Nghe tiếng mưa khi mưa hãy còn xiêu xiêu ngoài
sông, rồi mưa băng qua bờ lá có căn chòi hoang ở phía Nam cồn, ào vào bãi đất
xơ rơ những thân lau sậy cháy, giờ thì mưa đã dội trên mái nhà, trượt theo
những đuôi lá mục mưa thả mình vào đất. Khe vách rách rã chẻ mỏng những ngọn
gió ướt, chém ngọt qua người, lạnh rởn lỗ chân lông.
Tôi lụi hụi ngồi dậy đắp
mền cho thằng Phiên. Tấm mền ngắn ngủn, mong ấm cổ thì hở chân, che kín đôi
chân thì phong phanh vai trần. Lại chạm tay vào nó như thường chạm khẽ trong đêm.
Có lúc thằng nhỏ hơi mỉm cười, có lúc nó càu nhàu rồi lăn sát vách mùng, có khi
nó quạu quọ gạt tay tôi ra. Nó phản ứng kiểu nào tôi cũng vui bởi ý nghĩ, nó
còn ở bên tôi.
Nhưng khuya nay, khi tay
tôi vờn trên cái mũi lấm tấm mụn của Phiên, khi cái đầu gối xương xẩu của nó co
lại thúc vào sườn tôi đau nhói, vẫn cảm giác thằng nhỏ đang rời đi xa lắm rồi.
Nó đi trên chiếc xáng cơm cùng những gã đàn ông lạ. Chiều qua, chiếc xáng đã
nhổ neo rời khỏi cồn. Nhưng mưa mùa triền miên cùng với những cơn giông gió
cũng không ngăn được nó quay lại, càn rướn vào rặng ô rô rách bươm.
Và không có gì ngăn gã
đàn ông trên chiếc xáng kia tới tìm tôi, với vẻ nham nhở thường ngày, hỏi tôi
suy nghĩ tới đâu rồi. Nham nhở như gã của ba ngày trước, khi chìa ra một vuông
báo cũ ố vàng và khiêu khích hỏi tôi có gì để đổi không. Mảnh giấy nhỏ nhoi ngó
chừng vô nghĩa nhưng gần như tôi không có gì đáng giá đánh đổi, ngoài chính
tôi. Gã chỉ chờ đợi điều đó thôi, khẽ cười đắc thắng.
Nhưng tôi câm lặng không
phải vì tuyệt vọng mà vì những bức ảnh trong bài báo phất phơ trên tay gã. Ba
tôi, Anh, và tôi của ngày hai mươi ba tuổi. Tấm hình tôi dán trong bộ hồ sơ xin
việc, mặt quang quẽ, tóc vén lên vành tai, nhìn thẳng, hơi mỉm cười nhưng mắt
tối. Trên bài báo, ba cái ảnh nằm gần như cạnh nhau, nhưng hai người kia đang
tuyệt vọng tìm tôi. Ngày trên trang báo dừng lại ở mười ba năm trước.
Ngày hai mươi ba tháng
tám. Không biết bữa đó tôi với Phiên đang ở trên chuyến xe đò nào trong một lộ
trình trốn chạy. Ngày hôm đó, có thể chúng tôi đang ôm nhau ngủ còng queo trong
một toa xe lửa hôi sặc cứt gà, một phòng trọ mốc meo, có thể chúng tôi đang
ngồi tàu đò, lúc đi qua cái cồn xanh mịt những rặng dừa nước, rặng bần có ai đó
thở dài ứ hự, “cho tui nhiêu tiền cũng không lên cái cồn Bần này ở, buồn thấy
mẹ…”, tôi liền kêu tàu ghé lại. Anh tài công xửng vửng, chắc hôn vậy, chắc chỗ
này không, tôi gật đầu cười, bồng Phiên bước lên bờ, nói về tới nhà rồi, cưng
ơi.
Chiếc tàu de khỏi bờ lá,
Phiên vẫn đang ngái ngủ trên vai tôi, không biết rằng từ nay nó sẽ sống một
cuộc đời khác, với cỏ cây, với sông nước, và vài ba nóc nhà thưa thớt của xóm
cồn.
2
Khoảng cách ngàn cây số
cũng không ngăn được những chiêm bao. Có thể ban ngày tôi thường nhớ, khi ngó
cỏ cây, nhìn những người xóm Cồn í ới giúp tôi lợp nhà, ven vách, nhìn Phiên
lửng đửng đi từng bước trên đất… tất cả đều quen thuộc. Như những gì cất giữ ở
Viện di sản thiên nhiên và con người.
Mỗi chiêm bao là một lát
cắt, một cảnh phim dang dở về nơi đó. Có khi tôi thấy vía mình ngập ngừng đi
vào một tòa nhà cũ chìm lút trong một khuôn viên um tùm cây cỏ. Qua mấy bậc tam
cấp gãy nứt nối với khoảng hành lang hơi tối có vài căn phòng khép cửa. Cuối
lối có mảnh sân rộng nằm giữa tòa nhà, nắng sáng rót lưng chừng. Nhiều tấm pano
được treo trên bốn bức tường vây quanh, giăng giăng những khẩu hiệu, bên này là
“giữ gìn cái đẹp của nhân loại như giữ nhịp đập trái tim mình”, “Cái đẹp thường
mong manh và tàn nhẫn, chúng ta sẽ chạm vào điều kỳ diệu giữa cơn đau”, bên này
là “cần có một tâm hồn lớn để cảm thụ những cái đẹp cuộc đời”. Chữ nào cũng
chắc nụi, lớn lao.
Vía tôi bị chữ hù, cứ hí
húi đong đếm coi tâm hồn mình bao lớn, rồi vía thấy một dòng chữ khác được đắp
nổi lên tường, “Không có gì là mãi mãi, hãy cất giữ thế giới này”. Vía tò mò,
hồi nhỏ tới giờ chỉ biết đất nước muôn năm, anh hùng muôn năm. Ở đây họ nói
không có gì là mãi mãi.
Tò mò quá, vía đẩy cửa
vào.
Và trong những chiêm bao
hao khuyết tôi từng đêm, những cánh cửa của tòa nhà Viện di sản thiên nhiên và
con người luôn mở ra rất chậm, sau tiếng kèn kẹt là vùng ánh sáng chói lòa, như
thể phía tôi là bóng tối.
Khi đó thằng Phiên lăn
sát vào tôi, hay chân nó đập xuống giường trong lúc trở mình làm tôi thức giấc,
ký ức vẫn tiếp tục mở ra những cánh cửa, mở ra những rung động, bất ngờ. Một
vài căn phòng giống như biển, ngay lập tức khiến tôi chìm sâu, ngộp thở, nhưng
tôi hoàn toàn không muốn vùng vẫy, chạy trốn. Lý do đôi lúc chỉ vì trong đó có
người đàn ông giống như một người nào đó tôi đã gặp trong đời, một người tôi đã
mất dấu.
Nhưng người đàn ông phỏng
vấn tôi hôm xin việc không tỏ ra chút nào quen biết, anh ta hờ hững và xa lạ,
lơ đãng khép mở hồ sơ trên tay, lơ đãng hỏi một câu lơ đãng, em có kinh nghiệm
gì?
Trời, kể hết chắc tới
mai. Tôi đã từng rửa chén và phục vụ ở nhà hàng, sơn tường nhà, phát tờ rơi,
chăn trẻ con, xé vé ở rạp chiếu phim… và tôi còn có khả năng tươi cười, bất kể
hoàn cảnh nào. Nhưng chẳng hiểu sao khi anh gác chân còn lại lên bàn, tôi lại
nói ra một kinh nghiệm kỳ lạ:
- Tôi lắng nghe người ta
nói.
- À, vụ này hay nghen,
vậy chớ em nghe làm sao?
Tôi nhìn mấy tờ giấy bay
lắt xắt trên bàn, và nghĩ mình có quyền nói dóc là trực đường dây nóng cho sản
phẩm dầu gội hay thuốc diệt muỗi abc nào đó. Nhưng tôi ngước lên, cố bắt chước
vẻ giễu cợt của anh ta, làm bộ điều tôi nói ra đây không quan trọng, “cũng lâu
lâu rồi, tôi có làm bồ mướn”.
À, người đàn ông không
biến sắc, anh ta làm như mới nghe nói tới nghề này lần đầu, nói lạ quá, em kể
thêm chút nữa đi. Tôi dùng hết vẻ thản nhiên mà tôi vơ vét được, thuật một câu
chuyện mà tôi biết nó chán òm. Có lúc không tìm ra học phí, bạn bè nói làm bồ
mướn cũng có tiền, rồi giới thiệu cho tôi một anh. Chúng tôi gặp nhau không đem
quá khứ theo, không có cả tên, gọi anh ơi em ơi như mặc nhiên tên họ là Anh tên
tôi là Em. Những cuối tuần, tôi nín thở chờ điện thoại run lên và Anh nói sẽ
đón. Chúng tôi đi ăn, uống, đi tới những cái quán nước vắng người để ngồi chơi.
Có khi anh nói, tôi nghe. Có khi Anh không nói gì thì tôi im lặng, im lặng cũng
là cách lắng nghe. Cao trào của mối quan hệ này là một lần Anh bật khóc nên tôi
cho mượn vai. Tóc Anh hơi rối làm cổ và má tôi nhột ran, cả người tê dại, nhưng
tôi cố chịu, vì tôi là bồ mướn. Nên vai này coi như được trả tiền rồi.
- Chúng tôi… không đi xa.
- Đi xa là đi đâu? – Lại
giễu cợt.
- Từ eo tôi trở xuống.
Tôi quyết định dừng câu
chuyện ở đó, giữ đoạn cuối trong lòng. Sau bữa cho mướn vai, tôi bỗng nghĩ,
thôi kệ, đi xa cũng được, nhưng Anh không bao giờ gọi nữa. Không có tăm tích
nào trên đời, như một giấc mơ vậy. Tôi buồn xanh xương. Không bao giờ tôi hình
dung mình gặp lại giấc mơ xưa trong căn phòng này, vẫn gương mặt phớt đời, vẫn
cái nhìn ngạo nghễ, và vẻ lạnh lẽo xa xôi.
Tự dưng, tôi thèm muốn
tìm được một công việc nào đó ở đây, quét lá cây trong vườn cũng được. Buổi
phỏng vấn là một cơn nín thở, và òa vỡ khi người đàn ông xốc xấp giấy tờ lại,
bắt tay tôi:
- Từ giờ cô sẽ lắng nghe
thiên nhiên nói.
Cái kiểu bắt tay cũng hờ
hững, đầy vẻ ban ơn. Tôi không thấy phiền chút nào hết. Tôi vui muốn chết.
3
Chuyện đời tôi được người
xóm Cồn đồn đoán, thì thầm rằng, yêu một người bị gia đình phản đối, tôi bất
chấp trốn nhà theo anh ta, sinh thằng Phiên, rồi bị anh ta bỏ, không biết đi
đâu về đâu, tôi tạt qua xóm Cồn ở tạm, chờ ba má tha thứ tôi sẽ dẫn con về.
Chưa bao giờ tôi kể, nhưng ánh mắt u tối của tôi, thằng nhỏ đang lẽo đẽo dưới
chân tôi, kiểu cười tránh những câu hỏi khó, tất cả đã nói thay.
Rằng tôi tới đây chờ đợi
một sự lãng quên, giống ông Sáu Câu từng chịu án giết người, giống chị Thắm lẩn
tránh những đòn ghen của bà vợ lớn, giống chị Thiện bỏ lại ở quê chồng con và
món nợ hụi hè … Những người mà họ nợ dù tình cảm hay tiền bạc, biết họ ở đây,
nhưng không ai đuổi theo. Cái cồn nằm giữa dòng sông Mê mênh mông, tự nó như
một chốn lưu đày.
Chân trời chỉ nước và
cây, mặt trời mọc trên sông rồi lặn vào sông, bờ Bắc bờ Nam nhiều bụi
rậm mọc hoang lẫn trong những chòm cây cối. Chiều nào bìm bịp kêu, nắng chìm
lỉm theo. Tôi hay nhìn về đó, tự hỏi người ta còn tìm kiếm tôi không?
Một ông già vác cần câu
đi qua, hỏi tôi, nhớ nhà hả cô?
4
Tôi nhớ vài căn phòng, ám
ảnh và xao động, như kho lưu trữ của Viện di sản thiên nhiên và con người. Nhà
kho rộng, nhiều cái tủ kệ cao đến tận trần nhà, chạy song song tạo nên những
lối đi hun hút. Trên kệ người ta xếp hàng ngàn khay dữ liệu, tất cả được ghi
chú bằng những ký hiệu lạ lùng. Những thiết bị nghe nhìn đặt rải rác ở các góc
phòng. Khi tôi chạm tay vào chúng lần đầu tiên, bằng tất cả nôn nóng tò mò và
bối rối, tôi chỉ có thể nghĩ, chắc mình chết ở đây luôn quá.
Nhốt mình trong đó suốt
một tuần, và sau này, khoảng thời gian nghỉ giữa những chuyến đi, tôi gần như
chọn kho lưu trữ của Viện là chỗ trú chân, vạ vật. Tôi luôn thấy tiếc nuối khi
rời đi khỏi căn phòng đó như hay tiếc nuối khi rời khỏi mộ mẹ tôi. Khi lục lọi
những khay này, tôi đã dòm ngó qua khay bên cạnh, bên đó không biết có cất giữ
những hoa lau óng muốt dưới nắng, có đàn cò trắng bay qua trăng chiều, mớ lục
bình rách nát trôi ra cửa biển.không biết có ông già rớt nước mắt thổi khèn vờn
quanh bà già trong phiên chợ… Lẫn giữa sự háo hức là nỗi tuyệt vọng, có thể hết
đời này tôi sẽ chẳng bao giờ thưởng thức hết những hình ảnh, âm thanh đẹp đẽ và
rung động của cuộc sống đang được lưu lại nơi này.
Họ vẫn đang làm đầy nó
lên.
Và tôi sẽ làm đầy nó lên.
Hồi làm bồ mướn, có lần
tôi lén lấy điện thoại thu tiếng nói Anh, buồn buồn lấy ra nghe chơi. Mà nghe
lần nào cũng có cảm giác đói, đoạn âm thanh ngắn là tiếng muỗng chao leng keng
trong ly cà phê đá, và Anh lơ đãng hỏi, “đói bụng không?”, tôi nhớ khi đó mình
đã ứa nước mắt, giả vờ cúi xuống cột dây giày. Tôi hay cảm động với những câu
hỏi như đói bụng không, ăn gì chưa…
Công việc của tôi ở Viện
cũng gần giống vậy, tìm kiếm và ghi chép những âm thanh, hình ảnh giản dị của
cuộc sống được cho là có giá trị, đáng lưu giữ. Nó có thể như một cái phim tài
liệu nhỏ có mở đầu và kết thúc, hay chỉ là lát cắt bất chợt của mưa, gió, của
lá rụng hay những bông hoa lăn trên cát…
Tôi rời căn phòng nhỏ
trên tầng thượng cư xá sinh viên, nơi tôi làm ổ bốn năm học và thêm một năm tìm
việc. Nhiều đêm buồn quá, tôi giả làm tượng phơi sương, rình coi những đôi chim
heo yêu nhau, lá cờ bay bên tai rười rượi. Hôm gom mớ hành lý hẩm hiu cùng di
ảnh của mẹ đi, tôi ghi lại tiếng cờ bay, coi như là mẫu đầu tay, mang về Viện.
Anh trưởng phân ban của tôi râu tóc rối bời, lúc nào cũng bỏm bẻm nhai kẹo cao
su, nghe xong anh vạch bụi râu ra cười, “Buồn hen nhỏ, nghe cô đơn dã man, đâu
đem duyệt thử coi…”. Tôi luôn chờ đợi những cơ hội nhỏ nhoi đó, được tới gặp
anh Viện phó mà tôi thương thầm, với lý do chính đáng. Và vẫn như mọi khi, anh
này giễu cợt, chậm rãi và tàn nhẫn, làm tôi chết mê chết mệt.
- Kiếm sọt rác nào xấu
nhất quăng cái này vô, xong đi tìm cho tôi những gì sắp mất, ngoài kia nhiều
lắm…
Tôi gật gật làm ra vẻ đã
hiểu rồi, nhưng “ngoài kia” chính xác là ở đâu? cái gì sẽ mất?
Có nhiều câu hỏi người ta
tốn cả đời để trả lời, thí dụ như câu “Anh có thương em tới chết mới thôi
không?” Tôi nghi ngờ mẹ tôi đã từng hỏi cha tôi câu này, hồi còn con gái. Cha
tôi thấy khó nói quá, thôi cúi xuống khóa môi mẹ tôi cho rồi, có ai vừa làm
chuyện đó vừa nói được đâu. Tôi thò đầu ra đời, mẹ mừng húm, tưởng tình yêu trả
lời. Nhưng cha tôi cùng chiếc xe tải bèo nhèo bán cây giống chỉ quay lại xóm
Chiếc vài lần, thưa, thưa dần và cha tôi không tới nữa, khi tôi bốn tuổi. Tôi
bắt đầu hỏi một câu dễ òm, “mẹ ơi, cha con đâu?”, mẹ ngó ra sân, nói con chuồn
chuồn đẹp quá. Cũng có khi mẹ chỉ vào vách và nói thằn lằn cụt đuôi kìa con.
Tôi rượt đuổi theo những vu vơ của mẹ suốt thời thơ ấu, cho đến khi ngơ ngác
đội khăn tang đi trong một đám ma ít người đưa, vẫn không nhận được lời đáp.
Tôi hay nghĩ, nếu hôm đó chiếc xe khách không hất mẹ văng bên đường, chắc chắn
buổi tối lại mẹ sẽ kể cho tôi nghe chuyện về cha tôi. Nhưng buổi tối bị bỏ lỡ,
câu hỏi đó vẫn được day đi day lại, và tôi trả lời theo cách của mình. Như khi
mợ tôi tỏ ra hờn giận, “nhà hết gạo rồi, chừng nào ba mầy về dẫn mầy đi?” tôi
cười nói trưa nay con không ăn cơm, hồi sáng ăn mấy củ khoai còn no quá chừng.
Như những lần sắp nhập học, mợ nhắc, “không biết chừng nào ba mầy quay lại…”.
Tôi nhẹ nhỏm cười, hồi hè con đi làm kiếm được ít tiền, con tự đóng tiền trường
được, mợ khỏi lo… Nói trớt quớt, nhưng mợ hài lòng.
Hồi đó tôi đã biết một
câu hỏi có năm bảy kiểu trả lời, giản dị nhất là toét miệng ra cười, khỏe nhất
là kêu “đi hỏi ổng”, phức tạp nhất là đi mấy chặng xe lớn nhỏ tới một chợ xã
lún trong bụi đất đỏ, gặp một người đàn ông tóc vuốt dầu mướt rượt bảnh bao,
thảnh thơi ngồi chơi bài “tiến lên”, góc nhà có hai đứa nhỏ đang cự nự. Vợ ông
trạc tuổi hơn mẹ tôi, bưng ra cho tôi ly nước hột é, hỏi em cưng kiếm ai ở chợ
này, tôi ngó người đàn ông nói, dạ cháu cũng quen sơ sơ thôi, giờ mưa quá nên
hết quen rồi. Năm đó tôi mười bốn tuổi, đã bắt đầu tự mình tìm kiếm câu trả
lời, những khi thấy lòng thắc mắc.
Giờ tôi đang thắc mắc cái
đẹp nào đang và sắp mất. Để tìm câu trả lời, tôi bắt đầu rời khỏi thành phố,
bắt đầu những chuyến đi xa. Vì thành phố đã xua đuổi thiên nhiên đi xa.
Tôi thường tần ngần ở ngã
ba, không biết mình nên bắt đầu từ đâu. Chung quanh tôi quá nhiều vẻ đẹp, đừng
nói dấu mưa xoi khuyết những viên gạch trần, hoa bìm bìm lợp tím rịm cả một
chòm cây, vạt rừng bướm bay như trấu vãi… với tôi, cây cỏ cứt heo mọc bên đường
cũng đẹp. Nhưng những vẻ đẹp này trong kho lưu trữ Viện đã chật đầy, tôi vẫn
phải loay hoay.
Một bữa, khi rửa đôi giày
bê bết bùn sình bên sông Ba Bẩy, tôi nghĩ, không biết dòng nước này đang mang
bụi đường này chảy về đâu, sao mình không theo nó thử coi. Nước cứ men theo bờ
bụi chảy hoài cong cong quanh quanh, có đoạn nhập vào nhánh sông khác rồi lúc
sau lại rẽ. Những biến hóa bất ngờ cứ xỏ mũi dắt tôi đi, dòng chảy lúc cuống
quýt lúc nhởn nhơ, hoa cỏ bên bờ, những xóm làng bên bờ… Có tối tôi nằm ém gần
bụi chùm gọng hàng giờ, chỉ để chờ con bìm bịp trong đó cất tiếng kêu cho bầy
đom đóm hết hồn bay lên lả tả. Có trưa ngồi coi nước lên, thấy vài sự sống tình
cờ từ những trái mấm đi hoang kẹt trong miệng hang của con cá thòi lòi, bén rễ
luôn ở đó; một trái dừa chuột khoét trôi ngang qua, chở theo con chàng hiu ngồi
thom lom, mặt nó buồn vô phương, như thể hỏi rồi đời đưa ta giạt về đâu?
Dọc đường, gặp người tôi
cũng xáp vô làm quen. Tôi theo những người chài cá chốt giấy, tường thuật luôn
một vụ giỡ chà, rồi nhảy qua chiếc xuồng be chín có cắm tàu lá dừa làm buồm cho
gió đẩy đi, lai rai với ông già vừa uống rượu vừa ung dung cầm lái. Tôi còn
rình được thằng nhỏ vừa thót lên cất vó thì cái quần đùi giãn dây thun bị tụt,
nó quýnh quáng buông càng vó chụp quần lại, làm cái vó úp trúng chiếc xuồng
chèo ngang qua, tiếng rầy la dậy động.
Tôi về nói bên mộ mẹ, lúc
này con làm mấy chuyện tào lao lắm, mắc cười lắm. Mẹ tôi im lặng, kiểu của mẹ
dù sống hay chết, dù chung quanh mẹ người ta đang nhộn nhạo nói cười. Ngày tôi
bỏ quê đi ngôi mộ còn nằm tuốt ngoài đồng, giờ thì lọt thỏm giữa một xóm nhà,
muốn ra thăm phải chen bên hè của một quán nhậu có rèm che. Đi qua lần nào cũng
có người níu lại, kêu cầm mớ tiền rồi đem cái mả đi, chớ giờ người ma lộn xộn
xà ngầu, hết phân biệt nổi. Đi qua lần nào cũng có cô nào đó giòn tan than í
nhột nè quỷ sứ anh, tiếng đàn ông cười khơ khơ anh khát sữa lắm cưng ơi, lẫn
trong tiếng nôn ói ồ ồ đằng sau.
Dòng kinh trước nhà ngoại
tôi người ta chặn lấp, những chỗ còn lại thành những ao tù đầy nước, ai đó cắm
bảng “cho mướn nền”. Tôi sực nhớ ra thân phận của con sông Ba Bẩy tôi vừa đi
qua. Bèo thôi trôi, chỉ còn người trôi, chắc chắn có mấy cô í nhột nè quỷ hà.
Di sản của con sông chỉ là hình ảnh mà tôi vừa nhặt nhạnh được.
Và những vẻ đẹp được nhốt
trong phòng lưu trữ của Viện là những tiếng kêu thét tuyệt vọng, bất lực trước
mất mát, sự run rẩy của nỗi buồn, bởi quá nhiều thứ ta sẽ không bao giờ thấy lại
ngoài đời. Anh đạo diễn phim sẽ tới đây để tham khảo những âm thanh của khu
rừng nguyên sinh ngàn năm tuổi cho bộ phim mới. Tôi sẽ đưa cháu mình tới, chỉ
cho chúng biết kia là chim sẻ, kia là núi, còn đây là chiếc xích lô, xe thổ mộ
hồi xưa ngoại từng ngồi, hơi xóc tí nhưng hay lắm, thơ mộng lắm… Cứ vậy, tôi
hình dung mông lung, rồi bỗng dưng ăn gấp thở gấp ngủ gấp. Tôi muốn nhanh tới
những dòng sông, cánh đồng khác. Chỉ khi nào nhớ anh sếp ngạo mạn, tôi mới trở
về cơ quan, bước vào căn phòng anh, xổ ra bàn mấy chục mẫu, ngẩn ngơ lén ngó
anh ta rồi quay ra.
Có khi anh ngó lom lom,
chui vô chỗ nào mà gai quào rách con mắt vậy?
Có khi anh nói, hèn chi
mấy sạp giày ngoài chợ bán buôn ế ẩm…
Tôi ngúc ngoắc cái ngón
chân thò ra khỏi chiếc giày rách, cười rưng nước mắt, bước ra ngoài, nghĩ, trời
ơi ảnh dễ thương hết sức. Rồi tôi đi ngủ, cốt giữ nước mắt lại. Tỉnh dậy nhiều
khi thấy có tấm áo đắp trên người, chắc ai đó đã vào, thấy tôi nằm chò co khó
coi quá. Cái dáng nằm, như nhiều người nói, toát ra một nỗi buồn. Tự mình cuộn
vào, ôm ấp, tự che chở, tìm hơi ấm của chính mình.
Nhứt thấy tôi ngủ một
lần, cậu ta nói tôi như con cá Bảy Trầu, sống khép mình ở những chân ruộng sâu,
ẩn náu trong rong rêu và rạ nát. Nhứt là cộng tác viên của Viện, mê đắm những
cái xóm làng miên man bên bờ sông Ngó Ý, nơi cậu chạy đò máy xuôi ngược mỗi ngày.
Mỗi tháng một lần Nhứt lên thành phố chở cá giống, ghé Viện, khoe với bất cứ ai
cậu gặp, “chuyến này mẫu của em khẳm xuồng luôn”. Mẫu của Nhứt gợi cảm, sôi nổi
như chính cậu. Con rắn mối thì thụt trong bộng dừa mục rã. Những rạp cưới được
trang trí bằng lá dừa, bẹ chuối, lá đủng đỉnh, bông lồng đèn… Những gàu lá, gàu
miểng dừa đặt cạnh những khạp nước mưa trong lẻo, đặt ngoài hiên đỡ khát người
qua đường. Một con nhỏ bưng tô canh măng hầm thịt vịt đi trên đường làng, nước
canh đầy quá, đi nửa chừng nó húp bớt, qua nhà kế bên nó đưa tô măng cạn queo
cho thằng nhỏ kia, thẹn thùng nói, má tao cho má mầy canh…
Tôi thích tính Nhứt hồn
nhiên, nên khi lang thang, Nhứt gọi điện thoại nói cuối tháng này em lên chơi,
tôi lại thu xếp trở về. Ngồi nghe Nhứt sôi nổi, “đó đó, lúc đó em núp bên mé
mương nghen chị, ô rô nó đâm đau dã man luôn, nhưng quay được cảnh hai thằng
nhỏ tắm sông ở truồng đo chim tự nhiên như vầy, sướng…”. Sau đó, Nhứt sẽ mời
tất cả mọi người trong Viện đi nhậu, bằng tiền thù lao mà cậu ta mới nhận được,
chèo kéo cho bằng được, “Bảy Trầu đi cho vui…”. Tôi thích biệt danh đó, nghe
như trên tôi có có năm anh chị, dưới tôi còn vài đứa em, không phải tôi trơ
trọi một mình.
Món quà của Nhứt tôi mang
theo. Tôi tên Trầu, thứ bảy, mẹ của thằng nhỏ một tuổi rưỡi tên Phiên.
5
Chỉ có một đám giỗ ở xóm
Cồn, trùng với ngày tôi với Phiên đặt chân lên đó. Người ta nhắc, năm trước cô
Trầu nhớ hôn, thằng nhỏ con cô mới biết đi lũn đũn, năm nay nó nói sõi, chạy
không sót chỗ nào. Lúc nhìn ra sân, thấy Phiên ạch đụi rượt con vịt xiêm cồ, è
ạch cố cưỡi lên, rồi té lăn quay ra đất, tôi ngỡ ngàng kêu thầm, trời đất, một
năm rồi sao?
Một năm. Chín lần cười
trừ khi người ta hỏi, sao trôi giạt tới chỗ này. Một lần đốt cỏ hoang làm rẫy.
Năm lần gieo và thu hoạch trên những giồng rau. Một lần bị rít cắn. Một lần
cuốc phập vào chân tuôn máu. Tám lần thằng Phiên ấm đầu, sổ mũi, ho. Bốn lần
hết gạo nấu cơm, phải giả đò đợi đến bữa qua chơi nhà khác, chờ ai đó mời lơi
là nhào vô ăn chực. Ba lần quá giang xuồng đi chợ cách Cồn hai cây số đường
sông, ba lần Phiên nhìn thấy người đông. Ba lần bỏ quên thằng nhỏ ở nhà hàng
xóm, lúc nhớ ra chạy đi tìm thì nó đã ngủ queo rồi.
Mười năm sống một mình
trở thành thói quen. Tôi thường đi băm bổ làm Phiên rớt lại đằng sau, thường ăn
cơm bằng dĩa, rúc ngủ chèo queo nơi góc mùng… Nhưng giờ tôi đã là mẹ thằng
Phiên, tôi luôn dặn mình điều đó. Làm mẹ thì nên thường xuyên hôn hít nó, ôm
ghì nó quay vòng cho đến khi cả hai chóng mặt quá nằm bẹp xuống đất, thổi vào
mấy chỗ nhột của nó cho nó cười nắc nẻ, dành cho nó những trái chín cây ngon
nhất, cuộn nó vào lòng lúc nửa đêm… Mẹ tôi đã từng làm vậy cho tôi.
Và mẹ thì không bao giờ
để con mình thiếu ăn. Tôi theo ông Sáu Câu đi câu.
Ông già kỳ lạ đó có hai
cái chòi cất trên cồn. Chòi phía Tây nằm sát mé sông, mỗi khi nước rông, hay lũ
lớn nhấn cồn lún xuống, chòi còn trơ trọi nóc. Ông già chuyển lên sống ở chòi
phía Đông, vốn ở lưng chừng, nhưng giờ cũng chấm chân vào mép nước. Và trong
cái chòi lá quật quăng tơi tả, ông đối mặt với dòng sông, ngồi câu bất kể những
ngày mưa dầm tối tăm trời đất.
Ông không mê câu, ông
không sắm chiếc xuồng đi tìm cá như những người kiếm sống trên sông mà chờ cá
tìm mình. Vì ông hay thèm giết người, đây cũng là lý do ông ra cồn Bần ở, khi
mãn tù. Ở đây, nếu sự ham muốn đó trỗi dậy, ông phải lội qua sông, hay chờ tàu
đò đi ngang. Có khi tàu tới thì ông ngủ quên dưới bóng mát mấy cây bần. Có khi
lội chạm bờ kia thì ông mệt rã rời, tạnh nguội cơn khát máu. Nằm thở một lát,
ông lội ngược lại cồn.
Người xóm Cồn kể có ngày
ông qua sông đến ba bận. Kiếm được cây cần câu, ông không phải lội tới lui nữa.
Tôi hỏi:
- Chú còn muốn giết người
không?
- Còn chớ, hận thâm căn
cố đế mà. Lúc nào muốn quá thì xách câu ra, dặn trong bụng, chừng nào dính được
con cá mới được đi nghen. Rủi, có bữa mới thả câu thì thấy nó rị phao.
- Rồi sao?
- Thì bắt cá nướng trui.
Ăn no quá đâm ra buồn ngủ, đâu có muốn đi nữa.
Ông già cười. Tôi tập hỏi
để tôi trở về con đàn bà hai mươi chín tuổi, chớ không phải bà già chín mươi
hai. Một phần, ở cái đất Cồn này, mỗi lần hỏi đều nhận được câu trả lời, hoặc
gần với câu trả lời. Hỏi chị Thiện nhớ chồng không, chị cười khậc khậc, nhớ có
cái chân giữa của ổng hà. Hỏi chị Thắm sao đem son
phấn thả sông, chị nói ở đây chỉ có mỗi thằng Thơ khùng, chưng diện nó cũng đâu
có coi. Người tên Thơ đó sống một mình, không già không trẻ, suốt ngày ràng cái
radio cạnh lỗ tai, mở đài rột rẹt rột rẹt cả khi đi ngủ, có bữa đi ngang qua
thấy anh đứng một chân dưới gốc cây trứng cá, hỏi anh làm gì, anh nghiêm nghị,
“Ta là vịt đang học tiếng người”. Hỏi ông Sáu đã giết ai, ông già ngó ra sông,
để lời rớt khỏi môi như một giọt rượu chảy ngược qua cái răng gãy, “Con vợ
tôi…”. Và có khi tôi chưa hỏi, ông đã nói, “Thứ đó không phải để câu cá”. Đó là
lúc tôi nấn ná gần cây cần câu nhỏ ông dựng ở góc chòi đã lên nước bóng ngời,
sợi nhợ mỏng nối với một lưỡi câu lớn không ngạnh, thẳng như dấu chấm than.
Ông già đã bao nhiêu lần
thả câu này vào sông chờ tạnh cơn thèm muốn tìm giết gã tình địch đã làm gia
đình tan nát, khiến ông nhúng tay vào tội ác, tôi tự hỏi lúc nắm đoạn cần câu
lạnh buốt, neo lưỡi câu thẳng đuột xuống nước. Ngồi hàng giờ bên cạnh thằng
Phiên đang giang tay phơi rún ngủ, tôi tưởng mình đang chờ nó thức dậy để hai
mẹ coi cùng về nhà, nấu cơm chiều. Ông già day lại móc mồi, bâng quơ hỏi, cô
thấy không an sao?
Tôi nói không, nhưng nhận
thấy câu trả lời đó rất bất công với ông, tôi sửa lại, à mà có, cháu sợ mất
thằng Phiên.
6
Cảm giác mất mát trở nên
thật rõ ràng khi làm việc ở Viện di sản thiên nhiên và con người.
Ông già bảo vệ ở cổng
Viện có lần nói nụ cười cô Di như cái áo, mặc để giấu mớ bề bộn trong lòng,
chắc có đôi ba chỗ bị thương. Thêm một lý do tôi thích những ông bảo vệ, họ
biết tôi về khuya hay sớm, biết bữa tối tôi ăn xôi hay bánh mì, biết tôi có áo
mới, biết tôi vừa cắt tóc, biết cả ít chuyện riêng tư, “cái cậu chạy đò tên
Nhứt gì đó, chắc thương cô Di mà cô không để ý, nên lúc này không thấy lên nữa…”
Tôi giật mình, chắc không
đâu. Nhứt không tới Viện nữa bởi những xóm ấp ven sông trong lòng Nhứt không
còn. Lúc đầu Nhứt còn nhăn nhó lác đác, than vãn lai rai khi cái đình thần
Thạnh Hưng xây lại, sơn phết như “tuồng hát bội”, khi người ta làm cửa cho
những ngôi nhà vốn bao đời mở phơi lòng, khi người ta dẫn nhập nước mặn vào
đồng... rồi thì một bữa Nhứt tới chơi, nói, đi nhậu chị ơi, lần này nữa thôi…
Nhứt không tới nữa. Ấn
tượng cuối cùng về Nhứt là cậu ta quăng ly rượu vô vách quán bể nát, chửi thề,
“Quê tui còn mẹ gì, giống như cái biển vậy …”. Điều đó làm Nhứt khác chúng tôi,
Nhứt không chịu nổi sự mất mát. Còn người ở Viện đối mặt với mất mát hằng ngày,
hàng giờ, ở trong nó, ăn nó, uống nó. Họ buộc phải lựa chọn, hoặc không yêu bất
cứ gì, hoặc tập chai sạn trước nỗi đau. Cách nào thì dẫn con người về một chỗ:
vô cảm. Họ có thể giẫm lên những mầm cây vì tin rằng những cái cây này không
bao giờ sống sót được mười năm tuổi, khi cái xóm nghèo đang chực hờ gần đó. Họ
có thể nhấm nháp rượu rắn với chim sẻ nướng dù biết đó là những con cuối cùng,
họ đã giữ cuộc đời chúng bằng tiếng hót, bằng hình ảnh chúng sà xuống sân như
một bầy lá rụng… và đem cất trong Viện, là xong.
Tôi không còn thích ra
quán ngồi. Hồi đó tôi nghĩ đây là dịp mình gần anh Viện phó, được chào hỏi
những đồng nghiệp có khi chỉ mới gặp lần đầu. Tôi vẫn chưa mở được tất cả những
cánh cửa trong Viện giữa những chuyến đi về. Hiếm hoi trong những bữa tiệc tùng
quen được chị Hát lỡ thời, say đắm những cơn gió trời thích anh Đê bên phân ban
con người nhưng anh này lại mãi mê đeo đuổi vẻ đẹp lem luốc của những người thợ
mỏ. May mắn ngồi chung với một anh khét tiếng tắm ít, suốt ngày giang nắng cùng
những người đàn bà quang gánh. Mẫu của anh rất hay, những người phụ nữ có đôi
vai lệch và bên vai áo sờn, những đôi chân gân guốc vồng lên vì chịu nhiều sức
nặng. Những cuộc gặp cũng đôi khi xảy ra trên đường, có bữa lang thang trong
chợ trung du, tôi lén sổ lồng cho mấy con nhồng bị người ta bày bán, lúc bỏ
chạy tự dưng nghe tiếng xe máy sau lưng, ai đó kêu lên xe anh chở, tôi nghĩ lỡ
anh ta là người bán nhồng thì sao, mình đâu có ngu. Người đó thấy tôi cắm đầu
chạy hoài, kêu lớn, “dân di sản nè…”. Ủa vậy hả, tôi hí hửng nhảy lên xe ôm eo
anh, nghe đằng trước rầy vói lại, “em đúng là con nít, làm chi uổng công vậy
em, mấy con chim trước sau gì cũng bị bắt lại…”. Tôi nghĩ trong lúc thở
dốc, phải biết vầy mình chạy bộ luôn cho rồi.
Người của Viện đông,
nhưng họ cũng như tôi, đi níu kéo những mong manh, chỉ khác, họ hay đi cùng
nhóm, thực hiện những chuyên đề về làng nghề, những trò chơi dân gian, hay nghệ
thuật làng. Lâu lâu, thấy phòng đã lâu im ỉm bỗng dưng hé cửa, bật đèn, biết có
người về, tôi ló đầu vào làm quen. Sau đó nhậu nhẹt, khen nhau và chê nhau. Cái
anh hay theo mấy cô thôn nữ đội nước lên đồi cát chê anh nằm vùng trong những
hẻm lao động đem về mấy cái mẫu tầm thường, lem luốc. Anh này cười nói đẹp đâu
phải là mấy cô gái mặc áo dài đi qua cầu khỉ, đẹp là mồ hôi, là da sạm, tay
chai. Rồi thì gió qua đồng cỏ là cái đẹp xa xỉ và vô nghĩa, một cánh đồng xanh
mạ, hay rẫy bắp đang trổ cờ hay hơn nhiều. Rồi thì bồ câu là vứt đi, chim đồng
chim bãi mới đẹp. Rồi thì rừng núi mới kỳ bí, mới nhiều tầng nhiều vỉa cần khai
thác, chứ đồng bằng toang hoác, còn gì mà người ta chưa chạm vào đâu. mấy anh
phân ban thiên nhiên nói không con nào tàn phá gây hại như con người, đi tới
đâu thiên nhiên lụn bại tới đó. Mấy anh phân ban con người sôi máu, vậy thì anh
từ chối làm người rồi, con người mà không đẹp thì có gì đẹp nữa.
Lúc đó tôi ngồi rất gần
họ, mông bẹp lên xác kẹo cao su của họ, mặt dính dấp nước bọt của họ, mắt thấy
vũng ghèn và những bợ rau trên răng của họ, tôi bỗng nghĩ mười năm trước hẳn họ
vẫn còn rất đẹp, họ còn biết run rẩy, xốn xang, đau nhói trước cuộc đời, nhưng
không ai giữ vẻ đẹp của những người giữ gìn vẻ đẹp, cũng như không ai lãnh đạo
lãnh đạo những người lãnh đạo, không ai chiến đấu cho những người chiến đấu.
Bỗng dưng cái sự gấp gáp trỗi dậy, tôi sực nhớ mình cần đi tới sông kia, suối
nọ. Bỏ cuộc chơi giữa chừng, ai đó càm ràm, nhỏ này đi như điên, không mệt hả?”
Tôi xốc ba lô lên vai
ngoái lại cười, mệt sao được, em có tới bốn cái chân.
7
Suốt một mùa mưa, tranh
thủ nước trời tôi cắm mặt vào rẫy. Mây treo phía lưng tôi mỗi ngày năm bảy
tiếng đồng hồ. Trong khi tôi cuốc giồng này thì giồng rau muống đã vượt khỏi
gang tay, bên kia cải vừa gieo hạt, nhưng những cây còn sót lại đã lên ngồng.
Tôi giành đất với lau sậy, lấn từng giồng, từng giồng. Sao cho mỗi khi xóm Cồn
có xuồng đi chợ là có mớ đồ rẫy tôi gởi theo. Và với Phiên mỗi chuyến xuồng về
là một cuộc hội hè với bánh kẹo, quần áo mới.
Tôi
chờ bí ra trái. Tôi chờ ổi ra trái. Tôi trồng những cây lâu năm. Đôi khi tự
thấy hành động này cũng giống như ông già Sáu ngồi bên sông với cần câu lưỡi
chữ i, tôi đang neo cặm mình vào mảnh đất này, nuôi Phiên lớn.
Người
xóm cồn đi qua rẫy tôi nói, cô Trầu làm lụng như có tới bốn tay. Ểnh người, một
tay chống nạnh, một tay đấm lưng, tôi lặng đi, nhớ đứa bạn tên Lam.
Hồi
học cấp Ba, khoảng giáp Tết, Lam giới thiệu tôi và đội sơn nhà của chú nó. Phần
việc của tôi là lon ton bên dưới, Di ơi lấy giùm thùng sơn, Di, lấy cho cây cọ,
giấy nhám đâu rồi, Di và Di, dời thang. Tôi rất thích được kêu Di ơi suốt. Tôi
thèm muốn mình được gọi tên, đến nỗi có lần mướn thằng nhỏ bán vé số, nói nó
kêu Di ơi đi tôi trả năm ngàn. Nó nói vậy tui làm má bà hen, rồi chống nạnh
riết róng, “Di, mầy trồi đầu về đây tao biểu coi…”. Thấy tôi trào nước mắt, nó
cụt hứng, càu nhàu, “thôi bà khùng quá bà ơi, tui lấy tiền của bà chi...”
Nên
tôi ưa làm sai vặt, khoái cảm với những lời rầy rà la mắng. Đi sơn tường càng
thích vì khi lơ lửng trên cao người ta hay kêu tên tôi. Lam hay ghé qua công
trình của chúng tôi, nói tiện đường… Mọi người cười, sao không nói thẳng là mê
gái, mậy? Tôi lừ đừ không ngó tới, miết giấy nhám vào vách tường loang lổ. Tôi
không thích Lam nhà giàu rảnh rổi, mới lớp mười một mà đòi yêu đương. Tôi ghét
cái tên không biết là trai hay gái, ghét chiếc xe máy tiếng nổ như xé vải. Tôi
ghét Lam cha mẹ đủ đầy, thậm chí còn dư mấy má nhỏ ở quận hai quận tám. Tôi
ghét cái đầu tóc dày hất ngược bồng bềnh, ghét luôn nước da trắng và cái mũi
thẳng, ghét như thể trời lấy hết của tôi để ban cho Lam.
Lam
biết, nhưng nó vẫn thích tôi, cuộc sống của một thằng con trai muốn gì được nấy
không phải lúc nào cũng gặp một thách thức thú vị như vậy. Một bữa đúng lúc Lam
đảo qua nói vo ve, tôi dời cái thang chữ A ra ban công, thang nhôm chạm vào dây
điện trung thế làm tôi chết giấc.
Lúc
tỉnh dậy tôi đã sống cuộc đời khác. Người ta kể Lam vì cứu tôi nên đôi tay bị
cháy, có thể phải tháo khớp tận vai. Có vẻ như ông trời đang lấy của Lam để
chia chác, mà tôi biết làm gì với một đôi tay nữa, chỉ một thôi đã quá nhọc
nhằn rồi.
Nhưng
tôi không có chọn lựa nào, Lam đã cho rồi, tôi phải nhận. Thăm Lam khi vừa tỉnh
dậy, nó khóc, tôi mếu máo nói, “thôi đừng buồn, tui sẽ lấy Lam làm
chồng”. Lam ngoẹo đầu qua bên vách, cố giấu cơn khóc dữ dội hơn, khóc mà không
có tay để giấu mặt, không có tay để lau nước mắt. Hồi đó, báo chí ca ngợi Lam
như một anh hùng, nhiều cơ quan tới tận giường tặng bằng khen, tặng tiền, tặng
nước mắt cảm thương. Lam trả lời tám cái phỏng vấn, nói tôi không hối hận.
Lam
nói không hối hận. Nhưng mắt nó nói tôi hối hận. Mặt nó nói tôi hối hận. Đôi
tay áo trống rỗng phơ phất của nó nói tôi hối hận. Tôi chưa bao giờ thấy nỗi
buồn nào giống vậy, buồn vì đã làm việc tốt. Buồn vì đã tốt. Những lần tôi tới
chơi, vui thì Lam để tôi đẩy xe đưa nó ra vườn, buồn thì nó đuổi thẳng, về đi,
tui không cần thương hại. Tôi chối nhưng ánh mắt tôi đã phản bội, nó nói rõ
ràng, tôi thương hại. Không bao giờ mắt dám nhìn thẳng vào đôi vai trụi trơ.
Tôi
cố dặn mình hãy nhìn vào đó công bằng như nhìn một người lành lặn, công bằng
như nhìn thằng bạn mà mình căm ghét, hãy cười ha ha và nói đáng đời mầy, ai kêu
mày giàu, mày sung sướng, giờ ráng chịu. Những buổi tối làm việc ở nhà hàng,
tôi cắt cánh gà, nhìn vào cái thân mình trụi lủi của nó, thấy không có gì là
khó. Nhưng Lam không phải con gà, hay cái cây bị tỉa nhánh. Và nếu quyết định
gắn bó suốt đời, thì chúng tôi sẽ làm tổn thương nhau trong lúc nhìn nhau, âu
yếm nhau, liệu chúng tôi có chịu được không, tôi nghĩ nát cả tuổi mười bảy. Lam
nói không được đâu, nó nói bằng cách nhảy từ ban công tầng ba xuống. Tôi bắt
đầu sống bằng hai người, nhưng việc đó cũng làm tôi tàn tật.
Nghe
câu chuyện này, anh Viện phó kêu, thôi khóc nhiều rồi, từ giờ em nín đi. Nhưng
tôi đâu có thấy mình đang khóc.
8
Chuyện
của Lam, tôi kể Anh nghe trong một tối trời mưa. Cúm rúm trong một căn lều ở
bìa rừng, lớp lá mục dưới chân ngấm ướt, phải ngồi chồm hổm, hai chân tê rần,
tôi lóng ngóng hết ngó Anh lại nhìn ra cửa lều bóng đêm đã bịt kín.
Anh
ở quá gần. Với tay là tới. Bồn chồn, bối rối, sốt ruột không che giấu được, Anh
đánh mất vẻ kiêu bạc, ngạo ngược thường ngày, tôi ao ước phải chi mình là lý
do, chứ không phải vì cánh rừng năm hai trăm năm tuổi này.
Năm
sau, người ta sẽ san phẳng chúng và trồng lên một khu công nghiệp lớn nhất
nước. Chúng tôi được lùa tới đây, làm chuyên đề rừng, mong vớt vát được chút gì
trước khi nó biến mất. Nên tôi được đi công tác cùng anh, chuyến đầu tiên, đêm
đầu tiên. Nhưng không phải lần đầu tiên tôi nhìn thấy sự vật vã của một “con
nghiện rừng”, một biệt danh mà trong giới ai cũng biết. Cái hôm nào đó, khi Anh
mướn vai tôi để vùi yếu mềm vào đó, cũng có cánh rừng qua đời.
Nên
dù giờ Anh vẫn giả lơ, vẫn giữ vẻ lạnh lẽo như chưa từng thuê tôi làm bồ, dù
nhiều khi cả tôi cũng hoài nghi, biết đâu người giống người thôi. Chỉ khi tôi
mở tất cả những khay dữ liệu mang tên Anh, tôi biết chắc đây là người tôi tìm. Mẫu
của Anh nhiều lần làm tôi suýt rớt nước mắt vì tuyệt vọng. Vẻ đẹp của những tán
rừng lúc nào cũng chực bứt ra khỏi máy móc, đòi sự sống, đòi hơi thở, đòi không
khí trong lành… Nghĩ, nếu ai đó đã yêu đến vậy thì không thể yêu con người nữa.
Nên
Anh có kiêu hãnh hơn, lạnh lùng, mai mỉa hơn tôi cũng không ngạc nhiên chút
nào. Chỉ thấy lạ khi con người đó trở nên đa cảm trước sự mất mát. Mười lăm năm
Anh làm việc ở Viện, bỗng yếu mềm như một đứa mới vào nghề, trong một tối mịt
mùng mưa.
-
Nghe lời tôi, em đừng yêu bất cứ gì.
Tôi
nghĩ thầm, sao làm được ta, mình có tới hai trái tim mà.
-
Trời đất, em yêu luôn những cái đã mất rồi.
- Kể
tôi nghe đi, em đã mất gì?
Tôi
cười, nhưng cười không phải là một câu chuyện để nghe. Giữa cô quạnh, không có
chiếc xe nào chạy qua, không có người nào đi qua, tôi không có gì vớ lấy để đắp
những hố thẳm trong tôi lại.
-
Sao em không nói? Em nghĩ trên đời này có người nào muốn nghe em hơn tôi sao? Anh
hỏi.
Ngay
giây phút đó, tôi không bao giờ mặc cái áo cười trước Anh nữa. Tôi là tôi, trơ
trụi xơ rơ, gân guốc bụi đời, và rửa mặt mỗi ngày bằng nỗi muộn phiền bảng lảng.
Quá nhiều chuyện tôi muốn kể Anh nghe, nhưng tôi bắt đầu từ Lam, người khiến
tôi đi nhanh, sống gấp. Như nàng Sheherazade của thiên truyện Nghìn lẻ một đêm,
tôi để dành vài câu chuyện cho lần sau, sợ không biết nói gì vào dịp thứ hai,
đêm thứ hai.
Lúc
đó tôi không nghĩ sẽ cùng Anh đi tận những đất trời. Lúc đó thì tình yêu là
chiêm bao. Bởi sáng sau thức dậy ở cái bìa rừng đẫm nước, Anh lại là ông sếp
dày dạn, thông minh, giỏi giang mà lạnh trơ. Một bữa tôi theo những triền sông
tìm những lò rèn, lò cốm, những vườn trầu, cau còn sót lại… ham quá không hay
chuyến đi đã dài hai mươi bảy ngày. Về Viện, anh đón tôi bằng ánh mắt rát mặt,
giận dữ nói “sao em không đi luôn đi?”. Mà kỳ thiệt, anh lại kéo tôi ôm vào
lòng.
Khoảnh
khắc đó tôi đã biết âm thanh đẹp nhất của cuộc sống là tiếng của một người nói
yêu một người. Tôi mới vừa nghe xong. Nhưng tôi phải tỏ ra không cảm động gì
cả, khi rời khỏi căn phòng đó, khi gặp một đồng nghiệp ái ngại hỏi, “bị sếp
giũa te tua rồi hả?”. Tôi cúi đầu buồn tủi cho giống như cô nhân viên ít thâm
niên xốc nổi, hay mắc lỗi vừa bị ông sếp khắt khe rầy rà. Thành phố giống như
một sàn diễn lớn, và chúng tôi đang cố tròn vai.
Những
lần về thành phố lúc cuối tuần, giống như diễn viên chờ tới lượt mình ra đèn,
tôi vạ vật ngồi quán ở ngã tư Sương, uống một ly cà phê đá cùng bảy ly trà đá,
ngồi từ sáng tới chiều, mong bắt gặp Anh chạy xe qua để nhìn mặt, vậy thôi. May
mắn thì sẽ thấy Anh đi dạo cùng gia đình, đứa con cao nhòng nên phải khoanh
tròn trong lòng ba nó, đằng trước. Vợ Anh ngồi sau thổi nhẹ một câu nói nào đó
vào vành tai chồng. Chị là tiến sĩ xã hội học, đẹp và thông minh. Tôi đọc những
bài viết sắc sảo của chị in trên báo, thấy chuyện chị không nhận được tình yêu
trọn vẹn của Anh chỉ vì lúc mặn nồng chị luôn mở mắt nhìn, thiệt là lý do vô
duyên. Anh thì không nghĩ điều đó là ngớ ngẩn, “tôi cảm giác như cô ấy đọc tôi,
dò xét tới gan ruột tôi. Ngay cái lúc con người bản năng nhất, thì cô vẫn lý
trí, vẫn suy nghĩ”.
Tôi
cũng thường suy nghĩ lắm, khi quấn nhau, khi mê miết da thịt nhau đến tan thành
khói, thành nước. Tôi nhớ mẹ, ước phải mẹ còn sống, mẹ sẽ dạy tôi biết giữ gìn
và chờ đợi, tôi sẽ yêu từ từ. Chuyện mở khuy áo hay không làm tôi bối rối cũng
nhiều, bỗng nghĩ không nên hoãn tới cuộc gặp sau, khi tôi đã mất Anh một lần mà
không biết tìm đâu, khi chỗ chúng tôi ở, nơi chúng tôi tới hay vừa rời khỏi,
mọi thứ đang đứng bên bờ vực diệt vong, và chúng tôi sẽ cùng nhau bao lâu? Nhưng
dù là lần cuối cùng tôi áp môi lên môi Anh thì tôi sẽ đẹp đến phút cuối cùng. Tôi
không muốn “phải chi…” một điều gì đó về Anh, sau khi đã dai dẳng hối tiếc,
phải chi tôi đừng có lẻo đẻo theo mẹ hỏi về cha tôi, phải chi trước tai nạn Lam
nói gì tôi cũng ừ…
Yêu
nhau phải đến trăm lần cuối. Tôi hầu như về Viện rất vội, nộp mẫu, thanh toán
những khoản phí, tôi lại khăn gói lên đường. Giữa thành phố tôi ngày càng ngơ
ngác, nên có bữa kêu anh xe ôm từ bến xe về cơ quan, anh này chạy lòng vòng qua
tám ngã tư ba ngã bảy, nhưng tôi chỉ trả tiền bằng đoạn đường ngắn ngủn mà tôi
biết, thấy anh định há miệng ra cự nự, tôi cười, ủa, tôi tưởng anh chạy lòng
vòng là vì anh thích tôi. Bữa khác về cơ quan gặp một người đàn ông đang đứng
tra khóa vào ổ, tôi khều vai ông, lộn phòng rồi chú ơi, đây là phòng viện
trưởng đó. Ông già ung dung cười, “Thì chú là viện trưởng mà. Cháu mới vô làm
hả?” Tôi bật ngửa, dạ cháu làm được năm rưỡi rồi. À, ra vậy… Ông nói bằng cái
giọng ung dung, lúc nào cũng ung dung, rót trà ung dung kể chuyện nằm viện vừa
qua, ung dung bấm ngón tay, còn bốn tháng mười bảy ngày nữa ông mới nhận quyết
định hưu, vội gì.
Sự
ung dung, chậm rãi làm nhiều cấp dưới sốt ruột, trong đó có Anh. Người ta ung
dung trong lúc thiên nhiên vẫn không ngừng biến mất.
May
nhờ hẹn hò khiến cho nỗi chờ đợi trong Anh dịu cơn quay quắt. Hẹn hò hay lắm.
Người này đón ở con đường người kia chắc chắn sẽ qua, rất xa thành phố. Vẫy
đúng chiếc xe tình yêu đang ngồi, rủi trên xe đó có người quen với chúng tôi,
một trong hai đứa sẽ nói, “trời, trùng hợp quá, anh (hay cô) đi đâu vậy?”, rồi
ai đó xuống dọc đường. Hành trình có trắc trở chút đỉnh, nhưng rốt cuộc chúng
tôi cũng được lang bạt với nhau.
Có
bữa đi tới cái thác có mỏm đá trông giống đầu con voi, ai đó đắp thêm cái ngà
bằng bê tông cho người ta khỏi mắc công tưởng tượng, Anh cười chua chát, “Con
người trừng trị thiên nhiên bằng cách hạ nhục, hủy hoại nó. Còn thiên nhiên trả
thù bằng cách nào em biết không? Nó biến mất”. Tôi trân trọng những lời này
cũng như câu “anh yêu em”, ghi nhớ dài lâu, cảm kích như đứa học trò ngưỡng
vọng ông thầy giỏi.
Có
bao nhiêu tình tôi yêu hết, tật tôi vậy, xưa thích cây kẹp tóc mà mẹ mua cho,
lỡ để mất, tôi cắt tóc ngắn luôn. Một bữa tôi rủ Anh ghé qua một cái quán nước
vùi giữa bụi đất đỏ, gặp người đàn ông tóc chải mướt ngồi đằng trước, miệng
ngoắc ngoắc cây tăm, vuốt ve âu yếm mấy con gà nòi. Vợ ông cỗi cằn, héo quắt
bưng cái bụng bầu nhọn lểu với hai ly nước mủ gòn ra, xởi lởi khoe, “trước đẻ
toàn con gái, giờ mới kiếm được con trai nè, ông chồng mừng húm…”. Tôi day qua
ngó người đàn ông, thấy mình tệ hơn mấy con gà, bàn tay đó đã lần nào ve vuốt
tóc tôi? Nghĩ vậy, nên níu Anh đứng dậy đi, chân bước chới với.
Coi
như đó là câu chuyện cuối cùng liên quan tới nhân thân tôi. Nhưng vua vẫn để
Sheherazade ở bên mình, bởi vua yêu nó không phải vì những câu chuyện của nó. Vua
yêu tâm hồn xanh xao của nó, yêu những quạnh hiu được che giấu bằng vẻ ngoài
mạnh mẽ, yêu sự giản dị và và vẻ đẹp rực lên bất chấp bao nhiêu mất mát. Yêu vì
khi khám phá tận cùng nhau, bỗng thấy nỗi đau, niềm đam mê, sự vơ vất, hoang
mang của người kia cũng giống mình. Yêu vì khi vua kể chuyện đi rừng, những dã
hương, chiêu liêu, sến mũ … đã tuyệt vong nó không bao giờ ngủ gật, luôn háo
hức mở tròn con mắt, dạ dạ, ui trời, vậy hả anh, tiếc quá… Nó cố giấu tuyệt
vọng ứa ra đầu lưỡi, như một hôm nào còn làm cô bồ mướn, nó nhìn thấy ở người
đàn ông này một nỗi cô đơn vô tận. Khi đó, Anh thuê nó vì cần một người nghe. Anh
kêu cứu cho rừng trên tivi, báo chí, trên những diễn đàn, hội thảo, nhưng rồi
chỉ còn mình nó nghe, chia sẻ, nhưng chỉ nó nhỏ nhoi thôi thì có ích gì?
Nên
Anh vẫn quay quắt chờ đợi, một lúc nào đó, tiếng nói của Anh sẽ làm thay đổi
hàng triệu người. Có lần Anh rủ tôi ghé tạt ở nhà hàng bên đường, chị chủ quán
trạc tuổi Anh, là người quen cũ, đã chớm đẫy đà, mà đằm thắm kinh khủng. Mừng
đến mắt như cháy ngút lên, nhưng vẫn đằm thắm, “coi anh vui hơn hồi trước”. Chị
hỏi thăm năm ba người quen có còn ở Viện, hỏi thăm những đứa con đang học lớp
nào, hỏi thăm rừng Chớp, thủy tùng Lac Deo… còn hay mất, hỏi thăm cái suối lần
mình bị kẹt lại vì lũ quét còn hay mất, hỏi thăm những người hát dân ca trong
bộ tộc Tai Nát còn hay mất? Câu nói, nụ cười quấn quýt. Một hồi thấy có đứa nhỏ
rớt ra ngoài câu chuyện của hai người, Anh day sang tôi nói, trước Trúc làm ở
cơ quan mình. Tôi cười nói, dạ, em biết rồi. Ở kho lưu trữ của Viện nhiều lắm
những mẫu mang tên chị, gắn bó duy nhất với vùng đất Thổ Sầu.
Nhưng
mẫu của chị, và của Anh nữa, đã dừng lại ở mười hai năm trước. Mười hai năm
trước, người ta bắt đầu tới vùng thảo nguyên Thổ Sầu xới tung nó lên khai thác
quặng, nơi đó biến thành một đại công trường. Chị đưa đơn nghỉ việc. Anh từ giã
rừng, nhận chức viện phó người ta đã từ lâu mời mọc. Anh cưới cô bạn học, con
gái của thứ trưởng. Bước vào đường quan trường, Anh muốn đi tắt, muốn chạy mau
mau đến cái ghế viện trưởng, rồi bộ trưởng, Anh sẽ vào hội đồng thành phố, hội
đồng trung ương, Anh sẽ cứu được những cánh rừng bằng tiếng nói của mình. Anh
sẽ giữ được chúng bằng quyền lực. Hơn ai hết, Anh hiểu cái mà Viện đang gìn giữ
là vẻ đẹp không hoàn hảo, chúng đã chết một phần, chúng không có cảm giác trên
da thịt, không có mùi, vị… Chúng là sự níu kéo vô vọng của con người.
-
Chờ đợi làm anh sắp chết, may nhờ em…
Tôi
xỏ những ngón tay khô cứng của mình vào mái tóc dày của Anh. Lại nghĩ, có thể
đây là lần cuối cùng tóc Anh xước nhói vào những ngón tay này. Chút nữa biết
đâu có một cuộc gọi từ thành phố, Anh sẽ được thứ Anh muốn được. Và sân khấu đó
sẽ giữ Anh lại, vì Anh đã là nam chính rồi, tôi cứ thì thụt mãi vai nữ tì, lâu
lâu mới dạ dạ chạy ra.
Và
tôi sẽ tội nghiệp lắm, khi xó xỉnh nào cũng có kỷ niệm với Anh. Nhà trọ nằm
trên dốc Mùa Sương, nơi tôi mở chiếc khuy đầu, phiên chợ chúng tôi tháo cũi cho
hai con khỉ bị người ta xách dao rượt chạy trối chết, nơi kẻ trước kẻ sau è ạch
đẩy chiếc xe máy xẹp bánh trên hàng chục cây số đường rừng, và thung lũng Khơi
Ma một ngày mưa giông ngợp ngụa, tôi nói, anh ơi, em có thai rồi.
9
Phiên
lớn từ bữa nó treo toòng teng trên võng hỏi, “mẹ ơi, sao anh Thơ khùng có ba,
còn con hong có?”.
- Có
chớ con, ai cũng có ba hết.
Ngay
lập tức, trên môi thằng nhỏ có câu hỏi khác đã thập thò, và dấu chấm hỏi quăng
ra bỗng như xóc ngược cái móc nhọn vào cổ tôi, nghe đau đến trợn trạo miếng
cơm, “vậy ba con đâu?”
Phiên
không bao giờ để tôi nợ lại bất cứ câu hỏi nào của nó. Mà nó thì hỏi cho tôi
nghẹt thở, cứng họng mới thôi. Nhưng tôi không muốn ngăn nó lại, bởi hỏi cũng
là một vẻ đẹp. Mẹ ơi nước dưới sông chảy chừng nào mới xong, sao con chuồn
chuồn này màu đỏ mà con kia lại đen, sao con chó Vện cũng già lại không có tóc
bạc giống như ông Sáu? Trả lời muốn đứt hơi rồi, nhưng vừa dứt tiếng nó đã nhảy
tọt vào câu hỏi mới. Hỏi và tin, và thích đào bới tận cùng.
Hồi
nhỏ tôi cũng tin có tận cùng. Nhưng mẹ tôi không có tận cùng nào cho tôi, bởi
trong lòng mẹ cũng bị tình yêu bỏ lửng một câu trả lời. Lớn lên tôi đánh mất vẻ
đẹp hỏi, tôi dần từ bỏ nó, xa lánh nó. Bởi càng lớn càng hoang mang trước cái
gọi là tận cùng, hoặc không có tận cùng hoặc tận cùng là cái gì đó mơ hồ, nhưng
buồn. Cảm giác đó tôi trải qua rồi khi đi tìm cha tôi, lần đầu.
Giờ
Phiên cũng đi tìm ba. Tôi kể có một người cha gánh trọng trách bảo vệ những đôi
tay đẹp, những loài cây quý, những cái cây tỏa hương từ phiến gỗ chứ không cần
đến hoa. Người xấu muốn cướp đôi tay của trẻ con để chúng khóc mà không có gì
lau nước mắt, muốn đốn cây về chụm củi cho lửa… thơm. Anh ta phải chiến đấu với
người xấu bao giờ xong mới về, mà có thể mãi mãi không về vì ngày càng có nhiều
người xấu. Thằng Phiên ngồi mặt chảy ra, quần xoắn cao tới bẹn, đầu gối vượt
khỏi lổ tai, ngẩm ngợi, “tội nghiệp ba con thiệt, chắc ổng nhớ con…”.
Người
xóm Cồn khen thằng Phiên có nhiều nét giống tôi, nhưng những khi kỳ cọ cho nó
bên dòng nước, tôi chỉ xuống mặt sông xao động, nói, giống ba in hệt. Nó sung
sướng lắm, “trời, vậy là ba cũng đen thùi lùi vầy hả?”.
Tuổi
lên sáu Phiên nhận được từ tôi một món quà hơi đặc biệt, những chữ cái đầu
tiên. Cái ca. Trái cà. Con gà. Nó không đến trường, một phần vì cồn không có
trường. Nhưng bên kia sông có. Tôi không đưa Phiên qua vì nghi ngờ trường học
làm những đứa trẻ biến mất. Tôi đã thấy trẻ con đi vào đó, và trở ra như những
người lớn mệt mỏi, muộn phiền. Tôi giữ cho tuổi thơ Phiên đẹp như Phiên có. Hoang
dã. Trong veo.
Thằng
Phiên chấp nhận điều đó, vì qua sông có thể bọn người xấu nhận ra nó là con của
chàng dũng sỹ, và bắt nó để ép chàng đầu hàng. Mà bên sông người ta không cho
con nít tự ý vào nhà người khác, lục cơm nguội của người khác ăn, ngủ trên
giường người khác… Họ không thích con nít nhấc chân như con chó vện, đái vô
những bông bí, làm tụi nó héo quéo. Ở Cồn thì chuyện đó là bình thường, không
sao hết.
Nhưng
thằng Phiên hay nghĩ ngợi. Lúc suy nghĩ nó sẽ lấy cọng lông gà ngoáy lổ tai,
lim dim khoái cảm, sau đó nó gật gù, nếu đái vô bông bí thì bông bí sẽ ngộp
thở, tội nghiệp. Tội nghiệp là câu đầu môi của thằng nhỏ. Chúng tôi không ăn
những con cá nhỏ vì tội nghiệp, không nhổ cải đi bán vì tội nghiệp và kết quả
là tôi có một giồng bông cải thắp nắng lộng lẫy giữa mùa mưa, khi trong túi lép
kẹp tiền. Và những con cá mang bụng trứng no tròn sẽ được chúng tôi trả lại cho
sông. Mấy bà tiên đi ngang Cồn, thấy Phiên tốt bụng quá nên tặng nhiều quà,
những khi nó ngủ. Lúc thức dậy đã thấy trên vạc có cây viết chì, hay những cục
kẹo xanh đỏ, cục đạn cu li, mấy củ khoai nóng hổi còn mặn bụi tro… Đôi khi nó
giả bộ nhắm mắt ngủ để rình coi mặt bà tiên, nhưng tiên biết nó thở làm sao mới
là ngủ thiệt. Ngủ giả thì tiên ghé làm gì.
Tôi
lặng nhìn Phiên đẹp qua tuổi thơ bận rộn của nó. Buổi sáng đi dài xóm ngửi mùi
khói bếp coi nhà nào có đồ ăn ngon nó sẽ ghé chơi. Sau đó tới giờ radio ca cải
lương nó sẽ nghe với Thơ khùng, sẽ đứng một chân hay đứng bằng cả bốn chân tay,
tùy hôm đó cả hai là vịt hay chó. Ngủ trưa lang chạ ở đâu đó, bất cứ giường nào
võng nào của bất cứ ai, thức dậy nó sẽ tới chòi chơi với ông Sáu. Trên đường di
chuyển giữa chỗ này qua chỗ nọ, gặp nhãn lồng chín nó ngoẹo đầu đớp ăn luôn
trên cây như chim trao trảo, khỏi phải thò tay hái mắc công. Nó thử coi ổi chua
hay không cũng bằng cách này, nhá cái răng chó nhọn hoắc lên những trái vẫn
đang lủng lẳng trên cành, thấy vừa thì ăn, còn chát sẽ bỏ đó chờ thêm ít bữa. Vừa
ta bà ăn chơi vừa ngó trời, thấy chuyển mưa nó chạy về nhà giúp tôi gom củi đem
cất trong bếp, bắt mấy con gà con vô nhà.
Có
khi nhìn thằng Phiên nằm ngủ, mấy con gà con cũng khoanh tròn trên bụng nó, tôi
tự hỏi có gì đẹp hơn vậy. Có gì đẹp như trẻ con, gà con, như mạ vừa nhú lên, cỏ
vừa vượt đất. Xanh
lấm tấm. Xanh chưa thẳm. Mong manh.
Phiên càng mong manh. Nó
thường ngoái lại cái chợ chúng tôi vừa rời khỏi, hí hửng xài luôn tiếng chửi
thề vừa mới học ở đó, “má nó, cục kẹo này ngon tàn bạo…”. Phiên thích ríu ran
kể những chuyện giang hồ nó nghe được từ những chiếc ghe hàng bông tấp vô Cồn
nấu cơm hay tránh giông, nó thường đứng dưới những cây bần quỳ già cỗi, ngó về
bên kia bờ, đã thấy lốm đốm những mái nhà thay cho màu xanh của những bờ lá
rậm. Ở đó có đứa con gái hay theo mẹ qua đây mua đồ rẫy về bán lại, con nhỏ
lanh chanh, hay nhỏng nha nhỏng nhảnh kêu Phiên, “quỡn đứng đó làm gì, xách
giùm cái này coi...” Thằng Phiên lúng búng chạy mất, nhưng lén ngó theo khi
xuồng họ đã buông bờ.
Nó thấy cái cồn Bần này
dường như không đủ. Nó cô đơn, và không thể che giấu điều đó, giống như tôi.
10
“Đồng cỏ bạn đang
dạo chơi một ngày kia sẽ biến mất. Dòng sông bạn đang tắm một ngày kia sẽ biến
mất. Tiếng chim hót ban mai một ngày kia sẽ biến mất. Những người thân yêu của
bạn một ngày kia sẽ biến mất. Bạn có muốn giữ lại tất cả những gì mà bạn nghĩ là
đẹp nhất, tinh tế nhất, quý giá nhất của thế giới này? Hãy tới làm việc với
chúng tôi…”. Mẫu rao tuyển nhân viên
vừa đa cảm vừa bí ẩn của Viện di sản thiên nhiên và con người khi đến tay tôi
là một mảnh giấy gói thuốc Bắc, phảng phất mùi cam thảo. Tôi cất rất kỹ. Vào
năm thứ ba làm việc ở Viện, có nhiều đêm tôi lấy ra đọc đi đọc lại, như nuốt
trộng chúng, lục cục ở cổ họng, thấy đau.
Đó là quãng thời gian tôi
sắp làm chuyên đề về thời thơ ấu của con người. Tôi muốn dõi theo một đứa trẻ
từ khi sinh ra, khi toan tính, cám dỗ, vật chất chưa làm phai đi chất thánh
thiện của nó. Tôi viết đề cương sau một thời gian đi xa hơn mọi cuộc đi xa. Tôi
đón bất kỳ chiếc xe nào, vì những chuyến xe rời thành phố không mang anh theo
nữa. Tôi cười nhiều hơn, và khi gặp anh bởi những chuyện buộc phải gặp, thấy
cái nhìn ngạo nghễ đã hao hớt bởi sự dằn vặt, tôi buồn. Vì tôi đã giỡn với anh,
hơi vô duyên khi một hôm nào nói, anh ơi, mình có con rồi.
Một mối tình có trăm kiểu
bắt đầu, cũng nhiều cách kết thúc, một trong những cách đó là cô gái nói, anh
ơi, anh sắp làm cha đó nghen. Tình yêu chấm hết ở một cái vẫy tay không hẹn
gặp, ở một phòng khám sản khoa kín đáo, hay ở một đám cưới bỡ ngỡ, vội vàng.
Khi tôi nói câu đó, tôi giả đò rất bâng quơ, nhẹ nhỏm, nhưng rủi quá, đang nai
nịt máy móc để lội qua suối Nang Oi sùng sục nước, nên trong lúc quàng chéo sợi
dây dù lên vai, tôi kịp thấy vẻ bất an, bối rối và bàng hoàng, đến nỗi tôi
nghĩ, mình vừa nói mất cánh rừng nào sao ta, một người sinh ra tương đương với
một mảnh rừng bị mất? Tôi tính khi qua bờ bên kia sẽ ôm bụng ngặt ngẽo cười,
“người ta nói giỡn mà có người tưởng thiệt, haha …”.
Nhưng lúc qua suối tôi
gặp một tai nạn, gọi là nhỏ vì tôi chưa chết, gọi là lớn vì tôi suýt chết, nước
đã dìm trôi một quãng, rồi quăng quật vào một gờ đá nổi bên bờ. Tôi thấy đau
đớn rã rời, người ướt ròng, khóc như vắt nước mắt. Không phải vì sợ hãi, không
phải vì mớ máy móc chuyên dụng đắt tiền đã ướt mèm, tôi khóc vì đã sang bờ
nhưng không thể cười và nói em giỡn anh ơi….
Anh không dỗ, vơ vất ngó
quanh vì anh biết lý do tôi khóc.
Chúng tôi chia tay nhau.
Thành phố mừng húm, nó
níu tay anh lại. Những cuộc gặp thưa vắng đã làm an ủi cả hai. Lần cuối cùng
gặp anh là hôm tôi trình bày đề cương “thơ ấu đời người…”. Tôi gõ vào cánh cửa
và đẩy nhẹ nó, thấy buồn, khi đây không phải là cánh cửa quen mở ra căn phòng
quen gặp một người quen. Nó không có tiếng kêu kèn kẹt đầy bí hiểm như sắp mở
ra một kho báu tuyệt vời. Phòng viện trưởng rộng hơn, sang trọng hơn với những
chiếc ghế bọc nhung, lạnh lẽo, ngăn nắp, đèn nhiều hơn và Anh cô đơn hơn. Khi
biết địa chỉ đứa trẻ tôi chọn để làm chuyên đề, Anh tần ngần:
- Em hy vọng gì khi tới
đây? Có thể sẽ rất buồn…
- À, em có vài thắc mắc ở
đó…
Tôi bỏ lửng vì thấy nó
hơi riêng tư, liên quan tới tình yêu của mẹ tôi mà. Anh không hỏi nữa. Không
biết dự cảm nào mà hôm đó anh bắt tay tôi rất chặt, làm tôi đau quá. Tôi tự hỏi
sao khi đi giữa dòng suối ngầu sôi kia, khi thấy tôi chới với, anh đã chụp tay
tôi rồi, cũng chặt như vầy, nhưng anh đã buông, anh thả những ngón tay anh cũng
nhanh như khi nắm vậy. Tôi đã chìm ngay lúc ấy, dù sau đó anh sực tỉnh rướn
theo, chới với tìm. Giữa dòng nước hung hăng, có con nhỏ chết trôi. Vào khoảnh
khắc đó anh đã nghĩ gì, nghĩ gì, nghĩ gì? Tôi tự đưa ra nhiều giả thuyết, nhưng
kiểu nào cũng có chút liên quan tới lời nói đùa kia, nó giống như sương mù làm
con đường anh đi trở nên mù mịt. Anh mất bình tĩnh, muốn vùng vẫy rũ bỏ.
Giờ tự tôi khép tôi lại.
Vừa kịp đón chuyến xe chiều đi tới một vùng đất đỏ, một quán nước quen, nơi có
bé trai vừa chào đời, đứa em cùng cha khác mẹ với tôi.
11
Tôi thấy Phiên lần đầu
khi nó mới hai mươi hai ngày tuổi. Tay chân nó
ngắn khụi, tóc ít, da đầu mịt vảy cứt trâu. Nó ngủ nhiều, bú nhiều, bụ bẫm căng
tròn, chân tay như mấy đoạn củ sen gắn lại, nhìn đâu cũng thấy ngấn đầy.
Tôi ghi lại hình ảnh mụ
bà dạy Phiên cười nhoẻn trong giấc ngủ. Nó đái bổng lên trời. Nó mơn man vú mẹ.
Trán nó lấm tấm rôm sẩy. Cổ nó bị hăm đỏ. Nó nhảy mũi hoài. Tôi thu tiếng khóc
của nó lúc nửa đêm, tiếng nó mút sữa…
Tôi ở lại luôn nhà của
cha tôi, gọi ông là chú Tư. Giữa kỳ làm chuyên đề, có lúc tôi đi công tác một
nơi khác, lúc quay lại, ông hay hỏi “ba má cô cũng mạnh giỏi?”. Tôi gật đầu.
Ông vui khi biết một viện tầm quốc gia chọn thằng nhỏ con mình làm nhân vật của
họ. Trong ký ức ông không còn hình ảnh nào của tôi, đã đứt bằn bặt. Tôi không
lấy điều đó làm buồn, vì năm đứa con gái lớn lên bên ông mà đôi khi còn bị lẫn
lộn tên. Ông không yêu con gái, ông bà nội tôi cũng không yêu con gái, họ sinh
con gái để chăm chút ông, cho ông cưỡi chơi, bắt nạt, trút những giận hờn. Họ
khâu nút áo khi ông đánh nhau bị đứt, họ chịu đòn vì đã để ông trèo cửa sổ đi
chơi. Ông không bao giờ là người có lỗi, vì ông là đứa con trai duy nhất của
nhà buôn gạo nổi tiếng. Cả khi sự sản đó tàn rụi cũng không phải vì ông tiêu
xài hoang phí, họ đổ lỗi cho thời cuộc. Tôi chắp vá những lời kể thảng hoặc,
bất chợt từ những người sống quanh ông, cố hiểu tại sao ông lại dè sẻn tình
thương từng giọt từng giọt một.
Ông dành dụm và chờ đợi.
Phiên ra đời, ông xô ngang mọi trò vui chơi, suốt ngày luẩn quẩn loanh quanh
chỗ Phiên nằm, ngây ngất nựng nịu, ngây ngất hôn hít, ngây ngất nói chỗ nào nó
cũng giống ông, coi, tới nhảy mũi cũng giống… Những lúc đó tôi nghĩ, bữa nắn
mình chắc mụ bà làm giữa chừng thì hết đất, hoặc làm đến đấy thôi thì bà đi ăn
cơm, xong quên phứt luôn. Phải cố thêm nữa, chỉ cần gắn chút đất nhỏ xíu
như trái ớt, tôi sẽ thành một đứa bé trai. Cha tôi sẽ ở lại. Tôi sẽ lớn lên
trong vòng tay ông. Như cha Phiên thường ôm ghì nó, dụi mặt vào bụng nó, vào
nách nó, trầm trồ đôi môi đỏ của nó.
Phiên dần lớn mà tôi vẫn
chưa bớt ưu phiền. Những lúc lượn lờ quanh nó với chiếc Saisomat chuyên dụng,
tôi thường chua chát nghĩ, không ai còn giữ chút ký ức nào về thời bé bỏng của
tôi. Mẹ, ngoại tôi đã chết rồi, cậu mợ thì lườm nguýt cái hoang thai từ khi nó
còn nằm trong bụng. Họ hàng, làng xóm xiêu lạc từ khi xóm nhỏ ngoại ô trở thành
phố xá. Không ai nhớ da thịt tôi đã từng ấm mùi lửa than và thơm dậy sữa, không
ai nhớ tôi đã đẹp như thế nào khi nằm mút tay và mằn chơi những ngón chân mình.
Tôi có từng ăn đất không? Có từng đái dầm? Hay khóc mớ?
Tôi đã trôi đi không tăm
tích giữa cuộc đời này, thỉnh thoảng có ai đó níu lấy rồi buông bỏ. Giờ tôi lại
đi dành dụm một ký ức rực rỡ cho Phiên. Mỗi tháng cha nó nhờ tôi chụp cho tấm
ảnh, “để sau này nó lớn nó coi, chà, chắc nó mắc cười dữ lắm…”. Những mẫu tôi
làm ông nhờ tôi in sang thêm một bản. Phiên lên một tuổi, cái quán nhỏ kiêm
ngôi nhà chật chội đó vẫn còn không khí hội hè, một bà vợ vui vì không bị buộc
phải sinh con, không phải tự è ạch đi bộ tới nhà bảo sanh bởi lỡ chửa em bé
gái; mấy đứa con vui không bị đánh chửi, la rầy vì lỡ làm con gái.
Tôi gần gủi hết thảy tụi
nó, trừ Trang. Chỉ vì Trang nhỏ hơn tôi ba tuổi. Chỉ vì cha bận bồng ẳm Trang
nên không thèm quay về xóm Chiếc với tôi. Trang không làm gì tôi hết, nó còn
không biết tôi là ai, nhưng khi nhìn nó tôi hơi giận. Hai mươi bốn tuổi, Trang
dẫn đầu một bầy con gái chưa chồng. Cha nó coi đó như một gánh nặng, và ông
trút vào Trang. Hàng ngày ông xúc xiểm cái mũi xẹp “như cục bột quăng lên mặt
cái phẹp”, ông chì chiết nụ cười nó “vô duyên vô dùng”, ông căm ghét mớ tóc
xoăn của nó “lúc nào cũng rối bời như con khùng, ai dám lấy…”, như thể nó chắc
chắn sẽ ế chồng.
Trang bỏ nhà đi ngay
trong đêm chuẩn bị thôi nôi thằng em út. Cha tôi vẫn tỉnh bơ hối vợ ông nấu xôi
chè, tỉnh bơ bưng thằng nhỏ Phiên đòng đưa trên võng, nhẹ nhỏm như ông vừa mất
con gà, hay thua một ván bài. Có sao đâu. Người đàn ông này chưa từng trãi qua
cảm giác mất mát.
Ngồi tiếp một tay đãi mớ
đậu trắng tôi nghe cay đắng đầy ứ miệng. Tôi hầu như không nuốt nổi chúng. Tôi
thấy mình ở đây thiệt vô lý hết sức nói. Tại sao tôi chọn thằng nhỏ nhà này để
làm chuyên đề khi có hàng ngàn đứa trẻ khác? Tôi tìm kiếm, hy vọng gì ở đây?
Một bữa tôi gởi toàn bộ
máy móc, những mẫu mình có về Viện bằng đường bưu điện, cả những mẫu thô chưa
xử lý, lọc âm thanh... Lẫn lộn trong mớ đó hẳn có tiếng đập muỗi lép bép và tôi
rủ, “buồn quá, chị ẳm Phiên đi chơi nghen…”.
Thiên nhiên trừng phạt con
người bằng cách biến mất, tôi chưa bao giờ quên Anh từng nói vậy. Tôi cũng bắt
đầu hành trình biến mất, cùng Phiên.
Tháng Bảy năm đó mưa
nhiều. Mấy bà già chung chuyến xe nói cử này ở trên trời có cặp vợ chồng gặp
lại nhau nên họ khóc tối tăm trời đất. Họ hỏi tôi, “mưa gió vầy bồng con đi đâu
vậy bây?” Tôi cố giải thích thằng nhỏ này là em trai tôi, họ cũng ờ ờ nhưng chẳng
có vẻ gì tin. Tuổi chúng tôi cách biệt quá lớn, mặt tôi lại đầy uẩn khúc. Tôi
nghĩ, chuyện để Phiên làm con tôi cũng tốt cho việc bỏ trốn. Lúc đầu nựng nó
kêu con ơi con mà mắc cỡ muốn chết, mà tê tái muốn chết, mình sẽ làm mẹ kiểu gì
đây.
Có lần Phiên hỏi, hồi mẹ
đẻ con chui ra chỗ nào, sau khi thấy chó vện đẻ mấy con chó con, lũ gà mái đẻ
ra mấy cái trứng… tôi cười, nói tôi đẻ ngang hông, nó cứ rờ bụng tôi tìm sẹo.
Tôi thương nó bằng những người đàn ông tôi thương cộng lại, dù đôi lúc tôi
không phân biệt được, tôi mang Phiên đi cho cha tôi biết đau, hay vì giữ gìn vẻ
đẹp trong veo của nó không cho nó trở thành bản sao của ông, không để những cám
dỗ của cuộc đời làm tha hóa chất người, hay tôi mang Phiên đi để cho anh thấy
quyền lực cũng mong manh lắm, vui cho buồn người ta lấy lại cho người khác,
bằng chứng là Anh sẽ bị rầy rà lên xuống dù người gây tội chỉ là một nhân viên
nhỏ nhoi của Anh.
Ở xóm Cồn không ai một
lần nghi ngờ chuyện tôi là mẹ Phiên, ngay ngày đầu tiên ẳm nó đi ngang qua đám
giỗ đó người ta gọi, “trời đất, hai mẹ con sao lạc tới xứ hoang vu này?”. Tôi
có quên Phiên ở nhà họ thì chỉ nhận lời trách cứ nhẹ nhàng, “cái cô này hồn vía
không biết bỏ đâu…”
Chưa bao giờ có ai hỏi
như gã đàn ông xa lạ kia hỏi:
- Thằng nhỏ này là con
em, thật sao?
12
Cho tới khi chiếc xáng
cơm rướn vào nằm thở khói ở bãi cồn, thì mảnh đất này chính thức nói lời mất
mát. Tôi đã từng coi nó như khu bảo tồn của những vẻ đẹp, quý giá hơn những gì
được lưu trữ ở Viện di sản thiên nhiên và con người. Bởi tất cả đang sống và đang
thở.
Mười bốn năm, nhiều gia
đình dọn tới rồi đi, họ coi như chốn nương náu tạm bợ. Vì tạm bợ nên họ không
quay quắt vun vén, tranh giành. Đất ai lấy được của lau lách nấy trồng. Cửa để
thả, suồng sã với gió và nắng trời, mùa mưa tới chỉ che hờ hững cái rèm bằng
cao su rẻ tiền, hết mùa rách nát. Chị Thiện này nhận được món quà của thời gian
- sự quên lãng - hớn hở về nhà, thì có chị Thiện khác chạy giạt tới, cũng
thường nhón ngó về quê.
Ở đây, một nồi chè đậu
xanh cũng múc cho cả xóm. Đi qua nhà sẽ có người ới lên trong sương sớm, “mới
bửng sáng thím (hay cô) đi đâu vậy?”, thật ra đó chỉ là một câu chào theo kiểu
xóm giềng quan tâm nhau. Tôi thích kiểu chào kỳ lạ này, cảm động như ngày xưa
thằng bán vé số kêu bớ con Di. Tôi mê sự đáo để của thím Tư Đình, bữa chú uống
rượu say, thím bóp nát trái chuối chín lòn vô giữa đùi chú, lúc tỉnh dậy chú
nghe lạnh chỗ đó, sượng trân túm hai ống quần nhảy ào xuống sông. Tôi thích chị
Thắm những ngày sực nức mùi xà bông thơm, cười ỏ ẻ khoe, “bữa nay rằm, bà lớn đi
chùa, ông chồng hứa qua chơi…”. Tôi đếm từng ngày để chờ ba Thơ khùng ra thăm
con, ông dắt anh ra mé cồn, tắm rửa kỳ cọ, lục cục kể chuyện nhà trong khi
thằng con trai cứ ngoái nhìn cái radio đặt ở một chỗ khô ráo gần đó, “con Bé Út
lấy chồng rồi, phải bây đừng có khùng thì tao cưới nó cho bây, giờ con nít chạy
đầy nhà…”. Ở đây, tôi thấy bình yên những khi ngồi câu trong chòi ông Sáu, đôi
lúc nằm ngủ quên ở đó, để tóc và hơi thở chảy tràn quanh ông, có khi gác tay
lên đầu gối ông mà không gợn lên chút nhục dục nào.
Kẻ ông già căm giận đã
nằm sâu dưới ba tấc đất. Ông vẫn ở lại đất Cồn, có lúc tôi nghĩ, biết đâu vì
hai mẹ con tôi. Những khi ông trút cá vào xô đựng của tôi, hay chơi xích đu lơ
với thằng Phiên, bò ra bắn đạn cu li, làm diều cho nó thả… tôi hình dung Phiên
sẽ cô đơn đến mức nào nếu không có người này. Mọi trò chơi trẻ con đều cần đến
hai người. Đá dế cũng cần tay vỗ, mới vui.
Nhưng hơn ai hết, tôi
biết không có gì vĩnh viễn. Sự biết này làm tôi hay buồn, khi ta ngồi cạnh nó,
ta ở trong nó, cùng với nó, nghe thấy, chạm được nó, nhưng ta cũng đang mất nó,
từ từ.
Ta không bao giờ mong
muốn nhưng lại có cảm giác chờ đợi, vì biết nó đang đến. Người đàn bà mặn mà
của xóm Cồn tắm xà bông thơm thường hơn, gọi Thơ khùng tới chơi thường hơn, và
anh chàng ràng cái radio kè kè bên lổ tai có bữa nằm ngửa xãi lai dang rộng
chân tay nói, “tui đang làm con
chồng học tiếng người”. Ba
anh Thơ hết hồn, dọn anh đi tới một chỗ hoang dã khác, chỗ yên tĩnh để anh làm
con gì cũng được, miễn đừng làm con
chồng, tổn hao sức khỏe.
Đất Cồn vắng đi một người
đẹp. Một tâm hồn miển nhiễm với những vui buồn, tranh đua, khao khát. Người
không thêm không bớt, vui vẻ với thế giới của mình trong chiếc radio, với một
nửa trí khôn. Phiên nhớ Thơ, cuộc đi đó làm nó bắt đầu ngửi được mùi mất mát.
Nó hay đứng xơ lơ bìa cồn ngó mênh mông. Trong tầm mắt nó, những chiếc xáng bắt
đầu ngược xuôi gào rú, hút cát từ lòng sông, bất kể đêm ngày. Dòng chảy thay
đổi đã ăn mòn đôi bờ, sông càng mênh mông. Đất cồn bị nước nuốt chửng từng
mảng, sóng đánh vỡ tan bờ lá, đất lở mang theo những cây bần đã cho cồn cái tên
Bần.
Và căn chòi của ông Sáu
lặng lẽ biến mất trong một tối tháng ba lặng gió. Nó mang theo ông già rắn rỏi
giỏi lặn lội. Tôi đau nhói bởi ý nghĩ, ông đã để mình chìm. Chiều hôm trước,
một đám người tắm sông gần chỗ chúng tôi ngồi câu, ai đó chớt nhả với tôi, “em
ơi, ở chung với ông già thì em làm đàn bà sao được, xuống đây với anh đi…”. Tôi
thấy ngọn câu của ông chao đảo. Mà tôi không biết nói gì với họ, mười mấy năm
sống đất Cồn, tôi dường như không dùng tới những từ ngữ bốp chát, nặng nề.
Sượng câm, tôi đứng lên về, và hình ảnh cuối cùng về ông Sáu mà tôi có khi
ngoái lại là lưng ông bỗng cong khẳm, cảm giác hình như vai ông đổ xuống, run
run.
Thằng Phiên khóc mướt,
trong mớ nước mắt đó, tôi biết nó khóc cho những cổ tích đã chết rồi. Những bà
tiên cũng chết ngắc. Nó đã khẩn cầu mấy ngày đêm liền, không tiên nào mang ông
Sáu với anh Thơ khùng quay lại.
Tôi thấy mình đang mất
Phiên. Mất từng ngày, khi cơ thể Phiên bắt đầu thay đổi, nó bể tiếng, nhổ giò.
Nó choáng váng, ngây ngất với những khám phá trên người mình, từ chính mình. Nó
không còn tắm truồng nữa, ngượng ngập và cô độc. Trên cồn, cả con chó xà mâu
cũng có bạn tình, Phiên chỉ một mình. Một vài đứa trẻ đã theo cha mẹ đến đây,
kết bạn kết bè với nó. Bỗng một sáng người ta nhổ nhà đi mất, nhổ đám trẻ theo
cuộc đi mù mịt.
Trong nỗi thiếu thốn, khi
chiếc xáng cơm khai thác cát sông ghé qua, thả những gã đàn ông xa lạ lên bờ,
họ nấu nướng, tắm giặt, họ treo võng ngủ, họ nhậu nhẹt hát ca... Phiên nhanh
chóng gắn bó với họ. Nó tò mò nghe họ nói chuyện đàn bà, chuyện những thành phố
không bao giờ tắt đèn. Nó xuống xà lan chơi cát ướt, biểu diễn tài lặn lâu
trong nước, tài treo ngược trên cây. Và một bữa đòng đưa thân mình trên nhánh ô
môi, nó kể họ nghe về cha mình, sau đó khóc nức nở khi thấy họ bò lăn ra cười.
Đã thưa vắng những câu
hỏi mẹ ơi mẹ à, thằng Phiên lẳng lặng tìm hiểu tại sao những gì tôi nói đều
không đúng. Nó ngoáy tai liên tục. Và tôi cũng liên tục để cơm khét, cá cháy.
Tôi làm bể chén. Tôi thấy mình nghèo quá, mình chỉ có tình thương. Tôi chỉ có
thể hứa những lời hứa nghèo, chừng nào hái bí mẹ mua cho con bộ đồ mới, chừng
nào con lớn mẹ sẽ cho đi chơi thành phố, chừng nào kiếm nhiều tiền mẹ mua chiếc
xe đạp cho con chạy lòng vòng cồn chơi. Hoặc lời hứa mịt mù kiểu như “nghe lời
mẹ rồi mẹ thương…”.
Nhưng gã đàn ông trải đời
trên chiếc xáng, người có mấy cái răng bịt vàng và nụ cười chói lóe nhăn nhở
chỉ cần nói, “Ê nhóc, mai qua chợ nhậu không, bên đó có mấy đứa con gái hết
sẩy…”, ngay lập tức những hứa hẹn của tôi đã giảy chết. Chúng quá giản dị, tẻ
nhạt và đơn điệu. Tôi thấy mình hơi tuyệt vọng khi làm bộ ngang qua đó, giận dữ
nói, “thằng con tôi còn con nít khờ ịt, mấy anh đừng làm hư nó. Phiên, về !”.
Trong một khoảnh khắc khi gã đàn ông vuốt ánh mắt trên cổ mình, tôi nhận ra
mười bốn năm qua tôi vẫn là đàn bà. Và đẹp.
Lần đầu tiên tôi căm ghét
mình. Gã bắt đầu tới lui ve vãn. Chiếc xáng tạt qua cồn thường hơn, rủ rê nhiều
xáng cơm, xà lan khác. Dân xóm Cồn hớn hở bưng rau trái ra bán. Chị Thắm hớn hở
tắm xà bông thơm, ngồi ngoài sân tỉa chân mày, chị tỏ ra buồn lòng khi chủ
chiếc xáng ngậm cái tăm chỉ dừng lại nói mấy câu ởm ờ, rồi vượt qua đám sậy
thưa tới nhà tôi. Có đôi lần ghé lại, gã đã hỏi em nhớ tôi không, với ánh nhìn
tràn đầy hy vọng. Tôi ước gì có thể trả lời, hoặc ngọt ngào rằng, em nhớ muốn
chết, hoặc hứ nguýt xa xôi, sao không đi luôn đi… Và gã sẽ bớt nhẫn tâm.
Nhưng tôi không còn gì
cho gã hết, dù là giả đò. Gã vẫn tin có ngày tôi khuất phục, vì gã điều khiển
được thằng nhỏ Phiên, bởi những hứa hẹn hấp dẫn, đầy ma lực và cám dỗ. Gã
biết đứa con trai mới lớn muốn gì, biết đứa con là điểm yếu của bà mẹ. Một bữa
gã phát hiện ra tôi có điểm yếu khác, từ tờ giấy báo lót dưới đáy rương giữ gìn
những kỷ vật của gia đình gã. Tôi ở đó, nằm xẹp dưới mớ đầu tóc mượn, bộ răng
xương.
Gã đến tìm tôi.
13
Chiếc xáng tháo ra khỏi
cồn rồi, Phiên về đứng dựa cửa ngó tôi lui cui trong bếp:
- Chú Sở kêu gã mẹ cho
ổng.
- Vậy sao?
- Con nói mẹ con ghét
chú. Ổng nói, mấy ngày nữa chú quay lại là mẹ thương liền.
Rồi Phiên hỏi, thiệt
không mẹ. Tôi nói không, chú đó giỡn chơi thôi. Rồi thấy mắc nghẹn, ứa nước
mắt. Phiên giờ hay dùng ba chữ “thiệt không mẹ?”. “Người ta nói con không có
ba, thiệt không mẹ?”, “Người ta nói trên đời này không có tiên, thiệt không
mẹ?”…nghe nhói lên sự hoài nghi, ngờ vực. Lòng tin vào tôi đã hao hớt.
Bữa cơm chiều bỗng lặng
đi trong tiếng đũa khua, tiếng muỗng cạo nhói đít nồi. Trên mâm chỉ có cá rô
kho khô mặn quắt với vài ngọn bí luộc. Cơm nhảo như cháo. Chỉ vì khi vo gạo,
tôi nhìn thấy mình trong lu nước chênh chao. Tôi không còn là đứa con gái trên
bài báo nằm nơi túi áo. Mười bốn năm dài hơn tôi cảm thấy. Những người cùng có
mặt trong bài báo đó, có còn không?
Cha tôi còn sống không,
còn mỏi mòn tìm kiếm và hy vọng, hay đến lúc chết vẫn không biết được con trai
ông đã bị bắt đi bởi con gái ông. Tôi đọc bài viết cũ lần thứ hai, thứ ba, và
nhận ra Anh không hé lộ gì về nhân thân của tôi hết. Rừng cần anh giữ bí mật đó
để giữ chúng. Lỗi quản lý không nghiêm để nhân viên phạm tội nhỏ hơn lỗi tạo
điều kiện để nhân viên phạm tội.
Phóng viên chụp ảnh Anh
tiều tụy ngồi ở bàn làm việc của mình, mực phai nhòe nhoẹt. Tôi nhớ, phía lưng
Anh có tấm bản đồ tự nhiên rất lớn, choán hết cả một bức tường. Anh có bao giờ
đứng trước nó và nghĩ tới tôi như tôi vẫn nhớ Anh từ cái chấm nhỏ nhoi trên
đường kẻ ngoằn ngoèo màu lam - màu của những dòng sông. Tôi ngày ngày ngồi ở đó
buông cái lưỡi câu chữ i và đôi khi thấy mình đang đợi, trời ơi sao người ta
không tới tìm mình, còng tay, trói gô lại, dí súng vào đầu mình? Nhưng có một
sự thật khiến tôi không đưa Phiên qua bên sông và la làng giữa chợ, “thằng nhỏ
này tôi bắt cóc nè, bớ bà con ai rảnh rỗi bắt tôi giao cảnh sát giùm”, sự thật
là không ai tìm tôi cả, họ chỉ tìm thằng nhỏ tên Phiên, nó mới là điều họ cảm
thấy mất mát, không phải tôi.
Nên tôi giữ rịt Phiên ở
chỗ đìu hiu này. Nên tôi không ngạc nhiên khi thấy nước mắt cha tôi ràn rụa
trên mảnh báo. Phóng viên kể lại câu nói duy nhất của ông, “tôi chỉ cần thằng
nhỏ, tôi sẽ đổi bằng tất cả gia tài của tôi, mạng sống của tôi…”. Rủi là lúc đó
tôi ẳm thằng Phiên trốn chui trốn nhủi, tờ báo không đến tay, phải đọc được
biết đâu tôi đã đưa nó về và nói, thưa ông, tôi chỉ cần một lời xin lỗi.
Mảnh báo trong túi áo cựa
quậy nhói ran, chừng ngó lại thì gạo ngâm lâu trong nước rã nát.
Ngoài sông, những chiếc
xà lan vẫn chà đi xát lại làm xây xước mặt nước, vẫn kêu rú khoái trá, tục tằn
man rợ khi sục những cái vòi vào thân thể sông, hút mòn xương máu nó, phơi tan
hoang lòng nó. Làm xói lỡ bờ bến cuối cùng, lấy đi của tôi những thương yêu
cuối cùng. Tôi không thể để tôi cũng mất. Tôi đặt mảnh báo cũ trước mặt Phiên,
và kể cho nó nghe một câu chuyện. Tôi không muốn bất cứ ai kể và nó chạy về mếu
máo hỏi, thiệt không mẹ, thiệt không?
- Người này là cha tụi
mình - Tôi chỉ vào tấm ảnh lem luốc. Phản ứng duy nhất của Phiên là câm lặng.
Khoảnh khắc đó tôi nhận ra em trai tôi cũng khiếm khuyết, tật nguyền. Phiên gần
như không biết biểu lộ sự giận dữ, bàng hoàng, đau đớn… dù trong nó có tất cả
cảm giác đó, bị chúng quăng quật trong lòng. Tôi không dạy nó cách đương đầu
với những sự thật phũ phàng, thậm chí nó còn không biết cuộc đời này có thể tồn
tại điều gì, ai đó xấu xa giống như tôi.
Thằng Phiên bỏ đi tìm ai
đó có thể giúp nó biết giận dữ, phẩn uất như một con người đúng nghĩa. Ngoài
kia vẳng lại tiếng khạc nhổ, tiếng nói cười ánh ỏi, tôi biết Phiên sẽ tìm được
người, một người rất sẵn lòng nói cho nó biết nó đã bị tôi tước đoạt đi nhiều
như thế nào. Một mái nhà yên ấm đông đúc với người cha hết lòng cưng chiều,
những ngôi trường, những món đồ chơi hấp dẫn, những đứa con gái dễ thương, một
cuộc sống tiện nghi hiện đại với những quán net, tiệm game dập dìu trên đường…
Cái thế giới bên kia sông mà Phiên đã bỏ lỡ mười bốn năm đó mới thật sự là
thiên đường. Và tôi đánh cắp.
Tôi biết trong bóng tối
rập rờn trên những gương mặt người, gã đàn ông thua cuộc sẽ dồn cả sự giận dữ
của mình vào Phiên, làm nó chật căng, nổ tung. Phiên của tôi đang nghĩ cách nào
trừng phạt người chị nhẫn tâm của nó. Nhưng Phiên không biết điều đó cũng làm
nó trở nên nhẫn tâm. Tôi không cam lòng, vẻ đẹp thiên thần mà tôi giữ gìn mười
bốn năm qua không thể mất bằng cách như người đời thường đánh mất.
Quờ quạng trong bóng tối
như một người mù, va đập vào trống không đau điếng, tôi lần dò vào bếp, bắc ấm
nước lên cái cà ràng và nhóm lửa. Tôi chụm rất nhiều củi, chờ nước kêu ấm, nghĩ
gió thổi hướng này chắc Phiên không thể nào bắt mùi được những nếp lá mục bắt
đầu le lói cháy. Tôi đứng trong khói và tự hỏi, làm sao giữ được vẻ đẹp lộng
lẫy này của khói, với mùi trứng kiến cháy cùng những con mối ú mềm, mùi lửa bén
vào chiếc trái khế con rụng xuống nằm khô trong máng nước, mùi lửa liếm láp lên
chiếc lông gà, cái quạt tàu cau giắt trên vách, chiếc chiếu đã đứt mất mấy sợi
dây trân, và khói bắt đầu sẽ sàng bén vào những sợi tóc…
Khói này, là món quà cuối cùng tôi tặng em tôi.
Nhưng khi nắm chúng lại, tôi chỉ nghe những ngón tay mình xỏ vào lòng tay của
chính mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét