Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

12 thg 12, 2013

Lý Trần Tình Hận - Ngô Viết Trọng - Chương 10-14

Chương 10:

Tuy phải trải qua một cơn biến động tình cảm não nề sau khi bất đắc dĩ phải truất phế và cô lập Chiêu Thánh hoàng hậu, hai hôm sau vua Thái Tôn lại phải gắng lâm triều. Trông ngài vẫn còn lộ rõ vẻ thẫn thờ mệt mỏi. Sau khi triều đình khánh chúc xong, vua Thái Tôn cho mọi người bình thân và đợi họ lần lượt tâu việc. Vị quan đầu tiên quì trước bệ rồng là Hải Dương hầu Trần Phong, hầu trịnh trong tâu: 

- Muôn tâu bệ hạ, trời đất phải luôn luôn có đủ mặt trời mặt trăng. Vạn vật muôn loài đã có cha thì phải có mẹ. Nước đã có vua thì không thể thiếu hoàng hậu. Hiện nay triều đình mới khiếm khuyết ngôi vị hoàng hậu, xin bệ hạ cho tuyển chọn người có đức lớn để lập ngay mới hợp lẽ! 
Vài vị quan khác cùng lên tiếng tán thành ý kiến này. 
Đề cập đến chuyện này chẳng khác gì lấy con dao nhọn mà khoét vào tâm tư nhà vua. Vua Thái Tôn đau đớn cố dằn cơn giận, ngài chưa kịp phán lời gì thì Thái sư Trần Thủ Độ bước ra tâu tiếp: 
- Tâu bệ hạ, Hải Dương hầu và các quan nói rất đúng. Bây giờ lập hoàng hậu là chuyện khẩn thiết. Điều kiện cần thiết cho vị quốc mẫu phải là người mẫu mực nết hạnh, phải thuộc giòng dõi quí phái, và cần thiết hơn hết là phải mắn con. Hạ thần nhận thấy trong triều ta hiện tại chỉ có nội tướng của Hoài vương Trần Liễu, tức Thuận Thiên công chúa là có đủ những điều kiện ấy. Vậy, xin bệ hạ xuống lệnh cho chọn ngày lành tháng tốt để phong Thuận Thiên công chúa làm hoàng hậu! 
Vua Thái Tôn nghe Thái sư tâu như thế thì ngớ người ra như bỗng nhiên bị rơi vào một cõi xa lạ. Ngài bàng hoàng chốc lát mới trấn tĩnh được, ngài phán: 
- Không thể được! Không thể được! Thuận Thiên công chúa đã là chị dâu trẫm. Trẫm không bao giờ làm chuyện đó. Thiên hạ thiếu gì phụ nữ mà trẫm phải giựt vợ của anh mình! Hoàng thúc và các quan nên chọn người khác. Ngày xưa, Quan Vân Trường bị Tào Tháo ép ở chung phòng với hai người vợ của Lưu Bị - người anh kết nghĩa của ông ta - ông ta vẫn giữ đạo nghĩa bằng cách cầm đuốc sáng đêm để tránh hiềm nghi. Đó chỉ là anh em kết nghĩa thôi mà Vân Trường còn giữ đạo nghĩa đến thế. Nay nếu trẫm lại làm trái đạo như vậy thiên hạ bây giờ và ngàn sau nữa sẽ đánh giá thế nào về trẫm? 
Phán xong, vua Thái Tôn với thái độ vô cùng bất mãn, rũ áo đi vào cung. 

Trần Thái sư thấy thái độ của vua Thái Tôn, quay sang nói với triều thần: 
- Hôm nay long thể bất an. Hãy tạm hoãn chuyện ấy lại. Bây giờ các quan hãy lui về! Ngày mai chúng ta sẽ bàn nghị lại. 
Thái sư không nói gì nữa nhưng trông cũng có vẻ bất mãn lắm. Các đại thần cũng từng toán gặp nhau xôn xao bàn tán trước khi ra về. Dĩ nhiên tin này không mấy chốc chuyện bàn tán cũng đến tai gia đình Hoài vương Trần Liễu trong khi vương vẫn còn đi tuần thú chưa về. 
Để đề phòng bất trắc, Thái sư Trần Thủ Độ đã cho một toán do thám đến canh chừng ở phủ Hoài vương. 
Công chúa Thuận Thiên được tin ấy vô cùng đau khổ. Thuận Thiên khóc đến húp cả con mắt. Ôi, làm sao để chén rượu tiễn chàng đi công cán đừng thành chén rượu vĩnh biệt đây! Bà biết rằng khi Trần Thủ Độ đã muốn làm gì thì không còn ai cản được. Tuyệt vọng, Thuận Thiên lén dẫn một con thị tì thân tín mang một ít của riêng lẻn trốn. Hai thầy trò tìm đến chùa Thiên Đức do nhà sư Tuệ Đống trụ trì để xin tá túc. Sau khi lễ Phật xong, Thuận Thiên công chúa thưa với sư Tuệ Đống: 
- Bạch sư phụ! Giòng họ Lý chúng con phát tích từ cửa thiền. Tổ tiên chúng con dựng lập bao nhiêu chùa chiền, thi thố bao nhiêu ân đức chứ có làm ác bao giờ đâu! Thế mà không hiểu vì lẽ nào con cháu phải gánh chịu họa diệt tộc! Nhiều người phải chịu cảnh chôn sống! Riêng Thuận Thiên, Chiêu Thánh chúng con đã phạm tội gì mà phải khổ đau vì duyên số đến mức này? Kính xin sư phụ cho vài lời chỉ giáo! 
Sư Tuệ Đống nhìn công chúa bằng cặp mắt hiền hậu: 
- Nam mô A Di Đà Phật! Chúng sanh mê mờ không thấy rõ ngọn nguồn tội lỗi. Thưa công chúa, trường hợp này gọi là Phật ngữ gọi là cộng nghiệp. Ngay như giòng họ đức Thích Ca cũng bị tiêu diệt sạch khi ngài còn tại thế. Theo giáo pháp Phật, ở trên đời mọi sinh vật đều phải trải qua sinh, lão, bệnh, tử và muôn vật đều không thoát khỏi bốn tướng tương tục "thành, trụ, hoại, không". Đó là định luật tất nhiên, bất biến. Công chúa hãy nghe bần tăng kể lại trường hợp này: 
"Nước Ca Tì La rất hưng thịnh từ khi lập quốc cho đến đời Phật. Nguyên khi vua Ba Tư Nặc nước Kiều Tất La chưa qui y Phật đã cho sứ giả đến Ca Tì La cầu hôn với giòng họ Thích Ca. Các thân vương của giòng họ này tự cao tự đại cho giòng họ mình là cao quí nhất đời nên không chịu. Tuy vậy, họ cũng ngán vì lúc bấy giờ Kiều Tất La là một cường quốc vùng châu thổ sông Hằng. Vì thế, họ đã dùng một tì nữ trong cung tên Mạt Lỵ tráo thành vương nữ đem gả cho vua Ba Tư Nặc. Mạt Lỵ có sắc đẹp lại thông minh nên được vua Ba Tư Nặc rất yêu quí, phong làm đệ nhất phu nhân. Mạt Lỵ sinh con đầu lòng đặt tên là Tỳ Lưu Ly. Năm Tỳ Lưu Ly lên tám, được vua cha cho về quê ngoại để học bắn cung vì nước Ca Tì La rất giỏi về xạ thuật. Bấy giờ trong thành Ca Tỳ La mới kiến thiết xong một đại giảng đường nguy nga chỉ dành riêng đón Phật khi ngài về thuyết pháp. Giòng họ Thích Ca cho đây là chốn thiêng liêng nên tuyệt đối cấm không cho những kẻ ti tiện bước vào. Không dè Tỳ Lưu Ly nhân thả bộ rong chơi trong cung, lạc vào chốn cấm địa ấy. Các thân vương bắt gặp đã xỉ vả không tiếc lời, bảo rằng con của gái nô lệ đã làm ô uế cấm địa. Họ đuổi Tỳ Lưu Ly ra và lập tức truyền gia nhân cấp tốc bới đất cũ trong giảng đường lên đổ đi và đem đất mới thay vào. Tỳ Lưu Ly nộ khí xung thiên thề độc rằng "Khi nào lên ngôi vua, ta thề tiêu diệt sạch giòng họ Thích Ca mới hả giận". 
"Khi trở về nước, Tỳ Lưu Ly ngày đêm mưu tính việc rửa hận. Một hôm vua Ba Tư Nặc và Mạt Lỵ bận đi tuần thú, Tỳ Lưu Ly cùng nghịch thần Ca Lê Da Na tập họp quân đội đoạt lấy ấn kiếm làm phản. Vua Ba Tư Nặc cùng Mạt Lỵ phải chạy sang tị nạn ở Ca Tì La. Không bao lâu sau, ông chết ở Ca Tì La." 
"Nghe tin vua cha mất, Tỳ Lưu Ly giết anh là thái tử Kỳ Đà rồi lên ngôi báu. 
"Trong một buổi đại triều, Tỳ Lưu Ly hỏi bá quan:" 
"- Nếu có kẻ sỉ nhục đấng quốc vương tôn quí của mình, khinh thị đấng quốc vương ấy là con giòng hạ tiện, tội ấy các khanh nghĩ nên xử trị như thế nào?"
"Mọi người đều đáp rằng tội ấy đáng tru di. Tỳ Lưu Ly tiếp:" 
"- Giòng họ Thích Ca tự cao tự đại. Họ cho rằng ta là con của một gái nô lệ, vậy, nay ta phải hưng binh tru diệt họ!" 
"Ba lần xuất quân, ba lần Tỳ Lưu Ly gặp Phật tìm cách ngăn trở. Nhưng đến lần thứ tư, biết rằng không ngăn đón được nữa vì nghiệp nhân quá khứ của giòng họ Thích Ca quá nặng, Phật xót xa báo cho A Nan biết rằng trong 7 ngày nữa thì giòng họ Thích Ca sẽ bị tuyệt diệt." 
"Tỳ Lưu Ly hãm thành Ca Tì La, sau đó hạ thành giết sạch tất cả quân dân không chừa một ai rồi sát nhập nước này vào lãnh thổ Kiều Tất La của ông ta." 
Giòng họ Thích Ca tuyệt diệt chỉ vì một sự kiêu ngạo nhưng đó chỉ là nguyên nhân gần. Dĩ nhiên là còn nhiều nguyên nhân khác nằm trong lẽ báo ứng. 
Chính Đức Thích Ca không cứu được cho giòng họ của ngài là vì ngài thấy "túc trái tiền khiên" của những người trong giòng họ mình quá lớn. Những người trong giòng họ ngài đã gây quá nhiều tội lỗi trong nhiều kiếp trước nên bây giờ phải trả. Tự mình tạo nghiệp dữ tất không cách gì cứu gỡ được. 
Họ Lý ta hiện tại có lẽ cũng lâm vào trường hợp tương tự. Thầy kể chuyện này cho công chúa nghe hi vọng công chúa ứng ngộ ở cái lẽ luân hồi, nghiệp báo để bớt khổ đau. Nhà Lý thi ân bố đức nhiều thật, đồng thời cũng hưởng vinh hoa phú quí một thời gian hơn hai trăm năm rồi. Theo vũ trụ quan "thành, trụ, hoại, không", bây giờ đến ngày cùng cũng là lẽ tất nhiên. Những tai kiếp luân hồi nghiệp báo cũng mượn cửa nhà Lý lúc suy tàn để báo ứng. Nhà Trần rồi đây cũng phải gánh những kết quả mà ngày nay họ đang gieo. Vậy, cốt lõi là công chúa phải tự cứu lấy mình chứ không ai có thể giúp công chúa được. Muốn thoát ra vòng khổ đau thì chỉ có cách là sám hối tu tĩnh, làm điều thiện để gỡ nợ cho những kiếp trước và gieo nhân lành cho những kiếp sau. Chốn này gần kinh đô, công chúa không thể tá túc lâu dài. Vả, đây lại là chùa dành cho nam giới, dù cửa thiền luôn mở rộng nhưng lý cũng không thể chứa chấp công chúa được. Tuy nhiên, bây giờ trời sắp tối, bần tăng sẽ cho dọn một phòng để công chúa nghỉ tạm đỡ đêm nay. Nếu việc này để Trần Thái sư biết được thì cũng phiền lắm đấy! 
* 
Công chúa Thuận Thiên lẻn đến chùa Thiên Đức, tuy đã cải dạng cẩn thận nhưng cũng không thoát khỏi cặp mắt nghi ngờ, theo dõi của một người. Hắn là Phan Năng, một tên trong đội do thám của triều đình. Với cặp mắt nhà nghề, dáng dấp và cử chỉ của công chúa làm sao hắn không đoán ra được! Phan Năng hớn hở đến thẳng dinh Thái sư. Lúc ấy Thái sư còn bận giải quyết công việc trong triều chưa về, chỉ có Linh Từ quốc mẫu ở nhà. Quốc mẫu thấy hắn tìm đến đoán có chuyện liền ân cần hỏi: 
- Ngươi dọ thám thấy được điều gì lạ không? Hãy nói cho ta nghe! 
Phan Năng thưa: 
- Bẩm quốc mẫu, hình như công chúa Thuận Thiên đã cải dạng đi trốn. Tôi không biết mặt công chúa nhưng thấy một thiếu phụ trẻ đẹp hình như có thai, ăn mặc tầm thường nhưng phong thái trông rất khả nghi, đi cùng một một thiếu phụ khác có vẻ như tôi tớ, đến chùa Thiên Đức! 
Quốc mẫu nghe qua hoảng hốt nói: 
- Thôi, ngươi cứ lui về coi như không biết, đừng có báo với Thái sư làm gì! Ta sẽ hậu thưởng cho ngươi về vụ khám phá này! 
Phan Năng vừa lui gót thì Trần quốc mẫu lập tức dẫn hai thị tì tìm đến chùa Thiên Đức. Bà rất sợ Thuận Thiên công chúa trốn đi vì như thế nàng chắc chắn chết dưới tay chồng bà. Thuận Thiên công chúa chết thì số phận Chiêu Thánh công chúa cũng lâm nguy. Kinh nghiệm qua lịch sử cho bà biết bất cứ người nào được lập làm hoàng hậu sau này cũng sẽ tìm cách hại Chiêu Thánh, nhất là Chiêu Thánh lại là cái gai trước mắt vị Thái sư tàn độc. Chỉ có Thuận Thiên là người duy nhất có thể bao dung che chở cho Chiêu Thánh. Nghĩ thế nên ban đầu bà không muốn lập Thuận Thiên làm hoàng hậu nhưng bây giờ bà trở lại rất tán thành chủ trương ấy. 
Khi quốc mẫu đến chùa Thiên Đức thì trời vừa chạng vạng. Sư Tuệ Đống đã đoán ra việc gì, bước ra nghinh tiếp thưa: 
- A Di Đà Phật! Bần tăng tham kiến quốc mẫu! Quốc mẫu đến chùa giữa lúc tối tăm này chắc có chuyện gì quan trọng? 
Quốc mẫu nói: 
- Đại sư, ta đến đây vì việc công chúa Thuận Thiên! Nghe công chúa đang có mặt ở đây, xin đại sư cho ta gặp công chúa! 
Biết không thể giấu giếm được, sư Tuệ Đống bèn dẫn quốc mẫu vào phòng vừa dọn cho thầy trò công chúa trú qua đêm. Sư thưa thêm: 
- Công chúa xin ở lại một đêm, bần tăng không thể cải lệnh. Xin quốc mẫu xá tội! 
Quốc mẫu khoát tay: 
- Ta hiểu, không sao! Cho ta gặp công chúa là được rồi! Nhưng ta muốn đại sư cùng vào gặp công chúa nói giúp ta một tiếng. Ta biết lời nói của đại sư rất giá trị! 
Thấy mặt mẹ công chúa liền khóc òa. Quốc mẫu cũng xúc động ôm chầm lấy con. Công chúa thổn thức: 
- Con không ngờ phận con hẩm hiu đến thế này! Con thề chịu chết chứ không thể phản bội Hoài vương được! Con không thể dứt bỏ chữ trung trinh! Mẹ có cách gì cứu con thoát khỏi hoàn cảnh này không mẹ? Mẹ ơi! Mẹ thương con thì mẹ hãy tìm cách cứu con với! 
Quốc mẫu cũng không cầm được nước mắt. Nhưng bà cố trấn tĩnh nói với con: 
- Con hãy xem mẹ đây! Há lẽ mẹ không biết giữ chữ trinh với Phụ vương con! Nhưng nếu mẹ quyết làm như thế mẹ sợ hai con lâm nguy nên đành phải tùng quyền. Bây giờ tới lượt con, nếu con không chịu làm hoàng hậu thì tánh mạng con chắc chắn không giữ được! Không những thế mà Chiêu Thánh em con cũng khó sống và chồng con Hoài vương Liễu cũng khó yên thân! Ngoài ra, con phải thương đến vương tử Doãn và hài nhi đang ở trong bụng nữa! Con phải nghe mẹ mà hi sinh để cứu vớt những người khác! Con hãy trở về phủ lập tức! 
Công chúa nghe mẹ khuyên càng khóc ròng lên: 
- Mẹ ơi mẹ! Con thà chết chứ không muốn sống nhơ nhớp như thế này! Hoài vương Liễu vừa là chồng mà cũng là tri âm tri kỷ của con! Con nhất định không phản bội chàng! Nếu mẹ cũng ép con, con xin chết ngay trước mặt mẹ bây giờ! Con không còn muốn sống nữa... 
Quốc mẫu thấy con nói nhất quyết như vậy bèn quay nhìn sư Tuệ Đống. Sư Tuệ Đống hiểu ý nói với công chúa: 
- Thầy nghĩ là công chúa nên nghe lời quốc mẫu. Trước hết là công chúa sẽ cứu khổ được nhiều người như Hoài vương, vương tử Doãn, cái thai trong bụng và nhất là có thể cứu tử Chiêu Thánh công chúa, làm quốc mẫu thoát khỏi cảnh đau lòng. Đó cũng là một cách gieo nhân. Nếu công chúa nhất quyết không chịu trở về thì cầm chắc sẽ gây liên lụy đến rất nhiều người. Theo lẽ quả báo, nếu có cơ hội trả nghiệp quả mà tránh chưa chịu trả thì oan trái vẫn còn đó, có nghĩa là phải trả dịp khác. Cũng có nghĩa là sự đau khổ còn kéo dài qua nhiều kiếp khác. Không nên như thế!... 
Quốc mẫu lại nói vào: 
- Đại sư dạy đúng đó con ơi! Con đã mang nợ những kiếp trước mà bây giờ còn trốn tránh khác nào tự mình kéo dài, chồng chất thêm nợ cho những kiếp sau thôi! Con hãy nghe đại sư, nghe mẹ mà trở về! 
Cuối cùng công chúa Thuận Thiên đành theo Linh Từ quốc mẫu trở về kinh thành. 
* 
Hôm sau, Thái sư Trần Thủ Độ cùng đi với Linh Từ quốc mẫu vào ra mắt vua Thái Tôn. Thủ Độ là chú họ thế mặt cha, quốc mẫu là cô ruột và cũng là nhạc mẫu của vua Thái Tôn, vua bất đắc dĩ phải cho mời vào cung. Thái sư và quốc mẫu đều cố đem lẽ bảo vệ ngôi báu của họ Trần ra thuyết phục và nài ép vua Thái Tôn phải lập Thuận Thiên làm hoàng hậu. Vua Thái Tôn quá đau khổ, mệt mỏi, chán chường vì chuyện đó nhưng rồi cũng phải nhận lời. 
Thế là ngày kế tiếp đó triều đình tổ chức lễ tôn lập hoàng hậu. 
Có lẽ đây là cuộc tôn lập hoàng hậu lạ lùng nhất trong lịch sử nhân loại. Nhà vua ngơ ngáo buồn thiu, tân hoàng hậu cũng bơ thờ không một nụ cười. Cái khác đời nữa là hoàng hậu đã có thai hơn ba tháng với một người khác... 
Thuận Thiên công chúa giờ đã trở thành hoàng hậu. Bà được các quan và đoàn thái giám, tì nữ phò về cung. 
Sau buổi lễ tôn lập hoàng hậu, vua Thái Tôn buồn bực về trở long sàng nằm vắt tay lên trán. Bấy giờ ngài mới thấy thấm thía lời dạy "Đời là bể khổ" của Đức Phật. Ngài thương yêu Chiêu Thánh vô cùng mà giờ phải chia xa vĩnh viễn. Ngài kính quí Hoài vương Trần Liễu vô cùng mà giờ đây lại thành cướp vợ của người. Hai người ấy, hai người thân yêu nhất của ngài, chắc chắn đang oán hận ngài và đau khổ vô cùng. Họ làm sao thấu hiểu được ngài cũng chỉ là nạn nhân! Ôi! Quyền uy! Ngai vàng! Giòng họ! Nó tạo nên biết bao nhiêu đau khổ cho thiên hạ! Đức Thích Ca đã bỏ ngai vàng như bỏ chiếc dép đứt, tại sao ta không bắt chước ngài? 
* 
Một buổi sáng, người ta thấy ba người bộ hành trẻ tuổi đi về phía núi Yên Tử thuộc địa phận Hải Dương. Họ nghỉ chân dưới một gốc cây rợp bóng mát trong số những cây cổ thụ bên đường gần một cánh đồng rộng lớn. Trời nắng gắt, lũ trẻ chăn trâu thả trâu xuống cả cánh đồng rồi tập trung dưới các gốc cây để đánh đáo hoặc kể chuyện đời xưa cho nhau nghe. Một số nông phu cũng kéo nhau lên ngồi dưới các gốc cây đó uống nước, hút thuốc hoặc mang cơm ra ăn. 
Một bọn nhỏ đánh đáo ăn cõng, đứa nào thua phải cõng đứa thắng. Có một đứa thắng liên tiếp nhiều lần, đắc chí ngồi trên lưng bạn nhún nhảy nói: 
- Tao làm vua nên có ngựa cưỡi hoài! 
Một nông dân ngồi gần đó cười: 
- Làm dân mà cứ ngày no ba bữa vợ chồng hòa thuận con cái sum vầy là sướng nhất rồi chứ làm vua khổ lắm ham chi mà mong? 
Một nông dân khác cười hô hố, nói: 
- Ông nói lạ! Làm vua muốn ăn chi cũng có! Muốn chơi cô nào cũng được! Muốn chặt đầu ai thì chặt! Sao lại không sướng kìa? 
Trong mấy người bộ hành có kẻ sầm mặt có kẻ nhíu mày. Người nông dân thứ nhất vô tình lại cười: 
- Chú mày không thấy ông vua mới vừa giết sạch trơn giòng họ vua cũ đó sao? Ông vua cũ đã vào chùa tu mà cũng không được yên thân, vẫn phải thắt cổ mà chết đấy! Ai trong giòng còn sót thì phải đổi ra họ khác hết. Làm vua vinh sang một thời rồi chuốc lấy chuyện diệt tộc như thế chú mày thấy có sướng không? 
Một nông dân thứ ba, ngồi trong một toán khác nói xen vào: 
- Việc đời được đó mất đó biết đâu chừng! Giành được cầm trong tay rồi cũng chưa chắc là của mình. Cái của cải, cái phú quí vinh hoa nó vậy đấy! Mấy ông nghe đây! 
Ông ta cất giọng ngâm lên sang sảng: 
"Nhất phái thanh sơn cảnh sắc u, 
Tiền nhân điền địa hậu nhân thu! 
Hậu nhân thu đắc mạc hoan hỉ! 
Hoàn hữu thu nhân tại hậu đầu!" 
Đấy, một dãi núi xanh cảnh sắc u nhã, ruộng đất của người trước người sau thu lấy. Người sau dù thu lấy được cũng khoan vội mừng, vì đã có những kẻ muốn lấy đi nữa đứng chực phía sau lưng mình rồi đấy. 
Người bộ hành trẻ tuổi nhất nghe chuyện thở dài đứng dậy. Hai người kia cũng lật đật đứng dậy theo. Họ lại tiếp tục lên đường. Đi cách xa đám nông dân và lũ chăn trâu một đoạn, người trẻ tuổi than thở: 
- Thế là người đời cứ cho ta là kẻ làm những việc bạc tình, bạc nghĩa, thất nhân, ác đức chứ họ đâu có biết ta cũng chỉ là một nạn nhân! Ôi! Vương làm chi! Đế làm chi! Giờ ta muốn làm một người dân tầm thường cũng không được nữa! 
Khi bóng chiều đã ngã dài thì ba người bộ hành lên tới chùa Yên Tử. Chùa này do vị quốc sư Phù Vân trụ trì. Vị quốc sư vừa thấy ba người khách thì ông kêu lên: 
- A Di Đà Phật! Bệ hạ vì sao ra nông nỗi này! 
Người khách trẻ quì xuống trước mặt vị sư. Hai người kia cũng quì xuống theo. Vị sư hoảng hốt lật đật bước tới định đỡ nhà vua dậy nhưng người khách trẻ nói: 
- Đệ tử không còn là thiên tử nữa. Đệ tử đã nhất quyết xuất gia. Xin quốc sư rộng lòng thu nhận và xuống tóc cho đệ tử! 
Quốc sư Phù Vân đỡ nhà vua dậy: 
- A Di Đà Phật! Cửa thiền tuy rộng mở, nhưng số bệ hạ còn phải hưởng phước vinh hoa, còn phải chịu trách nhiệm về sự an nguy của dân tộc Đại Việt. Bệ hạ chưa thể tự tiện tránh cõi đời được đâu! Giai đoạn này đất nước đang cần tới bệ hạ, không ai có thể thay thế bệ hạ được. Xin bệ hạ hãy giữ gìn long thể. 
Nhưng nhà vua năn nỉ: 
- Xin quốc sư hiểu cho, đệ tử đã chán chường công danh phú quí cũng như duyên nợ lắm rồi! Hơn nữa, đệ tử tuổi còn thơ ấu, học hành non nớt, kiến thức hẹp hòi, không thể nào chấp chưởng việc lớn. Ý đệ tử đã dứt khoát, xin quốc sư mở rộng con đường giải thoát cho đệ tử! Đệ tử chỉ muốn sớm hôm vui vầy với kinh kệ mà thôi. 
Quốc sư Phù Vân ôn tồn nói: 
- A Di Đà Phật! Thôi được, trong lúc bệ hạ đương cơn bức xúc, hãy tạm dung ở cửa thiền năm ba ngày cho tinh thần lắng dịu đã. Mong bệ hạ sớm ổn định mình rồng. Bần tăng tin rằng không sớm thì muộn thế nào triều đình cũng lên đây rước bệ hạ về. 
Sau đó, quốc sư khiến người dọn chỗ cho vua nghỉ. 
Quốc sư Phù Vân nói không sai. Chỉ tới trưa hôm sau, quan quân do chính Thái sư Trần Thủ Độ dẫn đầu rầm rộ kéo lên chùa Yên Tử. Trần Thủ Độ dẫn các quan vào ra mắt vua Thái Tôn và thưa: 
- Nước một ngày không thể thiếu vua, xin bệ hạ hãy trở về kinh thành kẻo thần dân trông ngóng! 
Vua Thái Tôn buồn rầu nói: 
- Trẫm hãy còn thơ ấu, chưa đảm đương được việc trọng đại, vua cha (Trần Thừa) lại vội từ trần, thành ra trẫm mất người nương tựa, không dám để nhơ nhuốc đến xã tắc! 
Thái sư nài nỉ mãi nhưng vua Thái Tôn cũng nhất quyết không chịu về. Thái sư bèn quay sang nói với các quan: 
- Thôi được, thiên tử ở đâu thì triều đình ở đấy! 
Nói xong, ông ra lệnh chuẩn bị cho xây dựng cung điện để biến núi Yên Tử thành kinh đô. Quốc sư Phù Vân vốn biết tính Thái sư đã nói thì tất làm, ông lo sợ phải đến năn nỉ với vua Thái Tôn: 
- Bệ hạ nên quay loan giá về kinh thành, không nên để họ làm tổn hại đến của cải của muôn dân và tổn hại đến chốn núi rừng! 
Vua Thái Tôn bất đắc dĩ phải theo triều đình trở về Thăng Long.


Chương 11:

Nói về ở phủ Hoài vương Liễu bấy giờ có hai người quản gia nòng cốt là Lữ Ngân và Đinh Lang. Cả hai đều được Hoài vương và Thuận Thiên công chúa tín nhiệm giao cho cùng điều hành mọi công việc trong phủ. Đinh Lang tuổi đã lớn, tánh tình ưa đãi bôi, bợ đỡ, lại hay tham lam tư túi. Đinh Lang đã tận dụng cái lưỡi của mình để giữ vững địa vị trong vương phủ này. Lữ Ngân thì ngược lại, còn khá trẻ, ngay thẳng, tháo vát, làm việc gì cũng hết lòng. Vì thế, cùng chung lo một việc nhưng hai người lại chẳng ưa nhau. Biến cố xảy ra bất ngờ đã làm cho mọi người trong vương phủ đều nhốn nháo. Người thì hậm hực, kẻ thì than dài thở vắn, bầu không khí trong phủ vừa căng thẳng, vừa buồn thảm. Lữ Ngân vì quá thương xót cho chủ nên lộ vẻ phẫn nộ ra mặt. Đinh Lang thì khôn ngoan thâm trầm, muốn lợi dụng dịp này để loại đi một kẻ mà hắn không ưa. Đoán biết thế nào cũng xảy ra chuyện lớn, Đinh Lang gọi Lữ Ngân lại thầm thì: 
- Chủ ta bị áp bức như thế thật là quá đáng. Tức muốn chết đi được! Thế mà tôi còn nghe phong phanh Thái sư sẽ diệt trừ chủ ta để ngừa hậu hoạn. Chúng ta có nhiệm vụ phải tìm cách ra ngoài báo cho vương gia biết tình trạng này để người tính liệu sao chứ! Người cũng có vây có cánh chứ đến nỗi gì! Anh khỏe mạnh lanh lẹ có thể gánh vác việc đó không? Công việc ở nhà để tôi lo cho! Hay là... 
Lữ Ngân đang nóng lòng vì chủ, nghe vậy lại càng hoảng hốt. Thấy Đinh Lang gợi ý hợp lý, cho là lời thành thật, Lữ Ngân liền sốt sắng nói: 
- Ý kiến anh rất hay! Anh gắng chu tất mọi công việc trong phủ nhé. Để tôi đi tìm vương gia cho. Nếu chậm trễ e người mắc họa mất! Mình trả ơn chủ chính ở giờ phút này đây. Ngay trong đêm nay tôi phải lên đường! 
Đinh Lang nói như khích lệ thêm: 
- Phải như thế chứ! Hai ta phải có một người làm được việc đó chứ! Chúa nhục thì tôi phải chết là thường! Tôi nay đã già nua vô dụng, anh phải giúp vương gia cố sức mà rửa mối nhục này! 
Lữ Ngân nặng lòng vì nghĩa, thấy chuyện bất bình xảy ra cho chủ mình, lại bị Đinh Lang khích động nên nói với giọng cương quyết: 
- Phải! Tôi nhất định giúp chủ rửa nhục! 
Đinh Lang ân cần vỗ vai nói với Lữ Ngân: 
- Hai ta lâu nay tuy ở chẳng hợp tính nhau nhưng bây giờ chủ gặp nạn lớn, thôi thì mình bỏ qua hết mọi chuyện cũ mà lo cho chủ mới là người phải. Tôi sẽ lo việc nhà chu đáo. Còn anh..., chúc anh lên đường may mắn! 
Ngay đêm đó, Lữ Ngân một mình một ngựa rong ruổi trong đêm tối trước sự vui mừng của Đinh Lang. 
Lữ Ngân đã đi một cách dễ dàng không bị ai cản trở. Thái sư Trần Thủ Độ không phải bất ngờ về sự việc này mà thật ra ông không thèm đề phòng. Ông đã đánh giá rất thấp về con người Hoài vương Trần Liễu. Ông cho rằng Trần Liễu sẽ không bao giờ làm nên trò trống gì. 
Trước khi ra đi, Lữ Ngân đã biết được lộ trình trở về kinh thành do Hoài vương báo trước cho gia đình. Lữ Ngân gặp được Hoài vương trong một công quán ở huyện Võ Nhai, Thái Nguyên. Lúc đó vương đang ngồi nói chuyện với hai gia khách là Phạm Vinh và Trần Quang Thiệu. Lữ Ngân không ngần ngại đem mọi chuyện xảy ra ở phủ kể cho vương nghe. Nghe chưa hết chuyện, Hoài vương hét lên một tiếng, bọt mép sùi ra, người lảo đảo muốn ngã. Lữ Ngân hoảng hốt: 
- Vương gia tha tội! Vương gia tha tội! 
Phạm Vinh, một người thân tín vẫn được coi như cái túi khôn của vương, vội đến đỡ vương ngồi lại và vuốt ngực cho vương: 
- Vương gia bình tĩnh lại! Nóng giận chỉ làm hư việc! 
Nước mắt vương trào ra, giọng uất nghẹn hỏi Lữ Ngân: 
- Ngươi thấy công chúa vật thân vật mình dữ lắm hả! Người công chúa trông có tiều tụy lắm không? 
Lữ Ngân chưa kịp trả lời thì vương gập bụng xuống mấy lần, nhăn mặt lắc đầu: 
- Trời ơi trời có thấu cho không! Người thương quí nhất của ta bây giờ lại để cho người khác ôm ấp! Hận thù này làm sao nguôi được trời ơi! Ta đâu ngờ chén rượu tiễn hành lại thành chén rượu vĩnh biệt! 
Lữ Ngân thấy chủ quá đau đớn chịu không nổi, uất hận nói: 
- Vương gia! Chúa nhục thì tôi phải chết! Để rửa hận cho vương gia, tôi xin sẵn sàng liều mình làm bất cứ việc gì vương gia sai khiến! 
Hoài vương rên rỉ: 
- Ta bây giờ bối rối tối tăm lắm rồi, các ngươi có ý gì hay nói thử giúp ta đi! 
Phạm Vinh cũng uất hận nói: 
- Xin vương gia tha tội, vương gia đã muốn sống như ẩn sĩ rồi mà vẫn không yên thân được, thật là quá lắm! Bây giờ có trở về sống ở triều cũng chẳng vui sướng gì nữa. Tôi xin đề nghị hai con đường vương gia có thể làm. Một là thầy trò mình lên núi tu hành cho xong! Hai là làm đại sự, ăn được cả, ngã phơi thây! Xin vương gia xét lại! 
Hoài vương rầu rỉ nói: 
- Vậy thì ta nên lên núi. Còn đại sự, ta như con cá nằm trên thớt, cô thế mức này còn mong làm được cái gì! 
Phạm Vinh lại thưa: 
- Bẩm vương gia, tôi nghe trước kia tướng Nguyễn Nộn khởi binh đã làm cho triều đình run sợ, phải cắt đất cầu hòa. Không may Nguyễn Nộn bị bạo bệnh mà chết thình lình nên triều đình mới được yên. Tuy nhiên, những người theo Nguyễn Nộn đâu có chịu phục tùng triều đình thật tình! Họ chịu yên chẳng qua chỉ vì thiếu người lãnh đạo. Nay ta hãy lấy cớ đi tuần du, lên Bắc Giang, Hồng Châu lấy danh nghĩa phục hồi nhà Lý ngầm chiêu dụ họ. Mặt khác, Lữ Ngân cấp tốc trở về ngầm chuẩn bị tổ chức gia đinh trong phủ làm nội ứng khi cần. Lòng người đang bàng hoàng hoảng sợ trước những đổi thay không thuận lòng người của Thái sư, ta nhân cơ hội đó khởi hấn, biết đâu đại sự lại không thành? 
Hoài vương Liễu đưa mắt nhìn Trần Quang Thiệu, một môn khách từng theo vương đã nhiều năm nay. Ông này vẫn theo vương như hình với bóng. Nãy giờ ông ta chỉ ngồi lắng nghe mọi người nói, thấy Hoài vương nhìn mình như muốn hỏi ý, ông thủng thẳng lên tiếng: 
- Vương gia, không được đâu! Tôi nghĩ chuyện này đã nằm trong sự sắp xếp của Trần Thái sư rồi. Chắc chắn Thái sư đã tính toán trước những sự thay đổi trong cung đình cho nên mới cử vương gia đi tuần thú cho rảnh tay. Thế nào Thái sư cũng đề phòng sự phẫn uất của vương gia có thể gây ra những hậu quả bất ngờ. Dĩ nhiên Thái sư đã cho người bám sát chúng ta từ bước đầu rồi. Chúng ta không dễ gì hành động được đâu! Hơn nữa, vương gia nên lo kỹ cho hai vị vương tử ở nhà. Nếu chúng ta rục rịch, hai vị vương tử có thể sẽ thành kẻ bị hi sinh trước tiên! Vậy, xin vương gia hãy cẩn thận mới được! 
Hoài vương trầm ngâm suy nghĩ rồi quay lại hỏi Lữ Ngân: 
- Khi ngươi đến đây ở kinh thành có ai biết không? 
- Bẩm vương gia, tôi khởi hành lúc nửa đêm, chỉ có Đinh Lang biết. Chính Đinh Lang cũng thúc đẩy tôi đi tìm vương gia. 
Hoài vương có vẻ yên lòng: 
- Vậy thì tốt. Đinh Lang là người thân tín của ta chắc không đến nỗi tiết lộ cho ai chuyện này. Vậy ngươi cứ về trước kẻo lại sinh chuyện nghi ngờ phiền phức. Ta sẽ suy nghĩ xem phải nên hành động như thế nào rồi sẽ tìm cách cho ngươi biết! Ngươi đi đường gấp quá chắc cũng mệt lắm rồi. Hãy ăn uống nghỉ ngơi rồi thức dậy lúc nào trở về lúc ấy chẳng cần chào ta làm gì, nhớ nhé! 
Lữ Ngân vâng dạ. Vương lại quay sang Phạm Vinh và Quang Thiệu: 
- Hai ông bảo tiểu nhị lấy thêm cho ta một bình rượu lớn rồi hãy đi nghỉ đi! 
- Vương gia không để chúng tôi cùng hầu rượu cho đỡ buồn à? 
- Khỏi cần! Các ông hãy đi nghỉ! Ta muốn được yên tĩnh một lúc! 
Mọi người lần lượt đi nghỉ. Hoài vương ngồi lại bàn một mình uống hết chén này đến chén khác... Vương vốn ít uống rượu, thường chỉ uống ba chén trở lại. Hôm nay gặp chuyện buồn quá lớn nên vương mới phá lệ. Trần Quang Thiệu vốn biết như thế, khi thấy vương gọi thêm cả bình rượu lớn thì không yên lòng. Tuy phải nghe lời vương mà đi nghỉ nhưng Quang Thiệu không ngủ được. Chốc chốc Quang Thiệu lại trở dậy bước ra xem chừng. Khi chỉ còn một mình, Hoài vương vừa sụt sùi vừa uống. Sau cùng vương say quá gục mặt xuống bàn. Thấy vậy, Quang Thiệu định ra đỡ vương vào giường. Nhưng chợt nhìn qua cửa sổ, Quang Thiệu thấy từ phía xa đèn đuốc lập lòe cả một vùng: chắc là quan binh đi đâu đây! Chuyện gì xảy ra vậy? Vốn tính cẩn thận, Quang Thiệu đứng quan sát hướng đi của đám người kia. Rõ ràng là họ đang tiến về phía công quán. Quang Thiệu lập tức trở vào đánh thức Phạm Vinh dậy, dặn Vinh ra trông chừng đám người kia. Mặt khác, Quang Thiệu gọi tiểu nhị hỏi thăm lối thoát phía sau công quán nếu cần. 
Không mấy chốc đám người cầm đèn đuốc trên đã đến trước cửa công quán. Phạm Vinh và mấy người lính của Hoài vương chận hỏi: 
- Chẳng hay quan quân đến đây có chuyện gì? 
Viên tướng cầm đầu là Hoàng Phụ, một tay thân cận của Trần Thái sư hô lớn:
- Các ngươi hãy vào mời Hoài vương ra đây cho ta nói chuyện! 
Nghe giọng nói thiếu lễ độ của viên võ quan triều đình đối với một vị hoàng thân, Phạm Vinh đã hiểu ngay là có chuyện không lành. Phạm Vinh nói: 
- Ngài đang nghỉ. Có chuyện gì sáng mai hãy hay! 
Hoàng Phụ hách dịch nói: 
- Lệnh của Thái sư không được chậm trễ! Thái sư phái ta đến đây để bắt giặc Liễu! Những ai kháng lệnh đều phải tru lục! Quân bây! Thi hành nhiệm vụ! 
Phạm Vinh rút gươm hét lớn: 
- Vương gia đang có thánh chỉ trong người. Chúng quân không được hỗn láo!
Khi đó Lữ Ngân cũng vừa thức giấc. Thấy có biến động, Lữ Ngân cũng bàng hoàng tuốt kiếm nhảy ra. Hoàng Phụ chỉ mặt Lữ Ngân hét: 
- Giặc Liễu tuy có thánh chỉ trong người nhưng bây giờ y đã là kẻ làm phản. Nếu không cố tình làm phản tại sao tên quản gia Lữ Ngân này có mặt ở đây? Đinh Lang đã tố cáo với Thái sư tất cả mọi chuyện rồi! Chúng bây hãy bó tay chịu tội may ra triều đình còn khoan thứ phần nào! Quân bây! Bắt chúng nó! 




Thấy có giải thích với bọn này cũng vô ích, nếu để Hoài vương lọt vào tay Thái sư thì coi như tánh mạng người khó toàn, Phạm Vinh và Lữ Ngân chỉ huy đám thuộc hạ liều mình tử chiến. Quan quân dù đông đảo cũng phải vất vả lắm mới tiêu diệt được bọn Phạm Vinh. Nhưng khi họ lọt vào phòng Hoài vương thì vương và Trần Quang Thiệu biến mất cả rồi. 
Hoàng Phụ chia quân lùng tìm ráo riết quanh vùng suốt mấy ngày vẫn không có tông tích Hoài vương, đành phải trở về triều phục mạng.

Chương 12:

Những biến chuyển tại triều trong thời gian qua đã làm cho vua Trần Thái Tôn vô cùng phiền não. Ai gây ra không biết, nhưng trước mắt thiên hạ, ngài tự cảm thấy mình gánh tội lỗi ngập đầu. Ngài đã xa lìa người mình từng tay ôm gối ấp trong bao nhiêu năm không một lời từ giã. Ngài lại giựt người chị dâu về làm vợ mình trong khi anh ruột mình vắng mặt. Rồi bây giờ nữa, người anh ruột hiền lành của ngài bị triều đình gán ghép tội phản nghịch không biết đang trốn chui trốn nhủi phương nào, cũng có thể người đã không còn nữa. Có thể dư luận cho đó là một âm mưu của ngài. Càng nghĩ ngài càng thấm thía cái nhân sinh quan "đời là bể khổ" của Đức Phật Thích Ca. Muốn tẩy xóa được những gút mắc trong lòng thần dân của ngài cũng như tìm chút yên ổn trong tâm hồn cho chính ngài thật là muôn vàn khó khăn. Vua Thái Tôn lại nẩy ra ý định đến một ngôi chùa nào đó thật xa xôi để tìm phương giải thoát... 
Vua Thái Tôn rất sợ mang tiếng muốn đoạt vợ hay vì bảo vệ ngai vàng mà giết hại anh ruột mình. Hoài vương Trần Liễu đã bị ghép vào tội phản nghịch thì đương nhiên phải chết. Chính bản thân ngài không thể nào tin được người anh hiền lành trung hậu của mình lại làm phản. Hơn nữa, ông ta đâu có thể dựa vào thế lực nào? Nếu làm loạn, tất nhiên ông ta chỉ là một con thiêu thân! Có thể anh ngài trong lúc đau đớn tột cùng, đã có một vài hành động nào đó mà về mặt tình người rất đáng được thông cảm. Ngài đã từng nếm cảm giác đau đớn thế nào khi một người chồng phải xa lìa vĩnh viễn người vợ thương yêu. Kinh nghiệm chính bản thân ngài còn rành rành đó. Hình ảnh cảnh huynh đệ tương tàn đời Đường giữa anh em Lý Kiến Thành và Lý Thế Dân (Đường Thái Tôn) cứ hiện lên trong óc khiến ngài cứ rùng mình. 
Lịch sử loài người sao trớ trêu đã tạo ra hai sự việc chẳng khác gì nhau mấy. Lý Kiến Thành, Lý Thế Dân và Lý Nguyên Cát là anh em cùng cha mẹ. Trong tiến trình khởi nghiệp gây dựng nhà Đường của Lý Uyên, Thế Dân đã giúp cha mình đánh nam dẹp bắc công lao bao trùm hết. Lý Thế Dân không chỉ là một thiên tài quân sự, nhiều mưu lược, mà còn là một nhà chính trị giỏi, rất được lòng người. Trong khi đó, người anh, thái tử Kiến Thành ít tài, tánh tình lại nhỏ nhen, đố kỵ, luôn tìm cách hại em để tuyệt mối lo về sau. Hoàng tử thứ ba là Nguyên Cát vì ganh tài cũng toa rập với Kiến Thành để hại Thế Dân. Khi sự xung đột đến độ không đừng được, Thế Dân bắt buộc phải tự vệ và cuối cùng ông phải giết Kiến Thành lẫn Nguyên Cát. Hình ảnh Kiến Thành ngã xuống ngựa vì mũi tên của người em ruột Thế Dân làm Trần Thái Tôn đau đớn lắm. Chính Thế Dân dù đạt tới tột đỉnh vinh quang do chính công lao của ông, suốt đời ông vẫn mãi ray rứt vì chuyện cũ trong gia đình. 



Trần Thái Tôn tự xét, bản thân ngài chỉ là con cờ trong tay người chú họ, ngài không có công trạng cũng như thực quyền. Người anh ngài cũng chỉ là một nạn nhân khốn khổ. Hoài vương đã bị Trần Thái sư đã chấm số thì không sớm thì muộn ông ta cũng phải chết. Mà hễ Hoài vương bị hại, cái tội đó người ngàn sau tất nhiên lại đổ lên đầu ngài. Ngài nghĩ chỉ còn cách duy nhất là lên núi may ra giải tỏ được nỗi oan cho mình. Đó cũng là cách có thể khiến Thái sư Trần Thủ Độ chùn tay không giết Hoài vương Trần Liễu. Vì thế, nhà vua lấy cớ giải sầu, ngày nào cũng rong chơi sông này núi nọ, để chờ cơ hội... 
Nhưng vị vua trẻ này đâu có thể qua mắt được vị Thái sư già "đã thành tinh". Những thám tử của triều đình luôn luôn để mắt đến từng hành động dù nhỏ nhặt của vua Thái Tôn. 
* 
Đang lúc Hoài vương say vùi tại công quán thì cơn nguy biến ập đến. Vương đã thoát được nguy hiểm nhờ sự phò tá hết lòng của Trần Quang Thiệu và đám thuộc hạ trung thành. Nhưng vương phải trả một giá quá đắt: những người thân tín cố cựu như Phạm Vinh, Lữ Ngân đều phải hi sinh. Quang Thiệu cõng Hoài vương cố gắng chạy càng xa càng tốt. Rất may, đêm không đến nỗi tối lắm và trên đường Quang Thiệu cũng chẳng gặp trở ngại nào. Cho tới khi gặp được một khu vực cây cối um tùm Quang Thiệu mới dám nghỉ chân. Sương gió đêm khuya lạnh lùng đã giúp vương sớm tỉnh người lại. Sự xúc động thái quá và chất rượu đã làm vương lả người đi nhưng trí óc vương vẫn còn đủ tỉnh để hiểu phần nào những chuyện đã xảy ra. Vương hỏi Quang Thiệu: 
- Chắc chúng đã giết hết người của mình rồi! Còn ai thoát được nữa không biết? 
Quang Thiệu hổn hển trả lời: 
- Không hi vọng gì nhiều. Quân triều đông quá. May tôi đã nghi ngờ mà dò lối trước nếu không cũng kẹt luôn rồi. Bây giờ vương gia tính làm sao? 
- Ta đang đau đớn trong lòng, không sao còn đủ sáng suốt để định liệu việc gì được đâu. Ông hãy suy nghĩ giúp ta nên hành động như thế nào vậy. Nhưng ngay bây giờ hãy tìm chỗ nào tạm nghỉ đã. Ta đuối sức lắm rồi! 
Sợ bị cảm mạo, Quang Thiệu đề nghị phải tìm một nơi khuất gió sương để tạm nghỉ. Cũng còn may, hai người tìm được một cái chòi hoang, bèn ghé vào đó. Qua cuộc bôn đào khá dài đầy hãi hùng để bảo vệ mạng sống, hai người đã hết sức mệt nhọc. Cho nên khi tìm được chỗ nghỉ, nằm một chốc, Hoài vương cũng như Quang Thiệu đều thiếp đi lúc nào không hay. 




Khi mặt trời đã lên khá cao, Quang Thiệu mới thức dậy. Nơi này bóng cây rợp mát, chim chóc ca hót líu lo khắp chốn. Ông hoảng hốt nhận ra cái sơ hở lớn của hai người là Hoài vương đang mặc phẩm phục triều đình còn ông đang mặc y phục thành thị. Không biết nơi đây là xứ nào nhưng chắc chắn nó thuộc miền trung du. Chuyện ăn mặc khác thường là điều tối kỵ trong hoàn cảnh này. Nếu có ai thấy được thì nguy hiểm không thể nào lường được. Quang Thiệu lật đật đánh thức Hoài vương. Vương thức dậy liền kêu nhức đầu và khát nước. Nhưng ban ngày ban mặt mà ăn bận như thế này thì dám đi đâu! Quang Thiệu nghĩ lui nghĩ tới rồi nói: 
- Vương gia! Bây giờ chúng ta đang gặp nguy biến, phải uyển chuyển mới được. Xin vương gia hãy cởi phẩm phục triều đình giấu đi. Ngoài ra, khi có người lạ xin vương gia với tôi tạm thời đừng xưng hô theo tước vị mà chỉ nên tạm gọi nhau là huynh, đệ như vậy mới mong qua mắt được thiên hạ... 
Hoài vương rầu rĩ im lặng gật đầu. Vương liền cởi áo mão ra trao cho Quang Thiệu. Nhưng tình trạng vẫn chẳng ổn thỏa tí nào. Ngay cả đồ lót của vương cũng thêu thùa đẹp đẽ khác thường! Thế là cả hai người đành phải dè dặt từng hành động. Ruột cồn cào và khát khô chịu không nổi nhưng họ phải cẩn thận lần từng bước để kiếm gì ăn uống. Khu vực này có chòi tất nhiên có người lui tới. Người ta sẽ nhận ngay ra sự khác lạ trong lối ăn mặc của hai người. Vì thế, hai người chỉ dám đi sâu vào rừng để tìm kiếm thức ăn tạm thời trước khi nghĩ ra cách gì an toàn cho bản thân hơn. Hoài vương đi theo Quang Thiệu một cách miễn cưỡng. 
May sao, đến giữa trưa thì họ gặp được một khe nước mà bên trên lại có mấy cụm chuối rừng. Họ mừng rỡ bẻ ngay những buồng chuối trái nhỏ xíu, chín vàng rực, thơm phức rất hấp dẫn. Cả hai đều vội vàng vừa lột vỏ đưa lên miệng vừa đi xuống mép suối. Loại chuối rừng này thật kỳ lạ, ngửi mùi thơm phức, nhìn thấy quá hấp dẫn ngon lành nhưng ăn thì không phải dễ. Ngậm trái chuối vào miệng người ta tiếp nhận ngay một ít chất ngọt lịm đến mê ly nhưng liền đó lại gặp toàn hột là hột nhai ra chát đắng không thú vị gì. Hột chuối chiếm ước chừng hơn chín mươi phần trăm thể tích trái chuối. Chát thì chát, hai người vẫn chịu khó nhai để dằn bụng. Ăn một hai miếng đã thấy nghẹn, họ vục từng ngụm nước để giúp sức đưa nó xuống cổ. Trời ơi, dòng suối trong mát đến lạ lùng. Ngậm một búng nước đã thấy người tỉnh táo, khỏe khoắn. Dù chỉ đưa vào bụng được một ít chất ngọt và hột chuối lảm xảm, hai người cũng cảm thấy lại sức nhiều. Nhưng nghẹn quá. Nhai chừng năm trái là chán ngấy hết muốn nuốt. 
Uống nước thỏa thuê, rửa ráy thoải mái xong, hai người ngồi xuống cạnh bờ suối tạm nghỉ. Họ cùng nhìn xuống dòng suối trong vắt, ngắm những đàn cá lớn nhỏ tung tăng lượn lờ. Chúng không có vẻ sợ hãi bóng người gì cả. Hoài vương lặng người để thưởng thức cái không khí mát mẻ dễ chịu dị thường bên bờ suối. Có lẽ cái không khí này vương mới được thưởng thức lần đầu trong đời. Tiếng chim hót líu lo, ríu rít nghe vang lừng khắp nơi. Thỉnh thoảng lại điểm thêm cả tiếng vượn réo hay một vài giống vật gì đó nữa kêu hú tạo thành một khúc nhạc tự nhiên đa dạng rất vui tai. Cảnh thật mà lại như trong mơ. Cái vẻ lâm tuyền huyền bí đầy thu hút khiến khách phong trần đang cơn khốn đốn cũng chợt tìm được vài giây phút êm dịu trong lòng. Hoài vương buột miệng than thở: 
- Loài cá, loài chim, loài thú ở đây sao đều sung sướng thế! Thật thân ta không bằng được một con vật nhỏ mọn! Lâu nay lăn lộn trong chốn bụi hồng ta nào có biết được những giây phút thoát tục này! Nếu việc nhà may mắn qua cơn gió bão chuyến này, có thể ta sẽ tìm tới những chỗ như thế này để tận hưởng cái hương vị lắng đọng của trời đất. 
Quang Thiệu nhìn vương ái ngại mỉm cười: 
- Vương gia trong lúc bức xúc mà nhìn giả cảnh thanh bình này rồi nghĩ vậy chứ không được đâu! 
Hoài vương ngạc nhiên hỏi lại: 
- Ta chẳng hiểu vì sao ông lại cho cảnh này là giả cảnh? 
Quang Thiệu lại cười: 
- Vương gia không để ý đấy chứ cảnh thấy vậy nhưng không phải vậy. Như vương gia nhìn dưới suối cá lớn, cá nhỏ đang lượn lờ xôn xao tưởng như vui vẻ với nhau lắm nhưng kỳ thật là con lớn đang chực đớp con nhỏ, giống này đang lăm le rỉa ổ trứng của giống kia. Trên đất thì con trăn đang chờ nuốt trộng con nai, con cú con diều đang chực xé xác con chim cút... Nói chung mọi giống đều như vậy cả. Chúng ta sinh ra, mỗi người đều mang sẵn một cái nghiệp. Có rất nhiều chuyện cứ xảy ra ngoài ý muốn của mình. Cả ngày mai của chúng ta cũng chưa biết ra sao nữa. Tôi mong vương gia phải cố giữ vững tinh thần, giữ vững sức khỏe để vật lộn với cơn khốn đốn này... 
Hoài vương cười gượng gạo: 
- Ta đang chịu đựng một nỗi đau quá lớn nên đuối sức rồi. Người xưa nói "Kim triêu hữu tửu kim triêu túy, Minh nhật sầu lai minh nhật ưu", hôm nay sẵn rượu cứ say cái đã, ngày mai sầu đến ngày mai hãy lo. Hiện chúng ta tình cờ gặp được nơi cảnh trí vui mắt, không khí dễ chịu thì cũng nên tạm gác mọi chuyện để giải khuây trong chốc lát có được chăng? Đời mình chắc gì gặp lại cảnh này một lần nữa! 
Quang Thiệu lại cười: 
- Vương gia có tâm hồn phóng khoáng như thế thì thật quá tốt. Tôi chỉ sợ vương gia tinh thần quá bức xúc đau đớn làm nguy hại đến huyết mạch bản thân. Tuy nhiên, thì giờ qua vùn vụt mà hiện tại chúng ta chưa có thức ăn cũng như chỗ nghỉ an toàn đêm nay trước khi chúng ta có thể lẫn lộn giữa dân gian, chuyện ấy không thể không lo tới được. Tôi hiện còn giữ trong mình một ít vàng bạc, phải tìm cách nào đem đổi lấy một ít áo quần nhà quê để dùng tạm mới có thể né tránh tai mắt của triều đình. Thôi thì vương gia cứ nghỉ tạm một mình ở đây, tôi đi thăm dò quanh quanh một chốc rồi trở lại! Sau đó chúng ta phải rời chốn này trở về chỗ nghỉ hồi hôm chứ ở đây sao được! 
Hoài vương nhìn Quang Thiệu ái ngại: 
- Chốn rừng rú đi lẻ tẻ một mình cũng không hay. Thôi ta đi với ông nhé. Nếu kiếm được gì ăn thì cũng tốt, nếu không thì chúng ta lại gắng nhai chuối rừng thôi. Khổ nỗi, mới ăn một lần đã thấy ngán rồi! 
Quang Thiệu đi trước, Hoài vương theo sau, men xuôi dọc theo dòng suối. Một chốc sau, Quang Thiệu quay mặt ra hiệu cho Hoài Vương dừng lại: Một ông già đang ngồi trên mỏm đá bên bờ suối để câu cá. Ông già giựt lên được một con cá trắng không lớn lắm. Ông từ từ gỡ ra bỏ vào chiếc giỏ đan bằng mây theo hình dạng trái bầu eo rồi mắc mồi buông câu lại. Trông ông già có vẻ quắc thước, phong thái chững chạc, chừng như câu để giải trí hơn là kiếm cá đưa cơm. Ông ta ăn mặc tươm tất, sạch sẽ, không có cái vẻ lam lũ của dân quê. Hai người ngồi lại bàn bạc. Có thể đây là một chức sắc địa phương hoặc một vị quan hồi hưu. Phải tìm một cách nào để tiếp xúc với ông ta mà không bị lộ tông tích. Điều cần thiết bây giờ là phải kiếm được hai bộ quần áo nhà quê. Nếu chưa thực hiện được việc đó thì thật khó an toàn và điều trước mắt là phải ráng tiếp tục ăn chuối rừng trừ bữa. Nhưng bàn đi tính lại, không có lý do gì ổn thỏa để có thể tiếp xúc với ông già. Ngồi nán lén xem ông già bắt thêm vài con cá nữa rồi hai người men lối cũ tìm lại cái chòi đang tạm trú...
Chuyến đi quanh vừa rồi càng làm vương mệt nhoài, bước không muốn nổi. Vừa bước vào chòi, vương liền nằm lăn xuống đất, rên rỉ... 
Biến cố xảy ra ở triều đình đã làm vương đau đớn đến cực độ. Vương bị xuống tinh thần một cách tàn tệ. Vả lại Hoài vương xưa nay chưa từng quen với sự vất vả, sương nắng, vì thế người vương càng dễ trở nên bất an. Nỗi khổ nội tâm của vương bây giờ lại dấy lên dữ dội làm cho vương không còn biết sự việc gì xảy ra bên ngoài. Vương cứ để mặc cho muỗi mòng kiến bọ quấy rầy cho đến khi thiếp đi. 
Về Quang Thiệu, hôm trước vì quá mệt mỏi, nằm xuống là ngủ liền, ông chẳng kịp để ý đến cảnh vật chung quanh. Nhưng hôm nay, cái bụng chỉ có nước suối và một ít chuối rừng toàn bã hạt cứ óc ách réo gọi khiến ông rất khó nhắm mắt. Những con muỗi rừng đua nhau tìm về cứ đốt vào da ông sưng lên từng nốt gây ngứa ngáy rất khó chịu. Những cái vỏ chuối rừng còn sót lại ít chất ngọt vứt quanh chỗ hai người nghỉ thu hút những đàn kiến đen, kiến đỏ lần lượt xuất hiện quấy phá lung tung. Chúng cứ bò quanh tìm thức ăn mà hễ gặp thịt da con người là cong mình nghiến lấy nghiến để từng miếng đau đến nhảy nhổm. 
Quang Thiệu chỉ có thể ngủ chợp được từng giấc ngắn. Năm ba lần ông nghe tiếng nói mớ, tiếng rên rỉ, tiếng nấc của Hoài vương. Quang Thiệu cảm thấy đêm sao quá dài. Tiếng côn trùng, tiếng chim đêm, tiếng tắc kè, sóc kêu rắn gáy vài lúc hòa thành một điệu nhạc kỳ dị cứ lập đi lập lại. Thỉnh thoảng lại điểm thêm vài tiếng thú lạ kêu hú nghe đến rợn người. 
Điều Quang Thiệu lo sợ nhất là vấn đề sức khỏe của Hoài vương. Nếu vương lâm bệnh lúc này thì thật khốn đốn. Chỉ trong vài ngày sau khi xảy ra biến cố, người vương xuống dốc một cách lạ thường. Chuyện xui xẻo vẫn có thể xảy đến bất ngờ, Quang Thiệu cứ trông cho mau sáng. Nhưng đến khi trời sáng thì Quang Thiệu cũng thật sự chìm vào giấc ngủ... 
Cảnh sinh hoạt xôn xao của núi rừng và ánh nắng buổi trưa đã đánh thức Quang Thiệu dậy. Ông quay lại, thấy Hoài vương vẫn nằm im. Không muốn phá giấc ngủ của vương, ông nhè nhẹ bước ra ngoài đảo mắt nhìn bốn phía. 
Một chốc sau, Quang Thiệu trở vào định đánh thức Hoài vương để cùng đi xuống suối. Thấy vương vẫn còn có vẻ mê mệt, ông đặt bàn tay lên tay vương. Ông bỗng giật mình phát hiện ra rằng tay Hoài vương đang nóng như cái bánh hấp, Quang Thiệu hoảng hốt nắm lấy lay lay giật giật. Vương thức dậy nhưng rên hư hử kêu nhức đầu và kêu khát. Quang Thiệu lấy cái bong bóng lợn đựng nước suối lấy chiều hôm qua đem lại. Vương ngồi dậy súc miệng sơ rồi uống một mạch xong ôm đầu nằm xuống lại. Quang Thiệu lo lắng hỏi: 
- Vương gia thấy khó chịu trong người lắm à? Chuối rừng còn một ít ngài liệu có dùng được không? 
Hoài vương rên rỉ: 
- Miệng ta đắng nghét, đầu ta nhức dữ dội lắm, ta không còn muốn ăn gì hết... 
Quang Thiệu sờ lên trán Hoài vương, ông càng hoảng sợ. Trán vương cũng chẳng khác gì cái bánh mới hấp. Bình thường Quang Thiệu không rành rẽ gì về chuyện thuốc men nên ông bối rối lắm. Hoài vương đã thật sự nhuốm bệnh sốt. Quang Thiệu chỉ biết đơn giản có vài loại bệnh sốt mà ăn vào một cái gì khó tiêu là bệnh trở nên nguy hiểm. Với tình trạng không thể chạy ra một miếng cháo như lúc này thì làm sao đây? Hình như Hoài vương đang lên cơn sốt, ông kêu lạnh và co người lại, run bần bật. Túng thế, Quang Thiệu phải lấy chiếc áo vương giả đã gói lại giấu kỹ ra để đắp cho vương. Nhưng vương cứ tiếp tục kêu lạnh và càng run dữ dội. Quang Thiệu chỉ còn biết ngồi bên cạnh vương để ôm giữ vương, xoa bóp cho vương. Một lúc khá lâu cơn rét của vương mới giảm dần. Bấy giờ vương đã chịu nằm yên, nhắm mắt, chốc chốc lại buông một tiếng hư hử. Quang Thiệu hơi yên tâm, ông lại đưa bong bóng nước cho vương nhắp vài hớp. Bong bóng chứa nước uống cũng đã cạn. 
- Vương gia nhắp tạm chỗ này cho hết đặng tôi đi lấy bịch khác rồi mình tính chuyện tiếp! 
Hoài vương gật đầu. Quang Thiệu nhai vài quả chuối để lấy sức trước khi xuống suối. Những bắp thịt trong người ông không mấy khi vận động tối đa như những hôm rồi nên bây giờ còn đau còn mỏi. Hai hôm nay lại chỉ lót lòng bằng mấy trái chuối rừng nên người ông muốn rệu rã. Đầu óc ông vô cùng căng thẳng. Ông có thể tạm thời nhai chuối qua ngày nhưng Hoài vương đang bị sốt không thể ăn chuối rừng được thì làm sao? Ông vừa đi vừa nghĩ muốn nát óc. Không thuốc, không cháo thì bệnh nào mà lành được? Muốn cứu mạng Hoài vương chỉ còn đánh nước liều, đi vào vùng dân cư may ra... 
Khi Quang Thiệu trở lại, Hoài vương vẫn còn nằm thiêm thiếp. Ông vỗ nhẹ vào tay Hoài vương. Hoài vương mở mắt lơ láo, ứa lệ, hổn hển nói: 
- Công chúa Thuận Thiên đã về tay người khác, lẽ sống của ta đã mất. Chuyện đời đau đớn ta không tưởng tượng nổi. Mất vợ ta đã đau lắm, nhưng ta còn đau hơn nữa khi chính em ruột ta cướp vợ ta rồi vu họa để giết ta. Thật là chuyện hiếm có trong thế gian này. Ta biết sức ta lắm, chuyến này chắc không qua khỏi. Nếu vương vấn vì ta chắc ông cũng khó trở về. Thôi thì ông cứ bỏ mặc xác ta đây để làm cách nào tự toàn được thì làm. Ông là người khôn ngoan, ta hi vọng ông thoát khỏi bàn tay kẻ thù của chúng ta. Sau này, nếu may mà còn cơ hội gặp một trong hai vương tử thì ông nhớ nhắc lời ta, ta tha thiết muốn chúng trả thù cho ta. Đó là cách ông đã sống trọn tình trọn nghĩa với ta vậy! 
Quang Thiệu cũng ứa nước mắt thưa: 
- Vương gia, tôi nỡ nào bỏ vương gia trong hoàn cảnh này để bảo toàn lấy mình! Nhưng chúng ta gặp đường cùng rồi, mà cứ ở đây tất nhiên phải chết hết. Còn nước còn tát, chúng ta thử liều tìm đến khu dân cư cầu may, vương gia nghĩ có nên không? 
Hoài vương uể oải: 
- Ông ăn ở hết tình như vậy ta cám cảnh vô cùng. Nhưng thân ta đau đớn, ruột ta rối bời đâu còn nghĩ ra điều gì. Thôi, tùy ông muốn làm sao được thì làm! Nếu ở đâu cũng chết thì thà chết ở chỗ này, ta không muốn bị chúng làm nhục thêm một lần nữa. 
- Thế bây giờ vương gia cứ chịu khó nằm nghỉ, tôi thử tìm đến chỗ ông già câu cá hôm qua xem sao. Tôi trông tướng ông già có vẻ phúc hậu đấy! Nếu gặp ông ta thuận tiện, tôi sẽ dò hỏi tình hình để tính toán việc mình. Nếu không gặp, tôi cũng sẽ đi kiếm chút cháo cho vương gia đỡ lòng. Tôi sẽ trở về sớm để vương gia khỏi trông ngóng. Xin vương gia yên chí, tôi đi một chốc sẽ về. 
Hoài vương có chút sắc vui: 
- Ông đi thì phải cẩn thận đấy nhé!


Chương 13:

Vì lo sợ cho tính mạng Hoài vương, Quang Thiệu không dám thậm thụt dè dặt nữa. Ông cố gắng đi thật nhanh. Nhưng mới đi khỏi chòi chừng hơn trăm bước, Quang Thiệu gặp ngay hai người đang đi ngược chiều. Đó là một người đàn ông trung niên và một thiếu nam còn đầy nét khờ khạo trên mặt, chừng mười lăm tuổi. Một người cầm rựa, một người vác búa, có lẽ họ định đi rừng. Nhìn thấy họ, Quang Thiệu nghĩ ngay đấy là hạng dân dã quê mùa, người nào cũng áo rách quần bươm. Ông rất mừng vì tin chắc họ là những đối tượng không có gì nguy hiểm. Ông vồn vã chào hai người: 
- Xin làm ơn cho tôi hỏi thăm một chút! 
Chú nhỏ nhìn khách có vẻ ngạc nhiên trong khi người lớn tuổi vui vẻ hỏi lại: 
- Ông từ đâu đến đây? Cần hỏi thăm chúng tôi chuyện gì? 
Quang Thiệu nhỏ nhẹ: 
- Thưa, chúng tôi là khách buôn bán vải vóc đường xa. Giữa đường không may gặp giặc cướp bị lấy hết của cải. Chúng tôi phải chạy trốn mới thoát thân được. Không ngờ lại lạc đường đến xứ này, lương khô mang theo cũng hết sạch rồi. Chưa tìm được đường về thì người anh tôi lại mắc bệnh sốt rét rất nặng. Hai ngày nay ông ấy không có chút thuốc chút cháo hồ nào lót bụng. Xin ông làm ơn làm phước giúp đỡ. 
Người đàn ông nghe qua chuyện có vẻ động lòng. Ông sốt sắng nói với Quang Thiệu: 
- Cũng được thôi, cứu người tức là gieo nhân lành. Ông anh bị bệnh hiện giờ nằm ở đâu? Nhà tôi cũng gần đây thôi, ông hãy dắt người bệnh theo chúng tôi về nhà nghỉ tạm mà lo chạy chữa. 
Nói với khách xong, ông ta quay lại vẫy tay về phía cậu bé: 
- Mình đình việc ấy lại đã con, ngày khác làm. Bây giờ đưa hai người này về nhà cứu người ta cho kịp cái đã! 
Quang Thiệu thấy cách nói năng của người đàn ông thì mừng rỡ, yên lòng dắt hai người về chòi. Khi ba người đã bước vào chòi Quang Thiệu mới giật nẩy mình. Ông đã quên lửng việc bộ phẩm phục triều đình đắp trên mình Hoài vương. Quang Thiệu chỉ còn biết tự trách mình bối rối quá nên sơ sót cả chuyện cảnh giác. Hai người dân quê hết sức ngạc nhiên khi thấy người bệnh đang đắp trên thân một chiếc áo sang trọng. Quang Thiệu biết ý lúng túng giải thích cho qua: 
- Chúng tôi đi buôn vải vóc mà bây giờ vốn liếng chỉ còn bấy nhiêu đấy! 
Cha con người đi rừng dường như có vẻ tin lời, không nói gì. Hoài vương vẫn mê man nằm chèo queo trên tấm ván mục, thỉnh thoảng lại rên hư hử. Quang Thiệu ngồi xuống bên cạnh nhẹ nhàng đánh thức vương dậy. Vương mở mắt ngơ ngác nhìn hai người lạ và vẫn rên hư hử. Quang Thiệu nói nhỏ với vương điều gì đó, vương mệt mỏi gật đầu. Quang Thiệu xếp bộ triều phục của vương lại bỏ vào cái túi mang. Người đàn ông giao cái búa cho người con cầm đi trước rồi cùng Quang Thiệu dìu Hoài vương về nhà mình. 
Quang Thiệu để ý thấy con đường đi cong queo được đắp bằng thứ đất cứng khô chai bạc màu. Hai bên là hàng rào trồng cây xanh tốt có bóng mát để khách có thể nghỉ tạm núp nắng ven đường. Đi được một đoạn khá dài, người đàn ông nói với Quang Thiệu: 
- Nãy giờ quên giới thiệu mất, tôi là Cả Lục, gia đình tôi làm cả nghề rừng lẫn nghề rẫy ở nơi đây đã nhiều đời. Vùng này dân chúng thưa thớt, hay bị sốt rét nên ai cũng có phòng trữ thuốc trị trong nhà. Tôi sẽ hốt thuốc để ông anh đây uống. Nếu không giảm, tôi sẽ nhờ ông cậu tôi chữa cho. Ông cậu tôi trước là quan ngự y của triều đình. Vì buồn thế sự, ông đã xin về hưu hơn năm năm nay, hiện ở gần đây. 
Bây giờ thì Quang Thiệu mới biết người đàn ông này không phải thuần túy là hạng vai u thịt bắp như ông đã tưởng lúc mới gặp. Rõ ràng Cả Lục có vẻ hiểu biết thời thế, có tư cách đàng hoàng. Anh ta đã có một ông cậu là cựu ngự y của triều đình thì gia thế anh ta chắc không phải tầm thường. Quang Thiệu nói: 
- Thưa ông Cả, lúc nãy tôi cũng bối rối quên giới thiệu mất. Ông anh tôi đây là Hai Hoàng, còn tôi là Quang, đều là người hạt Nam Định. 
Nói chuyện đến đây thì đã tới nhà Cả Lục. 
Nhà Cả Lục gồm hai bộ phận. Nhà trên rộng, nền cao gồm ba gian hai chái lợp lá chung quân. Nhà dưới thấp hơn gồm ba gian nhỏ hơn thẳng góc và nối liền với nhà trên bởi một cái máng xối, lợp bằng tranh. Cả Lục sai người nhà dọn một phòng cho ông Hai Hoàng nằm nghỉ dưỡng bệnh. Quang Thiệu thì được mời nghỉ ở một cái giường lèo. Cả Lục thân hành coi mạch, rồi chế thuốc cho người bệnh. Đồng thời, ông thúc người nhà nấu cháo loãng cho người bệnh dùng. Cả Lục cũng cho người nhà lựa một số áo quần để hai người khách tạm thay. 
Đêm đó, ông Hai có vẻ bớt sốt. Đến ngày hôm sau, ông Hai cũng ăn được ít cháo và vẫn tiếp tục uống thuốc. Thấy người bệnh thuyên giảm mau chóng ai cũng mừng. Nhưng không ngờ vào nửa đêm sau thì bệnh ông Hai bỗng trở nên nguy kịch. Người ông nóng lên dữ dội trở lại. Ông cứ nói mê sảng từng hồi. Quang Thiệu lo sợ lắm, phải túc trực bên mình ông để coi chừng. Ông Cả Lục cũng lăng xăng lo thuốc. Ông rất lấy làm lạ vì xưa nay thuốc của ông ai dùng cũng công hiệu. Với người khách này, hôm qua bệnh cũng giảm thấy rõ, bây giờ lại trở nặng đột ngột chắc phải có một nguyên do gì. Cả ngày người khách chỉ dùng một ít cháo trắng chứ có ăn gì nữa đâu! Ông chỉ còn cách cứ cho khách uống tiếp thuốc, nếu tới sáng không bớt thì đành phải cầu cứu ông cậu vậy. Người bệnh vẫn chốc chốc lại nói lảm nhảm không ai hiểu gì. Một lần thình lình người bệnh ú ớ rồi kêu to lên: 
- Thuận Thiên công chúa! Nàng bây giờ ở đâu? Ta không muốn mất nàng. Ta chết mất công chúa ơi! 
Câu nói đột ngột của người bệnh đã làm Quang Thiệu tái mặt, Cả Lục thì trố mắt ngạc nhiên rồi quay lại nhìn Quang Thiệu. Quang Thiệu lật đật cầm tay người bệnh lắc lắc với thái độ lúng túng: 
- Tỉnh dậy, tỉnh dậy... nhân huynh ơi! Đây là nhà thầy thuốc! 
Người bệnh trở mình vài cái rồi nhắm mắt thiêm thiếp. Nhưng không lâu sau đó ông lại nấc lên đau đớn: 
- Thuận Thiên! Thuận Thiên! Tấm thân ngà ngọc của nàng đã về tay người khác ôm ấp rồi! Trời ơi là trời... 
Quang Thiệu lại một lần nữa lay người bệnh thức dậy. Người bệnh mở mắt nhìn hai người đang đứng bên giường một chút rồi thiêm thiếp trở lại. Hai người vẫn còn nghe người bệnh tiếp tục lảm nhảm nho nhỏ: "Thuận Thiên! Thuận Thiên!...". Một chốc sau, thấy người bệnh đã ngủ yên, Cả Lục nắm tay Quang Thiệu kéo lại ngồi bên chiếc bàn nhỏ: 
- Ông Quang đừng ngại nhé, tôi hỏi thật các ông là ai? 
Quang Thiệu buồn rầu, ái ngại hỏi lại: 
- Tôi nghe người nhân thấy người lâm nguy thì ra tay cứu giúp chứ cần chi biết lai lịch người thọ ơn thưa ông Cả? 
Cả Lục nói như phân trần: 
- Xin ông đừng lấy làm lạ thấy chúng tôi có vẻ tò mò. Tôi chỉ muốn biết sơ một vài điểm cần thiết để có thể phỏng đoán bệnh trạng mà chữa cho ông anh thôi. 
Quang Thiệu im lặng chốc lát rồi ngùi ngùi: 
- Thôi, tới nước này tôi cũng không giấu ông làm gì nữa. Người bệnh đây chính là Hoài vương Trần Liễu, còn tôi là môn khách của người, tên là Trần Quang Thiệu. Chúng tôi đang gặp nạn lớn, sống chết xin tùy lượng ông Cả vậy! 
Cả Lục vô cùng ngạc nhiên: 
- Vậy ra quí ngài là yếu nhân của triều đình, kẻ thôn dân không biết cam thất lễ! Nhưng sao vương gia lại mớ nói ra những lời khác lạ vậy? Phải chăng đã xảy ra chuyện gì? Tại sao tiên sinh không thông báo với bất cứ viên chức thôn xã nào về bệnh trạng của vương gia? Tôi nghĩ rằng bất cứ địa phương nào cũng có nhiệm vụ tìm mọi cách thông báo hoặc đưa vương gia về triều để kịp thời cứu chữa cho người, sao tiên sinh không tính chuyện ấy? 
Quang Thiệu bất đắc dĩ phải thuật lại mọi chuyện đã xảy ra. Nghe xong, Cả Lục nói: 
- Vậy sáng mai tôi phải trình việc này với cậu tôi thử cậu tôi tính sao! 
Quang Thiệu ngần ngại: 
- Xin ông Cả tha lỗi, liệu trình lại với ông cụ có thể gây sự nguy hiểm không đây? 
- Tiên sinh cứ yên lòng. Cậu tôi một đời chỉ biết cứu người, không màng danh lợi cho nên ông mới từ quan về ở ẩn. Ông ta là một thầy thuốc có tài, đã từng làm ngự y trong triều. Nếu không nhờ tay ông ta, tôi sợ mình không đủ sức chữa cho vương gia. Tuy nhiên, để ngăn ngừa chuyện có thể tiết lộ đến tai mắt triều đình, xin tiên sinh cũng như vương gia phải giữ kín tông tích. Từ nay hai vị nên coi như thân nhân của tôi cho tiện. 
Quang Thiệu nghe Cả Lục nói thế thì cám ơn rối rít. 
Hôm sau, vừa tảng sáng, Cả Lục thân hành sang nhà ông cậu. Sau khi nghe cháu trình bày đầu đuôi câu chuyện, ông cậu cười: 
- Cậu không ngờ cháu to gan đến thế. Chứa chấp phản tặc có thể mắc tội tru di tam tộc như chơi đấy. Nhưng làm việc nhân nghĩa thì trời không phụ lòng đâu. Cháu đã có lòng như vậy thì cậu đâu dám tiếc sức. Tuy nhiên, phải hết sức cẩn thận nhé. 
- Dạ, cháu sẽ hết sức cẩn thận. 
Quang Thiệu ở nhà hồi hộp đợi chờ. Một chốc sau thì Cả Lục trở về với một ông già. Quang Thiệu ngạc nhiên thấy ông già có gương mặt quen quen. Hình như đã gặp nhau đâu đây rồi. 
- Kính chào cụ! 
- Không dám, kính chào tiên sinh! 
Hai người chào nhau trước khi Cả Lục kịp giới thiệu. Qua giây phút ngạc nhiên, Quang Thiệu chợt nhớ ra đây chính là ông già câu cá mà Hoài vương và ông đã trông thấy hôm kia. Quang Thiệu mừng rỡ như gặp được người quen cũ. Ông già tỏ vẻ rất sốt sắng: 
- Xin tiên sinh cho phép tôi vào thăm vương gia một tí. 
Quang Thiệu và Cả Lục đi trước, ông già theo sau. Trước tiên ông già đứng quan sát từng cử động của người bệnh. Trong khi đó Cả Lục đi lấy một chiếc ghế nhỏ mang lại. Ông già ngồi xuống ghế xong mới bắt đầu sờ trán, cầm tay người bệnh xem mạch. Việc làm này khiến Hoài vương hơi tỉnh táo. Vương mở mắt ra thấy ông già thì lộ vẻ ngạc nhiên lắm. Vương quay nhìn về phía Quang Thiệu như muốn hỏi. Quang Thiệu biết ý giải thích: 
- Vương gia, đây chính là cụ già câu cá mà mình gặp hôm kia. Cụ chính là một viên quan ngự y của triều đình đã hồi hưu. Vương gia yên trí chắc chắn cụ sẽ chữa lành bệnh cho vương gia. 
Đến lượt cả cụ già lẫn Cả Lục ngạc nhiên, Cả Lục hỏi: 
- Thì ra vương gia và tiên sinh đã gặp cậu tôi rồi? 
- Không, thật ra bữa đó chúng tôi đã thấy cụ khi cụ đang câu cá nhưng chúng tôi ẩn mặt không dám lại chào. 
Cụ già vái Hoài vương một cái: 
- Lão là Phạm Lũy, kính chào vương gia, xin tha tội thất lễ! 
Vương nhẹ gật đầu, mặt có sắc vui nhưng không nói gì, tỏ vẻ mệt nhọc. Sau đó vương lại nhắm mắt. Cụ Phạm nhìn sắc mặt rồi xin phép xem lưỡi, sờ lưng rồi lại cầm tay vương bắt mạch rất cẩn thận. Quang Thiệu im lặng lo lắng chờ đợi. 
Thấy cụ già đã ngừng tay, Quang Thiệu nôn nóng hỏi: 
- Thưa cụ, bệnh tình vương gia ra thế nào? 
- Lẽ ra bệnh chưa đến nỗi nào, nhưng vì uất khí bên trong xung lên quá dữ dội làm kinh mạch đảo lộn hết, khiến bệnh chóng trở nên kịch liệt. Nếu để chậm một hai ngày nữa có lẽ khó phương cứu chữa... Bây giờ gặp lão rồi tiên sinh cứ yên chí. 
Cụ Phạm trở ra ngoài hốt thuốc và chỉ cho người nhà Cả Lục cách sử dụng. Sau đó, Cả Lục mời cụ cùng Quang Thiệu ngồi uống trà. 
Uống xong một ngụm nước, Quang Thiệu thưa: 
- Kính thưa cụ, thưa ông Cả Lục, tính mạng vương gia nếu không gặp nhị vị chắc không xong rồi. Chúng tôi thật mang ơn nhị vị như ơn trời biển tái tạo. Nếu sau này chúng tôi được giải oan mà trở về triều thì nhất định vương gia sẽ không quên cái ơn lớn ấy đâu... 
Cụ Phạm khoát tay: 
- Xin tiên sinh đừng bận tâm chuyện đó làm gì. Cứu nguy giúp khốn là sở nguyện của chúng tôi. Bây giờ chúng ta cầu sao cho vương gia chóng phục hồi sức khỏe, tai qua nạn khỏi là chúng tôi mừng rồi. À, tiên sinh có thể cho lão biết tình trạng cựu hoàng Chiêu Thánh bây giờ ra sao không? Đáng tiếc, một người sắc nước hương trời như vậy mà số phận lại quá hẩm hiu! 
- Thưa cụ, chính tôi cũng không biết gì cả. Tôi theo Hoài vương đi bên ngoài nên rất mơ hồ về chuyện xảy ra ở trong triều. 
Cụ Phạm thở dài: 
- Không ngờ thời buổi này lại xảy ra những chuyện động trời đến thế! 
- Thưa cụ, tôi nghĩ chắc cụ đã quá chán chốn bụi hồng nên mới về đây tìm thú lâm tuyền? 
- Vâng, thưa tiên sinh, cuộc đời dâu bể lắm chuyện thị phi, lão phu phần chán ngán công danh, phần tuổi già sức yếu nên về ở ẩn chốn này cũng hơn năm năm rồi. Lão phu là ngự y từng phục vụ các triều Cao Tôn, Huệ Tôn, Chiêu Hoàng nhà Lý rồi đến triều Thái Tôn nhà Trần. Tuy đã qui ẩn, lão phu vẫn nguyện mình còn giúp đời được gì thì cứ giúp. Tiên sinh cần gì cứ nói, lão phu rất sẵn sàng giúp đỡ trong phạm vi khả năng của mình. 
- Thưa cụ, việc chữa bệnh cho vương gia là chính yếu trước mắt. Chúng tôi đội ơn nhị vị quá nhiều rồi. Nhưng sau này chúng tôi vẫn có thể còn làm phiền cụ và ông Cả Lục nhiều nữa. 
- Không sao, xin tiên sinh cứ việc! Ở triều xảy ra bao nhiêu chuyện lớn lao như vậy mà lão đây có hề nghe gì đâu! Nếu vương gia và tiên sinh không đến đây không biết bao giờ lão mới biết được. Rõ là ếch ngồi đáy giếng. 
* 
Chừng mươi hôm sau thì Hoài vương lành bệnh. Gia đình Cả Lục hằng ngày cung phụng thức ăn cho vương rất hợp cách và đầy đủ để vương chóng được hồi phục. Có lẽ ngại ở lại lâu làm gia chủ hao tốn quá, lại có thể gây liên lụy cho gia chủ, Hoài vương bèn xin cáo từ lên đường. Lúc bấy giờ hai ông đã có đủ áo quần ngụy trang để có thể trà trộn trong dân chúng. Cụ Phạm Lũy cảm thấy ái ngại cho hai người, đề nghị: 
- Vương gia về đâu bây giờ? Theo lão nghĩ, chỗ này coi như chốn thâm sơn cùng cốc ít ai biết tới, Vương gia cứ yên tâm tạm dung thân một thời gian đã. Lão sẽ cho người về kinh dò xem bao giờ tình hình thật thuận lợi rồi tính sau cũng được, cần gì mà vội! 
Cả Lục cũng ân cần mời giữ đến mấy lần. Hoài vương thấy tình ý chủ nhân như vậy bèn chịu nương náu ở đó một thời gian nữa. Từ đó hằng ngày cụ Phạm thường qua lại đánh cờ hoặc đàm đạo thơ văn để hai người được khuây khỏa... 
Nhưng chẳng bao lâu sau, Hoài vương lại tỏ vẻ ray rứt khó chịu. Chuyện công chúa Thuận Thiên đành cam phận, nhưng còn các con nữa, bây giờ chúng ra sao? Những dấu hỏi cứ đập vào đầu khiến Hoài vương không thể nào nguôi ngoai được. Trên mặt vương lúc nào cũng hiện rõ vẻ khổ não. Ngày kia, trong một lần uống trà cùng cụ Phạm và Cả Lục và Quang Thiệu, Hoài vương nói: 
- Ta rất cảm kích tấm chân tình của cụ Phạm và ông Cả dành cho ta. Ta cũng rất cảm kích lòng trung thành, chung thủy của Quang Thiệu đối với ta lâu nay. Kể từ giờ phút này, ta không muốn phiền nhiễu tới ai nữa. Công chúa Thuận Thiên đã về tay người khác, lẽ sống của ta cũng không còn. Vả lại, ta còn hai vương tử vô tội là Tuấn và Doãn, chúng cần sống. Ta vui lòng nhận lãnh sự oan khuất, ta muốn về triều chịu chết để cứu lấy hai vương tử. Cha mẹ nào mà chẳng thương con! Ta đã thấy bao nhiêu cơn ác mộng về chúng. Những hình ảnh hai đứa trẻ thơ ngây bị đày đọa hoặc bị giết thê thảm cứ hiện lên tâm trí ta, ta không chịu nổi nữa. Hôm nay ta quyết về triều một mình. Quang Thiệu không nên theo ta làm gì, đừng hi sinh vô ích, hãy tìm đường sống cho mình. Các người đừng bận bịu vì ta nữa nhé! 
Cụ Phạm hết sức xúc động nói: 
- Vương gia đã quyết lòng thì lão không dám cản. Tuy nhiên, lão cũng xin tiễn vương gia mấy lời chân thành: Lão đã cho người thăm dò và được biết, chính Hoàng thượng cũng đau khổ chẳng kém gì vương gia. Đã có lần Hoàng thượng bỏ triều trốn vào núi tu hành nhưng rồi Thái sư đem bá quan lên núi rước trở về. Hoàng thượng rất thương và rất lo lắng cho số phận của vương gia. Nhưng ngược lại, triều đình đã có lệnh, bất cứ giới chức nào cũng được phép "tiền trảm hậu tấu" khi gặp vương gia. Vậy, xin vương gia nghĩ kỹ lại. Chỉ có Hoàng thượng là người có thể che chở cho vương gia. Dạo này Hoàng thượng chán nản việc đời nên hay rong chơi sông hồ. Tốt nhất là vương gia làm thế nào để diện kiến được Hoàng thượng thì may ra có thể an toàn. Vương gia còn sống thì nỗi oan khuất sẽ có ngày được tẩy rửa. Xin vương gia liệu lấy! 
Quang Thiệu cũng xúc động nói: 
- Vương gia nói vậy chứ tôi nỡ nào bỏ vương gia giữa lúc này? Nếu tôi sợ khổ, sợ chết, tôi đâu có theo vương gia đến bây giờ! Nhưng tôi nghĩ rằng, nỗi đau khổ quá lớn đã làm tổn hại đến sự suy nghĩ chín chắn của vương gia. Vương gia nên nén lòng ẩn nhẫn một thời gian nữa, chính tôi sẽ đích thân theo dõi, dò xét tình hình thế nào rồi chúng ta về triều cũng không muộn. 
Nhưng Hoài vương cương quyết nói: 
- Không, ý ta đã quyết. Nếu không chết vì triều đình thì ta cũng chết dọc đường mà thôi. Quang Thiệu, nếu ông thương ta, hãy bảo trọng cái thân, sau này có dịp, ông dìu dắt che chở các vương tử cho ta, biết đâu chúng lại trả thù được cho ta! Đó là điều ta kỳ vọng ở ông đấy! 
Quang Thiệu rưng rưng nước mắt: 
- Tôi xin hứa trước mọi người, tôi sẽ hết lòng làm những việc vương gia ủy thác. Nhưng bây giờ, tôi xin được theo chân vương gia tới khi nào vương gia gặp được Hoàng thượng. Tôi không muốn vương gia mắc mớp bọn tiểu nhân dọc đường! 
Hoài vương lắc đầu: 
- Không được! Nếu ta gặp hoạn nạn dọc đường, ông nổi nóng nhảy vào rồi cũng gặp chuyện không may thì sao? Vậy là tuyệt đường trông cậy của ta rồi! 
Cụ Phạm lên tiếng: 
- Nếu vương gia đã quả quyết như vậy thì xin cứ việc. Nhưng xin phép cho lão được tổ chức một bữa rượu tiễn chân cho thỏa tình. Vương gia lên đường chậm thêm vài ba bữa nữa cũng không muộn! 
Thế là hai hôm sau Hoài vương Trần Liễu giã từ mọi người để ra đi. Vương đi chưa tới nửa ngày thì Trần Quang Thiệu cũng lên đường.

Chương 14:


Hôm ấy, vua Thái Tôn đang ngự thuyền rong chơi trên sông Thao. Trước và sau thuyền rồng đều có thuyền chở những lính hộ vệ. Thình lình một anh dân chài ăn mặc rách rưới đến gần một người lính xin ra mắt vua. Y nói có chuyện cơ mật cần báo cáo gấp. Người lính trình lại, vua ngạc nhiên cho đòi vào. Sau khi lục xét kỹ khắp thân thể người lạ không thấy có gì khả nghi, tên lính hầu dẫn y đến trước mặt vua. Vừa thấy vua, người lạ bỗng quì xuống khóc tức tưởi. Vua bỡ ngỡ một chút rồi lật đật bước tới đỡ người ấy đứng dậy, hai người ôm nhau mà khóc. Bọn lính hầu vô cùng ngạc nhiên trước cảnh tượng lạ đời ấy. Sau đó chúng quân mới biết người lạ chính là Hoài vương Trần Liễu. Thái Tôn truyền lấy quần áo cho Hoài vương thay rồi cho quân hầu ra ngoài hết. Xong ngài hỏi vương về những chuyện đã xảy ra trong thời gian vừa rồi... 
Sau khi Hoài vương thành thật kể lại mọi chuyện với vua Thái Tôn, nhà vua nói với giọng bùi ngùi: 
- Cái giống phản chủ nó đã làm cho vương huynh lâm tình cảnh thảm thiết như thế đó! Nếu trẫm hồ đồ một chút thì hai vương tử cũng mang khốn rồi! 
Hoài vương chợt thấy nhói trong lòng. Vua Thái Tôn đâu có ghét bỏ gì vương đâu! Vua vẫn nặng tình, vẫn thương yêu vương cơ mà! 
- Thế bây giờ tình trạng hai vương tử như thế nào? 
- Vương huynh yên chí! Hai cháu vẫn mạnh khỏe. Sau khi Thái sư đã ra lệnh tịch biên gia sản và phân tán kẻ ăn người ở trong phủ vương huynh, trẫm đã cho đưa hai cháu về hoàng cung, cho ở phòng riêng, vẫn cắt cử giáo sư giỏi dạy dỗ và cho người hầu hạ săn sóc chúng đàng hoàng. 
- Cám ơn bệ hạ. Thế viên quản gia Đinh Lang bây giờ ở đâu? 
- Tên phản chủ ấy bây giờ đang ở trong phủ Thái sư. Chính hắn đã báo cáo với Thái sư rằng vương huynh tổ chức nổi loạn, vương huynh còn tiếc gì hắn nữa? 
- Tôi vẫn tin tưởng và đối đãi với nó như bát nước đầy, thật không ngờ được!
Hoài vương bùi ngùi nghĩ đến cảnh tan nát không thể nào hàn gắn được của mình. Vương lại nghĩ về Thuận Thiên công chúa. Bây giờ nàng còn nhớ đến ta chăng? Nàng vui hay nàng buồn? Vương nhìn vẻ mặt thông minh, hiền lành của vua Thái Tôn rồi nhớ đến gương mặt diễm kiều của Thuận Thiên, lòng vương đau như cắt. Sao trời bắt ta khổ thế này? Thuận Thiên diễm lệ tuyệt trần nàng ơi! Ôi, người cùng ta môi kề má áp bao nhiêu năm bây giờ để cho kẻ khác dày vò! Mỉa mai thay, kẻ ấy lại là em ruột ta! Nó đang ngồi trước mặt ta đó! Nếu không có nó thì ta đâu đến nỗi mất vợ! Nó không cố tình cướp đoạt thật, nhưng chính nó lại là cái nhân gây nên chuyện! Ôi chao là nhục nhã! Tại sao ta phải sống nhục như thế này? Lòng sân hận đang ngùn ngụt bốc lên trong người làm cho Hoài vương xâm xoàng... 
Giữa lúc đó, một viên thị vệ bước vào: 
- Muôn tâu, Trần Thái sư đến xin gặp bệ hạ! 
Vua Thái Tôn nói với Hoài vương: 
- Bọn tai mắt của Thái sư nhanh đến thế là cùng! Vương huynh hãy tạm lánh vào trong khoang thuyền một chốc vậy. 
Hoài vương chợt tỉnh người, chân tay rụng rời. Ông bước vào ngăn trong của khoang thuyền, mồ hôi ra như tắm. Thuyền Thái sư đã cập sát thuyền ngự. Thái sư tay cầm kiếm tuốt nắp bước qua thuyền ngự, đi thẳng đến trước mặt vua Thái Tôn: 
- Bệ hạ, nghe nói giặc Liễu vừa đến đây, thần xin mạn phép trừ hắn để tuyệt hậu hoạn! 
Vua Thái Tôn đứng chắn cửa vào: 
- Thái sư, Hoài vương đến đầu hàng đấy. Xin Thái sư bỏ qua cho! 
Thấy vua Thái Tôn che chở Trần Liễu, Thủ Độ nổi giận quăng cây gươm xuống sông, nói lớn: 
- Tao thật chỉ là con chó săn! Biết đâu anh em mày hòa thuận với nhau hay nghịch ý nhau? 
Vua Thái Tôn phải khuyên lơn mãi Trần Thái sư mới chịu cho êm. 
* 
Sau khi Hoài vương đã yên ổn về triều, vua Thái Tôn lấy đất các ấp An Phụ, An Dưỡng, An Sinh và An Bang giao cho Hoài vương làm thực ấp. Sau đó, vua cải phong cho Trần Liễu thành tước An Sinh vương. 
Tin hoàng huynh Trần Liễu được xá tội và được cải phong làm An Sinh vương truyền đi làm dân chúng xa gần đều hài lòng. Chỉ mấy hôm sau thì Trần Quang Thiệu cũng trở về ra mắt vương. Quang Thiệu trình cho vương biết, Đinh Lang, người quản gia của vương trước đây chính là người đã ám hại vương. Tiếp tay Đinh Lang, còn vài người khác nữa, ông đang phanh phui tìm hiểu thêm để vạch tội chúng. Quang Thiệu cũng kể thêm như thế này: 
Đinh Lang vốn là kẻ tham lam, gian ác. Trước đây y được Hoài vương cho dựng một căn nhà trong khuôn viên vương phủ để gia đình y ăn ở cho tiện. Thời gian giữ việc quản lý ở phủ cùng với Lữ Ngân, y đã ra tay chắt bóp, vơ vét bất cứ cái gì làm được. Y là kẻ khéo nịnh chủ, được tín nhiệm nên những người khác biết mà không ai dám hé miệng. Gần đây, Đinh Lang được người của Thái sư Trần Thủ Độ móc nối để tìm tòi tội lỗi của Hoài vương. Khi biết được Hoài vương đã mang án tử hình và Lữ Ngân đã chết, y càng lên mặt, không còn biết sợ ai nữa. Đã có ý định bỏ chủ, Đinh Lang cho vợ con đi trước, chỉ giữ đứa con lớn mười tám tuổi tên Đinh Vĩnh ở lại với mình. Khi vương bị nạn, tình trạng kẻ ăn người ở trong phủ càng nhốn nháo. Hai cha con y ăn cắp thêm một mớ vàng trong phủ nữa định đem đi thì bị một người tên Phát biết được hô hoán ngăn lại. Tên Vĩnh tuổi trẻ hung hăng bèn đánh gục ông Phát. Không ngờ ông Phát lại có đứa con gái là Diệu Liên, mười sáu tuổi, đang là nữ võ sinh ở một trường dạy võ gần đó. Diệu Liên nghe tin cha bị đánh tức giận bèn rủ một toán bạn bè hơn mười người kéo vào vây đánh hai cha con Đinh Lang tả tơi. Chống trả không nổi, cha con hắn chạy vào nhà riêng đóng cửa lại. Nhưng toán thiếu nữ võ sinh này nhất quyết không tha, vây nhà Đinh Lang phá phách dữ dội. Trong phủ người ta đều ghét Đinh Lang nên đã chẳng ai thèm can, có người còn xúi giục họ đánh phá nữa. Ai cũng chắc nẫm phen này cha con thằng phản chủ sẽ đền tội xứng đáng. Không ngờ trong cơn nguy cấp, chúng đã nghĩ ra được một mưu. Cả hai cha con đồng loạt cởi truồng tồng ngồng, ôm quần áo ở tay, thình lình mở cửa xông ra. Bọn Diệu Liên thấy vậy hổ thẹn quay mặt tránh vẹt ra hết. Nhờ đó cha con Đinh Lang mới thoát thân được. Bây giờ thì chúng đang ở phủ Thái sư... 
Nghe xong, An Sinh vương thở dài: 
- Bây giờ có điều tra ra tội ác của chúng ta cũng lấy mắt mà ngó chứ làm được gì? Đáng tiếc là cha con tên ác nô ấy không bị chết dưới tay bọn con gái đó! 
Quang Thiệu nói: 
- Vương gia đừng lo! Trần Thái sư ngày càng già không lẽ ông ta lột da sống mãi cho chúng dựa hơi! Trong khi đó công chúa nhà ta đang là hoàng hậu, vợ của đương kim Hoàng đế, vương gia lo gì không có ngày trị được chúng? 
Hôm sau Quang Thiệu ra ngoài thành sớm. Chiều hôm ấy, trong khi Quang Thiệu vào một quán ăn, bất ngờ bị một toán côn đồ xuất hiện gây sự. Hai bên ẩu đả, Quang Thiệu cô thế chống không lại nên bị đâm chết. 
Cái chết của người môn khách thân tín đã làm An Sinh vương hoảng sợ vô cùng. Điều này làm cho vương tin rằng chung quanh mình vẫn đang có những âm mưu đen tối rình rập. Và vương cũng cảm nhận mình đang ở một vị thế cô đơn vô hạn. 
* 
Từ ngày xây dựng xong vương phủ mới, An Sinh vương chỉ quanh quẩn trong phủ, đốc thúc con cái học hành hoặc nghiên cứu sách vở để khuây khỏa chứ không mấy khi bước ra ngoài nữa. Thân thể vương càng ngày càng gầy gò teo tóp. Vua Thái Tôn nghe tin như vậy đã cử hẳn một viên ngự y sang chăm sóc sức khỏe cho vương. Vua cũng chỉ thị người nhà lưu ý việc ăn uống của vương. Người nhà không quản tốn kém, lo đổi món ăn hàng ngày cho vương. Nhưng dù nem công chả phụng vương cũng chẳng nuốt trôi được, lúc nào vương cũng chỉ ăn qua quít lấy lệ. Không mấy khi người ta thấy trên môi vương một nụ cười. Thỉnh thoảng vương lại đọc vài câu thơ cổ. Hai câu thơ vương hay đọc nhất là "Hầu môn nhất nhập thâm như hải, Tùng thử Tiêu lang thị lộ nhân". Mỗi lần đọc xong, mắt vương lại đỏ lên ngấn lệ. 
Nhưng rồi lại có một ngày trọng đại bất ngờ xảy tới đã làm cho An Sinh vương hết sức vui mừng. Thuận Thiên công chúa vào cung hoàng hậu được nửa năm thì sinh ra một hoàng tử. Vua Thái Tôn cho đặt tên là Trần Quốc Khang. Hoàng gia nhà Trần, dưới sự thúc đẩy của vợ chồng Thái sư Trần Thủ Độ đã rầm rộ tổ chức ăn mừng. Dân chúng cũng được cổ động hòa chung niềm vui với triều đình. Thái sư Trần Thủ Độ vui sướng quá định đề nghị vua Thái Tôn tấn phong cho Quốc Khang làm Thái tử. 
Nhưng sau đó, Thái sư nghe được trong dân gian người ta đang đàm tiếu về chuyện "trê cóc" nhiều quá nên phải tạm ngưng. Không biết ai đã sáng tác ra chuyện ngụ ngôn này. Con trê thấy đàn nòng nọc (cóc mới nở sống dưới nước) quá giống mình thì bắt trộm hết về làm con mình. Sau một thời gian được nuôi nấng chiều chuộng, đàn nòng nọc lớn lên đứt đuôi lại trở thành cóc. Chúng bèn tự động về tìm lại bố mẹ chính thức của chúng. 
An Sinh vương tuy rất vui mừng nhưng biết thân phận mình, không dám để lộ nỗi vui mừng đó ra ngoài. Quả là trời đem đến cho: Bất chiến tự nhiên thành - vương đã nghĩ như vậy. Từ một kẻ bẩm thụ yếu đuối, tài năng thô thiển, lúc nào cũng sẵn sàng cam phận khuất phục trước sức mạnh, đây là lần đầu tiên trong đời, An Sinh vương mơ ước đến ngai vàng nhà Trần. Đầu óc vương sau những ngày đen tối tuyệt vọng lại nhen nhúm lên những tư tưởng về danh vọng và oai quyền tuyệt đối. Mỗi ngày những tư tưởng đó mỗi lớn thêm lên. Vương dần quên đi tấm lòng cao thượng của người em đã tha thứ và che chở cho vương trước sự hung bạo của người chú họ. Vương dần quên đi lòng nhân ái của người em đối xử vuông tròn với hai con của vương khi vương lâm nạn. Vương dần quên rằng chính người em ấy cũng hết sức khổ tâm đang muốn trốn thoát ngai vàng để mưu cầu chút thanh thản cho tâm hồn. Vương bắt đầu nôn nóng trông cho thời gian qua mau. Vương bắt đầu cầu trời giáng họa cho người em ruột mình phải tuyệt tự. Trong đầu vương, vị vua cao thượng nhân ái kia chỉ còn là một tên bạo chúa cần phải diệt trừ. Mộng cướp lấy ngai vàng lớn mãi, lớn mãi trong óc vương cho đến một ngày... 
Phải nói là thời gian đó, tinh thần An Sinh vương trở lại phấn chấn, ăn được, ngủ được. Chẳng bao lâu, vương đã lấy lại phong độ như xưa. 



Sự ra đời của hoàng tử Quốc Khang đương nhiên cũng là một niềm an ủi lớn cho hoàng hậu Thuận Thiên. Nó xoa dịu bớt những nỗi đau vì tình của nàng, làm cho nàng khỏi rơi vào hố thẳm tuyệt vọng. Nàng đành chấp nhận lối sống cam phận trong khuôn khổ lễ giáo như bao nhiêu phụ nữ khác. 
Nhưng rồi ba năm sau, lại có thêm một ngày trọng đại khác, vượt hẳn ngày hoàng tử Trần Quốc Khang ra đời: Thuận Thiên hoàng hậu lại sinh thêm một nam tử nữa. Lần này vua Thái Tôn mới thật sự có nỗi mừng. Hoàng tử được đặt tên là Hoảng và được vua phong làm Thái tử ngay. 
Sự việc con mình được phong làm Thái tử khiến hoàng hậu Thuận Thiên hết sức vui sướng. Nàng không hề biết rằng, cùng lúc ấy, bao nhiêu mơ ước của người chồng cũ của nàng là An Sinh vương bỗng tan thành mây khói. Sự ra đời của Thái tử Hoảng đã lập tức làm An Sinh vương chấn động tinh thần, thất vọng, rồi mất ăn mất ngủ trở lại. Tuy thế, mộng cướp đoạt ngai vàng đã căng phồng trong óc vương, vương không thể dứt bỏ nó được nữa. Vương vẫn tiếp tục nuôi cái mộng ảo đó. Vương đã may mắn có được hai người con thông minh sáng láng khác thường. Cả hai vương tử tánh nết đều rất ngoan hiền, hiếu thảo. Đó là những cái phao tốt nhất cho An Sinh vương bám lấy để khôi phục tinh thần. 
Vương tử Tuấn mẹ mất sớm, tánh tình nghiêm trang, trầm mặc, sâu sắc, kín đáo, ít để lộ tình cảm ra ngoài. Hàng ngày vương tử rất chuyên cần ôn văn luyện võ. Vương tử rất quan tâm những sách nói về đạo lý làm người và say mê nhất là việc nghiên cứu các loại binh thư kim cổ. Các giáo sư đều tin tưởng rằng vương tử sẽ trở thành một danh tướng sau này. 
Vương tử Doãn học vấn cũng chẳng thua sút người anh bao nhiêu. Tánh tình vương tử rất ngay thẳng, cương quyết nhưng cũng dễ bị xúc động. Lần mẹ vương tử là Thuận Thiên công chúa bị đưa vào cung hoàng hậu, Doãn đã bỏ ăn bỏ ngủ khóc lóc nhiều ngày. Cho tới khi gia sản bị triều đình tịch biên và có tin cha đang bị truy nã gắt, Doãn thấy nguy mới dằn lòng nín lặng để chuẩn bị trốn theo cha. 
Nhìn qua những hành động đó, An Sinh vương cảm thấy ông gần gũi vương tử Doãn hơn vương tử Tuấn. Vì thế, vương định đem nỗi lòng giãi bày với Doãn trước. 
Một hôm, vương cho đòi vương tử Doãn vào phòng riêng. Doãn bấy giờ đã được mười lăm tuổi. Doãn bước vào thấy cha đang ngồi trên sập ngủ với cặp mắt đỏ kè. Tưởng cha giận gì mình, Doãn ké né hỏi: 
- Phụ thân đòi con có chuyện gì? 
Vương chỉ cho Doãn chỗ ngồi ngay trước mặt vương: 
- Con hãy ngồi xuống đó cha bảo! 
Doãn ké né ngồi xuống. Vương nhìn Doãn chốc lát rồi hỏi: 
- Con có nhớ mẹ con không? 
Doãn rưng rưng nước mắt: 
- Thưa cha, con nhớ mẹ con lắm chứ! 
- Thế mẹ con bây giờ ở đâu con có biết không? 
Vương tử Doãn nhỏ lệ sụt sùi: 
- Mẹ con... đang ở... trong cung... hoàng hậu! 
An Sinh vương nghẹn ngào: 
- Trời ơi! Sao lại có cái cung hoàng hậu quái gở kia hở trời! Này Doãn con, con có thương cha không? 
- Con bao giờ cũng rất thương cha! 
- Thế con có nhớ năm kia, khi Trần Thái sư giết ông ngoại con là vua Huệ Tôn dù ông đã đi tu làm thiền sư Huệ Quang, Thái sư lại chôn sống các người thuộc tôn thất nhà Lý, toàn giòng ngoại của con, con đã ôm mẹ con mà khóc và hứa sẽ trả thù cho mẹ con không? 
Một dĩ vãng đau buồn bỗng sống dậy trong đầu óc đứa trẻ. Doãn vẫn chưa hoàn toàn hiểu ý của cha mình khi nhắc lại chuyện này. Nhưng với lòng khảng khái đã được bồi đắp, khơi sáng lâu nay, cộng thêm một ý thức hận thù to lớn vì bao nhiêu người thân của mình đã bị tàn sát dã man mà người cha vừa gợi lại, Doãn uất hận nói: 
- Con rất thương mẹ con nên con đã hứa với mẹ như thế! 
Đôi mắt vương sáng ngời lên. Một nụ cười chợt lóe trên gương mặt khắc khổ, vương hỏi lại Doãn: 
- Con hứa với mẹ như thế nhưng có chắc con dám làm không? 
- Con đã hứa thì dù có chết con cũng làm! Con rất thù hận những kẻ gian ác!
- Tốt lắm! Cha tin con. Thế nếu cha bị người khác làm nhục con có đủ can đảm trả thù cho cha không? 
- Con cũng sẵn sàng hi sinh mình để rửa mối nhục cho cha! 
- Vậy con có biết vì sao thân thế cha ra như vầy không? 
- Cha bị người ta làm nhục! 
- Phải, cha bị người ta làm nhục. Người ta đã cướp vợ của cha. Không những cha bị nhục mà chính con cũng bị xúc phạm. Chính con đã bị tước đoạt mất nguồn thương yêu nhất đời. Con bị tước đoạt tình mẫu tử, con đã thành một kẻ bơ vơ. Với cha, mẹ con là lẽ sống, mẹ con bị người ta giựt đi thì lẽ sống của cha cũng không còn. Cha hận mình tài hèn sức kém, phải bó tay khuất phục trước kẻ thù. Có thể cha không còn sống trên cõi đời này bao lâu nữa. Con hãy hứa với cha sau khi cha nằm xuống, con phải trả thù cho cha, rửa nhục cho mình! Con hứa nhé! 
- Phụ vương yêu quí! Con xin hứa chắc! Phụ vương hãy tin con! 
An Sinh vương nghe con hứa chắc lấy làm sung sướng lắm. Bất giác vương nhảy vụt xuống đất chắp tay quì xuống trước mặt Doãn làm Doãn hoảng hốt nhảy theo xuống ôm lấy cha. Thế là hai cha con ôm nhau khóc vùi một hồi. Sau đó An Sinh vương vỗ vai Doãn nói qua tiếng nấc: 
- Con yêu quí! Nhờ con cha đã vơi bớt một phần nỗi đau lòng. 
- Xin lỗi phụ vương kính yêu, phụ vương có thể cho con hỏi một điều không? 
- Được mà! Con cứ hỏi. 
- Thưa cha, cha hay ngâm mấy câu thơ "Hầu môn nhất nhập thâm như hải, Tùng thử Tiêu lang thị lộ nhân" là ý nghĩa gì? 
An Sinh vương nhìn con: 
- Đồng bệnh thương nhau đó con. Đó hai câu thơ của thi sĩ Thôi Giao. Để cha đọc toàn bài cho con nghe: 
"Công tử vương tôn trục hậu trần 
Lục Châu thùy lệ thấp la cân 
Hầu môn nhất nhập thâm như hải 
Tùng thử Tiêu lang thị lộ nhân" *. 
Một lần vô cửa hầu như lặn xuống biển sâu. Từ đây chàng Tiêu trở thành khách qua đường. Bài thơ nói về một người họ Tiêu đời Đường, có vợ đẹp tên Lục Châu, hai người đang ăn ở với nhau rất nồng thắm thì Lục Châu bị cưỡng bách đưa vào làm thiếp cho vị quan tước hầu Quách Tử Nghi. Người họ Tiêu mất vợ thương nhớ quá nên thỉnh thoảng lại giả làm khách qua đường để nhìn vào qua nhà họ Quách, mong được thấy bóng dáng vợ. Cha thấy nỗi khổ của mình mà thông cảm người xưa là vậy. Thật ra thì họ Tiêu còn có phước hơn cha nhiều. Ông ta vẫn còn chút hi vọng thấy vợ mình còn cha thì không bao giờ! Thôi, con có thể trở về. Cha hoàn toàn trông cậy ở con. 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved