Chương 1:
Trên con đường Bắc Ninh Đông
Triều chiếc ô xe ô tô hàng bon bon chạy. Bỗng một người hành khách vận âu phục
thò đầu ra cửa ngơ ngác nhìn rồi kêu:
- Cho
tôi xuống đây!
Sau
một tiếng còi lanh lãnh, xe từ từ đỗ. Người hành khách xuống xe, đi rẽ sang tay
phải theo con đường đất gồ ghề, cong queo.
Tuy
lúc đó đã vào quãng năm giờ chiều, mà lửa tháng năm hãy còn gay gắt. Mặt trời
xiên ánh sáng xuống cái lạch nước phía bên đường, rồi phản chiếu lên, khiến
người lữ hành phải đội nghiêng cái mũ dạ về bên trái để che cho khỏi chói mắt.
Hai
bên đường, lúa chiêm vàng ối. Từng bọn vừa đàn ông, đàn bà, con gái, cúi khom
lưng cầm liềm nhỏ cắt lúa trông dáng vội vàng chăm chỉ lắm, như sợ trời sắp tối
không đủ thời giờ mà gặt xong thửa ruộng. Một bọn nữa phần đông lực lượng,
người thì lấy sức rít dây lạt bó các lượm lúa lại thành từng bó, người thì cắm
đòn sóc xuống đất đứng bắt chéo chân, nhìn vơ vẫn.
Trong
một thửa ruộng ngay sát chân đồi, một đám hơn mười người con gái, công việc đã
xong, ngồi nghỉ trên những bó lúa xếp thành từng đống ở bên vệ đường để chờ bọn
đàn ông trở lại gánh nốt.
Thấy
người lữ hành một cô trỏ bạn:
- Chị
em ôi, nhà tôi đã về kia kìa...
Mọi
người cười rộ. Một cô nữa hát ví:
Hỡi
anh đi đường cái quan
Dừng
chân đứng lại em than vài nhời
Đi đâu
vội mấy anh ôi?
Công
việc đã có chị tôi ở nhà.
Các cô
vỗ tay, cười rũ rượi. Lữ khách như đã biết tiếng con gái vùng Bắc đáo để, cắm
đầu rảo bước trên đường, không ngảnh cổ lại. Thì cô hát ví lại đứng dậy như
muốn chạy đuổi theo và gọi:
- Này
anh, anh đưa va li đây em xách cho. Khốn nạn, thương hại! Nhà tôi đi đường mệt
nhọc, mồ hôi, mồ kê thế kia kìa...
Lữ
khách đi đã xa, còn nghe văng vẳng sau lưng câu hát ghẹo:
Anh về
kẻo tối, anh ơi, Kẻo bác mẹ mắng rằng tôi dỗ dành.
Qua
cánh đồng lúa, lữ khách đi vào một con đường tối, giữa hai đồi cây cối um tùm.
Đường đã gồ ghề lại phải lên dốc, nên lữ khách mệt nhoài, đặt va li xuống, ngồi
thở.
Lúc
bấy giờ, ở vườn sắn bên đồi một chú tiểu quần nâu áo nâu, chân đi đôi dép quai
ngang sơ sài, đầu đội cái thúng đầy sắn, đương lần từng bước leo xuống con
đường hẻm. Thốt gặp người lại, chú bẽn lẽn, hai má đỏ bừng. Có lẽ vì chú tu
hành ở vùng quê, không trông thấy người vận tây mấy khi, nên chú sợ hãi chăng?
Người
kia thấy chú giật lùi lại một bước, thì mỉm cười ngả mũ chào, rồi hỏi:
- Thưa
chú, chú làm ơn bảo giùm cho từ đây vào chùa Long Giáng đường còn xa hay gần?
Chú
tiểu tò mò nhìn lữ khách, hỏi lại:
- Thưa
ông, ông có phải là ông Ngọc không?
- Vâng
chính phải tôi là Ngọc, nhưng sao chú biết?
Chú
tiểu hai má càng đỏ ửng, cúi đầu trả lời:
- Thưa
ông, vì mấy hôm nay cụ thường nhắc đến ông, cụ nói ông sắp lên chơi vãn cảnh
chùa.
- Vậy
ra chú cũng ở chùa Long Giáng?
- Vâng.
- Thế
chú cũng về chùa?
- Vâng.
- Gần
đến nơi chưa, chú?
- Đi
hết con đường đồi này thì trông thấy chùa.
Ngọc
đứng dậy xách va li nói:
- Vậy ta cùng về chùa?
Ngọc đi bên cạnh chú tiểu liếc mắt nhìn trộm, nghĩ thầm:
"Quái lạ! Sao ở vùng nhà quê lại có người đẹp trai đến
thế, nước da trắng mát, tiếng nói dịu dàng trong trẻo như tiếng con gái."
Rồi chàng quay lại hỏi chú tiểu:
- Chú tu ở chùa này từ bao lâu?
- Thưa ông, mới hơn hai năm nay.
Chú tiểu chừng muốn đổi sang câu chuyện khác thốt nhiên hỏi
Ngọc:
- Thưa ông, ông là cháu cụ Long Giáng tôi?
- Phải.
- Cháu gọi bằng bác.
- Phải.
- Ông học trường Canh Nông?
- Phải, chú biết tường tận lắm nhỉ?
Chú tiểu cười gượng:
- Ấy, cụ tôi vẫn nói chuyện đến ông luôn.
Lúc hai người ở con đường hẻm đi ra, thì mặt trời đã khuất
sau đồi. Gió chiều hây hẩy đã mát, mùa lúa chín bốc lên thơm phức, khiến Ngọc
ngắm cảnh nơi thôn dã êm đềm, trong lòng xiết bao tình cảm.
- Chú tu ở vùng này thú nhỉ?
- Thưa ông, đã xa nơi trần tục mà mến cảnh chiền am thì không
còn lấy gì làm vui thú nữa.Nghe câu nói có vẻ con nhà có học, Ngọc mỉm cười
hỏi chú tiểu:
- Chú biết chữ nào?
- Vâng, nhờ ơn cụ dạy bảo, tôi cũng võ vẽ đọc được kinh kệ.
- Thế thì đi tu sướng lắm, chú ạ. Có cảnh đẹp... Lại có sách
kinh phật mà đọc để quên cuộc đời náo nhiệt phiền phức... Hay tôi xin phép cụ ở
lại chùa, tu với chú nhé?
Chú tiểu quay mặt nhìn sang phía bên đường rồi giơ tay trỏ
bảo Ngọc, như muốn nói lảng:
- Thưa
ông, chùa Long Giáng kia rồi.
Hai
người đứng lại ngắm chùa. Lưng chừng một trái đồi cao, mái ngói mốc rêu chen
lẫn trong đám cây rậm rịt, bốn góc gác chuông vượt lên trên từng lá xanh um.
- Chùa
đẹp quá, chú nhỉ?
-
Vâng, Long Giáng là một danh lam thắng cảnh ở vùng Bắc. Cụ tôi thường thuật cho
tôi nghe rằng chùa này dựng lên đời Lý Nhân Tôn. Trước chỉ là một cái am nhỏ
lợp gianh, sau vì có một bà công chúa đơn xin nương nhờ cửa Phật, nên nhà vua
mới sửa sang nguy nga như thế. Câu chuyện thụ pháp của công chúa thực tỏ ra
rằng phép Phật huyền diệu biết bao.
Chú làm ơn kể lại cho tôi nghe có được không?
Chú làm ơn kể lại cho tôi nghe có được không?
-
Vâng, tôi xin thuật hầu ông nghe những lời cụ tôi đã kể. Chắc ông cũng biết đức
Thái Tổ nhà Lý, khi còn hàn vi, nhờ đạo Phật rất nhiều nên lúc Ngài lên ngôi
rồi, Ngài dốc lòng chăm chỉ sửa sang các chùa chiền. Đến đức Nhân Tôn vì bận
việc chinh phục Chiêm Thành và chống chọi với nước Tàu nên trễ nãi đạo Phật.
"Ngọc
Hoàng Thượng đế muốn giúp nhà vua tỉnh ngộ, liền cho một nàng tiên nga giáng
thế đầu thai, tức là Văn Khôi công chúa. Công chúa nhan sắc diễm lệ một thời,
nhưng khi lớn lên, chỉ ngày đêm học đạo tu hành. Sau vì nhà vua cố ý kén phò
mã, công chúa liền đương đêm lẻn bước trốn đi, nhờ có các thần tiên đưa đường
tới nơi này xin thụ pháp đức Cao Huyền hòa thượng.
"Về
sau có thám tử báo tin, đức vua mấy phen cho quan quân đến chùa đón công chúa
về triều. Công chúa nhất định không nghe. Nhà vua nổi giận, truyền quan quân
phóng hỏa đốt chùa. Ngọn lửa vừa nhóm, bổng một con rồng vàng hiện lên phun
nước tắt ngay. Vì thế chùa này mới lấy tên Long Giáng từ thuở ấy. Nhà vua nghe
tin cả sợ. Từ đó Ngài dốc lòng tin theo phép mầu nhiệm của đức Thích Ca Mâu Ni
và lập tức cho sửa sang chùa để công chúa ở lại tu hành. Chùa này vì thế bắt
đầu trùng tu từ thời ấy, đã bao phen tu bổ lại, nhưng kiểu chùa vẫn y nguyên
như cũ.
Ngọc
mỉm cười:
- Chú
biết rộng lắm nhỉ?
Chú tiểu
cúi mặt nhìn xuống đất, se sẽ đáp:
- Thưa
ông, đấy là cụ tôi kể cho nghe, tôi chỉ thuật lại mà thôi.
-
Nhưng chú thuật khéo lắm. Lại thêm chú có cái giọng dịu dàng êm ái quá.
Lần
này là lần thứ ba, chú tiểu nói lảng:
- Chết
chửa, đi mãi. Nay đến phiên tôi thỉnh chuông. Ta đi thôi, không về trễ cụ quở...
- Ở
chùa không còn ai?
- Có
chú Mộc nhưng nay đến phiên tôi.
- Cụ
chưa thấy chú về, chắc cũng bảo chú Mộc đánh chuông thay chứ gì?
Nói
dứt thời thì ngẫu nhiên chuông đâu như đáp lại, khoan thai dõng dạc buông
tiếng. Ngọc mỉm cười:
- Đấy,
chú coi, tôi nói có sai đâu.
Phía
tây, sau dãy đồi cỏ biếc, sắc trời đỏ ửng, lấp loáng qua các khe đám lá xanh
đen. Mái chùa rêu phong đã lẫn màu cùng đất, cùng cây, cùng cỏ. Khỏanh khắc,
mấy bức tường và mấy cái cột gạch quét vôi chỉ còn lờ mờ in hình trong cảnh
nhuộm đồng một màu tím thẩm.
Trong
làng không khí yên tĩnh, tiếng chuông thong thả ngân nga như đem mùi thiền làm
tăng vẻ đẹp cảnh thiên nhiên. Lá cây rung động, ngọi khói thướt tha, bông lúa
sột soạt, như cảm tiếng gọi của Mâu Ni muốn theo về nơi hư không tịch mịch.
Ngọc
liếc mắt nhìn chú tiểu, thấy chú vừa đi, miệng vừa lâm râm cầu nguyện, nét mặt
có vẻ mặt tưởng trầm tư.
Cái
buồn rất hay lây. Đi cùng đường với một người, hình dung cho chí tâm hồn phải
đều nhuộm một vẻ ủ ê chán ngán, Ngọc cảm thấy trong lòng nảy ra mối sầu vẫn vơ,
man mác và đoái nghĩ tới cảnh náo nhiệt phiền phức ở Hà Thành.
Nhưng
tuổi thanh niên dễ buồn mà cũng dễ vui. Lúc ấy lên đồi, đường đi khấp khểnh, đá
sỏi thì trơn, lại thêm trời nhá nhem sắp tối, nên Ngọc trượt chân suýt ngã,
văng cái va li xuống sườn đồi. Chú tiểu vội kêu:
- Chết
chửa! Ông có can gì không?
-
Không.
Ngọc
toan trèo xuống dốc nhặt va li thì chú tiểu đã vội đặt thúng sắn, thoăn thoắt
chạy xách lên.
- Cảm
ơn chú.
Hai
người cười ồ. Chú tiểu nói:
- Ông
nên cẩn thận, gần đến chùa rồi có cái giếng cạn ở bên đường khéo mà ngã xuống
đấy thì khốn. Để tôi đi trước dẫn đường cho.
- Cảm
ơn chú. À quên, tôi chưa hỏi tên chú gì?
- Tôi
là Lan.
Rồi
chú trỏ tay bảo Ngọc:
- Tam
quan đây rồi.
Tam
quan chùa Long Giáng cũng như nhiều tam quan các chùa vùng Bắc, cách kiến trúc
rất sơ sài. Trông như cái quán, có ba gian hẹp, trên nóc làm dô lên một cái mái
nhỏ giống hệt cái miếu con. Vả tam quan không có cánh cửa mà hình như chỉ một
cảnh để bài trí cho đẹp mắt chứ không dùng để ra vào. Vì thế tam quan xây ngay
trên sườn đồi đứng thẳng như bức tường không ai leo lên được. Còn ra vào đã có
cái cổng con.
Chú
tiểu Lan đưa Ngọc đi qua một cái vườn sắn, rồi vòng quanh một bức tường hoa.
Một người điền tốt, cởi trần, quần nâu ống xoắn lên qua gối ở trong bếp chạy
ra. Anh ta chưa kịp trông thấy Ngọc, vội vã gắt với chú tiểu:
- Kìa
chú Lan, cụ vừa quở chú đấy.
- Cụ
đâu?
- Cụ
đương làm lễ ở trên chùa. Sao hôm nay chú về muộn thế?
Chú
tiểu vừa nói vừa trỏ Ngọc đứng cách đấy mấy bước:
- Tôi
gặp ông Ngọc là cháu cụ đến vãn cảnh chùa nên đi hơi chậm, chú bảo chú Mộc lấy
gạo tám thổi cơm nhé, để ông Ngọc xơi cơm.
Ngọc
đỡ lời:
Thôi
đi, chú cho tự nhiên, tôi ăn cùng một thứ cơm với các chú cũng được mà.
Anh
điền tốt cười:
- Thưa
ông, chúng tôi ăn cơm hẩm với dưa xơi sao được.
Chú
tiểu Lan mỉm cười:
Vâng,
ông nói rất phải. Đã đến cảnh chùa thì cũng phải ăn kham khổ. Trước cụ tôi cũng
chỉ xơi cơm hẩm. Mấy năm nay, vì cụ tuổi tác, yếu đuối mà xơi mỗi bữa có một
chén, nên nhà chùa cấy riêng một mẩu tám để cụ dùng. Nhưng mời ông hãy vào nghỉ
trong nhà tổ để đợi cụ xuống.
Ngọc
theo chú tiểu đi vào một tòa nhà gỗ thấp lợp ngói, bên trong bày trí rất sơ
sài. Ở gian giữa sau cái bệ đất trên giải chiếc chiếu đã cũ là bàn thờ Tổ đặt
trong một cái hậu cung xây thùng ra như cái miếu. Ngọc vén bức màn vải tây đỏ
lên thấy bày xếp hàng đến hai chục pho tượng, liền hỏi chú tiểu:
- Đây
là các vị sư tổ có phải không, chú?
Không
nghe tiếng trả lời, Ngọc quay lại thì chú tiểu đã đi từ bao giờ. Ngồi đợi một
lúc lâu, Ngọc vẫn không thấy ai ra vào.
Trời
dần dần tối. Một lát sau, trông không rõ các thứ bày trong nữa. Lại thêm ngoài
sân lờ mờ có bóng trăng, nên ở chỗ tối nhìn ra, thấy như mình ngồi trong một
cái hang sâu vậy.
Ngọc
vừa mệt, vừa khát đương mong có người nào để xin chén nước thì qua cái giại che
hiên thấp thoáng có ánh đèn từ dưới bếp đi lên. Rồi tiếng người nói:
- Này
chú Mộc, tôi đã bạch cụ rồi. Cụ sắp xuống đấy. À, trong khi tôi bận làm đèn thì
chú đã lấy nước để ông Ngọc rửa mặt chưa?
Tiếng
trả lời:
-
Chưa, tôi đang bận giã vừng.
- Thế
bà Hộ đâu? Nhưng thôi, tôi đem đèn lên rồi tôi lấy cũng được.
Chú
Lan bước vào. Cây đèn dầu quả hình búp măng chiếu sáng lên, mặt chú trông càng
xinh lắm. Ngọc ngắm chú lại tưởng đến bức tranh người con gái Nhật cầm chiếc
đèn xếp của họa sĩ Ung đang mang to. Nụ cười tự nhiên trở trên môi Ngọc khiến
chú tiểu ngước mắt trông thấy, ngượng nghịu lúng túng, đặt cây đèn xuống thư
rồi vội bước ra ngoài.
- Này
chú Lan, chú làm ơn cho tôi xin ấm nước nhé.
Chú
tiểu, chân trong chân ngoài quay cổ lại trả lời:
-
Vâng, mời ông ngồi chơi, rồi lát nữa xuống nhà trai xơi nước và xơi cơm.
- Thì
chú đi đâu vội thế? Hãy vào đây tôi hỏi câu chuyện đã.
Chú
Lan ngần ngừ bước vào:
- Thưa
ông, đây là nhà tổ; sư Tổ thụ trai, nghĩa là xơi cơm ở buồng bên. Còn khách
thập phương thì xơi cơm nước ở nhà trai, cũng như nhà khách của các ông.
- Phải
đấy, chú giảng nghĩa cho tôi biết ít nhiều phong tục nhà chùa. Này chú, ở nhà
Tổ thì thờ các sư Tổ, nhưng hai gian bên cạnh này thờ ai thế?
- Đấy
là các hậu. Nghĩa là những người không có thừa tự, bầu hậu ở chùa thì nhà chùa
cúng cho.
Có
tiếng guốc lộp cộp ở ngoài hiên. Ngọc nhìn ra: Một vị hòa thượng mình mặt áo
vải nâu rộng, chân đi đôi guốc gốc tre già, tay chống cái gậy trúc, ung dung
bước vào.
Ngọc
đứng dậy chấp tay vái:
- Lạy bác ạ.
- Cháu đấy à? Cháu đã được nghỉ hè rồi?
- Vâng.
- Me
cháu được mạnh chứ?
- Cảm
ơn bác, me cháu nhờ giời vẫn mạnh.
Chú
Lan nghe Ngọc nói, tủm tỉm cười, đi ra. Mấy phút sau chú bưng lên thau nước,
Ngọc trông thấy vội vàng đứng ra hiên:
- Cám
ơn chú, chú để đấy cho tôi.
Sư cụ
nói tiếp:
- Sao
không lấy ghế đẩu? Chú không thấy thầy ấy vận quần áo tây à?
Ngọc
đỡ lời:
-
Được, bác để mặc cháu.
Rồi
trỏ vào cái khăn mặt vải ta nhuộm màu nâu còn mới, hỏi chú tiểu:
- Khăn
của chú đấy chứ, chú Lan?
- Thưa
ông, khăn mới lấy ở hòm ra đấy ạ.
Sư cụ
mắng:
- Sao
không lấy khăn mặc bông để thầy ấy dùng?
Rồi
quay lại hỏi Ngọc:
- Cháu
mới đến nhà chùa mà đã biết tên chú ấy là Lan?
- Thưa
bác, cháu gặp chú Lan hỏi chuyện nên biết.
Lúc đó
Ngọc lại thấy chú tiểu cười. Liền hỏi thầm:
- Sao
chú cười tôi?
Lan
khẽ đáp:
- Vì
thấy ông xưng cụ là bác. Ông nên bạch cụ. Đã xuất gia tu hành thì người nhà dẫu
thân đến đâu cũng không nhận được họ.
Ngọc
mỉm cười:
- Thế
à? Cảm ơn chú, nhé. Xưa nay tôi không hỏi tường tận nên không biết.
Một
lát, chú Mộc lên mời Ngọc xuống nhà trai ăn cơm. Ngọc đứng lên xin phép sư cụ
rồi theo chú tiểu đi qua sân, tới một nếp nhà ngang dài đến mười gian, nhưng
chỉ để ba gian làm nhà tiếp khách thập phương, còn thì ngăn ra từng buồng làm
phòng ngủ. Ở đây bài trí có phần lịch sự hơn ở nhà Tổ: gian giữa, giáp cái sạp
gỗ mít, kê một cái bàn, và đôi tràng kỷ lim lâu ngày đã đen bóng. Trên xà treo
một cái đèn ba giây, có chụp thủy tinh men trắng. Hai bên kê sát từ tường ra
tới gưỡng cửa ba bộ ghế ngựa quang dầu ghép liền với nhau.
Ngọc
nhác nhìn mâm cơm đặt trên bàn mủm mỉm cười. Buổi tối thấy nhà chùa có vẻ náo
nhiệt, nhộn nhịp, kẻ lên người xuống, lách cách bát đĩa, nồi mâm, chàng vẫn
tưởng các chú tiểu sửa soạn một bữa tiệc sang để thết khách quý. Ai ngờ trên
chiếc mâm gỗ vuông chỉ lỏng chỏng có đĩa dưa, đĩa cà và đĩa muối vừng.
Lúc đó
chú Lan bưng lên một bát đậu phụng kho tương, khói bay nghi ngút. Chú hơi cau
mặt, hỏi chú Mộc:
- Sao
chú không bảo bà Hộ rán đậu?
- Dầu
lạc hết rồi, mai mới mua được.
Chú
Lan quay lại nói với Ngọc:
- Thưa
ông, bữa nay ông hãy xơi tạm. Nếu mai ông muốn dùng cơm mặn, xin bảo bà Hộ làm
riêng để ông dùng.
Ngọc
tươi cười đáp:
- Cảm
ơn chú, nhưng tôi thích ăn cơm chay.
- Ông
quen ăn mặn nên dùng vài bữa cho biết mùi, chứ ông ăn mãi cơm chay thế nào được.
- Được
chứ. Bên tây cũng có người chỉ ăn rau cùng hoa quả quanh năm mà lại khỏe mạnh
hơn là ăn thịt.
- Thế
à, thưa ông? Nếu vậy càng hay.
-
Không những tôi thích ăn chay, tôi lại muốn xin phép cụ được cùng ăn với hai
chú cho vui.
Chú
Lan cười:
- Thế
không được.
- Sao
vậy? Tôi chỉ muốn nếm mọi sự tham khổ của đạo Phật, vì tôi thấy tôi yêu đạo
Phật lắm, nhất từ ngày tôi bị....
Nói
đến đấy, Ngọc ngừng ngay lại. Suýt nữa chàng đem chuyện riêng của mình ra thổ
lộ với chú tiểu. Ngọc không hiểu vì đâu lúc mới gặp chú Lan chàng đã có lòng
quyến luyến, và, như người gặp bạn thân, muốn đem hết những sự đau đớn phiền
muộn của mình cùng chú chia xẻ.
Ngọc
ngồi âm thầm nghĩ ngợi, hình như đương ôn lại một quãng đời dĩ vãng thì chú Lan
đã xới bát cơm đặt lên mâm, nói:
- Mời
ông xơi cơm.
- Cảm
ơn chú. Sao chú bảo tôi không thể ngồi ăn với các chú được?
- Thưa
ông, có hai cớ: một là, như thế người ta cười, hai là, chúng ta đã tu hành, thì
không phải ăn kham khổ, mà lại không được ngồi cùng mâm với...
- Với
người trần tục, phải không?
- Nghĩa là người không tu hành. Như đến mai có dọn cơm ông
ngồi xơi hầu cụ cũng phải bưng hai mâm, chứ không được ngồi cùng mâm với cụ.
- Lạ nhỉ? Nhưng nếu như tôi cũng đi tu thì được chứ?
Chú Lan mỉm cười:
- Vâng, nếu ông thụ giới, nhưng khi nào ông lên chức sư cụ
thì mới được, nghĩa là ít ra cũng ba mươi năm nữa.
Lúc đó nghe có tiếng mõ. Chú Lan vội vàng chạy lên nhà tổ. Ngọc
cũng bắt đầu ăn cơm. Quay ra phía bên thấy chú Mộc đứng khoanh tay, Ngọc liền
hỏi:
- Sao chú Lan nghe tiếng mõ lại chạy hấp tấp đi đâu thế?
- Bẩm, sư tổ gọi.
- Cụ gõ mõ gọi à?
- Vâng. Nếu có hiệu lệnh mà không thưa khiến cụ đánh đến
tiếng thứ tư thì chúng tôi phải ra ngay sân quì để chịu tội.
- Luật nhà chùa uy nghiêm nhỉ?
- Chả cứ chúng tôi, đến sư bác, sư ông cũng vậy. Năm ngoái sư
ông đến đây cũng quỳ đến nửa ngày.
- Thế à? Vậy bây giờ sư ông đâu?
- Bẩm, cụ cho đi trụ trì ở chùa gần đây.
- Vậy ở đây chỉ có chú với chú Lan?
- Vâng.
- Chắc rồi hai chú cũng lên sư bác chứ gì?
- Thưa ông, tôi thì còn lâu lắm. Nhưng
chú Lan rất sáng dạ. Mới thụ giới hai năm nay kinh kệ đã thông lắm. Có lẽ ít
nữa thế nào cũng được lên sư bác.
- Bẩm
nghe đâu chú ấy ở Ninh Bình, cha mẹ mất cả.
-
Nhưng kìa, sao chú không đi ăn cơm?
- Thưa
ông, ở chùa chỉ ăn có hai bữa, một bữa sáng sớm, một bữa đúng ngọ.
- Thế
không đói à?
- Khổ
hạnh lâu ngày quen đi chứ. Chính phép nhà chùa, thì chỉ dùng được một bữa cơm
trưa mà thôi.
-
Nhưng tối chắc đó chỉ là luật pháp nhà chùa, đã dễ ai tuân theo.
- Ấy,
những người không tu hành vẫn đều tưởng thế. Có người lại ngờ chúng tôi ăn
thịt, ăn cá nữa, nhưng chẳng bao giờ có thế. Nhất là ở đây sư tổ tôi lại nghiêm
giới lắm. Sai một tí là cụ phạt ngay.
Ngọc
phần thì đói, phần thì cơm chay lạ miệng, nên ăn ngon lắm. Chàng nghĩ bụng: cứ
bảo ở chùa kham khổ, nhưng đậu, vừng cùng dưa, cà chẳng kém gì thịt cá. Tự
nhiên trong trí Ngọc nẩy sinh ra cái ý tưởng muốn xa lánh chốn phồn hoa.
Ngoài
sân ánh trăng chiếu lờ mờ, rặng tường hoa lồng bóng xuống lối đi lát gạch, mấy
cây đại không lá ẻo lả, uốn thân trong vườn sân um tươi. Vạn vật có vẻ dịu dàng
như muôn màu thiền êm đềm tịch mịch....
Chương 2:
Sáng hôm sau, Ngọc đương ngủ say, bỗng tiếng
chuông chùa inh ỏi đánh thức. Ngọc giật mình, mở choàng mắt, ngơ ngác, không
nhớ mình nằm ở đâu. Thấy chú tiểu Mộc bưng đặt thau nước trên chiếc ghế đẩu,
Ngọc chợt nhớ ra và hỏi:
- Mấy giờ rồi chú?
- Thưa ông, vào khỏang cuối giờ dần, sang đầu giờ
mão.
Ngọc nghe nói, mỉm cười, súng sính bộ quần áo
"pijama" ra hiên rửa mặt. Trong vườn trước sân, các lá sắn hình hoa
thị còn đọng giọt sương lóng lánh. Dưới chân đồi một dòng nước bạc thấp thoáng
lượn trong sương mù.
Mặc xong quần áo, Ngọc vội vàng lên chùa.
Trên chiếc bục gỗ, trải chiếu đậu, sư cụ ngồi
tụng kinh, mắt đâm đâm nhìn thẳng vào quyển sách có chữ to đặt trên cái kỷ nhỏ
gỗ mộc. Tay phải sư cụ gõ mõ như để chấm câu,
cứ đọc bốn chữ lại đánh một tiếng. Tay trái sư
cụ đặt trên quyển Kinh, thỉnh thoảng lại rời trang giấy, nhắc chiếc dùi gõ vào
thành cái chuông con hình dáng như cái lon sành.
Sư cụ có vẻ tôn nghiêm lắm. Bao nhiêu tâm trí thu
cả vào quyển Kinh, không hề thấy cụ liếc mắt ra chỗ khác. Các pho tượng ngồi
trên bệ gạch như đương lắng tai nghe, có vẻ trầm tư mặc tưởng.
Tiếng kinh du dương, mùi trầm ngào ngạt, Ngọc
tưởng tượng sống trong một thế giới khác, thế giới mộng ảo thần tiên... Bỗng
một tiếng chuông. Ngọc giật mình ngỏanh lại. Theo tiếng ngân, chàng lần tới một
cái bậc gạch bên tả, rón rén lần từng bước leo lên cái gác chuông con. Tới bận
thượng cùng, vừa nhô đầu lên, chàng nghe có tiếng "đà Phật" rồi kế
tiếp một tiếng chuông. Ngước mắt nhìn, chàng gặp chú Lan tay cầm chiếc vỗ gỗ.
Thấy Ngọc, Lan hơi đỏ má, mỉm cười ngả đầu chào.
Đôi bạn mới gặp nhau hôm qua nay đã như có chiều
thân mật. Song chú tiểu vẫn chăm chú vào phận sự: đọc đứt một câu lại đánh
chuông. Những câu niệm Phật ấy dần dần ngắn bớt, và những tiếng chuông kế tiếp
một lúc một thêm gần nhau cho tới khi đổ hồi.
Ngọc đứng chờ đến mười lăm phút cho chú tiểu đánh
xong hồi chuông cuối cùng, đặt vồ xuống gác.
- Sao chú phải cầu kinh thế mới đánh được chuông?
Lan cười:
- Đánh chuông phải đọc thần chú, chứ.
- Thần chú! Hay nhỉ?
- Nghĩa là mười câu niệm Phật, ba hồi, một trăm
hăm ba tiếng.
- Vậy nhớ được cũng khó lắm nhỉ?
- Phải học thuộc lòng chứ.
- Những ba hồi, một trăm hăm ba tiếng! Thảo nào
mãi bây giờ mới dứt hồi. Tiếng chuông thứ nhất của chú làm tôi thức giấc. tôi
tiếc quá, vì đương giở cái chiêm bao.
Lan dịu dàng hỏi:
- Thưa ông, chiêm bao lành hay dữ?
- Chiêm bao thú lắm. Tôi thấy tôi đi với một
người sư trẻ tuổi, chỉ vào trạc tuổi chú mày mà thôi. Chúng tôi đi trên con
đường quanh co ngoắt ngoéo, ở giữa hai trái đồi. Cây cối um tùm, ánh trăng
chiếu sáng qua những khe lá, bóng in xuống đất như gấm như hoa. Một lát sau
chúng tôi đến một cảnh bồng lai. Dưới chân một ngọn núi, dòng nước chảy róc
rách như tiếng gõ mõ, tên cành, chim hót véo con, bên mình, ai cười khanh
khách. Tôi quay đầu lại, thì lạ quá! Bạn tôi đã biến thành một trang tuyệt thế
giai nhân... Ấy chính lúc đó, tiếng chuông của chú làm tôi thức giấc.
Chú Lan bẽn lẽn:
- Mộng mị của ông đầu Ngô, mình Sở đến buồn cười!
- Lạ nhất là người
con gái ấy lại là chú.
Chú tiểu hai má ửng
đỏ. Chú cười sằn sặc như muốn giấu hổ thẹn rồi đáp lại:
- Nam mô A di đà Phật! Kẻ đã quả quyết xuất gia
tu hành thì trai cũng thế mà gái cũng thế, có khác chi. Vậy bây giờ giá đức
Thích già có dùng phép mầu nhiệm bắt tiểu này hóa ra làm gái, cũng không có gì
thay đổi cả, kia mà. Tôi còn nhớ một hôm sư tổ giảng sự tích Phật, có dạy rằng:
"Phật bình sinh đối với đàn bà, con gái vẫn
có bụng nghi ngờ, cho rằng bọn họ không những không đủ tư cách để tu hành được
trọn vẹn mà lại thường làm sự ngăn trở sự tu hành của những kẻ thành tâm mộ
đạo. Cho nên ngài thường dạy các môn đồ đối đãi với đàn bà con gái rất nên cẩn
thận, phải xa lánh họ và ra công ngăn ngừa cho khỏi mắc vào lưới dục tình."
Sư tổ lại theo gương Phật mà dạy chúng tôi rằng:
"Đối với đàn bà con gái phải coi họ như mẹ mình, khi họ hơn tuổi, hay bằng
tuổi mình, và nếu họ kém tuổi mình thì nên coi em ruột mình, lúc nào cũng phải
yên tâm yên trí như thế mới mong tránh được sự cám dỗ."
Tôi đã hết sức luyện tâm trí tôi được như lời sư
tổ dạy, nên tôi coi đàn ông hay đàn bà không khác nhau chút nào, và ví phỏng
bây giờ tôi hóa ra làm con gái, tôi cũng không biết là trai hay gái, chỉ nhớ
rằng mình là người xuất gia tu hành mà thôi."
Ngọc ngờ Lan là gái, nên bịa đặt ra câu chuyện
chiêm bao để dò ý tứ. Khi nghe Lan cố lấy giọng tự nhiên, diễn lời Phật dạy,
Ngọc lại càng ngờ lắm. Chàng vừa cười vừa bảo chú tiểu:
- Chú cứ dốc lòng cầu nguyện được cãi nam vi nữ
đi, đức Thích già sẽ chuẩn y cho sự ước vọng của chú được thành sự thật đấy.
Lan có vẻ ngẫm nghĩ, rồi đột nhiên hỏi Ngọc:
- Đời nay có thể có bậc Quan Âm Thị Kính không
nhỉ?
Ngọc ngơ ngác hỏi lại:
- Thị Kính là ai thế,
chú?
Lan mỉm cười:
- Vậy ra về đạo Phật
ông kém cỏi lắm nhỉ? Thế mà muốn đi tu sao được! Bà Thị Kính tức Quan Âm, là
một người Triều Tiên cải dạng nam trang để xuất gia đầu Phật...Chắc nay trong
đám phụ nữ chả ai có gan dám cải dạng như thế.
Ngọc ngẩn người ra,
nghĩ vơ nghĩ vẫn có ý buồn rầu. Quay lại thì Lan đã bước xuống thang.
- Chú xuống đấy à?
- Vâng, tôi đi thắp
hương.
Chương 3 :
Ngọc
nấn ná ở chơi chùa Long Giáng đã mười hôm, tình thân mật đối với chú tiểu Lan
một ngày một thêm khăng khít, đến nỗi cả chùa sư cụ cho chí ông Thiện, bà Hộ,
đều biết rằng hai người là một cặp tri kỷ, ý hợp tâm đầu.
Từ
hôm nói chuyện với chú tiểu ở trên gác chuông, mối hoài nghi của Ngọc một ngày
một tăng. Trí nghĩ lúc nào cũng nhắc tới câu hỏi:
-
Gái hay trai?
Hỏi
rồi lại tự trả lời:
-
Chả có lẽ là gái, những lời bàn về đạo Phật của chú tiểu có ý khinh bỉ cánh phụ
nữ... Nhưng ta cũng ngốc tệ! Phải, nếu hắn là gái thì hắn càng cần phải làm thế
để giấu ta chứ... Đích rồi, chính hắn là gái.
Hôm
ấy Ngọc hai tay chắp sau lưng, thung thăng đi bách bộ dưới rặng thông già.
- Ta
hẹn cho ta mười hôm nữa là cùng, phải tìm ra sự bí mật này.
Lúc
ấy có tiếng ai gọi:
-
Thầy phán!
Ngọc
quay đầu lại. Một bà lão cắp rổ chè tươi rảo bước đi tới.
- Bà
cụ gọi tôi?
-
Thầy có phải ở chùa Long Giáng không?
-
Phải, cụ hỏi điều gì? Hay cụ muốn bán chè?
-
Tôi nhờ thầy bảo giùm chú Lan cho rằng đừng chờn vờn đến nhà tôi nữa mà có ngày
què cẳng.
-
Sao vậy cụ?
Bà
lão mặt hầm hầm tức giận:
- Ai
lại đã tu hành còn ghẹo gái...
- Cụ
lầm đấy? Chẳng khi nào chú Lan lại bậy thế.
3
-
Chả khi nào! Con cháu nhà tôi từ ngày nó gặp chú ấy nó sinh ốm, sinh đau, mất
ăn, mất ngủ.
Ngọc
cười:
-
Thế thì lỗi ở cháu cụ, chứ ở đâu chú Lan! Đừng ngờ cho người ta tội nghiệp, cụ
ạ.
-
Nếu nhìn nó, chú ấy không cười cợt nhí nhãnh thì đâu nên nỗi.
-
Được, cụ để tôi về bảo chú ấy cho.
Bà
lão vui vẻ:
-
Vâng, thầy giúp cho. Tôi chào thầy ạ.
-
Không dám, chào cụ.
Ngọc
chau mày, lo lắng tự hỏi:
- Lạ
nhỉ, có lẻ hắn là trai thật sự ư? ... Mà sao hắn lại không phải là trai? Trí ta
tiêm nhiễm tiểu thuyết quá, hóa quẩn mất rồi.
Ngọc
loay hoay suy nghĩ vừa đi vừa nhìn xuống đất. Bỗng nghe tiếng sột soạt trong
vườn chè bên con đường hẻm. Kiễng chân nhìn qua hàng rào, thấy chú Mộc đương
buộc bó cành khô, Ngọc chào:
-
Kìa, chú tiểu.
Chú
Mộc chưa kịp đáp lại, chàng đã lấy tay rẽ một lối bước vào vườn:
-
Chú đã nhặt đủ hai ôm rồi à? Đưa lạt tôi bó giúp cho một bó.
-
Thôi, ông để mặt tôi, không bẩn áo.
Ngọc
ngắm chú Mộc từ chân đến đầu, mủm mỉm cười. Chú Mộc ngước mặt thấy chàng cười
chẳng hiểu chi cũng cười, có biết đâu rằng Ngọc đang so sánh chú với chú Lan,
một người quê mùa cục mịch, một người trắng trẻo xinh xắn. Ngọc thốt nhiên hỏi:
-
Sao tên chú ấy lại là Lan nhỉ? Như tên con gái ấy.
Mộc
giảng nghĩa:
-
Lan là tên cụ đặt cho. Tên chú ấy chính là Thận kia.
-
Sao cụ lại đổi tên cho chú ấy thế nhỉ? Tên Thận cũng hay chứ.
- Vì ai mới tu hành cũng
phải bỏ tên cũ, rồi sư tổ đặt cho một tên mới, chọn trong các giống huê, chẳng
hạn huê lan, huê quỳ, huê hồng...
Ngọc nghĩ thầm:
- Ra ta lầm to, ta cứ
tưởng Lan là tên con gái, té ra chỉ là một tên sư cụ đặt cho. Khen thay sư cụ
cũng khéo tìm được cái tên xứng đáng...
Chú tiểu lại nói:
- Chú đặt cho chú ấy cái
tên Lan là vì chú ấy tới chùa vào đầu mùa xuân.
Ngọc muốn gợi chuyện:
- Nghe đâu chú ấy không
được đứng đắn thì phải.
- Không, chú ấy đứng đắn
lắm, mộ đạo lắm.
Ngọc lẩn thẩn hỏi:
- Chú ngủ cùng buồng với
chú Lan chứ?
- Không tôi vẫn ngủ ở nhà
trai. Còn chú Lan, cụ tin yêu giao cho giữ buồng kho, nên hôm nào cũng ngủ
trong buồng kho, cài then kỹ lưỡng lắm. Nhiều hôm đêm khuya gọi, lay thức gì
rất khó khăn.
Một tia ngờ nẩy trong trí
Ngọc: làm gì mà cẩn thận quá thế? Thôi, chắc hắn là con gái
rồi.
Chương 4 :
Ngọc
ở nương chè về, dáng điệu buồn rầu đứng tựa cột hiên chùa, nhìn vơ vẫn. Dưới
chân đồi, thẳng cửa Tam Quan trông ra, con đường đất đỏ ngòng ngoèo đi tít về
phía rặng tre xanh biếc, bao bọc mấy xóm xa xa. Bên đường lạch nước vẳng lặng
phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh như tấm kính dài.
Cảnh
đẹp bỗng gợi lòng thích hội họa của Ngọc.
Xưa
nay chàng đi chơi đâu cũng thường đem theo giấy cùng hộp màu thủy họa. Chàng
liền xuống nhà trai mở va li lấy các họa cụ lên ngồi vẽ.
Đương
hý hoáy trộn pha màu, nghe có tiếng cười khúc khích sau lưng, Ngọc quay lại và
kêu: "Chú Lan!" Đương buồn, gặp chú tiểu, chàng lại thấy lòng vui. Chàng
cũng chẳng hiểu vì sao cứ vắng chú lâu lâu, là cảm thấy mình nhớ vơ, nhớ vẫn
như thiếu cái gì mà không nhận ra. Song ở nơi hẻo lánh không mấy ai biết nói
câu chuyện cho ra câu chuyện thì hai người trí thức làm gì mà chẳng chóng thành
một cặp tri kỷ. Cái đó có chi lạ!
Chú
Lan nghiên đầu ngắm nghía bức tranh rồi bình phẩm:
-
Cây đại ông vẽ sao không có ngọn?
-
Không cần có ngọn.
- Vẽ
thế sái.
Ngọc
mỉm cười:
-
Nhưng gần quá thì trông sao đủ toàn thân cây được?
-
Thêm vào chứ! Mà cảnh của ông không có người.
- Ấy
tôi cũng biết thế, chính tôi đương muốn tìm một người làm kiểu mẫu hộ. Hay chú
đứng cho tôi vẽ nhé?
- Cứ
nghĩ ra mà vẽ không được à?
-
Cũng được, nhưng không đẹp, vì không giống hệt dáng bộ... đi, chú làm ơn ra
đứng tựa gốc cây đại cho một lát.
-
Vâng, thì ra. Nhưng ông vẽ mau lên nhé.
Ngọc
đặt cái bìa cứng lên hai đùi, cầm bút chì ngồi nghĩ ngợi:
-
Chú nhìn ngang về phía rặng đồi bên tả. Được đấy. Chú đứng yên cho.
Độ
mười lăm phút sau, Ngọc hai tay cầm giơ bức tranh. Nhắm một mắt lại ngắm nghía
rồi mủm mỉm cười:
-
Xong rồi, cảm ơn chú.
Lan
vội vàng bước lại gần ngưỡng cửa, chỗ Ngọc ngồi. Thoạt nhìn, chú kinh ngạc:
-
Không hề chi. Tôi chỉ mượn chú làm mẫu để vẽ một người con gái đẹp thôi mà.
Chú
Lan có dáng không bằng lòng, nguây nguẩy quay đi. Ngọc vội giật lại:
-
Này chú, chú giận tôi đấy à?
Lạnh
lùng, chú tiểu đáp:
-
Ông khinh tôi quá. Lần này không biết là lần thứ mấy, ông chế riễu tôi, ông coi
tôi như một người con gái.
-
Không phải là tôi dám khinh chú. Chỉ vì chú đẹp trai lắm kia. Mọi lần, tôi
không nhớ, nhưng lần này thì tôi xin lỗi chú, quả thực tôi không có ý gì chế
riễu chú, tôi chỉ muốn vẽ bức tranh cổ tích.
Chú
Lan tuy giận mà cũng không nhịn được bật cười:
-
Tranh cổ tích thì cần gì có hình tôi?
- Ấy
thế mới vẽ chú ra một người con gái... Chính tôi muốn thuật lại bằng nét bút sự
tích bà công chúa đời đức Nhân Tôn xuất gia đầu Phật, câu chuyện chú kể cho
nghe bữa nọ ấy mà...
- À
ra thế.
-
Đây chú coi: công chúa vừa tới chùa, đứng tựa gốc đại già, nhìn về phía Thăng
Long, nghĩ tới đức vua cha cùng hoàng hậu, rầu rầu giọt lệ rơi trên má...
-
Thế thì ông vẽ sai rồi. Công chúa quả quyết đi tu, mới tới chùa là vui đạo Phật
ngay...
-
Truyện thực tế vẫn thế. Nhưng tôi muốn tả cái tâm tình công chúa lúc bấy giờ
đương phân vân nửa muốn quay về nơi đế đô vì sơ cha mẹ nhớ thương, nửa muốn ở
lại mà tu thành quả phúc.
Lan mỉm
cười, Ngọc thấy Lan cười cũng cười theo, rồi nói luôn:
-
Lúc bấy giờ có tiếng chuông chùa ngân nga như để đánh tỉnh cơn mê, như để gột
rửa linh hồn trần tục của công chúa...
Lan
lại cười:
-
Ông vẽ sao được tiếng chuông?
- Vẽ
được. Nghĩa là vẽ công chúa, con mắt lờ đờ ngước nhìn trời như đương nghe
chuông chùa mà cầu khấn đức Thích già Mâu ni, xin ngài cứu vớt cho thoát được
chốn trầm luân.
-
Nếu ông vẽ được thế thì khéo lắm. Còn vẽ công chúa mặc áo tứ thân thì chắc ông
theo sự tích Phật và Phật tổ khi đã rời bỏ cung điện, liền cởi bộ gấm đổi lấy
áo cà sa của một vị hòa thượng...
Ngọc
tuy không hiểu sự tích Phật cũng trả lời liều:
- Ấy
chính thế.
Một
lúc lâu, hai người ngồi im lặng trên thềm hiên chùa, mỗi người như đương theo
đuổi một ý tượng riêng.
Về phía
đông nam mấy trái đồi phản chiếu ánh chiều tà nhuộm một sắc da cam. Nền trời
xanh nhạt, lơ thơ mấy áng mây hồng. In trên cánh đồng lúa chín, màu vàng thẫm,
con cò trắng thong thả bay về phía tây, đôi cánh lờ đờ cất lên đập xuống loang
loáng ánh mặt trời. Bên cái quán gạch cũ, ẩn núp dưới đám mây đen, trên con
đường hẻm, và ba đứa mục đồng cưỡi trâu hát ngêu ngao trở về trong xóm.
Ngọc
cất tiếng hỏi Lan:
-
Trong cảnh này tôi tưởng tượng như còn thiếu một thứ gì.
- Ấy
là ông tưởng tượng đó thôi.
-
Phải. Cái cảnh đẹp thế kia, êm đềm thế kia, dịu dàng thế kia, tôi coi vẫn như
không có linh hồn. Cũng như lúc nãy chú bình phẩm bức tranh của tôi, chê rằng
thiếu vẻ hoạt động vì không có vẽ người...
Lan
cười hỏi:
-
Vậy thiếu cái gì?
-
Thiếu ái tình... vì cảnh yên lặng, diễm lệ này. Tạo hóa chỉ để riêng cho những
người biết yêu thưởng thức.
Lãnh đạm Lan trả lời:
- Không phải. Thiếu tiếng
chuông, vì đến giờ thỉnh chuông rồi mà tí nữa tôi quên bẳng.
Dứt lời Lan vội vàng cắm
đầu chạy. Ngọc gọi: Đợi tôi với!
Rồi cũng chạy theo sau.
Khi lên đến đầu thang gác
chuông, bỗng Lan kêu rú lên một tiếng, lùi lại. Ngọc vừa bước tới, thành thử
Lan ngã ngay vào lòng chàng. Ngọc ôm bạn lim dim cặp mắt:
- Cái gì thế?
Câu hỏi như đánh thức
linh hồn chú tiểu. Chú giật mình ẩy mạnh Ngọc ra rồi chạy tuột xuống chân
thang. Ngọc theo xuống:
- Cái gì mà chú sợ hãi
quá thế?
Lan thở hồng hộc ngồi xệp
xuống bậc thang, nói không ra tiếng:
- Con.... rắn!
Ngọc ngơ ngác:
- Con rắn à? Chú trông
thấy ở đâu? To hay bé?
Lan, mặt còn tái như gà
cắt tiết, nhưng đã hơi hoàn hồn, mỉm cười gượng, trả lời:
- Bằng cái đũa cả ấy. Nó
có đốm hoa.... Giời ơi! Hú vía!
- Chú để nó đấy cho tôi.
Ngọc quay đi tìm khí
giới. Mấy phút sau chàng trở lại đem theo một cây đòn sóc. Lan đã hết sợ, ngăn
lại:
Thôi, ông đừng đánh người
phải tội. Ở nhà chùa không được sát sinh.
- Thế nó cắn mình nó có
phải tội không.
Vừa nói chàng vừa xăm xăm
chạy lên thang. Khi chàng gần tới nơi, Lan ngửa mặt trông, lo lắng:
- Ông hãy đứng lại nhìn
quanh xem nó nằm ở chỗ nào đã, chẳng nhở vô ý dẫm phải nó, nó cắn thì khốn.
Ngọc theo lời, kiễng chân
nhìn khắp một lượt rồi cúi xuống gọi:
- Chú Lan! Cứ lên. Nó
chạy rồi, không thấy nó đâu nữa.
Chàng rón rén bước lên
rồi xem xét lại một lượt khắp các xó gác chuông. Chú Lan cũng đã tới, nhớn nhác
nhìn chung quanh chưa hết sợ.
- Bây giờ thì chú cư yên
tâm niệm Phật thỉnh chuông. Rắn có trở lại đã có tôi tiếp chiến.
Câu nói khôi hài đã khiến
hai người cười ran.
Rồi Lan bắt đầu thỉnh
chuông. Còn Ngọc thì chống đòn sóc tựa vào tường, đứng khoanh tay, phưỡn ngực
hút thuốc lá, trông ra dáng một tay hào hiệp và có vẻ tự phụ bênh vực được một
người yếu đuối đã sẵn lòng ký thác sự bảo hộ cho mình.
Đêm hôm ấy, Ngọc trằn
trọc loay hoay trên chiếc giường tre, không sao ngủ được, trong lòng nghĩ vẫn,
nghĩ vơ. Vì lúc chú tiểu sợ hãi ôm chầm lấy Ngọc, Ngọc có một cảm giác khác
thường. Cảm giác ấy vẫn còn man mác trong lòng. Ngọc tự hỏi: "Sao khi anh
em bạn ta đùa ôm ta như thế, ta không thấy tim hồi hộp? ... À phải rồi, chỉ vì
ta yên trí rằng chú Lan là con gái".
Ngọc bỗng bật cười, cười
sằng sặc. Đêm khuya thanh vắng, Ngọc tự nghe tiếng cười của mình khanh khách
giữa khỏang im lặng thì rùng mình ghê sợ.
Nằm mãi không ngủ được,
Ngọc liền dậy mặc quần áo đi bách bộ ngoài hiên. Hôm ấy vào hạ tuần, trăng vừa
mọc, trông như cặp sừng trâu treo ngược trên đỉnh đồi. Cũng là trăng khuyết
nhưng đối với trí tưởng tượng của Ngọc thì trăng thượng tuần trông dịu dàng âu
yếm mà trăng hạ tuần trông lạnh lẽo buồn tẻ.
Ngọc đi đi lại lại không
biết bao nhiêu lượt trên hiên nhà trai. Khi tới phòng chứa là chỗ chú Lan ngủ
thì như có sức mạnh thiêng liêng gì giữ chàng lại. Chàng dừng bước đứng lắng
tai nghe. Không một tiếng gì lạ, chàng lại đi.
Một lần, Ngọc áp má vào
cánh cửa buồng. Bỗng cánh cửa mở tung ra, làm Ngọc suýt té nhào. Thì ra buồng
kho không có ai. Ngọc đứng nhìn quanh khắp một lượt, nghĩ thầm:
"Quái! chú này đêm
khuya đi đâu thế? Được, ta cứ thung thăng bách bộ, thế nào hắn cũng trở về
buồng." Khi đến đầu hiên bên kia, Ngọc trông lên chùa trên, nhác thấy ở
chỗ khe cửa tò vò có một vật đen đen vừa đi vụt qua. Liền lần tới, se sẽ ẩy cửa
bước vào.
Trong chùa lờ mờ tối.
Trên bàn thờ, ngọn đèn dầu lạc leo lét chiếu ánh. Một cái bóng đen với bó hương
tỏa khói.
Ngọc trụt giầy rơm, rón
rén lại gần, thì thấy chú Lan cắm hương vào bát hương, rồi quỳ trên bục gỗ,
chấp tay lâm râm cầu khẩn. Ngọc tuy núp sau cái cột ngay bên cạnh, nhưng vì Lan
khấn nhỏ quá, không nghe rõ; chỉ thỉnh thỏang lọt vào tai Ngọc những mẩu câu,
đại khái "Phù hộ cho đệ tử... đủ nghị lực... xa chốn trầm luân..." Lạ
nhất là luôn luôn Ngọc nghe rõ Lan nhắc đến tên mình đi liền với một tên khác,
hình như Thi thì phải.
Ngọc liền ở chỗ ẩn núp đi
ra, định đến vỗ vai chú tiểu. Nhưng bấy giờ tâm trí để cả vào sự cầu nguyện,
Lan không biết rằng Ngọc lại gần, thành thử chàng đứng ngay sau lưng mà chú vẫn
không ngờ. Ngọc bỗng giật mình kinh sợ, vì chàng vừa nghe chú tiểu khấn một câu
ghê gớm:
"Đệ tử đã dốc lòng
tin mộ đạo, không ngờ nay mới biết lòng trần tục vẫn chưa rũ sạch. Nhưng đệ tử
xin thề ở trước mặt đức Từ bi..."
Nghe tới đó, Ngọc rón rén
lui về phía cửa, rồi lẳng lặng bước ra.
Chương 5:
Trong chùa Long Giáng kẻ
tới, người lui, có vẻ tấp nập nhộn nhịp.
Dưới nhà ngang đối diện
với nhà trai, ông Hộ và ba, bốn người làng đến giúp việc đứng bên chiếc bàn
dài, kẻ lau lá mít kẻ đóng oản, tiếng kêu chí chát. Chốc chốc lại thấy có người
đội voi giấy, ngựa giấy và những hình nhân đến.
Ngọc tuy lần đầu được mục
kích quang cảnh ấy
ở chùa, nhưng cũng chẳng
lưu ý tới. Lòng chàng đương băn khoăn về câu chuyện tối hôm qua, nên nhớt nhác
chàng đi tìm Lan để dò cho ra bí mật.
Lên trên chùa chàng gặp chú
Lan đương cầm phất trần phẩy bụi ở các pho tượng, còn chú Mộc thì lúi húi lau
các cây đèn nến và bình hương, ống hoa. Ngọc lại gần hỏi:
- Chùa ta sắp có việc gì
mà có vẻ náo nhiệt thế?
Chú Mộc quay lại trả lời:
- Hôm nay bắt đầu làm
chay cho vong linh ông Hàn.
- Thảo nào ở nhà tổ thấy
nhiều đồ mã thế.
Ngọc chỉ hỏi, chỉ nói cho
qua quýt, nhưng bao tinh thần đều chăm chú cả vào Lan, mong cho chú Mộc bỏ đi
để được ở lại một mình với Lan. Im một lúc lâu, chàng lại vơ vẫn hỏi Mộc:
- Chú không xuống nhà
giúp việc đóng ỏan?
- Không phải việc của tôi.
Câu trả lời cộc lốc khiến
Ngọc khó chịu. May sao, chú Lan như giúp nguyện vọng của chàng, bỗng bảo chú
Mộc chạy qua xuống nhà tổ xem sư cụ có truyền điều gì không, vì hai người cắm
cúi suốt từ sáng sớm đến giờ ở trên chùa. Ngọc nghĩ thầm: "Hắn vô tình hay
hắn muốn ở lại một mình với ta? " Song tuy được như lòng ước mong mà chàng
cũng chẳng biết hỏi câu gì? Quái lạ, trước chàng mới ngờ bạn là gái thì đứng
trước mặt bạn, cử chỉ ngôn ngữ còn được tự nhiên. Nay đoán chắc bạn là gái rồi
thì lại thấy mình bẽn lẽn, ngượng nghịu. Có lẽ đó là tính nhút nhát của con
người có giáo dục, có lương tâm. Hay đó chính là ái tình?
Ngọc mủm mỉm cười. Trong
lòng sung sướng, chàng đương tìm cách khai mào câu chuyện. Bỗng có tiếng guốc
lộp cộp. Ngoảnh lại, thì sư cụ đã đến gần, cười bảo Ngọc:
- Cháu lên đây để nghỉ
ngơi, cần được yên tĩnh mà gặp tuần chay thế này chắc phiền cho cháu lắm nhỉ?
- Bạch cụ, cũng không sao
ạ. Nhưng cháu ở chùa làm phiền cụ và làm khó nhọc cho các chú tiểu, tới nay đã
hơn nửa tháng, nên cháu muốn xin phép cụ mai cháu về Hà Nội.
Ngọc vừa nói vừa nhìn Lan
xem Lan có tỏ ra vẻ mặt vui, buồn chăng, nhưng vẫn thấy Lan điềm nhiên đứng cầm
phất trần phẩy bụi, không hề lưu ý đến mình.
Sư cụ ngẫm nghĩ một lát,
rồi trả lời:
- Nếu cháu sợ chuông
trống làm ầm ỹ thì bác chả dám giữ.
- Bạch cụ, không phải thế.
- Hay cháu sợ ngăn trở
việc học của cháu. Nếu chỉ có thế thì cháu cứ kê các tên sách cháu cần dùng,
vài hôm nữa bác bảo chú Lan về Hà Nội lấy lên cho cháu.
Ngọc ngỏ lời xin về là
chỉ để dò ý tứ Lan, nên thấy sư cụ giữ thì đứng im. Sư cụ biết Ngọc thuận ở lại
quay ra bảo Lan:
- Xong việc làm chay, chú
về Hà Nội...
Ngọc vội đỡ lời:
- Bạch cụ, cháu đã đem đủ
các sách rồi.
- Thế thì càng hay. À,
này cháu, bác nghe nói Tây người ta cũng dịch kinh Phật, có phải không?
- Bạch cụ, vâng. Nhất là
một quyển của người Đức, cháu nghe nói có giá trị lắm, nhưng cháu chưa đọc.
-
Cháu biết tiếng Đức à?
-
Bạch cụ không, nhưng sách ấy có bản dịch chữ Pháp.
-
Vậy thì cháu nên mua mà xem để biết qua đạo Phật.
Ngọc
nhìn Lan mỉn cười:
- Bạch
cụ, để rồi cháu nhờ chú Lan giảng cho cũng đủ.
-
Chú ấy đã biết gì. Nhưng cháu còn bận bao nhiêu thứ. Khi nào thi đỗ đã rồi hãy
khảo cứu về đạo Phật cũng được. Cháu chỉ nên biết rằng đạo Phật huyền bí lắm,
chứ những điều trông thấy ở trước mắt không phải là điều cốt yếu của đạo Phật
đâu. Cho chí những việc lễ bái, đàn chay cũng là phải có để khuyên đàn bà và
những kẻ vô học làm điều thiện đó thôi.
Sư
cụ đứng nhìn quanh một lượt rồi hỏi chú Lan:
-
Chú Mộc đâu?
-
Bạch cụ, chú Mộc vừa xuống nhà Tổ.
-
Chú ấy chưa đi mời các sư ông chùa Long Vân, Hàm Long đến dự lễ à?
-
Bạch cụ, chưa.
-
Thôi chú ở lại sửa soạn, quét tước để ta bảo chú Mộc đi ngay kẻo muộn.
Sư
cụ vội vàng đi ra.
Ngọc
đứng ngắm chú Lan làm việc, cố tìm cách gợi câu chuyện bí mật. Chàng đến gần
nói:
-
Tôi xin về, cụ chưa cho về, chán quá!
Lan
không quay lại, trả lời:
-
Ông quen ở nơi đô hội náo nhiệt, lên đây thấy cảnh chùa chiền tịch mịch chắc
buồn lắm.
-
Không phải thế. Tôi chỉ sợ tôi ở đây lâu làm phiền chú, mà lại phiền cả cho tôi.
-
Sao lại phiền đến tôi được, thưa ông? Còn như ở đây có ai làm phiền ông thì ông
cứ lên bạch cụ.
Nghe
câu trả lời gióng giẳng. Ngọc mủm mỉm cười, rồi bạo dạn nhìn thẳng vào mắt chú
Lan và nói:
- Có
gì phiền đâu, chỉ vì trước kia tôi yêu một người hình dung, diện mạo như hệt
chú...
Chú
Lan điềm nhiên nói tiếp:
-
Nên nay ông gặp tôi lại nhớ tới, A di đà Phật, người tình nhân của ông, phải
không?
-
Chính thế! Tình nhân của tôi tên là Thi.
Lan
khẽ hỏi:
-
Tên là Thi?
Chú
mặt ngẫm nghĩ, rồi ngẩng phắt lên mạnh bạo nhắc lại:
-
Tên là Thi, thưa ông?
-
Phải, tên là Thi, Chú là lạ chăng?
-
Cũng hơi lạ.
Lan
chỉ mỉm cười không trả lời. Ngọc càng ngờ lắm giả vờ kể lể chuyện riêng:
-
Tôi yêu cô Thi, sắp sửa hỏi làm vợ thì bỗng cô ấy đi đâu mất. Dáng chừng chú
cũng quen biết cô ta nên cho là một sự lạ chứ gì? Có người bảo tôi rằng cô ấy
đi tu, nên tôi cứ lần mò các chùa chiền để đi tìm...
Lan
nghe tới đó cười khanh khách nói tiếp theo:
-
Vậy ra ông tới chùa Long Giáng chỉ có một mục đích ấy? Nhưng cô Thi tôi quen
biết chắc không phải là cô Thi của ông đâu, xin ông đừng vội mừng. Đáng lẽ ở
trước cửa từ bi chẳng nên nói tới câu chuyện nhăng nhít, nhưng xin Ngài cũng
thấu nỗi khổ tâm của kẻ tu hành này mà tha thứ cho. Ông nghe câu chuyện của tôi
sắp kể đây xin giữ bí mật cho, nhé!
-
Được, tôi xin giữ bí mật.
- Có
gì đâu! Gần đây, một người thiếu nữ hơi có chút nhan sắc, hễ gặp tôi là thả lời
chòng ghẹo, tôi van thế nào cũng không được. Tên cô ấy là Thi. Vì thế thường
thường đêm khuya tôi vẫn lên Chùa cầu nguyện đức Thích ca phù hộ và giáng phép
mầu nhiệm cho cô ta tỉnh ngộ mà buông tha cho kẻ tu hành này ra.
Ngọc
nghe câu chuyện, ngẫm nghĩ: "Có lẽ nào lại thế? Hay hắn biết ta đã khám
phá được sự bí mật của hắn nên hắn bịa ra câu chuyện ấy? " Đã toan hỏi căn
vặn, thì bỗng chú Lan nói một mình:
-
Chết chửa! Chưa bảo ông Hộ đi mượn bàn.
Rồi
chú hấp tấp chạy xuống nhà.
Lan
tưởng làm thế để đánh trống lảng, nhưng ngờ đâu càng khiến Ngọc đoán chắc chú
là gái. Vì Ngọc nhận ra rằng hễ khi nào câu chuyện đến chỗ nguy hiểm là Lan tìm
cớ nọ cớ kia để xa lánh. Ngọc mừng thầm nói một mình: "Có tài thánh cũng
không giấu nổi ta".
Vừa
nói rứt câu đã thấy Lan ở dưới chạy lên, nét mặt thản nhiên tươi cười. Ngọc ỡm
ờ hỏi:
-
Chắc tối hôm nay làm chay có chạy đàn, thì thế nào cô Thi cũng đến xem nhỉ?
Lan vô tình không hiểu:
- Cô Thi nào?
- Cô Thi của chú, chú đã
quên rồi.
- Nam vô A di đà
Phật! Ông chớ nói đùa, nhỡ đến tay cụ thì còn ra sao?
- Nhưng chuyện có thực
đâu mà chú sợ... Chú ạ, cô Thi của chú yêu chú, mà chú không thể yêu được, còn
cô Thi của tôi, thì tôi yêu mà cô lại không thể yêu được tôi, hay cô không muốn
yêu tôi.
Chú Lan nghiêm sắc mặt
trả lời:
- Nếu ông còn muốn tôi
nói chuyện với ông thì xin từ nay ông đừng đem những chuyện bậy bạ kể cho tôi
nghe nữa.
- Xin vâng. Chỉ vì tôi
coi chú là người bạn thân của tôi nên mới dám ngỏ tâm sự với chú. Nhưng chú
không muốn nghe thì thôi, can chi mà chú phải giận.
Lan, mặt đỏ bừng, trách
Ngọc:
- Xin ông biết cho rằng
vì tôi thấy ông là người có lễ độ, có học vấn nên thỉnh thỏang muốn đem đạo
Phật ra bàn cùng ông, cho rộng kiến thức. Nhưng nếu chỉ là câu chuyện bất
chính, phạm tới tám điều răn thì xin từ nay ông tha cho.
Ngọc cười gượng:
- Thôi, xin lỗi chú.
Chương 6:
Luôn hai tối các nhà sư ở những chùa lân cận tiếp được giấy mời của sư cụ Long Giáng về tề tựu đến dự lễ rất đông.
Ngoài sân chùa, ở giữa bày ba tầng án thư chồng lên nhau theo hình bậc thang. Hai bên cũng đều có án thư. Nến thắp linh tinh, ánh sáng phản chiếu vào những mặt kính tròn ở các mũ giấy bày la liệt, trong lấp lánh tựa những ngôi sao.
Đêm nào các nhà sư cũng cắt lượt nhau tụng kinh đến tận hai, ba giờ sáng, hoặc ngồi ở chiếu giữa, hoặc đứng sát các án thư bên. Cứ xong một lần tụng niệm lại có đánh trống lớn, trống con, thanh la, não bạt, nghe rất là inh ỏi.
Đêm thứ ba vào đàn giải kết.
Sư cụ chùa Long Giáng vì già yếu, mà việc đàn chay lại khó nhọc, nên một đồ đệ của cụ là sư ông chùa Long Vân đứng chủ trương. Sư ông ngồi ở chiếu giữa, tụng kinh một lúc lại chạy vòng quanh đàn vài vòng, nhanh hay chậm tùy theo nhịp trống. Sau lưng sư ông gần hai chục người chạy theo, nào tiểu, nào vãi, nào thiện nam, tín nữ cùng là những người nhà sự chủ.
Đứng ngắm một tràng người, tay chấp ngực chạy lượn quanh co, khi tiến, khi lui rất nhẹ nhàng, ăn nhịp, như lăn trên đôi bánh xe nhỏ, Ngọc tưởng tượng đến những người bằng giấy trong chiếc đèn kéo quân đêm hôm rằm tháng tám.
Chạy xong một tuần, sư ông lại vào chiếu giữa múa mênh quyết ấn trông rất dẻo tay, rồi cầm kéo cắt những đồng tiền kết giấy thành hình người và treo lủng lẳng ở ba hàng giây chăng quanh bàn. Mỗi lần cắt bốn, năm đồng kỳ cho hết là tan đàn.
Trong khi ấy thì những người tì tùng hoặc ngồi lễ ở sau lưng sư ông, hoặc đứng sang một bên, lẩn vào chỗ người đi xem.
Ngọc đứng chờ ở một xó, hễ thấy chạy xong một lần lại vẫy gọi chú Lan nhờ giảng nghĩa hộ. Đến lần thứ ba, thứ tư, Ngọc chỉ gật sẽ một cái, Lan đã vội chạy lại.
Ngọc cười, hỏi Lan:
- Này chú, sau lại có cả hai người kia cũng chạy đàn?
- Hai người nào?
- Một người gánh một gánh cỏ và một người buộc con ngựa giấy vào mình trông như cưỡi ngựa vậy, nhất nghe tiếng nhạc kêu càng thấy hệt lắm.
- Đấy là người giữ ngựa và người cắt cỏ cho ngựa ăn, đi theo hầu thầy Đường Tăng sang Tây Trúc thỉnh kinh. Đàn này tức là ôn những sự tích đi lấy kinh.
Bấy giờ có tiếng ai the thé trả lời ở sau lưng:
- Sự tích ấy tôi cũng biết, chép trong chuyện Tây Du chứ gì?
Ngọc quay lại thấy một cô xinh xắn, nước da bánh mật, con mắt ti hí, vận gọn gàng như phần nhiều các cô gái quê vùng Bắc. Chàng nói đùa một câu:
- Cô bảo cô biết sự tích thì cô thử kể lại cho tôi nghe xem nào?
Cô kia cho là Ngọc chế nhạo, cúi đầu không trả lời. Ngọc đoán ngay là cô con gái phải lòng chú, liền lại hỏi:
- Có phải cô Thi của chú đây không?
- Nam mô A di đà Phật!
Ngọc chưa kịp hỏi câu thứ ba, chú Lan đã vội vã trông đàn, vì lúc bấy giờ cắt kết xong, sư ông đã trở ra sân để chạy. Ngọc nhìn theo thấy người con gái ban nảy cũng chạy, liền ngay đằng sau chú Lan, nét mặt hớn hở, khiến chàng không thể nhịn cười được.
Đàn vừa tạm nghỉ, Ngọc lại ngay chỗ hai người, mỉm cười và khen ngợi:
- Chú chạy đẹp quá, nhất có cô... Cô gì, à cô Thi, chạy theo sau càng đẹp lắm.
Người con gái nghe gọi đến tên Thi thì ngơ ngác nhìn Ngọc rồi lại nhìn chú Lan. Ngọc thấy thế nhớ ngay đến câu chuyện khấn khứa đêm hôm nào. Chàng nghĩ thầm: "Thôi đích rồi, hắn bịa ra câu chuyện để chống chế chứ gì." Tuy biết vậy chàng vẫn vờ như không lưu ý đến vẻ mặt ngạc nhiên của cô gái quê. Không những thế, chàng còn cố làm lạc hẳn câu chuyện đi và vẫn vơ hỏi cô kia:
- Cô biết chuyện Tây Du à?
- Vâng, tôi biết! Em tôi vẫn mượn sách của con ông Bá về nhà đọc, tôi được nghe... Truyện vui lắm kia... nhỉ, chú Lan nhỉ?
Lan nghiêm nghị trả lời:
- Tôi không biết mà tôi xin cô đừng nói chuyện với tôi nữa, tôi nghe chuyện cô đâu.
Cô ả cười, ngả nghiêng cái đầu và cất giọng nủng nịu:
- Không nghe tôi cũng cứ nói.
Chú tiểu càng giận:
- Mà tôi bảo cho cô hay, cô không được phép vào trong đàn. Chỉ các sư, các tiểu, các vãi, cùng người nhà sự chủ là được phép chạy đàn mà thôi.
Cô kia vẫn nhoẻn cặp môi đỏ thắm quết trầu:
- Tôi cứ chạy...Tôi sắp xin làm vãi kia.
Ngọc thấy cô ả đỏng đảnh quá cũng phải gượng và đâm cáu:
- Rõ khéo cô này, người ta đã xuất gia tu hành lại còn cứ trêu chọc người ta mãi.
Cô gái quê xấu hổ đứmg im. Lan mỉm cười nhìn Ngọc như để cảm ơn, rồi nói luôn:
- Phải không, ông? Người ta đã xuất gia tu hành thì không nên trêu ghẹo người ta nữa chứ?
- Phải lắm.
Ngọc trả lới ngớ ngẩn như vậy vì trí chàng đương bận tới câu hỏi của Lan. Chàng cho câu hỏi rất đáng ngờ và có một ý nghĩa trực tiếp đối với mình, chứ không liên can gì đến cô kia. Tuy đoán chắc thế, chàng vẫn tảng lờ như không biết gì hết, vì chàng đã nghĩ ra được một kế rất diệu sắp đem thi hành.
Đến đàn thứ năm, chú Lan mỉm cười gật chào Ngọc ở lại để vào chạy đàn. Nhưng Ngọc giữ vẻ mặt lãnh đạm, rồi quay sang phía cô gái quê, ghé mồm vào tận tai, thì thầm:
- Cô ở lại, đừng vào trong đàn nữa, tôi nói cho cô nghe một câu chuyện hay.
Cô ả đỏ bừng mặt không trả lời, nhìn theo Lan. Còn chú tiểu thì có dáng tức giận lắm.
Trong khi chạy đàn, hễ chú Lan đến gần chỗ hai người đứng thì Ngọc lại làm bộ ghé gần vào cô láng giềng chuyện trò thân mật. Ngọc hỏi:
- Tên cô là Thi, phải không?
- Không, tên em có là Thi đâu? Em là Vân kia mà. Ban nãy em thấy ông gọi em là Thi, em buồn cười quá....
- À, ra là cô Vân. Nhưng cô chớ nói với chú Lan rằng tôi biết tên cô là Vân nhé, chú ấy ghen đấy. Vậy, này cô Vân, sao chú Lan tu hành mà cô cứ trêu ghẹo chú ấy thế?
Vân giả vờ không nghe rõ, nhìn đi nơi khác.
Ngọc nói lại:
- Quyến rũ người tu hành, tội chết!
Câu chuyện đến đấy thì chú Lan ở trong đàn đi ra, mặt hầm hầm, đứng gần lại chỗ hai người. Ngọc làm bộ như không trông thấy chú, vẫn cứ nghiễm nhiên thì thầm với Vân.
Lan cười gằn:
- Này cô...kia, khuya rồi đi về chứ, chẳng mai bà cô chửi chết.
Ngọc không để Vân kịp trả lời, nói đỡ ngay:
- Thì việc gì đến chú đấy, để mặc cô ấy xem chứ.
Nhưng Vân nói sẽ với Ngọc:
- Thôi để em về, không chú Lan giận.
Ngọc cũng hỏi sẽ:
- Cô sợ chú Lan giận à?
Rồi chàng nói to cốt để Lan nghe tiếng:
- Chốc nữa, có sợ tối thì tôi đưa về tận nhà.
Lan nguẩy một cái quay đi nơi khác. Vân tưởng chú giận mình đứng nói chuyện với trai, liền từ biệt ra về.
Nàng vừa đi khỏi, Ngọc đã thấy Lan lại gần, ôn tồn bảo bạn:
- Tính ông trai lơ lắm.
- Việc gì đến chú đấy.
- Nhỡ cụ biết, cụ quở chết.
- Ai dám mách mà cụ biết? Vả cụ biết cũng chẳng sao. Cụ đi tu chứ tôi có đi tu đâu. Nhưng chú thì chú vô ơn lắm.
- Thế nào là vô ơn?
- Cô Thi phải lòng chú, tôi có ý giúp việc tu hành của chú thành chánh quả, nên vì chú tôi muốn quyến rủ cô ta để cô ta buông tha chú ra...
Lan đỏ mặt:
- Đứng trước người tu hành mà ông ăn nói tự do quá.
Ngọc lạnh lùng đáp:
- Xin chú đại xá cho.
Nói xong quay lưng đi thẳng. Lan gọi với:
- Ông đi đâu đấy?
Ngọc ngoái cổ lại, cười gằn:
- Tôi đi đâu thì can gì đến chú?
- Lại đi...
Lan như tắc họng không nói được, hai giọt nước mắt long lanh dưới cặp mi đen quầng.
Nguồn vnthuquan.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét