Chương 24:
Linh mục
Con mà mà Gà Gô ám chỉ ở đây là mấy người nước ngoài ở trên tàu, Gà
Gô nhìn lên hồi lâu, cảm thấy mấy thằng cha người tây này rất đáng nghi, hơn
nữa tren người bọn chúng còn giấu súng, trong hành lý lộ ra cán xẻng, cán cuốc,
dây thừng, lại đang chụm đầu một chỗ thì thầm to nhỏ.
Kì lạ một chỗ mấy người
nước ngoài này không giống mấy người Gà Gô ngày thường từng tiếp xúc, Gà Gô có
quen vìa người nước ngoài, cũng hiểu được chút ngoại ngữ, nhưng mấy thằng Tây
trên thuyền này, không có phong cách cổ điển thận trọng của người Anh, cũng
không có vẻ nghiêm nghị của người Đức, lại càng không có chất phiêu của người
Mỹ, bon Tây mũi to tóc vàng lợt này, nom bộ dạng rất lưu manh, kỳ dị, rốt cuộc
bọn chúng là người nước nào? Gà Gô dưa mắt quan sát, cuối cùng chợt hiểu, thì
ra đây là mấy ông Nga mũi to.
Gà Gô có cảm giác những
người Nga này cũng đếnthành Hắc Thủy tìm cổ vật. Sau khi nội bộ nước Nga xảy ra
biến cố, rất nhiều người đã chạy ra nước ngoài, con cháu họ sống trà trộn ở
Trung Quốc, không thừa nhận mình là người Liên Xô, mà lấy thân phận là người
Nga lưu vong, toàn làm ăn buôn bán bất hợp pháp.
Liễu Trần trưởng lão cũng
là người từng bôn ba khắp nơi, đưog nhiên hiểu điều Gà Gô ám chỉ, ông ra hiệu
cho Gà Gô không được manh động: " Việc hai chúng ta làm là chuyện cơ mật,
phải tránh tai mắt người đời, cố gắng đừng sinh sự"
Gà Gô thưa: " Thầy để
con đi nghe ngóng xem thế nào! Nếu lũ ma tây này cũng đến thành Hắc thủy trộm
báu, như vậy sẽ cách mục tiêu của ta rất gần khó tránh khỏi va chạm, chi bằng
tìm chỗ không người, giải quyết chúng luôn cho xong, đỡ để lại hậu họa!"
Không để Liễu Trần trưởng
lão kịp khuyên can, Gà Gô đã len lỏi vào đám đông, lại gần tốp người Nga nghe
lén họ nói chuyện. Thì ra nhóm này ó cả thảy 6 người, năm người Nga một người
Mỹ.
Năm người Nga đều là hậu
duệ của Sa hoàng Nga lưu vong ở Trung Quốc, buôn bán vũ khí quân hóa, nghe nói
ở thành Hắc Thủy từng khai quật được một khối lượng lớn cổ vật, thấy kiếm chác
được, muốn đi thử vận may, định bụng đào trộm lấy vài rương của báu mang về.
Tay người Mỹ là một linh
mục chừng ba bốn mươi tuổi, mấy năm trước từng đến vùng Ninh Thanh truyền đạo,
trên đường đi có qua di tích Hắc Thủy thành.Vị linh mục này đã đi khắp Trung
Quốc, nay chuẩn bị lại đến Ngân Xuyên truyền bá về sự trưởng thành của chúa,
khi gặp nhõm năm người Nga này trên đường, vô tình nhắc tới chuyện ấy, nhóm
người Nga liền chớp cơ hội bảo đến đó làm ăn, và nhờ vị cha cố nhân thể dẫn bọn
họ đến Hắc Thủy thành xem một chuyến.
Rất hiếm người dám lừa
phỉnh các mục sư, nên cha cố đã dễ dàng trúng kế. Sáu người họ, ngôn ngữ bất
đồng, người Nga không biết tiếng anh, người Mỹ không biết tiếng Nga, cũng may
tất cả bọn họ đều đã ở Trung Quốc một thời gian dài, đều nói được tiếng Trung,
nên dùng tiếng trung làm phương tiện giao tiếp.
Gà Gô nghe một lúc, thấy
nhóm này mười câu thì ba câu nhắc đến Hắc Thủy thành, vị linh mục người mỹ
không biết những người kia định tới đó đào cổ vật, liền kể lại những điều tai
nghe mắt thấy cho bọn chúng nghe. Bảo rằng những tào Phật pháp ở đó bị vùi dưới
đất một nửa, bên trong có vô số tượng phật, pho nào cũng dát vàng khảm bạc,
đường nét tinh tế, có pho tượng còn chạm khắc từ ngà voi và ngọc cổ, đẹp đẽ
lung linh lắm, kỹ thuật tinh xảo đến thần kỳ đó, dường như chỉ có Thượng đế mới
tạo ra được.
Năm tên Nga nghe mà thèm rỏ
nước dĩa, lôi chai vodka nốc hai ngụm lớn, hận nỗi không thể mọc ngay đôi cánh,
tức khắc bay đến Hắc Thủy thành, đào bới báu vật, khuân về đổi lấy nha phiến,
đàn bà, súng đạn và cả vodka,
Gà Gô nghe xong thì cười
khẩy, anh từung đến thành Hắc Thủy tìm kiếmThông Thiên Đại Phật tự nên rất
thông thạo khu di tích này. Thật ra bọn người Nga đâu có biết ngay từu đầu thế
kỷ 19, một làn sóng thám hiểm Trung Quốc đã dấy lên ở Châu Âu, các văn vật ở
thành Hắc Thủy đa phần đều bị tước đi sạch vào thời gian đó, đến này chỉ còn
sót lại một vài tượng đất và ngói vữa, vả lại cũng nát vụn qua nửa cả rồi. Vị
linh mục kia không biết giám thưởng cổ vật, thấy tượng đất màu mè, nói đại ra
là được chạm khắc từ ngà voi cổ ngọc, bọn người Nga này lại cứ tin sái cổ mới
chết.
Song Gà Gô chợt ngẫm lại,
không đúng, nhìn tượng đất tô màu thành của bàu trạm vàng trổ bạc, mắt mũi kiểu
gì vậy chứ? VỊ linh mục kia không biết nhìn hàng đi nữa, cũng không thể nhầm
lẫn lớn đến thế được, lẽ nào vị linh mục đó đánh bừa lại trúng, tìm ra Thông
Thiên Đại Phật tự? Nghe ông linh mục người Mỹ ấy kể lại, cũng có đôi phần giống
ngôi chùa bị vùi dưới đất thật.
Gà Gô nghĩ đến đây, đột
nhiên thấy không ổn định tiếp tục nghe lén mấy người ngoại quốc nói chuyện.
bỗng nhiên thân tàu lắc mạnh, cả con tàu qyau ngang giữa dòng, hơn trăm hành
khách đều đứng không vững, đổ nghiêng đổ ngả trên mặt boong, phút chốc tiếng
kêu như khóc cha khóc mẹ vang lên nháo nhác.
Gà Gô lo cho Liễu Trần
trưởng lão, không để ý đến bọn Tây nữa, vội ráo bước lách qua đám đông, đi về
phía ông, Liễu Trần trưởng lão nói: "Không ổn rồi, e đụng phải vật gì đó
dưới nước!"
Bấy giờ chỉ thấy mặt sông
vốn đang phẳng lặng, bất thình lình song nước cuộn lên như một nồi nước sôi,
con tàu chao đảo giữa sông, hành khách và lái tàu đều nháo nhác. Cứ như diễn ảo
thuật, chủ tàu thoắt cái đã lôi chú lơn ném xuống sông, lại bày một mâm gà
nướng, thắp vài nén hương, quỳ trên boong tàu, rập đầu lia lịa về phía lòng
sông.
Nhưng chủ tàu làm vậy cũng
không hiệu quả gì, con tàu vẫn lão đảo giữa dòng, chủ tàu bỗng nảy ra một ý
nghĩ, liền quỳ xuống trước mặt mọi người, lạy lục: "Thưa các ông các bà,
các anh các chị em, trong các vị có phải có vị nào đã phạm pahir những lời
kiêng kị không? Long Vương không đùa đâu, nếu không thuận theo ngài chúng ta
đừng hòng có ai sống sót... Rốt cuộc là vị nào đã nói gì vậy? Đừng lôi mọi
người chết cùng có được không? Tôi rập đầu lạy xin đây này!" Nói đoạn liền
dập đầu coong coong xuống boong.
Mọi người nhìn cảnh ngọn
song cao ngất dựng đứng giữa dòng sông, ai nấy mặt mày tái bợt, cho dù đã ai đó
nói ra lời nào cấm kị, thì giờ cũng chẳng biết đâu mà lần được nữa.
Đang lúc bí bách, bỗng có
tay lái buôn trỏ vào một người phụ nữ đang ôm đứa bé hô lên: "Chính cô
ta... là cô ta nói, tôi nghe thấy!"
Gà Gô và Liễu Trần trưởng
lão cùng tất cả mọi người trên tàu đều quay ra nhìn, thấy tên lái buôn giữ chặt
tay người phụ nữ đang ẵm một đứa bé chừng ba bốn tuổi, nói: " Đứa bé này
cứ khóc suốt, cô ta sốt cả ruột, liền dọa đứa bé nếu còn khóc sẽ vứt thằng bé
xuống sông"
Tên lái buôn vừa nó dứt
lời, một vài người xung quanh cũng nhao nhao lên xác nhận sự việc. Đứa bé con
từ khi lên tàu cứ khóc ré lên inh ỏi, bà mẹ dỗ mãi không được, càng dỗ đứa trẻ
càng khóc lớn, người ngồi xung quanh đều thấy khó chịu, bà mẹ nhất thời tức
giận đã dọa đứa bé, nếu khóc thì sẽ vứt đứa bé xuống sông cho cá ăn thịt.
Nhưng dọa vẫn không ăn
thua, đứa bé vẫn quay khóc, đúng lúc đó, con tàu bắt đầu chao đảo giữa sông,
rồi bị chặn đứng lại.Người phụ nữ nào đã từng biết sự đời, đâu biết sự lợi hại
thế nào, lúc này thấy người trên tàu đều nhìn chằm chằm vào đứa con trong lòng
mình thì hoảng hốt ngồi thụp xuống bật khóc nức nở.
Chủ tàu liền quỳ trước mặt
người phụ nữ nói: "Em gái ơi! Sao em dám nói những lời như vậy khi đi tàu
cơ chứ, giờ thì nói gì cũng muộn rồi. Những lời của em Long Vương đều nghe thấy
cả, ngài đang chờ em vứt đứa bé cho ngài đấy. Nếu em không vứt, tất cả những
người trên tàu đều sẽ phải chết, em liệu mà làm đi!" Nói đoạn toan cướp
đứa bé từ tay người mẹ.
Đương nhiên người phụ nữ
không nỡ vứt bỏ đứa con mình dứt ruột đẻ ra, vừa khóc vừa cố sống cố chết giữ
chặt đứa bé, dù thế nào cũng không chịu buông. Nhưng chủ tàu là gã đàn ông đi
thuyền nhiều năm, cao to lực lưỡng, cô ta làm sao địch nổi, chỉ còn nước quay
ra cầu xin những vị khách xung quanh.
Mọi người trên tàu lúc này
mặt mũi xám ngoét, không chút động lòng trước sự việc đang diễn ra, trong thâm
tâm họ đều thấy rõ một điều, nếu không vứt đứa bé xuống sông thì đừng hòng mong
sống sót, thôi thì thân mình mình lo đi. Đứa bé này tuy đáng thương thật nhưng
muốn trách chỉ có trách mẹ nó, ai bảo cô ta nói năng linh tinh trên tàu, giờ
thì tội ai nấy chịu thôi! Trong phút chốc tất cả đều ánh né, khôgn ai đứng ra
ngăn cản.
Liễu Trần trưởng lão thấy
lão chủ tàu định vứt đứa bé mớ ba bốn tuổi xuống sông, không nhẫn được hơn,
định cùng Gà Gô đứng ra ngăn cản thì đúng lúc đó có một người bước ra từ trong
đám đông, chặn chủ tàu lại. Gà Gô nhìn kĩ, thì ra người ngăn chủ tàu chính là
vị linh mục người Mỹ kia.
Vị linh mục người Mỹ kia
giơ cuốn Kinh Thánh lên nói: " Thuyền trưởng, nhân danh Chúa, ta buộc phải
ngăn ông!"
Nếu như là người đứng xung
quanh ngăn cản, chắ chắn đã bị ông lão cho một cú đấm, nhưng đây lại là một
người ngoại quốc, gã chủ tàu cũng không dám đắc tội, song con tàu vẫn chao đảo
gữ dội và có nguy cơ lật úp bất cứ lúc nào, lão chủ tàu trừng mắt nhìn vị linh
mục nói: " Ông đừng dính vào chuyện này, nếu không vứt đứa bé này xuống
sông thì Long Vương sẽ không tha cho ai hết, đến lúc đó thì cuốn sách bìa đen
kia của ông cũng chẳng thể nào cứu nổi đâu!"
Vị linh mục người Mỹ đang
định phân bua thì bị một gã người Nga mập lùn, mũi đỏ kéo lại: " Cha
Thomas, cha đừng quản những việc không đâu. Những luật lệ thần bí ở phương Đông
này rất cổ quái, bọn họ muốn làm gì thì để họ làm, dù sao cũng chỉ là một đứa
béTrung Quốc, nếu không làm vậy, con thuyền này rất có thể bị lật thật đấy.
Vị linh mục tức giận nói:
" Ngài Andrey, tôi thật không ngờ ngài lại có thể nói ra được những lời
như vậy, trong mắt Chúa mọi người đều bình đẳng, chỉ có kẻ như quỷ mới cho rằng
việc vứt đứa trẻ xuống sông cho cá ăn mới là đúng thôi!"
Gã chủ tàu nhân lúc vị linh
mục đang tranh cãi với tay người Nga tên Andey, liền co chân đạp người phụ nữ
và quăng đứa bé xuống sông, người mẹ hét lên một tiếng thống thiết rồi lăn ra
bất tỉnh.
Liễu Trần trưởng lão thất
kinh, định bảo Gà Gô ra tay cứu người thì đã quá muộn. Gà Gô tuy không muốn xen
vào chuyện không đâu, nhưng việc đã đến nước này, dù sao cũng không thể thấy
chết không cứu, mọi người còn chưa kịp nhìn rõ chuyện gì, anh đã rút phi hổ trảo
phóng về phía đứa trẻ.
Phi hổ trảo được rèn bằng
sắt tinh luyện, phía trước gọng như vuốt hổ, phần khớp có thể điều chỉnh độ
lỏng chặt, phía sau nối với sợi dây thừng dài, có thể bắt lấy đồ vật từ khoảng
cách xa.Gà Gô dùng phi hổ trảo bắt gọn đứa bé sắp rơi xuống nước, rồi một cú
giật tay, đứa bé được đưa lên ngược trở lại.
Những người trên tàu nhìn
cảnh tượng đó mà mặt mũi há hốc, Gà Gô vừa ôm đứa bé vào lòng, bọn người Nga
kia nhất loạt rút ra năm khẩu súng, nhất loạt chĩa vào đầu anh.
Song dữ dưới sông mỗi lúc
một gấp, người trên tàu bị lảo đảo đến nỗi mắt hao đầu choáng, xem ra con tàu
sắp lật úp đến nơi. Bọn người Nga đã sống ở Trung Quốc một thời gian dài, đều
biết gã chủ tau không nói ngoa, nếu không vứt thằng bé xuống sông cho Hà BÁ,
con thuyền đừng mong đi tiếp.Giờ thấy Gà Gô ra tay cứu đứa bé đáng lẽ đã rơi
xuống sôgn làm mồi cho thủy thần thì không kìm được rút súng ra, định giải
quyết luôn cái gã ngang ngược ngáng đường này.
Năm tay người Nga đang định
nổ súng, bỗng nghe một loạt tiếng súng vang lên, đám đông sợ qua co rúm lại,
hoảng hốt ngó trước ngó sau, xem ai đã nổ súng.
Thì ra Gà Gô đã sử dụng
khẩu kỹ phân tán sự tập trung của bọn người Nga, rồi quăng đứa bé cho LIễu Trần
trưởng lão đang đứng phía sau, đồng thời rút trong vạt áo ta hai khẩu Mauser
Đức, đặt lên đùi mở chốt, "pằng pằng pằng pằng pằng pằng" loạt đạn
bắn ra như một cơn gió lốc quét qua. Năm tên người Nga lần lượt trúng đạn, ngã
vật trong vũng máu.
Mọi người trên tàu đều mắt
trong mắt dẹt, sắc mặt ai náy vàng ệch cả ra, trong nháy mắt giết chết năm
người, tốc độ nhanh, kỹ thuật chuẩn là một chuyện, nhưng cái sát khí đằng đằng,
giết một lúc nhiều người như như thế lại không hề chớp mắt có khác gì ác quỷ La
Sát đâu kia chứ. Gà Gô cũng không cần quan tâm xem mọi người nghĩ gì, lập tưc
lôi năm cái xác của lũ người Nga vứt xuống sông.
Chẳng phải có câu Lắm khi
thần thánh quỷ ma, thấy người ác nghiệt đâm ra rụt rè, thi thể của năm tên
người Nga vừa chìm xuống, con tàu lập tức không xoay ngang ra nữa, lại đi tiếp
được, mặt nước đang cuộn lên như nổi nước, cũng dần phẳng lặng, Gà Gô bảo gã
chủ mau chóng tấp vào bờ phía Bắc.
Gã chủ tàu còn chưa hoàn
hồn, nào dám không nghe lời, liền hô thủy thủ, lái tàu vào vùng nước tĩnh đỗ
lại, hạ ván.
Liễu Trần trưởng lão đã
trao trả lại đứa bé cho người phụ nữ kia, còn dặn dò chị ta không được nói linh
tinh, nếu không lần sau sẽ không được may mắn như lần này nữa đâu, Gà Gô biết
giết một lúc năm người trước bàn dân thiên hạ là sinh sự to rồi, phải nhanh
chóng dời khỏi đường lớn, chọn lối vắng vẻ ít người mà đi. Trước khi rời tàu,
anh cũng không quên lôi theo cả vị linh mục người Mỹ, ngộ nhỡ có đụng phải công
sai, thì còn lấy người nước ngoài này làm con tin, vả lại ông ta là đồng bọn
của năm tên người Nga, xác bọn chúng đã bị phi tang dưới lòng sông Hoàng Hà,
chính quyền không tìm thấy đồng bọn của chúng, cũng khó lòng điều tra được gì.
Gà Gô và Liễu Trần trưởng
lão xốc nách linh mục người Mỹ vội vàng bỏ đi, cũng may chỗ này cách Hạ Lan sơn
không xa, đi bộ khoảng ba bốn ngày là tới, vả lại chốn này đất rộng người thưa,
không lo đụng phải người khác.
Cha Thomas lúc đầu cứ tưởng
mình bị hai tên sát nhân bắt cóc, luôn mồn giảng giải về sự nhân từ của Chúa
trời, khuyên răn hai người cải tà quy chính, đặc biệt là vị hòa thượng cao
tuổi,. trông thì từ bi nhân ái, không ngờ tuổi tác vậy rồi mà còn làm cái việc
bắt cóc tống tiền,chi bằng đổi đức tin sang Chúa, tin vào người để có được cuộc
sống vĩnh hằng thì hơn.
Đi bộ đằng đằng ba ngày,
cha Thomas phát hiện ra hai gã này không giống như đang bắt cóc mình, họ cứ
tiến về phía Tây Bắc, dường như định tới một nơi nào đó, thấy hành động của họ
thật khó hiểu, bèn mở lời dò hỏi xem hai người định đưa mình đi đâu.
Gà Gô nói với vị linh mục:
" Ông anh bị những tay người Nga kia lừa rồi, nhìn đống dụng cụ bọn chúng
cầm theo là biết chúng định tìm đường đến Hắc Thủy thành đào cổ vật. Bọn chúng
nghe ông anh bảo từng đi qua Hắc Thủy thành, lại còn tận mắt nhìn thấy báu vật
ở đó, nên định để ông anh làm người dẫn đường, sau khi đến nơi, chúng chắc chắn
sẽ giết người diệt khẩu. tôi làm thế này coi như cứu ông anh thoát chết, ông
anh cú yên tâm, tôi không phải kẻ lạm sát người vô tội, đợi khi chúng tôi đến
Hắc Thủy thành giải quyết công việc xong sẽ để ông anh đi, còn bây giờ ông anh
phải đi cùng chúng tôi để tránh việc quan phủ lần ra manh mối!"
Linh mục nói với Gà Gô:
" Tay súng cừ khôi, tốc độ bắn súng của anh nhanh như chớp, trông thật
phong lưu lãng tử! tôi cũng phát hiện thấy những tay người Nga đó có gì lạ lạ,
bọn họ nói với tôi là đi đào mỏ để kinh doanh, thì ra là đi đào cổ vật Trung
Quốc, nhưng giờ thì Thượng đế đã trừng phạt họ rồi"
Gà Gô hỏi vị linh mục người
Mỹ về những điều ông ta thấy trong ngôi chùa ở Hắc Thủy thành.
Linh mục Thomas hói lại
hỏi: " Sao anh lại hỏi chuyện này, hai người cũng định đào cổ vật à? "
Gà Gô không mấy ác cảm với
vị linh mục này, bèn nói: " Tôi cần phải tìm một vật quan trọng, có liên
quan tới sự sống còn của rất nhiều người trong bộ tộc, việc này hết sức cơ mật,
tôi không thể nói nhiều hơn với ông anh được"
Vị linh mục nơi: "Ok,
tôi tin anh. Mấy năm trước tôi đi qua di tích Hắc Thủy thành, tình cờ giẫm phải
một đụn cát lún, lúc ấy cứ tưởng Chúa gọi tôi về, không ngờ lại rơi vào trong
một gian thờ Phật, có nhiều tượng phật đẹp lắm. Nhưng lúc đó tôi vội đi truyền
giáo, không có thì giờ ngắm kĩ, mà vội trèo lên đi ngay, giờ quay lại, chắc
cũng không tìm thấy, song nơi đó rất gần Hắc Thủy thành độ bảy tám cây số là
cùng"
Những lời của linh mục
Thomas đã xác thực nguồn tin của Gà Gô, xem ra Thông Thiên Đại Phật tự không bị
vùi quá sâu, chỉ cần tìm ra vị trí chính xác là có thể dễ dàng đào đường hầm
vào bên trong luôn.
Nghe nói trong Thông Thiên
Đại Phật tự thờ một pho tượng Phật nằm rất lớn, trong hầm mộ phía dưới bức
tượng có xây một cung điện ngầm, thiết kế làm nơi mai táng sau đó lại được dùng
làm nơi cất giấu báu vật cảu triều đình Tây Hạ. Và mục tiêu lần này của Gà Gô
chính là nơi đó.
Di tích Hắc Thủy thành
không khó tìm lắm, bởi trên mặt đất còn sót lại những kiến trúc đổ nát, mỗi
ngọn tháp đều âm thầm ghi dấu những nét vàng son của thưở huy hoàng năm xưa.
KHi ba người đến Hắc Thủy thành, trời cũng đa xế chiều, phía xa vẫn còn thấp
thoáng thấy dáng dấp cảu những dải núi xám xịt.
Di tích Hắc Thủy thành hằn
in trong sắc chiều bản làng, toát lên một vẻ tĩnh lặng như chết, dường như thần
chết đã bớp nghẹt mọi hơi thở còn sót lại nơi đây, bầu không khí tĩnh mịch
hoang vu, khiến người ta không thể nào tưởng tượng ra nổi nơi đây đã từng là
một thị trấn trọng yếu bậc nhất của vương triều Tây Hạ.
Liễu Trần trưởng lão là một
hòa thượng, Gà Gô từng có một thời gian dài dưới lốt đạo sĩ, Thomas là một linh
mục, ba con người, một nhà sư, một đạo sĩ, lại thêm một ông cha cố, đang trên
đường tới khu vực cận Hắc Thủy thành tìm kiếm kho tàng của người Tây Hạ, ngay
bản thân họ cũng cảm thấy đây quả thực là một nhóm người kỳ lạ.
Tại khu cận Hắc Thủy thành,
ba người đang lặng lẽ chờ đợi ánh trăng thanh rọi xuống mặt đất. Nơi đây là cao
nguyên Tây Bắc, bầu không khí loãng, muôn sao lấp lánh trên trời, số lượng và
độ sáng đều gấp nhiều lần so với vùng đồng bằng.
Liễu Trần trưởng lão ngẩng
đầu xem thiên văn, rút la bàn, phân kim định huyệt. Trên trời ba sao Cự Môn,
Tham Lang và Lộc Liêm bày ra thế giành huyệt, bố cục đều ngay ngắn chặt chẽ,
thế sao rọi huyệt rất hoàn hảo, trong điểm cát tướng lại kèm theo tướng đại
quý, điểm khiếm khuyết duy nhất là thiếu sự che chắn, mộ huyệt trên mặt đất có
hình chuồn chuồn đạp nước, trong giây lát đã có thể định vị chính xác phương vị.
Sau khi đinh rõ vị trí, Liễu
Trần trưởng lão dẫn Gà Gô và vị linh mục người Mỹ nương theo ánh trăng thanh
như làn nước đến nơi vừa định vị, rồi trỏ vào một chỗ trên mặt đất nói:
"Đại hung bảo điện của Thông Thiên Đại Phật tự nằm ở chỗ này. Chỉ có
điều... ở đây có chôn một độc nhãn long"
Chương 25:
Thông Thiên Đại Phật Tự
G à Gô không hiểu gì về bí thuật phong thủy, không hiểu vế sau câu
nói cảu Liễu Trần trưởng lão nghĩa là gì, liền cất tiếng hỏi, "độc nhã
long" nghĩa là sao ạ?
Liễu Trần trưởng lão ngước
nhìn các vì sao trên trời rồi nói: " Bên dưới chỗ này, rõ là có một thần
long náu mình, chỉ có điều phần thân của nó nhỏ quá mức, hơn nữa đầu rồng chỉ
có một huyệt mắt có thể tang phong tụ khí, cho nên được gọi là độc nhã long,
hay chuồn chuồn đạp nước. Trên có khí tím ba sao, nếu hình ấy sáng trong tú lệ,
chí ấy ắt là bậc sĩ phu trung nghĩa: hình ấy hung vĩ uy vũ, chí ấy ắt là người
nắm giữ trọng quyền. KHí tím như hình cây, tối kị nhánh cành chọc chĩa, ví như hình
núi, tối kỵ nghiêng ngả gập nghềnh, bề mặt phồng nứt, đỉnh núi vỡ nát... phàm
những loại như vậy đều là thể hình hiểm ác, những người ở đây thì con cháu ắt
lắm kẻ nghịch luân phạm thượng. Do sông Hắc Thủy đổi dòng, hình thế của huyệt
đã bị phá, con mắt báu trên đầu rồng, giờ lại trở thành một cái u độc, nếu táng
người ở đây, ắt sẽ ứng vào đời sau, quả thực phiền phức vô cùng. " Nói
đoạn chỉ tay về phía vầng trăng lưỡi liềm lạnh băng, nói tiếp: " Hãy nhìn
ánh trăng kia xem, hôm nay chúng ta xuất hành mà quên xem ngày, không ngờ đêm
nay lại rơi vào ngày trăng đại phá, thì đến Bồ Tát cũng phải nhắm mắt lắc đầu!"
Gà Gô tài cao gan lớn, thêm
nữa Mộc thần châu mà bộ tộc đã tìm kiếm nghìn năm nay rất có thể đang nằm trong
Thông Thiên Đại Phật tự bị vùi lấp dưới chân mình, sao có thể chờ cho đến ngày
hôm sau mới ra tay cho được, liền nói với Liễu Trần trưởng lão: " Nghe đồn
phía dưới Thông Thiên Đại Phật tự này là ngôi mộ rỗng, mà đã là mộ rỗng không
chủ, đệ tử nghĩ cũng không cần phải tính toán như với đối với mộ thường, để đệ
tử dùng xẻng Tuyền phong mở ra một đường hầm, vào lấy đồ xong là lập tức rút
lui. Chỉ cần chúng ta hết sức cẩn thận là được, chắc cũng không có chuyện gì
xảy ra đâu!"
Liễu Trần trưởng lão nghĩ
một lúc cũng thấy phải, quả thức ông cũng hơi lo xa, ngôi mộ này được người Tây
Hạ coi như kho chứa báu vật, nếu đã không có chủ nhà( trong mộ không có người
chết). thì cũng không cần phải dựa theo quy định thông thường, nào như đèn tắt
gà gáy không mò vàng, nào như ba lấy ba không lấy, chín đào chin không đào, tất
cả đều không cần phải nghĩ đến nữa, đoạn liền gật đầu đồng ý.
Gà Gô rút trong tay nải ra
một cây gậy đồng rỗng ruột, bên trong khía rãnh, thân gậy nhẵn bóng do lòng bàn
tay chà sát lâu năm, cũng không rõ là truyền từ đời nào. Sau đó lại rút ra chin
lá thép mỏng hình cánh quạt tựa như chín cánh hoa cắm vào đầu gậy, đầu gậy có
lẫy lò xo bắt chặt vào rãnh, lá thép vừa đưa vào, lập tức được lẫy lò xo cố
định lại.
Cuối cùng, Gà Gô lắp vào
đuôi gậy một chiếc cần quay, tạo thành một công cụ lợi hại dùng để đào hang, có
thể kéo dài rút ngắn tùy ý, đường kính cảu hang trộm cũng có thể điều chỉnh
được theo ý muốn.
Gà Gô khởi động xẻng Tuyền
phong, đồng thời nhờ ông linh mục Thomas ngưởi Mỹ chuyển đống đất cát đào được
ra, cha Thomas chẳng còn cách nào khác, vừa làm vừa than vãn: " Chẳng phải
đã nói từ trước là khi đến nơi sẽ thả tôi ra sao? Không ngờ là các người còn
lên cho tôi nhiều chương trình thế này. Các người phải biết ở Phương Tây linh
mục là tôi tớ của Thượng đế, mà viên chức của Thượng đế thì không bào giưof
phải làm những công việc chân tay... "
Gà Gô và Liễu Trần trưởng
lão đều không nghe rõ tay người Mỹ đang lẩm bẩm cái gì, cho nên cũng khôgn để ý
đến ông ta, chỉ chuyên tâm dùng xẻng Tuyền phong đào hầm. sau một khoảng thời
gian chừng hút hết một bao thuốc, xẻng Tuyền phong đã chạm tới lớp ngói trên
đỉnh bảo điện trong Thông Thiên Đại Phật tự, rặt là những phiến ngói lưu ly
xanh biếc, mặt ngoài viên ngói còn khắc hình La Hán, thứ ngói lợp nhà thông
thường thật khó mà so bì nổi, nhìn là biết đây là kiến trúc chính cảu một ngôi
chùa lớn.
Gà Gô gỡ ra mười, mấy phiến
ngói lẫn trong cát vứt ra ngoài, dùng dây thừng thả ngọn đèn bão xuống, chỉ
thấy phía dưới tầng tầng lớp lớp toàn là tường gỗ xà gỗ, chính là đại hung bảo
điện nguy nga tráng lệ. " Đại hung" là cách gọi tôn xưng của phật tử
đối với pháp lực và đạo đức của phật Thích Ca Mâu Ni, ý rằng đức phật như một
dũng sĩ quả cảm, có pháp lực vô biên, có thể hàng phục được bốn loại yêu ma là
Ngũ âm ma, Phiền não ma, Tử ma, Thiên tử ma. Ánh sáng của cây đèn được hạ xuống
không đủ để soi xa hơn, chỉ có thể thấy ngay phía dưới là ba bức tượng
"Tam thân Phật" trong nội điện, theo giáo lý của nhà Phật, Phật cso
ba thân là pháp thân, báo thân và ứng thân, còn gọi là Tam hóa thân Phật, tức
pho chính giữa là Tì Lư Giá Na PHật, pho bên tả là báo thân Lư Xá Na Phật, pho
bên hữu là ứng thân Thích Ca Mâu Ni Phật. Phía trước tam thân phật có hai pho
tượng đất ngoài bọc sắt ngồi đối diện với nhau, gồm tượng Văn Thù Bồ Tát và
tượng Phổ hiền Bồ Tát.
Phật giáo rất thịnh ở Tây
Hạ xưa, quy mô của ngôi đại điện này chắc không thể nhỏ được. Gà Gô nhìn Liễu
Trần trưởng lão và gật đầu, tỏ ý có thể xuống dưới. Gà Gô xưa này luôn hành
động đơn độc, vón định một mình chui xuống, nhưng Liễu Trần trưởng lão lo trong
hang báu vật có nhiều cạm bẫy, vả lại có nhiều chướng ngại như cửa ngầm, đường
ngầm, trong khi việc đối phó với những món này là việc ưa thích của Mô Kim Hiệu
úy, thành thử Liễu Trần trưởng lão muốn xuống cùng Gà Gô, nhỡ có gì thì hai
người cũng dễ bề hỗ trợ cho nhau.
Đoạn mỗi người uống một
viên Xuyên tâm bách thảo hoàn, dùng một bình Kình thiên lộ chiêu thuốc, những
thứ này đều là những phương thức bí truyền phòng hôn mê khi ở trong môi trường
không có không khí lưu thông, sau nữa, lại đeo bùa Mô Kim vào cổ tay, dùng vải
đen bịt mặt, đi giày thủy hỏa, đem theo một vài dụng cụ cần thiết, rồi sắn tay
chuẩn bị hành động.
Gà Gô bỗng sực nhớ ra vị
linh mục người Mỹ vẫn đang đứng bên cạnh, tuy cha Thomas khôn giống lẻ xấu cho
lắm, nhưng nếu mình và Liễu Trần trưởng lão đều xuống dưới tìm ngọc, để một
người nước ngoài bên trên, e có phần không được thỏa đáng cho lắm, ngộ nhỡ hắn
ta đột nhiên này sinh ý đồ xấu thì rắc rối to, chẳng bằng lôi luôn cả hắn
xuống, ngaon ngoãn nghe lời thì tốt, bằng không để hẳn lăn vào cạm bẫy trong
hang chứa báu vật cho gọn.
Sau khi tính toán đâu vào
đấy, Gà Gô liền kéo cha Thomas lại, định cho ông ta uống thuốc bí truyền để vào
trong bảo điện. Nhưng cha Thomas nhất quyết không chịu, cho rằng Gà Gô bắt mình
uống thuốc độc cảu phương Đông thần bí, liền cuống quýt lấy tay bịt miệng. Gà
Gô không buồn giải thích nhiều, chọc luôn ngón tay vào mạng sườn vị linh mục, cha
Thomas đau nhói há miệng kêu lên thành tiếng, liền bị Gà Gô tong cho một viên
thuốc vào mồm, linh mục muốn nhổ ra cũng không nhổ được nữa, đành bất lực nhìn
lên trời cầu nguyện."Ôi lạy Chúa trời, cầu xin chúa hãy tha tội cho những
con người không biết mình đang làm gì này!"
Gà Gô không phân bua gì cả,
đầy luôn cha Thomas đến gần lỗ hổng trên chóp mái nhà, rồi lấy phi hổ trảo định
thả ông ta xuống trước. Cha Thomas hoảng hốt, những người Phương đông man rợ
này đã bắt mình uống thuốc độc giờ lại định giở trờ gì ra đây? Định chôn sống
mình chắc?
Liễu Trần trưởng lão đứng
bên cạnh trấn an: " Vị hoà thượng tây đây xin cứ yên tâm, lão nạp và ngài
đều là người xuất gia, Phật ta đại từ đại bi, người xuất gia chúng ta coi từ bi
là gốc, trong tâm hết xảy là thiện niệm. quét của dưới thương sinh mạng kiến,
chong đèn đau xót cảnh thiêu thân, lẽ đương nhiên sẽ không mảy may phương hại
đến ngài. Chỉ có điều những gì chúng tôi làm đây là việc cơ mật, không thể tiết
lộ ra ngoài dù chỉ một chút phong thanh, cho nên xin ngài vui lòng mà đi cùng
chúng tôi một chuyến. Sau khi xong việc, tất sẽ để ngài đi!"
Cha Thomas nghe Liễu Trần
trưởng lão nói vậy thì cũng yên tâm phần nào, nghĩ bụng dù sao vị hòa thượng
Trung Quốc này cũng là viên chức của Chúa, xưa này chưa nghe thấy những người
này mưu sát ai bao giờ, thế nên cuối cùng cũng chấp thuận để Gà Gô dùng phi hổ
trảo thả mình xuống điện thờ.
Liễu Trần trưởng lão và gầ
Gô cũng lần lượt đu vào trong Đại Hùng Bỏa Điện ngay sau đó, hai người thắp
sáng đèn bào soi bốn phía, quả nhiên đây là một ngôi Phật Điện nguy nga tráng
lệ. Trên bức tượng pháp thân Phật tổ toàn là bảo thạch, lấp lánh vàng son, bảo
tượng trên đài sen trang nghiêm rất mực, bốn phía xung quanh điện được ba mươi
mốt cây đại thụ chống đỡ, vững chãi khôn cùng.
Liễu Trần trưởng lão nhìn
thấy tượng Phật tổ liền quỳ xuống lạy, miệng lẩm nhẩm tụng niệm tên Phật, Gà Gô
trước đây từng giả trang đạosĩ,giờ tuy đang vận quần áo dân thường, song cũng
rập đầu bái lạy. thành tâm khẩn cầu Phật tổ hiển linh phù hộ độ trì cho bộ tộc
mình thoát khỏi bể khổ vô biên.
Hai người hành lễ xong,
đứng dậy quan sát xung quanh, thấy tiền điện đã sụp đổ, không thể đi qua được,
phổi điện ở hai bên là nơi thờ cúng các vị La hán, một bên cũng đã bị sập quá
nửa, tượng La Hán trong hai gian điện thờ này pho nào pho nấy đều được chạm
khắc tinh xảo hoa lệ, từ nguyên liệu đến cách trang trí đều rất công phu kĩ
lưỡng, mỗi pho đều là một báu vật vô giá, qua đó có thể thấy được sự hùng cường
của Tây Hạ năm xưa, cũng như sự phồn thịnh của Phật giáo thời bấy giờ.
Chỉ có điều những bức tường
này có phần hơi khác so với những bức tượng mà Gà Gô thường thấy trong đình
chùa khắp nơi, song anh cũng không thể nói rõ rang điểm khác biệt ở đây là gì,
chỉ cảm giác những pho tượng này về mặt tạo hình có chút gì đó rất cổ quái.
Liễu Trần trưởng lão giải
thích với Gà Gô: " Người Tây Hạ đa phần thuộc tộc người Đảng Hạng, người
Đảng hạng vốn phát nguyên từ Tây Tạng, sau phò tá nhà Đường mở rộng cương thổ,
khai phá đất mới lập nhiều công trạng, được vua ban quốc tình: họ Lý. Song suy
cho cùng họ vẫn là dânn tộc thiểu số, hơn nữa phật giáo Tây Tạng chịu nhiều ảnh
hưởng của Ấn Độ hơn là trong nước, các tượng phật này đều ăn vận trang phục
thời Đường, nhưng tư dung thì lại gần với hình dáng nguyên thủy của nơi cội
nguồn phật giáo hơn, không giống với tượng Phật trong chùa miếu mạo ở Trung
Nguyên, vì ở đây chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Hán, thành thử chúng ta mới
có cảm giác khang khác"
Gà Gô và Liễu Trần trưởng
lão đều nhất trí cho rằng kho báu của nước Tây Hạ có lẽ nằm đâu đó cách tòa Đại
hung bảo điện này không xa, thậm chí có khả năng còn nằm ngay trong điện cũng
không chừng. Bởi mộ được xây cất bên dưới ngôi chùa này, đường nhiên cũng phải
xây trên vị trí phong thủy, huyệt vị trên long mạch này rất nhỏ, cho nên có thể
khoanh vùng vị trí của nó xung quanh ngôi đại điện.
Linh mục Thomas theo Gà Gô
đi lăng quăng trong điện thờ, càng xem ông ta càng lấy làm lạ, tịa sao ở cái
mảnh đất khỉ ho cò gáy không có gì bắt mắt này, bọn họ đào bời một cái đã đào
được một ngôi chùa hoành tráng đến thế. Vả lại ban nãy nom qua chỗ phổi điện,
những bức tượng La hán tinh xảo trong đó rất quen, hìnhf như là chỗ mấy năm
trước mình thụt xuống, lúc đó hoàn toàn là vì vô tâm vô ý, trải qua mấy năm rồi
dẫu có muốn tìm chắc chắn cũng khó mà tìm lại được, nhưng vị hòa thượng già này
sao chỉ nhìn sao trời đã tìm ra được vị trí chuẩn xác đến thế. Thế giới Phương
Đông thần bí này ẩn chứa quá nhiều điều khó hiểu. Nghĩ đén đây, trong thâm tâm
cha Thomas bỗng thấy nể sợ hai người trước mặt mình, thành ra cũng không dám
nhiều lời thêm nữa.
Ba người tiếp tục đi kiểm
tra thêm hai vòng trong Đại Hoàng bảo điện, gần như đã lật tung từng viên gạch
phiến ngói lên nhưng vẫn không phát hiện ra lối vào kho báu.
Gà Gô nói với Liễu Trần
trưởng lão: " Trong chính điện không thấy dấu vết khả nghi nào, hay là ta
vào kiểm tra hậu điện xem sao!"
Liễu Trần trưởng lão gật
đầu: " Đàđến đây rồi thì chớ nóng vội, cứ tìm thật kĩ từ trước ra sau xem
sao. Chùa này có tên Thông Thiên Đại Phật, hẳn hậu điện có thờ tượng phật nằm,
ta hãy qua đó xem xem!"
Con đường dẫn ra hậu điện
được vẽ đầy những bức phật lễ đổ thời Tống, trong tranh đa phần điểm xuyết hoa
sen khiến người ta có cảm giác thanh tịnh siêu thoát, gột bỏ được hết bụi bặm
hồng trần.
Gà Gô gần đây thường ở gần
Liễu Trần trưởng lão, được nghe không ít giáo lý nhà Phật, ác niệm trong tâm
cung theo đó mà tan đi không ít, giờ phút này ở chốn thánh địa Phật đường, bỗng
cảm giác rất đỗi mệt mỏi, trong khoảng khắc cảm thấy chán chường với nghề đổ
đấu, chỉ mong lần này có thể thuận lợi tìm ra viên Mộc trần châu, xong được
việc lớn, rồi sau đó theo Liễu Trần trưởng lão về chốn cổ sát thanh tu, sống
nốt năm tháng cuối đời.
Những ý nghĩ này chỉ thoáng
qua trong đầu Gà Gô rồi lập tức vụt tắt, bởi lòng anh hiểu rõ hơn ai hết, trong
tình thế lúc này không thể bất cẩn dù chỉ một chút, trước mắt phải tập trung
tinh thần và sức lực vào việc tìm kiếm lối vào kho báu của hoàng tộc Tây hạ
trước đã.
Vừa đi vừa nghĩ miên man,
chẳng máy chốc Ggà Gô và hai người đồng hành đã vào đến hậu điện, quả như Liễu
Trần trưởng lão tiên liệu, so với tiền điện, hậu điện trông còn nguy nga rộng
lớn hơn nhiều, chính giữa điện là pho tượng Phật nằm bằng đá khổng lồ, có khẳm
ngọc thất bảo trang trí.
Tượng Phật nằm cỡ lớn
thường được xây dựng theo thế núi, đôi khi cả ngọn núi trập trùng qua bàn tay
còn người điêu khắc, lại toát lên được hình thái của đức Phật như thiên nhiên
tạo ra, bàn về sự lớn lao kì vĩ, thời có thể gối đất chống trời, bàn đến sự
thuần nhị tinh tế thời có thể nằm gọn trong hạt cát, nhưng dù to lớn hay nhỏ bé
thì đề độc nhất vô nhị, và thể hiện được cảnh giới vô biên vô tận của phật pháp.
Pho tượng Phật nằm trong
hậu điện này nếu so với những pho tượng xây dựa theo thế núi thì nhỏ bé hơn
nhiều, nhưng so với kích thước của người thường thì vẫn hết sức to lớn, chiều
dài tượng phật phải đến hơn năm mươi thước, tai Phật to, chảy xuống hai bên,
yên nhủ trên đài hoa sen.
Hai bên hậu điện đều được
đặt một chiếc vò lớn bằng sứ xanh, bên trong đựng đầy " Uất manh long diên
cao" đã cô đặc, đây là một loại dầu có thể cháy suốt trăm năm không tắt,
đèn lưu ly chiếu sáng vĩnh cửu thờ cúng Phật tổ cũng dùng chính loại dầu này,
nhưng đến giờ thì dầu đèn đã khô cạn từ lâu.
Trong hậu điện còn có rất
nhiều bia đá, khắc toàn chữ tây Hạ rối rắm phức tạp vô cùng, chắc đều là những
văn bia ghi chép về điển tích nhà Phật. Gà Gô đi một vòng khắp hậu điện, sau
cùng để ý tới pho tượng phật nằm, bèn nói với Liễu Trần trưởng lão: " Tư
thế nằm của pho tượng phật này không ổn, đệ tử cho rằng bên trong ắt có sự kỳ
quái"
Liễu Trần trưởng lão quan
sát hồi lâu, cũng cảm thấy pho tượng có điều bất thường, bèn nói: " Ừm...
ngươi cũng đã nhìn ra rồi, thật không hổ danh cao thủ phái Ban Sơn. Phần đầu
pho tượng có lắp đặt hệ thống máy móc, xem ra mật đạo dẫn vào hang báu vật
thông vói đầu pho tượng. Có điều cấu tạo của hệ thống này nhất thời ta chưa thể
đoán định được nên phải hết sức thận trọng đấy"
Gà Gô gật đầu hiểu ý, chắp
tay vái tượng phật hai lạy, rồi phi thân nhảy lên trên phật đàn. Chỉ thấy trên
môi tượng phật có một khe hở không rõ nét lắm, dường như có thể đóng mở, nếu
không phải cao thủ phái Mô kim hay Ban Sơn thì chắc chắn sẽ bỏ qua chi tiết nhỏ
nhặt này.
Miệng tượng phạt nhiều khả
năng là cửa dẫn vào mật đạo, có khi chỉ cần chạm vào chốt lẫy thì lập tức hàng
loạt những loại bẫy như phi đao, ám tiễn sẽ bắn vọt ra. Sau một hồi xem xét kĩ
càng, Gà Gô đã nắm rõ cơ cấu của hệ thống này, lối cửa vào chắc không có ám khí
nào hết, đây chẳng qua chỉ là một lối vào dạng ống, đưa vào cửa chính bên
trong. Thế là anh liền gọi cha Thomas lại giúp, hai người hợp sức xoay chuyển
lớp cánh hoa ở giữu đài sen.
Mấy tiếng "cạch, cạch,
cạch" vang lên, miệng tượng Phật từ từ mở rộng ra. Tượng Phật nằm mắt quay
ra phía cửa lớn, miệng phật mở rộng để lộ một lối vào hình ống dựng đứng. Trên
vách ống có đặt sẵn cầu thang leo xuống dưới.
Cha Thomas nhìn thấy vậy
thì chẳng hiểu mô tê gì, luôn miệng suýt xoa, lần này chẳng cần gà Gô thúc
giục, ông ta đã chủ động leo xuống cầu thang xem phía bên dưới còn ẩn chứa
những điều gì.
Gà Gô biết kho báu này vốn
là của một vị trọng thần thời Tây Hạ, nhưng sau đó lại biến thành nơi cất giấu
ngọc ngà châu báu của hoàng tộc. Nếu đây là nơi chôn cất người chết thì đã
đành, đằng này lại là nơi cất giấu bao nhiêu là bảo vật thì chắc hẳn sẽ có
không cạm bẫy lợi hại. Để một người không am hiểu cạm bẫy như cha Thomas xuống
trước chẳn khác nào đẩy ông ta vào cái chết. Vị linh mục nước ngoài này cũng là
người tốt, Gà Gô không nỡ để ông ta phải bỏ mạng trong minh điện tối tăm nơi
đây, bèn nhanh tay ngăn lại, bảo theo sát phía sau mình, Liễu Trần trưởng lão
sẽ đi sau cùng, cứ theo thứ tự như vậy mà leo xuống.
Dân trộm mộ gần như là chưa
ai tiếp xúc vói mộ cổ Tây Hạ, nên cũng không ai hiểu được những đặc tính bên
trong thế nào, chỉ biết rằng nó chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán rất sâu sắc, cho
nên chỉ còn cách dựa vào kinh nghiệm mà lần mò từng bước, từng bước một mà
thôi. Liễu Trần trưởng lão biết Gà Gô cũng là một tay nhà nghề trong ngành phân
khóa phá giáp, có anh chàng này đi trước dẫn đường, bước nào bước ấy hết sức
vững chãi, chắc sẽ không xảy ra sai xót.
Để thăm dò luồng khí lưu
bên dưới, Gà Gô đưa đèn cho Liễu Trần trưởng lão, còn mình thì nhanh tay lắp
những ống phốt pho lên ô kim cang. Ô kim cang là một dụng cụ như chiếc khiên
dùng để phòng ngừa ám khí trong minh điện của phía Mô kim, phần tán ô được
thiết kế bằng khung thép và lá sắt, cung nỏ có mạnh đến đâu cũng khó mà bắn
xuyên qua được. Ống phốt pho là một thiết bị hai trong một, vừa thăm dò chất
lượng không khí, vừa chiếu sáng, dùng khoa học ngày nay giải thích thì có thể
xem đây như một thứ ánh sáng sinh học, giống như ánh sáng từ đom đóm hay một số
sinh vật viển có thể phát quang. Bên trong ống phốt pho có một loại bột được
mài từ xương người chết trộn với cỏ" Hỏa nhung hồng ấm" đã tán thành
mạt, sau khi đốt chấy sẽ phát ra ánh sáng canh lạnh lẽo, nhồi đầy ống thì có
thể cháy được hai tiếng.
Gà Gô dùng ống phốt pho
chiếu sáng, bên dưới dùng phi hổ trỏa móc vào ô kim cang thả thong xuống làm
vật hộ thân, men theo cầu thang chậm rãi leo xuống, không lâu sau liền cảm thấy
tức ngực khó thở, xem chừng không gian phía dưới bị phong bế, nếu ngay từ đầu
không uống thuốc đề phòng thì giờ đã rời vào trạng thái hôn mê rồi lăn xuống
dưới mà chết.
Gà Gô ngẩng đầu lên hỏi
thăm tình hình Liễu Trần trưởng lão và cha Thomas ở phía trên, liệu có cần quay
lên chờ một lúc cho không khí bên dưới được trao đổi mới xuống tiếp hay không,
hai người đều tỏ ý không có gì đáng ngại, mức độ ngột ngạt này vẫn nằm trong
phạm vi chịu đựng, đã đi được hơn nửa chặng đườn g rồi thì cố gắng đi tới cùng
luôn.
Cả nhóm lại tiếp tục leo
xuống dưới, chừng thời gian môt tuần trà thì xuống đến đáy.
Xung quanh lối xuống đều là
tượng đá lạnh ngắt, hết sức khô ráo, Gà Gô lia ống phốt pho, định soi xem tình
hình bốn phía xung quanh, bỗng trước mắt thình lình xuất hiện một võ sĩ mặc
giáp vàng đội mũ trụ vàng, đôi mày xếch ngược, chẳng nói chẳng rằng, hai tay
vung cây rìu Khai sơn sắc lẹm nhằm đầu Gà Gô bổ xuống.
Chương 26: Xương
trắng
G à GÔ ứng biến thần tốc, hốt nhiên trông thấy trong hầm sâu hút có
một tay võ sĩ mặc kim giáp, cầm cây rìu Khai sơn định bụng bổ xuống đầu mình,
bèn lập tức thét lên một tiếng, nhảy bật về phía sau, áp sát vào bức tường sau
lưng, đồng thời bật ô kim cang ra che chắn phần đầu và mặt, khẩu súng Mauser
băng đạn hai mươi viên nơi hông cũng rút phắt ra luôn, đưa thân súng ra phía
trước, lợi dụng tay trái đang cầm ô kim cang đẩy chốt an toàn, vào tư thế sẵn
sàng công thủ, chĩa thẳng nòng súng về phía võ sĩ mặc kim giáp.
Vậy ban nãy hà cớ Gà Gô
phải thét lên như thế? Chừng do luyện công phu ngoại gia đến một trình độ nhất
định nào đấy, nếu làm những tác động mạnh mẽ kịch liệt, thì trong cổ họng sẽ tự
nhiên phát ra một thứ âm thanh đặc biệt, phản ứng tự nhiên này liên quan đến sự
hô hấp cảu cơ thể nếu không thét lên thì rất dẽ bị nội thương, chứ hàon toàn
không pahri vì sợ hãi mà thét thất thanh lên như thế.
Gà Gô thét lên một tiếng
như thế cũng chẳng sao, nhưng làm cha Thomas còn chưa xuống được đến nơi đã
giật hết thần hồn, trượt chân một cái ngã nhào.
Gà Gô nghe bên trên có
tiếng gió, biết có người ngã xuống, vội giơ ô kim cang ra, đỡ lấy vị linh mục
người Mỹ, cũng may lúc đó khoảng cách không cao lắm, cha Thomas lại được vòm ô
hình cung được lại giây lát, rồi mới rơi xuống đất, mặc dù khắp mình ê ẩm,
nhưng cũng không có gì đáng ngại.
Cùng lúc ấy, dưới ánh sáng
lành lạnh của ống phốt pho, Gà Gô mới nhìn rõ tướng mạo của vị võ sĩ mặc áo kim
giáo tay vung cây rìu lớn kia. Thì ra tất cả chỉ là thần hồn nát thần tính, vị
võ sĩ chỉ là một bức tranh trừ tà được vẽ trên vách đá, có điều bức tranh trông
quá chân thực, màu sắc vẫn còn vẻ tươi mới bắt mắt. Thân hình của võ sĩ trong
tranh cũng na ná người thường, song mặt mũi hung dữ, mày râu dựng ngược, toàn
thân khoác một bộ áo giáp vàng, vô cùng uy vũ. Hơn nữa độ tinh xảo khéo léo của
người họa sĩ có thể nói đã đạt đến đỉnh cao, động tác của vị võ sĩ kim giáp
chứa đầy uy lực, mặc dù chỉ là một bức vẽ tĩnh tại, nhưng khí phách trong tranh
thì dường như đã toát cả ra bên ngoài, bình tĩnh nhìn lại, quả thực khiến người
ta có cảm giác người võ sĩ bất cứ lúc nào cũng có thể đạp tường nhảy ra.
Lúc này Liễu Trần trưởng
lão cũng đã leo xuống tới nơi, ngắm vị võ sĩ trên tường mà không ngớt lời khen
ngợi. Liễu Trần trưởng lão cùng Gà Gô quan sát tỉ mỉ những đặc điểm của võ sĩ
trong tranh, có thể đoán định được vị tướng quân mặc áo kim giáp này chính là
tướng quân Ông Trọng(một tướng của An Dương Vương được cư sang đi xứ nhà Đường,
đã có công giúp vua Tần dẹp giặc Hung Nô, được phong làm Vạn Tín Hầu), vị đại
tướng thời Tần, dũng mãnh vô song,tương truyền đến quỷ thần còn phải nể sợ. từ
thời nhà Đường, trên bức tường đầu tiên trơng các lăng mộ quy mô lớn của giới
quý tộc đều vẽ hình tướng quân Ông Trọng, giống như là môn thần canh giữ cho sự
an toàn của lăng mộ.
Song tranh màu phơi bày ra
nơi ngoài cùng của lăng mộ thế này, rất dễ bị xuy hóa, trải qua hàng ngàn năm,
màu sắc trong tranh gặp phải không khí sẽ lập tức bốc hơi, hơn nữa dân đổ đấu
hoặc trộm mộ đa phần đột nhập vào từ bên dưới hoặc hai bên vách, rất ít khi di
vào từ cửa chính, cho nên tướng quân Ông Trọng bảo vệ lăng mộ trong truyền
thuyết xưa nay cũng chỉ là nghe nói đến, hôm nay mới tận mắt chứng kiến, cả gà
Gô và Liễu Trần trưởng lão đều sững sờ đứng lại nhìn ngắm bức tranh lâu hơn một
chút.
Gà Gô nói với Liễu Trần
trưởng lão: " Sư phụ, con thấy lăng mộ của người Tây Hạ quả nhiên đã chịu
ảnh hưởng rất nặng của văn hóa Trung nguyên, ngay đến hình ảnh tướng quân nước
Tần cũng sao cả vào đây. Xem ra bức vách có hình tướng quân gác cửa này có thể
chính là cánh cửa cổ mộ bên dưới Thông Thiên Đại Phật tự, vị trí chúng ta đang
đứng hiện giờ chính là huyền môn rồi"
Liễu Trần trưởng lão giơ
cây đèn bão quan sát bức tường vẽ hình tướng quân Ông trọng, gật đầu nói:
" Trên tường có đóng đinh cửa theo lối chín ngang bảy dọc, quả nhiên là
cửa mộ... "Liễu Trần trưởng lão nói chưa dứt câu chợt thấy hình vẽ tướng
quân Ông Trọng mặc áo giáp vàng trên cửa đá chợt léo sáng hai lần rồi biến mất.
Cha Thomas vào trong địa
đạo âm u đáng sợ này, thần kinh đang hết sức căng thẳng, đột nhiên lại thấy
dưới ánh đèn lập lòe, vị võ sĩ mặc kim giáp trên tường đột ngột biến mất, sắc
mặt vị cha cố bợt bạt hãi hung, không ngừng đưa tay lên ngực làm dấu thánh.
Liễu Trần trưởng lão nói
với cha Thomas: "Hòa thượng tây các hạ chớ kinh hãi, không khí nơi đây dần
dần được lưu thông, màu sắc trên bức tranh cũng sẽ theo đó mà biến mất, không
phải là việc ma quỷ tác quái gì đâu"
Cha Thomas vẫn chưa hoàn
hồn, chỉ cảm thấy trong chốn tăm tối này đâu đâu cũng thấm đẫm bầu không khí
thần bí ma quỷ, ngay cả Thượng đế toàn năng chắc cũng khó mà biết được thế giới
đằng sau cánh cửa đá kia là như thế nào, hôm nay bị hai người Trung Quốc bắt
phải đến đây, đúng là đen đủi hết chỗ nói, không chừng thế giới bên dưới lòng
đất này lại thông đến lãnh địa của qủy Satan hoặc bên trong có người sói, ma cà
rồng, cương thi hay gì đó đại loại như vậy. Cha Thomas tuy là một linh mục, đức
tin vững chắc, song cũng không thay đổi được nỗi sợ hãi khi phải đối mặt với
bóng tối, ông vẫn thường tự trách bản thân, cho rằng đức tin của mình vẫn chưa
kiên định, sự việc ngày hôm nay có lẽ là thử thách của Thượng đế cũng không
chừng, lần này nhất định phải chiến thắng nỗi sợ hãi bóng tối, nhưng tâm lý sợ
hãi bẩm sinh này trong một khoảng thời gian ngắn không thể khắc phục được.
Gà Gô đâu rảnh rỗi để quan
tâm tam trạng phức tạp trong lòng cha Thomas lúc này, anh tỉ mỉ quan sát cánh
cửa cổ mộ, biết được đây là một cánh cửa lưu sa, nguyên lý thiết kế của loại
cửa mộ này hết sức cao diệu, phía sau cánh cửa bố trí một lượng cát lớn, sau
khi an táng chủ mộ, cánh cửa sẽ được đóng kín từ bên ngoài, dưới chân cửa là hệ
thống đường ray, khi cửa đã đóng lại sẽ kích hoạt công tắc sau cửa, và một khối
lượng cát lớn sẽ đổ ra, tự động lấp đầy mộ đạo đằng sau, đồng thời cũng tăng cường
cho cửa mộ một lướp bảo vệ vững chắc, tuy cửa đá không dày lắm, nhưng cũng
không thể nào đẩy vào được từ bên ngoài.
Tuy nhiên ngay lúc đó Gà Gô
và Liễu Trần trưởng lão đã phát hiện ra một chi tiết nhỏ, chi tiết này rất dễ
bị bỏ qua, chính là khe hở dưới chân cửa không có chút cát nào lọt qua, bởi
huyền môn cho dù được xây dựng tinh xảo đến nước nào, thì dưới cửa vẫn có hệ
thống đường ray, cho nên nhất định vẫn còn kẽ hở, khi cửa lưu sa đóng lại,
không ít thì nhiều sẽ có chút cát bị đẩy qua kẽ hở.
Không có vết cát dưới cửa,
chứng tỏ chốt đổ cát phía sau cánh cửa vẫn chưa bị kích hoạt. Nếu xét trong
hoàn cảnh người chết đã được nhập niệm thì chuyện này thật đáng ngờ, nhưng đây
là mộ không chủ, bên trong toàn là báu vật quý hiếm của triều đình Tây Hạ, người
Tây hạ đã tính tới sau khi phục quốc sẽ đến lấy những báu vật này ra, bởi vậy
họ mới không niêm phong cửa minh điện.
Điều này cũng giúp cho hai
thầy trò đỡ tốn công sức, không cần phải đào đường hầm vào bên trong, cứ thế
đẩy cửa vào là có thể đi qua mộ đạo đến kho báu trong minh điện. Gà Gô, Liễu
Trần trưởng lão và cha Thomas, ba người cùng hợp sức nhất tề đẩy mạnh huyền môn.
Huyền môn không bị khóa
chết, công tắc lưu sa phía sau cửa đã bị tắt đi, cửa đá tuy nặng, nhưng cũng
không phải loại cửa đá khổng lồ nghìn cân trogn lăng mộ vua chúa, mà chẳng qua
chỉ là một tấm bình phong trong lăng mộ quý tộc, thê nên ba người chưa phải dốc
hết sức, đã có thể khiến cánh cửa dịch chuyển lộ ra một khe hở đủ cho một người
lách qua.
Gà Gô cầm ô kim cang trong
tay tiến vào huyền môn, kế đó đó bắn một viên pháo sáng, ánh sáng vừa lóe lên,
toàn bộ không gian phía sau cánh cửa liền trở nên rõ ràng, hai bồn chứa hai bên
vách chẳng có hạt cát nào, hoàn toàn trống rỗng, trên nền mộ đọa gạch lát thẳng
bằng ngay lối. Gà Gô nhận thức được rằng con đường càng bằng phẳng bao nhiêu
thì càng nhiều nguy hiểm rình rập bấy nhiêu, phía trong rất có khả năng ẩn chứa
những cạm bẫy như ám tiễn, phi đao, khói độc.
Liễu Trần trưởng lão phía
sau cũng không ngừng nhắc nhở Gà Gô phải hết sức thận trọng, cửa lưu sa chưa bị
phong bế có thể do năm xưa người Tây Hạ vội vã chạy tháo thân, trong lúc cấp
bách không để ý đến, dù sao thì ngôi Thông Thiên Đại Phật tự nãy cũng đã bị môi
trường tự nhiên biến đổi khắc nghiệt nuốt chửng, trên mặt đất không còn lại bất
cứ vết tích nào, không phải là người hiểu rõ ngọn ngành ắt không thể tìm ra
được. Cũng cso khả năng đây là một cạm bẫy, khiến những kẻ đi qua huyền môn lơ
là mất cảnh giác, dân gian có câu "huyền môn cửa ấy dễ vào, không như
huyền đạo mất bao mạng người", một số mộ có cửa đá cục mịch nặng nề, đằng
sau còn có đá lăn cát chảy bịt lại, nhưng những thứ ấy đều là trò vặt vãnh cả,
chỉ cần đủ ngoại lực tác động, là mở ra được, cạm bẫy ám khí đích thực một là
trong hầm mộ, thứ đến là trong mộ đạo, bởi đây là hai nơi bọn trộm mộ bắt buộc
phải đi qua.
Gà Gô đương nhiên không dám
khinh suất, suy cho cùng anh cũng chưa vào lăng mộ người Tây Hạ bao giờ, chỉ
thất tập trung cao độ, bước từng bước nên nền gạch tiến về phía trước, mộ đạo
dài chừng bảy mươi mét, tận cùng đầu bên kia là một cánh cửa lớn.
Cánh cửa xem ra rất không
bình thường, vừa cao vừa rộng, được thiết kế giống như một cổng thành hình vòm,
chiếm hết diện tích của mộ đạo. Toàn bộ cánh cổng là một khối ngọc trắng được
chạm khắc, không có họa tiết hoa văn nào, mà chỉ khắc rất nhiều chữ tây hạ. Mấy
người bọn Gà Gô tuy không hiểu những chữ này có nghĩa là gì, nhưng cũng đoán đó
có lẽ là những đoạn kinh phật. Trên cửa ngọc có một then đồng vắt ngang, chính
giữa treo một ổ khóa khổng lồ, không thấy chìa khóa đâu, phía sau cánh cửa nhất
định là mộ thất, nới chứa báu vật.
Lạ ở chỗ, hai bên cửa bạch
ngọc mỗi bên đều có một cái hang hình vòm sâu hun hút. Gà Gô và Liễu Trần
trưởng lão chưa từng gặp loại mộ đạo có hnag kiểu này, song rõ ràng hai cái
hang có kích cỡ y hệt nhau, hai bên đối xứng này là hang nhân tạo, hang được
xây rất kiên cố, đá lát trên bốn bức vách trơn nhẵn như gương, chiều cao và độ
rộng của hang đều phải mấy mét, quyết không phải xây cất vội vàng, có lẽ là lúc
bắt đầu thiết kê khu lăng mộ, người ta đã dự tính xây hai cái hang động này
thuộc chỉnh thể thống nhất của lăng mộ.
Theo kinh nghiệm lâu năm
của mình, Liễu Trần trưởng lão phán đoán đây có lẽ là một loại cạm bẫy, đoạn
cùng Gà Gô phân tích một hồi. Gà Gô nói: " Trên cửa ngọc có khóa đồng, đệ
tử vốn thạo phá khóa, song chỉ sợ rằng khóa đồng mà bị phá, sẽ kích hoạt những
cạm bẫy quanh đây... "
Liễu Trần trưởng lão xua
tay nói: " Lão nạp cho rằng không thể mở chiếc khóa này được, trên cửa
ngọc gắn khóa đồng, đây dường như là vẽ rắn thêm chân, những người có thể tiến
vào đến mộ thất này, sao có thể bị một cái khóa đồng cỏn con như thế cản trở
được, tương truyền thời Bắc tống có một loại khóa gọi là khóa liên tâm, ngươi
xem thân khóa có gắn liền với cửa ngọc không nếu có thì chỉ cần động khẽ vào ổ
khóa là có khói độc hay gì đó tự xì ra ngay.
Gà Gô nghe vậy không dám
động vào ổ khóa nữa, mà cẩn thận quan sát kĩ càng, quả nhiên khóa đồng và then
đồng trên cửa ngọc gắn liền thành một khối, đừng nói đến chuyện mở khóa, chỉ
cần chạm vào cũng có thể kích hoạt cạm bẫy bắn ra trước cửa. Gà Gô thấy vậy thì
toát mồ hôi lạnh, bản thân xưa nay luôn cẩn trọng, hôm nay chẳng biết làm sao
mà lòng như lửa đốt, nếu không có Liễu Trần trưởng lão chỉ ra cạm bẫy, có lẽ
lúc này anh đã hồn lìa khỏi xác, nằm ở dưới đất lạnh kia rồi.
Liễu Trần trưởng lão giờ đã
nhìn ra đầu mối, liền quay sang nói với Gà Gô: " Xem ra cửa ngọc chỉ là để
đánh lạc hướng thôi, tuy xây cất tinh xảo, nhưng thật ra chỉ là một cánh cửa
giả, tuyệt nhiên không thể phá cửa mà vào được, động vòm ở hai bên chắc chắn
cũng được bó trí nhiều cạm bẫy. Ngôi mộ cổ Tây Hạ này tuy rằng không lớn, nhưng
bố cục lại vô cùng nghiêm cẩn, muốn vào mộ thất e chỉ còn cách chui xuống bên
dưới mộ đạo thôi. Người Tây Hạ có tinh ranh cổ quái thế nào, cũng khó thoát
khỏi ảnh hưởng của lý luận âm dương phong thủy ngũ hành, nguyên lý của đoạn mộ
đạo này chẳng qua chỉ là lời dụng tứ môn tứ tướng, nhìn gà vẽ quốc, nên nền đất
đá dưới chân ta chắc chắn không cố định, có thể tiến vào mộ thất từ phía dưới,
nếu không nhầm, có lẽ đây là lối vào duy nhất"
Gà Gô theo chỉ dẫn của Liễu
Trần trưởng lão, bẩy từng viên gạch dưới sàn mộ đạo lên, quả nhiên dưới đất lộ
ra một cửa hang lớn, thông thẳng tới mộ thất phía sau cửa ngọc, cái ngón điêu
trùng tiểu kĩ này của người Tây Hạ đích thực là không thể đánh lừa được pháp
nhãn của vị uyên lão đổ đấu Liễu Trần trưởng lão.
Vẫn là Gà gô cầm ô kim cang
đi trước dẫ đường, ba người đi qua địa đạo tiến vào hầm mộ, trong địa đạo có
treo một phiến đá to màu đen, trông như một tổ ong, cả Gà Gô lẫn Liễu Trần
trưởng lão đều không biết đó là vật gì, trong ánh sáng lờ mờ của ống phốt pho,
trông nửa giống đá nửa giống ngọc, chẳng hiểu là gì, chỉ cảm thấy không nên
đụng vào thì hơn, bèn lách sang bên cạnh để đi tiếp.
Vừa bước vào mộ thất ai nấy
đều chói mắt, sau căn mộ thất rộng hơn sau trượng vuông có cơ man những ngọc
ngà châu báu chất cao như núi, dưới ánh lửa phốt pho xanh lét những châu bái ấy
càng trở nên lung linh lạ thường, nổi bạt nhất trong số đó là một cây san hô
được khảm vô số loại bảo thạch đặt giữa phòng. Báu vật quý hiếm trong hoàng
cung đại nổi quả không phải tầm thường, ngoài ra còn có vô số kinh thư cổ tịch
và các rương hòm to nhỏ, xem ra những thứ có giá trị trong hoàng cung Tây Hạ
đều nằm ở đây cả.
Cha Thomas đứng nhìn mà hai
mắt không chớp lấy một lần, hỏi Liễu Trần trưởng lão liệu có thể lấy đi một hai
món không, lấy bừa một món ra ngoài bán là có thể xây được mấy tòa giáo đường,
làm nơi thụ dưỡng dạy dỗ cho những đứa trẻ lang thang không nơi nương tựa.
Liễu Trần trưởng lão nói
với cha cố: " hành thiện như vậy có gì không được, chỉ có điều những vậy
này đều là quốc bảo, lão nạp trước khi xuất gia cũng còn lai một ít gia sản,
nếu ngài đây muốn xây dựng giáo đường, lão nạp xin dốc túi hỗ trợ, dù sao
ngưoif xuất gia tứ đại giai không, giữ lại những thứ vàng bạc đó cũng chẳng để
làm gì"
Gà Gô trong lòng chỉ quan
tâm tới Mộc trần châu, những báu vật khác tuy quý giá, nhưng trong mắt anh cũng
chỉ như cỏ rác.Anh giẫm lên những báu vật là liệt khắp đất tiến về phía trước,
rồi bỗng nhiên dừng bước, quay đầu lịa nói: " Không xong rồi, trong mộ
thất này có người chết"
Trước đó đã phán đoán trong
hầm mộ này không có người chết, nay lại nghe Gà Gô nói vậy, Liễu Trần trưởng
lão cũng giật mình, vội rảo bước lên xem, chỉ thấy tại một góc hầm mộ có một bộ
xương người trắng ớn, so với kích thước người thường thì lớn hơn nhiều, lòng
bàn tay bộ xương nắm một chum chìa khóa, phía sau là một pho tượng Phật nghìn
tay đen bóng, chẳng phải đá cũng chẳng phải ngọc, phi ánh sáng cảu ống phốt pho
rọi lên, cũng không hề thấy phản quang, thêm vào bộ xương trắng phía trước, quả
là đen trắng rõ ràng, càng khiến người ta cảm thấy khiêp hãi.
Liễu Trần trưởng lão thấy
tình cảnh ấy, trong lòng não ruốt: " Đại sự chẳng lành rồi, đêm nay trùng
vào ngày đại phá, Bồ Tát nhắm mắt, tất cả pháp khí đều mất tác dụng, nếu trong
hầm này còn có oan hồn chưa siêu thoát, chúng ta sẽ chết mà không có chỗ chôn
mất. Lạ hơn nữa là, ở đây sao lại có một pho tượng... Phật đen nghìn mắt nghìn
tay cho được? "
Chương 27: Tượng
phật đen
G à Gô nhìn thấy bộ xương đó liền có dự cảm chẳng lành, giờ lại nghe
giọng nặng nề của Liễu Trần trưởng lão, chỉ biết sự việc đã trở nên nghiêm
trọng, đoạn hỏi Liễu Trần trưởng lão Bồ tát nhắm mắt là gì?
Liễu Trần trưởng lão nói:
Trăng có bảy mươi hai lần phá, hôm nay lại gặp đúng ngày đại phá, ắt lắm sự
hung, tương truyền vào những ngày này dương khí trên mặt đất suy yếu, sao Thái
Âm rọi chiếu, rất dễ xảy ra những chuyện quái gở, làm nghề đổ đấu ai dám nhập
mộ mò minh khí vào những lúc thế này? Lão nạp ban đầu cho rằng ngôi mộ này là
mộ vô chủ ai ngờ bên trong lại có bộ xương người? hơn nữa là có pho tượng Phật
đen nghìn tay nghìn mắt cạnh bộ xương trắng. Tượng này không phải vật thường,
trong hầm mộ mà có tà ma ẩn náu thì móng lừa đen và gạo nếp của chúng ta đêm
nay cũng không có tác dụng, mau rút thôi".
Gà Gô tuy không cam lòng
nhưng cũng biết phân biệt tốt xấu, lập tức chẳng nói gì thêm vội cùng Liễu Trần
trưởng lão và cha cố Thomas quay người chạy ra theo lối địa đạo phía dưới cánh
cửa ngọc.
Ba người rút lui, người sau
cùng lại thành người dẫn đầu, cha cố người Mỹ Thomas giờ đi tiên phong, thấy
hai người Trung Quốc định quay trở ra, như bắt được vàng, lập tức tiến đến cửa
đường hầm, thắp sáng một ngọn nến mà Gà Gô đưa cho ông ta lúc trước, định chui
vào bên trong.
Liễu Trần trưởng lão đi thứ
hai bỗng hét lớn: "Ấy, chớ" cùng lúc đưa tay túm lấy cổ áo cha Thomas
kéo ngược lại, chỉ thấy từ trong đường hầm bỗng phun ra một màn khói đen đậm
đặc, nếu động tác của Liễu Trần trưởng lão chỉ hơi chậm hơn một chút, chắc chắn
cha Thomas sẽ chạm phải làn khói đen đó, chỉ cần chậm một bước, rất có thể vị
cha cố có đức tin kiến thành kia đã đi gặp Thượng đế của ông ta rồi.
Gà Gô và Liễu Trần trưởng
lão đều biết đây là khói độc thường được bố trí trong các cổ mộ, lối ra duy nhất
thông thường đều có bố trí các kiểu cạm bẫy hung hiểm như vậy cả, không biết
trong ba người ai đã chạm phải chốt lẫy làm kích hoạt hệ thống khói độc này,
cũng may nhờ có Liễu Trần trưởng lão mặc dù tuổi cao nhưng kinh nghiệm dày dặn
mới cứu được mạng sống của cha Thomas.
Loại khói độc màu đen này
rất có thể là khí chưng cất từ nọc của loài trùng nghìn chân, vừa đậm đặc lại
không dễ tan, giống như một thứ dịch thể màu đen cô đặc. Khói đen thoát ra
trong địa đạo mỗi lúc một nhiều hơn, ba người đều đã uống thuốc ngừa độc, bí
dược của phái Mô Kim đa phần dùng để đối phó với khí độc thoát ra từ xác chết
bị phân hủy, còn đối với loại khói độc đậm đặc như thế này thuốc có tác dụng gì
hay không thì không ai biết chắc cả.
Nhìn thấy đám khói đen phun
ra ồ ạt, ba người không dám khinh suất, đành lui về phía góc phòng có bộ xương
trắng, nhưng ở đây vốn không có gì che chắn, chỉ lui có vài bước đã đến chân
tường. Làm sao mới nghĩ được cách ngăn làn khí độc hại này lại, không để nó
tiếp tục lan vào bên trong.
Không còn đường rút lui
không phải là mối lo của Gà Gô và Liễu Trần trưởng lão, bên mình đã có xẻng
Tuyền phong, cùng lắm thì đào một đường hầm khác ngược trở ra, nhưng nếu không
ngăn được luồng khí độc hại, thì chỉ trong giây lát thôi mọi người sẽ bỏ mạng.
Cả tài năng cơ trí đầy mình
như Gà Gô hay kinh nghiệm dày dặn như Liễu Trần trưởng lão cũng đành phải bó
tay chịu thua, nếu đây chỉ là khí độc bình thường thì cũng có thể dựa vào sức
thuốc của Hồng liêm diệu lục hoàn, nín thở chạy xuyên qua là thoát thân, nhưng
điều đáng ngại là nồng độ đậm đặc của làn khói đen này đã đặc đến mức cùng cực
hiếm thấy. Từ lúc đặt chân vào trong địa đạo mọi người đều đã hết sức cẩn thận,
không để xảy ra việc cạm bẫy bị kích hoạt, không ai hiểu nổi làn khói đen ấy
rốt cuộc từ đâu bay ra.
Phía sau là vách tường của
hầm mộ, ba người áp lưng vào vách đá lạnh ngắt, lúc này thì dù bản lĩnh cao
cường đến mấy cũng không còn đường thoát nữa,ba người chỉ còn cách giương mắt
lên nhìn cuộn khói đen đặc từ từ lan đến.
Cha Thomas nhìn làn khói
độc, mặt cắt không còn hột máu, nhất thời quên cả cầu xin Thượng Đế phù hộ, Gà
Gô thấy vậy liền huých nhẹ vào vai vị cha cố hỏi: "Này ông sư Tây, trong
lúc nước sôi lửa bỏng thế này sao không thấy Chúa của ông đến cứu nhỉ?"
Cha Thomas đến lúc này mới
sực nhớ ra mình là linh mục, ông ta gắng trấn tĩnh nói: "Thượng Đế toàn
năng có lẽ đang bận những công việc khác, không để ý được đến ta, nhưng ta tin
chắc rằng sau khi chết ta sẽ được lên thiên đàng, sự sống không quan trọng,
quan trọng là sau khi chết có thể lên thiên đàng, tin vào Thượng Đế sẽ có được
sự sống vĩnh hằng.
Gà Gô cười nhạt: " Ha
ha, thì ra Thượng Đế nhà ông bận bịu đến vậy, tôi thấy nếu ông ta bận quá,
chứng tỏ ông ta không cáng đáng nổi chức vụ của mình, như vậy chi bằng để một
con khỉ lên làm Thượng Đế cho rồi, bọn khỉ chúng nó nhiều tinh lực lắm.
Cha Thomas thấy Gà Gô nói
đấng tối cao của mình không bằng loài khỉ thì phẫn nộ vô cùng, đang định mở
miệng phản bác, lại nghe Gà Gô nói tiếp: "Ông sư Tây, nếu như giờ ông chịu
quy y cửa Phật, không tin vào Thượng Đế khỉ gió của ông nữa, tôi sẽ có cách
giúp ông thoát chết, còn nếu ông không đồng ý, nhiều nhất một phút nữa, đám
khói độc kia sẽ lan đến đây, trừ phi cơ thể ông không phải bằng xương bằng
thịt, bằng không chỉ độ một phút thôi, ông sẽ bị hun cho đến khi thất khiếu
xuất huyết rồi chết đấy.
Cha Thomas nói: "Lúc
này cái chết đang cận kề mà anh vẫn có thể bình tĩnh đến vậy, tôi xin bày tỏ
lòng kính phục, song lẽ cũng xin anh hãy tôn trọng đức tin của tôi, có điều,
tin vào Bồ Tát của anh có thể sống sót quay về được thật hay sao? Anh không lừa
tôi đấy chứ?"
Liễu Trần trưởng lão cũng
đã phát hiện ra điểm mấu chốt của đám khói ấy, nghe ẩn ý trong lời Gà Gô, đoán
chắc có lẽ anh cũng nghĩ được cách thoát thân rồi, Liễu Trần trưởng lão thấy
trong hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc mà Gà Gô vẫn còn tâm trí trêu ghẹo linh
mục người Mỹ, bất giác trong lòng thầm nể phục sự gan dạ của anh chàng này.
Thì ra khi thấy đám khói
độc đã hoàn toàn bao phủ không gian phía trước, Gà Gô áp sát thân mình vào bức
tường đá phía sau theo phản ứng, bỗng cảm thấy sau lưng mát rượi, dường như va
phải vật gì đó, bèn ngoái đầu lại xem,hóa ra là một chân đèn gắn lên tường, vị
trì này có lẽ là nơi treo đèn trường minh phía trước quan quách.
Nhưng lăng mộ này không có
quan quách, chỉ có một bát đèn rỗng gắn lên vách tường, con mắt nhà nghề của Gà
Gô và Liễu Trần trưởng lão nhìn một cái đã thấy ngay vị thế bát đèn có vấn đề.
Theo lẽ thường, đèn trường minh phải được gắn ở độ cao ba thước ba tấc ba,
nhưng đèn ở đây rõ ràng là thấp hơn một chút, tức là thấp hơn nửa tấc, chân đèn
hơi chúc xuống, chắc chắn là chốt mở cửa ngầm, chỉ cần đẩy chân đèn lên, toàn
bộ bức tường phía sau sẽ lật ngược lại, mở ra mật thất ẩn phía trong, mật thất
thường được gọi là , còn gọi là "phòng ghép", dùng làm nơi cất giấu
những đồ tùy táng quan trọng nhất, dù cho ngôi mộ có bị bọn trộm vào càn quét,
thì những minh khí bên trong mật thất cũng không dễ bị phát hiện ra.
Gà Gô là kẻ gan to tày
trời, giữa lúc nước sôi lửa bỏng, vẫn còn đe dọa cha cố Tây, thấy ông thà chết
chứ chứ không chịu khuất phục, không chịu từ bỏ đức tin vào Chúa để quy y cửa
Phật, đâm ra cũng khâm phục lòng kiến thành ấy, bất giác cũng cảm thấy mình có
phần quá đáng, đám khói đen ấy mỗi ngày một dày đặc hơn, Gà Gô không dám chần
chừ nhiều, bèn giơ tay nắm lấy đèn trường minh, đẩy mạnh lên trên, đèn trường
minh gắn trên tường quả nhiên chuyển động, bên tai chỉ nghe thấy tiếng rầm
rình, bức tường đá sau lưng từ từ quay ngược lại, bụi bặm trên vách đá bay
xuống như mưa, ba mái đầu bên dưới thoáng chốc đã bám đầy cát bụi.
Phía sau bức tường là một
căn phòng ghép cao rộng chừng hai trượng, khi bức tường có gắn chốt lẫy xoay
chuyển liền mang theo cả bức tượng Phật đen nghìn tay nghìn mắt và bộ xương
người ngả về phía tường vào bên trong. Phòng ghép không có nhiều ngọc ngà châu
báu như mộ thất, mà chỉ có một chiếc hòm khóa kín.
Gà Gô không buồn xem cho kỹ
càng, đã bậy ngay mấy viên gạch dưới nền đất lên, xúc đất phía dưới vun vào kẽ
hở dưới bức tường di động, đề phòng khói độc len lỏi vào trong, vả lại cũng
nhận thấy nền đất trong phòng ghép tương đối mềm, đào đường hầm thoát ra bên
ngoài có lẽ cũng chỉ mất một canh giờ, không khí duy trì nguồn sống trong
khoảng thời gian ngắn ngủi như vậy chắc không thành vấn đề gì.
Liễu Trần trưởng lão đã đổ
đấu cả một đời người, với ông những mộ thất chật hẹp như thế này chẳng có gì.
Khi thấy Gà Gô luôn tay luôn chân không ngừng dùng xẻng Tuyền phong đào đường
hầm ngược trở ra, liền ngồi xuống xếp bằng tĩnh tâm, tay lần tràng hạt.
Cha Thomas thấy cả Gà Gô
lẫn Liễu Trần trưởng lão ai vào việc đấy, không ai nói năng câu nào, bèn cất
tiếng hỏi Liễu Trần trưởng lão: "Ngài có phát hiện được gì không? Bên
trong đám khói đen ngoài kia hình như có vật gì đó, tôi thấy có vẻ không giống
khí độc lắm".
Liễu Trần trưởng lão nhắm
mắt lặng thinh, một lúc sau mới từ từ mở ra, nhìn linh mục Thomas nói:
"Sao kia, ngài cũng đã nhìn thấy ư?"
Cha Thomas gật đầu:
"Ngay lúc tôi bị cánh cửa xoay hất vào trong, khoảng cách giữa tôi và đám
khói đó rất gần, giữa đám khói hình như có một bóng người, trông rất giống pho
tượng Phật, vậy rốt cuộc là... "
Gà Gô đang vùi đầu đào hầm,
Liễu Trần trưởng lão và linh mục đang nói chuyện, tò mò ngẩng đầu lên, tò mò
ngẩng đầu lên, ngay khoảnh khắc cánh cửa xoay vào bên trong phòng ghép, anh
cũng nhìn thấy hình thù kỳ quặc đó trong làn khói đen.
Liễu Trần trưởng lão ngẫm
nghĩ một hồi, đoạn chỉ tay về phía pho tượng Phật đen nghìn tay nói:
"Tương truyền Phật đen là một vị Tà thần mà người Cổ Nhữ Khiếp cung phụng,
nắm quyền thao túng bóng đêm. Tà giáo thờ Phật đen dưới thời Đường đã bị quan
phủ càn quét, không ngờ trong cung đình Tây Hạ lại cất giấu một pho tượng Phật
đen. Nguyên liệu tạo ra pho tượng Phật đen này rất có thể là ngọc rữa của nước
Ba Tư cổ, tương truyền ngọc rữa là một loại quái thạch hiếm có, tuy được gọi là
ngọc nhưng không hẳn là ngọc, bất kể là người hay vật một khi đã chạm vào nó,
thì chỉ trong giây lát toàn bộ da thịt nội tạng sẽ tan thành nước, chỉ trơ lại
bộ xương mà thôi, vong linh người chết cũng sẽ nhập vào tượng Phật đen, và âm
hồn sẽ không được siêu thoát.
Gà Gô nhìn bộ xương người
trắng ởn, quay sang nói với Liễu Trần trưởng lão: "Xem ra bộ xương này,
sinh thời là một thị vệ trung thành, tự nguyện ở lại hang chứa báu, chạm vào
tượng Phật đen quyên sinh, để rồi mãi mãi trấn giữ báu vật trong hang động. Đám
khói đen đặc bất ngờ bay ra mà ba người chúng ta gặp phải, có lẽ không phải khí
độc mà là... ", chưa nói hết câu, mọi người đã đều hiểu ý.
Liễu Trần trưởng lão nhắc
nhở Gà Gô và linh thực Thomas phải hết sức cẩn thận, không để da thịt tiếp xúc
với tượng Phật đen, đồng thời nhanh chóng đào đường hầm thoát ra, nếu quả thật
nơi đây có tà ma tác quái, căn phòng ghép bé xíu này khó mà có thể ngăn trở
được. Liễu Trần trưởng lão nhớ ra trong tay bộ xương người có nắm một chùm chìa
khóa, liền thuận tay gỡ lấy, trong phòng có một chiếc hòm, không chừng Mộc trần
châu được cất trong đó, chùm chìa khóa này có khi lại có một chiếc dùng để mở
chiếc hòm kia, chi bằng cứ thử mở xem sao.
Liễu Trần trưởng lão thắp
một cây nến, trong căn phòng ghép này cũng không cần phải tìm góc Đông Nam để
làm gì, chỉ cần có chút ánh sáng là đủ rồi, Liễu Trần trưởng lão cầm chùm chìa
khóa thử mở, quả nhiên có chiếc chìa mở được chiếc hòm. Đường hầm Gà Gô đào đã
được hơn một trượng, khi chui ra đổ đất thì đúng lúc Liễu Trần trưởng lão mở
nắp chiếc hòm, vì tò mò muốn biết bên trong liệu có cất giấu Mộc trần châu hay
không, bèn đặt chiếc xẻng Tuyền phong xuống, rồi cùng Liễu Trần trưởng lão mở
nắp hòm, nhưng trong hòm chỉ có một miếng mai rùa khắc đầy những văn tự kì lạ.
Gà Gô vốn tràn trề hy vọng,
tuy cũng đã chuẩn bị tâm lý trước, nhưng vẫn không giấu nổi nỗi thất vọng,
giống như bị hắt một xô nước lạnh vào người đương giữa trưa hè nóng nực, từ đầu
đến chân đều lạnh buốt, đứng như trời trồng, cổ họng ngòn ngọt, ngay sau đó hộc
ra một búm máu tươi, phun đầy lên tấm mai rùa.
Liễu Trần trưởng lão thất
kinh. vốn rõ tính cách Gà Gô hay nôn nóng, tự mua việc, những người càng như
vậy lại càng hay cố chấp, đeo đuổi, tâm tính lên xuống quá thất thường dễ bị
thổ huyết, lo Gà Gô ngất xỉu ở đây, liền vội cùng cha Thomas đỡ lấy anh ta.
Cũng đúng lúc đó, Liễu Trần
trưởng lão chợt nhận ra, nghìn con mắt của bức tượng Phật đen sát chân tường
không biết tự lúc nào đã mở ra trừng trừng, ở trong bóng tối lạnh lùng theo dõi
ba kẻ trộm mộ cả gan xâm phạm hang chứa báu, ánh nhìn tỏa ra sự độc ác cay
nghiệt.
Chương 28: Trùng
Ngọc
N ói là tượng Phật đen nghìn mắt nghìn tay, nhưng thực ra cũng chỉ là
tên gọi, chứ thực ra không phải bức tượng có một nghìn cánh tay, một nghìn con
mắt thật. Tượng Phật đen ngọc rữa có chiều cao tương đương người thường, sau
lưng có mấy chục cánh tay hoặc cầm các loại pháp khí hình dáng khác nhau, hoặc
các ngón tay đang trong tư thế bắt quyết. Toàn thân bức tượng có khoảng hơn
trăm con mắt, vốn luôn trong trạng thái nhắm nghiền, đến lúc này đột nhiên mở
trừng ra, những con mắt không có con ngươi, dường như được ban cho sự sống,
không ngừng ngọ nguậy.
Cha Thomas bị hàng trăm con
mắt trông như những con giòi lúc nhúc trên thân bức tượng làm cho chân tay bủn
rủn, phát hãi phát hùng, vội hỏi Liễu Trần trưởng lão: "Đây... đây là thứ
gì vậy hả ngài? Những con mắt này mở ra từ lúc nào vậy? Chúng là mắt hay là sâu
bọ vậy? "
Liễu Trần trưởng lão kiến
văn quảng bác, song chưa từng tận mắt nhìn thấy nọgc rữa và Phật đen, chỉ được
nghe các vị tiền bối nhắc thế gianc ó tồn tại hai thứ như vậy, song tuyệt tích
đã lâu, bản thân các vị tiền bối cũng không hay rõ nội tình bên trong thế nào,
vậy nên nội dung truyền đạt lại cũng hết sức có hạn, lẽ nào bên trong pho tượng
Phật đenq ủa thực có vong hồn chưa siêu thoát? Bằng không sao tượng Phật đen
lại giống như có sinh mạnh thế...
Rồi từ bên trong hơn trăm
con mắt của Phật đen bốc ra những dòng khí đen đặc như ngưng kết, những dòng
khí này tụ thành một khối trong căn phòng, dưới ánh sáng lay lắt của ngọn nến,
có thể nhận ra hình dạng của đám khí như một pho tượng Phật đen mờ ảo.
Gà Gô vừa nôn ra máu song
lúc này thần trí cũng đã hồi phục, nhìn đám khí khủng khiếp trước mắt, anh cũng
như Liễu Trần trưởng lão và cha Thomas, đều rất đỗi sứng ờ. Những chuyện kỳ lạ
quái đản trong cổ mộ xưa nay không hiếm, trong đời trộm mộ Gà Gô đã gặp không
biết bao chuyện kỳ dị, đến giờ rất khó có sự việc gì khiến anh thấy kỳ lạ, thế
nhưng đám khí đen này quả thực nằm ngoài sức tưởng tượng, nếu không phải tận
mắt chứng kiến, chẳng bao giờ anh tin được trên đời lại có cái sự tà mị đến thế.
Cha Thomas thấy đây có lẽ
là ác ma, liền rút ra một chai nước thánh, mở nắp rồi hất vào đám khói đen,
cuộn khí đen đặc như mực vốn di chuyển rất chậm chạp, thấy có nước hấp lại, tức
khắc nhanh chóng tách ra thành một miệng hố lớn, nước thánh của cha Thomas hắt
ra rơi tọt vào miệng hố chính giữa dòng khí, đổ ụp lên nền đất. Giữa đám khói
đen kịt hiện ra một cái lỗ lớn, lại nằm chính giữa tượng Phật, tựa như Phật đen
đang há cái miệng dữ tợn đen ngòm, nhằm về phía ba người rú không lên tiếng.
Gà Gô thấy đám khói đen có
vẻ sợ nước thánh của cha Thomas, vội giục ông ta hắt thêm chút nữa xem sao, cha
Thomas nhúng vai nói: "hết rồi, có mỗ nửa bình đó thôi".
Liễu Trần trưởng lão tay
lần tràng hạt nói: "thủ đọan của hòa thượng Tây cũng khá đấy, thì ra đám
khói tà ma này cũng sợ phát khí, xem ra thời khắc đại phá đã qua, ác ma tà đạo
không làm gì nổi ta nữa, hãy xem lão nạp thu phục chúng đây". Nói rồi Liễu
Trần trưởng lão bứt đứt tràng hạt trong tay, bắn phủ đầu một loạt Phật châu vào
đám khói đen.
Nào ngờ lần này đám khói
đen đặc quánh dị thường kia lại không hề phản ứng, bị Phật châu bắn trúng mà
như không có cảm giác, vẫn tiếp tục từ từ lan về phía trước. Liễu Trần trưởng
lão nhủ thầm trong bụng: "quái dị thật! Lẽ nào Phật ta pháp lực vô biên,
lại không sánh được với thứ nước thánh của Tây? Chẹp, thật là... thói đời kiểu
mẹ gì thế không biết."
Gà Gô thấy Liễu Trần trưởng
lão đứng bần thần, vội kéo giật lại, ba người bị khói đen vây bức, không thể
không lùi lại phía sau. Nếu đụng phải cái thứ khói đen ngọc rữa phả ra này có
hai khả năng có thể xảy ra, một là giống bộ xương trắng kia, da thịt nội tạng
bị phân hủy tan thành nước mủ trong giây lát, chỉ còn sót lại bộ xương khô;
trường hợp thứ hai, theo như Liễu Trần trưởng lão đã nói, trong đám khói có âm
hồn tác quái, người sống chỉ cần chạm phải sẽ liền bị ác ma đeo bám.
Bất kể thế nào thì kết cục
cũng rất thê thảm. Phía sau đã là góc tường không còn đường để rút nữa, nhìn
đám khói đen lừng lững lan tới, gà Gô biết đã đến bước đường cùng, bèn nói với
Liễu Trần trưởng lão: "đệ tử hôm nay lụy đến ân sư, dẫu chết trăm lần cũng
khôn chuộc tội/"
Liễu Trần trưởng lão đang
định nói cho Gà Gô một số lý lẽ tinh diệu của nhà Phật để tỏ rõ bản thân ông
sớm đã vượt ra khỏi vòng sinh tử, bỗng phát hiện đám khói đen đặc phía trước
dường như không hướng về phía mình, mà đang lan về góc tường nơi đặt ngọn nến,
người phái Mô kim có một thứ phản ứng mang tính bản năng đối với nến, thấy vậy
liền tự hỏi ngay: "vì sao đám khói đen này lại lan về phía ngọn nến... "
Gà Gô cũng đã phát hiện ra
điều này: "đám khói đen... "
Liễu Trần trưởng lão, cha
Thomas và cả Gà Gô gần như đồng thanh thốt lên: "nến!"
Lúc mới vào minh điện, Gà
Gô dùng ống phốt pho gắn trên ô kim cang chiếu sáng, ánh sáng của ống phốt pho
là ánh sáng lạnh, không phát ra nhiệt lượng, cho nênt ừ lúc bước vào bên trong
minh điện cho đén khi phát hiện ra Phật đen và bộ xương người, không hề có biểu
hiện gì bất thường, chỉ khi ba người muốn quay trở ra, cha Thomas đi sau cùng
trở thành người đi đầu, ông đã châm cây nến Gà Gô đưa cho mình lên, rồi một đám
khói đen đột ngột bay ra trong địa đạo bên dưới cửa ngọc. ba người bị đám khói
này dồn ép chạy vào trong phòng ghép, đến khi Liễu Trần trưởng lão thắp nến mở
hòm, thì pho tượng Phật đen nhiều tay lắm mắt đột nhiên biến đổi, những con mắt
trên tượng bỗng hé mở, tuôn ra dòng khí đen đặc quánh.
Đúng vậy, chắc chắn là
nhiệt độ! Mặc dù không biết nguyên lý thế nào, nhưng đám khói đen này giống như
một đàn thiêu thân thèm lửa, đã bị nhiệt độ của ngọn nến hút lấy, chắc hẳn
không khí trong hầm mộ đạt đến một nhiệt độ nhất định đám khói này mới xuất
hiện, hơn nữa nhiệt độ giới hạn đó cũng phải đủ cao, nếu không thắp nến hay
đuốc gì đó, đám khói đen ấy căn bản sẽ không thể xuất hiện. Loại khói đen này
có vẻ như bình thường đều ở trong trạng thái ngủ, một khi bị nhiệt độ cao đánh
thức, nó sẽ lập tức lan tới tiêu diệt tất cả những mục tiêu nào tỏa ra nhiệt độ
cao hơn nhiệt độ của vật chất trong mộ thất rồi mới trở lại trạng thái ban đầu.
Mục tiêu của đám khói đen
quả nhiên là cây nến dưới đất, đám khói đen đặc quánh có vẻ như vô hình, nhưng
thực ra lại là thực chất, trong chốc lát ngọn lửa trên đầu cây nến bị đám khói
đen nuốt chửng, mộ thất lập tức tối om.
Mấy người bọn Gà Gô thấy
tình cảnh này, biết sau khi đám khói đen dập tắt ngọn lửa trên cây nến sẽ lập
tức tìm kiếm mục tiêu phát ra nhiệt dodọ thấp hơn, và chắc chắn đó là ba con
người trong căn phòng này.
(Giải thích thêm: Ngọc rữa,
tức phủ ngọc, còn có tên gọi là phì ngọc, hoặc trùng ngọc, có nguồn gốc từ hang
núi ở Trung Đông. Bản thân trùng ngọc có rất nhiều đặc tính cổ quái, từ xưa tới
nay được coi là một vật chất thần bí thấm đẫm màu sắc truyền kỳ, cực kỳ hiếm
thấy. Người xưa cho rằng loại đá kylạ có sự sống này có linh hồn tà ma nhập
vào, chỉ cần đốt lửa thắp nến ở gần trùng ngọc, tự bản thân nó sẽ tỏa ra một
lượng lớn khí đen đậm đặc như ngưng kết, khi đám khói đen này ràn qua, những
vật chất có nhiệt độ cao hơn mức giới hạn, đều bị phân hủy thành nước mủ, chứ
không phải chỉ chạm vào ngọc rữa cơ thể đã tan thành nước như những lời Liễu
Trần trưởng lão được nghe nói đến.
Thời cổ từng có một phái tà
giáo lợi dụng đặc điểm tỏa khói đen có hình dạng mơ hồ như một người nhiều tay
của trùng ngọc, bọn chúng đã cụ thể hóa hình người này, tạo nên một bức tượng
Phật đen, để tuyên truyền việc bóng tối sẽ thống trị ánh sáng, thu nạp số lượng
lớn tín đồ, nhưng sau đó giáo phái này đã bị tiêu dịêt hoàn toàn. Từ đó trở đi,
trùng ngọc vốn đã rất hiếm gặp, cũng vì thế mà tuyệt tích trên thế gian. Đến
năm 1986 những hoạt động khảo cổ quốc tế phối hợp, người ta mới một lần nữa
phát hiện ra loại đá kỳ lạ chỉ được ghi chép trong thư tịch cổ này tại khu di
tích Kamanka Layhoyuk của Thổ Nhĩ Kỳ, song vì sao pho tượng Phật đen lại xuất
hiện trong khu di tích Kamanka Layhoyuk thì không thể khảo chứng được.
Cuối thế kỷ 19, bí mật của
trùng ngọc đã được nhà khoa học người Mỹ phá giải, thực tế lớp màn thần bí này
như một tờ giấy dán cửa chỉ cần chọc tay vào là thủng, cũng tương tự như đông
trùng hạ thảo vậy. Gọi là đông trùng hạ thảo , bởi đây là một dạng cộng sinh
giữa loài nấm đông trùng hạ thảo và ấu trùng của các loài bướm, dơi, đúng như
tên gọi, mùa đông thì làm côn trung, đến hè thì hóa thành cỏ; còn phì ngọc, ở
nhiệt độ thường thì ở dạng nửa đá nửa ngọc, gặp nhiệt độ cao sẽ biến thành côn
trùng, loại trùng đen thường tụ tập thành một cụm lớn này, thực chất hết sức
nhỏ bé. Một con "phì trùng" đơn lẻ nếu cố cũng có thể nhận ra bằng
mắt thường khi quan sát kỹ, khi tập hợp lại với số lượng lớn thì rất giống một
đám khói đen dày đặc. Bình thường chúng ở trạng thái chết cứng, một quần thể
xác "phì trùng" chồng chất lên nhau, trong giống như ngọc thạch màu
đen, khi bộ phận dưới lớp vỏ cứng cảm ứng được sự biến đổi cấp tính của nhiệt
độ không khí xung quanh, quá trình lột xác sẽ nhanh chóng diễn ra, phì trùng sẽ
lột bỏ lớp da chết, tập hợp lại bay ra. Những con phì trùng sẽ thoát kén chui
ra này, sẽ sử dụng mọt khối lượng lớn dịch thể có tính ăn mòn được sản sinh ra
qua nhiều lần chết đi sống lại, đẻ nuốt chửng những vẫn vật thể có nhiệt độ cao
trong môi trường xung quanh, thậm chí ngọn lửa cũng có thể bị dịch thể tiết ra
từ xác côn trùng này dập tắt.
Xét trên một góc độ nào đó,
trùng ngọc có thể coi là một vệ sĩ lợi hại trông coi lăng mộ, những con phì
trùng tạo nên một lớp màn, để để bao phủ toàn bộ diện tích trong mộ thất.
Đương nhiên, Gà Gô và Liễu
Trần trưởng lão đều là những Mô kim Hiệu uý mê tín, lần đầu tiên tận mắt thấy
trùng ngọc trong truyền thuyết, hơn nữa thời đó vẫn chưa ai phá giải được bức
màn bí mật bao phủ xung quanh trùng ngọc, cho nên trong mắt họ, hiện tượng đang
diễn ra chính là do ác quỷ lộng hành.)
Đến lúc này cả ba người đều
đã nhìn ra đám khói đen sẽ tấn công mục tiêu có nhiệt độ cao trước, để đánh lạc
hướng chúng, nhóm Gà Gô liền đốt sáng thêm mấy ngọn nến, quả nhiên đám khói đã
bị nhiệt lượng của lửa nến dụ về phía góc tường, giữa góc tường và cánh cửa
xoay liền lộ ra một khoảng trống.
Trước khi vào minh điện, ba
người đều đã uống một viên Hồng liêm diệu tâm hoàn, loại thuốc này có tác dụng
làm hạ nhiệt độ cơ thể, làm chậm nhịp thở, cho nên đám khói đen đang bị thu hút
bởi nhiệt độ của nến, sẽ không dễ phát giác ra sự tồn tại của ba cơ thể sống.
Gà Gô nhận thấy lúc này có đào đường hầm để thoát ra ngoài thì cũng không kịp
nữa, đành men theo vách tường lách qua đám khói đen, chuẩn bị quay ngược trở ra
hầm mộ bên ngoài, rồi tìm cách đánh lừa đám khói đen ngoài đó, và thoát ra theo
lối địa đạo dưới của ngọc.
Lúc đi ra, Liễu Trần trưởng
lão tiện tay cầm lấy miếng long cốt khắc các văn tự kỳ lạ trong hòm, trong rất
nhiền ký hiệu kỳ quái khắc trên miếng long cốt ấy, khá nhiều ký hiệu khá giống
Mộc trần châu, không chừng Mộc trần châu "Mật phượng hoàng" cuối cùng
hạ lạc nơi đâu phải xem trên miếng long cốt này mới biêt được. Hơn nữa miếng
long cốt này được cất giấu kỹ như vậy, nhất định là có giá trị của nó.
Lúc này Gà Gô và cha Thomas
đã đẩy chiếc đèn trường minh là chốt mở cơ quan trên tường, rối rít gọi Liễu
Trần trưởng lão nhanh lên, ông liền rảo bước chạy đến, bức tường lại một lần
nữa rầm rình chuyển động, nhưng xoay được một nữa bỗng dừng phắt lại, dường như
đã bị vật gì đó chặn cứng.
Nguồn tusach.mobi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét