Chương 29: Khói
ma
Bức tường xoay vô duyên vô cớ dừng lại giữa chừng, đám khói đen đang
lởn vởn trong hầm mộ chính như tìm được mục tiêu, rồi như một bức tường đen có
đầy đủ ngũ quan, ập ngay xuống đầu ba người. Đám khói đen trong căn phòng ghép
cũng đã giải quyết xong mấy cây nến, nối nhau kéo đến, đường tiến cũng như
đường lùi đều đã bị bịt chặt, hai đám khói đen ở phía trước và đằng sau tạo
thành thế gọng kìm kẹp ba con người lại, chỉ nghe văng vẳng bên tai những tiếng
lúc nhúc, lạo xạo, Liễu Trần trưởng lão vội nói: "mau châm nến dụ tà linh
của Phật đen."
Gà Gô thọc tay vào túi bảo
bối lục lọi, không ngớt miệng kêu khổ, số nến mà ba người mang theo đã dùng hết
nhẵn.
Lúc này đám khói đen dày
đặc quánh ở hai bên đã từ từ áp sát, giờ chỉ cần chạm vào một chút thôi, ắt sẽ
có kết cục như bộ xương nằm ở góc tường kia. Trong mắt Gà Gô bỗng nhiên ánh lên
tia nhìn độc ác, lòng nảy sát niệm, định bụng sẽ đạp tay cha cố người Mỹ Thomas
ra, giẫm lên xác tên hòa thượng Tây này nhảy xuống địa đạo dưới cửa ngọc.
Liễu Trần trưởng lão thấy
gân xanh hiện rõ trên trán Gà Gô, biết rõ anh đã động đến sát cơ, định dùng
linh mục Thomas làm bước đệm thoát thân, vội giữ tay Gà Gô lại nói: "nhất
thiết không đựơc làm vậy, lẽ nào ngươi đã quên những lời lão nạp răn đi răn lại
rồi sao? Đổ đấu tổn âm đức, hạ thủ phải nương tay... "
Gà Gô vốn là kẻ lòng dạ sắt
đá, nhưng thời gian gần đây thường xuyên đi theo Liễu Trần trưởng lão, nghe ông
chuốc rót thiền cơ, đối với những việv mình đã từng làm trước đây cũng đã phần
nào giác ngộ, nay ngheLiễu Trần trưởng lão khuyên giải, sát khí lập tức tan
biến, không nhẫn tâm xuống tay giết người nữa, liền nói: "thôi vậy, lần
này quả thực là chết rồi."
Song có lẽ Gà Gô là người
duy nhất còn sót lại trong bộ tộc có khả năng khóa giải lời nguyền, anh thực sự
không cam lòng hóa thành bộ xương trắng mục ruỗng trong căn hầm mộ tăm tối này,
nhưng tình cảnh trước mắt đúng là bước đường cùng, trước mặt sau lưng đều bị
đám khói đen ma quái bủa vây, nếu lúc này mà châm lửa dẫn dụ một trong hai đám
khói đen thì tất sẽ bị đám còn lại nuốt chửng, không gian trong mộ thất phía
trước khá cao, khoẳng cách giữa đám khói đen và mặt đất độ chừng ba thước, bên
trên vẫn còn mọt khoảng không rộng lớn, song để có thể phi thân qua đó, trừ phi
trên người mọc thêm một đội cánh.
Có một số người khi gặp
nguy hiểm, sẽ có những bịên pháp tự vệ một cách vô thức, ví như nhắm mắt, hay
dùng tay ôm đầu, làm như vậy chẳng khác nào đà điểu khi gặp nguy hiểm lập tức
rúc đầu xuống cát, về cơ bản hoàn toàn không có tác dụng; nhưng cũng có một số
người càng ở trong tình thế một mất một còn, bộ não của họ lại càng nhạy bén
hơn thường gấp bội, Gà Gô và Liễu Trần trưởng lão đều là những con người như
vậy, họ không bao giờ từ bỏ hy vọng sống sót.
Gà Gô nhớ ra ở chính giữa
mộ thất có một cây san hô khảm ngọc, có thể dùng phi hổ trảo móc vào tán cây,
đu người bay qua đám khói đen. Sợi dây của phi hổ trảo đương nhiên có thừa độ
kiên cố, đừng nói ba người, ngay cả sức nặng của tám đến mười người cũng không
kéo đứt được dây này, thế nhưng lo nhất là cây san hô khảm ngọc có đủ chắc chắn
để chịu được sức nặng của ba người hay không. Nếu chỉ có một người, dựa vào
thân pháp của mình, dù thân cây có giòn đến mấy, Gà Gô cũng thừa sức dùng phi
hổ trảo đu qua dễ dàng, nhưng nếu phải cõng theo Liễu Trần trưởng lão và linh
mục Thomas, thì quả thực không được chắc chắn cho lắm, giữa đường cành gãy thì
cả ba người chỉ còn nước chết.
Nhưng lúc này không còn
nhiều thời gian để suy tính nữa, Gà Gô nhắm chuẩn mục tiêu, phóng phi hổ trảo
về phía cây san hô, đầu móc của phi hổ trảo trúng ngay cành cây cao nhất, quấn
thêm mấy vòng liên tiếp, kéo thử mấy cái, cảm thấy sợi dây đã chắc chắn. Gà Gô
hiểu LIễu Trần trưởng lão đã coi chuyện sinh tự nhẹ tựa lông hồng, nếu không
mang theo cha Thomas, ông dẫu chết cũng không chịu một mình chạy thoát thân, hơn
nữa thời gian đã gấp lắm rồi, không kịp để từng người một đu dây sang bên kia,
chỉ còn cách đánh cược bằng tính mạng, ba người đu qua cùng một lúc.
Gà Gô nắm chắc phi hổ trảo,
bảo Liễu Trần trưởng lão và cha Thomas mỗi người giơ một tay nắm chắc sợi dây,
tay kia ôm chặt eo mình. Gà Gô lại dặn hai người cố gắng co chân càng cao càng
tố, tránh đụng phải đám khói đen ben dưới, rồi không đợi Liễu Trần trưởng lão
và cha Thomas kịp đáp lời, anh đã hô lên một tiếng: "đi thôi." Hai
cánh tay anh gồng lên, đu trên sợi dây phi hổ trảo móc trên etán cây san hô
khảm ngọc, bay người phóng qua cánh cửa xoay đang kẹt cứng.
Ba đôi chân vừa rời mặt
đất, hai đám khói đen ở phía sau đã lan tới nhập thành một khối, cha Thomas sợ
hãi nhắm tịt cả hai mắt, vốn định cầu nguyện vài câu xin đức Chúa phù hộ, chỉ
tội hai hàm răng run lập cập, không phát ra được một tiếng, chỉ còn biết gắng
sức co hai chân lên thật cao, tránh đám khói đen ma quái lập lờ sát bên dưới,
trong thâm thâm chỉ nghĩ nếu sợi dây không đứt giữa chừng, thì đó chắc chắn là
kỳ tích của Thượng Đế.
Bay người trên không, Gà Gô
mới đầu còn lo lắng cành cây san hô khảm ngọc không đủ độ kiên cố, nhưng dựa
vào lực cảm nhận từ sợi dây truyền lại, anh phát hiện cành cây đủ độ cứng cáp
để chịu đựng sức nặng của cả ba người, song đây có lẽ cũng đã là giới hạn cuối
cùng rồi, nếu nặng thêm chút nữa, thì cành chắc chắn sẽ gãy.
Chỉ cần vượt qua đám khói
den, đằng trước đã là địa đạo dưới cửa ngọ, ba người lơ lửng giữa không trung,
nhìn xuống dưới thấy sắp sthoát khỏi phạm vi của làn khói đen, trong lòng đều
lấy làm phấn chấn. Khi sắp đu qua được nửa đường, cả ba bỗng nhiên có cảm giác nằng
nặng phía sau, dường như có vật gì vướng vào chân, lành lạnh, man mát, lại còn
rất cứng. Linh mục Thomas không dám mở mắt ra nhìn, Liễu Trần trưởng lão và Gà
Gô bíet phía dưới có vật gì đó, mặc dù đang giữa chừng không vẫn quay đầu lại
nhìn, chợt thấy bộ xương trắng vốn nằm ở góc tường không bíet tự lúc nào đã ôm
chặt lấy đùi Liễu Trần trưởng lão. Chuyện này quả thật kinh thiên động địa,
ngay cả cao nhân như Liễu Trần trưởng lão cũng bị sự cố đột ngột này khiến cho
giật mình sửng sốt, lạnh toát cả người.
Có lẽ lúc nãy khi bị làn
khói đen bức vào bứớc đường cùng, ba người túm tụm lại một góc, cùng bám vào
phi hổ trảo đu người ra khỏi cửa xoay, Liễu Trần trưởng lão đã giẫm phải lồng
ngực của bộ xương trắng, làm gãy xương sườn, vướng vào bắp chân, khi lơ lửng
trên không mới co chân lên, kéo theo toàn bộ bộ hài cốt lên không, lúc đó mới
cảm thấy có sự bất thường.
Gà Gô bắt đầu luyện khinh
công từ khi còn nhỏ, sư phụ bỏ anh vào một cái chum lớn bên trong bôi đầy dầu
mỡ, bắt anh pảhi tự nghĩ cách leo ra bên ngoài, khi anh ngày một lớn hơn, kích
thước của chum mỡ cũng theo đó mà to dần. Liễu Trần trưởng lão là một Mô kim
Hiệu úy truyền thống, cũng có nghĩa là từ nhỏ ông đã bắt đầu luyện khinh công.
Nguyên lý cua khinh công là dựa vào sự bế khí, một khi hơi thở hắt ra thì coi
như vô dụng.
Lúc này cả Gà Gô lẫn Liễu
Trần trưởng lão đều giật thót tim khi thấy bộ xương mắc vào chân, dù thế nào
cũng không thể bế khí được nữa, cơ thể lập tức trở nên nặng nề, cành cây san hô
không thể chịu nổi sức nặng của ba người, liều gãy rắc một tiếng
Mất đi điểm tựa, ba người
và bộ xương trắng dưới chân tức khắc rơi xuống, cũng may là đã thoát ra khỏi
phần lớn phạm vi lan tỏa của đám khói đen, ba người lăn tròn về phía làn khói
đen ma quỷ. Gà Gô thoạt mới tiếp đất, tức khắc bật tôm đứng dậy, tóm lấy Liễu
Trần trưởng lão và cha Thomas kéo lùi ra sau.
Gà Gô chợt thấy tay mình
ngứa ngáy khó chịu, thì ra cánh tay ấy đã chạm phải đám khói đen quỷ quái. Anh
không hề biết nguyên lý của phì trùng trong làn khói đen này, một khi chạm phải
những vật thể có nhiệt độ cao hơn nhiệt độ bình thường, phì trùng sẽ lập tức
chết đi, sau khi chết lập tức hóa thành dịch thể có tính ăn mòn, dịch thể thoát
ra từ xác trùng sẽ dung hoà với vật thể mà nó đang ăn mòn, để rồi ngay lập tức
sản sinh ra những phì trùng mới tiếp tục ngặm nhấm những vật thể có nhiệt độ
cao ở gần, số lượng không bao giờ giảm bớt.
Gà Gô cho rằng mình đã
trúng phải độc tà, vội đưa tay lên xem, cả bàn tay trái chỉ còn trở lại khúc
xương trắng ởn, da thịt trên cánh tay đang tan chảy, đau thấu tim gan; nếu cứ
để lan ra thế này, toàn bộ cơ thể sẽ chỉ còn một bộ xương trắng, hơn nữa một
khi lan quá cánh tay ắt sẽ vô phương cứu chữa, nhưng làn khói đen này chỉ còn
cách trong gang tấc, nếu không tức tốc ròi khỏi đây ắt sẽ rơi vào vòng vây của
chúng.
Gà Gô gắng chịu cơn đau tột
cùng, lôi Liễu Trần trưởng lão và cha Thomas về phía sau, thấy Liễu Trần trưởng
lão hai mắt nhắm tịt, không rõ ông còn sống hay chết, lòng anh vô cùng lo lắng.
Nhưng hai đám khói đen lại đánh hơi ra tung tích của ba người, lại nhập làm một
khối từ từ áp đến, cũng may tốc độ di chuyển của làn khói này không nhanh, bằng
không dẫu ba đầu sáu tay, bận này cũng đi toi.
Linh mục Thomas bỗng hét
lên một tiếng, đứng phắt dậy đưa tay lần sờ mình mẩy, cũng may khắp người không
óc chỗ nào chạm phải là khói ma quỷ đó. Cha Thomas thấy cánh tay trái của Gà Gô
đã bị ăn mòn chỉ còn trơ lại khúc xương trắng, Liễu Trần trưởng lão thì ănmf
bắt tỉnh trên đất, có lẽ líc rơi từ trên cao xuống đã va đầu vào đâu đó nên
ngất đi, liền vội vàng giúp Gà Gô dìu Liễu Trần trưởng lão rút về phía địa đọa
bên dưới cửa ngọc.
Vết thương trên cánh tay Gà
Gô ngày một trầm trọng, mồ hôi anh vã ra như tắm, chỗ thịt bị phân hủy trên
cánh tay đã lan dần đến khớp xương, bây giờ chỉ còn cách tự chặt đứt cánh tay
mình giống như những người bị rắn độc cắn mà thôi, nhưng trong tình hình này
muốn chặt đứt cánh tay mình e cũng không đủ thời gian, trước tình huống hiểm
nguy cả ba người đều có những động tác mạnh, nhiệt độ cơ thể cũng theo đó mà
tăng lên rõ rệt, nhìn thấy khói đen sắp đổ bộ đến nơi, Gà Gô đành dùng tay phải
lành lặn rút khẩu Mauser ra, bắn liên tiếp vào pho tượng phật đen nơi góc
phòng, năm phát đạn găm lên thân tượng, sau đó lập tức quăng khẩu súng về phía
góc mộ thất.
Đám khói ma đậm dặc quả
nhiên bị nhiệt độ từ nòng súng thu hút, lập tức chuyển hướng, Gà Gô đau đến mức
sắp ngất xỉu đến nơi, gắng sức nói với cha Thomas một tiếng: " Đi thôi"
Hai người đỡ Liễu Trần
trưởng lão nhảy vào địa đạo, bên trong có một khối đá đen treo lơ lửng, lúc mới
vào cả ba không biết đó là gì, bây giờ thì mọi chuyện đã rõ ràng, đám khói đen
tỏa ra trong địa đạo lúc nãy chính là do khối ngọc rữa này tỏa ra, nhất định là
do cha Thomas đã thắp một cây nến, khiến khối ngọc cảm nhận được độ nóng và phả
ra đám khói mâ.
Gà Gô và cha Thomas dìu
Liễu Trần trưởng lão, lách người băng qua khối ngọc, khi đã ra khỏi địa đạo,
anh bảo cha Thomas đóng ngay cửa đường hầm lại, đề phòng đám khói đen đuổi
theo, sau đó dùng miệng xé rách một bên áo, buộc chặt chỗ mạch máu trên cánh
tay, kế đó kề cánh quạt sắc bén của xẻng Tuyền phong lên, một nhát chặt ngọn
lịm cắt đứt nửa cánh tay bị đám khói đne ăn mòn, mạch dù đa xdungf vải thít
chặt mạch máu, nhưng trên phần tay bị chặt đút máu vẫn tuôn ra như suối, chưa
kịp cầm máu, Gà Gô đã thấy mắt mình tối sầm lại và ngất lịm đi.
Linh mục Thomas thấy Gà Gô
ngất xỉu do mất máu, Liễu Trần trưởng lão thì đã bất tỉnh nhân sự từ trong hầm
mộ, chỉ còn lại một mình mình không hề hấn gì, thấy đặt niềm tin vào thượng đế
là con đường đúng đắn; song giờ không thể thấy chết mà không cứu, trước tiên là
phải tìm cách đưa hai người Trung Quốc này ra ngoài đã. Ông đang định đỡ Gà Gô
dậy, bỗng thấy trước mắt xuất hiện một cảnh tượng vô cùng khủng khiếp, da thịt
trên nửa cánh tay gà Gô cắt đi đã hóa thành mủ Chỉ còn trơ lại một khúc xương
trắng, từ trong bãi nước mủ có vô số chấm đen ly ti bay ra, lơ lửng trong mộ
đạo.
Cha Thomas nhìn những chấm
nhỏ bồng bềnh giữa không trung này mà hồn vía như muốn lên mây, dưới ánh sáng
lờ mờ của ống phốt pho, những chấm đen thoắt ẩn thoắt hiện, dường như đang muốn
tụ lại thành một khối, cah Thomas hiểu đây chình là thứ cẫn được nhắc đến trong
kinh thánh, hơi thở của quỷ dữ.
Làm thê nào mới đối phó
được với " hơi thở của quỷ dữ"? Hình như trong kinh thánh cũng có
viết về điều này, nước Thánh? Bánh Thánh? Hay là cây thập tự? Nguy rồi, đến lúc
này thì chẳng còn nhớ ra được gì nữa, cha Thomas thầm trách mình vô dụng, đa bị
lũ tay chân cảu quỷ Sa tăng dọa cho chết khiếp, giờ có chết cũng chẳng có mặt
mũi nào đi gặp Chúa trời, nhất định phải lấy lại long dũng cảm của một cha sứ
mới được.
Cha Thomas nghĩ ra mọi cách
để tự trấn tĩnh bản than, sự nhớ cái gọi là hơi thở quỷ dữu gớm ghiếc kia vốn
thích những thứ có nhiệt độ cao, nhưng lúc này trên người ông chẳng còn cây nến
que diêm nào, làm sao mới dự lừa đám sương ma mị kia được đây.
Thượng Đế phù hộ, hơi thở
quỷ dữ trong mộ đạo này không nhiều lắm, linh mục Thomas đột nhiên nhớ ra một
chuyện, bọn chúng có vẻ rất sợ chất lỏng giống như nước Thánh, chỉ có điều trên
mình ông lúc này không có bình nước, không biết nước bọt thì có tác dụng gì
không, nước tiểu thì e là nhiệt độ khá cao, linh mục Thomas nghĩ ra bảy tám
phương án, nhưng đều có vẻ không có tác dụng lắm.
Đối diện với những chấm đen
đã tụ lại thành một đám, linh mục Thomas trong long nóng như lửa đốt, ngay lúc
đó ông bỗng nghe tiếng thở nhẹ sau lưng, vội quay đầu lại nhìn, thì ra là Gà Gô
đã tỉnh lại, cha Thomas vội đỡ anh dậy, chỉ cho Gà Gô thấy đám khói đen trước
mặt, hốt hoảng đến độ không thốt được thành lời.
Lúc nãy gà Gô đau đến nỗi
ngất đi, mất máu nhiều sắc mặt xanh xao, cũng may trước đó anh đã thít chặt
mach máu, nên sau khi máu trên cánh tay đã chảy ra hết thì không chảy thêm
nhiều nữa, nếu trông chờ vào sự giúp đỡ của gã cha cố ngốc nghếch Thomas, thì
chắc anh đã chết lâu rồi.
Khi được cha Thomas đỡ dậy,
thần trí của Gà Gô cũng đã hồi phục bảy tám phần, thấy một nhúm khói đen đang
lởn vởn trước cửa ngọc, tìm kiếm nhiệt độ toan bức tới, anh liền tức tốc rút
khẩu súng còn lại ra, mở chốt, bắn một phát thẳng vào chiếc khóa đồng trên cửa
ngọc.
Lúc trước cả Liễu Trần
trưởng lão và Gà Gô đều hiểu rõ khóa đồng trên cửa ngọc là khóa liên tâm, chỉ
cần có sự tiếp xúc của bên ngoài, sẽ kích hoạt chốt bẫy ở bên trong, khiến vô
số ám khí bên trong hai cái hang bên cạnh phóng ra. Hệ thống bẫy được thiết kế
ở cửa hang tứ bề thong thoáng thế này, nhất định không phải là loại ám khí nhỏ,
theo kinh nghiệm của Gà Gô, ở đây có thể đã bố trí loại ám khí lớn như đá lăn,
cát vùi; tình hình trước mắt chỉ còn dựa vào ngoại lực để đánh cược với số phận
mà thôi, nếu trong cửa hang phóng ra khí độc nào đó, mọi người chỉ còn con
đường chết, nhưng nếu là cát chảy, thì có thể lợi dụng lực chảy ngăn cản chuyển
động của đám khói trước cửa động, cả ba người đã không dễ dàng gì mới ra được
đến đây, quyết không thể dương mắt nhìn đám sương khói vô hình vô tướng này bức
tử ở trong mộ đạo được.
Viên đạn bay vút đi, bắn
trúng chiếc khóa đồng, kích động đến công tắc bên trong, chỉ nghe âm thanh vang
động ầm ầm phát ra nơi hai cửa hang động, rồi dòng cát như nước triều hung dữ
cuồn cuộn đổ ra.
Kể ra thì nghe tưởng chậm,
kỳ thực từ lúc Gà Gô bắn trúng ổ khóa, đến khi hia cửa hang động ào ào tuôn ra
hai dòng cát lớn, tổng cộng còn chưa tới mây giây đồng hồ, đám khói đen hoàn
toàn bị vát vùi lấp, cát vẫn đổ ra mỗi lúc một niều, nếu lúc này người kích
hoạt hệ thống cát chảy đang đứng ngay trước cửa ngọc, thì cho dù có ba đầu sáu
tay đi chăng nữa, cũng không thể tránh kịp, trong chớp nhoáng sẽ bị hai dòng
cát hất ngã, cuối cùng chỉ còn kết cục bị chôn sống bên trong mà thôi.
Gà Gô và linh mục Thomas
kéo lê Liễu Trần trưởng lão, chạy bạt mạng ra ngoài, cũng không để ý đến những
gì diễn ra sau lưng, chỉ nghe thấy vang dội bên tai tiếng cát chảy ầm ầm, hơn
nửa không gian trong mộ đạo đã bị lấp kín.
Chỉ đến khi thoát ra ngoài
cửa mộ, đứng trong căn phòng bên dưới cầu thang xoáy, hia người mới thở phào
nhẹ nhõm. Gà Gô móc gói thuốc Vân Nam rắc lên chỗ cánh tay bị đứt, một nửa cánh
tay coi như đi tong, sau này đừng hòng nghĩ đến chuyện đổ đấu nữa. Nghĩ đến
đây, anh liền thấy lồng ngực tức nghẹn, như muốn thổ huyết, vội vàng nuốt hai
viên Hồng liêm diệu tâm hoàn, làm chậm lại tốc độ lưu thông máu.
Điều Gà Gô lo lắng nhất
hiện giờ là Liễu Trần trưởng lão, người ta đã vì anh mà bất chấp tuổi tác vượt
qua chặng đường dài để đến thành Hắc Thủy, nếu hòa thượng già này có mệnh hệ
gì, thì tội lỗi của anh thật quá lớn, nghĩ đoạn, anh vội cùng cha Thomas đỡ Liễu
Trần trưởng lão dậy, kiểm tra xem ông bị thương ở đâu.
Cha Thomas đỡ lưng cho Liễu
Trần trưởng lão, không ngờ vừa chạm tay vào lưng, đã thấy máu dính đầy tay, ông
cha xứ hoảngh ối kêu lên: "ối trời ơi... máu.. lão hòa thượng bị thương
rồi."
Từ lúc trong hầm mộ đến khi
ra được chỗ cầu thang, ba người cứ mải miết cắm đầu cắm cổ chạy, cả Gà Gô và
cha Thomas đều không để ý được Liễu Trần trưởng lão bị thương chỗ nào, bây giờ
mới biết, thì ra lúc cành san hô gãy, Liễu Trần trưởng lão ngã ra đất, bộ xương
người mắc ở chân cũng theo đó mà rơi xuống vỡ ra thành từng mảnh, trong đó có
một khúc xương gãy đâm trúng lưng của ông, chọc thủng hai lá gan, vết thương vô
cùng nghiêm trọng, chắc là vô phương cứu chữa.
Gà Gô dốc toàn bộ số thuốc
Vân Nam mang theo bên người lên miệng vết thương trên lưng Liễu Trần trưởng
lão, nhưng đã bị máu xối ra ngay sau đó, Gà Gô lực bất tòng tâm, trong lòng đau
khổ khôn xiết, hai dòng nước mắt cứ thế trào ra, anh rút trong túi bảo bối ra
lọ thuốc Bắc địa huyền châu đặt trước mũi Liễu Trần trưởng lão, quyệt nhẹ ngón
tay, lại lấy ra một ít bột nitrat, định dùng thuốc này làm cho Liễu Trần trưởng
lão hồi tỉnh, để nghe lời trăn trối sau cùng của ông.
Bột nitrat vào khoang mũi
khiến Liễu Trần trưởng lão bị sặc, ông ho lên mấy tiếng, rồi từ từ mở mắt, thấy
Gà Gô và cha Thomas quỳ bên cạnh mình, nước mắt lưng trong thì cũng hiểu mìnnh
cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa, ông nắm chặt tay phải Gà Gô, nói:
"Lão nạp sắp rũ bỏ tấm thân gái áo túi cơm này rồi, hai người chớ quá đau
buồn, chỉ có điều... có vài chuyện con cần khắc cốt ghi tâm!"
Gà Gô nước mắt ròng ròng
khẽ gật đầu, lắng nghe Liễu Trần trưởng lão nói tiếp: "Lão nạp rửa tay gác
kiếm đã lâu, cũng không thể coi là một Mô kim Hiệu úy nữa, lá bùa Mô kim này,
từ nay sẽ thuộc về con, chỉ đáng tiếc hai chúng ta duyên phận quá ngắn, ta
không kịp truyền dạy cho con bí thuật phân kim định huyệt. Sau này nếu có cơ
hội, con hãy đi tìm một người bạn thuở trước của ta, ông ấy có một biệt danh,
gọi là Kim Toán Bàn, thường giả làm thương nhân buôn bán che mắt thiên hạ, hay
phụ giúp hội đổ đấu dọc hai bên sông Hoàng Hà; người này rất thạo việc xem
tướng sao phong thủy, thiên can địa chi, người duy nhất có thể cùng ông ta ngồi
cùng một chiếu chỉ có Trương Tam Liên tử, cao thủ hãm long phong thủy âm dương
sống vào cuối thời nhà Thanh, có điều cụ Trương tam đã quy tiên từ lâu. Cho đến
ngày nay, nếu xét về thuật phân kim định huyệt, ngoài lão nạp ra, trong thiên
hạ k hông còn ai có thể sánh bằng Kim Toán Bàn, ông ta nhất định sẽ giúp con,
còn một chuyện nữa là trên miếng long cốt này khắc những ký hiệu liên quan đến
Mật Phượng Hoàng, lại được cất giấu ở nơi sâu kín nhất trong kho báu của vương
triều Tây Hạ, trên đó chắc chắn có những đầu mối quan trọng, không chừng có thể
giúp cho việc tìm kiếm Mộc trần châu... "
Gà Gô nghĩ đến cánh tay
trái đã không còn, cả cuộc đời này e chẳng bao giờ đổ đấu được nữa, cho dù có
biết viên ngoại được cất giấu ở đâu thì sợ rằng cũng không lấy được, nhìn hơi
thở của Liễu Trần trưởng lão mỗi lúc một nặng nhọc, anh muốn nói một vài lời
với ông, nhưng cổ hộng như nghẹn lại, nấc lên vài tiếng rồi chỉ còn biết cắn
môi, toàn thân run lên từng đợt.
Liễu Trần trưởng lão gắng
gượng chút hơi sức cuối cùng nói: "con phải nhớ rằng, quyết không được tùy
tiện giết người, nghề đổ đấu là nghề tổn hại đến âm đức... lão nạp... lão
nạp... đi đây." Vừa nói dứt câu, Liễu Trần trưởng lão buông rơi cánh tay
tắt thở.
Gà Gô quỳ sụp trên đất,
không ngừng rập đầu trước thi thể của Liễu Trần trưởng lão, cha Thomas phải
sống chết khuyên can mới kéo được anh dậy. Chỗ này không thể nán lại lâu hơn,
hai người bèn khiêng thi thể Liễu Trần trưởng lão trèn lên bảo điện của chùa
Thông Thiên Đại Phật, đặt trước pho tượng Phật Tổ, hỏa táng thi thể của ông chu
đáo, sau đó mới gạt nước mắt rời đi.
Vài năm sau đó, theo lời dặn
dò của Liễu Trần trưởng lão, Gà Gô đi khắp nơi tìm kiếm vị Mô Kim Hiệu úy Kim
Toán Bàn nổi tiếng khắp vùng Sơn Tây, Thiểm Tây dọc hai bên bờ sông Hoàng Hà,
nhưng các vùng đất anh đặt chân tới đều bặt vô tung tích vị cao nhân kia. Miếng
long cốt đem về từ hang chứa báu vật Tây Hạ anh cũng đã mời rất nhiều những vị
sĩ phu học rộng tài cao đến xem, nhưng không một ai hiểu được nội dung của
những ký tự khắc trên đó cả.
Thời đó đương buổi loạn
thế, đâu đâu cũng hư nung nấu điềm báo của một trận đại chiến thôn tính thiên
hạ, nhờ sự giúp đỡ của cha Thomas, Gà Gô đưa toàn bộ thân quyến di cư sang Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ. Cũng từ đó bầu nhiệt huyết trong lòng Gà Gô cũng nguội lạnh
dần, anh lui về ẩn cư tại ban Tennessee, không ngó ngàng gì đến thế sự nữa.
Sau bốn mươi tuổi, cơ thể
người dân Zhaklama bắt đầu suy yếu dần, lượng sắt trong máu giảm dần, trong
vòng mười năm sau đó máu sẽ từ từ chuyển biến thành một màu vàng đông đặc, sau
đấy họ sẽ phải chịu đựng những đau đớn giày vò cho đến chết, có rất nhiều người
đã không thể chịu đựng được nỗi đau này, cuối cùng đều lựa chọn cho mình con
đường tự sát, nhưng càng ở xa động Quỷ bao nhiêu, thời gian phát bệnh càng chậm
lại bấy nhiêu, ở nước Mỹ bên kia bán cầu, thời gian phát bệnh chậm lại hai mươi
năm.
Thời gian sau đấy Trung
Quốc nổ ra chiến tranh liên miên, việc tìm kiếm Mộc trần châu hay Mật phượng
hoàng càng khó khăn, hơn nữa tọc người của Gà Gô ngày một thưa thớt, không còn
ai đủ khả năng gánh vác trách nhiệm cao cả này. Gà Gô cũng đã máat đi ý chí,
thầm tính trong khoảng một trăm năm nữa, những mạch máu cuối cùng rồi cũng đứt
đoạn, bộ tộc cổ xưa này sẽ hoàn toàn biến mất khỏi thế gian này.
Câu chuyện về bộ tộc bị quỷ
dữ nguyền rủa sau này đã đến tai người con rể của Gà Gô, ông Dương Huyền Uy,
cha của Shirley Dương. Dương Huyền Uy không chỉ đam mê khảo cổ, mà còn thích
phiêu lưu mạo hiểm, vì muốn nghĩ cách cứu vợ và con gái, ông đã quýet định hành
động. Thời trẻ Dương Huyền Uy đã nghiên cứ nhiều về văn hóa Tây Vực, cò điều
phạm vi nghiên cứu của ông là thời kỳ Hán Đường, cũng là giai đoạn mà sự phồn
vinh ở khu vực này đạt đến đỉnh điểm. Nhưng bốn nghìn năm trăm năm về trước ở
Tây Vực đã xuáat hiện mấy nền văn minh khác nhau rồi, ốc đảo Zhaklama là một
trong những nền văn minh đó, quần thể mộ táng bên sông được phát hiện sau đó
cũng có niên đại hơn bốn nghìn năm lịch sử, cho nên những hỉeu biết của Dương
Huyền Uy về thời kỳ trước khi có nước Tinh Tuyệt và núi Zhaklama vô cùng hạn
hẹp, ông cho rằng động Quỷ ở nứoc Tinh Tuyệt chắc chắn phải dẫn đến một đầu mối
nào đó, hơn nữa Dương Huyền Uy còn thuộc nhóm người luôn cho rằng khoa học có
thể chứng minh tất cả.
Thời đó Trung Quốc đang cải
cách mở cửa, làn sống thám hiểm sa mạc trỗi dậy lần thứ hai. Mượn cơn gió Đông
này làm cớ, Dương Huyền Uy đã thuận lựi lập ra một đội thám hiểm chuyên nghiệp.
Không ngờ sau khi dấn thân mình vào vùng sa mạc khô cằn đó, ông đã không quay
trở lại. Sau đấy Shirley Dương vì muốn tìm kiếm người cha mất tích của mình nên
đã tham gia vào đội khảo cổ của giáo sư Trần và các học sinh của ông vào sa mạc
Đen, đi xuyên qua hang động đen trong dãy Zhaklama, vào tận cung điện dưới lòng
đất trong thành cổ TinH Tuyệt, cuối cùng cũng thấy động Quỷ không đáy.
Sau đó, đội khảo cổ do giáo
sư Trần và những học sinh của ông hợp lai tiến vào sa mạc truy tìm di tích của
thành cổ Tinh Tuyệt đã bỏ mạng lại trên sa mạc Đen, điều này không cần kể nữa.
Trong những kẻ sống sót trở về, người thê thảm nhất nhất định là giáo sư Trần,
do phải chịu đựng những kích động quá nặng, thần kinh ông đã suy sụp hoàn toàn.
Đó là một trải nghiệm kinh hoàng như cơn ác mộng, nhưng lúc ấy, Shirley Dương
không hề biết giữa mình và dãy núi đen Zhaklama thần bí ấy, lại tồn tại một mối
lên hệ sâu sa đến thế.
Chương 30: Quyết
định
S au khi từ sa mạctrở về, Shirley Dương đã đưa giáo sư Trần sang Mỹ
chữa trị, chẳng bao lâu sau, trên lưng hai người đều xuất hiện vết chàm đỏ hình
con mắt, hơn nữa tình hình của giáo sư Trần trương đối nghiêm trọng, ông mắc
phải chứng thiếu sắt rất hiếm gặp, bện viện nào cũng khoanh tay chào thua. Dựa
vào gợi ý của nhà tiên tri ở núi Zhaklama, Shirley Dương biết rằng có thể mình
chính là hậu duệ của bộ tộc Zhaklama, cho nên cô đã thực hiện một loạt các cuộc
điều tra tỉ mỉ về vấn đề này, càng tìm hiểu về số mệnh quá khứ cô càng hiểu
thêm rằng động Quỷ không đáy phức tạp hơn nhiều so với tưởng tượng của mình.
Hiện nay những hiểu biết của Shirley Dương về động Quỷ thậm chí còn khong bằng
một góc nhỏ nổi lên của tảng băng chìm
Shirley Dương còn phát hiện
ra một vật rất quan trọng, chính là miếng long cốt cổ có khắc những văn tự kỳ
lạ mang về từ chùa Thông Thiên Đại Phật ở Hắc Thủy thành, không ai hiểu nổi văn
tự khắc ở trên đó, chỉ có thể xác định một điều duy nhất là trên miếng xương có
khắc rất nhiều ký hiệu hình con mắt, hình dạng đặc thù đó và viên ngọc nhãn cầu
đã bị phá hỏng ở Tân Cương cùng những vết chàm đỏ mọc trên lưng mọi người, tất
cả đều giống nhau như đúc.
Trên miếng long cốt khắc di
văn này, nhất định có ghi chép gì đó rất quan trọng liên quan đến Mộc trần
châu, nếu giải nghĩa được nội dung khắc trên đó không chừng có thể tìm ra viên
ngọc, bằng không sau àny cả Shirley Dương, Tuyền béo và tôi, trước lúc chết đều
phải chịu đựng nỗi đau đớn giày vò khi máu rong cơ thể dần đông lại thành một
khối màu vàng đặc quánh, còn trên ngưofi ông giáo sư bị suy sụp thần kinh, căn
bệnh này đã bắt đầu phát tác, có trời mới biết được ông cụ còn cầm cự được bao
lâu nữa.
Từ khi từ Thiểm Tây trở về,
tôi cứ ăn ngủ không yên, cũng là vì không biết trên lưng mình rốt cuộc đã mọc
ra cái gì, bây giờ Shirley Dương đã chứng thực, quả nhiên vết chàm có liên quan
đến động Quỷ chết tiệt kia, trong lòng ngược lại bỗng cảm thấy yên tâm hơn chút
ít. Nó cũng không đến nỗi đáng sợ như tôi tưởng tượng, đời người như cây cỏ mùa
thu, dẫu sao căn bệnh quái đản kia cũng phải mất nhiều năm nữa mới phát tác,
đến khi đó cùng lắm thì tôi cũng di cư sang Mỹ tránh nạn là xong, chỉ có điều
giáo sư Trần sẽ ra sao? Lẽ nào lại giương mắt nhìn ông cụ cứ thế mà chết đi hay
sao?
Nhiều khin ta không thể tin
rằng, từ trong cõi vô minh, cuộc đời đã có sự sắp đặt sẵn, vừa hay trước đây
không lâu ở Cổ Lam tôi may mắn biết được tin, có ông giáo sư Tôn đã giải mã
được loại thiên thư long cốt này, nội dung trong thien thư được giữ rất kín,
giáo sư không chịu tiết lộ ra dù chỉ một chữ, hơn nữa người nắm trong tay
phương thức giải mã thiên thư, tren thế giới e rằng tạm thời chỉ có một mình
giáo sư Tôn mà thôi.
Tôi kể lại đầu đuôi sự việc
cho Shirley Dương nghe. Giáo sư Tôn tuy không thấu tình đạp lý lại kín mồm kín
miệng, nhưng suy cho cùng ông cũng là một người bình thường, nếu cứ rập đầu năn
nỉ, xin ông tiết lôj bí mật âu cũng không phải vấn đề lớn, nhưng sau đó thì
sao? Lần theo manh mối đó đi đổ đấu ư? Đổ lấy viên Mộc trần châu to cỡ quả nhã
cầu kia ư? Đây không phải là chuyện dễ như đãi môi. Các ban sơn đạo nhân đã tìm
kiếm không biết bao nhiêu năm trời, mà cũng không tìm thấy, giờ trongmấy người
chúng tôi đi tìm, có thể coi như trong tay không có một phần trăm chắc chắn
nào, không những thế trong các ngôi mộ cổ nguy hiểm rình rập mọi nơi, làm không
tốt có khi còn phải trả giá bằng mạng sống của mấy người, như vậy thì lỗ hơn là
lãi.
Shirley Dương thấy tôi trầm
ngâm suy nghĩ, cho rằng tôi đang lo ngại chuyện tìm kiếm Mộc trần châu, liền
cất tiếng hỏi: " Anh sao thế? Sợ rồi đúng không? Tôi chỉ cần khi nào lần
tìm được manh mối, nhờ anh đău tôi đến đó, lúc vào bên trong đổ đấu thì chỉ cần
mình tôi là đủ rồi.."
Tôi cắt ngang câu nói cảu
Shirley Dương: " Sao? Cô khinh người thế hả? Tức cười, cô thử đi dò hỏi
xem thằng Nhất này có gì để sợ nữa đây? Thôi đằng nào nói với cô thì cô cũng
cho rằng tôi bốc phét, tôi sẽ dùng hành động thực tế chúng minh cho cô thấy tôi
không phải là kẻ tham sống sợ chết, huống chi chuyện này còn liên quan đến cả
cô và giáo sư Trần, tôi không bao giờ khoanh tay đứng nhìn đâu? "Thế rồi
tôi kéo Shirley Dương rời khỏi ghế đá trong công viên.
Shirley Dương hỏi tôi định
đi đâu, tôi nói: " Hai chúng ta ngồi đay suốt buổi chiều rồi, giờ cũng
chẳng sớm sủa gì nữa, bọn Tuyền béo còn đang chờ tôi ở Phan Gia Viễn. Giờ tôi
qua bảo bọn họ thu dọn, mai chúng ta sẽ đi Thiểm Tây tìm giáo sư Tôn, dù ông
già ấy có đồng ý hay không, nhất định phải cậy bằng được miệng ông tar a, sau
đó phải làm như thế nào thì cứ theo đó àm làm"
Shirley Dương thở dài nói
với tôi: "Anh thật đúng là dễ bị kích động, nghĩ sao làm vậy, nhưng chuyện
này đâu có đơn giản như thế, anh nói xem vì sao giáo sư Tôn không chịu nói ra
chứ? Có phải ông ta sợ tiết lộ thiên cơ sẽ đem lại hậu quả khó lường cho chính
mình hay không? "
Tôi nói với Shirley Dương:
" Thật ra... mà làm sao để giải thích cho người Mỹ các cô hiểu đây, người
Trung Quốc có những cách sử xự riêng, rất khó giải thích, đừng nghe những lời
giáo sư Tôn dọa nạt, thật ra chẳng có gì am quái trong chuyện này cả đâu, thoe
kinh nghiệm cảu tôi, chác là ông già cổ hủ họ Tôn này đã bị bọn lãnh đạo bịt
rồi"
Shirley Dương lắc đầu không
hiểu: " Bịt gì cơ? "
Muốn giải thích rõ ràng cho
Shirley Dương những việc này quả không dễ chút nào, tôi nghĩ ngợi một lúc rồi
đáp: " Tôi lấy ví dụ thế này, giả sử ở Trung Quốc có nhân vật quyền lực
nào đó, nói rằng 1+1=3, sau đó giáo sư Tôn đã tìm ra một kết quả chính xác hơn,
là 1+1=2, thế nhưng vị đức ông nói trước 1+1=3 là một vị có quyền có thế, cho
nên dù ông ta sai mười mươi, nhưng cũng không cho phép có người dị nghị. Giáo
sư Tôn có lẽ đã phát hiện ra trên miếng long cốt kia có nội dung trọng đại nào
đó có thể thay đổi thời cuộc, không phù hợp với giá trị quan và thế giới quan
đang tồn tại lúc này, cho nên đã bị các vị lãnh đạo ra lệnh phải im hơi lặng
tiếng, không được tiết lộ với bất kỳ ai, thành ra mới trở nên quái đản như thế,
nhưng tôi thấy có vể ông ta nín nhịn đã lâu nên có vẻ điên tiết lắm rồi đấy"
Kếw hoạch của tôi là trước
tiên đi tìm giáo sư Tôn hỏi cho ra nhẽ, nếu như những điều khắc trên long cốt
kia không có manh mối nào về Mộc tràn châu thì đành chịu, nhưng nếu có, đa phần
cũng sẽ giống những dự đoán của người Zhaklama trước đây: viên ngọc rất có thể
đang nằm trong một ngôi mộ cổ nào đấy. Từ trước tới nay, tôi vẫn luôn nung nấu
một ý tưởng lớn lao, đó là dựa vào bản lĩnh của mình đi đổ một cái đấu thật
lớn, phát tài to, sau đó rưaar tay gác kiếm, bằng không kỹ thuật phân kim định
huyệt không có đất dụng võ, thành quả bao năm đổ xuống sông xuống bể cả, như
thế thì đáng tiếc lắm.
Trước mắt chính là một cơ
hội thích hợp, cứu người nhân thể cũng là cứu mình, vừa hay lại trả được món nợ
nhân rình cho Shirley Dương.Thật ra cũng không có món nợ nhân tình đó, thì dăuj
vào mối dao tình cùng vượt hoạn nạn của tôi và cô, cộng thêm việc Shirley Dương
đã cứu tôi thoát chết, cũng đủ để tôi không thể đứng nhìn mà không giúp Shirley
Dương và giáo sư Tôn một tay rồi.
Sauk hi đã quyết định, tôi
nói với Shirley Dương: " Bây giờ tôi với cô đi tìm Tuyền béo trước đã, àm
còn Răng Vàng nữa, chuyện này cũng không thể thiếu sự giúp đỡ của hắn ta được,
nhân tiện chúng tôi mời cô bữa cơm thân mật luôn, nhà hàng Bắc Kinh được không?
à đúng rồi, cô có ngoại tệ ở đây không? Đổi trước cho tôi một ít với, ăn cơm ở
đó thì nhân dân tệ không có đất dùng rồi"
Lúc tôi đưa Shirley Dương
về đến Phan Gia Viễn, Tuyền béo và Răng Vàng vừa thực hiện xong phi vụ buôn bán
với một nhóm người nước ngoài, thanh lý đi năm sáu lô hàng tồn, dạo gần đây
việc buôn bán quả không tồi, nếu cứ tiếp tục thế này, có lẽ mấy hôm nữa, chúng
tôi lại phải đi Thiểm Tây đánh hàng một chuyến cũng nên.
Tôi bảo Tuyền béo và Răng
Vàng mau thu dọn, tất cả đám kéo nhau đến nhà hàng Bắc Kinh, vừa ăn tôi vừa kể
qua câu chuyện của Shirley Dương, rồi nói quyết định sẽ giúp cô tìm lại Mộc
Trần châu.
Nghe xong, Răng Vàngnói:
"Anh Nhất, tôi nói điều này không phải thì anh bỏ quá, các anh không đi
còn có cơ may sống thêm mấy năm, việc buôn bán của chúng ta hiện nay đang rất
thuận lợi, không đến mức phải bỏ nhà bỏ nghiệp đi đổ đấu, vào trong cổ mộ thế
nào cũng gặp phải bánh tông chứ chẳng đùa đâu"
Tuyền béo nói với Răng
Vàng: " Anh Răng Vàng ạ, cái đầu này nhất định phải đổ, chúng ta phải vác
về vài món minh khí làm vốn, có như vậy mới đủ sức tính chuyện buôn bán sau
này, để những khách hàng lớn không dám khinh thường chúng ta. Anh cứ yên tâm
đi, gân cốt ông anh lỏng lẻo, không chịu nổi vất vả, thì bọn tôi cũng bắt ông
anh phải đi đổ đấu làm gì. Ông anh cũng không cần lo lắng cho bọn tôi, nếu như
có gặp phải bánh tông, thì thằng béo này sẽ thay mặt nhân dân xử bắn nó ngay"
Tôi bắt trước giọng Tứ
Xuyên của mấy vị lãnh đạo nói với Răng Vàng: " Đúng thế, bớ Răng Vàng, mi
đừng lo giậu đổ bìm leo, đừng tính toán đâu được đâu mất đi ta, hôm nay chúng
ta sở dĩ từ bỏ mảnh đất này, chính là vì muốn giữ cho mảnh đất này tồn tại lâu
dài hơn"
Răng Vàng nghe vậy, nhe
chiếc răng vàng long lánh trong miệng ra, nói với chúng tôi: " Được tôi
đây coi như phục hai anh sát đất rồi, dám làm dám chịu, trọng tình nghĩa mà coi
nhẹ sinh tử, đúng là bậc đại trượng phu? Thật ra cũng không chỉ mình tôi, bây
giờ khắp khu Phan Gia Viễn này khi nhắc đến hai vị, có ai không dựng ngón tay
cái lên đâu, mọi người đều biết hai vị là anh hung hảo hán nỏi tiếng ở Phan Gia
Viễn chuyên bán hàng béo bở, thường xuyên trốn thuế, chỉ nhận vào mà không cho
ra, có qua mà không có lại"
Tuyền béo vừa ăn vừa xoa
ngang bàn chân, nghe Răng Vàng không ngớt lời khen ngợi chúng tôi, cũng gật đầu
lia lịa, nhưng nghe đến đoạn cuối cảm giác có gì đó không đúng, liền hỏi ngay:
" Răng Vàng, ông đang khen bọn tôi hay chửi bọn tôi đấy? Sao tôi nghe cứ
không lọt tai thế nào ấy nhỉ? "
Răng Vàng cuống quýt đáp
lời Tuyền béo: " Ngư huynh nào dám có ý đó... "
Tôi thấy Shirley Dương ngồi
bên cạnh cúi đầu lặng thinh, vẻ lo âu tiều tụy hiện rõ trên nét mặt, tôi biết
cô đang rất lo lắng cho sự an nguy của giáo sư Trần, cảm thấy tôi, Tuyền béo và
Răng Vàng tụ lại một chỗ là không nới được chuyện gì tử tế, cứ nói được một lúc
là y như rằng lạc đề, cho nên tôi vội nói với Răng Vàng và Tuyền béo: "
Thôi thôi, chúing ta cũng nên bàn vào chuyện chính đi. Tôi sắp xếp cho mọi
người nhiệm vụ trong mấy ngày tới như sau. Trước tiên xin nhắc nhở đồng chí
Vương Khải Tuyền, đây là nhà hàng cao cấp, đề nghị đồng chí khi ăn uống cũng
phải giữ ý tứ một chút, không được vừa ăn vừa xoa chân, chẳng ra thể thống gì
cả... "
Tuyền béo thản nhiên nói:
" Xoa chân khí huyết mới lưu thông, lòng mới khoan khoái, ông cụ nhà tôi
năm xưa rất khoái vừa xoa chân vừa ăn cơm hút thuốc, đây là một truyền thống vẻ
vang được nuôi dưỡng trong thời kỳ cách mạng, ngày nay đất nước đã đi vào giai
đoạn cải cách, chúng ta lại càng phải phát huy truyền thống này, để cho đôi
chân được giải phóng triệt để"
Tôi nói với Tuyền béo:
" Thế đồng chí không cảm thấy ở đây có bạn bè Mỹ sao? Đương lúc ngoại
giao, mẹ kiếp, tôi cũng thật chán nhắc nhở cậu rồi, cậu đúng là không có chút
tưu chất làm lãnh đạo được"
Shirley Dương thấy tôi
luyên thuyên một hồi vẫn chưa đi vào vẫn đề chính, hơi cau đôi mày, đá nhẹ vào
chân tôi dưới gầm bàn, lúc này tôi mới nhớ ra mình lại lạc đề tiếp, liền bảo
Tuyền béo và Răng Vàng im lặng, cùng bàn với Shirley Dương một lúc, xem làm
cách nào mới có tìm ra được Mộc trần châu.
Đừng xem thường Tuyền béo ngày
thường cứ ngơ ngơ lơ đãng chẳng để tâm đến chuyện gì, giờ khi vừa nhắc đến
chuyện đi tìm minh khí châu báu, hắn còn hăng hái hơn tôi gấp trăm lần. Đương
nhiên cũng chẳng thể trách hắn, biết là sắp kiếm ra tiền, đã là đi đổ đấu, bất
kể có tìm ra Mộc trần châu hay không, thì những đồ tùy táng có giá trị liên
thành trong minh điện thế nào chẳng có, thế nên bây giờ Tuyền béo đã thực sự
nghiêm túc trở lại.
Răng Vàng thì càng phấn
khởi hơn nữa, mặc dù không cần đến y đi đổ đấu, nhưng chỉ cần có tham gia vào, thì
minh khí tòm về không thể thiếu phần của y. Tôi kéo Răng Vàng nhập bọn, cũng là
vì y có mối quan hệ rộng, tai mắt phủ khắp giới chợ đen, gần như không có gì là
không kiếm được, việc tìm mua những trang thiết bị dùng khi đổ đấu, không thiếu
được sự giúp sức của ý.
Bốn người bàn bạc trao đổi
cả buổi, sau cùng đi đến quyết định, muốn tìm Mộc trần châu, thì phải bắt đầu
từ miếng long cốt khắc thiên thư. Điều cần làm lúc này là cầm bản in rập đến
Thiểm Tây tìm giáo sư Tôn, có chết cũng phải moi được thông tin về nội dung
được ghi chép trên đó.
Kế hoạch sẽ là, đến thành
Cổ Lam càng nhanh càng tốt, tôi và Shirley Dương ngày mai sẽ lập tức hành động,
nhất định phải tra cho rõ ràng nội dung trên miếng long cốt mang từ Thông Thiên
Đại Phật tự về. Còn Tuyền béo mắc chứng sợ độ cao, không đi được máy bay nên
cho ở lại cùng Răng Vàng mua sắm thiết bị.
Shirley Dương tặng lại tôi
chiếc bùa Mô kim mà Liễu TRần trưởng lão đã để lại. Tôi thích thú ra mặt,
chuyến này đổ đấu trong lòng cũng thấy yên tâm hơn nhiều, không những thế ba
chúng tôi bây giờ, mỗi người đều có một lá bùa Mô kim chính hiệu, thật đúng là
ý trời, muốn ba chúng tôi đồng tâm hiệp lực, cùng đi đổ đấu đây.
Ngoài ra Shirley Dương còn
mang theo vô số những máy móc các Mô Kim Hiệu úy thường dùng khi đổ đấu mà ông
ngoại để lại, bao gồm ô kim cang, dây buộc xác, thám âm chảo, xẻng Tuyền phong,
khói tầm long, gói phong vân, hương nhuyễn thể, găng tay mò xác, hắc địa huyền
châu, gương âm dương, đấu mực, đinh gỗ đào, hắc chiết tử, giày thủy hóa... còn
có cả phương thuốc mật truyền do phái Mô Kim Hiệu úy chế ra nữa.
Đối với chúng tôi, những
thiết bị các các Mô Kim Hiệu úy dựa vào hàng trăm nghìn năm kinh nghiệm và kỹ
thuật chế tạo ra đều là những báu vật vô giá, có những thứ chúng tôi chỉ được
nghe nói đến chứ chưa từng một lần được thấy tận mắt.
Có những công cụ truyền
thống này, cộng thêm những thiết bị mà chúng tôi vẫn thường sử dụng mà Răng
Vàng và Tuyền béo đang chuẩn bị, như xẻng xông binh, đen pin, là bàn chuyên
dụng, dao găm, đồng hồ chịu nước, mặt nạ phòng độc, diêm chống nước, mũ leo
núi, đèn pin đội đầu, pháo hoa pháo sáng, cồn khô, túi ngủ, bình lọc nước, kính
viễn vọng, nhiệt kế, áp kế, hộp cấp cứu, các loại dây thừng, chốt an toàn...
thì bất kể đi đâu, cũngc ó thể ứng phó kịp thời. Nếu rơi vào những tình huống
đặc biệt, cần phải có những trang thiết bị đặc biệt, chúng tôi sẽ bổ sung sau.
Xẻng công binh, tốt nhất là
tìm xẻng chuyên dụng của quân đội Đức trên địa hình đồi núi trong thế chiến thứ
hai mà chúng tôi vẫn hay dùng trước đây, nếu như không có thì có thể thay thế
bằng loại của lục quân Mỹ cũng được.
Về dao găm thì chỉ dùng
hàng của Liên Xô, chúng tôi đều đã dùng rất quen tay dao găm của Nga sản xuất,
vì các loại dao găm đều có tính năng và kiểu dáng khác nhau, nếu dùng để cắt đồ
và phòng thân lúc cận chiến, thì loại dao găm chuyên dụng dùng cho lính nhảy dù
106 của Liên Xô là tiện lợi nhất.
Có những thiết bị vừa là
công cụ vừa là vũ khí như thế này thì cũng không cần đến súng đạn, chỉ có điều
những bài học trước đây đã dạy cho chúng tôi một điều, thất bại thường bắt
nguồn từ việc khinh địch. Trong nghề đổ đấu, kinh nghiệm quan trọng hơn nhiều
so với trang thiết bị vũ khí, nếu không có đủ kinh nghiệm và sự mưu trí dũng
cảm, thì cho dù trang thiết bị có đày đủ đến đâu, cũng có thể mất mạng như
chơi. Từ Dã Nhân Câu ở Hắc Phong Khẩu đến thành cô Tinh Tuyệt trên sa mạc, rồi
lại mộ lồng trong mộ ở Mê động Long Lĩnh, tuy ngôi mộ ở Dã Nhân Câu chỉ là ngôi
mộ của một vị tướng quân bại trận, chuyến đi đến thành cổ Tinh Tuyệt có người
của đội khảo cổ đi cùng nên cũng không thể coi là đi đổ đấu, mộ trong dãy Long
Lĩnh lại là ngôi mộ rỗng, nhưng sự trải nghiệm sau hai lần thâm nhập vào các
ngôi mộ cổ đó có thể coi là những kinh nghiệm vô cùng đáng quý.
Cổ mộ quy mô lớn được coi
như biểu tượng kiến thức đời người của tầng lớp có nhiều đặc quyền trong xã hội
cổ đại, đối với người xưa, nó mang một ý nghĩa hết sức đặc biệt. Trong những
lăng mộ này ngoài quan đồng quách sắt ra, người ta còn trữ nước tích cát, bố
trí cạm bẫy khắp nơi, càng có vô số những hiểm nguy m,à không lường trước được,
cho nên trước đo cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng, cố gắng tính toán tất cả những khả
năng có thể xảy ra.
Sau khi tính toán xong xuôi
mọi việc, cả nhóm rút về nghỉ ngơi. Sáng hôm sau chúng tôi chia nhau ra hành
động, Tôi và Shirley Dương đáp chuyến bay đi Tây An, sau đó bắt xe đến chỗ đoàn
khảo cổ của giáo sư Tôn ở huyện Cổ Lam, nhưng ở Cổ Lam lại xảy ra một việc mà
chúng tôi không liệu trước, giáo sư Tôn đã rời khỏi nhà nghỉ của huyện.
Giáo sư Tôn thường xuyên
đóng quân ở Cổ Lam, phụ trách việc thu thập cổ vật có liên quan tới văn tự
cổ,nếu ông không ở huyện thành, thì chắc chắn đã về nông thôn công tác, muốn tìm
cũng không dễ chút nào, thật không ngờ bước đầu tiên trong kế hoạch đã không
thuận lợi rồi.
Chương 31: Thạch
Bí Điếm
Ô ng Lưu nói với chúng tôi nhóm của giáo sư Tôn cũng vừa mới đi Thạch
Bi Điếm độ nửa ngày, nơi đó cách thành Cổ Lam không xa, chỉ tội đường đi ngoắt
ngoéo, ai chưa từng đến đó thì cũng khó có thể tìm ra được, ông đề nghị tìm
giúp một người có thể đưa chúng tôi đi, rồi gọi một thằng bé độ chừng mười tuổi
đang chơi trên phố, thằng bé là cháu ngoại ông, bình thường sống cùng bố mẹ ở
Hà Nam, mỗi năm đều đến Cổ Lam nghỉ hè. Thạch Bi Điếm rất gần thành Cổ Lam,
thằng bé thường hay đến đó chơi.
Ông Lưu cất tiếng gọi thằng
cháu : " Nhị Tiểu, đừng nghịch nữa, mau lại đây dẫn cô chú đến Thạch Bi
Điếm, cô chú muốn tìm giáo sư Tôn trong đoàn khảo cổ".
Nhị Tiểu để kiểu đầu quả
dưa, thò lò mũi xanh, có lẽ nó mới vật lộn với lũ bạn xong, nên khắp mình mẩy
toàn đất, thấy ông ngoại giao nhiệm vụ dẫn đường cho chúng tôi, liền đưa tôi và
Shirley Dương đi Thạch Bi Điếm.
Đường đi đến Thạch Bí Điếm
quả rất ngoằn ngoèo lắt léo, cả đoạn đường toàn ngã ré gấp khúc. Nhị Tiểu nói
với chúng tôi rằng, đoạn đường vốn đi không xa, chỉ mỗi tội hơi khó đi, vượt
qua được cái dốc cao nhất phía trước là đến nơi,
Shirley Dương thấy đứa trẻ
lem luốc bẩn thỉu thì không chịu nổi, liền rút khăn tay ra lau nước mũi cho nó,
vừa dịu dàng hỏi : " Cháu tên Nhị Tiểu phải không? Vậy họ cháu là gì? "
Tiểu Nhị lấy tay quệt mũi
nói : " Cháu tên là Nhị Tiểu, họ Vương, Vương Nhị Tiểu"
Tôi nghe tên thằng bé rất
có ý nghĩa, liền trêu nó : " Cháu tên Vương Nhị Tiểu? Vậy chắc cháu không
coi hai ta là giặc Nhật, dẫn vào vòng mai phục đấy chứ? "
Thằng bé ngơ ngác hỏi tôi :
" Chú ơi, vòng mai phục là gì thế ạ? à, mà cô kia là gì của chú thế? Sao
cô ấy xinh thế? "
Tôi đưa mắt liếc trộm
Shirley Dương đang đi phía đằng sau, liền thầm thì với thằng bé : " Xinh
đẹp cái gì? Thằng nhóc này, còn bé mà đã học đâu mấy thói hư tật xấu đó rồi? Cô
ấy là vợ chú, khó tính lắm đấy, ngoài chú ra không cho ai nhờn đâu, tốt nhất là
cháu đừng chọc giận cô ấy nhé".
Shirley Dương đi đằng sau,
mặc dù tôi nói rất nhỏ, vẫn bị cô nàng nghe thấy nửa câu cuối, liền hỏi :
"Anh vừa bảo ai đừng chọc giận ai cơ? "
Tôi vội vỗ vỗ đầu thằng Nhị
Tiểu, rồi quay lại nói với Shirley Dương : " Tôi đang nói thằng quỷ này
này, bướng không chịu nổi, mới tí tuổi ranh đã biết cách khen gái đẹp rồi. Bọn
trẻ bây giờ, thật hết chỗ nói, chẳng được mấy đứa như tôi hồi nhỏ, ngay từ nhỏ
lòng đã ôm chí lớn, bụng đã có mưu hay ..."
Tôi chưa nói dứt câu, thì
từ phía đằng sau con dốc xuất hiện một gã đàn ông vạm vỡ đầu buộc khăn lông cừu
trắng, trên hông có thắt một sợi dây da, lăm lăm cây gậy trong tay quát chúng
tôi : " Đứng lại, gái gú gì ở đây? Chúng bay có phải người Nhật không? "
Tôi bị tay nông dân làm cho
giật thót mình, mặc dù đây là một hẻm núi, nhưng đang giữa thanh thiên bạch
nhật thế này mà vẫn có bọn sơn tặc xuất hiện cướp bóc sao? Tôi vội tiến lên
đứng chắn trước mặt Shirley Dương và Nhị Tiểu, nói với gã đàn ông : " Ông
bạn, đừng hiểu nhầm chúng tôi, đều là người một nhà cả, chúng tôi không phải
quân Nhật, chúng tôi là đội công tác vũ trang của bát lộ quân".
Người đàn ông đầu quấn khăn
lông cừu trắng nhìn kỹ ba chúng tôi một lượt từ trên xuống dưới : " Bát lộ
quân nào? Ta nom chúng bay không phải người tốt". Nói rồi vung gậy xua
chúng tôi, bảo ở đây đã bị dân binh giới nghiêm rồi, người ngoài không được vào.
Tôi nghĩ thầm thời buổi hòa
bình không chiến tranh thì giới nghiêm cái nỗi gì, hơn nữa tôi cũng chưa bao
giờ nghe thấy có chuyện dân binh cầm gậy gỗ giới nghiêm cả, thằng ôn này chẳng
lẽ điên rồi chắc. Nghĩ vậy tôi liền xắn tay áo, định giằng lấy cây gậy trên tay
hắn ta, đề phòng gã nông phu lỗ mãng này có thể gây thương tích cho chúng tôi.
Tôi đang định ra tay, nào
ngờ gã nông dân tự xưng là tổ trưởng tổ dân binh Thạch Bí Điếm lại quen Nhị
Tiểu. Thì ra Nhị Tiểu thường đến chơi với con trai anh ta, như vậy thì đôi bên
không cần động tay, bình tĩnh đứng lại nói chuyện.
Tay đội trưởng đội dân binh
nói năng thô lỗ, giọng địa phương lại rất nặng, lải nhải cả ngày trời, tôi mới
hiểu được đại khái sự việc.
Thì ra cái tên Thạch Bí
Điếm bắt nguồn từ một tấm bia không tên ở gần đây. Tấm bia đá hết sức cao lớn,
lừng lững giữa trời, cũng chẳng ai biết nó là di vật từ thời nào triều nào,
trải qua không biết bao nhiêu mưa nắng, đến nay những chữ viết khắc bên trên đã
bị bào mòn đến độ không còn nhận ra hình dạng gì nữa.
Nhắc đến Thạch Bí Điếm, thì
điều nổi tiếng nhất lại không nằm ở tấm bia đá, mà phải nói đến một tiệm bán
quan tài lâu đời ở trong thôn, những vùng lân cận trong vòng mười dặm đổ lại,
bao gồm cả thành Cổ Lam, chỉ có duy nhất một tiệm đóng quan tài này, nguyên
nhân cũng bởi việc buôn bán của những nơi đóng quan tài khác đều không bằng
được ở đây.
Đồn rằng tiệm bán quan tài
lâu đời này, từ ngày xửa ngày xưa chủ tiệm là một thợ mộc tay nghề cao, hồi mới
mở hàng là một xưởng mộc.
Một lần ông thợ mộc nhận
đóng một cỗ quan tài cho một gia đình nọ, quan tài vừa hoàn thành còn chưa kịp
quét sơn, theo quy tắc phải quét lên cỗ quan tài 18 đường sơn đỏ, được ông đặt
trong xưởng mộc.
Buổi tối, ông thợ mộc ngồi
trong trung đường uống rượu, sau khi nhâm nhi vài chén, ông nghĩ đến công việc
làm ăn ngày một sa sút, nửa tháng trời rồi mới có được một người khách, trong
lòng buồn chán, bất giác đưa tay lên vỗ vỗ quan tài mà thở vắn than dài, hơi
men ngà ngà, trong vô thúc ông thợ mộc chui vào chiếc quan tài ngủ lúc nào
không hay.
Đêm hôm đó ông thợ mộc nằm
mơ, ông mơ thấy từ trong quan tài tỏa ra một luồng khí lạnh khiến cho toàn bộ
cơ thể ông run lên cầm cập, giống như bị rơi vào trong động băng. Đột nhiên có
tiếng gõ cửa gấp gáp khiến ông choàng tỉnh giấc, mở cửa ra xem, thì ra là một
người dân cùng thôn, gia đình anh ta có người vừa mới qua đời, nên vội đến
xưởng mộc của ông đặt đóng quan tài .
Thật hiếm có dịp công việc
trước chưa hoàn thành đơn đặt hàng mới đã đến, trong lòng ông tuy vui mừng khôn
tả, nhưng không dám để lộ ra ngoài, dù sao thì công việc này cũng là giúp người
ta đóng quan tài cho người thân vừa mất, gương mặt chí ít cũng phải biểu lộ sự
đau xót cảm thông. Để biểu lộ sự thương cảm với gia cảnh của người khách, ông
thợ mộc lại thuận tay vỗ nhẹ lên cỗ quan tài còn đang dang dở, sau đó nhận tiền
đặt cọc, và bắt đầu bận rộn với công việc.
Ngày mới vừa bắt đầu, ông
thợ mộc đang bận bịu với công việc, đột nhiên lại có khách đến đặt đóng quan
tài, chuyện này thật kỳ lạ, thôn này mỗi năm nhiều nhất cũng chỉ chết độ chục
người, trong một khoảng thời gian ngắn ngủn mà đã có những hai người vừa mới
qua đời là sao?
Ông thợ mộc càng nghĩ càng
thấy có gì không ổn, nhớ lại giấc mơ đêm hôm trước, lẽ nào những người này qua
đời đều là do ông đã đập tay lên chiếc quan tài kia? Do đó ông lại thử đập tay
lên cỗ quan tài kia một lần nữa, mới chưa tối quả nhiên lại có thêm một người
nữa vừa mới chết.
Ông thợ mộc vừa ngạc nhiên
vừa vui mừng, ngạc nhiên vì rốt cuộc không biết đã xảy ra chuyện gì, tại sao
chỉ cần đập tay lên quan tài là quang vùng lại có một người chết đi, còn vui
mừng là vì từ nay ông không phải lo việc làm ăn ế ẩm nữa rồi. Ông thợ mộc vốn
là kẻ nghèo kiết xác, cho nên lúc này không còn để ý gì đến tính mạng của người
khác nữa, lẽ nào chỉ vì những người dưng nước lã này mà bỏ đi cơ hội làm giàu
sao? Đương nhiên là ông không từ bỏ, mỗi khi thấy công việc nhiều quá làm không
nổi, ông đến những tiệm bán quan tài khác mua mấy cỗ quan tài đóng sẵn về bán.
Từ đó trở đi xưởng mộc của
ông chuyển sang xưởng đóng quan tài, không những vậy ông còn phát hiện ra một
bí mật, khi ông đập tay lên cỗ quan tài vẫn còn dang dở, càng đập mạnh bao
nhiêu, thì nơi có người chết càng cách xa bấy nhiêu. Tiền kiếm được từ người
chết quả là quá dễ dàng, ông càng kiếm tiền càng nhiều, bụng dạ lại càng trở
nên đen tối, ông thôn tính những tiệm đóng quan tài lân cận, chỉ cần vỗ hai
phát lên cỗ quan tài bán thành phẩm ở đó, có thể ngồi chờ đếm tiền.
Nhưng ông cũng không dám
đập liên tiếp, ai mà biết được có chuyện gì đang xảy ra ở đây.
Bí mật này ông cũng không
bao giờ tiết lộ ra bên ngoài, nhưng rồi cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra,
bí mật trong cửa hàng đóng quan tài của ông vẫn bị mọi người phát hiện, nhưng
những sự việc đồn thổi này rất khó giải thích rõ ràng, lại không hề có căn cứ,
cho nên cũng không thể kiện được ông, chỉ có điều mọi người trong làng hễ thấy
mặt ông là tránh như tránh bệnh dịch, lúc thường chẳng ai dám lại gần, cho nên
ông thợ mộc đến già cũng không cưới được một cô gái nào làm vợ.
Cách đây không lâu người
thợ mộc học trò, ông chủ hiện nay của xưởng đóng quan tài, đã chết trong chính
nhà của mình, khi mọi người phát hiện ra ông ta thì thi thể đang trong giai
đoạn phân hủy, mùi hôi thối bốc ra nồng nặc. Quanh vùng chỉ có duy nhất một
tiệm đóng quan tài này, quan tài trong cửa tiệm đã bán hết sạch, chỉ còn sót
lại cỗ quan tài dang dở đặt trong xưởng. Người trong làng bỗng nhớ lại những
chuyện đồn thổi từ ngày trước, trong lòng cảm thấy thấp thỏm không yên, nhưng
lãnh đạo thôn không thể để sự việc như thế không quản, dù sao cũng không thể để
xác ông ta thối rữa ở trong nhà được, thời tiết lại đang trong giai đoạn nắng
nóng oi bức, xác chết phân hủy nhỡ gây nên dịch bệnh thì hậu quả khôn lường.
Mặc dù thời đó bắt đầu thi hành các hình thức hỏa táng, nhưng quan niệm mộ táng
đã ăn sâu vào trong tâm khảm của người nông dân, trưởng thôn liền triệu tập
những dân binh gan dạ, dùng bao vải gói xác chết lại chuẩn bị đặt vào bên trong
cỗ quan tài dang dở đem đi mai táng.
Nhưng không ngờ vừa mới dời
quan tài đi thì phát hiện nền đất phía dưới cỗ quan tài có một vết nứt dài sâu
hoắm, áp tay lên trên, cảm nhận thấy có luồng gió lạnh đang thổi ra, bên dưới
hình như là một hang động lớn. Một số người tò mò đã cậy lớp gạch ở chỗ vết nứt
lên, phát hiện thấy bên dưới quả nhiên có một hang động, khí lạnh phả ra không
ngừng.
Tay đội trưởng đội dân binh
lấy can đảm tình nguyện xuống bên dưới thám thính, nói mọi người kiếm sọt để gã
ngồi vào đó dùng dây thả xuống dưới, chưa được bao lâu gã đã cuống cuồng giật
sợi dây để người ta kéo lên. Gã sợ suýt són đái ra quần, kể lại rằng phía bên
dưới được lát toàn bằng những phiến đá xanh dài, và có một chiếc giường đá, bên
trên bày một chiếc hộp đá vuông vắn, hộp đá này không lớn, hơi dẹt và phẳng, bề
mặt khắc rất nhiều ký tự kỳ lạ. Đội trưởng đội dân binh nhanh tay cầm chiếc hộp
đó mang lên.
Mọi người mở hộp đá ra, thì
thấy bên trong có một viên ngọc hình muông thú màu đỏ như máu, không rõ tên gọi
là gì. Theo như lời tay đội trưởng kể lại, hang động dưới lòng đất đó hình như
vẫn còn một tầng nữa, nhưng rất thâm sâu u tối, bản thân gã cũng không dám
xuống xem.
Do cán bộ thôn cũng có mặt
ở hiện trường, sự giác ngộ của người dân được thể hiện rất cao, mọi người lập
tức báo cho đội công tác khảo cổ ở thành Cổ Lam, giáo sư Tôn sau khi biết tin,
hiểu ngay phát hiện này có thể là một sự kiện trọng đại, không chần chừ một
giây, ông vội đưa người lên đường đến hiện trường.
Ở những miền thôn quê thế
này, cả năm trời cũng chẳng có việc gì lớn xảy ra, cho nên có tin tức gì đều
được truyền đi rất nhanh, ngay đến người ở trên huyện cũng mò xuống hóng
chuyện. Để giữ trật tự chung, giáo sư Tôn đề nghị dân binh trong thôn ngăn cản
những người dân vùng khác đến xem, không cho bọn họ vào bên trong, bởi phạm vi
và quy mô cũng như bối cảnh của hang động đều chưa được điều tra rõ ràng, nhỡ
bị người ngoài phá hỏng, thì tổn thất đó khó có gì bù đắp được.
Thế nên tay đội trưởng đội
dân binh mới giơ lông gà làm hiệu lệnh, sai người canh ở khắp các lối vào,
tuyên bố bản thôn đang trong tình trạng giới nghiêm, vì thế mới chặn tôi và
Shirley Dương lại tra hỏi.
Nghe giọng điệu của con
người này, tôi hiểu đối với hạng người tiểu nông như gã ta, không được quá cứng
nhắc, bèn dùng lời lẽ ngon ngọt khen ngợi gã, sau đó giải thích : " Đồng
chí đội trưởng này, chúng tôi đều là người quen biết của giáo sư Tôn, vì có
việc gấp nên mới đến tìm ông ấy, đồng chí xem xét rồi cho chúng tôi qua đi".
Nói đoạn tôi rút tờ năm tệ nhét vào tay viên đội trưởng.
Viên đội trưởng đội dân
binh cầm tiền, nhưng chưa kịp nhìn xem tờ tiền mệnh giá bao nhiêu, thì bỗng có
một người từ trong thôn chạy ra, nói ông cán bộ già dẫn đầu đoàn khảo cổ đã
chết.
Chương 32: Quẻ
bói của lão mù
N gười nông dân chạy đến thông báo tình hình cho đội trưởng nói ông
cán bộ già trong đội khảo cổ đã chết, tôi và Shirley Dương nghe mà như sấm nổ
bên tai, ông cán bộ già kia chỉ sợ không phải ai khác, mà quá nửa chính là giáo
sư Tôn chúng tôi đang muốn tìm, ông ta mà chết, thì đại sự của chúng tôi coi
như đi tong. Tại sao sớm không chết, muộn không chết, mà lại chết ngay lúc quan
trọng nhất thế này cơ chứ.
Nghe người nông dân tiếp
tục báo cáo lại tình hình, thì ra đội khảo cổ lần này chỉ có hai người đến, họ nhờ
dân làng dùng sọt đưa xuống hang động bên dưới xưởng đóng quan tài xem dưới đó
rốt cuộc có thứ gì, hai người xuống dưới đã hơn một tiếng đồng hồ, có hét gọi
thế nào cũng không thấy động tĩnh gì. Trưởng thôn lo bọn họ gặp phải chuyện gì,
định cho một vài người gan dạ xuống tìm kiếm nhưng mọi người đều sợ đến bủn rủn
chân tay, liên tưởng đến truyền thuyết về xưởng đóng quan tài, nhất thời e sợ,
đều hết sức hoang mang, chẳng người nào chịu xuống đó tìm chết cả, lại còn kháo
nhau cái hang này mười phần chắc tám là thông xuống âm tào địa phủ, xuống dưới
đó rồi thì đừng hòng mà lên được.
Chỉ có duy nhất đội trưởng
đội dân binh, chính là gã đàn ông cao to lực lưỡng này, đã từng xuống dưới đó
một lần, không còn cách nào khác, trưởng thôn đành cử người đi tìm gã quay về
giúp một tay.
Đội trưởng đội dân binh lần
trước xuống dưới ấy, chẳng qua cũng chỉ là liều giả hảo hán một phen, giờ nhớ
lại cái hang động lạnh lẽo tăm tối đó, đang đứng dưới trời nắng chang chang mà
toàn thân gã vẫn run lên cầm cập. Bây giờ trưởng thôn sai người đến gọi, nói
không chừng là định bảo gã xuống đó một chuyến nữa, nghĩ đến đây, tay đội
trưởng bỗng giật thót mình, thầm than thân trách phận, định quay người bước đi,
nhưng thế nào cũng nhấc không nổi chân lên.
Shirley Dương thấy đây là
một cơ hội, bèn đưa mắt ra hiệu với tôi, tôi thầm hiểu ý, đằng nào giáo sư Tôn
cũng ở trong hang động ấy, sống chết không rõ thế nào, chúng tôi sống gặp
người, chết nhìn xác, cần phải mạo hiểm xuống dưới đó cứu ông ta lên, chứ không
chỗ này hoang sơ hẻo lánh, đợi được người khác đến cứu thì ông ta khẳng định đã
toi đời rồi.
Thế nên tôi vội kéo tay đội
trưởng lại nói : " Đồng chí đội trưởng, thì ra người anh hùng đầu tiên
xuống dưới hang động chính là anh! Hành động quả cảm đó, chỉ có những bậc phi
thường mới làm được, có thể được bắt tay đồng chí quả là một vinh dự lớn đối
với tôi".
Tay đội trưởng tuy thô
kệch, nhưng lại hết sức háo danh, nếu không gã đã không giở cái trò giới nghiêm
ra làm gì, thấy tôi không tiếc lời khen ngợi như vậy, trong lòng lấy làm phấn khởi
vô cùng.
Rèn sắt phải nhân lúc còn
nóng, tôi thừa cơ nói tiếp : " Tôi cũng biết cái loại hang ngầm đó rồi, dù
đồng chí là hảo hán thân thể rèn từ sắt thép mà ở trong hang lâu cũng không
chịu nổi khí lạnh âm hàn bên trong ấy đâu. Mà đồng chí đã xuống hang ngầm đó
thám hiểm một lần rồi, vả lại chúng tôi và giáo sư Tôn trong đội khảo cổ, chính
là cái ông già còng lưng sắp hói hết cả đầu ấy, vốn là chỗ thân quen, vậy chi
bằng đồng chí dẫn chúng tôi qua bên đó, tôi thay đồng chí xuống dưới một
chuyến. Đương nhiên việc làm này của chúng tôi, một là muốn cứu người bạn cũ,
hai cũng là muốn học hỏi tấm gương anh hùng của đồng chí, mà không chỉ có mình
tôi cần học hỏi đồng chí đâu, tôi còn phải tuyên truyền cho nhân dân toàn quốc,
phải mở một cuộc vận động oanh oanh liệt liệt tuyên truyền mọi người học tập
theo tấm gương đồng chí nữa, cho nên giờ đồng chí mau đưa chúng tôi đến xưởng
đóng quan tài trong thôn với".
Tay đội trưởng có vẻ khó
nghĩ : " Người anh em ... tôi thì ...không phải tôi không chịu để người
anh em vào thôn, chỉ có điều tổ chức đã giao trách nhiệm cho chúng tôi, hôm nay
không được để người ngoài vào thôn".
Tôi nghe mà thấy bốc hỏa
trong lòng, mả mẹ cái thằng thân lừa ưa nặng này, đã cho tiền gói lại nói ngon
ngọt rồi mà vẫn không cho ông vào, thế thì ông đây cũng không khách sáo nữa.
Tôi tóm lấy cây gậy của tay đội trưởng, vênh mặt lên nói với gã : " Anh có
thấy cái cô đứng sau lưng tôi đây không? Cô ấy là đặc phái viên của Mỹ đấy, nói
thật cho anh biết, chúng tôi là người của sở hợp tác Trung Mỹ, nếu anh còn tiếp
tục làm lỡ dở chuyện lớn của chúng tôi, cô ấy sẽ đến làm việc với bộ Ngoại giao
nước ta, để tổ chức cắt luôn cái ghế đội trưởng dân binh của anh đi luôn đấy.
Tôi nói cho anh biết nhé, con bà nó, ít nhiều gì thì anh cũng là cán bộ nhà
nước, mà sao không biết trên dưới gì cả, anh không thấy cô ấy sắp hết kiên nhẫn
rồi sao? Đây cũng là do cô ấy nể mặt tôi thôi đấy nhé. Nếu chẳng phải tôi khâm
phục anh cũng là một trang hảo hán, thì cũng chẳng nói ra những chuyện này làm
gì đâu, rốt cuộc anh có để cho chúng tôi vào hay không đây? "
Tay đội trưởng nghe mà
hoang mang bối rối, mặc dù cũng không hiểu tôi nói thế là có ý gì, nhưng nghe
nói chúng tôi có thể gặp lãnh đạo nào đó cấp trên, để tổ chức xử lý mình, thì
lập tức nhũn ra, vội đồng ý cho chúng tôi vào thôn.
Tôi móc ra hai tệ cho thằng
cháu ngoại ông Lưu, bảo mua kẹo mà ăn, còn dặn nó trên đường đừng có mải chơi,
rồi giục nó mau về nhà.
Tôi và Shirley Dương cũng
không dám chần chừ lâu, vội cùng tay đội trưởng đi vào thôn Thạch Bí Điếm phía
sau con dốc. Vừa vòng qua đoạn dốc, một không gian thoáng đãng liền hiện lên
trong tầm mắt, thì ra thôn Thạch Bí Điếm này nằm ở một bồn địa nhỏ xung quanh
toàn là đồi núi. Nơi đây được ông trời ưu đãi, môi trường địa lý hết sức thuận
lợi, mùa khô đến, các bồn địa nhỏ kiểu này do nguyên nhân khí áp nên không bao
giờ thiếu nước, những khi nước sông Hoàng Hà dâng cao, nơi này được núi non bốn
bề bao bọc, tạo thành một lá chắn tự nhiên, dân số ở thôn Thạch Bí Điếm cũng
không ít, tính sơ sơ ngót nghét năm sáu trăm hộ, đứng từ trên đỉnh dốc nhìn
xuống, toàn cảnh thôn ấp hết sức ngay ngắn đều đặn.
Đi thêm một đoạn không xa,
liền trông thấy trên một sườn núi có dựng tấm bia đá khổng lồ, năm ấy đến thăm
quan bia Vô Tự trên núi Thái Sơn, đã thấy vô cùng to lớn rồi, mà tấm bia ở
Thạch Bí Điếm này không nhỏ hơn bia Vô Tự là mấy. Tự tích khắc trên bia đá đã
bị bào mòn từ lâu, nhìn từ xa trông như một phiến đá to lớn đâm thẳng lên trời,
dưới tấm bia là một bức tượng mãnh thú không đầu, nhìn hình dáng thì có phần
giống con tì hí 1, nhưng tôi cũng chưa dám chắc lắm.
Tôi và Shirley Dương đang
vội đi cứu giáo sư Tôn, giữa đường thấy tấm bia đá kỳ lạ này, không nén nổi đưa
mắt nhìn thêm mấy lượt, nhưng rốt cuộc cũng không thể đoán được lai lịch của
bia đá.
Shirley Dương hỏi tôi :
" Bia này không giống bia mộ lắm, anh nhìn xem quanh đây có thể có cổ mộ
được không? "
Tôi vừa đi vừa nhìn ngắm tứ
phía, hoàn cảnh ở đây quả không tồi, khí hậu ôn hòa, rất thích hợp cho con
người an cư nhưng xung quanh đều là núi non rời rạc, không thành cách cục,
không ra hình ra thế, không giống nơi có cổ mộ lắm, có chăng nữa thì cũng chỉ
là lăng mộ của vương công quý tộc mà thôi. Theo lời tay đội trưởng thì dân làng
đã phát hiện ra một hang động ngầm trong xưởng đóng quan tài, bên trong âm khí
dày đặc, tầng thứ nhất lát nước đá xanh, ở giữa có một chiếc giường đá, bên
dưới lại có một khoảng không khác nữa, đó liệu có thể là nơi thế nào chứ?
Dù gì đi chăng nữa, giờ đây
hy vọng duy nhất của chúng tôi đều gửi gắm cả vào giáo sư Tôn, mà ông ta lại
đang ở trong hang động ấy, không biết sống chết ra sao, nên cho dù nơi đó có là
hang hùm miệng sói đi nữa, tôi nhất định phải nghĩ cách cứu ông ta ra cho được,
nghĩ vậy nên tôi và Shirley Dương đều rảo bước nhanh hơn.
Tay đội trưởng đi trước dẫn
đường, đến xưởng đóng quan tài ở phía Đông thôn thì dừng lại, ở đây ngoài quan
tài, còn bán cả đồ vàng mã, trên cửa có treo tấm biển hiệu cũ kỹ. Trước cửa
tiệm có một đám đông người đang vây quanh nhìn ngó, trong sảnh trước, bốn năm
thanh niên vạm vỡ đứng chặn không để cho người dân vào trong. Thật ra bây giờ
có cho vào xem, cũng chẳng ai dám vào nữa, ai nấy đều nghi thần nghi quỷ, bàn
tán xôn xao, có người nói hang động này thông với long cung dưới sông Hoàng Hà,
kinh động đến không phải là chuyện đùa đâu, mấy bữa nữa Long Vương nổi giận,
nhấn chìm cả ngàn dặm quang vùng chứ chẳng chơi, có người lại bảo hang động này
dẫn xuống âm ty địa ngục, trước khi trời tối mà vẫn chưa lấp lại, thế là quỷ
đói oan hồn dưới âm phủ sẽ từ đây chui ra, gây họa cho nhân gian, còn có một cô
giáo tiểu học trong thôn, nhận định quái đản hơn nữa : " Mấy người không
học thức, hiểu cái gì, chỉ toàn những chuyện mê tín dị đoan đâu đâu, bên dưới
âm u lạnh lẽo như vậy, chắc chắn là thông với Nam Cực, một lúc nữa băng tuyết ở
đầu bên kia địa cầu ập đến đây, nhấn chìm tất cả lũ người mê tín các người
đó".
Mấy vị chức sắc lớn nhỏ
trong thôn đang cuống cuồng chạy qua chạy lại, hai nhà khảo cổ trên tỉnh xuống
vào trong hang ngầm mà không thấy động tĩnh gì, chiếc giỏ kéo lên cũng trống
rỗng, lại chẳng ai dám xuống thăm dò, sau lãnh đạo cấp trên trách xuống, quả
thật khó mà thoát tội.
Mấy người bọn trưởng thôn
đang không biết phải xử lý ra sao, thì thấy đội trưởng quay lại, tay đội trưởng
này là người gan dạ nhất thôn, thôi thì mọi người đều không dám xuống, thì cũng
chỉ còn cách đề nghị đội trưởng xuống trước mở đường vậy.
Tay đội trưởng không để
trưởng thôn kịp mở lời, vội kéo tôi và Shirley Dương đến, giới thiệu hai chúng
tôi là người của Sở hợp tác Trung Mỹ, cũng là nhà khảo cổ, đều là chỗ quen biết
với hai nhà khảo cổ đang bị lạc bên dưới.
Trưởng thôn vội vàng ôm
chặt lấy tôi : " Rất mừng được gặp đồng chí, chúng tôi mong hai vị như
nắng hạn trông mưa, cuối cùng cũng gặp được người tổ chức phái xuống rồi".
Rồi ông bắt đầu kể lể một lô những khó khăn trước mắt, không phải hội đồng nhân
dân thôn không muốn cứu người, chỉ tội dân trong làng đều bị truyền thuyết về
xưởng đóng quan tài làm cho kinh hồn bạt vía hết cả, trong thôn vốn cũng có một
đội dân binh, nhưng từ năm 78 trở đi, biên chế chưa bao giờ đủ người, tính lên
tính xuống cũng chỉ còn lại một đám ô hợp bảy tám người, đều không được đào tạo
chính quy gì, gặp phải tình huống bất ngờ như hôm nay, thật tình là không biết
đối phó ra sao nữa, nếu đồng chí được thượng cấp phái đến đây, vậy thì đội dân
binh xin nghe các vị chỉ đạo.
Tôi đã hiểu rõ ý của trưởng
thôn, ông ta định đổ hết toàn bộ trách nhiệm lên đầu tôi. Bây giờ tôi cũng
không có nhiều thời gian để mà so đo với ông ta làm gì, vội bước vào trong xem
xét hang ngầm bên dưới, gạch dưới sàn nhà đã bị nạy lên gần hết, lộ ra một khe
hở lớn, bên trong tối đen như mực, cũng chẳng biết được là sâu bao nhiêu mét
nữa. Không có trang thiết bị nào trong tay, chỉ dựa vào sức tôi và Shirley
Dương xuống dưới cứu người thì quả thật quá khó khăn, cần phải có người giúp
sức mới được.
Tôi nói với trưởng thôn tìm
một người nhanh nhẹn, chạy lên huyện cầu cứu viện binh, bất kể là công an cũng
được, cảnh vệ cũng xong, cả nhân viên y tế nữa, nói bọn họ đến càng nhanh càng
tốt. Tuy nhiên muốn điều động được các nhân viên cơ quan chức năng ở vùng thôn
quê này phải thỉnh thị qua rất nhiều cấp, cực kỳ phức tạp, hiệu suất làm việc
cực thấp, cũng không thể chỉ trông mong họ đến kịp thời được.
Tôi biết nhóm của giáo sư
Tôn đã xuống dưới đó được khá lâu, nếu thật sự có nguy hiểm gì, quá nửa là đã
thiệt mạng từ lâu rồi, giờ chỉ còn cách cầu xin tổ sư phù hộ rằng bọn họ chỉ bị
lạc bên trong đó thôi, có như vậy chúng tôi muốn xuống dưới cứu người cũng còn
chút hy vọng. Song hấp tấp vội vàng chỉ tổ hỏng việc, lần này không thể hành
động tùy tiện được nữa, bởi vậy càng cần chuẩn bị chu đáo, nếu để xảy ra sự cố
gì thêm, mọi chuyện sẽ phiền phức to.
Sau đó tôi bảo tay đội
trưởng tập hợp đội dân binh lại, kể cả anh ta thì tổng cộng có tám người, ai
nấy đều cầm đuốc và thương Hồng Anh xếp thành một hàng ngang. Tôi đứng trước
mặt họ nói : " Các đồng chí, hai đồng chí của chúng ta đang gặp nạn phía
dưới kia, chút nữa thôi tôi sẽ dẫn các đồng chí xuống dưới đó cứu họ, đề nghị
mọi người hãy nghe theo sự chỉ huy của tôi. Không cần phải lo lắng nhiều, bên
dưới kia chắc chắn không phải âm tào địa phủ, mà chắc là di tích cổ đại gì đấy
thôi. Tôi nhờ các đồng chí đi cứu người, việc này không phải là lao động công
ích, mỗi người sẽ được hưởng một trăm tệ tiền công, cứu được người, mỗi đồng
chí lại được thưởng thêm một trăm tệ nữa, vậy có được không? Các đồng chí có
quyết tâm không? Có dám đi không? "
Đám dân binh ban đầu ai nấy
đều mặt mày ủ dột, không muốn mạo hiểm, nhưng trưởng thôn đã có lời, sao có thể
không nghe cho được, vài người còn đang định giả bộ đau bụng không đi, song sau
khi nghe thấy bảo được thưởng hai trăm tệ tiền công, thì lập tức bừng bừng sinh
khí, ai nấy đều ưỡn ngực ngẩng cao đầu, sắc mặt thay đổi nhanh chóng, nhất tề
đồng thuận.
Tôi thấy đòn tấn công bằng
tiền bạc có hiệu quả, liền bảo cả đám vào kho vũ trang của thôn lấy mấy khẩu
súng trường, rồi nói trưởng thôn chuẩn bị nến và đèn pin, ở nông thôn có một
loại còi làm từ vỏ cây, mỗi người được phát một cái.
Shirley Dương nhắc nhở tôi
: " Hang ngầm này ít nhất cũng có hai tầng trở lên, hơn nữa dưới hai tầng
ấy, không biết lại còn sâu bao nhiêu nữa. Nhóm của giáo sư Tôn có lẽ là muốn
kiểm tra xem tầng bên dưới bị không khí xâm thực làm tổn hại đến mức nào, nên
đã gặp phải một sự cố nào đó. Môi trường dưới lòng đất chịu tác động hóa học và
sinh học của các loại muối, nước, khí thể, vi khuẩn... gặp phải không khí sẽ
gây ra những biến đổi nhanh chóng, rất có hại cho cơ thể người, vậy nên chúng ta
cần dùng khăn ướt bịt mũi bịt miệng lại, đốt đuốc lên nữa, nếu đuốc tắt thì
phải lập tức rời đi ngay".
Tôi gật đầu đồng ý, bảo mọi
người theo lời của Shirley Dương chuẩn bị hành động, để lại ba dân binh bên
trên làm nhiệm vụ kéo dây đưa mọi người xuống, ngoài ra trưởng thôn cùng hội
đồng nhân dân sẽ làm chức trách gác cửa, không nhiệm vụ miễn vào.
Thấy việc chuẩn bị đã tạm
ổn, tôi định xuống trước, bỗng nghe ngoài cửa có âm thanh huyên náo vọng vào,
hóa ra là một lão mù đang cố chen chân vào bên trong. Người này đeo kính tròn
màu đen dành cho người mù, để râu dê, một tay cầm cuốn sách cũ gáy đóng dây
buộc, tay kia chống gậy trúc, hớt hải hỏi đám người trong xưởng quan tài :
" Ai là người chịu trách nhiệm ở đây? Xin mời bước ra nói chuyện".
Tôi bực bội nói với trưởng
thôn : " Không phải là đã dặn không cho người ngoài vào sao? Sao lại để
lão mù này vào được đến đây thế? Mau đuổi ông ta ra ngoài đi các đồng chí, đừng
để mất thêm thời gian nữa".
Lão mù nghe thấy tôi nói
nhận ra phương hướng, liền giơ cây gậy tre đâm tôi một nhát : " Nhóc con
vô lễ ... tha cho ngươi chưa biết lão phu này là ai, bằng không sao dám mở lời
xấc xược, lão phu hôm nay đến đây là để cứu mạng các người đó ..."
Trưởng thôn vội chạy lại
nói với tôi : " Đồng chí Nhất, vị này là thầy bói có tiếng trong huyện ta.
Năm ngoái bà nhà tôi bị hồ ly tinh yểm bùa, may mà nhờ có tiên sinh này mách
bảo mới bảo toàn tính mạng, các đồng chí cứ nghe ông ấy nói đã, chắc chắn không
sai đâu".
Tôi đang nôn nóng trong
lòng, chỉ muốn biết giáo sư Tôn giờ sống chết ra sao, liền mở miệng quát lớn :
"Cút mẹ lão đi, năm xưa đáng lẽ ra phải quét sạch lũ buôn thần bán thánh
này rồi chứ, lão trốn đi đâu hả, giờ lại đột nhiên giả hươu giả vượn, tôi nói
cho lão biết nhé lão mau biến khỏi mắt tôi, đừng ở đây làm cản trở công việc
nữa".
Lão mù nhếch mép hừm một
tiếng, rồi nói : " Lão phu khi xưa ở Giang Tây có gieo cho chủ tịch một
quẻ, hễ có kiếp nạn ấy có lối thoát, hồi ấy hạng ranh con thất đức càn rỡ như
ngươi còn chưa đẻ ra đâu. Lão phu không đành lòng nhìn sinh linh vô tội bị
ngươi liên lụy, nên mới vội vàng đến đây, cho nên tiết lộ cho người biết, hang
động này không phải là chốn thông thường đâu, ta mà nói ra trong đó có thứ gì,
chỉ sợ các ngươi sợ chết khiếp mất thôi".
Tôi không sao nhịn nổi nữa,
thực chỉ muốn tóm cổ lão mù quăng xuống hang ngầm, nhưng thấy lão thầy bói mù
này hình như rất có địa vị trong mắt những người dân nơi đây, nếu tôi ra tay
lúc này, e khó tránh khỏi đắc tội với họ.Đáng ghét nhất là khó khăn lắm tôi mới
dùng được sức mạnh của đồng tiền dỗ ngon dỗ ngọt, xóa bỏ tư tưởng mê tín của
đám dân binh, vậy mà đúng vào lúc này, tự nhiên mọc đâu ra một lão mù ăn nói
linh tinh, làm cả đám dân binh người nào người nấy đều muốn đánh trống thu quân
hết cả.
Tôi tức đỏ mặt tía tai nói
với lão thầy bói mù : " Có gì bên trong hang động này? Ông giỏi thì nói ra
tôi nghe xem? Nếu không làm tôi sợ chết khiếp thì ông biết điều mà tránh ra cho
sớm để chúng tôi còn tiếp tục".
Lão thầy bói mù ngạo nghễ
nói : " Ngươi xem ngươi xem, đây có phải làm việc theo cảm tính hay không?
Dọa chết cái hạng nhãi ranh nhà ngươi, lão phu lại phải đền mạng thì sao, lại
đây, để ta rờ xem tướng mạo ngươi ra sao". Nói đoạn chẳng cần biết tôi có
đồng ý hay không, lão đã đưa tay sờ mó trên mặt tôi luôn.
Lão mù vừa lần mò trên mặt
tôi vừa lẩm bẩm : " Người đời truyền lại phép gieo quẻ, tướng thuật diệu
kỳ khỏi phải khoe, dăm miếng tiền đồng bói vạn sự, thiên cơ thảy ngụ ở ống tre,
rờ xương xem tướng đâu cần nói, biết ngay cao quý hay thấp tè".
Bỗng nhiên lão làm bộ kinh
ngạc thốt lên : " Lạ thay! Phàm người có tướng rắn trùm thất khiếu, ắt có
thân phận chư hầu, xem ra đại nhân ngài dường như là một mệnh quan không nhỏ
trong triều đình..."
Tôi bị lão mù này làm cho
vừa tức vừa buồn cười, tôi bây giờ có thể coi như là hộ kinh doanh cá thể giả
mạo làm cán bộ nhà nước, không hiểu sao lại bị hắn phát hiện ra, lấy ra làm lời
đe dọa. Nhà tôi lấy đâu ra chư hầu cái mẹ gì, nói theo kiểu bây giờ, chư hầu
cũng phải tương đương với đại sứ, ở tỉnh thì cũng là chủ tịch, trong quân đội
ít ra cũng là quân khu trưởng, còn tôi đây cùng lắm mới chỉ làm có đại đội
trưởng thôi, mẹ kiếp đúng là bông cợt láo lếu.
Lại nghe lão thầy bói mù
phán tiếp : " Cậu mà không đi theo con đường quan chức, thì chắc cũng
không có ngày ngóc đầu lên được đâu. Giờ các người muốn xuống hang động kia thì
phải mang lão phu theo, không có sự chỉ bảo của lão phu, dù cho các ngươi có
đứng thẳng đi xuống, sau cùng cũng phải nằm ngang mà bị người khác khuân lên
thôi".
Shirley Dương đứng bên cạnh
lắng nghe từ nãy, giờ mới tiến lại gần lão mù nói : " Có phải ông cho rằng
dưới hang kia có cổ mộ, nên định cùng chúng tôi xuống bên dưới kiếm chác chút
đỉnh, đổ đấu ra vài món minh khí đúng không? Đúng thì bảo đúng, không đúng thì
bảo không đúng, chúng tôi không có thời gian vòng vo cùng ông nữa, ông mà còn
nói những điều vớ vẩn hoang đường, chúng tôi lập tức sẽ đuổi ông đi đó".
Lão mù bị Shirley Dương nói
cho đờ người ra, vội hạ giọng thì thào : " Suỵt ... khẽ mồm thôi, thì ra
cô nương đây cũng là người trong ngành? Nghe cô nói vậy, lẽ nào la Mô kim Hiệu
úy? Lão phu còn tưởng các người là quan chức nữa, xem ra phái Mô kim các ngươi
gần đây lắm nhân tài ra phết nhỉ. Thôi thì đã không phải người ngoài, lão cũng
không giấu gì các ngươi nữa. Hà, năm xưa lão phu cũng là một lực sĩ Xá lĩnh nổi
danh khắp chốn Lưỡng Hồ 2, cũng vì thời trai trẻ đi Vân Nam đổ đấu làm mất đi
đôi mắt, để rồi phải lưu lạc đến chốn thôn quê nghèo nàn hoang vắng này, dựa
vào việc gieo quẻ xem bói mà sống qua ngày, lão đây chỉ là một người già neo đơn,
cho nên ... muốn xuống đó kiếm bát cơm ăn, đổi lấy mấy đồng bạc lẻ, để lúc lão
phu quy tiên, cũng còn chút của nả sắm sửa cỗ quan tài hương hỏa".
Shirley Dương cũng bị lão
mù làm cho dở khóc dở cười, cô đưa mắt nhìn tôi, tôi lắc lắc đầu, kiên quyết
không đồng ý, lão già này ban đầu cố tình nói lời thần bí dọa nạt người khác,
đến cuối hóa ra lại là một kẻ đổ đấu, hang ngầm này không giống như có cổ mộ,
hơn nữa cho dù là có minh khí thì cũng không thể để lão vớ bở như thế được.
Lão mù tuy không nhìn thấy
gì, nhưng tâm tư rất nhạy bén, cũng thấu được ý tứ của tôi và Shirley Dương,
nên vội nói : "Ở đây lão phu có bộ Đả tứ mật địa nhân đồ , nếu hai vị đồng
ý rằng kiến giả hữu phận, chia cho lão một hai món minh khí đổ đấu được, tập
bản đồ này coi như thuộc về hai vị".
Tôi hỏi lão mù : " Thứ
này tôi từng nghe nói rồi, đây là bản đồ địa mạch, do công nghệ chế tạo phức
tạp, nên hình như trên thế gian chỉ có một bộ duy nhất, đã có sách quý như thế,
sao lão không đem đi bán, mà lại mang ra đây đổi chác với chúng tôi? Quá nửa
đây là hàng giả rồi, lão già nghĩ chúng tôi đều ngu chắc? "
Lão mù nói : " Dù gì
thì lão phu cũng là bậc tiền bối, tên tiểu tử nhà ngươi không thể tôn trọng một
chút được hay sao? Cứ một điều lão già hai điều lão già, giữ cái nếp ăn nói bất
kính đó, lẽ nào không sợ người đời chê trách mình là kẻ xấc xược vô lễ sao? Bộ
bản đồ thần bí này cũng là do lão phu năm xưa dùng tính mạng của mình giành
lấy, có điều tự cổ chí kim bí thuật phong thủy đều là những bí mật không lưu
truyền rộng rãi, chỉ trừ Mô kim Hiệu úy chính hiệu thông hiểu thuật tầm long
ra, còn ai đọc hiểu những điều ảo diệu bên trong tập bản đồ này nữa đâu, nếu để
cuốn bảo thư này rơi vào tay người thường, tổ sư không phải sẽ trách lão phu
này cố ý hủy hoại thiên vật sao? Thế nào, có đồng ý hay không, lão phu chờ một
lời của hai vị".
Tôi tính lúc này đã trễ nải
quá lâu rồi, tiếp tục vòng vo với lão mù này thì cũng chẳng có lợi gì, có trấn
an lão trước đã, sau có chuyện gì thì đợi cứu được giáo sư Tôn hẵng tính tiếp,
bèn nói : " Nói lời phải giữ lấy lời, mọi chuyện cứ làm theo ý ông, bên
dưới hang động kia cho dù không có minh khí, thì chúng tôi cũng có thể bỏ tiền
mua lại bộ Đả tử mật địa nhân đồ của ông. Song ông không thể đi cùng chúng tôi
xuống đó, hơn nữa ông cũng nên hợp tác với chúng tôi một chút, hãy nói một vài
điều trấn an những dân binh kia, đừng để bọn họ vì sợ hãi mà không dám xuống
dưới kia, hỏng mất đại sự của chúng tôi".
Lão mù quả nhiên rất hợp
tác, lão lập tức gọi đám dân binh lại, nói với bọn họ : " Hang động này
chẳng phải tầm thường đâu, năm xưa Tần Thủy Hoàng chu du, từng thấy tiên nhân
luyện đơn trong động, nên đã cho người dựng bia đá ở ngọn núi kia để ghi nhớ sự
việc này. Sau đấy Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ, Hán Cao Tổ Lưu Bang, cũng đã chạy
vào hang động này để trốn tránh quân triều đình mưu sát, khi ấy hai vị đều là
thường dân áo vải, nhưng vì đã vào được động tiên, nên sau này mới lên ngôi bá,
bình thiên hạ mà lập nên nghiệp lớn, đây cũng chính là nơi xuất tích của Tần
Vương, tự cổ đã hình thành nên lệ này. Hỡi các huynh đệ, vương hầu tướng tá,
lão phu thấy các ngươi tuy chỉ là một nhóm dân binh, nhưng ai ai lưng hổ eo gấu
mắt ưng cằm sói, đều có tướng mạo của những vị tướng quân, vậy chi bằng hãy đi
xuống hang động đó thăm dò, không chừng ngày sau lại có cơ hội tung bay cánh
chim bằng, phân phong chia đất ..."
--------------------------------
1 Theo quan niệm của người xưa,
rồng sinh ra chín con, trong đó có 1 con là tì hí, đầu rồng mình rùa, chuyên
đội bia. 2 Tỉnh Hồ Bắc và phía bắc tỉnh Hồ Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét