42. Bị kẹt ở Gorakhpur
“Tứ
động tâm” – bốn địa điểm linh thiêng nhất của đạo Phật bao gồm Lumbini – nơi
Phật đản sanh, Bodhgaya – nơi Phật thành đạo, Sarnath – nơi Phật chuyển pháp
luân – thuyết pháp lần đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như và Kusinara – nơi
Phật nhập Niết bàn. Đã đến Varanasi
và Bodh Gaya rồi, tôi cao hứng đến Lumbinni. Vấn đề duy nhất là mặc dù Lumbinni
chỉ cách Bodh Gaya bốn trăm cây số, nhưng nó lại nằm ở phía bên kia biên giới,
bên Nepal .
Lúc đấy tôi nghĩ mình sẽ đến Nepal
khoảng hai tuầnrồi quay lại Ấn Độ. Visa Ấn Độ của tôi khi đấy xin được sáu
tháng, được phép vào nhiều lần.
Tôi
nghĩ mình cũng rảnh rỗi, không đâu lại đi tàu ngược lên Varanasi, ở lại một đêm
rồi lại đi xe khách lên Lumbinni. Chẳng ai ở bến xe nói được tiếng Anh, tôi bập
bẹ Nepal, Nepal thì họ chỉ cho tôi một cái xe chắc phải cổ hơn Napoleon, không
điều hòa, nhồi nhét gấp đôi số ghế. Xe xóc long sòng sọc, thỉnh thoảng lại có
người mở cửa sổ nôn thốc nôn tháo mà chẳng cần nilon hay túi giấy gì. Tôi phát
hiện ra trên xe ngoài một bạn gái khác đang đi cùng anh trai hay chồng gì đó,
tôi là phụ nữ duy nhất.
Thỉnh
thoảng khi đi xe, tôi thích tự kỷ. Tôi thích nhìn ra ngoài cửa sổ, khi những
thứ mình biết lùi dần về sau và những gì mình chưa biết cứ mở dần ra trước mặt.
Tôi nghĩ về quá khứ, về tương lai, về hiện tại. Tôi nghĩ về gia đình, về bạn
bè, về những người mà tôi tình cờ gặp trên đường. Anh chàng ngồi cạnh tôi thì
không hiểu, cứ thích bắt chuyện. Tôi liền lấy tai nghe ra mở nhạc trên điện
thoại, đưa cho anh chàng một tai nghe, tôi nghe một tai để khỏi phải nói
chuyện. Anh có vẻ rất cảm kích hành động này.
Do
không lên mạng được để tìm hiểu từ trước, tôi chẳng biết xe sẽ đi đến đâu, dừng
lại lúc nào. Khoảng chín giờ tối, xe đột ngột vào bến. Tôi hỏi anh chàng ngồi
cạnh thì được biết xe không chạy nữa. Muốn đi Lumbinni, tôi phải bắt chuyến xe
ngày mai. Thành phố xe dừng là Gorakhpur, vốn là một thành phố vốn có nhiều ý
nghĩa to lớn về mặt lịch sử và tôn giáo, nhưng lại chẳng có gì đặc sắc về mặt
kiến trúc hay nghệ thuật. Từ cái nhìn của khách qua đường như tôi, thành phố
này chẳng khác gì hầu hết những thành phố bậc trung khác của Ấn Độ. Thành phố
này cũng quá sơ sài, không có vẻ gì là có một quán ăn hay nhà hàng lớn nào đó
mở cửa thâu đêm để tôi có thể vào tá túc chờ đến trời sáng được cả. Bến xe thì
tối om om đầy đe dọa. Tôi không biết phải làm gì, đang tính đi tìm đồn cảnh sát
để ngủ nhờ thì phát hiện ra anh chàng ngồi cùng xe vẫn đang lẽo đẽo theo mình.
“Em
định đi đâu đấy? Tối rồi đi một mình rất nguy hiểm”.
“Em
đang tìm chỗ ngủ”.
“Có
một khách sạn cách đây hơn cây số thôi”.
“Giá
khoảng bao tiền hả anh?”.
“Khoảng 500Rs”. Tức là trên $10. Trong túi tôi lúc đấy còn
rất ít tiền. Tiền viết bài cho trang web ở Israel thì chưa được nhận nên tôi
không thể ở khách sạn được.
“Ặc có chỗ nào rẻ hơn không anh?”.
“Nếu em không ngại, có thể nghỉ qua đêm ở văn phòng công ty
anh”.
“Công ty nào vậy?”.
“Một công ty về công nghệ. Hiện tại có hai bạn khác cũng đang
ở đấy. Có phòng riêng cho em, không phải ngại”.
Tôi phân vân dữ lắm. Có tin được anh chàng này không? Có tin
được cả bạn anh chàngkhông? Tôi thấy mình dở hơi thế, cả ngày trên xe không
chịu khó nói chuyện tìm hiểu xem anh là người như thế nào. Nhưng giờ tôi không
có nhiều thời gian để suy tính. Tôi phải đưa ra quyết định một cách nhanh chóng.
Tôi nhìn anh từ đầu đến chân. Khuôn mặt hiền lành, giọng nói
dễ chịu, phong thái lịch sự, nói tiếng Anh khá tốt. Anh mặc quần Tây, áo sơ mi,
tay xách túi đựng laptop, không có vẻ gì là màu mè hoa mỹ, nhìn đúng là dân kỹ
thuật thật.
“Sao anh lại muốn giúp em?”.
“Thấy người cần giúp đỡ thì nên giúp. Anh đi xe khách nhiều
mà chưa thấy người nước ngoài nào đi xe như em. Anh nghĩ, chắc em cũng không có
tiền thật”.
“Nhưng còn hai đồng nghiệp của anh thì sao?”.
“Họ cũng tốt lắm”.
Tôi quyết định mình sẽ tin anh. Chúng tôi lên xe người kéo về
văn phòng anh. Văn phòng chứa đầy máy và linh kiện điện tử, nhìn giống nhà kho
hơn là văn phòng. Bên cạnh là một căn phòng trống với nhà vệ sinh, bếp than tổ
ong. Hai đồng nghiệp của anh đang cặm cụi làm rô-ti. Phía sau là một căn phòng
nhỏ cũng ngập đồ đạc với một cái giường đơn đặt vừa vặn vào chỗ trống. Anh chỉ
cho tôi cất đồ vào đó, đốt cho tôi que hương muỗi rồi đưa vào cho tôi cái quạt.
Tôi nhẹ cả người khi căn phòng này có khóa trong. Người tôi bẩn lắm, nhưng vì
không cảm thấy thoải mái cho lắm nếu tắm ở đây nên chỉ rửa mặt mũi chân tay rồi
ra giúp bạn bè anh làm bữa. Hai đồng nghiệp của anh tuy không nói được tiếng
Anh nhưng mặt mũi hết sức hiền lành, lại có vẻ bẽn lẽn nữa. Tôi đã được dạy làm
rô-ti rất nhiều lần nhưng vẫn làm hết sức dở. Chuyên gia làm rô-ti sẽ biết áp
dụng lực vừa đủ để lớp bột tự xoay vòng dưới que cán và tự nó tròn một cách
hoàn hảo. Tôi toàn phải tự xoay mà nó vẫn không tròn. Tôi nhớ đến anh chàng làm
bánh rô-ti mà tôi gặp ở Punjab. Anh chàng còn chả cần thớt hay que cán mà cứ
tay không tung hứng cục bột vèo vèo vèo vèo, một phút phải làm được hai cái
bánh rô-ti. Tôi thì phải mười phút mới xong một cái. Ban đầu mọi người còn kiên
nhẫn chờ tôi làm, xong rồi vì tôi làm chậm quá, tôi bị đuổi đi. Bữa cơm đạm bạc
chỉ có rô-ti và súp lơ sào khoai tây nhưng tôi ăn ngon lành vì cả ngày chưa
được cái gì vào bụng.
Sáng hôm sau khi tỉnh dậy, tôi cảm động suýt phát khóc khi
phát hiện ra mọi người đã mua sẵn bánh mì và sữa đặc cho tôi ăn sáng. Bánh mỳ
chỉ cho tôi thôi, còn mọi người ăn rô-ti từ hôm qua. Tôi ăn không hết, mọi
người cứ nhất định bắt tôi cầm theo đi ăn. Sau đó, một người còn đưa tôi ra tận
bến xe khách, đợi cho tôi lên xe rồi mới về. Trên đời này đúng là còn nhiều
người tốt lắm.
43. Chùa Việt Nam ở Lumbini
Hộ chiếu Việt Nam có thể xin visa từ cửa khẩu: $25 cho visa
15 ngày, $40 cho visa 30 ngày, $90 cho visa 90 ngày. Đúng là chỉ có khi xin
visa người ta mới mua được thời gian. Nếu ở Ấn Độ chẳng ai biết Việt Nam là gì
thì ở biên giới Nepal, mới nhìn thấy hộ chiếu Việt Nam của tôi, các bác Hải
quan đã hớn hở: “Doctor Lam, doctor Lam”, nghĩa là “Tiến sĩ Lâm, tiến sĩ Lâm” –
tên gọi thân mật mọi người nơi đây dành cho sư thầy Lâm Trung Quốc, tự Huyền
Diệu, trụ trì Việt Nam Phật Quốc tự ở đây.
Tôi nghe thấy Lumbini lần đầu tiên từ anh chàng khùngAntonio
tôi gặp ở Myanmar. Anh bảo quãng thời gian anh thích nhất là một tuần liền trên
đất Phật sinh, tá túc ở một ngôi chùa Hàn Quốc. Tôi hớn hở hỏi anh là tôi đến
xin ở có được không, anh mới à lên: “Được chứ, ở đấy có cả chùa Việt Nam mà”. Lần
thứ hai tôi nghe đến Lumbinilà khi nói chuyện với các bác ở Đại sứ quán Việt
Nam về một đoàn khách từ Việt Nam sang đây hành hương “Tứ Động Tâm”. Các bác
bảo thầy Huyền Diệu rất giỏi: Thầy sang Nepal từ khi Lumbini vẫn chỉ là mảnh đất
hoang tàn. Thầy chính là người nước ngoài đầu tiênxây dựng chùa ở Lumbini và là
người có công lớn trong việc vận động chính quyền Nepal và chính quyền các nước
khác để xây dựng lên khu Liên Hiệp Quốc Phật giáo, làm sống lại Đất Phật. Các
bác tặng tôi cuốn sách Lòng tri ân: Sức mạnh và mầu nhiệm của thầy để đọc
nghiên cứu. Càng đọc, càng tìm hiểu về thầy trên mạng tôi càng phục thầy, rất
muốn có dịp được sang Lumbini thỉnh giáo.
Xe dừng lại ở Sonauli, tôi phải đi bộ qua biên giới, rồi bắt
xe khách khác đến thị trấn Bhairahawa cách biên giới bốn kilomet, rồi một xe
bus khác đến Lumbini. Chao ôi, chưa bao giờ tôi đi một cái xe bus nào chậm đến
như thế. Đường xấu, máy cũ, xe chạy với tốc độ còn chậm hơn cả rùa bò. Đã vậy,
ai vẫy xe cũng dừng. Xe nhồi khách như nhồi vịt, tôi ban đầu còn được đứng hai
chân, lúc sau chỉ còn được đứng một chân. Mỗi lần công an kiểm tralà phải xuống
hết từng người từng người một, rồi tất cả lại phải từ từ nhồi nhét lại. Ở biên
giới Nepal người dân thì ít mà công an thì nhiều. Cứ khoảng chục phút xe lại bị
chặn lại kiểm tra. Quãng đường chỉ hơn hai chục cây số mà xe chạy mất hơn hai
tiếng.
Tôi đến Lumbini lúc bảy giờ tối mà trời tối om om làm tôi cứ
có cảm giác như đang nửa đêm vậy. Thị trấn không có điện, chỉ heo hắt vài ánh
nến hắt ra từ mấy nhà nghỉ ven đường. Tôi biết mình đã đến gần đất Phật khi
nhìn đâu cũng thấy toàn sư là sư, chủ yếu ăn vận theo kiểu nhà sư Tây Tạng:
quần nâu, áo trong vàng, vải đỏ sậm vắt chéo bên ngoài. Tôi cần phải đến Vườn
Thiêng – nơi Phật sinh và cũng là nơi tập trung Liên Hiệp Quốc Phật giáo, nhưng
tôi không biết Vườn Thiêng cách đây bao xa, đi đến bằng cách nào. Sợ người tu
hành ngại tiếp xúc với nữ giới, tôi không dám hỏi đường. Thông tin duy nhất mà
tôi có được là khi xuống xe bus, một bác khuyên tôi nên tìm nhà nghỉ nào ở
quanh đây, mai trời sáng hãy đến Vườn Thiêng. Không muốn phải tốn tiền thuê nhà
nghỉ lãng xẹt như vậy, tôi đi vòng vòng do thám. Đi một đoạn thì phát hiện ra
cái cổng trắng với dòng chứ “Sacred Garden” (Vườn Thiêng) to đùng. Quả thực lúc
đấy tôi không biết có phải Vườn Thiêng không bởi ngoại trừ dòng chữ đấy ra,
xung quanh chẳng có dấu hiệu gì khác. Đêm tối đen như mực làm tôi cứ có cảm
giác phía sau cánh cổng kia chỉ là một cánh đồng khác. Đang thập thò ở cửa thì
tôi phát hiện ra hai chú bảo vệ. Chú không nói được tiếng Anh nên tôi chỉ nói:
“Vietnam temple”. Chú à lên vui vẻ: “Vietnam Vietnam”. Chú đưa cho tôi tờ bản đồ,
chỉ hình ngôi chùa nhỏ xíu có chữ “Vietnam” trên đó. Tôi gật đầu, chú liền dắt
xe đạp ra, ra hiệu cho tôi ngồi ra phía sau. Sợ nổ lốp xe, tôi chỉ vào chân
mình ra hiệu rằng chú cứ đi trước đi, tôi đi bộ, nhưng chú cứ khăng khăng chỉ
vào gác baga đợi tôi lên. Tôi cũng ngoan ngoãn leo lên, xúc động dạt dào. Mình
đâu có mảnh mai gì cho cam, mà ba lô của mình cũng đâu có nhẹ gì.
Trăng mỗi lúc một sáng. Trăng lấp lánh mặt hồ, trăng lấp ló
tán cây, trăng lập lòe bụi cỏ. Không gian im lặng như tờ, nghe rõ cả tiếng đạp
xe lóc cóc, tiếng dế kêu rả rích, tiếng chó sói hú xa xăm. Tôi hơi lạnh xương
sống, giật giật áo chú: “Wolf?”. Chú xua xua tay ý là nó còn ở xa lắm. Lâu lắm
rồi tôi không ngồi sau xe đạp. Tự nhiên nó khiến tôi nhớ lại những ngày còn
nhỏ, được bố đèo xe đạp đi vòng vòng quanh xóm. Cảm giác an toàn và bình yên
đến lạ.
Xe dừng lại ở trước một cái cổng lớn. Chú bảo: “Vietnam”, rồi
quay xe đi về. Trăng sáng không đủ nhìn rõ mặt người, nhưng đủ để tôi thấy thấp
thoáng bóng người phía sau cổng. Tôi lớn tiếng gọi: “Hello”. Ai đó đi tiến lại
phía cổng với ánh đèn pin lập lòe, nhưng không mở cổng ngay mà có vẻ đang cố
gắng nhìn rõ mặt tôi qua thanh cửa sắt: “Who is that?”. Trời ạ, nói tiếng Anh
giọng này thì chỉ có người Việt Nam. Tôi hớn hở reo lên:
“Anh là người Việt Nam ạ?”.
“Trời, em cũng là người Việt Nam hả?”. Anh cũng mừng rỡ không
kém.
“Vâng. Anh ơi, thầy Huyền Diệu có ở đây không anh?”.
“Thầy đi vắng rồi, có Minh Hòa ở đây thôi. Em vào trong đã”.
Anh quay ra la toáng lên với mấy người ở trong:
“Có con gái Việt Nam này”.
Tôi mờ mờ nhìn được khoảng bốn, năm người đang ngồi uống trà
dưới gốc cây. Tuy không nhìn rõ mặt, tôi có thể cảm thấy ánh mắt vui vẻ của mọi
người dõi theo tôi. Minh Hòa tất tả từ trong nhà chạy ra.
“Em vào đây bằng cách nào?”.
“Chú bảo vệ dẫn em vào”.
“Có lấy tiền công không?”.
“Không anh ạ. Cũng không thấy ai kêu tiền vé”.
“Trời ơi, làm con gái thật sướng. Vào đất Phật mà được chú
bảo vệ đèo vào tận đây là phải có phước lắm đó. Em tìm thầy có việc gì?”.
“Em đi hành hương đất Phật, muốn gặp thầy xin chỗ tá túc”.
“Chuyện đấy thì thoải mái. Chùa có mấy chục phòng khách để
trống kia kìa”.
Thế là tôi ở lại trong chùa. Minh Hòa là đồ đệ của thầy, giúp
thầy lo việc trong chùa khi thầy đi vắng. Ngoài anh, chùa còn khoảng mười anh
em thợ hồ từ Huế sang đây giúp thầy xây chùa và một bác quản gia người Nepal.
Có lẽ vì thương tôi mà mọi người rất quý tôi, mặc dù tôi
không phải là người theo đạo Phật. Tôi được ở trong một căn phòng trong dãy
phòng khách ở phía trong, còn mọi người thì ở trong một ngôi nhà nhỏ hai tầng
ngay phía cổng. Căn phòng rất sạch sẽ với giường đôi, bóng điện chạy bằng ác
quy, nhà vệ sinh nước sạch đầy đủ. Chưa bao giờ ngủ trong chùa, lại thấy dãy
phòng khách vắng vẻ, âm u, buổi đầu tiên tôi thấy hơi sờ sợ nhưng khi mọi người
hỏi: “Sợ không?”, tôi lắc đầu. Chứ sao giờ, chẳng lẽ kêu sợ để nhờ mọi người
vào ngủ cùng à?
Tuy không phải là người theo đạo Phật, tôi có cái nhìn khá
cởi mở về tôn giáo. Không sùng bái cũng không phản đối, tôi nhìn nhận tôn giáo
như một nét văn hóa thú vị. Tôi thích không khí bình yên trong chùa, thích
những câu chuyện Phật dạy, thích tìm hiểu mối liên hệ giữa đạo Phật và các tôn
giáo khác. Tối tối mọi người lên chùa đọc kinh, tôi cũng lên cùng. Tôi chỉ hơi
bối rối lúc ăn cơm cùng mọi người. Tôi theo đạo Thiên Chúa nên khi ăn cơm tôi
làm dấu thánh giá.
Để khỏi thấy mình vô dụng, ngày ngày tôi cầm chổi đi quét
chùa, tự nhiên nhớ đến câu:
“Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa”.
Khuôn viên chùa rất rộng. Phía trước chùa là một cái ao đầy
hoa sen với một cây cầu cong cong vắt qua. Một cụm trúc vàng nghiêng nghiêng
soi bóng. Phía sau nhà khách là một khu vườn rậm rạp như một cánh rừng nhỏ. Lớp
lá khô lâu rồi không ai động vào, tôi khua khua chổi là muỗi bay loạn xạ, đốt
chi chít mặt mũi chân tay tôi. Tôi thích buổi sáng sớm ra bờ ao ngồi chơi với
hồng hạc (mọi người gọi là hồng hạc nhưng thực ra tên khoa học của loài chim
này là Sarus Crane – Sếu đầu đỏ). Đây là loài chim cực kỳ quý hiếm, đứng thẳng
có thể cao đến hai mét, nhưng lại vô cùng uyển chuyển. Sự xuất hiện của những
chú chim này ở đây là một điều bí ẩn mà có lẽ cách duy nhất để giải thích cho
nó là “đất lành chim đậu”. Mọi người bảo trước đây Lumbini không có hồng hạc
đâu, chỉ từ khi chùa Việt Nam bắt đầu xây, hồng hạc mới quay trở về, càng ngày
càng nhiều. Cái lạ hơn nữa là hồng hạc chỉ tập trung ở chùa Việt Nam chứ các
chùa khác ở ngay cạnh đấy cũng không có. Hồng hạc duyên dáng đứng soi bóng bên
bờ ao, đùa nghịch bên khóm trúc. Chúng rất dạn người, có mấy chú còn thản nhiên
đi dạo quanh sân, thấy tôi ăn táo cũng chạy vào ăn cùng. Chiều chiều, tôi thích
đạp xe lòng vòng tham quan chùa các nướckhác. Vườn Thiêng được mọi người gọi
đùa là “Liên Hiệp Quốc Phật giáo” bởi cho đến nay đã có trên hai mươi quốc gia
dựng chùa ở đây, mỗi ngôi chùa mang nét kiến trúc đặc trưng của đất nước
đó.Chùa Thái Lan với những mái cong xếp chồng lên nhau, chùa Campuchia đậm chất
kiến trúc Angkor Wat, chùa Nepal bầu bĩnh với con mắt Phật nhìn xuyên thấu,
chùa Myanmar dát vàng, tròn ủng ở dưới nhưng càng lên cao càng nhọn, chùa Trung
Quốc nhìn như Thiếu Lâm tự, chùa Pháp là một sự kết hợp độc đáo của văn hóa
phương Đông và phương Tây…
Thỉnh thoảng buổi chiều tôi đi chợ cùng mọi người, vừa đi
thăm chợ, vừa nhân cơ hội tiếp cận với “thế giới văn minh”. Chẳng qua là trong
chùa điện thì chập chờn, một ngày có điện được mấy tiếng thôi, sóng điện thoại
còn chẳng có nữa là Internet, nên muốn gọi điện hay vào mạng tôi phải đạp xe
vào thị trấn cách đó mấy cây số. Thị trấn Lumbini có nhiều nét rất giống Việt
Nam những năm 90. Phương tiện đi lại chủ yếu ở Lumbini là xe đạp, nhà giàu mới
có xe máy. Nhà tranh mái rạ lụp xụp hai bên đường đất, quần áo đủ màu sắc sặc
sỡ trải ngay trên mái nhà. Lumbini có hai chợ, một chợ họp hai phiên mỗi tuần,
chợ kia chỉ họp một phiên. Ngày chợ phiên, người dân mang những thứ nhà trồng
được đến mảnh đất trống ngay cạnh cánh đồng, bày ngay trên đất để bán. Không
biết mọi người có ý thức giữ gìn môi trường hay là do không có tiền mua túi
nilon, ai đi chợ ở đây cũng mang một cái bao và cho hết đồ rau củ quả của mình
vào đấy. Bạn tôi đang chạy chương trình “Tôi ghét Nilon” mà sang được đến đây
chắc thích điên lên mất. Buổi tối không có điện chẳng biết làm gì, mọi người
hay ngồi gốc cây để đàn hát cho đỡ nhớ nhà. Tôi thương anh em thợ hồ ở đây lắm.
Nghe thầy kêu gọi cần người giúp xây chùa, mấy anh em bỏ việc ở nhà sang đây
giúp thầy cả năm trời mà không lấy tiền công.
Ở Lumbini được một tuần mà vẫn không thấy thầy Huyền Diệu về,
tôi quyết định lên đường đi Kathmandu. Tôi chia tay mọi người mà bịn rịn. Sau
này, mọi người kể rằng mọi người đã sốc khi lần đầu tiên gặp tôi. Thường người
Việt Nam sang đây toàn đi theo đoàn, báo trước cả tuần liền. Chỉ có mỗi mình
tôi là đêm hôm chẳng biết từ đâu chui ra, gõ cửa xin ở nhờ.
44. Trại trẻ mồ côi ở Kathmandu
Sau chuyến đi xe khách ngày hôm đó, tôi đã rút ra được điều
này: Đời người ai cũng nên đi xe khách ở Nepal một lần, nếu không phải vì cảnh
đồi núi hùng vĩ thì cũng là vì cái cảm giác mạnh. Đường đèo Himalaya trập
trùng, bác tài xế lại có máu phiêu lưu. Đường thẳng thì xe chạy chậm rì mà cứ
chỗ nào vách núi cheo leo thì bác lại rú ga phóng vèo vèo. Ngồi trong xe tôi
còn có cảm giácmình sắp bị quăng ra ngoài cửa xuống thẳng vực sâu, vậy mà mấy
người ngồi trên nóc xe mặt mũi cứ tỉnh bơ như đã quen với chuyện này vậy.
Càng lên cao, không khí càng lạnh. Kathmandu từ xa nhìn lại
giống một bức ảnh ai đó chụp với chế độ tilt-shift(*). Những ngôi nhà vuông
vức, nhỏ nhỏ đều nhau nhấp nhô như những miếng ghép Lego đứa trẻ nào đó vô tình
làm rơi. Lại gần hơn, bức tranh tilt-shift này bất chợt nổ tung ra thành trăm
ngàn âm thanh hỗn loạn. Trên núi sao mà có nhiều người thế. Giữa đường đông
nghẹt xe cộ. Hai bên đường là hàng trăm sạp quần áo nối tiếp nhau, hàng ngàn
người chen chúc nhau xem hàng, bán hàng, nói chuyện, cãi cọ. Ngay cạnh bến xe
là một vòng tròn người xúm đen xúm đỏ quanh một gánh diễn rong. Trên xe lúc bấy
giờ có hai người khách du lịch khác, chúng tôi bắt chung một taxi đi về Thamel
- trung tâm thành phố, thánh địa của tất cả dân du lịch ở Nepal.
(*) Tilt-shift (ống kính trượt) là kỹ thuật dịch chuyển và
xoay ống kính để chỉ có một phần bức ảnh được rơ nét, tạo cảm giác chủ thể
trong ảnh có kích thước nhỏ hơn nhiều so với thực tế hoặc trông như một món đồ
chơi.
Mấy người đi cùng tôi check in vào một nhà nghỉ được gợi ý
trên Lonely Planet. Tôi thì đã liên hệ trước được với Menuka, một CouchSurfer
xin ở nhờ. Lúc bấy giờ tôi vẫn chưa mua được SIM điện thoại (mua SIM điện thoại
ở Nepal cần ảnh và copy hộ chiếu), nên toàn phải hỏi người đi đường dùng nhờ
điện thoại của họ gọi cho Menuka. Gọi năm lần bảy lượt tôi mới tìm được đến nhà
cô. Bằng tuổi tôi, Menuka thuê phòng trọ ở cùng em trai trên Kathmandu. Hai chị
em, lại có thêm bạn trai Menuka và tôi nữa là bốn người ở trong một căn phòng
nhỏ xíu. Mặc dù chị em Menuka cực kỳ tốt bụng, ở đấy có vẻ hơi bất tiện nên tôi
chỉ ở một đêm rồi xin phép đi đến trại trẻ mồ côi. Tôi muốn đi tình nguyện.
Trước khi đến đấy, tôi đã lên CouchSurfing hỏi và được Maya, quản lý một trại
trẻ mồ côi ở đó, rủ đến tình nguyện.
Children Wealthfare Home (ChildWH) nằm chênh chếch trên một
ngọn đồi cách Thamel khoảng chục cây số. Đáng lẽ chỉ đi hai lần xe bus là tới
rồi, tôi phát âm nhầm tên địa danh nên lần xe bus đầu tiên đưa tôi đến tít tận
đầu kia thành phố, thành ra tôi phải bắt bốn lượt xe bus mới tới nơi, mất trọn
hai giờ đồng hồ. Nhưng cũng nhờ vậy mà ngay ngày đầu tiên tôi đã có dịp đi vòng
quanh khắp thành phố. Tình nguyện viên ở ChildWH lúc đó còn có ba mẹ con người
Hà Lan. Gia đình này sống như dân du mục vậy. Cô Noah làm việc bán thời gian
cho một công ty vận tải bán hàng không. Cái lợi của công việc này là nó cho
phép cô sống ở bất cứ đâu cô thích, nên cô chẳng dại gì mà bỏ lỡ. Cô sống nay
đây mai đó, dẫn luôn hai đứa con của cô đi theo. Hai bé học chương trình học từ
xa với mẹ là người kèm cặp trực tiếp, nộp bài và thi cử qua Internet. Thế giới
đúng là rất nhỏ. Con trai lớn của Noah có quen biết một người bạn người Việt Nam
của tôi trên một diễn đàn về biến đổi khí hậu. Bạn tôi phục lăn cậu bé này. Theo
đánh giá của bạn tôi, tuy mới mười bốn tuổi mà hiểu biết về lịch sử, văn hóa,
môi trường cũng như cách tư duy, lập luận của cậu bé này, người tuổi bạn ấy
(hai mươi tư tuổi) cũng khó ai bì kịp. Chúng tôi đồng ý rằng tố chất là một
phần, nhưng một phần quan trọng khác là môi trường lớn lên của cậu bé. Từ nhỏ
đã được theo mẹ đi khắp thế giới, cậu bé có cơ hội trải nghiệm trực tiếp nhiều
nền văn hóa và những luồng tư tưởng khác nhau. Sự nhiệt tình của ba mẹ con nhà
này làm tôi cũng bị cuốn theo. Chúng tôi hôm thì dạy các bé làm bánh, hôm thì
mua sơn về sơn lại phòng ngủ cho các bé, hôm thì mua thùng rác về đặt quanh
khuôn viên và dạy các bé về giữ gìn vệ sinh, hôm thì căng dây để mọi người ở
đây phơi quần áo: mọi người ở đây toàn phơi quần áo ở ngay dưới mặt đất. Các bé
ở đây cũng rất dễ thương. Tôi quyết định về lại Ấn Độ đi lễ hội Chim Mỏ Sừng
(Hornbill Festival), rồi sẽ quay lại đây giúp Maya quản lý trại trẻ mồ côi
trong ba tháng.
45. Không tiền về lại Ấn Độ
Mọi người có nhớ cặp vợ chồng Asenla và Temsu tôi gặp trên
máy bay đi từ Kuala Lumpur xuống Kolkata không? Ban đầu tôi không nghĩ rằng hai
người là người Ấn Độ bởi họ nhìn không khác gì người Đông Nam Á. Asenla mới
giải thích cho tôi rằng họ đến từ Nagaland - một bang ở phía Đông Bắc Ấn Độ. Vùng
Đông Bắc Ấn Độ có bảy bang, được ví như bảy chị em gái và họ đều có văn hóa rất
khác với phần còn lại của Ấn Độ. Đầu tháng mười hai hàng năm, bang Nagaland tổ
chức lễ hội Chim Mỏ Sừng rất lớn, trong đó tất cả các bộ tộc địa phương sẽ trổ
tài ca hát, nhảy múa, nấu nướng. Asenla nhiệt tình mời tôi lên thăm gia đình
cô. Chúng tôi sau này giữ liên lạc trên Facebook và đến gần ngày lễ Asenla giục
tôi về. Lúc bấy giờ, Nagaland còn là vùng hạn chế du lịch, ai muốn vào bang
phải có giấy phép. Temsu có người quen làm trong chính quyền, anh nhờ họ làm
giấy phép này cho tôi. Sau đó anh scan lại gửi cho tôi, tôi chỉ cần in ra mang
theo người là được.
Tôi đi xe bus về lại biên giới Kakarvita phía Nepal, đi bộ
qua phía Ấn Độ, bắt xe bus lên Siliguri. Đến đây tôi cần phải bắt tàu đi
Nagaland, nhưng đến bến tàu hỏi tôi mới phát hiện ra mình không còn đủ tiền mua
vé. Tôi quyết định sẽ đi nhờ xe lên Nagaland. Nhưng còn chưa ra đến được đường
chính để đi thì tôi bị hai người đàn ông trên rickshaw chặn lại. Sau khi nghe
tôi kể, họ mắng tôi bị khùng, muốn bị cướp bị hiếp chết hay sao mà đòi đi nhờ
xe ở Ấn Độ.
“Chú làm bảo vệ ở ga tàu. Quay lại đây chú mua vé cho đi
Nagaland”. Một người đàn ông bảo.
Mặc cho tôi phản đối, chú kéo tôi lên rickshaw đi ngược về
ga. Đến đây chú mua cho tôi platform ticket chuyến tàu sớm nhất. Chú nói tiếng
Anh không tốt lắm nên tôi cũng không hiểu chính xác platform ticket là gì. Vé
tàu ở Ấn Độ bán hết rất nhanh, nếu không đặt trước thì sẽ không thể nào có vé
mà đi được. Để giải quyết vấn đề này, công ty đường sắt Ấn Độ đặt ra platform
ticket, có thể mua ngay tại ga, chỉ ghi từ ga này đến ga kia mà không ghi tên
tàu, đừng nói tên khoang hay tên ghế. Mình lên kiếm được chỗ nào ngồi thì ngồi
thôi.
Bác soát vé nhìn thấy vé này liền chỉ tôi vào một khoang nhỏ
xíu nhưng ngập người và hành lý ở cuối tàu. Tôi xí cho mình được một chỗ cạnh
cửa sổ, ngồi co ro dựa đầu vào thành tàu ngủ. Trời lúc đấy đã vào đông, càng về
khuya càng lạnh. Tôi vẫn chỉ có mỗi cái áo khoác mỏng dính mua ở Kashmir và một
cái khăn cũng mỏng dính mua ở Mumbai, cuốn mấy vòng vào người mà vẫn lạnh. Tàu
xóc nên cái đầu tôi nó cứ va vào thành tàu lộp cộp. Mùi nhà vệ sinh nồng nặc.
Tôi cũng chẳng hiểu sao mình sống sót được qua đêm trên tàu. Lờ mờ sáng, những
người xung quanh lục đục xuống tàu và giục tôi xuống. Tôi hỏi “Nagaland?”, họ
gật đầu. Nhưng xuống đến nơi rồi tôi mới phát hiện ra đây mới chỉ là Guwahati,
cách Nagaland ba tiếng nữa cơ. Tàu nghỉ một tí rồi chạy tiếp, để lại tôi ngẩn
tò te không biết đi tiếp thế nào.
Sau khi nghe tôi giải thích, ban quản lí tàu bảo tôi đợi đến
sáng mai có thể lên được một chuyến tàu khác đến Dimapur mà không phải mua vé
mới. SIM điện thoại mua ở các khu vực khác ở Ấn Độ đến khu Đông Bắc này đều bị
mất sóng, tôi phải nhờ một chị ở ga đấy gọi điện báo cho Asenla là tôi sẽ đến
trễ một hôm. Đời có lắm bất ngờ. Tuy chị này không quen biết Asenla, nhưng hai
người cùng bộ tộc Ao nên bắt điện thoại một cái là nói chuyện liến thoắng gì đó
với nhau bằng tiếng Ao. Tự nhiên chị miệng vẫn còn đang nói chuyện điện thoại,
tay đã cầm tay tôi kéo đi, đẩy lên một con tàu khác.
“Là sao ạ?”. Tôi không hiểu chuyện gì đang diễn ra, ngơ ngác
hỏi.
“Không có thời gian giải thích đâu. Ngồi yên ở đấy, sẽ có
người đến tìm em”.
Tàu bắt đầu chuyển bánh, chú soát vé đến rồi mà vẫn chưa có
ai đến tìm tôi. Tôi lúng túng:
“Cháu xuống nhầm ga chuyến tàu trước, họ bảo cháu phải đợi
đến sáng mai mới đi Dimapur được, trong khi cháu có việc gấp phải đến Dimapur
ngày hôm nay. Lúc đấy vội quá cháu chưa kịp mua vé”.
Chú nhìn trước nhìn sau rồi nói nhỏ:
“Cháu biết tội trốn vé sẽ bị phạt thế nào không? Bây giờ chú
có cách này giúp cháu. Chú có thể bán cho cháu một vé mới ngay trên tàu này với
giá 1.500Rs”.
1500 Rs tức là hơn $30. Như thế thì có mà cắt cổ con người ta
à? Tôi biết ngay mình đã trở thành món mồi béo bở cho các bác ở đây làm tiền. Tôi
trưng bộ mặt hết sức khổ sở của mình ra:
“Cháu không có chừng đấy tiền đâu. Cháu đi lạc bố mẹ. Mọi
người ở Dimapur hết rồi. Cháu là học sinh làm gì có tiền”.
“Điện thoại cháu nhìn cũng đẹp đó”.
“Cháu mà không có điện thoại thì đến Dimapur làm sao tìm được
bố mẹ cháu. Cháu nói thật, cháu chỉ còn đúng 200Rs thôi”. Tôi giả bộ mở ví, lật
túi ra cho chú xem rằng mình hết tiền thật. “Nếu chú không cho cháu mua vé thì
chú phải đuổi cháu xuống ở ga tàu tiếp theo rồi”.
Chú đứng đấy nhăn mặt nhíu mày, cân đo đong đếm gì đó. Chắc
nhìn tôi cũng có vẻ nghèo thật, nên chú cuối cùng cũng ậm ừ:
“Thôi được, chú sẽ chiếu cố cho”.
Đúng lúc tôi chuẩn bị đưa 200 Rs thì tự nhiên một chị từ đâu
tất tả chạy tới.
“Em là Chip phải không?”.
“Dạ vâng ạ”.
Sau đó chị quay ra nói gì với chú soát vé, rồi móc ví đưa cho
chú đấy 800 Rs mà chẳng hỏi han gì tôi. Mất công tôi nãy giờ mặc cả.
Chị dẫn tôi về ghế cạnh chị. Hóa ra sáng nay lúc Asenla nói
chuyện điện thoại thì chị đang ở nhà một người bạn, mà bạn của chị lại biết một
người đang ở trên tàu từ Guwahati về, nên mọi người sắp xếp cho tôi lên cùng
chuyến tàu đó.
“Sao trùng hợp thế hải chị?”.
“Ha ha ha, Dimapur nhỏ lắm em ơi, ai cũng biết nhau cả”.
46. Lễ hội Chim Mỏ Sừng
Tàu đến Dimapur đi qua những cánh đồng lúa chín vàng óng ả,
lấm tấm đầm hoa sen. Ven cánh đồng, những ngôi nhà nhỏ xinh xắn có vườn, có ao
không khác gì phong cảnh làng quê Việt Nam yên bình. Nhà Asenla và Temsu là một
căn biệt thự xinh xắn nằm trong một khu cũng toàn biệt thự. Hai người thừa
hưởng căn biệt thự này từ bố của Temsu vốn là một Đức Cha đạo Tin lành.
“Nhà cô đẹp quá”.
“Hi hi, đẹp không? Đợi tối đèn lên còn đẹp nữa. Nhà cô cả
tuần vừa rồi trang trí mừng Giáng sinh đấy. Deo vừa về nước cũng phải bắc thang
lên treo đèn dây”.
Deo là con trai cả cô đang du học ở Singapore, tranh thủ kỳ
nghỉ về thăm gia đình. Ngoài Deo ra, cô còn có con gái Leia mới mười lăm tuổi
và con trai Arenlong thua tôi hai tuổi.
“Ở Việt Nam mọi người có đón Giáng sinh không?”.
“Ít lắm. Ở thành phố lớn thì các trung tâm mua sắm có trang
trí cây Noel. Ở quê con trang trí cũng đẹp vì quê con là quê đạo. Nhưng ở các
tỉnh thành khác thì không. Giáng sinh không phải là dịp nghỉ lễ”.
“Con theo đạo gì?”.
“Cơ đốc giáo ạ”. Tôi trả lời mà thầm nghĩ không biết mọi người
ở quê tôi mà biết tôi đang đón Giáng sinh với người theo đạo Tin lành thì sẽ
nghĩ sao. Ở quê tôi, mọi người còn khá cứng nhắc trong việc nhìn nhận các tôn
giáo khác, hay thậm chí là các chi nhánh khác của cùng một tôn giáo. Tôi nhớ có
một người họ hàng của tôi đi Mỹ về, cải sang đạo Tin lành đã bị gia đình phản
đối kịch liệt.
“Cơ đốc giáo hay Tin lành cũng thế cả. Thiên Chúa chỉ có một
mà thôi”.
Người Đông Bắc không chỉ nhìn giống người Đông Nam Á, mà cách
họ ăn uống cũng rất giống người Đông Nam Á. Trong khi khắp Ấn Độ người ta kiêng
ăn thịt lợn, thịt bò thì ở đây mọi người ăn tất. Họ cũng ăn lòng lợn, ăn măng,
ăn đủ các loại lá kỳ quặc. Khi tôi còn ở đấy, Temsu còn mua ong về chiêu đãi
tôi. Ong là đặc sản của khu vực này, ngon và cực kỳ đắt. Cách nấu nướng cũng
khá gần cách nấu nướng ở Việt Nam mình. Tôi ở Ấn Độ và Nepal sụt cân trầm trọng
thì khi đến đây lại tăng cân nhanh chóng.
Lễ hội Chim Mỏ Sừng được tổ chức tại Kohima, thủ phủ bang
Nagaland. Kohima nằm tít trên đồi, cách Dimapur gần hai tiếng lái xe. Tôi lên
Kohima lần đần tiên là đêm khai mạc lễ hội. Bé Leia, từng được giải nhì Tiếng
hát triển vọng bang Nagaland, được mời hát trong đêm đấy. Lần thứ hai lên lễ
hội Chim Mỏ Sừng, chúng tôi lên từ sáng sớm để không bỏ lỡ các màn trình diễn. Tôi
hơi ngạc nhiên vì cứ nghĩ rằng lễ hội lớn nhất trong năm của khu vực được coi
là mảnh đất của những lễ hội này phải đông hơn nữa. Khách du lịch rất rất hiếm.
Tôi có lên một số diễn đàn du lịch tìm hiểu trước về lễ hội này thì nhận ra
rằng rất nhiều khách du lịch không biết cách đến Nagaland thế nào, hay làm sao
để xin được giấy phép. Nói như thế không có nghĩa là tôi thất vọng. Ngược lại,
tôi thấy hơi hơi vui vui vì có thể tha hồ lượn lờ mà không phải chen chúc. Mỗi
bộ tộc có một khu nhà riêng với kiến trúc đặc trưng, trang trí những hoa văn
riêng, phục vụ đồ ăn riêng của khu vực đấy. Ngay trung tâm khu vực lễ hội là
nơi biểu diễn các điệu múa, trình diễn ca nhạc đặc trưng của những người con
Nagaland. Thực ra với bản thân tôi, được tận mắt nhìn thấy những nét văn hóa
khác biệt như thế là một trải nghiệm hết sức thú vị, nhưng nó không phải là
những thứ sẽ làm thay đổi suy nghĩ hay tính cách con người tôi. Tôi ấn tượng
hơn với những người mà tôi gặp.
Một người trong số đó là người cậu của Asenla. Ông có một
ngôi nhà hết sức đặc biệt. Ngôi nhà không phải là ngôi nhà rộng nhất, nhưng là
ngôi nhà có thiết kế quái nhất mà tôi từng vào. Nằm trên đồi, phía trước hướng
ra mặt đường nhưng mặt phía sau lại chênh vênh hẻm đá nhìn thằng xuống thung
lũng. Tường lẫn vào vách núi, phòng khuất trong bóng đá, tầng này so le với
tầng kia, hai ba cầu thang lắt léo vào nhau khiến cho người lạ vào đây có cảm
giác cứ như bước vào ma trận. Leia bảo hồi nhỏ đến đây cô bé đã từng khóc mấy
lần vì bị lạc. Tôi được dẫn đi tham quan mà cũng chóng hết cảm mặt. Nhà có bống
phòng khách, hai nhà bếp: một nhà bếp nếu đồ ăn Tây và một nhà bếp nấu đồ ăn
truyền thống của người Ấn Độ, hai phòng làm việc, một phòng gym, vô số hành
lang, phòng ngủ. Hỏi ra tôi mới biết cậu của Asenla làm cho chính quyền bang. Ông
là một trong những người có công lớn trong việc đưa Nagaland ra khỏi cuộc xung
đột các bộ tộc.
“Tại sao Nagaland lại là khu vực giới hạn hả ông?”. Tôi đã
thắc mắc rất nhiều nhưng chưa bao giờ nhận được câu trả lời thỏa đáng. Một số
người thì nói rằng bởi vì Nagaland là một khu vực có nhiều xung đột nên nguy
hiểm với du khách. Nhưng tôi thấy không đúng, vì những khu như Mumbai, New
Delhi thỉnh thoảng bị đánh bom mà có bị giới hạn đâu. Hơn nữa, bản thân tôi cảm
nhận thì Nagaland là một khu vực vô cùng an toàn, người dân cực kỳ văn minh và
thân thiện. Một số người khác thì nói rằng là vì Nagaland cũng như các tỉnh
phía Đông Bắc chưa phát triển nên sẽ không tiện cho khách du lịch. Du lịch cũng
có nhiều kiểu du lịch, tiện hay không tiện là do khách người ta chọn chứ chính
quyền sao phải chọn cho người ta? Hơn nữa, phải có khách du lịch đến mới có
tiền mà đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng chứ.
“Dùng từ giới hạn thì không đúng, mà cháu có thể nói khu vực
này là khu vực được bảo vệ”.
“Bảo vệ cái gì khỏi cái gì ạ?”.
“Bảo vệ văn hóa địa phương khỏi văn hóa ngoại lai”.
“Ủa, thế văn hóa các vùng khác không cần hay không đáng bảo
vệ hả ông?”.
“Có thể họ coi cái lợi thu về từ du lịch quan trọng hơn”.
“Nagaland có phải là một khu vực tự trị không hả ông?”.
“Nagaland có quyền tự trị cao hơn các bang khác, nhưng nó vẫn
là một bang của Ấn Độ. Bộ tộc Naga được trao quyền đặc biệt để giải quyết những
vẫn đề nội bộ của họ”.
“Có phải nhiều người ở đây muốn nó thành khu vực tự trị hoàn
toàn không ạ?”.
“Ha ha ha, chính trị Nagaland rất phức tạp, chắc chắn sẽ có
người muốn thế này và sẽ có người muốn thế kia. Chính vì vậy mới có xung đột”.
Thỉnh thoảng ở Nagaland vẫn có lệnh giới nghiêm do xung đột
giữa các bộ tộc với nhau, hay xung đột giữa các tổ chức với chính quyền Nhà
nước.
“Ông ủng hộ chính sách nào ạ?”.
“Ha ha ha, ông là người làm Nhà nước, làm sao ông trả lời
được câu này”.
Một gia đình khác để lại ấn tượng đặc biệt sâu sắc cho tôi là
gia đình Akum Amri. Biết tôi quý trẻ em, Asenla nhờ một người bạn của cô là
Robert dẫn tôi đến thăm trại trẻ mồ côi Enbenzer Orphanage Home. Akum là một
anh chàng giản dị với nụ cười hiền hậu. Trại trẻ mồ côi là một ngôi nhà hai
tầng hết sức đơn sơ. Một phòng cho bố mẹ anh, một phòng cho anh, một phòng cho
các bé trai, một phòng cho các bé gái. Phòng khách chỉ có một bộ bàn ghế bọc
nhung đã bạc màu, rách lỗ chỗ. Ly trà vợ chồng anh mời chúng tôi đều đã sứt mẻ,
nhưng tôi biết đây là những ly đẹp nhất mà anh có, bởi bản thân anh và bố mẹ
chỉ uống ly nhựa đã đen sì như thể đã dùng được mấy chục năm rồi. Cả gia đình
anh sinh hoạt luôn ở đây cùng với các bé: Các bé ăn gì, gia đình ăn nấy như một
đại gia đình thật sự. Các bé được đến trường. Ngoài giờ học, các bé được dạy
giúp đỡ việc nhà như trồng rau, nấu ăn. Tất cả chi phí đều là do gia đình anh
và một số người hảo tâm giúp đỡ. Tôi đã đến thăm nhiều trại trẻ mồ côi, nhưng
hầu hết ban quản trị ở đó đều là những người làm việc đó như một việc làm công
ăn lương. Tự san sẻ những gì mình có trong khi bản thân cũng chưa có gì nhiều
như gia đình nhà này thì thực sự bây giờ tôi mới gặp.
Một lần khác, Robert dẫn tôi đến lớp học sáng chủ nhật của
trẻ em xóm núi ở nhà mẹ anh. Những bé này không phải là mồ côi mà là trẻ em
nghèo. Đói ăn vụng, túng làm liều, nhiều trẻ em nghèo không có điều kiện đi học
dễ bị lôi kéo dụ dỗ làm điều xấu. Hàng tuần, Robert cùng một người bạn nữa của
anh tổ chức lớp học sáng chủ nhật nhằm giúp các bé định hướng tốt hơn cho tương
lai của mình, dạy các bé điều hay lẽ phải. Người bạn của anh sẽ dạy các bé hát,
kể chuyện ngụ ngôn cho các bé, tóm tắt qua tin tức mà các bé nên biết. Đấy là
những gì tôi đoán chứ thực ra tôi chẳng hiểu tiếng mọi người dùng ở đấy là
tiếng gì. Để động viên các bé đến lớp, Robert và bạn bè thỉng thoảng quyên góp
quần áo cũ, bánh kẹo, sách vở tặng cho các bé. Tặng quà xong, Robert kêu tôi kể
chuyện gì đó cho các bé nghe, anh đứng phiên dịch. Lúng túng, tôi quyết định
nói về đề tài mà tôi thích nói về nhất: ước mơ.
“Chị là Chip, đến từ Việt Nam. Các em biết Việt Nam ở đâu
không?”
Một bé rụt rè:
“Trung Quốc ạ?”
“Ha ha không. Việt Nam là nước giáp Trung Quốc, nhưng không
thuộc Trung Quốc. Việt Nam không giàu. Thu nhập bình quân đầu người của Việt
Nam chỉ tương đương Ấn Độ. Tuy nhiên, cũng như Ấn Độ, Việt Nam là một nền kinh
tế đang phát triển với rất nhiều cơ hội mới cho những người dám nghĩ, dám làm,
dám ước mơ. Chị có một ước mơ điên rồ là đi vòng quanh thế giới. Điều này sẽ dễ
thực hiện hơn nếu mình có rất rất nhiều tiền. Chị là một đứa rất rất nghèo,
nhưng chị vẫn đang từng bước thực hiện ước mơ của mình. Chị đã đi qua Đông Nam
Á và giờ chị đã đi được kha khá của Ấn Độ. Để theo đuổi ước mơ, tiền không phải
là tất cả, ý chí nghị lực đôi khi có thể mang lại những điều mà tiền không thể
mua được”.
Tôi kể cho các bé chuyện ngày trước tôi muốn đi học Aptech
nhưng lại không có tiền đi học. Tôi đã viết email đến tất cả các công ty tôi
quen nói với họ tại sao tôi lại mong muốn học Aptech như thế và xin họ tài trợ.
Chỉ có một công ty duy nhất trả lời, đó là FPT, và tôi đã được tài trợ để đi
học thế nào. Tôi kể cho các bé chuyện tôi leo núi ở Katra, khi tôi không có
tiền nên tôi đã đi bộ, và nhờ thế mà tôi được có được những trải nghiệm thú vị
mà nếu tôi đi như người có tiền, tôi đã không có được.
“Đừng nhìn việc không có tiền là một cản trở, mà nhìn nó như
một thử thách để phát huy sự sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề của mình”.
Lúc đấy tôi cũng không chắc về những gì mình nói đâu, cũng
chẳng biết bản thân mình còn đi được bao lâu nữa, nhưng tôi vẫn giả bộ tự tin
hết mức với hy vọng phần nào truyện được động lực cho các bé. Tôi cũng chẳng rõ
mình nói thế có xi nhê gì không, nhưng Robert khi ra về có vẻ rất xúc động. Anh
bảo, khi Asenla giới thiệu về tôi, anh cũng chưa rõ điều gì ở tôi khiến Asenla
quý như vậy. Nhưng đến giờ thì anh đã hiểu: Ở tôi có một nghị lực và một cách
nhìn nhận cuộc sống vô cùng khác lạ.
47. Ngủ lang ở Guwahati
Trên đường về lại Nepal, tôi quyết định dừng chân ở Guwahati.
Tàu đến Guwahati lúc nửa đêm, thấy bên ngoài không có vẻ gì là an toàn cả, tôi
ngồi trong ga ngủ. Sớm quá không muốn đánh thức ai, tôi tính đi dạo vòng vòng
quanh thành phố đợi trời sáng hẳn sẽ ra điện thoại công cộng gọi cho Devraj,
một CouchSurfer mà tôi đã liên hệ từ trước.
Cũng giống như ăn cá phải ăn lúc còn tươi, muốn tìm hiểu một
thành phố thì phải chọn lúc sáng sớm, khi mà thành phố đang bắt đầu lấy lại
nhịp sống sôi động hàng ngày nhưng chưa đủ tỉnh táo để che đậy những bí mật
riêng tư nhất của mình. Một người phụ nữ trải báo nằm ngủ ngay dưới chân tượng
nữ thần Durga. Một dãy đàn ông ngồi xổm bên đường hồn nhiên làm vệ sinh buổi
sáng. Một em bé ngồi chống cẳm bên thùng bánh, ngáp không buồn che miệng. Một
cụ già vừa quét vỉa hè, vừa nhóp nhép nhai trầu. Một anh thợ cắt tóc hí hoáy
cạo râu cho một người đàn ông trung niên ngay trên vỉa hè, những vị khách còn
lại kiên nhẫn đọc báo đứng chờ. Một cô gái một tay cầm tràng hoa cúc, một tay
khẽ nhấc chân bộ sari rực rỡ bước từng bậc lên chùa.
Chợ trung tâm đã bắt đầu lấy lại sự nhộn nhịp. Chợ ở Guwahati
rất lớn, tràn ngập hoa quả, gia vị, xoong nồi, củi đun, trầm thơm, hoa cúng, lá
dừa khô để lợp nhà, cỏ lau khô để làm chổi. Khác với chợ Việt Nam, đồ ăn Ấn Độ
không nhiều thịt cá, rất nhiều rau củ quả, nhiều nhất là ớt. Người Guwahati
cũng ăn trầu cau như mình. Cau vàng óng ả chất thành từng bao đầy oạp, lá trầu
không xanh ngắt xếp tròn thành từng vòng. Đất đai Guwahati màu mỡ, quả nào cũng
căng tròn, béo ngậy, màu sắc tươi giòn. Tôi mua cho mình một nải chuối đi ra bờ
sông ngồi ăn.
Sông Guwahati có bãi cát trắng muốt, tỏa ra một vầng sáng mờ
ảo trong ánh nắng ban mai. Bãi cát này rộng phải đến năm mươi mét, là nơi diễn
ra mọi sinh hoạt của ngư dân nơi đây. Lần đầu tiên ở Ấn Độ tôi thấy đàn ôn giặt
quần áo. Những người đàn ông ngâm nửa người dưới nước, hì hụi vo vo, đập đập. Hàng
chục dây căng dài kín đặc quần áo: hàng trăm chiếc quần phăng xanh, hàng trăm
chiếc khăn trắng - loại được dùng để làm quấn quanh hông dạng như khố. Tôi đoán
là họ nhận giặt quần áo thuê, chứ làm gì có ai nhiều quần áo thế. Khắp bờ sông
rải rác những hình nộm làm từ rơm. Trong dịp lễ hội, chúng được khoác quần áo,
được thờ cúng như những vị thần. Giờ đây hết thời, chúng bị lột trần truồng vứt
văng vứt vãi mé nước, sứt đầu, sứt tay, sứt chân. Những xác thuyền sắt được tận
dụng làm hotel giờ mới bắt đầu mở cửa. Hotel ở Ấn Độ có rất nhiều nghĩa và
trong văn cảnh này nó có nghĩa là quán ăn nhỏ.
Devraj đến đón tôi về nhà anh. Tóc anh dài, râu anh rậm rạp,
tương phản với khuôn mặt non choẹt. Anh sống với bố mẹ trong một ngôi nhà xây
kiểu thực dân cũ hết sức ngăn nắp và sạch sẽ, có phòng riêng cho khách. Đám bạn
của anh lúc đó đã ở đó cả, đang ngồi xem video chuyến đua xe ô tô độ mà anh vừa
thực hiện với một nhóm nhiếp ảnh gia khác trên đường đến xem lễ hội Chim Mỏ
Sừng. Anh cẩn thận đóng cửa, rồi quay sang nói với đám bạn:
“Được rồi đấy. Cuốn đi”.
“Cuối tuần nào mọi người cũng gặp nhau thế này à?”. Tôi hỏi.
“À, Devraj với anh ngày nào chẳng gặp”. Raju, anh chàng to
cao, râu quai nón đặc trưng của người khu vực miền Bắc Ấn Độ, nhưng cười thì
duyên đến đau tim vừa cuốn thuốc vừa bảo:
“Tuần này có hai người từ Delhi đến nên tất cả mọi người tụ
tập”.
“Mọi người có tính đi đâu cuối tuần này không? Đi Bhutan đi”.
Devraj phá lên cười.
“Chip muốn đi Bhutan mà không có tiền mua visa, nên đang tìm
ai lái xe qua biên giới cho nó chui xuống ghế xe lẻn vào”.
Người Ấn Độ không cần visa để vào Bhutan, nhưng người từ các
quốc giá khác muốn vào Bhutan phải trả tiền visa khoảng $200/ngày.
“Ha ha, dám liều không? Để anh hỏi thử bạn bè xem có ai đi
không. Ngày mai bọn anh tính ra đi ra đảo”.
“Ủa, ở Guwahati có biển đâu mà có đảo?”.
“Thế mới đặc biệt. Đảo đẹp nhất trần gian, không một bóng
người, hoang sơ đến từng centimet”.
“Nhìn này”. Devraj cười bí hiểm lôi ra một cái loa đĩa USB
chạy bằng pin. “Mua dành riêng cho dịp này đấy. Nghe thử đi, âm thanh ngon chết
luôn. Đi chơi đảo mà có nhạc nữa thì còn gì bằng”.
Không ai chịu giải thích thêm cho tôi đây là đảo gì. Mãi đến
buổi tối khi cả hội đi nghe nhạc, tôi mới moi được thông tin từ Devraj. Hòn đảo
đấy là hòn đảo riêng của Raju.
“Cái gì? Raju có một hòn đảo?”.
“Ừ, thừa kế từ gia đình. Đảo trên sông thôi mà”.
“Vẫn sướng. Làm sao để có một hoàn đảo bây giờ nhỉ?”.
“Ha ha ha, hoặc là em có rất nhiều tiền, hoặc là gia đình em
có đất đai để lại, hoặc là em cưới Raju”.
Sông Brahamaputra bắt nguồn từ Tây Tạng, sang đến Assam đột
ngột mở rộng, có những chỗ rộng đến mười kilomet. Hòn đảo của Raju nằm cách bờ
sông khoảng nửa tiếng đi tàu. Tàu là của chú Raju luôn. Chú Raju sống ngay trên
bờ trong một trang trại cũng vô cùng đáng thèm muốn. Nhà ở ngay sát bìa rừng,
có vườn đầy cây trái, ao sâu thả cá, có cả túp lều thơ mộng bên ao để câu cá. Sống
ở làng quê, đất đai rộng rãi thật là thích.
Nếu tự nhiên cho tôi đáp máy bay lên đảo mà không thông báo
gì trước, có lẽ chẳng bao giờ tôi nghĩ nó là đảo trên sông đâu. Đảo cũng có bãi
cát trắng miên man, cũng có những cụm hoa muống biển tim tím, cũng có những
tảng đá nước ăn mòn nhẵn bóng. Nước tuy không xanh như nước biển nhưng khá là
trong. Hơn đảo ngoài biển, đảo trên sông không sợ thiếu nước ngọt. Trên đảo
ngoài một khu để cắm trại và những cái ô rực rỡ sắc màu cho gia đình Raju thỉnh
thoảng ra nghỉ thì khắp đảo không có dấu hiệu gì của thế giới văn minh.
“Có hòn đảo đẹp thế này để không phí quá. Sao Raju không mở
nó thành khu nghỉ mát hay gì đó nhỉ?”.
“Nó cũng đang tính đấy. Nhưng có vẻ nó cũng không cần nhiều
tiền nên cũng chưa hào hứng cho lắm”.
“Raju làm việc gì hả anh?”.
“Ha ha ha, Raju ơi, Chip đang hỏi mày làm gì”. Anh gào to.
“Nó chẳng làm gì cả, suốt ngày đi câu cá thôi”.
Nhóm bạn Devraj có vẻ lãng tử, thích đàn ca, nhảy múa, thích
du lịch, thích nhiếp ảnh, thích ăn uống. Có lẽ vì thế mà tôi kết thân với nhóm
này rất nhanh, vừa gặp nhau đã như quen biết từ kiếp trước vậy. Có nhóm này ở
đấy là tôi cứ bị cuốn đi. Mọi người dẫn tôi đi thăm đủ các danh lam thắng cảnh,
cho tôi ăn đủ món ăn quái dị của nơi này. Sau khi bàn bạc, cả hội quyết định
rằng lẻn vào Bhutan là không hợp lý, bởi tôi sẽ phải trốn qua bốn trạm kiểm
soát Hải quan. Hồi ấy tôi cũng ngây thơ nên nghe mọi người khuyên thế, tôi cũng
dễ dàng bỏ cuộc. Không sang được Bhutan, tôi còn hơn một tuần trong visa Ấn Độ.
Mọi người dụ tôi ở lại Guwahati chơi, nhưng vì cuồng chân, tôi muốn đến một nơi
nào đó khác. Sau khi đọc qua thông tin trên mạng, tôi quyết định chọn Sikkim.
Bí quyết đặt vé tàu ở Ấn Độ
Tàu là phương tiện đi lại hết sức tiện lợi và phổ biến ở Ấn
Độ. Tuy nhiên, do cầu lớn hơn cung, vé tàu bán hết rất nhanh. An toàn nhất là
bạn nên đặt vé tàu từ trước. Bạn có thể vào trang: erail.in để kiểm tra chuyến
tàu, giá vé, quota. Tìm được vé ứng ý thì qua https://www. irctc.co.in để mua. Kiểm
tra ở Irctc cũng được nhưng erail đầy đủ hơn, tiện tra cứu hơn.
Trong trường hợp bất khả kháng không kịp đặt vé trước, bạn
cũng có thể mua vé phút chót bằng những cách sau.
1. Sử dụng foreign quota
Hầu hết các chuyến tàu của Ấn Độ đều có quota dành cho khách
nước ngoài và thường hết vé chậm hơn. Vé này không mua được online mà bạn đến
tận bến tàu, hỏi Tourist Information hay Tourist Bureau để mua vé.
2. Tatkal quota
Nôm na là vé ngày chót. Mỗi chuyến tàu đều có một số ghế nhất
định dành cho người cần mua vé gấp. Vé tatkal được bán hai ngày trước ngày đi,
bắt đầu từ tám giờ sáng. Ví dụ nếu bạn muốn đi ngày 24 thì 9h sáng 22 phải ngồi
rình mua luôn. Vé này bán rất nhanh, có khi mười phút đã hết rồi. Bạn có thể
tham khảo thêm ở đây: www.iloveindia/indian-railways/tatkal-cheme.html
3. Platform Ticket
Vé này là vé đi từ bến tàu này đến bến tàu khác, nhưng không
có số ghế. Bạn sẽ phải lên khoang dành riêng cho hạng vé này, chen lấn có chỗ
ngồi là may. Nhưng vé này lúc nào cũng có và giá rất rẻ.
48. Cuộc gặp gỡ tình cờ ở Sikkim
Sau khi dành một ngày lang thang ở Darjeeling - quê hương của
cô bạn Anu dễ thương, tôi bắt taxi lúc bảy giờ tôi lên Sikkim. Taxi thực ra là
xe Jeep, bảy chỗ ngồi nhưng được cải tiến thành mười bốn chỗ. Tôi bị nhét vào
ngồi phía sau khu vực mà đáng lẽ là để hành lý. Chật, mông tôi ngồi phía sau
những mặt phải đu ra phía trước. Anh chàng ngồi phía trước tôi tranh thủ bắt
chuyện. Trời tối, anh bịt mặt kín mít như ninja, tất cả những gì tôi nhìn thấy
chỉ là làn da săn vì lạnh, đôi mắt sắc một mí của người Tây Tạng. Kalden, tên
anh, cùng nhóm bạn đi tình nguyện ở Dharamsala, đang trên đường về lại Sikkim.
“Em từ đâu đến?”.
“Việt Nam anh ạ”.
“May quá, không phải người Trung Quốc”.
“Ha
ha, em cũng thấy may”.
Chúng
tôi nói chuyện khá hợp. Nói chung, đi nhiều gặp nhiều người tôi nhận ra rằng
ngoại trừ một số người cực kỳ lạnh lùng hay tẻ nhạt ra, tôi nói chuyện với ai
cũng hợp. Bí quyết chính để nói chuyện là tìm ra những mối quan tâm chung. Mà
cái gì tôi cũng quan tâm một tí nên gió chiều nào cũng xoay theo được.
“Em
thích đọc sách gì?”.
“Đủ
loại sách anh ạ. Anh thích đọc sách gì?”.
Anh kể
ra Harry Potter, Chúa tể của những chiếc nhẫn, mấy cuốn của Dan Brown, mấy cuốn
sách phát triển bản thân mà tôi không thích lắm, mấy cuốn sách nổi tiếng của Ấn
Độ như White Tiger, Shantaram, The God of Small Things. Anh hết sức ngạc nhiên
khi tôi nói tôi cũng đọc hết mấy cuốn đấy, bởi trong đám bạn anh chỉ có mỗi anh
thích đọc sách. Còn tôi cũng rất ngạc nhiên khi biết là anh ngạc nhiên. Có lẽ
anh ở trên núi lâu quá, chứ những cuốn anh đọc đều thuộc dòng văn học phổ thông.
“Em có
giấy phép vào Sikkim chưa?”.
“Em
chưa. Em đọc trên mạng thấy bảo là đến nơi xin cũng được”.
“Ừ. Để
lát đến Sikkim anh xin cho. Anh là
hướng dẫn viên du lịch mà”.
“Ủa, em tưởng anh bảo là anh là giáo viên?”.
“Thỉnh thoảng cũng phải làm hướng dẫn viên du lịch mới đủ
sống chứ. Nhưng yên tâm, anh không tính tiền em đâu”.
Xe càng lên cao càng lạnh, trời càng về khuya càng buốt. Bên
ngoài tối đen như mực, lốm đốm những mảng đèn sáng le lói của làng mạc lưng
chừng đèo. Xe đến biên giới Sikkim lúc đã hơn mười giờ. Trạm làm giấy phép đã
đóng cửa ngủ im ắng. Kalden và bác lái xe phải đập cửa gọi gần mười lăm phút
mới có người lò dò ra. Bác trực ở đây tuy ngái ngủ nhưng không có vẻ gì cáu
bẳn. Bác còn cười sảng khoái khi nghe tôi bập bẹ máy từ tiếng Sikkim mà Kalden
dạy tôi trên xe. Lấy được con dấu, tôi mừng rơn, đút tay vào túi quần lấy máy
ảnh ra chụp lại con dấu làm kỷ niệm mới phát hiện nó không còn ở đấy nữa. Tôi
nhớ như in lúc lên xe tôi vẫn còn máy, bởi lúc đấy tôi còn dùng nó chụp cảnh xe
đông đến mức nào. Nhưng bây giờ tìm đâu cũng không thấy. Lúc đấy mọi người trên
xe cũng đã tốt bụng chờ cho tôi xin dấu cả nửa tiếng đồng hồ nên tôi cũng không
dám nghi ngờ đòi kiểm tra ai cả. Của mất thì đã mất rồi, tôi chỉ thở dài không
biết bao giờ mình mới có tiền mua được máy ảnh mới. Xe dừng lại ở Gangtok, thủ
phủ của Sikkim lúc đấy đã gần mười một giờ. Khác xa với tưởng tượng của tôi,
thủ phủ gì mà về đêm cũng tối đen như mực không khác gì xóm núi.
“Giờ em đi về đâu?”. Kalden hỏi.
“Trung tâm thành phố ở đâu hả anh? Em đi vòng vòng tìm xem có
nhà nghỉ nào rẻ không”.
“Em bị khùng à? Gangtok chứ có phải là Mumbai đâu mà đêm hôm
thế này còn có chỗ mở cửa cho em vào. Đi một mình giờ này nguy hiểm lắm. Nhà
anh ở làng Rumtek, cách đây mười bốn cây. Nếu em không ngại, em có thể đến ở
tạm nhà anh”.
Mấy bạn nữ đi cùng anh cũng gật đầu hưởng ứng.
“Em về nhà Kalden nghỉ tạm đi. Em yên tâm, Kalden tốt lắm,
không sợ bị bắt cóc hay gì đâu”.
Nhìn xung quanh, tôi tính rủi ro ở ngoài đường sẽ cao hơn
nhiều so với rủi ro khi về nhà Kalden, nên tôi theo đám bạn anh lên một xe bus
khác về làng Rumtek. Cả nhà anh lúc đó vẫn còn thức. Không biết anh có kịp báo
cho bố mẹ anh là chúng tôi đến không mà mẹ anh đã chuẩn bị sẵn trà nóng với cơm
thịt cho chúng tôi. Trời lạnh, hai tay tôi cầm chặt cốc trà, hơ hơ lên mặt đón
hơi ấm. Lúc rửa chân tay đi ngủ, mặc dù đã được Kalden cảnh báo, tôi vẫn tái
mặt vì nước lạnh. Nước lấy thẳng từ suối nguồn trên núi, vốn được hình thành
nhờ băng tan. Đánh răng mà tôi cảm tưởng răng mình đang rơi ra từng chiếc. Kalden
nhường cho tôi phòng của anh vì nó đẹp và ấm hơn, còn anh nằm bên phòng dành
cho khách.
Rumtek
đẹp cứ như trong mơ. Nhà Kalden lại chìm vào trong núi, chiếm ngự một ví trí
chiến lược khiến cho tôi có cảm giác như tất cả núi đồi đều thuộc về mình và
tất cả bản thân mình đều thuộc về núi đồi vậy. Hàng xóm gần nhà anh nhất cũng
phải cách mấy chục mét. Bên cạnh nhà anh là vườn rau cải đắng mà tôi nghiện. Bên
kia vừa rau cải là thung lũng. Bên kia thung lũng là Tây Tạng. Sang tôi thích
dậy sớm, co ro ngồi ngoài hiên, trùm chăn từ đầu tới chân, tay mân mê cốc trà
thơm phức, ngắm mặt trời lên từ phía bên kia sườn núi. Bắt đầu là những tia
nắng le lói, rồi nắng thành dải lụa, rồi bất chợt không gian sáng rực lên như
ai đó vô tình làm đổ tràn một bình đầy nắng. Thỉnh thoảng bố Kalden cũng ngồi
uống trà cùng tôi. Quay mặt về phía Tây Tạng, bác bảo kể từ khi Tây Tạng bị
Trung Quốc xâm chiếm, rất nhiều người Tây Tạng đã bỏ trốn sang đây. Bác cũng là
người Tây Tạng. Bác theo gia đình sang đây từ khi mới một tuổi. Từ đó đến nay,
bác chưa bao giờ về lại Tây Tạng, phần vì không được Trung Quốc cấp visa, phần
vì phản đối sự chiếm đóng của Trung Quốc không muốn về.
“Tên
bác là Gyatso, như tên của Đạt Lai Lạt Ma ấy”.
Bác
Gyatso là hiệu trưởng trường làng Rumtek Monastery, Kalden là một giáo viên ở
đấy. Rất tiếc bây giờ là nghỉ lễ, chứ không mọi người rất muốn tôi tham gia trợ
giảng.
“Em
nghe nói đến Rumtek Monastery bao giờ chưa? Nổi tiếng lắm đấy”.
“Nổi
tiếng về cái gì cơ?”.
“Đây
là kinh đô khi tha hương (capital in exile) của Karmapa. Bình thường, nếu như
Karmapa không ở Tây Tạng thì ngài sẽ ở đây”.
“Karmapa
là ai ạ?”.
“Em
biết Đạt Lai Lạt ma mà không biết Karmapa thật hả?”.
“Đạt
Lai Lạt Ma là thủ lĩnh tinh thần của Tây Tạng mà”.
“Karmapa
còn cao hơn cả Đạt Lai Lạt Ma cơ. Cả hai vị đều là các vị sư đầu thai, mỗi vị
đứng đầu một nhánh đạo Phật ở Tây Tạng. Nhưng Đạt Lai Lạt Ma mới được đầu thai
lần thứ mười bốn, vị Karmapa này đã được đầu thai đến lần thứ mười bảy”.
“Giờ
em mới biết đấy. Nghe hay nhỉ. Em cũng muốn gặp ngại. Rumtek Monastery có ở gần
đây không ạ?”.
“Gần,
mai mình đi. Nhưng Ngài cũng bị chính phủ Ấn Độ cấm về đây luôn rồi nên Ngài
đang ở Dharamsala. Anh vừa được gặp Ngài ở Dharamsala. Ngài rất trẻ và đẹp trai
nữa”.
“Đẹp
trai á? Đâu, cho em xem ảnh”.
Cũng
như những người Tây Tạng khác, nhà Kalden có rất nhiều ảnh của các vị lạt ma
(vị sư đầu thai) của Tây Tạng, đủ để thấy tôn giáo có vai trò quan trọng như
thế nào trong đời sống của người Tây Tạng. Anh còn một series ảnh chụp đứng nói
chuyện với Karmapa ở Dharamsala. Tôi nghĩ mọi người vì sùng bái vị Karmapa này
quá nên thấy ông đẹp trai, chứ tôi thấy cũng bình thường.
“Anh
nói chuyện với ngài được lâu không?”.
“Được
gần năm phút đấy”.
“Nói
những chuyện gì ạ?”.
“Anh
kể cho ngài nghe việc dạy và học ở Rumtek Monastery và rằng người dân Rumtek
luôn mong ngài sớm trở về. Ngài có vẻ vui lắm, cười suốt”.
Nhận
thấy tôi là một đứa không biết gì về Tây Tạng, Kalden tự nhận việc khai sáng
cho tôi là trách nhiệm của anh. Nhà có bao nhiều phim ảnh tài liệu về Tây Tạng,
anh bắt tôi xem qua hết. Nhờ vậy mà khá nhiều thắc mắc của tôi được giải đáp,
ví dụ sao người ta biết chắc được người này là vị lạt ma trước đầu thai, hay
nếu như không tìm được người đầu thai đó thì sao, hay tại sao người Tây Tạng
lại sùng đạo đến như vậy.
Sáng
hôm sau chúng tôi lên đường đi Rumtek Monastery. Từ nhà Kalden lên Monastery
không có xe bus, Kalden cũng không có ô tô hay xe máy nên chúng tôi phải cuốc
bộ. Tu viện nằm tít trên đỉnh ngọn đồi, đi qua vườn ngô, rừng cải, ruộng bậc
thang, thanh bình và xinh đẹp không khác gì Tây Bắc Việt Nam. Những ngôi nhà gỗ
nhỏ nhắn, vuông vắn, tường thấp, mái rộng kiểu Tây tạng rải rác sau rặng cây
bên đồi. Những sợi dây chăng kín những mảnh vải tam giác đủ năm màu sặc sỡ:
trắng, đỏ, vàng, xanh lá cây, xanh da trời. Tượng trưng cho năm thành phần:
đất, lửa, khí và không gian trong tín ngưỡng của người Tây Tạng. Những cây nêu
thân tre, cờ trắng hình chữ nhật xếp thành một hàng dài bên đường. Kalden bảo
trong văn hoá Tây Tạng, khi ai đó chết đi, gia đình sẽ dựng một trăm linh tám
cột cờ như thế để linh hồn họ được siêu thoát. Đi được khoảng hai tiếng thì có
xe ô tô nào đó đi qua. Cao hứng, tôi giơ ngón tay cái ra xin đường. Xe dừng lại
cho chúng tôi đi nhờ. Lúc đi xuống, tình cờ thế nào chúng tôi cũng lại gặp đúng
xe đấy. Lần này chẳng cần xin đường xe vẫn dừng lại, đưa chúng tôi về đến tận
nhà.
Một
vài lần, cùng với đám bạn của Kalden, chúng tôi lên Gangtok chơi. Phố núi nhưng
có vẻ văn minh hơn nhiều thành phố khác của Ấn Độ. Gangtok sạch và đẹp. Nhà
nước cấm dùng túi nilon và người dân khá có ý thức bỏ rác vào thùng. Trung tâm
thành phố M.G.Marg (Mahatam Gandhi Marg) nhìn giống như một phố ở châu u dành
riêng cho người đi bộ. Lúc đi qua sân vận động, tôi phát hiện người ta đang
giăng cờ quạt chuẩn bị cho một sự kiện lớn gì đó, tôi tò mò vào hỏi thì được
biết Đạt Lai Lạt Ma sắp sang đây.
“Cháu
có thể mua vé để vào nghe Đạt Lai Lạt Ma nói chuyện, nhưng sẽ đông lắm đấy”.
“Cháu
là nhà báo thì có thể vào gặp riêng Ngài được không ạ?”.
“Cháu
có thẻ nhà báo không? Nếu có thẻ thì lên Trung tâm Truyền thông để làm media pass
(vé dành cho giới truyền thông) để vào”.
Mặc dù
không có thẻ nhà báo, tôi vẫn vào Trung tâm Truyền thông xem có chém gió cho họ
tin mình là nhà báo được không. Đến nơi mới biết là media pass đã làm hết từ
trước đó cả tuần rồi. Hỏi chuyện một hồi, tôi được biết Đạt Lai Lạt Ma có một
hội thảo về khoa học, tâm linh và giáo dục vào ngày 20 tháng 12. Một nhà báo
đến lấy media pass, tôi nhìn thoáng qua và nhanh chóng ghi nhớ thiết kế của cái
thẻ này.
Về đến
nhà, tôi với Kalden tự mình in ra một cái tương tự, dán ảnh mình lên, rồi mượn
con dấu của người quen của bố Kalden đóng dấu vào như thật. Hôm diễn ra hội
thảo, Kalden với tôi cố tình đi trễ nửa tiếng, tôi cầm máy ảnh (đi mượn),
Kalden cầm túi đựng tripod nhìn rất hoành tráng chạy đến trung tâm diễn ra hội nghị.
Hàng ngàn người đứng chật kín hai bên đường mong được nhìn thấy Đạt Lai Lạt Ma.
Các chú cảnh sát phải vất vả lắm mới giữ được trật tự. Đi qua chỗ bảo vệ, chúng
tôi giơ cái thẻ giả của mình ra rất nhanh, hớt hải ra bộ mình đang vội lắm. Tôi
xổ ra một tràng tiếng Anh đại loại là mình bị trễ rồi. Mấy chú bảo vệ nhìn
chúng tôi đầy vẻ ái ngại, chắc thương hại chúng tôi đi tác nghiệp mà bị trễ nên
cũng nhanh chóng mở cổng cho chúng tôi mà không kiểm tra kỹ càng gì. Nhờ tài
len lỏi, chúng tôi vào được tận bên trong, kiếm cớ chụp ảnh mà lên ngay cạnh
sân khấu, cách Đạt Lai Lạt Ma chỉ khoảng vài chục phân. Ngài nhìn tuy có vẻ già
và yếu hơn những ảnh tôi đã nhìn, nhưng da dẻ vẫn hồng hào. Kalden thì thào vào
tai tôi: “Em nhìn thấy không, từ Ngài có ánh sáng toả ra kìa”. Tôi căng mắt ra
nhìn mà chẳng thấy đâu. Ban đầu Ngài nói tiếng Tây Tạng, có người phiên dịch
cho Ngài, nhưng một lúc Ngài chuyển sang nói tiếng Anh luôn cho nhanh. Ngài đã
được coi là bậc chân nhân, còn tôi chỉ là một con bé ranh con mới học xong cấp
ba, nên tôi tạm thời không dám bình luận bài diễn văn của Ngài. Sau buổi lễ,
chúng tôi chen lên được gần Đạt Lai Lạt Ma xin ban phép lành. Sau này, mọi
người hỏi Kalden gặp Đạt Lai Lạt Ma thì như thế nào, anh trả lời rằng lúc Đạt
Lai Lạt Ma chạm tay lên trán, anh cảm giác như là từ Ngài toả ra một sức mạnh
gì đó không có ở phàm trần này. Anh sung sướng đến mức gần như là ngất đi. Còn
khi mọi người hỏi tôi gặp Đạt Lai Lạt Ma thì thấy thế nào, tôi chỉ trả lời là
rất thú vị. Có lẽ là do tôi không phải là người Tây Tạng chăng? Hoặc là do tôi
sống lý trí quá?
49.
Cho một cậu bé chưa bao giờ có cơ hội du lịch
Tôi
viết phần này dành riêng cho Yarfel, em trai của Kalden. Nói là viết cho em
cũng không đúng, bởi em đã không còn ở trên thế giới này để đọc được những dòng
tâm sự của tôi nữa. Tôi viết có lẽ dành cho tôi nhiều hơn, cho những niềm
thương, niềm nhớ, niềm xót, niềm đau dành cho em ở trong tôi.
Em đã
là một cậu bé rất ngoan. Em hiền lành, ít nói, so với anh trai thì em có vẻ bẽn
lẽn. Những lúc tôi nói chuyện với bố em, em chỉ im lặng đứng cạnh mà không bao
giờ lên tiếng. Những lúc tôi đi với nhóm bạn của anh em, em cũng không bao giờ
dám xin đi cùng. Chỉ có buổi sáng sớm, tôi ra hiên uống trà, em mới rụt rè ra
ngồi cạnh. Em bảo tôi kể cho em về nơi mà tôi sinh ra, về những nơi mà tôi đã
đi qua và về những nơi mà tôi sắp đến. Tôi kể hết chuyện này đến chuyện kia.
Mắt em sáng rực lên. Em bảo, sau này em cũng muốn đi như tôi. Cuối năm nay thi
tốt nghiệp cấp ba xong, em sẽ bắt đầu cuộc hành trình đầu tiên của đời mình. Em
sẽ đi ở Ấn Độ trước, sau đó sẽ đến Kim Tự Tháp, rồi châu u và một ngày nào đó,
em sẽ đến thăm quê hương tôi.
Tôi
hỏi em về ngôi trường em học, về những người bạn em quen, về những nơi em
thường đến. Em khoe em học rất giỏi. Em bảo, có một địa điểm bí mật em hay đến
mỗi lần em cần suy nghĩ gì đó, em muốn cho tôi xem. Đó là một cây cầu treo bằng
gỗ vắt ngang con suối ở tít trong rừng. Cây cầu nâu nhuốm màu thời gian, mỗi
lần đi qua nó kêu cót két, đi nhanh một tí là nó chòng chành. Bên dưới dòng
nước chảy cuồn cuộn, va vào những tảng đá ngay giữa lòng suối tạo thành những
con xoáy nối tiếp nhau. Em hỏi tôi: “Đẹp không chị?”. Tôi gật đầu: “Đẹp. Bí ẩn.
Hoang sơ. Đáng sợ.”
Ngày
tôi rời khỏi Sikkim, khi tìm mãi không thấy đôi giày của mình đâu, em mới rụt
rè xách đôi giày đã được em cọ rửa sạch bóng đặt dưới đôi chân tôi rồi chạy mất
không kịp để tôi nói cảm ơn. Tôi đi giày vào chân mà nước mắt lã chã. Hơn nửa
năm lang bạt, tôi chỉ có đôi giày với cái ba lô làm bạn. Bao nhiêu khói bụi
đường trường đôi giày chịu hết, dơ dáy tơi tả đến mấy tôi cũng chẳng muốn động
vào. Thế mà em lại sẵn lòng làm điều đó cho tôi.
Tôi
nay đây mai đó, em không lên mạng nên tôi cũng chẳng có cách gì liên hệ với em
được. Bỗng một ngày cuối tháng năm, khi tôi lên Facebook của anh trai em mới
đọc được tin sét đánh: Em không còn trên đời này nữa. Tôi không hiểu chuyện gì
đang diễn ra, cuống cuồng gọi điện cho anh trai em để hỏi xem thực hư thế nào
mới biết rằng em mất đúng ngày em thi tốt nghiệp xong. Em ra địa điểm bí mật
của mình và cây cầu gãy. Tôi bật khóc. “Chẳng phải bây giờ là lúc em muốn thực
hiện chuyến đi đầu tiên của cuộc đời mình sao? Tại sao em lại ra đi khi chưa
đến thăm quê hương chị?”
Nguồn sstruyen.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét