng xung quanh hang cây không có tuyết đọng, lại còn mọc rất nhiều nấm thông, chứng tỏ rằng đây chắc chắn là hang gấu rồi. Tôi thấy Yến Tử bảo đây chắc chắn là hang gấu, lập tức im bặt, vội ra dấu tay chỉ vào đống cỏ gần đấy. Ba người len lén luồn qua phía đó, bắt tay chuẩn bị mấy món để bẫy gấu.
Ở trong núi, săn bắt gấu người là việc nguy hiểm nhất trong các việc nguy hiểm, cần phải có khí phách và đảm lược để trực tiếp đối đầu với loài gấu hung hãn ấy. Bình thường các thợ săn không dám động đến gấu người, không phải vì họ nhát gan, mà chẳng qua là ở núi thí ăn núi, săn bắn hoàn toàn chỉ vì sinh tồn, bắt cáo bắt thỏ cũng được rồi, hà tất phải làm mấy việc đặt mình vào cõi chết để tìm đường sống như vậy chứ? Quả thực là không đáng để mạo hiểm chút nào.
Bây giờ chúng tôi sắp sửa mạo hiểm săn gấu, cách thức cũng đã bàn bạc xong xuôi. Đây là một phương pháp xa xưa do tổ tiên các thợ săn trong núi này truyền lại. Các loại thủ pháp kiểu này, đều dùng chữ “bẫy” để đặt tên, ví như cái “bì hỗn độn” để bắt cáo và chồn lông vàng, được gọi là “bẫy hỗn độn”, dùng bánh dậu dính để bắt gấu người, gọi là “bẫy dính”. Tuy tuyết đọng vẫn chưa tan, nhưng trong núi không lạnh lắm, bao nhiêu bánh bao dậu dính chúng tôi mang theo đều dùng chăn da chó giữ ấm bó thật chặt nên không hề bị đông cứng.
Tôi lấy mấy cái ống bằng gỗ hoa dưa cho Tuyền béo, rồi nói với cậu ta: “Đồng chí Vương Khải Tuyền, thời khắc tổ chức khảo nghiệm đồng chí đến rồi, tiến lên đi.” Tuyền béo vội chối đây đẩy: “Thực ra, nhìn chung về biểu hiện của đồng chí trong thời kỳ lịch sử này, cùng với các điều kiện khách quan của tự thân đồng chí, tôi thấy đồng chí là người thích hợp hơn để hoàn thành nhiệm vụ vĩ đại mà quang vinh này. Bát Nhất, cậu lên đi, tôi ở phía sau yểm hộ cho.”
Yến Tử nói: “Hai người đừng cãi nhau nữa, một người làm không xong đâu. Anh Tuyền béo thịt dày, sức cũng khỏe, thích hợp làm con mồi. Anh Bát Nhất tay chân vững vàng, theo tôi cầm rìu nấp bên cái hang cây tìm cơ hội hạ thủ, phải nhớ là cấm không được hoảng, mà lúc ra tay nhất định không được mềm lòng, phải một nhát chết luôn. Ngộ nhỡ có gì không ổn chúng ta phải chạy ngay, lúc chạy tuyệt đối không được thẳng...”
Chúng tôi đang nấp trong đám cỏ cách xa hang gấu thương lượng xem nên động thủ thế nào, nhưng mới nói được một nửa, bỗng cảm thấy cây thông đỏ phía sau đung đưa mấy cái. Tôi vội ngoảnh đầu lại nhìn, ở cái chốn rừng sâu núi thẳm này, xung quanh ngoài cỏ ra thì chỉ có cây, chẳng có gì khác. Nhưng cái cây ấy đích xác là đã đung đưa mấy lượt mà, chẳng lẽ có động đất? Đang thắc mắc thì lại thấy cái cây rung lên một chặp nữa, lá kim và tuyết đọng trên cành rơi xuống lả tả, hình như trên cây có vật thể gì rất lớn đang rục rà rục rịch chuẩn bị làm gì đấy.
Ngẩng đầu nhìn lên, chết tiệt thật, thì ra một con gấu người lông dài to tướng đang nằm bò trên cành cây, nó cúi đầu, cũng đang trợn cặp mắt đỏ rực lên nhìn chúng tôi. Cặp mắt đỏ, cánh tay dài, cộng với những móng vuốt sắc bén, tất cả đều chứng tỏ nên thân phận của nó, đây chính là “gấu sát nhân” khủng khiếp nhất trong bọn gấu người. Người vùng núi có truyền thuyết rằng, con gấu người nào ăn não người xong, hai mắt liền chuyển sang màu đỏ, sau đó thì chẳng muốn ăn gì nữa, ngày ngày chỉ muốn xơi thịt người. Sự thực gấu người hai mắt đỏ quạch lên như vậy là bởi thời tiết rối loạn khiến nó trở nên hung bạo tàn ác hơn bình thường bội phần mà thôi.
Con gấu người dùng hai tay ôm chặt vào thân cây. Cây thông đỏ to mấy người ôm bị thể trọng của con gấu đè xuống rung lên từng chặp. Con gấu này hẳn là muốn tuột thẳng xuống đây, nhưng bọn gấu người chỉ biết leo cây chứ không biết tụt xuống, chỉ có thể buông tay một cái để cả người rơi bịch xuống đất. Bình thường nó đều leo lên cây rồi ngã xuống như thế, cứ lặp đi lặp lại suốt như một trò giải trí, đồng thời cũng luyện tập cho thân thể thêm cường kiện, da dày thịt chắc.
Chúng tôi đều bị tình huống ấy làm cho kinh hãi đớ hết cả người ra. Vừa nãy chỉ để ý đến động tĩnh bên trong cái hốc cây, chẳng ai nghĩ rằng tuy trời đã đổ tuyết, nhưng vì thời tiết thất thường, gấu người vẫn chưa đến mức chẳng phân ngày đêm rúc vào ngủ bên trong cái hốc cây của nó. Còn con gấu người kia đột nhiên phát hiện bên dưới có người, chắc cũng nôn nóng muốn nếm món não người, nhất thời cuống lên, cơ hồ cũng quên mất bình thường mình leo xuống thế nào, cứ thế ôm thân cây mà lắc lư mãi.
Cây thông đỏ tuy lớn, nhưng cũng không chịu nổi con gấu người rung lắc mãi như thế, đung đưa mấy cái rồi gãy vật ra trong những tiếng “răng rắc răng rắc” liên hồi kỳ trận. Bấy giờ ba chúng tôi mới giật mình sực tỉnh khỏi cơn kinh hãi, vội vàng chạy túa ra né tránh. Chỉ thấy con gấu người bên trong đám cành lá lòa xòa rơi bịch xuống đất, đám tuyết trên mặt đất bắn lên tung tóe như một màn sương trắng mờ mịt. Con quái này tuy da thô thịt dày, nhưng ngã một cú từ trên cao xuống, lại bị cành cây vừa móc vừa đâm, cũng khá là đau đớn, tiếng gầm chấn động cả khu rừng.
Quần áo chúng tôi mặc rất dày, lúc hành động cực kỳ nặng nề chậm chạp, chỉ kịp ngả người lăn ra đất né tránh cái cây đổ xuống, đồ đạc chuẩn bị săn gấu vãi tung tóe khắp nơi. Con gấu người vốn hung mãnh, ôm thân cây từ trên cao thế ngã xuống cũng không bị thương, thoắt cái đã đứng dậy bổ nhào về phía Tuyền béo cách nó gần nhất.
Tuyền béo hoàn toàn không hề chuẩn bị tâm lý để đối mặt với con gấu khổng lồ sát nhân, khí phách gan dạ “tấm lòng ôm năm châu, mắt nhìn toàn thế giới” thường ngày của cậu ta lúc này chẳng còn sót lại lấy một phần. Cu cậu vừa lăn vừa bò dưới đất, chỉ nghĩ đến việc chạy tháo mạng, nhưng cuống quá hóa vụng, mới được một hai bước đã lại ngã nhào xuống nền đất tuyết.
Lúc cậu ta bò trở dậy, con gấu người đã bổ tới trước mặt, móng vuốt vung lên, phần lưng cái áo bông của Tuyền béo lập tức nở hoa tung toé. Cũng may trong lúc hoảng loạn cậu ta vẫn còn nhớ được thuật bắt gấu, thuận tay vớ lấy cái ống bằng gỗ hoa lăn lông lốc bên cạnh. Nhưng Tuyền béo vừa kịp xoay người thì đã bị con gấu ấn chặt xuống. Bọn gấu này mỗi khi bắt được người liền lập tức khoái chí tít cả mắt lại, hành động tiếp sau theo thói quen của nó chính là dùng cái lưỡi mọc đầy gai móc của mình liếm đầu nạn nhân để hút lấy não tương huyết dịch.
Cũng có thợ săn bảo gấu người làm thế chẳng phải vì thèm ăn não người, mà là cảm thấy con người sao mà đẹp thế, da thì trơn thịt thì mềm, vậy nên mới tít mắt lại lè lưỡi ra liếm. Nhưng dù động cơ của nó là gì chăng nữa, người sống mà bị nó liếm cho một cái như thế thì về với tổ tiên là cái chắc. Tôi thấy Tuyền béo gặp nguy, vội nhặt lấy cái chĩa ba đi săn dưới đất, định xông lên cứu người.
Lúc này Yến Tử cũng bò dậy khỏi đống tuyết, thấy con gấu người đã tóm được Tuyền béo, vội vàng hét lớn lên nhắc nhở: “Mau dùng cái ống gỗ để thoát thân!” Tuyền béo bị con gấu người ôm lấy, xương cốt như sắp gẫy lìa đến nơi, thấy con gấu nheo tít mắt há ngoác miệng to đùng, cái lưỡi chuẩn bị liếm đến, suýt chút nữa thì bị mùi tanh hôi trong miệng nó làm cho ngất xỉu. Nhưng cậu ta cũng hiểu rất rõ, vào khoảnh khắc sống chết này thì thối với đau có là gì, vội vàng đưa cái ống bằng gỗ hoa lên chắn giữa đầu mình và lưỡi con gấu. Cái lưỡi nóng hôi hổi của con gấu người liền liếm ngay vào ống gỗ, cả một miếng vỏ cây to tướng lập tức bị đầu lưỡi giật phăng ra. Tuyền béo nương theo đà ấy đẩy một cái, thúc nguyên cả cái ống gỗ vào lòng con gấu người, rồi thừa dịp thoát thân ra ngoài.
Mí mắt loài gấu người này rất dài, nheo mắt một cái, mí mắt dài chợt sẽ tụt xuống, muốn mở mắt ra cũng khá là mất công. Lúc này con gấu ôm lấy cái ống gỗ vẫn tưởng là đang ôm Tuyền béo, cứ thế liếm láp một hồi, nhưng rồi cảm giác thấy không đúng lắm, liền đưa vuốt vén mí mắt lên. Nó phát hiện ra mình đang ôm một khúc gỗ, lập tức bừng bừng nổi giận, gầm lên ầm vang, tiếng gầm mang theo một làn gió tanh tỏa đi khắp bốn phía, vọng đến cả những sơn cốc ở phía tít đằng xa.
Tôi giương chĩa ba xông lên tiếp ứng Tuyền béo, vừa khéo đúng lúc cậu ta thoát thân được, thành thử khiến tôi lao đến ngay chính diện con quái vật. Tôi đột nhiên bị tiếng gầm kia làm cho chấn động, tức thì cảm thấy hai chân mềm nhũn. Lần đầu tiên trong đời, tôi cảm nhận được con người yếu ớt nhường nào trước những sức mạnh cuồng dại và nguyên thủy của tự nhiên. Thấy con gấu người đang đứng thẳng nhe nanh múa vuổt bổ nhào về phía mình, tôi nào dám đánh liều đối đầu với nó, vội ôm cây chĩa ba xoay đầu bỏ chạy.
Gặp phải tình hình đó, Yến Tử cũng không dám nổ súng bừa bãi. Thợ săn vùng này dùng súng săn M1930 Springfield, là một loại hỏa khí hết sức nguyên thủy. Loại súng này cho dù nhắm vào đầu bắn ở cự ly gần cũng không thể nào hạ gục được con gấu khổng lồ này trong một phát súng, mà bắn nó bị thương ngược lại sẽ khiến nó càng thêm cuồng bạo. Một con gấu điên trúng đạn hoàn toàn có thể xé toang cả con bò mộng ra chứ chẳng chơi, đến lúc ấy thì cục diện sẽ càng khó ứng phó hơn bội phần.
Gấu người ba lần bốn lượt không chộp được con mồi, bị chọc cho nổi máu điên lên, bắt đầu đuổi chúng tôi chạy vòng quanh các gốc cây. Tôi đánh rơi cả cái mũ da chó, toàn thân mồ hôi đầm đìa, chạy được mấy vòng liền dần dần lấy lại bình tĩnh. Con gấu vẫn đang húc chỗ nọ va chỗ kia sùng sục đuổi theo bọn tôi khắp nơi, tuy rằng tạm thời có thể lợi dụng rừng cây né tránh, nhưng sức người rốt cuộc cũng có hạn, cứ kéo dài thế này chắc chắn sẽ bị nó tóm được. Vậy là, vừa chạy tôi vừa hét gọi Tuyền béo và Yến Tử mau ném “bẫy dính” ra.
Yến Tử nhào ra đất, nhặt mấy cái bánh bao nhân đậu văng ra tung tóe, nhắm thẳng vào con gấu người mà ném. Con gấu thấy có vật bay đến trước mặt, hoàn toàn chẳng buồn để tâm, cứ tiện tay vung lên bắt lấy, bóp mấy cái bánh bao đậu nát bét. Vỏ bên ngoài của mấy cái bánh đã đông cứng lại vì lạnh, nhưng phần bên trong vẫn vừa mềm vừa dính. Con gấu ngửi thấy mùi thơm thơm ngọt ngọt, liền nhặt lên đút vào miệng.
Loài gấu người này cực kỳ ngu độn, ăn bánh rồi thì quên béng luôn cả việc đang đuổi người, chỉ cắm đầu nhặt lên bỏ vào miệng. Chúng tôi tạm thời được rảnh ra lấy hơi, cũng vội vàng dùng mũ da chó đựng bánh bao nhặt dưới đất lên, nhặt đầy một mũ liền hất cả đến bên cạnh con gấu người. Hai tay con gấu đều dính đầy bột nhơm nhớp, mút mát nhồm nhoàm lấy làm thích chí lắm. Cái loài này hễ sướng lên là nheo tít mắt lại, mí mắt dài liền cụp xuống che tịt cả mắt, vậy là nó liền đưa tay lên vén mí mắt theo thói quen. Nhưng tay nó lúc này dính rất nhiều bánh nhân đậu, đưa lên mắt liền dính tịt cả mí mắt nó lại, càng cố vén thì lại càng không mở mắt ra được, lập tức chẳng nhìn thấy gì. Chân sau nó hình tròn, nên chỉ có thể đứng được một lúc, khi ngồi xuống chân trước không cần chạm đất, vậy là nó chẳng buồn để ý xem mình đang ở đâu, cứ thế ngồi phẹt xuống đất ra sức vén cái mí mắt bị dính tịt của mình lên.
Tôi hoàn toàn không thể ngờ rằng “bẫy dính” lại hiệu quả đến thế, thấy con gấu người đã ngồi xuống đất chỉ một mực tìm cách vén mí mắt lên, biết rằng thời cơ không thể bỏ lỡ, bỏ lỡ rồi thì tuyệt không có lần hai, vội vàng đánh tay ra hiệu cho Tuyền béo và Yến Tử. Ba người liền cầm vũ khí chia làm ba mặt phía trước, đằng sau, và bên trái nhanh chóng vây lấy con vật. Tuyền béo giơ cao cái rìu chặt cây, hai tay nắm chắc cán rìu, vung lên một vòng giở ra chiêu “Lực phách Hoa Sơn”, chém sả xuống đầu con gấu. Cùng lúc ấy, tôi ở phía trước giơ cây chĩa ba đi săn chọc thẳng vào mắt nó, Yến Tử cũng ở bên cạnh giương súng săn nhằm vào tai con quái, nổ súng bắn xuyên từ tai bên này sang bên kia.
Chúng tôi đều dồn hết sức lực tung một đòn sấm sét, dù không thể khiến con gấu người chết ngay tại chỗ thì cũng phải phá hết tai mắt cảm quan của nó đi, khiến nó khó mà hại người được nữa. Sau đòn hợp lực liều mạng ấy, chỉ nghe con gấu người kêu lên thảm thiết, não tương bắn tung tóe, thân thể đổ vật xuống như một trái núi, cũng không rõ là não tương hay mảnh vỡ xương đầu, những bọt máu màu phấn hồng rải ra từng mảng lớn trên nền tuyết tựa như những đóa hoa tươi đang nở rộ. Ba đứa chúng tôi thấy máu thịt tung tóe, tưởng rằng con gấu người chết đành đạch luôn rồi, không ngờ nó lại quá hung mãnh, cái đầu máu thịt bầy nhầy không còn phân biệt được mắt mũi tai miệng là đâu nữa rồi mà vẫn còn đứng bật dậy, điên cuồng gào rú xông lên mấy bước húc thẳng vào một gốc cây to rồi mới đổ vật ra lần nữa, máu trên đầu ồng ộc tuôn như suối, tứ chi co giật một lúc rồi mới không nhúc nhích gì nữa. Cả khu rừng cũng lập tức chìm vào trong bầu không khí trầm lắng tĩnh mịch.
Ban đầu chúng tôi định là để một trong ba đứa lồng tay vào cái ống bằng gỗ hoa, cầm bánh nhân đậu thò vào trong hang gấu. Đợi khi dính tịt mắt nó lại rồi thì đâm chết nó trong cái hang chật hẹp ấy, nhưng không ngờ con gấu người này lại không ở trong hang, nên mới xảy ra một trận kịch chiến bất ngờ. Quá trình diễn ra rất nhanh, nhưng lại kinh hồn động phách, tuy rằng cuối cùng con gấu cũng toi đời, nhưng chỉ vừa mới đây thôi, cái bóng của Tử thần cũng che phủ lên đầu chúng tôi y như thế. Lúc ấy mà hơi yếu bóng vía một chút, chỉ biết bỏ chạy lấy mạng mà không thể phản kích kịp thời, giờ đây cái xác nằm lăn ra kia chắc hẳn là người chứ chẳng phải gấu nữa rồi.
Ba bọn tôi vừa quần thảo với con gấu một trận mệt nhũn hết cả người ra, đầu óc trống rỗng, tim đập thình thịch loạn cả nhịp, đứa nào đứa nấy đều nằm lăn ra đất, không ai dám tin mình vừa đối đầu chính diện mà giết được một con gấu người khổng lồ. Nhìn từng vạt tuyết lớn trên bầu không giăng giăng rải xuống, chúng tôi mới nhận ra trời đã lại bắt đầu đổ tuyết từ lúc nào chẳng hay, phải nhân lúc con gấu người mới chết nhanh chóng lấy ra quả mật còn tươi. Vậy là ba người vội gắng sức bò dậy trên mặt đất phủ tuyết, lấy chĩa ba đi săn chọc chọc vào xác gấu, sau khi chắc chắn nó đã ngỏm rồi, chúng tôi mới bắt đầu cắt tay và mổ moi lấy quả mật ra.
Thân thể con gấu thì đáng tiền nhất chính là bàn tay với cái mật, cả tấm da gấu cũng chỉ xếp hạng hai. Hồi trước tôi nghe nói trong các loại sơn trân có bàn tay gấu với môi vượn đều là những thứ cực kỳ quý giá, bèn định cắt cả hai bàn tay gấu mang về, nhưng Yến Tử nói tay gấu chỉ có một bên ăn được. Vì hàng năm khi mùa đông lạnh giá đến, gấu người liền náu mình trong hang, không động đậy cũng không ăn uống, rơi vào một trạng thái ngủ đông kiểu như chết giả. Trong khoảng thời gian này, nó cứ liếm tay mãi không thôi. Bàn tay nó liếm ấy mới có giá trị dinh dưỡng cao nhất, còn tay kia thì cả mùa đông thường chỉ nhét dưới mông, nên không thể ăn được. Ngoài ra, bộ da gấu người này cũng rất đặc biệt, gấu người thể chất thuộc tính thuần dương, lông dày mà cứng, đàn ông trai tráng không thể mặc áo da gấu được, mà chỉ thích hợp với những người tuổi cao sức yếu thôi.
Lấy mật gấu cho cháu gái ông già Cao Sơn chữa bệnh, cắt bàn tay gấu có thể để dành đến Tết mang ra hợp tác xã cung ứng đổi lấy một mớ hàng tết, bận này đúng là coi như thắng lợi trở về rồi. Nếu vác cả con gấu người này về làng, ông bí thư nhất định sẽ phải nhìn bọn tôi với con mắt khác, nhưng với sức ba người thì không thể kéo cả con gấu khổng lồ này về được. Còn bỏ lại trong rừng rồi trở về tìm người giúp thì lúc quay lại cái xác gấu chắc chắn đã bị bọn sói dọn sạch rồi. Nhưng bỏ như thế thì thật quá đáng tiếc.
Tôi nảy ra một chủ ý, bèn quyết định xả thịt con gấu này ra làm mấy khối lớn, đem giấu vào hang nó, rồi vác đá ra bịt cửa hang vào. Trời sắp đổ tuyết lớn, cũng không phải lo thịt gấu bị thối rữa biến chất, thừa đủ thời gian để về làng tìm người đến giúp. Tuyền béo và Yến Tử đều cảm thấy cách này có thể thực hiện được, vậy là tôi bèn đốt cây đuốc dầu thông, kiểm tra xem trong hốc cấy còn lối ra vào nào khác nữa không, tránh trường hợp bít cửa trước rồi lại mở cửa sau.
Nhưng vừa rúc người vào trong hang cây xem thử, tôi liền phát hiện cái hang bên dưới gốc cây này vừa rộng vừa sâu, hơn nữa còn rất thoáng. Xem ra, trong rừng này có rất nhiều hang động bên dưới các cây đại thụ. Tôi không dám mạo hiểm chui vào, lập tức chui trở ra bên ngoài. Vừa nãy chỉ lo lấy mật gấu với cắt tay gấu, cũng không chú ý đến chiến trường xung quanh cho lắm, lúc này tôi mới nhìn kỹ mấy cái cây lớn dưới đất. Trong trận kịch chiến vừa nãy, đám cây này bị con gấu người húc hoặc nhổ bật lên, có cây gẫy lìa ngang thân, lại có cây tung cả rễ. Trong đống bùn đất bị tung tóe lên theo đám rễ cây, lờ mờ lộ ra hai ba pho tượng người đá, thú đá, mặt mũi hung tợn cổ quái dị thường.
Tôi lấy làm lạ, định quay đầu lại hỏi Yến Tử xem trong chốn rừng sâu núi thẳm này sao lại có mấy thứ mê tín dị đoan ấy? Ngoảnh lại mới phát hiện thấy Yến Tử cũng đang trố mắt nhìn chằm chằm vào đám thú đá, sắc mặt trắng đến phát khiếp, như thể trông thấy thứ gì đó còn đáng sợ hơn cả con gấu sát nhân kia vậy. Không đợi tôi mở miệng hỏi, cô đã run run giọng nói với tôi và Tuyền béo: “Không xong rồi, đây là quỷ... quỷ nha môn đấy! Chạy... chạy mau lên!”


Nguồn doc.178vn.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved