Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

17 thg 12, 2013

Hồn Bướm Mơ Tiên - Nhất Linh , Khái Hưng - Chương 7,8,9,10,11 - Hết

Chương 7:

Sáng hôm sau cảnh chùa Long Giáng trở lại yên lặng như mọi ngày thường, vì việc đàn chay đã kết liễu.
Mãi hơn bảy giờ, Ngọc mới thức giấc, mắt nhắm mắt mở nhìn qua cửa sổ ra ngoài, thấy ngổn ngang các án thư bỏ lổng chổng ở giữa sân. Gần tường hoa, một đống tro tàn cao ngất, đó là đồ mã đốt tối hôm qua.
Sau mấy buổi huyên náo, sự tĩnh mịch của nơi tam thanh càng thấy rõ rệt hơn trước.

Ngắm cảnh tẻ ngắt, Ngọc có cảm tưởng buồn rầu, như sau mấy ngày tết Nguyên Đán. Chùa Long Giáng ủ rũ chẳng khác một cô con gái thôn quê trong ba hôm tết thắng bộ cánh đẹp, rồi hết tết lại cởi ra mà mặc bộ quần áo nâu sồng.
Ngọc ngồi nghĩ vơ nghĩ vẫn, hồi nhớ đến câu chuyện tối hôm qua. Sau khi rời chỗ đàn chay, chàng ra đường, đi lang thang mãi đến một hai giờ sáng mới trở về chùa. Đi đâu? Chàng cũng chẳng biết đi đâu, và cũng chẳng định đi đâu, chí cốt vắng chùa trong một thời gian khá lâu để chú Lan ngờ vực mà thôi. Vì nay chàng đã yên trí, chàng đã chắc chắn rằng chú là gái cải nam trang.
Ôn lại các việc xảy ra, những sự mắt thấy tai nghe, từ dáng điệu, nước da, lời nói, cho tới những ý tứ giữ gìn, khép nép, Ngọc không còn thể nào cho rằng chú tiểu xinh xắn kia là trai được nữa. Chàng mừng thầm sung sướng, và hi vọng.
Cánh cửa khẽ đẩy, chú Lan rón rén bước vào phòng, nét mặt nghiêm trang. Chú đặt một bao chè tàu xuống bàn, nói:
- Cụ truyền biếu ống bao chè để ông xơi nước. Chè này của bà Hàn cúng cụ hôm qua.
- Chú bạch cụ hộ tôi rằng tôi xin đa tạ cụ nhé. Ý hẳn cụ cũng biết tôi có cái ấm cồn.
- Ông để chúng tôi hầu cũng được, can chi lại phải đun nước lấy.
Ngọc mỉm cười nhìn Lan:
- Ấy vì tôi sợ làm phiền chú, nên tôi viết giấy về nhà xin gửi lên cho đủ thứ.
- À, ra bữa nọ anh người nhà mang lên ở trong bồ đấy?
- Chính phải.
- Tôi thấy có cả quyển Kiều và quyển Phật Giáo Đại Quan nữa.
Ngọc mừng rỡ vội hỏi:
- Chú biết quốc ngữ?
Lan điềm nhiên:
- Vâng. Chữ quốc ngữ học dễ, học chỉ độ mươi hôm là đọc được. Làm gì mà không biết.
- Ồ, thế thì hay quá nhỉ?
Ngọc nghĩ đến việc đương dự định, buột miệng nói ra câu ấy, nhưng Lan lại hiểu theo một cách khác, nên trả lời:
- Đời bây giờ, ai không biết quốc ngữ? Lạ! Sao ông cứ nhìn tôi, ông cười vậy?
- Chú ạ, tôi đương nghĩ đến chú thì thấy chú vào. Tôi cho rằng tư tưởng chúng ta có liên lạc với nhau nên chúng ta mới có thể viễn cảm tới nhau như vậy. Vì thế nên tôi cười, chú đừng vội giận.
- Ông nói những gì, tôi không hiểu.
Lan đứng đưa mắt nhìn quanh phòng, rồi mỉm cười khen:
- Cái buồng này ông mới bài trí lại trông đẹp nhỉ.
- Phải, tôi trang hoàng thế để khi chú có bước chân vào trông đỡ bề bộn, chướng mắt.
Lan, hai má đỏ bừng, cúi mặt trả lời.
- Ông cứ dạy quá lời, tôi chỉ đáng là đầy tớ ông.
Ngọc nói đùa: "A di đà phật!". Rồi cười khanh khách, khiến Lan xấu hổ cắm đầu chạy thẳng.
Rửa mặt xong, Ngọc đem ấm cồn ra đun nước. Ngắm lại phòng một lượt, và nhớ tới câu khen ngợi của Lan, Ngọc lại mỉm mỉm ngồi cười.
- Thực ra cái phòng của ta giống như phòng riêng của một sinh viên trường Đại học.
Mà thực vậy, cái giường mắc màn ren, cái bàn thờ dùng làm án sách, cái án thư trên phủ lá cờ dạ xanh dùng làm bàn viết trông đều sáng sủa, sạch sẽ. Khác hẳn hôm mới tới, trong phòng trơ trọi cái giường buông chiếc màn nâu. Các tranh ảnh cùng những bức thủy họa của chàng treo ở tường càng tôn vẻ nhã nhặn, âu yếm của gian nhà trai con con.
Ngọc tự hỏi: Trang hoàng như thế để làm gì?
Chàng tự hỏi rồi nhách một nụ cười: Thôi, ta yêu mất rồi!
Mà chính thế. Phải tay thần Ái tình mới có cho bày trí một cảnh u ám, buồn rầu nên cảnh dịu dàng ngộ nghĩnh thật, lên ở chùa mới biết yêu, mới biết yêu là có thú vị... Song chẳng lẽ ta cứ yêu cuồng, yêu bóng mãi? Thế thì cũng uổng, thà chả yêu cho xong.
Liên tưởng của ý nghĩa tự nhiên nhắc Ngọc ôn lại một câu Kiều, chàng buột miệng ngâm nga:
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau.
Ừ phải, người ta tu hành. Tội nghiệp!
Muốn cố giữ cho khỏi nghĩ vơ vẫn, Ngọc lấy quyển sách bàn về đạo Phật của David mà chàng vừa mua tuần lễ trước ra coi. Nhưng mới đọc được vài trang đã chán ngắt, chàng lại gấp sách lại. Bỗng chàng giật mình, mấy giọt nước nóng bắn vào tay. Thì ra ấm nước đặt trên bếp cồn sôi từ bao giờ mà chàng vẫn không biết. Đến cả tiếng nước reo, chàng cũng không nghe thấy.
Ngọc xoa tay mỉm cười, lấy ấm ra pha chè. Uống mấy chén liên tâm, chàng thấy tinh thần tỉnh táo, tâm trí hớn hở và ngắm cuộc đời, chàng có rất nhiều tư tưởng lạc quan. Rồi nghĩ chuyện nọ nhảy sang chuyện kia, lẩn mẩn chàng tự đặt mình vào địa vị Từ Thức sống trong cảnh động Phi Lai.
Bấy giờ nhìn qua cửa sổ, ngắm cảnh đồi thoai thoải sau chùa, chàng thấy hiện ra nhiều vẻ xinh đẹp, những vẻ xinh đẹp huyền bí. Chàng tưởng tượng dưới đám lá chè lấp lánh, rung động bởi ngọn gió dịu dàng mơn trớn, một cô tiên yểu điệu đương ngồi mơ màng thầm nhớ tới ai.
Chàng mỉm cười, mỉm cười với cảnh vật, mỉm cười với làn không khí bao bọc người yêu...
Cúi nhìn xuống cái vườn con bên cạnh cửa sổ, bỗng chàng chú ý, và mắt chàng đăm đăm không chớp: Trong hai khỏang tròn đất mới xới, bên cây đại cành khô khan, da mốc thếch, có hai cây ngọc lan nhỏ mềm mại, ai vừa trồng, mỗi cây ngọn nở một bông hoa trắng muốt.



Chàng chú ý đến là vì tâm trí đương bị cái tên Lan đẹp đẽ ám ảnh... Chàng ngây ngất người ngẫm nghĩ:
"Ngọc Lan! Có lẽ thế chăng? Âu yếm mà kín đáo lắm!
Chàng thấy lòng phấn khởi, mạnh bạo, và chàng chép miệng nói một mình: Chà, thì ta cứ thử liều một chuyến xem nào! Không vào hang hổ sao bắt được hổ con?
Câu nói có vẻ "tuồng" khiến chàng cũng phải phì cười. Mà vào hang hổ thì đã lấy gì làm nguy hiểm. Chỉ có việc đem giấy bút ra viết một bức thư.
Bức thư ấy, trước kia, đã ba bốn lần Ngọc viết rồi, nhưng mỗi lần viết xong, chàng lại xé nhỏ vứt đi, vì một là chàng sợ Lan không biết quốc ngữ, hai là chàng sợ bị cự tuyệt. Lần này thì chàng nhất định quả quyết. Liền mở hộp giấy viết thư màu tím lấy một tờ ngồi viết:
Chú Lan mới được hai chữ, Ngọc đã chau mày tắc lưỡi xóa đi.
- Không được. Chẳng chú nữa.
Chàng liền lấy tờ giấy khác viết lại:
Cô Thi Nam vô A di đà Phật! Tôi bắt đầu bức thư của tôi bằng một câu niệm Phật, để xin Phật độ trì cho kẻ khổ sở này, như Phật đã độ trì cho hết thảy các chúng sinh. Vì tôi chỉ là một người lạc lối trong rừng người, như một hạt cát bị vùi trong bãi cát sông Hằng Hà.
Nhưng cô cũng là một người, cũng chỉ là một người. Dù cô muốn xa lánh cõi tục, rứt bỏ trần duyên, song cái bản tính của con người dễ một lúc mà cô xóa bỏ nổi được. Cái bản tính ấy là Tình, là... A di đà Phật! Là Ái tình.
Ái tình là bản tính của loài người, mà là hạnh phúc của chúng ta. Tôi yêu cô, và nếu tôi đoán không lầm thì cô cũng chẳng ghét tôi, vậy can chi ta lại làm trái hạnh phúc của ta?
Đức Thích Ca Mâu ni xuất thế để đưa linh hồn chúng sinh tới cõi Nát bàn mà hưởng hạnh phúc bất vong bất diệt.
... Nhưng hạnh phúc của chúng ta chỉ ở ái tình. Đó là... A di đà Phật! đó là Nát bàn của chúng ta.
Mấy hôm nay tôi đọc quyển Phật giáo, tôi thấy tôi yêu đạo Phật. Tôi yêu đạo Phật thì tôi lại càng yêu cô, tôi yêu một cách chân thành, tôi yêu trong linh hồn, trong lý tưởng. Cô tha thứ cho tôi, tôi không thể cứ yêu mãi chú Lan, phải cho phép tôi yêu cái linh hồn thực của chú Lan mới được: cái linh hồn ấy, là cô Thi.
Cô xem thư mà xét thấu lòng này, thì tức là cô vâng ý Phật cứu vớt được một linh hồn đương bị đắm đuối ở cõi nhân gian.
Ngọc y phục chỉnh tề, rồi gấp thư cho vào phong bì, bỏ túi ra đi. Lên chùa trên, gặp chú Mộc, Ngọc đột nhiên hỏi:
- Chú Lan đâu?
Chú Mộc thấy Ngọc ngơ ngác, tưởng mới xảy ra sự gì:
- Chú Lan ở vườn sắn sau chùa. Có chuyện gì đấy ông?
Ngọc chỉ kịp trả lời một tiếng: "không", rồi lật đật đi thẳng, khiến chú Mộc ngạc nhiên đứng nhìn theo.
Ra tới vườn sắn, vì sắn lá cao mà lại trồng bên sườn đồi, chỗ hiện, chỗ khuất, nên đến năm phút sau, Ngọc lại nghe rõ tiếng sột sạt, mới tìm thấy nơi Lan đứng. Bên cạnh chú ngổn ngang một đống cây sắn nhổ lên còn để nguyên củ, cành và lá.
Ý chừng Lan làm việc nhiều mệt nhọc, đứng thở, một tay để vào ngực. Ngọc rón rén đến sau lưng, ỡm ờ chào:
- Kìa, cô Thi!
Lan thong thả quay mặt lại, điềm nhiên trả lời:
- Không, tôi đây mà. Cô Thi nào dám vào vườn sắn của nhà chùa?
Nói xong chú cười rũ rượi, chảy cả nước mắt, đỏ ửng cả hai má. Rồi lại nói tiếp:
- A di đà Phật! ông muốn gặp cô Thi thời ra nhà cô ấy chứ.
- Không, cô Thi khác, cô Thi của tôi kia.
Lan không để ý đến câu trả lời của Ngọc, nhìn trời, nói:
- Mặt giời đã lên cao, phải mang sắn về mới được, chẳng cụ quở.
Chú liền lấy dây lạt buộc qua quýt lại bó sắn. Còn Ngọc thì thò tay vào túi rút bức thư ra, lại ấn bức thư vào, như thế đến ba bốn lượt.
Lan vác bó sắn lên vai chào:
- Thôi ông ở lại, tôi về chùa.
Ngọc nói lúng túng: Được... này... tôi... à! Sao chú không bẻ lấy sắn đem về, còn cành lá thì bỏ đi có nhẹ việc không?
- Cành để giồng và đun chứ.
Lan vừa trả lời, vừa bước xuống đồi.
Ngọc đi theo như toan níu lại: Thì hãy ở lại, chờ tôi rồi cùng về một thể.
Lan sợ hãi, đặt vội bó sắn xuống đất:
- Vâng, thì ở lại. Nhưng ở lại làm gì mới được chứ?
- Ở lại ngắm cảnh.
- Giời nắng còn ngắm cảnh gì?
- Nắng thì ta ngồi xuống dưới bóng lá sắn. Này cô... Ngọc vừa nói vừa rút bức thư, này chú...
- Ông dạy?
- Hôm nay chắc mát giời...
- Vâng, chắc mát giời...
Hai người lại nhìn vớ vẫn. Ngọc toan đưa bức thư.
6
- Chú... ạ.
- Dạ.
- Sắn ăn ngon đấy chứ?
- Vâng ngon. Nhưng ông để tôi đội về chẳng cụ kêu.
- Chú để tôi mang đỡ.
Lan không trả lời, đội bó sắn chạy vùn vụt xuống đồi, để trơ Ngọc đứng lại một mình, bâng khuâng.
Ngọc chép miệng thở dài. Rồi quả quyết lấy bức thư ra xé làm tư, vứt xuống đất.
Về đến cổng chùa, Ngọc gặp chú Lan đi ra, có dáng vội vàng, hấp tấp. Chàng buồn rầu, chẳng thèm chào hỏi.
Lan chạy một mạch lên đồi sắn. Đến chỗ ban nãy, chú vui cười, nói:
- Đây rồi!
Thì ra chú bỏ quên con dao nhọn dùng để đào và chặt sắn. Bỗng chú đâm đâm cúi nhìn, nói một mình: "Không biết giấy gì của ông ấy thế này? "
Ngắm kỹ Lan nhận ra cái phong bì bì xé làm bốn mảnh. Trên một mảnh thấy có hai chữ:
Cô Thi thốt nhiên Lan buột ra câu hỏi: "Cô Thi nào? "
Lan ngồi cặm cụi chắp lại các mảnh thư ở trong phong bì.
Bên mình gió thổi xô xát lá sắn, tiếng kêu lạt sạt. Những mảnh giấy tím chỉ chực bay. Lan phải lấy những viên gạch chặn lên trên.
Một lát sau, khi đã đọc xong bức thư, Lan còn thơ thẩn trên đồi.
Gió càng thổi dữ, các tà áo Lan bay phấp phới mà tim Lan đập mạnh như cũng bị sức gió làm xao xuyến.
Lan buồn rầu nghĩ ngợi, hai má có ngấn hai hàng lệ.
Bỗng tiếng mõ tụng kinh ở chùa đưa tới. Một nụ cười kín đáo nở trên môi, Lan thong thả trở về.
Qua dãy phòng nhà trai, Lan liếc mắt thấy Ngọc ngồi ngưỡng cửa tay tì vào má có dáng tư lự. Thoáng thấy Lan, Ngọc khẽ gật chào, nhưng Lan yên lặng, rảo bước đi thẳng lên chùa trên.
Lan khẽ ẩy cửa rón rén đến gần bàn thờ nhìn trước nhìn sau, như người mới phạm một trọng tội mà có kẻ biết sắp đem tố giác.
Ngửi thấy mùi trầm ngào ngạt, nghe thấy tiếng tụng kinh dịu dàng, Lan tươi cười thở dài, như kẻ ngã xuống sông vừa ngoi lên được mặt nước.
Làn không khí êm đềm tịch mịch bao bọc những pho bụt khổng lồ, nét mặt thản nhiên. Trên bụt gỗ, sư cụ khoác áo cà sa ngồi ngay thẳng như một pho tượng, chỉ hơi mấp máy cặp môi, và động đậy cánh tay gõ mõ.
Lan đứng sững hồi lâu, mắt nhắm lim dim hai tay chắp ngực, rồi thong thả, nhẹ nhành như cái bóng, mon men lại sau lưng sư cụ, ngồi xệp xuống đất lâm râm khấn...

Chương 8:

Trưa hôm ấy sư cụ gọi chú Lan bảo:
- Thôi, chú đừng đi hái chè nữa, ta nhờ mang bánh vớt chè sang tạ sư ông bên chùa Long Vân.
Ngọc tiến lên nói:
- Bạch cụ, cho phép cháu cùng đi với chú Lan sang Long Vân. Cháu nghe nói chùa Long Vân có cái giếng thờ, nước uống mát lắm.
Sư cụ ngần ngại: đường nhiều dốc, sợ cháu đi mệt nhọc.
Ngọc cười:
- Bạch cụ, cháu học ở trường Canh nông, cày ruộng còn được nữa là trèo dốc, đã lấy gì làm khó nhọc.
- Cái đó tùy cháu.
Khi xuống nhà trai, Ngọc vui sướng chạy lại hỏi chú Lan:
- Chú có bằng lòng để tôi cùng đi không?
Lan cười gượng:
- Càng hay cho tôi, đi đường xa đỡ buồn chứ sao?
Rồi chú lẳng lặng xếp các thức vào trong chiếc tay nải nâu, thắt miệng lại. Ngọc đứng sát gần khiến Lan né người xích ra. Ngọc nhắc cái tay nải vắt lên vai một cách gọn gàng.
Lan cười nói:
- Ông vác nhẹn, nhỉ!
Ngọc nói đùa: đi làm phu gạo mãi lại chẳng vác nhẹn.
Lan cố giữ nét mặt lãnh đạm, cắn môi, chau mày, ngỏanh nhìn ra ngoài sân. Nhưng lần nào chỉ giữ nghiêm klhắc được một lúc, rồi thấy Ngọc vui vẻ nói bông đùa, chú lại quên bẵng đi mà cùng cười, cũng nói bông đùa với bạn:
- Ông phu gạo này, nghe chừng yếu ớt lắm. Hôm mới đến chùa xách có cái va li còn thở hồng hộc, leo lên dốc khó khăn nặng nhọc là thế, nữa là vai vác bao gạo.
- Chú nhớ lâu nhỉ? Ngọc, nét mặt tươi cười sung sướng, hồi tưởng lại hôm mới tới chùa. Chàng nghĩ thầm: "Hắn không có cảm tình với ta thì sao hắn nhớ kỹ càng cái buổi mới gặp nhau như thế? "
Chàng chợt nhớ đến hai cây ngọc lan, liền quay lại hỏi:
- Hai cây ngọc lan, ở bên cửa sổ buồng tôi, chú giồng đấy, phải không?
Lan luống cuống, không trả lời. Ngọc lại nói:
- Cảm ơn chú nhé! Tên cái cây ấy hay nhỉ, chú nhỉ? Mà có ý nghĩa lắm.
Lan đáp:
- Vâng, rất có ý nghĩa: sắc trắng như Ngọc, hương thơm như Lan.
Ngọc cười:
- Còn ý nghĩa khác nữa kia. Chắc chú cũng biết chuyện Nhị Độ Mai?
Lan quay nhìn ra sân đáp:
- Không.
- Chú ạ, đối với hai cây ngọc lan của chú, tôi sẽ là chàng Mai Sinh trong truyện Nhị Độ Mai, sáng chiều nào cũng xin chăm nom vun tưới, cho chóng nẩy nở hoa thơm.
Lan hai má hồng hồng, ngượng nghịu vắt tay nải lên vai giục bạn:
- Thưa ông, ta đi thôi.
Hai người lẳng lặng cùng đi, không ai nói năng chi nữa...
Ở một ngọn đồi xuống phía bên kia, phong cảnh khác hẳn, không còn thấy cánh đồng chân rạ, mà chỉ nhan nhản thấy nương khoai, cùng vườn mía. Hai người không bảo nhau mà cùng đứng lại ngắm cảnh, vì gặp chỗ có bóng mát.
Đi một quãng nữa, bỗng phải dừng lại ở trước một cái suối, dưới có vạch nước chảy róc rách trong veo, giữa lòng cát trắng. Bên bờ suối mấy gốc cây thông già gió chiều hiu hắt, lá thông khô lác đác rơi xuống suối rồi theo giòng nước trong trôi đi.
Lan bảo bạn:
- Thôi nguy rồi. Ta đi nhầm đường rồi.
Ngọc ngơ ngác hỏi:
- Bây giờ làm thế nào?
-Chỉ có một cách là đi vòng lại, chứ qua sao được cái suối này?
Ngọc vừa nói, vừa nhảy sang bờ bên kia, rất nhẹ nhàng. Lan cười:
- Ông nhảy giỏi quá!
Nói chưa dứt lời thì Ngọc lại đã nhảy sang bờ bên này. Ngọc bảo Lan:
- Chú đưa tay nải cho tôi.
- Đưa làm gì?
- Chú cứ đưa đây.
- Thì đây.
Ngọc đỡ tay nải nhảy ngoắt sang bên kia đặt xuống, đứng nhìn Lan, cười. Lan ngạc nhiên hỏi:
- Thế còn tôi?
Ngọc cố nhịn cười:
- Hay chú để tôi cõng.
Lan giẫy nẩy:
- Ấy chết, sao lại thế?
Ngọc nghiễm nhiên:
- Được mà, không hề gì mà.
Lan làm mặt điềm tĩnh:
- Thôi ông đợi đấy, nghỉ chân, để tôi đi vòng sang đồi kia.
Lan miệng nói, chân bước. Ngọc vội nhảy sang, giữ lại:
- Tôi nghĩ ra cách này rồi.
- Cách gì?
- Tôi sang bên kia đưa tay cho chú nắm, để kéo chú sang.
Lan ngẫm nghĩ một lát rồi tắc lưỡi:
- Thôi cũng liều, ngã chết thôi.
- Không hề gì đâu chú đừng sợ.
Ngọc nhảy sang bên kia, nghiêng mình trên dòng nước. Lan ngần ngừ một lúc mới nắm tay chàng. Ngọc nói:
- Chú giữ chặt... Nào, ...hấp!...
Lan nhắm mắt nhảy liều. Ngọc kéo mạnh quá khiến chú tiểu mất thăng bằng ôm lấy chàng, Lan bẽn lẽn vội cuối xuống cầm tay nải đặt lên vai đi liền. Ngọc cười mủm mỉm, như nói một mình:
- Tay chú xinh quá, nhỏ và mát như tay con gái.
Lan không trả lời, giơ tay trỏ về phía trái bảo Ngọc:
- Chùa Long Vân kia rồi.
Hai người đi quanh co, vòng hai đồi cỏ nữa và nửa giờ sau trèo tới chùa. Lan thuộc lối đưa Ngọc đi thẳng vào nhà trai, mời chàng ngồi ở trường kỷ, bày các phẩm vật lên bàn, rồi vội vàng xuống nhà tổ. Một lát, Lan theo sư ông đi lên. Sư ông đã gặp Ngọc ở Long Giáng hôm đàn chay nên vui mừng chào hỏi:
- Nam mô A di đà Phật! Quý hóa quá. Xa xôi thế mà quan tham cũng chịu khó sang thăm.
Nói chuyện một lát, sư ông quay lại hỏi Lan:
- Chú xuống nhà xem cơm nước chú Quì chú ấy làm có ăn được không.
Ngọc đỡ lời:
- Thôi, sư cho chúng tôi về kẻo tối.
- Không được. Chả mấy khi quan đến văn cảnh bản am, thế nào cũng phải mời quan xơi bữa cơm chay. Lúc khác thì thực không dám giữ quan ở lại vì cơm nhà chùa muối dưa thanh đạm chả có gì. Nhưng hôm nay vừa có bà Cửu biếu mâm cổ chay, nên mới dám mời quan...
Ngọc nhìn Lan, hỏi:
- Sư ông cho ăn cơm, chú nghĩ sao?
Lan ngượng nghịu mãi mới ấp úng trả lời:
- Thưa quan, sư ông tôi đã có lòng quý mến giữ quan xơi cơm thì quan nên nhận lời, giời hãy còn sớm.
Ngọc thấy Lan gọi mình là quan thì không nhịn cười được, khiến sư ông ngơ ngác nhìn không hiểu. Rồi sư ông cũng cười, cho rằng cánh tây học họ vẫn trẻ con như thế.
Một lúc lâu chú Quì bưng lên một mâm gỗ vuông sơn son, trong có hai cái bát nấu có giò, nem chay, trông rất long trọng.
Ngọc và sư ông ngồi xuống ghế ngựa sắp sửa cầm đũa thì bỗng trời tối sập lại, gió thổi dữ dội, mây đen kéo đến rất mau, cát sỏi bay tứ tung, ầm ầm như phá phách. Sư ông vội vàng đứng dậy cùng hai chú tiểu đóng hết các cửa lại, rồi thắp đèn lên: Nhà trai như đương ở vào trong cảnh ban đêm vậy.
Bên ngoài gió thổi càng mạnh, rồi mưa đổ xuống như trút nước, sấm sét vang động tựa hồ trời long đất lở, làm át hẳn câu chuyện của Ngọc, và sư ông. Chú Lan đứng hầu cơm, ngắm hai người chuyện trò, tưởng tượng họ nói thầm với nhau.
Cơm nước xong, thì trời đã nhá nhem tối. Mưa vẫn không ngớt. Lúc bấy giờ sư ông ở nhà tổ đi vòng hiên, đem lên một cây đèn dầu hỏa, và nói với Ngọc:
- Chả mấy khi quan tham đến chơi trời lại đổ mưa xuống để giữ hộ, thực là may mắn cho bần tăng quá. Thôi, xin mời quan đi nghỉ để mai dậy sớm về Long Giáng cho mát.
Rồi quay lại bảo Lan:
- Chú Lan làm ơn sang phòng khách bên cạnh giải chiếu, buông màn để quan tham đi nghỉ.
Lan vâng lời vào buồng sửa soạn, trong khi Ngọc thở dài, đứng nhìn trời.
Mãi khuya mưa mới tạnh.
Cả chùa đã yên giấc, mà Ngọc và Lan vẫn ngồi thơ thẩn ở hiên trai, buồn rầu nghĩ ngợi.
Da trời như giội lượt nước, trong vắt một màu. Trăng thượng tuần tươi sáng trên đỉnh đồi. Những vũng nước đọng ở sân phản chiếu ánh trăng lấp lánh như những mảnh gương lớn vỡ vứt rải rác.
Thốt nhiên, Ngọc hỏi Lan: Chú có buồn không?
- Thưa ông, không.
- Còn tôi thì tôi buồn lắm, buồn vơ buồn vẫn như nhớ ai. Cũng nhớ vơ nhớ vẫn. Có lẽ vì tôi xa cách chùa của chúng ta chăng?
Dưới ánh trăng, hai người ngồi cạnh nhau... Lan rùng mình. Ngọc lại nói:
- Chú ạ, cái cảnh xa lạ gợi trong tâm trí tới những tư tưởng từ biệt, chia rẽ... khiến tôi nghĩ tới ngày tôi rời chân, phải xa chú.
Lan im lặng, hé cặp môi cười với bóng trăng trong. Một con cóc nhảy vào vũng nước, Lan giật mình đứng dậy bảo Ngọc:
- Thôi, mời ông đi nghỉ.
Ngọc cũng đứng dậy. Nhìn quanh mình cũng không thấy ai, từ nhà trai đến nhà tổ im phắc. Chàng liền như điên cuồng, nắm lấy tay Lan: Ừ, phải đấy. Chúng ta đi ngủ, mai dậy sớm chắc hết buồn.
Lan tuy sợ hãi, nhưng cố làm ra bình tĩnh, thong thả nói:
- Vâng mời ông vào buồng, an nghỉ. Tôi xin ngủ ở ngoài nhà trai này.
- Vẽ! đi có hai người, ở nơi xa lạ, nằm cả một giường nói chuyện cho vui, ngủ ở ngoài muỗi nó tha đi.
- Thưa ông, không tiện, sư ông biết, ngài quở chết.
Lúc ấy hai người tới chỗ có ánh trăng. Liếc nhìn nét mặt Ngọc thấy dữ tợn, Lan kinh hỏang giật tay toan chạy. Chẳng may Ngọc nắm chặt quá, vì thế người lôi đi kẻ lôi lại, áo dài, áo ngắn của Lan đều tuột cúc, trễ vạt ra. Ngọc bỗng kêu rú lên một tiếng, buông tay Lan ra. Chàng thoáng trông thấy ngực Lan quấn vải nâu.
Lan đứng lại thở, cười gượng:
- Gớm quan trẻ con quá. Làm gì mà lôi kéo kẻ tu hành này thế?
Ngọc hối hận cố trấn tĩnh. Chàng vờ như không biết gì, trả lời:
- Chú cũng trẻ con quá. Cứ gọi mãi người ta là quan. Nhưng thôi, đừng đùa nữa, ta đi ngủ chẳng khuya quá rồi.
- Vâng, xin mời ông đi ngủ trước, tôi xuống dưới nhà dặn chú Quì điều này đã.
Miệng nói, chân đi, Lan vùn vụt qua sân.
Ngọc ngồi chờ Lan, băn khoăn mong ngóng. Vào khỏang mười lăm phút sau, vẫn không thấy Lan trở lại, Ngọc liền cũng xuống sân theo lối Lan đi ban nãy, lang thang tới một cái cổng chống. Nghĩ ngợi thế nào, chàng cúi xuống nhìn, thì cái chốt có dây buột rời ra ngoài mà cả cây tre dùng để chống cũng không đặt vào cọc. Ngắm kỹ cánh cổng rào khô thì quả ai vừa lách để ra ngoài.
Ngọc không còn ngờ gì nữa: Lan sợ hãi vừa đi trốn. Lúc bấy giờ chàng hối hận vô cùng, nói một mình: "Đó, cố tìm cho biết hắn là gái, phỏng có ích lợi gì? Để vậy còn thú, chứ thế này thì không biết chừng.... Không biết sao lúc ấy mình lại hung tợn đến thế? Thôi mỗi cái ta theo giữ hắn ở lại, thề với hắn rằng giữ bí mật cho hắn rồi mai về Hà Nội, cố quên câu chuyện, câu chuyện cảm động...đau đớn."
Bóng trăng đã xế về tây, chiếu ánh lờ mờ.
Các cây cỏ hãy còn đầm đìa nước mưa ban chiều. Những đồi xa, trông như đàn rùa khổng lồ nằm vọng nguyệt. Nhưng Ngọc chẳng nghĩ gì tới phong cảnh, cứ cắm cổ bước mau như một tên ăn trộm sợ có người đuổi chạy trốn.
Đi một quãng dài, Ngọc nhìn đằng trước mặt ngay trên đỉnh một trái đồi, thấp thoáng có bóng người in lên nền trời. Chàng chắc chắn lắm rồi, cắm đầu chạy một mạch tới nơi. Quả cái bóng ấy là Lan. Nghe có tiếng người chạy thình thịch sau lưng. Lan ngoái cổ lại. Gặp Ngọc chú kêu rú lên một tiếng, rồi ngất nguời ngã gục xuống gốc cây thông bên đường. Ngọc vội quì xuống nâng dậy và ngọt ngào nói:
- Lan không sợ, tôi xin viện lòng từ bi của đức Quan Âm, tôi thề với Lan rằng tôi không phải là hạng gió trăng bậy bạ. Lan tỉnh dậy, tôi nói câu chuyện, rồi mai tôi xin từ biệt Lan, tôi về Hà Nội.
Lan mở bừng mắt nhìn, rơm rớm hai giọt lệ lấp lánh dưới ánh trăng. Ngọc lại nói đùa:
- Thôi, xin ni cô tha cho.
Lan lúc ấy đã tỉnh hẳn, ngồi dậy lau nước mắt nói:
- Vâng, tôi là gái. Tôi biết thế nào chẳng giấu nổi ông. Nhưng còn câu chuyện vì sao tôi phải cải trang, thì tôi chưa thể thổ lộ cùng ông được. Chỉ xin ông buông tha kẻ tu hành này, kẻ tu hành khốn khổ này ra mà thôi.
Ngọc thở dài:
- Thưa ni cô, ni cô không ngại. Tôi xin thú thật với ni cô rằng tôi yêu ni cô, tôi yêu ngay từ lúc còn tưởng ni cô là trai. Ni cô là một người thông minh đĩnh ngộ, xinh đẹp như thế thì ai lại không yêu được... Mà lạy Phật tha tội cho, có lẽ ni cô cũng đôi lần cảm động.
Ngọc vừa nói vừa nhìn Lan. Lan nức nở:
- Tôi chỉ còn... có một cái chết. Nếu tôi có thể thổ lộ can trường cho ông biết vì sao tôi phải cải trang, vì sao tôi phải quy y đầu Phật... Nhưng sự bí mật ấy, tôi nhất định sống để dạ, chết mang theo.
- Ni cô chả nên nghĩ ngợi, ni cô nên coi tôi như một người bạn thành thực có thể vì ni cô hy sinh hết mọi sự, cho đến cả hạnh phúc của tôi, cho đến cả ái tình của tôi, ái tình có lẽ tuyệt vọng của tôi.
- Vâng, nếu ông có lòng quân tử như thế thì còn gì sung sướng cho tôi hơn nữa. Phải biết hy sinh thì đời ta mới có ý nghĩa cao thượng.
- Thưa, ni cô...
- Thưa ông, xin ông cứ gọi tôi là chú như trước, vì tôi đã thưa cùng ông nhiều lần rằng người xuất gia đầu Phật chỉ là một kẻ tu hành, dù là gái hay trai cũng vậy. Vả nếu ông cứ gọi đùa tôi là ni cô như thế, sợ khi trở về Long Giáng ông quen mồm đi... Ông đã hứarằng đối với kẻ tu hành này, ông chỉ là một người bạn từ bi, thì xin ông giữ lời cho, đừng để xảy ra sự không may cho....
Ngọc nói luôn:
- Cho đôi ta.
Lan trau mày, trách:
- Ấy đấy, ông lại cợt nhả rồi, thưa ông bạn từ bi.
- Thưa ni cô, thưa chú... Xin chú tha thứ cho, tôi sung sướng quá, nên tôi lỡ lời. Hạnh phúc của tôi....Nếu mục đích đời người là tìm hạnh phúc thì tôi đã tới mục đích rồi.
- Nhưng đã tới rồi thì nên dừng lại, chờ bước thêm một bước nữa.
- Mà nếu đức Thích Ca xuất thế để tìm hạnh phúc cho nhân loại và đưa linh hồn chúng sinh tới cõi Nát bàn, thì tôi cũng xin dừng chân ở gốc cây thông này, chứ chẳng muốn đi đến Nát bàn làm gì.
Lan đứng phắt dậy, nghiêm trang đáp lại:
- Người quân tử phải giữ lời hứa, nhất khi lời hứa ấy lại là một lời thề.
Ngọc cũng đứng dậy. Hai người nhìn nhau. Bóng trăng khuyết rọi đầu cành, lá không thưa nhặt, cỏ xơ xác mặt đồi lấp lánh giọt sương. Hai người nhìn nhau....
Dưới chân đồi làng mạc ngủ yên. Cây cối lờ mờ đen, giòng sông con thấp thoáng dưới bóng trăng như một vải lụa trắng, rồi ra xa lẩn trong sương mù. Bỗng có tiếng gà gáy nửa đêm dưới xóm. Lan giật mình lẩm bẩm:
- Giá gặp nhau hai năm trước...
- Vậy bây giờ muộn quá rồi hay sao?
- Muộn quá rồi. Vì tôi thề trước Phật tổ thì đến chết tôi cũng phải giữ lới thề. Đời còn chả tiếc, tiếc gì một sự cỏn con... nhỏ nhen.
- Nhỏ nhen, nếu đem lòng ví với lòng bác ái. Vì lòng bác ái mà Phật tổ xa vợ, xa con, xa cha, xa mẹ, lang thang khắp bốn phương giời đã tìm phương giải thoát cho chúng sinh. Vậy xin ông cũng vì bác ái mà xóa bỏ trong lòng những tên chú Lan, cô Thi, như thế, ông sẽ cứu sống một nhân mạng, cứu vớt được một linh hồn. Trên đời chỉ có lòng bác ái là đáng kể.
Ngọc ngẫm nghĩ rồi quả quyết nói:
- Vâng, tôi xin thuận theo những lời vàng ngọc của chú. Vậy bây giờ muốn tránh khỏi sự ngờ vực thì ta trở lại Long Vân. Tôi xin cam đoan rằng ngoài tôi ra không ai biết rõ được sự bí mật của chú.
Hai người yên lặng cùng trở lại chùa. Đêm khuya trăng lặn, gió réo cành thông, vạn vật chìm đắm trong cõi hư vô tịch mịch.
Tiếng côn trùng rì rì dưới cỏ liên miên không dứt càng làm rõ rệt sự yên lặng của một cảnh đồi hoang vắng.
Ngọc bỗng giật mình quay lại. Chàng vừa nghe thấy một tiếng thở dài, mà trong lúc mơ màng, chàng tưởng tượng ra một làn hơi nhẹ ở sườn đồi sương ướt bốc lên. Nhưng sau lưng chàng Lan vẫn dịu dàng đều đều đặt bước, như bộ máy êm lặng nhẹ nhàng.
Về tới chùa, Ngọc rón rén vào buồng, còn Lan thì ngồi tựa án phòng trai, băn khoăn suốt đêm không ngủ.

Chương 9:

Trên sườn đồi, nhìn về phía tây, nương chè nằm phơi dưới nắng gay gắt mùa hè. Sau trận mưa hôm qua, các lá sạch hết bụi, như có người lấy khăn lau đi một lượt, lóng lánh phản chiếu ánh thái dương, bóng loáng tựa trăm nghìn chiếc gương bầu dục.



Dựa lưng vào gốc một cây chè cỗi, cành lá rườm rà, bên cạnh cái rổ không, Lan ngồi ngẫm nghĩ đến những sự xảy ra từ tối hôm trước, vẻ lo buồn in trên nét mặt rầu rầu. Lan đâm đâm nhìn trời, lâm râm khấn Phật tổ, xin ngài xuống cứu vớt tấm linh hồn sắp đắm đuối. Bỗng có tiếng động bên mình. Lan giật mình quay lại: Con vành khuyên đương lách tách nhảy trên cành lá rậm. Lan ngắm nghía con chim nhỏ, xinh xắn mượt lông, rồi giơ bàn tay ra vẩy. Con chim sợ hãi bay vụt, tiếng khẽ sột soạt trong lá. Lan thở dài, nói một mình:
- Trốn, thế nào cũng phải trốn.
Sáng hôm ấy ở chùa Long Vân về, hai người cùng nhau chỉ trao đổi một vài câu vơ vẫn. Lan chưa hiểu ý bạn định xử trí ra sao, chẳng biết bạn có về Hà Nội ngay như đã hứa lời không? Ngọc có lòng quân tử, nhưng đứng trước Ái tình, bạn có giữ mãi lòng quân tử ấy không? Hay là bí mật kia sẽ bị khám phá? Cái đó cũng chưa biết chừng. Lòng người, ... Ai hiểu được lòng người!
Lan đưa mắt ngắm phong cảnh quanh mình. Lòng hoài nghi man mác đến cả cỏ, cây, mây, nước. Cúi nhìn giòng bạc lấp lánh dưới chân đồi quanh co uốn khúc, rì rì lướt giữa dọc cát vàng: Trong cảnh êm đềm ấy, biết đâu không ẩn núp những loài rắn độc hại người. Cho chí đám mây dịu dàng theo chiều gió thổi, làn khói lờ đờ bay lẩn lá xanh, biết đâu không trở nên sức mạnh phá phách của con Tạo vô tình...
Vô tình! Luồng gió khẽ thỏang động cành chè như phản thanh của ý nghĩ. Lan buồn rầu nói một mình: Vô tình! Ước gì ta được vô tình như vạn vật vô tri vô giác!
Tư tưởng của Lan lúc đó lại rời bỉ cảnh ngoại vật mà thu vào trong tâm trí. Những lý thuyết "Tứ diệu đế", "Thập nhị nhân duyên" cùng là cái đời cao thượng của Phật tổ lộn xộn trong trí nhớ Lan.
Rồi nghĩ điều nọ nhảy sang điều kia, Lan lại ôn tồn tới cái đời ký vãng. Lan con nhà giòng dõi, bẩm tính thông minh, thủa bé được theo học chữ nho. Ông thầy học lại là một người mộ đạo Phật thường đem Phật giáo ra giảng, khiến Lan yêu mến cái đạo rất dịu dàng êm ái. Rồi cha mẹ Lan mất, Lan ở với chú, chú muốn ép gả Lan vào nơi phú quý. Linh hồn trong sạch đã tiêm nhiễm những tư tưởng cao thượng của Phật giáo nên Lan cho thế là nhỏ nhen. Nhất Lan lại nhớ tới lời thề cùng mẹ trong khi mẹ hấp hối. Lan liền bỏ nhà đi trốn, cải nam trang để thụ giới tại chùa Long Giáng. Lan không khéo để lại nhiều tang vật trên bờ sông, khiến nhà yên trí rằng Lan tự vận.
Nương nấu cửa từ bi hơn hai năm nay, được sư tổ quý mến truyền giáo đạo Phật, Lan dốc lòng ngày đêm dùi mài kinh kệ, đã tưởng dứt bỏ được tần duyên. Ai ngờ...
Lan giật mình ngước mắt ngơ ngác nhìn. Trên cành cây trẩu, con chim gáy đương gật đầu, xù lông cổ, gù ở bên con mái. Lan nhắm mắt rồi đi phía khác, thì kia trên cành xoan khô khan, hai con quạ khoang đương rỉa lông cho nhau. Lan lại nhắm mắt, thở dài cuốn quýt, như bị vây vào trong cảnh chết mà khó tìm được lối ra: "Ước gì ông ấy đi..."
Bỗng có tiếng chú Mộc gọi ở chân đồi:
- Chú Lan!
Lan sợ hãi đứng phắt dậy đáp:
- Cái gì đấy chú?
Chú Mộc vẫn đứng ở chân đồi nói lên:
- Cụ cho tìm chú đấy.
- Tôi về đây, chú cứ về trứơc đi.
Lan vội vàng hái chè đầy rổ, rồi hấp tấp xuống đồi trở về chùa, đi thẳng vào buồng kho đóng cửa ngồi núp một xó, như sợ ai. Sau, vì ở mãi ngoài nắng nên thấy nhức đầu, Lan liền ngả lưng xuống giường, thiu thiu ngủ lúc nào không biết.
Tiếng chuông chiều đánh thức Lan dậy. Mở bừng mắt trông ra sân, Lan thấy trời đã nhá nhem tối. Chợt nhớ đến giờ làm đèn, nghĩ là đèn ở buồng Ngọc, vì ở nhà tổ chỉ thấp có ngọn đèn dầu lạc. Lan lo sợ, run lẩy bẩy bước vào phòng chàng, nhưng may không nghe thấy ai lên tiếng. Lan liền cầm vội cây đèn búp măng đem xuống bếp rót dầu.
Khi mang đèn lên, ánh sáng rọi khắp gian buồng con con. Liếc mắt nhìn không thấy Ngọc đâu, trong lòng sinh bạo dạn, Lan đứng lại ngắm kỹ các vật: Trên bàn trơ trọi cái bếp cồn cùng cái ấm sắt nhẹ. Vứt trên chiếc giường không màn, quyển Phật giáo và hai ba cuốn tiểu thuyết tây. Mà cái va li, Lan không thấy đâu hết.
Lan nhìn quanh ngẫm nghĩ. Bỗng chú hấp tấp chạy xuống nhà ngang hỏi chú Mộc:
- Này chú, ông Ngọc đâu?
- Ông Ngọc về Hà Nội từ sáng kia mà.
Lan hoảng hốt:
- Về lúc nào?
- Lúc chú ở vườn chè. Ông ấy nhắn nhời chào chú đấy. Tôi quên bẵng mất.
Lan vơ vẫn, mắt lờ đờ, ngớ ngẩn hỏi:
- Sao lại về Hà Nội?
- Rõ chú lẩn thẩn lắm. Còn ai biết tại sao ông ấy lại về Hà Nội nữa. Muốn biết thì hỏi ông ấy.
- Sao lại về Hà Nội? Về rồi à?
- À, ông Ngọc cho chú quyển sách để ở trên buồng ấy.
- Được, để tôi lên lấy.
Lan lại có cớ lên buồng Ngọc. Vào buồng, Lan khép cửa rồi mở lấy quyển sách ra xem, vì chắc thế nào Ngọc về Hà Nội cũng có một vài lời từ biệt. Quả Lan đoán không sai: Một tờ giấy viết thư gập trong quyển Phật giáo có mấy hàng vắn tắt.
Giữ lời hứa hôm qua, tôi xin kính chào chú ở lại tu cho thành chánh quả... Chú có còn tưởng nhớ tới tôi, tới người bạn khốn khổ này, tôi xin chú cầu nguyện cho linh hồn tôi chóng lên cõi Nát bàn.
Lan cầm mảnh giấy ghé gần đèn, đọc đi đọc lại ba, bốn lượt, rồi tắc lưỡi cuộn nhỏ lại thò vào trong thông phong châm lửa đốt. Nét mặt rầu rầu, Lan nhìn ngọn lửa cháy cho đến khi tờ giấy thành than.
Bỗng Lan ngồi phịch xuống giường lấy tay bưng mặt khóc nức nở không ra tiếng. Nỗi sầu muộn trong lòng như theo hai hàng lệ dần dần tiêu tán. Lan thấy đỡ thổn thức, tim bớt đập mạnh, rồi Lan như người sực tỉnh:
- Thôi, ta điên mất rồi! Chẳng lẽ...
Lan đứng phắt dậy, tắt đèn rồi lau nước mắt, quả quyết lên chùa trên, vừa đi vừa lẩm bẩm: "Quên, phải quên! Lời thề trước linh hồn mẹ, ta hãy còn nhớ đinh ninh trong trí. Đó là cái bùa để trừ bỏ những sự cám dỗ của tình ái nhỏ nhen nơi dương thế."
Nhưng con người ta vẫn thế. Bao nhiêu cũng phải trái với sự thực. Một người hay do dự, luôn luôn nghĩ tới sự quả quyết, hoặc nói mình phải quả quyết. Người nhút nhát đêm đi đường vắng một mình thường hay huýt sáo làm ra bộ mạnh bạo lắm, nhưng kỳ thực trong lòng lo sợ, chân tay run lẩy bẩy. Lan cũng vậy luôn mồm nói phải quên. Nhưng đó là cái triệu chứng của sự nhớ.
Thật ra, cái tình mà Lan cố ra tưởng tượng nhỏ nhen, nó to tát, nó đầy rẫy, nó chứa chan khắp linh hồn Lan: Câu nói, dáng đi, điệu nhìn, giọng cười, ý nghĩ đều là hình ảnh của ái tình.
Lan lẩm bẩm: "Ta rất có tội với đức Phật tổ."
Lúc đó Lan thỏang ngửi thấy mùi trầm. Thì ra lên tới chùa trên từ bao giờ mà Lan không biết, vẫn tưởng còn ngồi ở buồng Ngọc. Ngước nhìn thấy các tượng thấp thoáng trong bóng đèn lù mù dầu lạc: Tuy không trông rõ, Lan cũng tưởng tượng ra các vẻ mặt tươi cười, khoan dung mà lãnh đạm. Từ từ, Lan cúi đầu như người ta vừa bị quở mắng, rồi rón rén tới bục gỗ quỳ xuống, thì thầm khấn khứa....

Chương 10:

Vắng Ngọc chùa Long Vân thiếu hẳn vẻ hoạt động. Một tháng Ngọc ở chùa làm biến cải hẳn các sinh hoạt của mấy người tu hành. Sư cụ, trước kia ngoài giờ tụng kinh, niệm Phật, thường chỉ tĩnh tọa để trầm tư mặc tưởng tới những vấn đề giải thoát linh hồn. Chú Mộc ngoài việc chú dọn dẹp, quét trước, rót nước, bưng cơm, chỉ ngồi lì ở nhà ngang trò chuyện cùng ông Thiện và bà Hộ. Còn chú Lan thì ngày đêmchỉ biết chăm nom việc trên chùa, thắp nhang, đốt đèn, thỉnh chuông và học tập kinh kệ. Các công việc nhắc lại hằng ngày đã khiến năm linh hồn kia trở nên năm cái máy, giờ nào làm việc nào, ngày ngày, tháng tháng, năm năm không hề thay đổi.
Từ ngày có Ngọc ở chùa thì năm bộ máy khi mau khi chạy sai lạc đi nhiều. Tuy công việc vẫn có thế, song những giờ tĩnh tọa của sư cụ nhiều khi đã đổi thành những cuộc nói chuyện về đạo Phật, về sự tích Phật tổ. Sư cụ bản tính thâm trầm nghiêm khắc, mà có lần cũng phải cười về những câu hỏi ngớ ngẩn, những ý tưởng ngộ nghĩnh của Ngọc.
Những lúc có chú Lan đứng hầu bên cạnh, Ngọc càng thấy phấn khởi tâm hồn, và cuộc đàm luận càng có vẻ náo nhiệt lắm. Những thuyết đề thái tây, những tư tưởng triết lý của Ngọc không thể lọt tai nhà tu hành được, nhất Ngọc lại đem những ý tưởng trong các sách của phái Tiểu thừa mà bàn tới đạo Phật ở nước ta theo về phái Đại thừa, nên hai bên thực không thể nào hợp ý nhau được. Có những cuộc đàm đạo ấy, sư cụ cũng thấy vui vui. Và cụ cũng lo tới ngày cùng Ngọc biệt ly.
Đến cả bà Hộ, ông Thiện, chú Mộc trong khi có Ngọc, cũng bận suốt ngày, nhưng tuy bận bịu, rộn rịp hơn xưa mà vẫn lấy làm vui thích. Nào hai bữa cơm sửa sang cho lịch sự, nào hầu hạ pha nước, lấy thau. Chú Mộc thấy Ngọc tính rất dễ dãi lại càng hay lên gẫu chuyện.
Nay Ngọc về Hà Nội, năm người cùng thấy những công việc hằng ngày buồn tẻ. Mấy cái máy uể ỏai nay càng uể ỏai hơn xưa.
Nhưng người thấy buồn tẻ nhất là chú Lan.
Ba, bốn ngày sau hôm Ngọc đi, chú chẳng biết làm gì, chẳng muốn ăn uống gì. Đến nổi sư cụ và chú Mộc phải lấy làm lạ rằng cái tình bằng hữu của chú đối với Ngọc không ngờ thân mật đến thế.
Chiều hôm ấy, mặt trời đã lặn sau rặng đồi tây, Lan còn thơ thẩn ở vườn sắn sau chùa. Ngồi trên là cành lẫn lá để ngổn ngang chưa buộc, Lan đăm đăm nhìn về phía xa. Linh hồn Lan như đang theo áng mây hồng bay vào nơi hư vô tịch mịch. Lan thở dài, buột miệng thong thả nói: "Nát bàn! Bồng lai!"
Hai ý tưởng "tôn giáo" và "ái tình" hình như đương công kích nhau trong tâm trí.
Bỗng Lan giật mình tỉnh bằng giấc mộng. Tiếng chuông chùa như cất vọng từ bi vỗ về an ủi, dỗ dành. Lan mỉm cười lẩm bẩm: "Thế nào cũng phải lánh xa nơi trần tục!"
Tiếng chuông đổ hồi như vui mừng, cười reo vì đã giải thoát được linh hồn Lan.
Lan cười theo hồi chuông, tiếng cười lanh lảnh trong làn không khí yên lặng dưới ánh lờ mờ thảm đạm buổi chiều tà.

Chương 11:

Ánh trăng tháng chạp trong vắt chiếu qua rặng lim um tùm. Mấy cây trầu chung quanh vườn sắn xơ xác cành khô. Luồng gió thoảng qua, lá vàng rơi lác đác...
Lan ngồi sưởi thì thầm đọc kinh, thỉnh thoảng lại đặt quyển sách xuống, ngơ ngác nhìn. Tiếng lá rụng trên vườn sắn như có mãnh lực khiến Lan ôn lại những mẩu đời ký vãng, Lan nhắm mắt, trí lại tưởng tượng ra cái cảnh lá rụng khi sang chùa Long Vân, cái cảnh bên bờ suối mấy gốc thông già gió chiều hiu hắt, lá thông khô, theo dòng suối trôi đi...
Lá rụng!
Từ đó đến nay đã qua sáu tháng. Lan trải bao buồn, nhớ, mừng, lo.
Trong khoảng mười hôm đầu, Lan ủ rủ âu sầu. Rồi dần dần ngày đêm vui đạo Phật, lòng cũng nguôi nguôi.
Tuy những khi chiều tà gió thổi, đêm khuya thức giấc, trăng mọc đầu non, dung nhan người bạn cũng còn phảng phất trong tâm hồn, nhưng đạo từ bi vẫn thắng nổi ái tình. Chỉ ít lâu là ảnh ai đã mờ hẳn trong trí nghĩ. Rồi buồn nhớ đổi ra mừng vui. Lan hớn hở rằng đã qua được một bước khó khăn trên con đường tu hành.
Lá rụng!
Tiếng lá tí tách trên bờ rào khô bỗng gợi tới chuyện cũ đã hầu quên. Lan nghĩ mà lo, lo một ngày kia bí mật của mình sẽ bị khám phá. Biết đâu trong khi vui anh em, chàng chẳng thuật câu chuyện gặp gỡ. Nếu chàng quên, nhưng nào chàng có quên được! Đã có một lần chàng đi xe đạp đến gần chùa, rồi nghỉ ở quán một lúc rồi lại quay xe trở về Bắc. Tuy Lan cho là Vân trông lầm, nhưng tâm trí Lan vẫn thì thầm với Lan rằng đó là chuyện thực.
Mặt trời đã xế về tây. Một luồng gió lạnh.
Lá rụng!
Lan rùng mình ngơ ngác nhìn quanh, như sợ có người đứng nghe trộm được nhưng ý nghĩ bất chính của mình. Lan cố không tư tưởng nữa, muốn theo gương sư cụ ngồi tĩnh tọa để tìm chân lý.
Bỗng có một tiếng sột soạt sau lưng. Lan quay lại. Ngọc đương rón rén đi tới. Lan mừng quýnh thốt nhiên kêu rú lên:
- Ông Ngọc!
Ngọc khẽ gật, không trả lời. Lan sực tỉnh, bẽn lẽn, trách bạn:
- Ông đã hứa với tôi rằng ông quên, sao ông còn lên?
Ngọc mỉm cười, đáp:
- Tôi vẫn cố quên, nhưng nào có quên được!
Rồi Ngọc buồn rầu, kể lể:
- Nếu chú thấu nổi đau đớn, khổ sở của tôi thì chú cũng sẵn lòng tha thứ cho tôi.
- Mời ông hãy vào chùa chào cụ, cụ nhắc đến ông luôn... Cụ nhớ ông lắm.
Ngọc vội gạt:
- Không, không. Tôi không lên thăm cụ. Tôi chỉ lên thăm chú một lát rồi lại về ngay bây giờ.
Lan đỏ bừng mặt, Ngọc tưởng Lan xấu hổ, nhưng chính Lan sung sướng quá.
Ngọc nói tiếp:
- Tôi lên thăm chú, vẫn biết đối với lời hứa, đối vời lời thề, tôi rất có lỗi, mà nhất đối với đời tu hành của chú, tôi rất là người có tội. Nhưng chắc Phật tổ cũng thấu lòng chân thành, rõ nỗi đau đớn của tôi mà xá tội cho tôi.
Lan mắt lờ đờ nhìn phía xa:
- Nhưng gần tối rồi, ông về bằng gì?
- Tôi về bằng xe đạp. Xe tôi để tựa ngoài hàng rào kia.
- Nhưng... Từ đây về Bắc cũng đã xa rồi, lại còn từ Bắc về đến Hà Nội, ông đạp sao nổi?
- Cũng phải nổi. Lần này là lần thứ ba rồi, hai lần trước tôi cũng đã lên, nhưng lại về ngay, sợ hãi, không dám vào thăm chú.
- Giá lần này ông cũng về ngay thì phải.
Ngọc không để ý đến câu trả lời của Lan, lại gần đứng tựa vào cây trầu, ngay chỗ Lan ngồi, nhìn Lan, không nói.
Lá rụng!
Lan giật mình bảo bạn:
- Nhỡ cụ biết...
Ngọc vẫn nhìn Lan, đôi mắt âu yếm, nồng nàn:
- Cụ biết thì ta thú tội với cụ là cùng chứ gì.
Lan cười nhạt, nói:
- Tôi tưởng ông là bậc quân tử đáng kính, đáng tôn. Ai ngờ thắm thoát mới sáu tháng giời, ông đã quên được lời thề.
Ngọc nghiêm sắc mặt trả lời:
- Chỉ vì tôi không quên được lời thề, nên tôi mới khổ. Bản tính con người là quên. Mà muốn đi tới hạnh phúc thì càng phải quên. Nếu tôi quên được hết, quên lời thề, quên cái đêm trăng rọi trên đồi, quên lời ăn tiếng nói của chú, quên sự gặp gỡ của đôi ta, quên chú, quên hết, thì đâu đến nổi... Nhưng trái lại, tôi nhớ, tôi tưởng tượng như mọi sự vừa mới xảy ra hôm qua, nào phải chăng tôi sống trong cảnh mộng?
Lan ngồi nghe, cặp môi hơi hé mỉm cười, mắt lim dim như đương thiu thiu trong giấc mộng.
Ngọc nói, lời rầu rầu, se sẽ, như người ru em.
Mặt trời đã gần lặn sau đồi, mặt trời lạnh lẽo mùa đông. Gió chiều thỏang qua.
Lá rụng!
Lan mở bừng mắt, thở dài:
- Không, không bao giờ thế.
Ngọc vẫn như người mê man, nói luôn:
- Phải, nào phải đâu tôi sống trong cảnh mộng, sáu tháng tôi ở xa chú, tôi coi như sáu năm...
Lan giọng hơi run run:
- Ông điên mất rồi, ông tha lỗi cho tôi, nhưng thực ra ông điên mất rồi, ông nên cưỡi xe đạp trở về ngay không cụ biết thì bí mật đến tiết lộ mất, vì ông điên mất rồi.
Ngọc cười gằn:
- Tôi về ngay đây, nhưng tôi thú thực với chú rằng không bao giờ trí tôi lại sáng suốt như bây giờ. Những lời tôi nói với chú, tôi nguyện có Phật tổ chứng minh, thật ở tận đáy tâm can mà ra. Tôi vẫn biết lòng chân thành của tôi không thể cảm được linh hồn chú, nên hôm nay tôi chỉ lên để từ biệt chú một lần cuối cùng mà thôi. Từ nay kẻ bắc người nam, xin không gặp mặt nhau nữa.
Lan hai tay bưng mặt, nước mắt ràn rụa ướt cả vạt áo. Lan cố giữ linh hồn lãnh đạm, nhưng chỉ giữ được đến thế.
- Ngọc vội cúi xuống đỡ tay Lan, kêu van:
- Ngọc xin lỗi Lan. Đấy Lan nghĩ mà xem. Lan có thể không yêu Ngọc được đâu. Cặp linh hồn đôi ta như một điệu âm nhạc, không cảm động nhau sao được?
Dưới chân đồi, mấy đứa trẻ mục đồng cưỡi trâu về chuồng, cười đùa vui vẻ. Trên cây trầu, đàn chim sẻ đuổi nhau tiếng kêu chiếp chiếp.
Lá rụng!
Lan đứng phắt dậy, khẽ ẩy bạn ra:
- Không, không bao giờ như thế được!
Ngọc lắc đầu, thở dài:
- Tôi thương hại chú quá. Tôi cũng đáng thương, nhưng chú còn đáng thương gấp trăm, gấp nghìn lần. Linh hồn chú bị ái tình và tôn giáo, hai bên lôi kéo, mà lạy Trời, lạy Phật, hai cái mãnh lực ấy lại tương đương, nên tâm trí chú càng bị thắt chặt vào hai tròng...
Lan nhíu đôi lông mày lùi lại một bước:
- Thôi, ông đừng nói nữa, mỗi lời nói của ông như đốt xé ruột gan kẻ tu hành này. Ông nên về ngay đi.
Ngọc dịu dàng:
- Vâng thì tôi về. Xin kính chào chú ở lại nhé.
Nói xong, Ngọc quay đi. Lan ngồi xuống bưng mặt khóc. Ngọc rón rén trở lại, yên lặng đứng ngắm Lan.
Mặt trời đã lặn sau dãy đồi tây. Vạn vật nhuộm màu ảm đạm.
Lá rụng!
Lan mở choàng mắt, ngơ ngác nhìn. Rồi mỉm cười:
- Ông vẫn chưa về?
- Lan coi, Lan đuổi Ngọc về, mà Lan vẫn còn mừng Ngọc ở lại. Trí Lan đi một đường, tâm Lan đi một lối. Ngọc thương Lan, Ngọc muốn hy sinh vì Lan, nhưng chẳng biết xử trí ra sao bây giờ.
Lan đăm đăm nhìn về phía chùa, se sẽ nói:
- Quên, phải quên.
- Nhưng nào quên được?
- Nếu thế thì chỉ có một cách bỏ chùa đi trốn.
Lan sợ Ngọc hiểu lầm, nói tiếp luôn:
- Bỏ chùa đi trốn, đến tu một chùa khác, một ngôi chùa trên thượng du.
Ngọc có vẻ sợ hãi, vội gạt:
- Không nên. Nếu Lan đi thì Ngọc sẽ chết khô héo mất. Ngọc chẳng dám mơ màng nọ kia, chỉ ao ước thỉnh thoảng lên chùa nhìn thấy mặt Lan đủ rồi. Vậy xin Lan cứ ở đây tu hành, rồi ngày Ngọc được nghỉ, lại cho phép Ngọc phóng xe đạp lên chùa thăm Lan, Lan có ưng như thế không?
Lan mỉm cười:
- Nếu được mãi như thế?
- Tôi xin thề với Lan rằng tôi giữ được mãi như thế. Tôi xin viện Phật tổ tôi thề với Lan rằng suốt một đời, tôi sẽ chân thành thờ trong tâm trí cái linh hồn dịu dàng của Lan.
- Thế nghĩa là thế nào?
- Nghĩa là suốt đời tôi, tôi không lấy ai, chỉ sống trong cái thế giới mộng ảo của cái tình lý tưởng, của ái tình bất vong bất diệt.
Lan hai giòng nước mắt đầm đìa, dịu dàng bảo bạn:
- Không được. Còn gia đình ông?
Ngọc lạnh lùng:
- Gia đình? Tôi không có gia đình nữa. Đại gia đình của tôi nay là nhân loại, là vũ trụ, mà tiểu gia đình của tôi là... Hai linh hồn đôi ta, ẩn núp dưới bóng từ bi Phật tổ.
Lan tươi cười, ôn tồn bảo bạn:
- Tôi không ngờ Phật giáo đã cảm hóa ông đến như thế! Ngọc vui vẻ:
- Yêu là một luật chung của vạn vật, là bản tính của Phật giáo. Ta yêu nhau, ta yêu nhau trong linh hồn, trong lý tưởng, Phật tổ cũng chẳng cấm đoán đôi ta yêu nhau như thế.
Lan đưa vạt áo lau nước mắt:
- Tôi hiểu ông lắm rồi. Tôi xin ông lại nhà kẻo giời sắp tối.
Ngọc vui vẻ:
- Vậy chào Lan ở lại nhé. Ngày khác sẽ gặp nhau...
Lan nghĩ ngợi nhìn Ngọc, khẽ gật đầu mỉm cười không nói.
Ngọc từ giã Lan, dắt xe đạp xuống đồi.
Bây giờ sắc trời dìu dịu, vạn vật như theo tiếng chuông chiều thong thả rời vào quãng êm đềm, tịch mịch.
Lan đứng chắp tay tụng niệm, mắt lờ đờ nhìn xuống con đường đất quanh co, lượn khúc dưới chân đồi.
Gió chiều hiu hiu...

Lá rụng!

Nguồn vnthuquan.net

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved