Chương 11:Lệnh
tìm kiếm
Rừng nguyên thủy trước lúc bình minh chìm trong bóng đen như thể bị
đôi cánh của thần chết phủ lên, yên tĩnh đến mức một cái kim rơi xuống đất cũng
có thể nghe thấy. Tôi ngồi trên ngọn cây nghe kỹ mấy lần, tuyệt đối không thể
nghe nhầm, đúng là các tín hiệu cứ lặp đi lặp lại mãi.
Ngay cả Tuyền béo ngồi dưới
gốc cây cũng nghe thấy tín hiệu "tạch tạch tè tè" kỳ quái này, cứ
nghển cổ nhìn mãi lên trên cây.
Chúng tôi tạm thời không
dám chủ quan manh động, chỉ bật đèn pin mắt sói chiếu vào nơi phát ra âm thanh
ấy, nhưng luồng sáng đèn pin bị cành lá rậm rạp chặn lại, lờ mờ, càng nhìn lại
càng thấy sợ, thậm chí có những mảng vỏ cây sần sùi nhăn nheo kỳ quái, nhìn
trong bóng tối thật giống như thây ma với bộ mặt gớm ghiếc.
Tôi khẽ hỏi Shirley Dương ở
bên cạnh :" Chẳng lẽ phi công Mỹ bị rơi vào trong hốc cây, trước khi chết
đã phát sóng điện cầu cứu, âm hồn không tan và vẫn quanh quẩn ở chỗ cái cây
này?"
Shirley Dương lắc đầu
:" Không thể! Lúc nãy chui vào xác máy bay lục soát tôi đã xem xét rất kỹ
mọi ngóc ngách, chẳng những không có hài cốt của tổ lái, mà cả ba lô dù cũng
không, cho nên tôi mới phán đoán rằng họ đã nhảy dù thoát thân trước khi máy
bay rơi. Vả lại, đầu máy bay đâm vào núi đã bị hủy hoại hoàn toàn, sau đó phần
thân này mới rơi xuống ngọn cây, tín hiệu ma quỷ này sao có thể phát ra từ
trong thân cây được nhỉ?"
Tôi nói với Shirley Dương
:" Trước khi cô bắn hạ con cú đại bàng, thì chuỗi tín hiệu ấy là SOS, còn
đoạn vừa nãy đột nhiên biến thành DEAD, liệu chúng có liên quan gì không? Ngoài
lính không quân Mỹ điều khiển chiếc may bay vận tải kiểu C này ra, ở chốn thâm
sơn cùng cốc này làm gì có ai biết đánh mã Morse đâu?"
Shirley Dương đã từng không
chỉ một lần nói với tôi, con người chết rồi sẽ lên thiên đường, đó mới là điểm
cuối cùng của hành trình sự sống, vì vậy xét từ góc độ này, Shirley Dương tin
rằng con người có linh hồn. Shirley Dương lại nói :" Tín hiệu cầu cứu SOS
lúc đầu, có thể là do tôi đã nghe nhầm. Có lẽ đó là âm thanh con cú đại bàng
phát ra khi nó ở trong khoang máy bay mổ con thằn lằn, vì thế các âm thanh rối
loạn, không liên tục. Còn đoạn tín hiệu này, anh cũng nghe rồi đấy, hoàn toàn
khác hẳn, âm thanh dài ngắn rất có quy luật, và lặp lại nhiều lần không hề sai
sót ..."
Chính tai mình nghe thấy,
lại rõ ràng như thế, tôi cũng không thể không tin tính chân thực của truyền
thuyết "tín hiệu ma". Tôi nói với Shirley Dương :" Những tín
hiệu này tuy rất có quy luật nhưng không giống như tiếng của máy phát tín hiệu,
nghe hơi giống tiếng giọt nước rơi nhưng trầm hơn nhiều, có lẽ chúng ta đã đoán
đúng, trong thân cây này có người chết".
Shirley Dương nói :"
Có nhà khoa học từng làm thí nghiệm, thấy linh hồn con người có sóng điện rất
yếu, mà năng lượng rất yếu dù vẫn có thể tồn tại lâu dài trong một môi trường
nhất định hoặc một từ trường nào đó, nhưng điều quan trọng nhất là đoạn mật mã
tử vong này rốt cuộc đang truyền đạt ý đồ gì, là để cảnh cáo hay là hù dọa
chúng ta?"
Phán đoán dựa trên kinh
nghiệm của tôi, gặp phải tình huống như thế này, chạy trốn tuyệt đối không phải
là lựa chọn tốt, cứ nghi thần nghi quỷ mãi, rồi sẽ hoang mang nơm nớp đủ điều,
dẫn đến tự gây rối loạn tâm lý cho chính mình, càng dễ sinh chuyện. Vào lúc này
ta càng nên can đảm để tìm cho ra nguyên nhân, làm rõ thực chất vấn đề mới có
thể yên tâm được. Trời sắp sáng đến nơi, đêm đen chẳng mấy nữa sẽ kết thúc, có
ánh sáng rồi thì không phải sợ sệt gì nữa.
Tôi bèn bám cành cây đứng
lên, nói với Shirley Dương :" Cứ đoán già đoán non mãi cũng chẳng đi đến
đâu, chi bằng đi xem thử, rốt cuộc là vong hồn gì đang tác quái, làm rõ đã rồi
sẽ có hành động sau".
Shirley Dương gật đầu đồng
ý, bèn thay băng đạn cho khẩu "máy đánh chữ Chicago" rồi đưa cho tôi.
Kiểu súng máy này quá nặng, cô nàng dùng không thuận tay. Hai chúng tôi chỉnh
lại tiêu cự của đèn gắn trên mũ, rồi gia cố lại dây an toàn.
Tôi rút hộp đạn ra xm xét,
thấy bên trong nạp đầy đạn, bèn cầm xóc "cạch cạch" vào mũ bảo hiểm.
Tỷ lệ trục trặc của loại súng này có tiếng là cao, càn lèn chặt đạn trong hộp,
đề phòng lúc khẩn cấp đạn bị kẹt. Tôi lắp hộp đạn trở lại, kéo lẫy cho đạn lên
ổ, vẫy tay ra hiệu với Shirley Dương, chia nhau hai hướng trèo lên cành đa để
tìm nguồn phát ra "tín hiệu ma" ở trong xác máy bay.
Càng đến gần, tín hiệu tạch
tè nghe càng rõ, càng nghe càng cảm thấy không phải tiếng máy điện tử. Chúng
tôi rà soát kỹ bên cạnh xác máy bay, cuối cùng cột ánh sáng của đèn gắn trên mũ
đều tập trung vào một chỗ trên cành cây.
Để đề phòng chuyện ngoài ý
muốn, Shirley Dương đi trước, tôi đi sau nửa mét yểm hộ cho cô nàng. Shirley
rọi đèn quan sát tỉ mỉ đoạn thân cây phát ra tín hiệu, rồi ngoái lại vẫy tay ra
hiệu cho tôi, có thể xác định rồi, âm thanh chính là phát ra từ chỗ này, cứ
tạch tạch tè tè rất không bình thường.
Tôi chĩa khẩu Thompson vào
mục tiêu, đề phòng lại có thứ gì đó như con cú đại bàng xông ra tấn công người.
Cái "máy chữ Chicago" cỡ nòng 11,4mm này đâu phải tầm thường, tốc độ
bắn như mưa sẽ bắn nát nhừ bất kỳ con mãnh thú rừng sâu nào.
Shirley Dương thấy tôi đã
sẵn sàng, bèn lấy con dao lính dù ra, từ từ cắt đám thực vật bám đầy cành cây
đa, gạt bỏ các lớp rêu xanh và dây leo dày cộm, sau vài lượt đã nhận ra đó là
một cái hốc cây tự nhiên. Cái hốc này chỉ lớn bằng hai nắm đấm, trải qua bao
nhiêu năm tháng, miệng hốc đã bị các loài thực vật ký sinh bịt kín.
Shirley Dương thận trọng
cắm lưỡi dao vào chỗ sâu nhất của đám rêu, cảm giác nơi đầu mũi dao truyền lại
như đã đụng phải một vật cứng.
Tôi và Shirley đưa mắt nhìn
nhau, đều lấy làm nghi hoặc, trước đó không nghĩ rằng ở đây lại có một cái hốc
nhỏ thế này, mà dù có hốc cây, thì cũng phải là loại đủ lớn để có thể cho người
hoặc động vật ở bên trong phát ra tiếng động, không thể bé tí thế này được.
Trên cây đa già cỗi này không biết có bao nhiêu hốc kiểu này, đều là tổ ấm của
các loài động vật nhỏ, hơn nữa xem ra không thể hình thành trong một thời gian
ngắn.
Cành cây phía sau bỗng đung
đưa một hồi, thì ra Tuyền béo lại trèo lên lần nữa. Lần này không cần tôi phải
nhắc, cậu ta đã tự buộc chặt dây an toàn vào người.
Tôi đang định hỏi sao không
đứng dưới kia cảnh giới lại trèo lên đây làm gì, liền để ý thấy vẻ mặt hoảng
hốt của cậu ta. Trên đời này đâu có nhiều thứ khiến Tuyền béo phải sợ, chỉ nghe
cậu ta run rẩy nói với tôi :" Nhất ạ, mẹ kiếp ... mười phần chắc tám là
cây này có ma rồi, tôi phải lên theo hai người thôi, vừa nãy sợ gần chết".
Tôi thấy Tuyền béo không có
vẻ gì là nói đùa, trong các vấn đề không liên quan đến tiền bạc, chỉ có chuyện
gì trực tiếp đe dọa đến tính mạng mới khiến cậu ta phải sợ. Tôi vội hỏi Tuyền
béo xem đã xảy ra chuyện gì, có phải nhìn thấy cái gì đó không?
Tuyền béo định thần, rồi
nói :" Vừa nãy tôi đứng dưới gốc cây nhìn hai người trèo qua trèo lại trên
cành cây, hiềm nỗi trời tối quá, nhìn một lúc lâu, chỉ thấy ánh đèn trên mũ hai
người, nhàn nhạt nhìn không rõ. Nhìn mãi phát chán, tôi định châm điếu thuốc
hút cho đỡ buồn, bỗng chợt nghe có tiếng phụ nữ khóc, khóc rất thảm thiết. Mẹ
kiếp, làm lão gia sợ quá, đến nỗi cầm ngược điếu thuốc, suýt nữa thì bỏng lưỡi.
Chắc chắn có ma nữ, cậu nghe mà xem .. đấy đấy ... lại khóc rồi đấy!"
Shirley Dương đang dùng dao
nạy mảng thực vật mục nát trong hốc cây, cũng đã làm gần xong, chưa kịp xem xem
cái vật cứng bên dưới là gì thì nghe thấy Tuyền béo nói quanh đây có ma nữ đang
khóc, bèn dừng lại, cùng tôi lắng nghe động tĩnh ở xung quanh.
Chúng tôi vốn chỉ để ý
"tín hiệu ma", bây giờ im lặng lắng nghe, quả nhiên có tiếng nức nở
thật. Phía sau núi Già Long không hề có gió, vì vậy đây tuyệt đối không phải
tiếng gió rít, âm thanh này thê thảm khác thường, hơn nữa lại thoắt Đông thoắt
Tây phiêu hốt bất định, trong bóng tối càng thêm rùng rợn.
Tôi, Tuyền béo và Shirley
Dương lập tức đứng dàn ra thành hình chữ Đinh, tôi giương khẩu Thompson, Tuyền
béo dùng súng hơi "Kiếm Uy", Shirley Dương lăm lăm khẩu súng ngắn 64,
như vậy góc phòng ngự của mỗi người đều rút xuống còn 120 độ, hợp nhau tạo
thành thế ỷ dốc.
Tiếng khóc thút thít chạy
vây quanh chúng tôi hai vòng, rồi bỗng chia thành ba tuyến, từ lưng chừng trời
nhanh chóng áp xuống phía chúng tôi. Lần này thì tôi đã nghe rõ, chẳng phải
tiếng ma nữ mà là cú đêm đang rúc. Thì ra đồng loại của con cú đại bàng chết
tiệt, có điều lần này không phải chỉ là một hai con. Nghe tiếng rúc đủ biết
chúng không phải loại nhỏ rồi, hẳn là đến tìm chúng tôi trả thù, tuy rằng có
súng có đạn trong tay nhưng trong bóng tối phải đối phó với bọn u linh thoắt ẩn
thoắt hiện trên bầu trời đêm này quả thật là hơi có phần thua thiệt.
Lúc này thì Shirley Dương
cũng không nghĩ đến chuyện tiết kiệm pháo sáng nữa, liền lục túi đeo hông lấy
khẩu súng bắn pháo hiệu ra, đùng một phát, quả pháo sáng vút lên từ ngọn cây
đa, ánh sáng trắng nhợt treo trên cánh rừng hồi lâu không tắt, chiếu khắp bốn
bề sáng như miền băng tuyết.
Chúng tôi cũng bị ánh sáng
chói lòa của pháo sáng làm cho hoa mắt nhức đầu, đang cố chịu đựng ánh sáng lóa
mắt ấy để tìm kiếm mục tiêu xạ kích thì rừng cây bỗng im ắng như chết, ngoài
tiếng tim đập và tiếng thở của chúng tôi ra, mọi âm thanh khác đều đã biến mất.
Mấy con cú đại bàng mò đến
đột kích bị ánh sáng của quả pháo hiệu làm cho sợ hãi, vội lẩn vào bóng tối
phía xa, lủi mất tăm mất tích, cả "tín hiệu ma" khiến người ta sởn
tóc gáy cũng im bặt theo, không thấy động tĩnh gì nữa, ngay tiếng chim hót buổi
sớm mai thường có cũng không thấy, cơ hồ như các loài động vật đều chết sạch cả
rồi vậy.
Tôi chưa kịp kinh ngạc,
dường như đồng thời với sự biến mất của âm thanh, từ phía chân trời núi cao
chênh vênh, một dải ánh hồng bình minh rẽ mây ló ra, rọi chùm tia nắng đầu tiên
xuống khắp cánh rừng quái dị này.
Hình như vào khoảnh khắc
rạng đông, các loại quái vật yêu ma đều chạy về hang ổ ẩn nấp để lẩn tránh ánh
mặt trời.
Chúng tôi nhớ đến cái hốc
trên cây đa, bèn ngoảnh lại nhìn, chỉ thấy trên cành cây nằm dưới cái xác máy
bay vận tải kiểu C có một cái hốc màu xanh lục, dưới đáy hốc có một mảnh đá
nhẵn bóng màu đỏ sẫm đang ánh lên những tia sáng yếu ớt trong nắng mai.
Tôi chưa kịp nhìn rõ là
chuyện gì bỗng cành cây dưới chân kêu rắc rắc gãy luôn, thì ra cành đa chĩa
ngang này đã phải chịu đựng phần lớn trọng lượng của khoang máy bay vận tải
kiểu C, mới rồi chúng tôi đứng cụm lại một chỗ để chuẩn bị nghênh chiến với lũ
cú đại bàng đến tập kích, đây vốn là điều tối kỵ khi hoạt động trên cây, nhất
là có cả cái gã Tuyền béo kia nữa, cây đa già cỗi không chịu nổi, phần lớn các
cành ở ngọn cây đều gãy làm đôi, thân cây già khú đế hoàn toàn nứt toác ra.
Vô cùng may mắn là chúng
tôi đều buộc dây bảo hiểm vào thân cây chính, cho nên tuy có bị va đập vào thân
cây nhưng không bị rơi thẳng xuống đất, hôm nay mấy sợi dây bảo hiểm này đã cứu
chúng tôi không dưới ba lần. Cành cây chủ yếu đỡ cái xác máy bay vận tải kiểu C
bị gãy, khiến nó từ độ cao hơn hai chục mét rơi thẳng xuống đất, phát ra những
tiếng động dữ dội và bi thảm.
Chúng tôi ngẩng đầu lên,
liền nhìn rõ trong lòng cái cây đa già cỗi đã bị toác ra, ai nấy đều há mồm
trợn mắt, một lát sau Tuyền béo mới nói :" Cái gì thế kia? Hình như là rất
đáng tiền... có lẽ phen này ... mẹ kiếp, chúng ta sẽ phát tài thật rồi!".
Đúng lúc này, tín hiệu vừa
quen thuộc vừa lạ lùng kia bỗng vọng ra từ thân cây bị nứt toác ...
Chương 12:Máu
đỏ
C húng tôi lúc này chẳng khác gì những pho tượng người ở trong sơn
động, bị dây bảo hiểm treo lửng lơ trên cành cây đa, nắng sớm mai chiếu lóa cả
mắt, chỉ thấy trong bụng cây toác ra lộ một vật màu đỏ sẫm, hình khối hộp chữ
nhật, hai cạnh phía trên được mài lượn tròn.
Ánh mặt trời xuyên qua cành
lá chiếu vào, phát ra một vầng sáng màu tím nhạt, đây là cái gì vậy? Tôi vùng
vẫy ngoặc cái cuốc chim lên cành cây, trèo trở lại lên tán cây, sau đó kéo
Shirley Dương cùng lên. Tuyền béo vốn mắc chứng sợ độ cao, nên không dám quẫy
đạp gì, sợ đến nỗi toàn thân cứng đơ, tôi định dùng dây bảo hiểm thả cậu ta
xuống đất nhưng cu cậu cứ khăng khăng không chịu :" Kéo tôi lên đấy đi,
tôi phải nhìn kỹ cái vật ấy mới được, tôi thấy có đến tám phần là đáng một món
tiền lớn đấy".
Tôi đành cùng với Shirley
Dương vận hết sức lực kéo dây bảo hiểm, giúp Tuyền béo leo trở lại lên tán cây.
Lúc này trời đã sáng rõ, đứng trên ngọn cây cao hơn hai chục mét nhìn xuống,
hơi có cảm giác như đứng bên vực sâu, như đi trên băng mỏng.
Lần này chúng tôi đã biết
điều, tự đứng giãn ra, vây quanh quan sát vật thể xuất hiện trong thân cây,
Tuyền béo hỏi tôi :" Cái này là quan tài à? Bằng ngọc hay bằng pha lê? Sao
lại có màu sắc kỳ dị như thế? Tôi thấy nó hơi giống mấy mảnh kê huyết thạch mà
ta lượm được ở Phan Gia Viên".
Tôi không trả lời cậu ta mà
chỉ chăm chú quan sát, ở giữa thân cây đa lộ ra già nửa cỗ quan tài trong suốt
trông nửa như ngọc nửa như pha lê, sáng bóng khác thường, gần như trong suốt,
bên ngoài có một lớp trắng mờ mỏng tang như cánh ve sầu, phía trong đỏ dần,
càng vào sâu càng sẫm, trông giống như chứa đầy máu tươi đỏ thắm. Phần lớn quan
tài bị các loài thực vật ký sinh bao bọc, khó mà nhìn được toàn diện.
Chúng tôi chưa từng nhìn
thấy thứ chất liệu như thế này, quan sát kỹ hơn, phát hiện nó chế từ một khối
ngọc thạch gần trong suốt, bên trong lại có một tầng pha lê, trong nữa có lượng
lớn chất lỏng màu đỏ sẫm, trông như máu tươi. Nếu chỉ nhìn bề ngoài, đây là một
cỗ quan tài ngọc hiếm thấy.
Shirley Dương thấy cỗ quan
tài ngọc kỳ quái bèn lấy làm lạ :" Đây rõ ràng là quan quách dùng cho
người chết, vật liệu này là Thiên ngọc Tây Tạng chứ không phải ngọc vùng Vân
Nam giáp với Mianma. Có điều ... sao trong thân cây lại có cỗ quan tài lớn bằng
ngọc thế này? À ... phía sau núi Già Long đã là phạm vi của mộ Hiến vương, bộ
quan quách này rất có khả năng là bồi lăng của ngôi mộ chính, nhưng tại sao
quan tài lại nằm trong lòng cây đa?"
Tuyền béo nói :" Thế
thì cô phải hỏi cậu Nhất này này, tay này vẫn bốc phét mình thông tỏ mọi kiểu
quan tài mồ mả ở Trung Quốc đấy thôi! Để hắn giải thích đi".
Tôi lắc đầu :" Thế này
là làm khó tôi rồi, từ thời cổ xưa, xây cất mồ mả đều rất coi trọng phải có gò
có cây. Cây là để đánh dấu phần mộ, trồng ở trước gò, để cho kết cấu lăng mộ có
được hình thế tạo phúc ấm cho tử tôn, nhưng chưa từng thấy ai đặt quan tài vào
trong thân cây, vậy thì còn ra thể thống gì nữa".
Từ đời Thương, Chu, Trung
Quốc đã có lý luận phong thủy, an táng người chết xưa nay rất lưu ý đến thế
"cõng dương bọc âm, kề sông dựa núi", chứ đâu có lý gì lại treo trên
cây! Cây đa cổ thụ này lại nằm trong cánh rừng sau núi Già Long, đỉnh núi mây
mù bao bọc, không nhìn rõ thế núi nhưng xem bản đồ thì biết đây chỉ là một ngọn
núi đơn lẻ, là một con độc long. Sách " Thập lục tự âm dương phong thủy bí
thuật", mục "quyết chú tầm long" đã nói rõ: Long huyệt tối kiêng
cảnh vắng tanh, bốn bề lạnh lẽo khí không lành, rồng trơ núi lẻ không yên ổn,
dẫu có trấn an cực chẳng đành.
Mặc dầu địa thế ở đây thấp
dần theo hướng Đông Tây, nhưng quá cô quạnh, là một vùng trũng sâu không thấy
đáy, cho nên chắc chắn không phải nơi tốt nhất để đặt lăng tẩm.
Hơn nữa, cây cổ thụ là thứ
đứng đầu trong năm điều hại cho mồ mả. Nơi chôn cất mà bên trái có cây cổ thụ,
núi đơn lẻ, sống đứt gãy, đỉnh non trơ trụi, đá lởm chởm, hình thế đều rất xấu,
quyết không nên mai táng. Nếu có cây cổ thụ sẽ tranh mất phong khí; núi đơn lẻ
sẽ ít được che chở, thi thể không tan không kết, âm dương tất xung khắc; có
sông đứt gãy thì đất khô mạch nghẽn, mà mạch nghẽn thì sinh khí cũng bị tắc;
nơi đá lởm chởm, vách dốc chênh vênh, hung khí tràn lan, ắt sẽ bị tai họa vì
khí xấu của đất, có núi trọc thì đó là nơi không có sinh khí.
Tuy nhiên những nơi ấy
không hẳn là nơi đất hung đất dữ, có lẽ nếu xây chùa miếu hoặc nhà thờ thì
thích hợp hơn, sẽ có tác dụng điều hòa hình thế, nhưng dùng để xây mộ chôn
người thì không hợp.
Cho nên, càng không thể
dùng cây để làm nhà mồ, việc này hoàn toàn trái với lý luận về hình thế phong
thủy, vì hoàn toàn không có chút khí mạch, minh đường, thủy khẩu, hoặc long,
huyệt, sa, thủy, hướng ... gì hết. Tuy nhiên, chiếc quan tài ngọc trong suốt
kia quả là hiếm thấy, chất lỏng bên trong là thứ gì? Lẽ nào là máu thật? Nếu thế
thì đó là máu của ai?
Tôi đến gần, giơ ngón tay
chạm vào quan tài, đầu ngón tay thấy mát lạnh trơn bóng, đúng là ngọc quý hiếm
gặp, càng hiếm hơn nữa là toàn thân nó không một gợn tì vết, lại đồ sộ như vậy,
dẫu trong hoàng cung đại nội cũng khó mà tìm được một khối ngọc đẹp nhường này.
Cỗ quan tài ngọc được đặt nằm ngang trong thân cây đa, thân cây phát triển,
chèn ép, đứt gãy một số thớ gỗ tì đỡ, nên bây giờ nó hơi nghiêng.
Ở đầu bị nghiêng xuống, chỗ
nắp và thân quan tài tiếp giáp có vài vết rạn rất nhỏ, có lẽ bởi trải qua bao
năm tháng, nhiều yếu tố tác động gây ra, chất lỏng trông như máu bên trong quan
tài cũng dần dần thẩm thấu ra ngoài, rớt xuống loang lổ trên phiến đá ngọc kê
phía dưới.
Đến lúc này chúng tôi mới
chợt hiểu ra, Tuyền béo leo lên cây lần thứ nhất, làm cho quan tài trong thân
cây bị nghiêng, chất lỏng màu đỏ sẫm thấm ra theo mấy vết rạn rồi rớt xuống
phiến đá kê bên dưới, cộng với thân cây vốn bưng kín mít, giọt nước tí tách lúc
mau lúc thưa, âm thanh trầm đục, đã bị chúng tôi nghe thành một chuỗi tín hiệu
điện tín.
Sau khi mực chất lỏng trong
quan tài đã xuống thấp hơn vết nứt, thì các tín hiệu cũng tự ngừng lại, lần thứ
hai, thân cây bị vỡ toác, xác máy bay vận tải rơi xuống đất, xung lực mạnh, lại
làm cho quan tài nghiêng thêm, chất lỏng trong quan tài lại tiếp tục rò rỉ.
Chúng tôi đang sẵn ý nghĩ chủ quan, từ đầu vẫn cứ coi các âm thanh ấy là tín
hiệu, đúng là sợ bóng sợ gió, đa nghi quá.
Nhưng tôi lại lập tức thấy
chột dạ, liệu có đúng là trùng hợp ngẫu nhiên không? Sao lại tổ hợp thành một
chuỗi mã tử vong được? Nếu chỉ là ngẫu nhiên, thì nó cũng chẳng phải điềm tốt
lành gì. Mong sao chuyến đi này của chúng tôi sẽ không xảy ra chuyện gì bất
trắc.
Trong khi tôi đang suy nghĩ
vẩn vơ thì Shirley Dương cầm con dao lính dù cạo bỏ các dây nhợ thực vật bám
trên nóc quan tài, rồi đi găng tay xoa sạch bề mặt. Nắp quan tài hiện rõ những
hoa văn chạm khắc hết sức tinh xảo, toàn bộ bề mặt được chạm các hình chim uyên
ương, hồng nhạn, cáo, thỏ, hoẵng, hươu, voi ... là các loài chim thú quý hiếm,
tượng trưng cho sự tốt lành và khôn ngoan, ở bốn góc còn trang trí hoa văn đối
xứng nhau là các loại hoa thảo muôn hình muôn vẻ.
Bốn mặt xung quanh quan tài
ngọc khắc chìm rất nhiều cánh hoa sen, phù điêu hình củ ấu, ở giữa mỗi mặt lại
khắc hình một con vẹt thần thái giống y như thật, mỏ con vẹt còn ngậm một đóa
linh chi.
Shirley Dương ngẩng đầu
lên, nói với tôi :" Các bức phù điêu trên quan tài ngọc này được tạo hình
hiền hòa êm dịu, tuy hơi kém sinh động nhưng cách thể hiện các đường nét vẫn
mộc mạc tươi sáng, hoa mỹ mà không mất đi vẻ thâm trầm. Hình thức thể hiện hàm
chứa tính nghệ thuật cao này rất gần với phong cách thuần phác cổ kính của thời
Tần - Hán. Chắc chắn đây là bồi lăng của lăng mộ Hiến vương, không thể nhầm
được!"
Tuyền béo đứng bên rất sốt
ruột, nắn nắn các ngón tay, nói :" Mặc xác hắn là vương là bá gì, chúng ta
bắt gặp cỗ quan tài này rồi, thì nó là của ta. Cứ bật nắp ra xem xem bên trong
có minh khí gì không, bây giờ trời cũng đã sáng, chẳng sợ cóc gì thi biến".
Tôi vội can ngăn cậu ta lại
:" Chớ nôn nóng! Chúng ta đâu có đi tìm cỗ quan tài này? Không phải vô cơ
mà nó được đặt trong thân cây. Chất lỏng đỏ thắm đổ đầy trong này chẳng khác gì
máu tươi, ai dám bảo đảm mở nó ra sẽ không xảy ra chuyện?"
Shirley Dương dùng mũi dao
lính dù chấm vào chất lỏng màu đỏ sẫm rỉ ra từ quan tài, đưa lên mũi ngửi, rồi
nói với tôi và Tuyền béo :" Không tanh, nhưng mùi rất nồng ... giống như
mùi thuốc bắc, tôi thấy bản thân cỗ quan tài này không có gì đặc biệt, chất
lỏng màu đỏ có thể là để chống phân hủy. Điều lạ lùng là quan tài lại đặt trong
thân cây..."
Tuyền béo nói :" Có gì
đáng ngạc nhiên đâu? Có thể là hạt giống nảy mầm từ bên dưới mộ, dần dần nó
phát triển thành cây, cuối cùng nó húc thủng đất dưới mộ, đội cái quan tài lên,
thế là quan tài nằm trong thân cây! Đầu óc hai người làm sao thế? Chuyện bé
bằng cái mông thế mà nghĩ không ra, lại còn mặt dày lặn lội từ xa đến đây để đổ
đấu nữa chứ!"
Tôi lắc đầu nói :" Khả
năng như Tuyền béo nói không lớn. Tôi chợt nghĩ thế này, quan tài ngọc này
không phải thứ tầm thường, có lẽ dùng để chôn cất người tu đạo nào đó. Những
thuật sĩ thoát tục thường tự cho rằng mình đã ở ngoài ngũ hành, không cần làm
theo cách chọn nơi đặt mộ của thế nhân, quan tài phải có lối ra lối vào, nếu
đậy kín như bưng thì "khí" sẽ tụ hết ở bên trong. Có lẽ người ấy đã
cố ý bố trí như thế này, hai cây đa phu thê là bộ quách bọc ngoài quan tài
ngọc, bên trong là một vị thầy mo hoặc một người tu tiên cầu đạo. Theo tôi, cái
hốc nho nhỏ mà chúng ta phát hiện ra trên thân cây, là cái giếng trời để hấp
thu tinh khí của thiên địa. Tương truyền mộ Hiến vương là 'thủy long huân' độc
nhất vô nhị trên thế gian, kiểu như động phủ của các thần tiên mà chúng ta chưa
tận mắt nhìn thấy, nếu đúng như truyền thuyết, thì bồi lăng này phải nằm tại
một trong vài vị trí của các tinh tú ở xung quanh huyệt chính, cho nên ta không
thể chỉ căn cứ vào địa thế quanh cây đa này để kết luận được".
Shirley Dương thấy tôi nói
tương đối có lý bèn nói :" Hiến vương rất sùng bái vu thuật, chỉ một lòng
muốn tu tiên, cho nên cận thần xung quanh ông ta phần lớn là các thuật sĩ, từ
đó suy ra thì đây là một cỗ tiên quan trong số các bồi lăng, chỉ không rõ người
nằm trong đó đã đắc đạo thành tiên chưa, nếu thế gian này có tiên thật, thì cỗ
quan tài này sẽ là quan tài rỗng, thi thể trong đó đã hóa thành tiên rồi mới
phải"
Tuyền béo nói :" Cậu
Nhất nhanh xuống đất lấy các dụng cụ lên đây, tôi sẽ hạ nửa cái cây còn lại
đang che khuất quan tài, chúng ta xem xem trong đó có thứ gì, hắn là tiên hay
là yêu quái cũng không sao, điều quan trọng nhất là phải có minh khí đáng tiền
để chúng ta mở hàng lấy may. Tôi sớm đã biết lão Hiến vương này chẳng phải hạng
tử tế gì, nói theo cách của lão mù, đây gọi là thấy của bất nghĩa, lý gì ta lại
không lấy"
Shirley Dương cũng gật đầu
:" Không chừng sẽ phát hiện được một số bí mật liên quan đến mộ Hiến
vương, những thông tin đầu mối ấy sẽ giúp chúng ta không ít đâu".
Thấy hai người đều có ý mở
cỗ áo quan, tôi bèn nhảy xuống, lấy ra các dụng cụ mà Mô kim Hiệu úy vẫn dùng
để mở quan tài, như thám âm trảo, kính âm dương, và vài thứ khác. Quy định của
phái Mô Kim là trời tối ra tay, gà gáy dừng tay. Lúc này trời đã sáng hẳn, theo
quy định thì không được đụng đến các đồ tùy táng trong mộ, nhưng nếu mở ra điều
tra xem xét thì được, cho nên phải dùng đến kính âm dương.
Kính âm dương là cổ vật
truyền từ thời Đường, là một cái gương đồng đã bị mài vẹt hẳn đi, vốn không
phải hình tròn mà đúc thành hình tam giác, tượng trưng cho tam tài là thiên,
địa, nhân, mặt trước là dương, mặt sau là âm, mặt sau còn đúc bốn chữ triện
"thăng quan ( mở nắp quan tài) phát tài". Khi sử dụng, phải buộc sợi
chỉ đỏ treo gương lơ lửng, mặt trước hướng về ánh nắng mặt trời, bốn chữ triện
phía sau quay đúng vào đầu hồi quan tài.
Tương truyền rằng kính âm
dương này chuyên dùng để mở những cỗ quan tài đã bị hở ra ngoài nấm mồ. Vào
thời Đường, nghề đào trộm mộ rất thịnh. Câu thơ " Hài cốt lộ nửa vời,
Xương trắng phơi ngang dọc" là để miêu tả thảm cảnh ở các vùng có mồ hoang
sau khi bọn đào trộm mộ tràn qua tàn phá. Vào thời ấy, bọn đào trộm mộ chuyên
nghiệp rất sẵn, thủ đoạn cũng rất đa dạng, thịnh hành nhất là cách đổ đấu kiểu
không đào địa đạo để vào địa cung, mà là trực tiếp dùng cuốc xẻng phá mộ đào đất
ngay giữa thanh thiên bạch nhật, buộc thừng kéo quan quách lên khỏi huyệt, rồi
bật nắp quan tài, lấy sạch các đồ tùy táng của người chết, xong xuôi rồi bỏ mặc
hài cốt nằm phơi giữa đồng không mông quạnh. Kính âm dương là thứ công cụ mà
bọn trộm mộ thời đó nhất thiết phải dùng chứ không phải dụng cụ truyền thống
độc môn của Mô kim Hiệu úy.
Chiếc kính âm dương này là
di vật của Liễu Trần trưởng lão, chúng tôi chỉ biết rằng trong tình huống vạn
bất đắc dĩ phải mở nắp quan tài vào ban ngày, thì có thể dùng nó chiếu vào đầu
hồi quan tài để chế ngự âm khí ô trọc xộc thẳng vào lửa tam muội trong tâm con
người, kẻo trở về sẽ gặp xúi quẩy.
Hôm nay chúng tôi hành động
vào ban ngày nên lấy nó ra dùng, dù có hiệu quả hay không cũng phải thử một
phen đã. Nhưng treo gương xong, chuẩn bị dùng thám âm trảo nhổ đinh bật nắp,
chúng tôi mới nhận ra rằng cỗ quan tài ngọc này không dùng đinh, mà làm theo
kiểu khớp mộng, hai bên phiến ngọc làm nắp có gờ rãnh rất khít.
Chúng tôi bèn đứng ra phía
đầu quan tài, chuẩn bị kéo nắp quan tài ra. Tôi và Tuyền béo vừa định ra tay
thì phát hiện ra ánh mặt trời đang chiếu vào cỗ quan tài lấp lánh, bên trong
hiện ra một cái bóng đen cao to. Bóng người này đồ sộ đen sì, có đầu và hai
vai, phần bóng bên dưới vai rất to rộng, hình như bên trong quan tài còn có
nhiều thứ khác nữa, nhưng chỉ nhìn hình dáng thì rất khó đoán là gì, có lẽ là
các thứ đồ bồi táng đặt trong quan tài ngọc chôn theo người chết.
Tôi thầm nghĩ, bên trong đã
có xác, xem ra người chết trong này chưa thể thành tiên, dù sao cũng đang giữa
ban ngày ban mặt, chẳng sợ nó biến thành cương thi. Không ngờ lúc này trời bỗng
có đám mây đen nặng nề kéo đến, che khuất cả mặt trời, bốn bề lập tức tối sầm,
không trung sấm nổ rền vang. Tiếng sấm bất chợt khiến chúng tôi ngẩng đầu nhìn
lên, tôi nguyền rủa :" Cái chốn ma quỷ này, chỉ có sấm mà không đổ
mưa". Tôi thầm nghĩ sét mà đánh vào cây đa chắc chắn chúng tôi sẽ chết
theo. Không ổn! Phải tìm chỗ ẩn nấp, chờ hết sấm đã rồi sẽ tiếp tục hành sự.
Bỗng nghe thấy Shirley
Dương đứng phía bên kia quan tài nói :" Hai anh lại mà xem, quan tài đang
đè lên một cánh tay người chết, có lẽ tín hiệu phát ra từ đây chứ không phải là
tiếng chất lỏng bên trong quan tài rỉ ra đâu".
Tôi vừa định ngoảnh lại,
bỗng thấy trời lúc này tối đến nỗi không nhìn thấy người nữa. Ba chúng tôi đều
không ngờ thời tiết ở đây biến đổi nhanh đến thế, chỉ trong nháy mắt đã tối đen
như mực, sấm thi nhau nổ đùng đoàng...
Chương 13:Thăng
quan phát tài
T rên đời này không có tình yêu vô duyên vô cớ, cũng chẳng có mối hận
vô cớ vô duyên, bầu trời cũng không thể vô duyên vô cớ mà có sấm nổ giữa ban
ngày, trong bầu không khí chẳng lành hình như đang tiềm ẩn một biến đổi to lớn.
Ngoại trừ ánh chớp nháng
lên giữa những kẽ mây, bốn bề tối đen đến mức không nhìn thấy gì nữa, tôi đành
bật chiếc đèn gắn trên mũ leo núi. Vừa định di chuyển sang phía bên kia tán cây
quan sát xem sao thì bỗng không thấy Tuyền béo đâu nữa. Vừa nãy cậu ta còn đang
chuẩn bị cùng tôi mở nắp quan tài kia mà. Tôi bèn hỏi Shirley Dương :" Cô
có nhìn thấy Tuyền béo đâu không?"
Shirley Dương nhún vai. Hai
chúng tôi vội cuống quýt tìm thằng béo khắp xung quanh. Một gã đàn ông to đùng
béo ị đang sống sờ sờ, sao chỉ trong chớp mắt đã biến mất? Bốn bề không chút
động tĩnh, tôi ngoảnh lại nhìn, thấy bên cỗ quan tài ngọc có một chiếc giày,
chẳng phải của ai khác, mà chính là giày của Tuyền béo.
Đúng lúc này, bên trong cỗ
quan tài ngọc hoàn toàn kín mít kia đột nhiên vọng ra tiếng gõ cộc cộc cộc. Với
tôi và Shirley Dương, âm thanh này còn kinh sợ hãi hùng hơn cả tiếng sấm trên
trời.
Tôi gạt nỗi sợ sang một
bên, vội gọi Shirley Dương cùng tôi mở ngay nắp quan tài để cứu người. Sao
Tuyền béo lại nhảy vào trong quan tài nhỉ? Hay là Mô kim Hiệu úy thay vì
"thăng quan phát tài" lại bị bánh tông trong quan tài tóm vào? Nhưng
mọi khe hở trên quan tài đều bị bịt kín mít bằng sáp nến, ngoài mấy vết nứt bé
tẹo ra, không còn chỗ hở nào nữa, Tuyền béo to đùng cách mạng như thế, làm sao
chui vào trong ấy được? Thế này khác quái gì hiện tượng phản vật chất đâu chứ?
Shirley Dương tỏ ra thận
trọng :" Đừng cuống lên, ta phải làm rõ xem là chuyện gì đã, chúng ta chưa
thể khẳng định tiếng động trong quan tài chắc chắn là do Tuyền béo phát
ra".
Tôi chẳng buồn để ý Shirley
Dương có đồng ý hay không, chụp luôn mặt nạ phòng độc lên mặt, xắn tay áo chuẩn
bị mở nắp quan tài. Quan tài khít quá, lúc vội vàng khó mà mở nổi, đành phải
nhờ Shirley Dương dùng mũi dao lính dù cạo bỏ lớp sáp gắn ở các khe. Tiếng gõ
cộc cộc trong quan tài lúc mau lúc thưa, rồi lặng hẳn không có động tĩnh gì nữa.
Tôi quýnh hết tay chân, mồ
hôi vã khắp người, bỗng nhiên thấy im ắng, tôi cho rằng quá nửa là Tuyền béo đã
đi đời rồi. Tôi đang cuống cà cuống kê, bỗng nhiên cổ chân bị tay ai đó tóm
chặt, theo bản năng, tôi giơ cái cuốc chim ngoặt tay định bổ ngược xuống, bỗng
nghe có người ở phía sau nói :" Tư lệnh Nhất! Vì Đảng vì nước, mau mau kéo
anh em lên với! Con mẹ nó, chỗ này có cái hốc lớn ... làm bố mày trượt chân
suýt nữa thì ngã chết".
Tôi ngoảnh lại, người vừa
cất tiếng chính là Tuyền béo, đang vùng vẫy trườn ra ngoài một cái hốc cây ở
phía sau lưng tôi. Tôi vội đưa tay ra kéo cậu ta lên. Cái hốc này phủ đầy các
loài thực vật ký sinh rậm rạp, chẳng khác nào một cái bẫy tự nhiên, nếu không
giẫm lên thì không thể biết được.
Hóa ra đúng lúc chúng tôi
chuẩn bị để "thăng quan phát tài" thì sấm nổ, Tuyền béo sợ quá giật
mình nhảy lùi lại, nào ngờ bị hụt chân rơi ngay xuống hố, chuỗi tiếng sấm vang
rền đã át đi mọi tiếng động, cho nên chúng tôi không hề hay biết.
Tôi nhìn Tuyền béo, rồi lại
nhìn vào cỗ quan tài ngọc. Nếu không phải Tuyền béo đã gõ trong quan tài thì là
ai? Chẳng lẽ trên đời này có chuyện cương thi hoạt động ngay giữa thanh thiên
bạch nhật hay sao?
Thấy Tuyền béo đã bò lên,
Shirley Dương hỏi cậu ta trong hốc cây đó có gì không. Tuyền béo đáp, trong đó
tối đen như mực, hình như có nhiều xương cốt và dây leo, nhưng cậu ta cũng
không dám nhìn kỹ, vì dưới đó thối điếc mũi, ngạt thở nhức cả đầu.
Shirley Dương nói vơi tôi
và Tuyền béo :" Hai anh lại đây mà xem. Có lẽ không phải cả tổ lái của
chiếc máy bay vận tải kiểu C này đều nhảy dù thoát nạn, ít nhất vẫn có một
người chết ở đây, xác anh ta bị cỗ quan tài đè lên. Rất có thể bên dưới quan
tài có ngách nối liền với cái hốc anh béo vừa rơi xuống".
Nghe Shirley Dương nói thế
tôi lấy làm lạ, bèn nhún lên nắp quan tài nhảy sang phía đầu bên kia. Đúng như
Shirley Dương nói, có một cẳng tay bị đè dưới đầu quan tài. Lòng bàn tay úp
xuống dưới, tuy chưa bị phân hủy thành xương trắng nhưng đã khô đét hết cả, lớp
da khô màu nâu xỉn bọc lấy xương cốt bên trong, không còn cơ thịt và huyết
dịch, bốn ngón tay xọc vào thớ cây ở dưới quan tài, chắc là trước khi chết
người ấy đã phải vật vã rất lâu trong đau đớn, ngón tay cái tì vào một cái nhíp
hai đầu.
Tôi ngớ ra, thật sự không
sao hiểu nổi, đây là tay người chết, nhìn tình hình này chắc là có thi thể bị
đè dưới quan tài, người ấy là ai? Tại sao lại bị đè dưới quan tài? Tiếng động
trong quan tài ngọc kia là thế nào?
Shirley Dương nói, hồi quân
Đồng minh phản công ở Normandy, thứ nhíp hai đầu này đã được dùng làm công cụ
đơn giản để liên lạc, có thể phát ra hai âm thanh nặng nhẹ khác nhau. Sư đoàn
82 và sư đoàn lính dù 101 đã sử dụng chúng sớm nhất. Đúng là dụng cụ này có thể
phát ra tín hiệu Morse.
Tôi và Tuyền béo đã hơi hơi
hiểu ra, nhưng lẽ nào lại có vong hồn của người chết bên dưới cỗ quan tài này
muốn liên lạc với chúng tôi?
Shirley Dương lại nói
:" Trên cánh tay này lộ ra một mẩu tay áo có gắn phù hiệu, là quân phục
của không quân Mỹ trong Đại chiến Thế giới thứ hai, còn nữa, ở Trung Quốc không
có cái thứ nhíp hai đầu này. Tôi đoán rằng bên trong quan tài có thứ gì đó ...
nguy hiểm, bên dưới quan tài có ngách liên thông, nó sẽ nuốt các vật sống gần
nó. Đêm hôm qua, vong linh người phi công bị cỗ quan tài sát hại đã phát tín
hiệu cảnh cáo, không muốn chúng ta cũng bị hại như anh ta ngày trước".
Tôi nói với Shirley Dương
:" Đêm qua loạn xì ngậu lên hết cả, chẳng rõ cảnh cáo chúng ta điều gì?
Chẳng lẽ định nói là cỗ quan tài này có ma muốn hại ba chúng ta? Vậy tại sao
chúng ta chẳng cảm thấy gì cả?"
Vừa nói xong, tôi lập tức
nghĩ ra chắc là nhờ chúng tôi đeo bùa Mô Kim chính cống lại có cả tượng Quán Âm
của Răng Vàng kiếm cho, đều là cổ vật khắc tà, nhưng chúng thực sự có tác dụng
không? Tôi hoàn toàn không dám chắc. Hai cái cây già này nhất định có ma, chưa
biết trong những cái hốc cây kia còn có thứ quỷ quái tà đạo gì nữa.
Để làm rõ sự thật, ba chúng
tôi cùng bắt tay vào kéo cái nắp quan tài ngọc ra. Bên trong chứa đầy một chất
lỏng tím ngắt, đen đen lại pha đỏ, ngoài mùi vị khác biệt ra thì chẳng khác gì
huyết tương cả.
Chúng tôi không rõ chất
lỏng này có độc không, tuy đã đeo găng tay nhưng vẫn không dám trực tiếp chạm
vào, Tuyền béo dùng thám âm trảo, tôi dùng cuốc chim leo núi thò vào khua
khoắng. Cái cuốc câu lên được một cái xác người già to béo, bên ngoài cái xác
được bọc một lớp "mẫn tinh" mỏng tang như cánh ve sầu. Mẫn tinh hết
sức quý giá, tương truyền Hán cao tổ sau khi băng hà được bọc một lớp mẫn tinh
rồi mới choàng ngọc y kim tuyến bên ngoài, là thứ giống như chất màng bảo quản
thực phẩm ngày nay, nhưng hồi đó người ta không dùng bất cứ hóa chất gì.
Tuyền béo lấy dao lính dù
rạch bỏ lớp mẫn tinh, để cho cái xác ấy lộ ra hoàn toàn. Xác ông già này được
bảo quản tương đối hoàn hảo, khuôn mặt hơi to dài hơn người bình thường, theo
sách tướng số thì đây là kiểu mã diện - mặt ngựa. Chỉ thấy râu tóc ông ta đã
bạc trắng, đỉnh đầu búi tóc, toàn thân không có áo quần, có lẽ vì ngâm trong
chất lỏng giống như máu này quá lâu nên thân thể hơi đỏ ửng lên.
Tuyền béo nguyền rủa
:" Lão già chết tiệt này phì nộn thật, chẳng rõ chết từ đời nào rồi, sao
đến giờ vẫn chưa rữa? Sớm muộn gì cũng sẽ rữa, chi bằng hỏa thiêu lão luôn, để
tránh hậu họa về sau". Nói rồi cậu ta cầm thám âm trảo chọc thử vào mặt
thi thể. Cơ thịt vẫn đàn hồi rất tốt, không cứng chút nào, thậm chí không có vẻ
gì là người chết, mà giống như người đang ngủ vậy.
Shirley Dương nói với tôi
:" Hình như trong chất lỏng này còn có nhiều thứ khác, anh cứ vớt ông ta
ra đã rồi tính sau".
Một ông già chết cách đây
hơn hai nghìn năm mà được bảo quản trông cứ như người còn sống, thậm chí còn có
thể dùng hai chữ "hàng tươi" để hình dung, quả là điều kỳ lạ. Nhưng
chẳng nên nghĩ thêm nữa, càng nghĩ lại càng sợ. Vậy là tôi nghe theo Shirley
Dương, cầm cái cuốc chim chuẩn bị vớt ông già râu bạc lên, để tiện kiểm tra phía
dưới còn có những thứ gì.
Hai tay tôi có thể cầm cuốc
chim nhấc được vật nặng không dưới năm mươi cân, nào ngờ khi bập cuốc vào dưới
cái xác ông già râu bạc để câu lên, thì nó hoàn toàn không nhúc nhích, có lẽ nó
phải nặng đến cả trăm cân mất.
Tôi lấy làm lạ, chẳng lẽ
bên dưới cái xác trần truồng này còn gắn liền với vật nặng gì khác?
Tôi rút cuốc ra khỏi nách
cái xác, rồi đưa đến khoảng giữa quan tài để móc, từ trong đám chất lỏng đỏ đen
ấy móc lên được một con trăn lớn không da máu me đầm đìa. Ba chúng tôi thấy thế
đều kinh hãi, thì ra ở dưới vai và lưng cái xác này còn có một con trăn to
tướng đã bị lột da. Những chỗ xác trăn và xác người tiếp xúc đã gắn liền làm
một, không thể tách ra, thảo nào mà vừa rồi nhấc cái xác lên lại thấy nặng ghê
gớm như thế, chẳng những vậy, trên xác con trăn không da còn sùi lên những thớ
thịt đỏ hồng, thỉnh thoảng lại giật giật mấy cái, cứ như là vừa mới bị lột da
vẫn còn chưa chết hẳn vậy. Tiếng động ở trong quan tài mà chúng tôi nghe thấy,
rất có thể là do nó phát ra.
Các kinh mạch trên cơ thịt
con trăn có thể nhìn rõ mồn một, cũng không rõ người ta đã dùng thủ đoạn gì lột
da nó, so với con trăn mà chúng tôi thấy trong hang động núi Già Long thì nó
nhỏ hơn đáng kể, nhưng vẫn to hơn hẳn những con trăn thường gặp. Nghĩ đến con
trăn vảy xanh quái dị ấy, tôi lại liên tưởng ngay đến cái thứ trùng thuật tà dị
hiểm ác của Hiến vương.
Tuyền béo chỉ vào những đám
cơ thịt mọc trên xác con trăn không da, nói :" Những của nợ mọc ra trên
xác con trăn này trông rất giống giun nước, hình như nó còn dính cả vào đáy
quan tài nữa. Ông cứ giữ nó đấy, để tôi khoắng xem dưới đáy có gì không?".
Nói đoạn xắn tay áo định thò tay xuống vớt trăng đáy nước.
Shirley Dương thấy thế vội
ngăn Tuyền béo lại, chưa biết rõ về chất lỏng này thì không thể tùy tiện tiếp
xúc trực tiếp, vẫn nên dùng cuốc chim hoặc thám âm trảo vớt từng thứ một lên
thì hơn.
Tôi vận sức nâng một phần
cái xác ông già béo lên, Shirley Dương và Tuyền béo dùng cuốc chim và cái xẻng
công binh khua khoắng trong lòng quan tài ngập chất lỏng, theo kiểu "dựng
hàng rào", và không ngừng vớt lên được các loại vật phẩm. Đầu tiên là một
chiếc mặt nạ bằng vàng, có thể là đồ thầy phù thủy hoặc thầy cúng đeo trong các
buổi tế lễ, tạo hình vô cùng kỳ dị, đúc bằng vàng thật, tai mắt mũi mồm được
gắn ngọc trắng xanh rất thuần. Các chi tiết bằng ngọc này có thể linh hoạt tháo
lắp, khi sử dụng người đeo mặt nạ có thể gỡ chúng ra khỏi mặt nạ vàng. Phía
trên mặt nạ có sừng rồng, miệng được làm như miệng hổ, hai tai như vây cá,
trông thập phần gớm ghiếc hung ác. Nhưng điều chúng tôi kinh ngạc nhất là các
hoa văn trên mặt nạ bằng vàng này toàn là các vòng tròn có hình xoáy nước, nhìn
vào thấy hơi giống con mắt, mỗi vòng tròn lại chứa hai ba vòng tròn nhỏ hơn, có
lẽ vòng ngoài cùng tượng trưng cho cả con mắt, các vòng nhỏ bên trong thể hiện
con ngươi.
Nhìn thấy những hoa văn
quen thuộc này, tôi, Shirley Dương và Tuyền béo đều không tránh khỏi kích động,
xem ra truyền thuyết rằng Hiến vương có Mộc trần châu không phải là hư giả, giờ
chúng tôi đã hơi cảm thấy chắc ăn, dù rơi vào tình huống thập tử nhất sinh thì
chuyến đi Vân Nam lần này cũng không phải uổng công vô ích, cũng bõ công trải
muôn vàn gian khổ gội gió nằm sương.
Vật thứ hai là một cây long
hổ đoản trượng, từ đá lam 1 mài nhẵn mà thành, chiều dài cỡ như con lăn cán mì
ngày nay dân ta vẫn dùng, thân trượng hơi cong, một đầu rồng, một đầu hổ, chỗ
thân thể hai con thú tiếp giáp là nơi cầm tay. Hình chạm rồng hổ mộc mạc cổ
phác, không sinh động như các đồ mỹ nghệ thời Hán nhưng lại toát lên khí thế
oai hùng đậm nét, trông ra ít nhất cũng là cổ vật từ thời Tiên Tần 2.
Nhìn những món đồ ấy, Tuyền
béo chùi bọt mép, lau sạch sẽ, sau đó cho vào túi da hươu chống ẩm và không khí
ăn mòn, chuẩn bị coi như chiến lợi phẩm đem về.
Shirley Dương thấy thế liền
hoảng hồn, chiếm đoạt giữa ban ngày ban mặt thế này chẳng phải là trộm mộ hay
sao? Chụp xong ảnh là phải mau mau trả về chỗ cũ mới đúng.
Tuyền béo nghe nói thế,
không chịu :" Từ Bắc Kinh lặn lội đến Vân Nam, là để làm cái gì chứ? Không
phải là để đổ đấu mò minh khí à? Mà vớ được những thứ này tưởng dễ lắm sao,
muốn tôi trả lại á, không có cửa đâu!"
Tôi cũng khuyên Shirley
Dương :" Trộm mộ gì đâu, cô nói khó nghe thế. Vẫn có câu 'cướp nước thì
thành vua, cướp của thì bị giết'. Mô kim Hiệu úy ít nhất cũng có quy tắc hành
nghề 'nghèo chết ba không đào, giàu chết ba không đổ', chẳng phải vẫn còn hơn
bọn đạo tặc cướp nước cướp dân đến vạn lần hay sao. Các bậc chí sĩ từ cổ đều
thay trời hành đạo trừng phạt kẻ bất nghĩa, cứ để những thứ này nằm mãi trong
rừng sâu mà bị mục nát theo thời gian, đó cũng là hành vi rất thiếu trách nhiệm
với nhân dân. Có điều tôi thấy mấy cái quy tắc cổ lỗ sĩ gì mà chỉ được lấy một
món minh khí, ban ngày chớ mò vàng, cũng nên dần thay đổi theo công cuộc cải
cách mở cửa đang đi vào chiều sâu ..."
Tôi nhân lúc Tuyền béo mải
nhét minh khí vào túi, ghé tai nói thầm với Shirley Dương :' Những thứ này đem
về, tôi cũng không dám bán đi đâu, cứ để Tuyền béo mang về nghịch mấy hôm, đợi
cậu ta chơi chán rồi tôi sẽ đòi lại đưa cô, cô muốn tặng cho viện bảo tàng nào
thì tùy, đây gọi là nhìn mơ đỡ khát. Nếu không chiều cậu ta một chút thì dễ ảnh
hưởng đến sĩ khí, những trang bị nặng nhất chúng ta còn phải nhờ cậu ta mang
vác kia mà!"
Shirley Dương lắc đầu cười
gượng :" Đúng là hết cách với anh, chúng ta đã giao hẹn trước rồi còn gì,
ngoài Mộc trần châu dùng để cứu mạng ra, thì tuyệt không được làm cái chuyện vơ
vét cổ vật nữa kia mà? Anh nên biết, tôi chỉ mong điều tốt cho anh thôi ..."
Tôi vội ra vẻ tiếp thu,
thành khẩn bày tỏ rằng thì là mà tôi sẽ không phụ lòng mong mỏi tha thiết cũng
như những lời huấn thị ân cần của cô đâu, nhưng lại nhủ thầm trong bụng :"
Chuyện sau khi trở về cứ để sau khi trở về nói đi, đồ đồng thì tôi không dám
đụng đến thôi, nhưng đồ vàng đồ ngọc thì ... tôi đã cam đoan với Mao chủ tịch
đâu, còn với người khác thì dù sao ngủ dậy là tôi quên hết. Nói cho thực sự
khách quan, những thứ này đều là đồ để tế lễ, rất có khả năng liên quan đến
ngọc Mộc trần châu của Hiến vương, dù sao cũng không thể trả lại về chỗ cũ, quy
tắc này nọ xin miễn bàn đi, kẻo mai kia cần dùng tới lại phải hối hận".
Tôi đang toan tính kế sách
vẹn toàn thì thấy Shirley Dương lại phát hiện ra vài thứ khác trong quan tài.
Các mẩu thịt đo đỏ sùi ra trên thân con trăn hình như có sự sống, chốc chốc lại
khẽ động đậy, những sợi cơ này đều dính liền với đáy quan tài ngọc.
Thật không ngờ cỗ quan tài
ngọc tinh xảo tuyệt mỹ này bốn bên và nắp đều bằng ngọc thiên nhiên Tây Tạng
nguyên khối, mà đáy lại làm bằng gỗ cây trẩu, những sợi thịt đo đỏ trong quan
tài xuyên qua đáy gỗ trẩu dính liền vào trong thân cây đa, xác người, xác trăn,
quan tài ngọc dính liền với nhau làm một, không thể tách rời.
Shirley Dương chợt hiểu ra
:" Không xong rồi, xác con trăn bị lột da nằm trong quan tài có thể là con
trăn trùng thuật, hai cây đa phu thê này đã bị oan hồn con trăn nhập vào, cây
đa này chính là một con trăn khổng lồ". --------------------------------
1 Đá chuyên dùng để mài ngọc, thời
cổ. 2 Thế kỷ 3-6 trước Công nguyên.
Chương 14:Bủa
vây tuyệt đối
N hững sự việc xảy ra trước mắt chúng tôi tựa như một dãy bậc thang
chạy dài xa mãi, bậc nọ nối tiếp bậc kia, dẫn dụ chúng tôi đi vào chốn vực sâu
không đáy. "Tín hiệu ma" truyền ra từ cây đa già lúc đêm khuya, xác
máy bay vận tải kiểu C của không quân Mỹ, tiếp đó là cỗ quan tài ngọc ở dưới
xác máy bay, xác ông già nằm trong quan tài, con trăn bị lột da, những sợi thịt
đỏ sùi ra trên mình nó chạy dài xuống đáy quan tài kỳ lạ, đáy quan tài gỗ trẩu
lại mềm mại như nhựa cây, các sợi thịt đỏ xuyên qua mà chất lỏng trong quan tài
không bị rò rỉ lấy một giọt.
Cái hốc lớn trong thân cây
đa già ních không biết bao nhiêu xác khô của các loài cầm thú và người, những
cái xác này đều chung số phận, đều bị các mạch máu đỏ vươn ra từ quan tài bám
quanh, những mạch máu này cuối cùng chui vào thất khiếu của các xác động vật và
người, dường như hút cạn máu tươi rồi truyền dẫn trở lại quan tài ngọc. Vì thế,
chất lỏng trong quan tài là một dung dịch chống phân hủy được hình thành nhờ
hình thức chuyển hoán, dùng máu tươi để duy trì thi thể trong quan tài không bị
rữa nát.
Nằm trên cùng trong cái hốc
cây to là thi thể khô héo của viên phi công, trên mình mặc áo khoác phi công,
cổ bẻ lót lông, xác đã khô quắt nhưng vẫn giữ nguyên tư thế cuối cùng trước khi
chết - một tay thò ra bên dưới quan tài, chính là bàn tay cầm cái nhíp hai đầu
mà chúng tôi đã nhìn thấy lúc trước. Hình như anh ta bị những sợi thịt đỏ kia
cuốn chặt rồi kéo vào hốc cây, vào những phút cuối cùng của cuộc đời, anh ta
vẫn tiếp tục giãy giụa, một tay đã nắm được cành cây dưới quan tài, nhưng cũng
chỉ làm được có thế, khi anh ta thò tay ra khỏi đám cành cây mục nát, những sợi
thịt đỏ kia đã chui vào mắt mũi tai của anh ta.
Tất cả đều đã hết sức rõ
ràng, đây chính là bồi lăng của mộ Hiến vương, ở đây an táng một vị quan chủ tế
thuộc hạ của Hiến vương, ông ta lợi dụng trùng thuật để tùy táng một con trăn
bị lột da cùng xác mình trong cỗ quan tài ngọc. Bản thân hai cây đa già này là
một hệ thống sinh thái tự cung ứng và tương đối độc lập, rất nhiều động vật
xung quanh đã trở thành nguồn "phân bón" cho cỗ quan tài.
Hai cây đa phu thê dưới núi
Già Long tuy không phải là huyệt phong thủy gì nhưng có thể suy đoán rằng nó là
một thứ "huyệt lạn cốt" trên thân con rồng nước an táng Hiến vương.
Huyệt lạn cốt tức là nơi âm chẳng giao dương, dương chẳng gặp âm, phân giới
không rõ, hình thế mơ hồ, khí mạch tản mạn không ngưng tụ. Luồng khí vận hành
bên dưới huyệt là khí âm, khí mạch trào ra bề mặt là khí dương, rừng nơi này
lại quá ẩm ngốt, trên và dưới mặt đất không mấy khác biệt, đó chính là cái lẽ
"âm dương bất minh" vậy. Mạch và khí ở đây không ngưng không tụ, lại
không có sông suối ngăn chặn, an táng ở đây thì khó mà cho con cháu đời sau
được hưởng phúc ấm, chỉ có thể khiến xương thịt mủn rữa, cho nên mới gọi là
"huyệt lạn cốt" hay "phủ thi mai".
Tuy nhiên, dùng cây làm mồ
không những thay đổi được tương quan cấu trúc ở đây, lại thêm con trăn trùng
thuật nằm trong quan tài hút huyết tủy của các động vật thì hoàn toàn có thể
duy trì cho xác người không rữa nát, từ đây có thể thấy lão chủ tế này lúc sinh
thời là một cao nhân rất thông hiểu thuật âm dương. Cái thủ pháp trái hẳn với
quy tắc thông thường này, người bình thường đâu có thể nghĩ tới được?
Nếu không có sự cố máy bay
vận tải Mỹ làm toác cây đa, lộ ra cỗ quan tài ngọc bên trong thì chẳng ai ngờ
rằng cây này lại là một nấm mồ thiên nhiên, bên trong có một cỗ quan tài như
thế. Giờ đây chỉ có thể nói rằng số trời đã sắp đặt cho chúng tôi bắt gặp việc
này mà thôi.
Nhưng vẫn còn một chi tiết
khó mà hiểu nổi, nếu nói cỗ quan tài ngọc giết hại các sinh vật đến gần, trong
thân cây đã quy tụ không ít oan hồn, vậy tại sao từ đầu đến giờ chúng tôi vẫn
chưa bị tấn công?
Tuyền béo ôm chiếc túi da
hươu đựng bốn năm thứ khui được trong quan tài, dương dương đắc chí nói :"
Nhất ạ, tôi thấy cậu đã bị kẻ địch dọa cho sợ mất mật rồi! Nghĩ lắm cái cóc khô
gì nữa? Theo tôi thì cứ cho cây đa này một mồi lửa cháy trụi đi là xong, thi
hành chính sách ba sạch: đốt sạch, giết sạch, cướp sạch!"
Shirley Dương quan sát
tương đối kỹ, muốn tìm ra một vài đầu mối như chữ viết hoặc hình vẽ gì đó trong
quan tài, cuối cùng nhận ra ở mặt dưới cái nắp quan tài vứt chỏng chơ một bên
có nhiều hình vẽ nhật nguyệt tinh tú, người, động vật và các dấu hiệu kỳ lạ
khác. Chỉ thoáng nhìn cô đã có phản ứng ngay, hỏi chúng tôi :" Hôm nay
ngày bao nhiêu âm lịch? Dù con trăn trùng thuật này có hồn phách hay không, ít
nhất nó cũng dựa vào cỏ cây và sợi thịt, ký sinh vào đấy một loại thực vật dạng
nấm khuẩn kiểu tiềm phục ẩn mình, giống như cây ăn thịt người vậy, không phải
lúc nào cũng hoạt động. Nó cũng như phần lớn động vật trong rừng, đêm ngủ, ngày
đi săn mồi, hằng tháng trước và sau ngày rằm là khi nó hoạt động sôi nổi
nhất".
Tuyền béo bấm đốt ngón tay
nhẩm tính :" Mồng một ... mười lăm ... mười lăm ... hai mươi, hôm nay ngày
mười mấy gì đấy, tôi chịu thôi ... nhưng tôi nhớ đêm qua trăng to tổ bố, vừa
tròn vừa đỏ..."
Bầu trời lúc này mây xám
nặng trịch như chì, nhưng đã hết tiếng sấm, rừng cây tĩnh lặng, dường như chỉ
còn tiếng thở và tiếng tim đập của ba chúng tôi. Tuyền béo vừa dứt lời thì cả
ba cùng nhớ ra rằng đêm qua trăng sáng như tranh, dù hôm nay không phải ngày
rằm thì cũng là mười sáu.
Shirley Dương bất thình
lình rút con dao lính dù ra, chỉ về phía sau lưng tôi kêu lên :" Cẩn thận
đằng sau anh!"
Chưa ngoảnh đầu nhưng tôi đã
kịp bổ ngay cái cuốc chim leo núi về phía sau, ba sợi đỏ vươn đến sát người tôi
lập tức bị chặt đứt làm sáu đoạn trên thân cây, chỗ bị đứt tuôn ra chất lỏng
vừa đỏ vừa đen, ba khúc ngắn bị rơi xuống đất, lập tức co lại khô quắt, ba vết
đứt của ba " cái vòi" thò từ trong thân cây ra lập tức tự lành vết
thương và co trở vào trong.
Tôi nhìn quanh một lượt,
thấy trên thân cây cao to vươn ra vô số những sợi thịt đang từ từ di chuyển, đã
cắt đứt hết đường rút lui của chúng tôi, trông chúng như những ống dẫn nước nhỏ
màu đỏ. Shirley Dương và Tuyền béo đang dùng vũ khí trong tay chặt đứt vô số
sợi thịt màu đỏ nhung nhúc dịch chuyển.
Nhưng mặc cho chúng tôi
chém thế nào, đám sợi thịt giống như đàn giun này cứ mỗi lúc một nhiều lên,
chặt được một lại mọc ra ba, mà còn to hơn trước nhiều lần, không ngừng uốn éo
áp sát chúng tôi, trông kinh tởm đến độ khiến người ta chỉ muốn nôn ọe.
Không gian trên tán cây có
hạn, khó mà xoay xở cho chu toàn, tuy rằng nếu hụt chân thì đã có dây bảo hiểm,
khỏi lo ngã xuống mà chết, nhưng lỡ mà bị treo lửng lơ trên cây, chúng tôi sẽ
lập tức bị những sợi thịt màu đỏ của con trăn trùng thuật thừa cơ tấn công, len
qua thất khiếu, đó sẽ là cách chết cực kỳ đau đớn, khốn khổ chẳng kém gì bị bắt
sống để chế tạo thành tượng người.
Shirley Dương đã bị dồn đến
chỗ đầu mút của một cành cây, bất cứ lúc nào cũng có thể gãy lìa rơi xuống, cô
nàng chỉ còn cách cầm con dao lính dù gắng gượng chống đỡ. Thấy Shirley Dương
bị yếu thế, tôi định đến hợp sức với cô nhưng bản thân cũng khó mà thoát nổi,
Tuyền béo ở phía bên kia cũng tự lo cho mình còn chưa xong, tôi nóng lòng như
lửa đốt, định dùng máy chữ Chicago lia một chập giải vây cho Shirley Dương,
nhưng lại sợ bắn gãy cành cây thì cô nàng cũng theo đấy rơi xuống, nhất thời
thúc thủ vô sách chỉ còn biết lớn tiếng hô Tuyền béo mau đi cứu người.
Shirley Dương thấy hai
chúng tôi ở bên này hò hét, ngoảnh sang phía chúng tôi trong khi tay vẫn chống
đỡ không ngừng, miệng hét lớn :" Tôi sẽ nhảy xuống lấy bình xịt propane
đốt cây này đi. Khi tôi châm lửa hai anh hãy liệu tìm cách mà tụt xuống đất
nhé!"
Tôi nghe mà phát hoảng, cây
cao hai ba chục mét sao có thể nói nhảy là nhảy luôn được, vội cuống quýt nói
với Shirley Dương :" Cô sợ quá lú lẫn rồi chắc, nhảy từ trên này xuống
khác nào tự sát? Đừng làm chuyện ngu ngốc nữa, chớ có mà chăm chăm thể hiện chủ
nghĩa anh hùng cá nhân của người Mỹ các cô, sức mạnh tập thể mới là vĩ đại! Cô
hãy cố cầm cự, bọn tôi đến tiếp ứng ngay".
Tuyền béo đứng bên lại tát
nước theo mưa, lớn tiếng nói với Shirley Dương :' Nhảy xuống đi, nhảy xuống, cô
sẽ hòa mình vào trời xanh đó!"
Shirley Dương không nói gì
nữa, cầm dao cắt luôn sợi dây bảo hiểm buộc ở ngang lưng, tung mình nhảy ào
xuống. Tôi trợn tròn mắt nhìn theo, quả tim dường như cũng rơi theo từ độ cao
hai ba chục mét này xuống đất.
Tuyền béo há hốc mồm, nói
:" Ối mẹ ơi, dám nhảy thật à? Người Mỹ quả là rất chịu chơi!".
Shirley Dương đang lơ lửng trên không, ô Kim Cang cầm trong tay vừa bật ra,
biến thành cây dù để giảm tốc độ rơi.
Nếu không phải là ô Kim
Cang kiên cố mà đổi lại là cái ô bình thường, lúc này chắc nó đã bị luồng không
khí bên dưới thốc dựng lên, biến thành cái loa kèn, thật không ngờ chiêu hiểm
này của Shirley Dương lại thành công.
Tuy nhiên chúng tôi đã vui
mừng hơi sớm, một sợi dây leo bỗng vươn ra từ thân cây đa già, trực tiếp quấn
lấy Shirley Dương, giữ cô nàng lơ lửng giữa không trung. Đối mặt với đòn tấn
công bất ngờ, Shirley cũng kinh hoảng lúng túng không biết làm sao, đành xọc
mũi dùi nhọn xuyên giáp của đầu cái ô Kim Cang vào thân sợi dây leo.
Tôi đứng trên ngọn cây nhìn
thấy rất rõ có vài sợi thịt đỏ bám trên dây leo. Sự lợi hại của những sợi thịt
đỏ này nằm ở sức sống ngoan cường như lũ giun đất khổng lồ, dù bị chặt thành
mấy đoạn chúng vẫn sống tiếp được, căn bản là không biết xử trí thế nào vói bọn
này. Tôi đã bị không ít chất nhầy của chúng bắn lấm tấm khắp người, bốc mùi vừa
ngái vừa thối nhưng hình như không có chất độc, nếu không, bị dính nhớp như
thế, độc tố phát tác khiến tôi chết đứ đừ từ lâu rồi.
Mũi hít vào toàn mùi thum
thủm tê tê, trong đầu tôi bỗng nảy ra một ý nghĩ, những đám sợi thịt này tựa
như huyết quản của quan tài ngọc, "đánh rắn đánh dập đầu, bắt giặc bắt
tướng trước", tại sao mình không đập vỡ luôn cỗ quan tài ngọc kia. Cứ tiếp
tục quần thảo nhau trên tán cây thế này không phải là cách hay, đánh lâu mỏi
tay, lỡ bị chúng trói chặt thì tiêu đời, hôm nay đành liều mạng đánh cược một
phát vậy.
Tôi bảo Tuyền béo tạm chống
đỡ giúp một lúc, rồi giơ luôn khẩu Thompson ra chĩa vào quan tài ngọc trong
thân cây bắn một chập. Khẩu súng máy kiểu Mỹ hỏa lực cực mạnh ngay tức khắc bắn
nát vụn cỗ quan tài, chất dịch bên trong chảy ra bằng hết.
Đến khi những giọt cuối
cùng chảy ra sạch, những sợi thịt đỏ uốn éo nhung nhúc của con trăn trùng thuật
bỗng như bị rút mất linh hồn, rào rào rơi xuống rồi khô quắt lại trong chớp mắt.
Shirley Dương cũng bám vào
sợi dây leo tụt xuống nên không bị thương tích gì, chỉ bị kinh sợ một phen,
gương mặt hơi tái đi. Tôi và Tuyền béo vội leo xuống, ba người lúc ấy mới hơi
trấn tĩnh được một chút, trận chiến bất thình lình trước sau chỉ chưa đến mấy
phút nhưng với chúng tôi, sao mà dữ dội tưởng như kéo dài đằng đẵng.
Tôi đang định lên tiếng nói
với Shirley Dương và Tuyền béo thì khắp mặt đất chấn động rất mạnh. Hai cây đa
già cỗi dần dần không chịu đựng nổi nữa, tiếng rễ cây bật tung đứt lìa vang lên
liên miên không ngớt, hình như bên dưới cây có một con vật khổng lồ đang húc
đất ngoi lên, đội cả rễ lẫn thân cành của cây đa hơn hai ngàn tuổi này bật dậy.
Bầu trời lại nổ sấm vang rền, cái hốc toác ra trên mặt đất bốc lên những làn
khói đen. Sấm nổ vang, khói ngùn ngụt, đất nứt toác ... tạo thành một cơn lốc
xoáy mà cây đa già là trung tâm, vây chặt lấy ba chúng tôi.
Chương 15: Trấn
lăng phả
H ai cây đa già xoắn làm một, trong thân cây vốn toàn là hang hốc nhỏ
to, bình thường toàn nhờ vào đám sợi thịt đỏ mọc ra từ quan tài ngọc mà trụ
vững, lúc này đã mất chỗ dựa, trên nặng dưới nhẹ, bị vật to lớn dưới đất đội
lên một cái, liền rùng rùng đổ vật ra.
Cỗ quan tài ngọc vốn nằm
trong thân cây bị tôi dùng khẩu Thompson bắn nát cũng văng ra rơi xuống đất.
Chất lỏng bên trong đã cạn, chỉ còn trơ cái thây ông già râu bạc không quần
không áo và con trăn trùng thuật bị lột da, sống nhờ vào chủ nhân nằm trong
quan tài. Cả người và trăn dính chặt nhau cùng lăn ra, trong nháy mắt xảy ra
biến đổi không ngờ, chưa đến vài ba giây đã thành một đống than khô đen.
Chúng tôi không biết sau đó
rốt cuộc sẽ xuất hiện thứ gì nữa bèn lùi lại mấy bước. Tôi lên quy lát súng
chĩa vào rễ cây, Tuyền béo thì đã lấy cái bình xịt propane ra khỏi ba lô định
dùng chiêu hỏa thiêu liên thành.
Shirley Dương đứng bên đưa
tay chắn họng súng của tôi lại, nói :" Đừng vội ra tay ... hình như đó là
một bức tượng đá, ta xem cho rõ đã rồi hãy hay".
Chúng tôi nhìn thấy rễ cây
đa từ từ rời khỏi nền đất. Tán hai cây đa ấy sum suê khác thường đã là rất hiếm
có trong khu rừng này, nhưng bộ rễ ăn sâu vào lòng đất của nó còn to gấp ba lần
tán cây. Tất cả rễ cái rễ con đều bật lên hết, thử hỏi chấn động ghê gớm đến
nhường nào, mặt đất hình như vừa há ra một cái miệng khổng lồ đen ngòm. Đất
trời đột nhiên rung chuyển, mây âm u càng thêm dày nặng, mây đen cuồn cuộn đè
trên cánh rừng, sấm nổ liên hồi không dứt, muôn âm thanh hòa lẫn vào nhau.
Cây đa đổ xuống, trong lòng
đất ngoi lên một con Tì hí khổng lồ, lưng cõng một tấm bia ngắn. Bình sinh ba
chúng tôi đều chưa bao giờ nhìn thấy một con Tì hí to đến thế, tính sơ sơ cũng
phải nặng không dưới một tấn, bộ rễ cây đa già bao phủ trên lưng con Tì hí, xem
chừng nó vốn bị người ta cố ý chèn bên dưới gốc cây này.
Con Tì hí bằng đá nghển cổ
rất hiên ngang, đuôi cong vươn ra, bốn chân bám trên đất, bò trườn ra đất, phía
trên mai rùa sừng sững là vân tọa, tấm bia ngắn được dựng ở trên đó, một làn
hắc khí bên dưới con rùa đá tuôn ra xông thẳng lên trời, một hồi lâu sau mới
tiêu tán. Mây đen trên trời cũng theo đó trôi đi hết, bầu không khí lúc này
nồng nặc mùi khí ozone sau cơn sấm sét dữ dội.
Chúng tôi đứng xa nhìn, cho
đến khi mặt đất đã hoàn toàn tĩnh lặng, xác nhận chắc chắn không còn mối nguy
nào nữa, mới dám bước lại gần quan sát. Tuyền béo lấy làm lạ :" Nhất này,
ngày trước hai ta đi Thái An thăm Đại Miếu, cũng chưa thấy con Tì hí nào to như
thế này nhỉ. Cổ vật mấy nghìn năm, kéo về tuy rất tốn sức nhưng đúng là một báu
vật đấy".
Tôi cười :" Tôi thấy
quan điểm thẩm mỹ của cậu hơi giống bọn phát xít Đức đấy nhá, cứ thấy vật gì to
xác đều cho là hay. Cái thứ to tổ bố thế này, cậu đưa về được thì cũng có ma nó
mua, nhà nào chứa cho vừa?"
Tuyền béo lại không nghĩ
thế :" Cậu không hiểu tình hình kinh tế hiện nay rồi, uổng cho cậu vẫn
khoe ông nội là nhà giàu có, tôi thấy đời ông nội nhà cậu chỉ là tay địa chủ
chưa từng trải sự đời thôi. Thế giới ngày nay tuy hai phần ba quần chúng còn
lao khổ chưa được giải phóng đổi đời, vẫn còn một phần ba thuộc về tầng lớp có
tiền có của, giàu có thì nhà cửa cũng to theo, trăm ngàn mẫu ruộng tốt chẳng
bằng cái lông chim, chẳng lẽ lại không chừa ra một khoảnh để đặt con Tì hí này
à? Không tin thì cậu cứ hỏi cô ả người Mỹ xem nhà cô ta ở California rộng đến
đâu, nói ra chỉ e cậu sợ chết ngất, toàn bộ nhà ở của cán bộ cấp binh đoàn nước
ta cộng lại cũng chẳng bằng cái sân sau nhà cô ta đâu".
Tôi lấy làm kinh ngạc, vội
hỏi Shirley Dương :" Có thật thế không? Tôi thấy điêu lắm, nghe như Tuyền
béo nói thì sân sau nhà cô đủ chỗ dàn trận đánh thế chiến lần ba ấy chứ nhỉ ..."
Không đợi Shirley Dương trả
lời, Tuyền béo đã tranh nói ngay :" Lại còn không đúng chắc? Các cụ tổ nhà
người ta bao nhiêu đời trước đã bắt đầu chơi minh khí, lại còn đổ được hàng bao
nhiêu đấu lớn, cứ tiện tay vớ lấy dăm món đồ, cũng bằng nhân dân thế giới thứ
ba phấn đấu nửa năm trời rồi. Nhất ạ, chỉ có cậu là bôn thôi, tôi nghe thằng
cha Răng Vàng nói có người chuyên sưu tầm Tì hí. Chẳng phải là có câu thế này
này: xoa đầu Tì hí, vàng bạc nhiều đầy đất nhặt, xoa đuôi Tì hí, thọ tám chín
mươi năm. Nó là vật may mắn cực kỳ, trong nhà chỉ cần bày một con thôi, thì mẹ
kiếp, đời phất lên như phi tên lửa, chẳng thằng nào cản được!"
Tôi bật cười :" Cậu
nghe thằng cha Răng Vàng phét lác rồi. Mấy câu ấy năm ngoái tôi chép cho hắn
đấy. Cứ gì phải xoa đầu Tì hí, chứ vuốt lông gà cũng vẫn là mấy câu ấy cả, đây
là mấy câu chuyện dùng để phỉnh bọn nước ngoài thôi. Nếu không tin thì cậu cứ
ra sờ đầu Tì hí đi, sau này cũng khỏi cần đi vào núi đổ đấu với tôi nữa làm gì,
ngày nào ra đường đi dạo, vặn hông một cái, cúi xuống là vớ được cục vàng to
như cục cứt chó ngay!"
Tuyền béo bị tôi nói cho
ngớ ra, lập tức độp lại :" Bảo sao mấy câu ấy quê không ngửi được, mẹ cha
nó, hóa ra là cậu bịa à!"
Shirley Dương không để ý
tôi và Tuyền béo ở bên cạnh đấu khẩu, chỉ chăm chú quan sát con Tì hí đá khổng
lồ, xem xem rốt cuộc tại sao nó lại đội đất ngoi lên, nhìn đi nhìn lại mấy lần,
rồi nói vói tôi và Tuyền béo :" Hai anh đừng đôi co nữa, đây không phải là
Tì hí ... mà là một con Tiêu đồ rất giống Tì hí thôi!"
Tuyền béo không hiểu ra sao
bèn hỏi lại :" Tôi chỉ biết thịt gà chấm muối tiêu, chứ không biết cái món
Tiêu đồ này ở tiệm nào bán..."
Tôi thì có biết chuyện con
Tiêu đồ này, nhưng đây chẳng phải là Tì hí đội bia còn gì? Nghĩ đoạn, tôi bèn
nói với Shirley Dương :" Tôi có một cái thói, cứ hễ đứng trước mặt những
đứa kém hiểu biết kiểu như cậu Tuyền béo này ấy, là tôi không tài nào khiêm tốn
được. Mấy cái thứ này, tôi thực là đã quen quá đi rồi, theo tôi biết thì ' rồng
sinh chín con, mỗi con mỗi vẻ', Tì hí, Tiêu đồ, là hai trong số đó, ngoài ra
còn có các con Toan nghê, Bát hạ, Bệ ngạn, Ly vẫn, Nhai thự, Thao thiết, Bồ lao
1. Tiêu đồ là thú trấn cửa, tôi thấy con thú đá trước mắt ta đây phải là con Tì
hí, giống hệt con rùa già còn gì?"
Shirley Dương gật đầu đáp
:" Đúng thế, ngoại hình của con thú đá này rất giống thần thú Tì hí cõng
bia, nhưng anh nhìn xem, toàn bộ nó đều được tạo hình bằng thủ pháp chạm nổi,
đường vân trên mai rùa rất rõ nét, riêng móng ở bốn chân nhọn hoắt như mũi
giáo, trong miệng toàn răng sắc nhọn, các đặc điểm này phù hợp với đặc trưng
của Tiêu đồ, chỉ có điều chắc là vùng văn hóa nước Điền cổ có khác biệt nên nó
không thật giống với con Tiêu đồ của Trung Nguyên mà thôi".
Nói đoạn cô nàng đưa cho
chúng tôi xem mấy tấm ảnh do giáo sư Tôn chụp, đó là sáu con thú mà Hiến vương
dùng để tế trời tế đất, một trong số đó rất giống với con Tiêu đồ bằng đá này.
Tôi đối chiếu kỹ lại, quả nhiên trên đầu con Tiêu đồ cũng có một hình tròn tựa
hình con mắt, trước đó bị rễ cây che khuất nên không phát hiện ra.
Shirley Dương nói tiếp
:" Sách cổ chép rằng, Tiêu đồ giỏi chắn, ý nói có thể trấn trạch tránh tà.
Tác dụng chủ yếu của Tiêu đồ là trấn áp tà khí ở gần mộ của bậc đế vương, sau
khi mộ của vương được xây xong, thì chôn nó ở rìa ngoài, giống như lễ đổ móng
trong các nghi thức xây dựng kiến trúc hiện đại vậy. Tôi đoán nó là Tiêu đồ,
chủ yếu bởi tấm bia gắn trên lưng nó không phải bia đá bình thường, mà có khả
năng là lăng phả của mộ Hiến vương".
Ba chúng tôi đều trèo lên
mai rùa của con thú đá khổng lồ, lấy dao lính dù khẽ cạo đất bùn bám trên bề
mặt lăng phả, chữ và các hình vẽ chạm khắc trên đó dần hiện ra, quả nhiên là
không ngoài dự đoán của Shirley Dương. Giờ thì tôi và Tuyền béo không thể không
phục cô nàng, hôm nay bọn tôi tỏ ra non kém quá, đành chờ dịp khác gỡ lại sĩ
diện vậy.
Shirley Dương giơ máy ảnh
chụp lại hết lăng phả khắc trên bia đá. Thông tin trên lăng phả này nhiều đến
bất ngờ, miêu tả tường tận quá trình xây mộ của Hiến vương, thậm chí còn có cả
một phần ghi chép về bồi lăng nữa. Hiềm nỗi câu văn cổ xưa thâm ảo, có chữ nó
biết mặt tôi mà tôi chẳng biết mặt nó, đành để Shirley Dương giải thích thêm,
ba chúng tôi chụm đầu lại một chỗ, lần đọc từng chữ từng câu.
Trên lăng phả trước tiên
nói rằng nước Điền cổ là ba quận do Tần Thủy Hoàng đặt ra, cuối thời Tần, Hán -
Sở dấy lên, thiên hạ đại loạn, thủ lĩnh của ba quận áp dụng chính sách bế quan
tỏa cảng, phong tỏa mọi ngả giao thông với phương Bắc, tự lập thành một nước.
Về sau nhà Hán bình định được thiên hạ, nhưng ngay từ khi dựng nước, Hán triều
đã bị Hung Nô phía Bắc uy hiếp, phải lo giữ mình nên không có thì giờ để mắt
đến Điền vương.
Vào thời kỳ cuối của nước
Điền, sức ép của đế quốc đại Hán ở phương Bắc ngày càng lớn, việc nước ngày
càng rối ren, ý trời đã xa lánh, Hán Vũ Đế đòi Hiến vương giao nộp thần vật
thượng cổ Mộc trần châu, trong nước vì chuyện này bị chia rẽ gay gắt, Hiến vương
mang theo Mộc trần châu thật rời bỏ nước Điền, lặn lội đến tận vùng núi ngất
cao miền Tây nước Điền. Điền vương chỉ còn cách dâng một viên "Ẳnh
châu" lên cho Hán Vũ Đế.
Đọc đến đây, Shirley Dương
đã hơi không kìm nén được cảm giác kích động trong lòng :" Vậy là vấn đề
tôi lo nhất đã được làm rõ. Vì Mậu Lăng chôn cất Hán Vũ Đế trong lịch sử đã bị
dân binh đào bới tung tóe hết lên rồi, Mộc trần châu bồi táng trong mộ cũng
theo đó mà lưu lạc trong dân gian. Thời kỳ lịch sử ấy khó mà đối chiếu xác định
được với thời gian xây mộ Hiến vương, thì ra bên trong Mậu lăng chỉ có một viên
Ẳnh châu giả mạo mà thôi".
Đoạn sau của lăng phả viết
: Mộc trần châu là phượng hoàng do địa mẫu hóa thành, từ thời Thương - Chu đã
có thuyết cho rằng có thể dựa vào thần vật ấy mà tu luyện thành tiên, công hiệu
thoát thai hoán cốt, nhưng cần có một địa điểm đặc biệt nó mới phát huy được
tác dụng. Chu Văn Vương đã từng chép tường tận những nội dung này vào Thiên thư.
Có điều những chuyện cơ mật
này thủy chung vẫn nằm trong tay tầng lớp thống trị, hầu hết các vị quân vương
đều mơ ước mình có thể đắc đạo thành tiên, trường sinh bất tử để nắm giữ giang
sơn ngàn vạn năm, cho nên tất cả đều gắng hết sức hòng khám phá bí mật về Mộc
trần châu. Cuối đời Tần, Mộc trần châu lưu lạc đến miền Nam nước Điền, Hiến
vương không muốn mất ngọc nên mới bỏ nước mà đi, tìm một nơi trong núi để tu
tiên, trong mắt các thuật sĩ phong thủy thì địa điểm mà Hiến vương chọn đáng
đượcc gọi là động phủ thần tiên.
Mộ Hiến vương trước sau đã
mất hai mươi bảy năm xây cất, nhân lực xây lăng lúc nào cũng duy trì ở khoảng
mười vạn người, gần như là đã dốc sạch quốc lực, ngoài nô lệ ra còn có rất
nhiều dân chúng man di ở địa phương.
Đọc đến đây chúng tôi đều
không khỏi lắc đầu lè lưỡi, thì ra cả đời Hiến vương chẳng làm gì khác, chỉ dốc
tinh lực vào việc xây lăng mộ cho mình, muốn mình chết rồi thân xác sẽ được hóa
hết ở trong "thủy long huân" mà đặng thành tiên, chuyện này dù sao
người ta cũng khó mà tin được. Truyền thuyết về Mộc trần châu chúng tôi đã nghe
nói không ít, nhưng cho đến nay vẫn chưa có được một nội dung nào xác đáng, còn
chuyện Hiến vương chết rồi có thành tiên hay không thì lăng phả này không ghi
chép, có lẽ phải chờ khi chúng tôi tìm thấy mộ Hiến vương mới giải đáp được.
Thế nhưng lăng phả này chỉ
cho biết về quá trình xây dựng mộ Hiến vương, mà không có một chữ nào về địa
cung của ngôi mộ.
Những ghi chép kế đó là về
bồi lăng. Không kể các hố tuẫn táng, thì bồi lăng thật sự chỉ chôn một viên
quan chủ tế, sau khi Hiến vương nhập liệm, người xưa vào thung lũng sâu tìm hai
cây đa có thể thay đổi kết cấu phong thủy, trước tiên chôn trấn lăng phả xuống,
rồi trồng cây đa trấn lên trên, cuối cùng bắt về một con trăn to nuôi bằng
tượng người. Trong lăng phả, con trăn này được miêu tả là con rồng xanh cực kỳ
hung mãnh tàn bạo, là loài mãnh thú chỉ núi Già Long mới có. Sau khi ăn đủ
tượng người rồi, con trăn sẽ lăn ra ngủ. Lúc này sẽ lột da nó, rồi nhập quan
cùng với vị chủ tế kia, thịt trăn thịt người, cộng với đáy quan tài gỗ trẩu, sẽ
dần dần gắn kết với cây đa thành một khối, thân xác sẽ được bảo vệ lâu dài
không rữa nát.
Vì quan tài ngọc đã bị bắn
nát nên kết cấu phong thủy ở đây bị phá vỡ, địa khí ép dưới lòng đất mấy ngàn
năm nay có cơ hội phát tiết. Sấm nổ, mây đen đều là đo địa mạch biến đổi mà
sinh ra, thế nên mới đẩy trấn lăng phả nằm dưới gốc cây trồi lên.
Phần cuối cùng, trấn lăng
phả chép những lời ngợi ca công đức, chẳng có mấy giá trị gì. Tuyền béo thấy
lăng phả không ghi chép trong mộ Hiến vương có những kỳ trân dị báu gì bèn
không khỏi có phần chưng hửng, còn với tôi thì những thông tin này đã rất đủ để
giúp tìm ra mục tiêu một cách thuận lợi. Đã nắm được kết cấu phong thủy ở đây,
thì chỉ cần dùng la bàn để định vị, dù không lần ra sông Rắn cũng vẫn có thể
tìm thấy mục tiêu đổ đấu.
Thấy chẳng còn nội dung gì
đáng xem nữa, tôi thu xếp các vật dụng, suốt một ngày một đêm không ngủ, ai
cũng mệt rồi, hôm nay phải tranh thủ sớm tìm ra lối vào khê cốc, sau đó nghỉ
ngơi cho đẫy.
Shirley Dương thấy tôi và
Tuyền béo chuẩn bị thu dọn đồ đạc để xuất phát, bèn nói :" Đừng vội thế,
mặt sau của trấn lăng phả còn một số nội dung nữa, chúng ta nên đọc nốt, đừng
bỏ sót thì hơn".
Tôi đành đi vòng sang phía
bên đó, thấy lưng bia còn một số nội dung gì đó. Shirley Dương đã cầm dao cạo
sạch đất bám bên trên, chúng tôi xán lại và cùng ngớ ra không nói được gì nữa.
Thì ra phía sau của trấn lăng phả là một bức phù điêu choán hết bề mặt, một tòa
cung điện trang nghiêm tráng lệ nhất trên đời đặt trên tầng mây nhiều màu rực
rỡ. Chẳng lẽ mộ Hiến vương thật sự được xây dựng trên trời hay sao?
--------------------------------
1 Chín đứa con của rồng thực ra
đều là sản phẩm tưởng tượng của người Trung Quốc sau khi đã cho rồng phối giống
với các loài động vật khác. Ở đây, Tì hí là con của rồng sau khi phối giống với
rùa, cho nên mình thì là mình rùa, nhưng đầu lại là đầu rồng. Ở Trung Quốc, Tì
hí là con vật chuyên cõng bia đá, nhưng khi Việt Nam ta du nhập con Tì hí về
lại biến nó thành con rùa quen thuộc, thành thử ở Việt Nam, con vật đội bia chỉ
đơn giản là con rùa.
Chương 16: Trước
miệng cốc
T rên bức phù điêu phía sau trấn lăng phả, ở trên cùng là một tòa
cung điện rực rỡ huy hoàng, đầy đủ cả nguyệt thành, giác lâu, thành chính, bia
chìm, khuyết đài, tường vẽ thần tiên, đình bia, bệ thờ 1. Xa xa phía sau là
cảnh núi sông, phía dưới cung điện không có núi đồi bệ đá mà chỉ là vài dải cầu
vồng, tất cả đứng trên khói mây giữa không trung, xung quanh có rồng bay bảo
vệ, toát lên phong thái siêu trần thoát tục của lầu các thần tiên.
Dưới nữa, thể hiện một
tuyến thần đạo bên dưới huyền cung 2. Hai bên thần đạo là dãy núi trải dài với
các ngọn núi vút cao chọc trời, tô điểm thêm cho lầu các trên không trung thêm
phần uy nghiêm tráng lệ, tuyến thần đạo này có lẽ chính là khê cốc được đặt tên
là Trùng cốc đó rồi.
Tuyền béo xem xong cười
cười bảo :" Lão Hiến vương này mê làm thần tiên đến mức điên rồi, cái mả
mà cũng làm chẳng khác gì thiên cung ngọc điện của Ngọc Hoàng đại đế, lại còn
xây tận trên trời nữa chứ, chẳng bằng chôn béng lên mặt trăng cho xong!"
Shirley Dương nói :"
Tất cả các manh mối thu thập được đều nói mộ Hiến vương đặt bên trong thủy long
huân hay còn gọi là 'Thủy Long vương', dù thủy long huân ấy thần kỳ đến mấy tôi
cũng không tin trên đời này có thể tồn tại nơi nào đi ngược lại với các quy tắc
vật lý như vậy. Hình ảnh điêu khắc trên tấm trấn lăng phả này chắc chắn đã được
nghệ thuật hóa, hoặc là ngầm ngụ ý gì đó thôi".
Tôi nói với Shirley Dương
và Tuyền béo :" Gọi là 'thủy long', chẳng qua là chỉ cái thác nước có lưu
lượng lớn, còn 'huân' tức là quầng sáng, là cầu vồng bảy sắc do hơi nước bốc
lên tạo thành, có hình mà không có thực, người xưa cho rằng đó là cầu để thần
tiên đi lại, không thể xây cất gì ở trên đó. Hình ảnh điêu khắc tòa cung điện
mà chúng ta thấy đây chắc không phải mộ của vương mà là các công trình dùng để
tế lễ trên mặt đất phía trên lăng mộ, gọi là minh lâu. Theo quy tắc thời Tần -
Hán, thì địa cung trong mộ vương phải nằm sâu mười trượng dưới tòa minh lâu
này, truyền thống này còn giữ mãi đến cuối đời Thanh".
Shirley Dương hỏi tôi
:" Nếu là minh lâu để tế tự, cũng tức là nói rằng sau khi Hiến vương chết,
cứ cách một thời gian nào đó sẽ có người đến đấy cử hành nghi thức cúng bái,
nhưng trên bản đồ bằng da người lại ghi rằng xung quanh lăng mộ có chướng khí
độc hại không bao giờ tan đi, người bên ngoài không thể vào, vậy thì những
người đến cúng bái Hiến vương phải đi vào bằng lối nào? Chẳng lẽ lại có một con
đường bí mật xuyên qua chướng khí?"
Chướng khí sinh ra trong
sơn cốc không ngoài hai nguyên nhân, một là do địa hình địa thế; ở chốn thâm
sơn cùng cốc, không khí không lưu thông, lại quá ẩm ướt, cộng với xác động thực
vật hỗn độn trong đó, nên sinh ra chướng khí độc hại.
Còn một nguyên nhân nữa,
rất có thể sau khi xây dựng xong mộ và chôn cất Hiến vương, lợi dụng địa hình
thấp trũng của Trùng cốc, người ta nhằm những nơi không có gió lưu thông để
trồng một số loài thực vật đặc thù vốn sẵn có độc tố, và thế là hình thành một
vành đai bảo vệ vương mộ. Tuy nhiên cũng chưa chắc đã có cây độc, từ thời Tần -
Hán, người xưa đã rất thuần thục kỹ thuật điều chế thủy ngân từ thủy ngân
sulfur, rất có thể người ta đã đổ một lượng lớn thủy ngân ở gần đó, cùng với
thời gian, thủy ngân khuếch tán trong không khí hình thành chướng khí độc hại.
Có điều khả năng này không lớn, dù sơn cốc kém thông gió thì nó vẫn là một
không gian mở, khí độc sẽ có ngày tan đi, trừ phi những người thợ xây có cách
gì đó khác.
Ba chúng tôi bàn bạc một
hồi, rồi lại giở tấm bản đồ da người mà lão mù đưa cho ra để đối chiếu, thấy
bản đồ này thiếu một phần so với trấn lăng phả. Trên bản khắc ở mặt sau tấm
trấn lăng phả, có một chỗ trong khê cốc khắc một con cóc hình thù kỳ dị đang há
mồm, ở gần mộ Hiến vương cũng có một con cóc đang há mồm đối xứng với nó.
Nhưng tấm bản đồ chỉ vẽ một
con cóc ở trong khê cốc, con cóc này lại ngậm mồm. Người vẽ bản đồ cho Điền
vương không biết gì về tình hình phía sau màn chướng khí, chỉ vẽ chuẩn một số
đặc trưng ở ngoại vi, rõ ràng là tình hình bên trong mộ Hiến vương thuộc phạm
vi bí mật tuyệt đối, không phải ai cũng được biết.
Sự khác biệt nho nhỏ này,
nếu không chú ý thì rất khó nhận ra, vì trên trấn lăng phả và tấm bản đồ da
người đều có rất nhiều hình vẽ chim thú quý lạ, những động vật này không hẳn là
có ở gần mộ Hiến vương, một số chỉ mang ý nghĩa tượng trưng mà thôi. Đó là vấn
đề thế giới quan của người thời cổ, tựa như có một số bản đồ cổ xưa vẽ rồng
thay cho vẽ sông, vẽ linh quy để thể hiện đỉnh núi hùng vĩ.
Con cóc này không hề nổi
bật, nói là cóc thì e không thật chuẩn xác, tuy hình dáng giống cóc nhưng tư
thế hoàn toàn không giống. Mặt mũi rất đáng ghét, bụng phình to, hai chân sau
chạm đất, hai chân trước giơ ra trước ngực như động tác đẩy cửa, đầu vươn cao,
hai mắt trợn tròn cứ như chết không nhắm mắt, lỗ mũi hếch lên trời, cái mồm
ngoác ra quá to không cân đối với thân mình.
Tôi chỉ vào con cóc ở trấn
lăng phả, nói :" Hai con cóc, một trong một ngoài hoàn toàn đối xứng, trên
cả hình vẽ này, chỉ có một chỗ này là đối xứng với nhau, rất có thể đây là
thông đạo dưới đất để tránh chướng khí cho người đi vào cúng tế, cái mồm kỳ dị
của con cóc chắc là cửa vào. Trên bản đồ da người chỉ vẽ một con, đó là bởi
người vẽ bản đồ không nắm được tình hình bên trong. Chúng ta chỉ cần tìm ra vị
trí này trong Trùng cốc là có thể tiến vào mộ Hiến vương tận sâu bên trong rồi.
Shirley Dương tỏ ý tán
thành phán đoán của tôi, còn Tuyền béo thì nghe không hiểu gì, đành ậm ừ phụ
họa. Chúng tôi xác định lại mấy lượt trên hình vẽ, chỉ cần tìm thấy dải khê cốc
ấy là chắc chắn sẽ lần ra con cóc có khả năng ẩn tàng lối đi bí mật đó.
Chúng tôi xuống khỏi lưng
con Tiêu đồ, quay nhìn bốn bề, chỉ là một cảnh tan hoang. Hai cây đa to đổ vật,
cỗ quan tài vỡ nát, xác chiếc máy bay vận tải, mấy con cú đại bàng bị khẩu
"máy chữ Chicago" bắn chết rũ như đống giẻ rách, và bề bộn nhất là vô
số xương cốt ở trong hốc cây.
Tuyền béo khẽ đá vào xác
con cú đại bàng nằm trên đất, nói :" Bắn nát bươm cả rồi, hay là vặt lông
nướng lên đi, coi như bữa trưa nay khỏi phải nghĩ".
Tôi nói với cậu ta :"
Đừng bận tâm mấy con chim chết ấy làm gì, cậu vào khoang máy bay xem xem có vũ
khí đạn dược gì còn dùng được không?"
Xác chiếc máy bay vận tải
rơi xuống đất đã vỡ tan vỡ tành, Tuyền béo lật các mảnh vỏ máy bay ra, lục lọi
tìm kiếm xem còn tận dụng được thứ gì hay không.
Tôi và Shirley Dương phụ
trách thu xếp bộ hài cốt của người phi công Mỹ, tôi lấy cái nhíp hai đầu ra
khỏi tay anh ta, ấn thử vài cái kêu tạch tè tạch tè, nghĩ bụng, tiếng máu tươi
trong quan tài ngọc nhỏ xuống nền đá cũng kêu tạch tè, con cú đại bàng ở trong
khoang máy bay mổ con thằn lằn cũng phát ra âm thanh tương tự, tiếng động do
con trăn trùng thuật nằm trong quan tài ngọc phát ra cũng na ná, vậy đoạn mã
tín hiệu ma kia từ đâu ra, e không thể nào xác định được. Tôi càng muốn tin
rằng đó là linh hồn của viên phi công Mỹ đang cảnh báo chúng tôi.
Có một thứ đặc biệt thu hút
sự chú ý của chúng tôi, đó là phù hiệu trên áo của viên phi công này thuộc đội
máy bay ném bom chứ không phải máy bay vận tải. Ngoài ra, phía lưng áo còn đính
một mảnh vải trắng với hàng chữ " không quân Mỹ sang Trung Hoa trợ chiến,
quân dân một lòng giúp đỡ".
Chứng tỏ người này không
phải thành viên tổ lái của chiếc máy bay vận tải kiểu C.
Khí hậu nơi này rất phức
tạp, vì núi và bồn địa có độ cao chênh nhau quá lớn nên áp suất không khí rất
không ổn định, có thể nói nơi này đúng là nghĩa địa máy bay. Có lẽ quanh đây
vẫn còn máy bay khác bị rơi, anh phi công sống sót này đang lần tìm đường ra
khỏi rừng thì trở thành vật hy sinh cho cỗ quan tài ngọc.
Chúng tôi dùng xẻng công
binh đào một cái hố, định mai táng người phi công trong ấy, nhưng thây đất ở
đây quá ẩm ướt, lại toàn rễ cây, không thích hợp để chôn cất. Thảo nào mà vị
chủ tế kia lại táng ở trên cây.
Tôi và Shirley Dương bàn
bạc, quyết định tạm thời coi cái khoang máy bay này là quan tài, đặt hài cốt
của viên phi công vào đó, sau khi trở về sẽ thông báo cho người đến mang về
nước.
Lúc này Tuyền béo đã bới
được ba bốn khẩu súng máy Thompson còn nguyên vẹn và hơn chục hộp đạn nữa,bèn
chạy đến giúp chúng tôi đặt hài cốt viên phi công vào một tấm chăn chiên mỏng,
rồi chuyển vào khoang máy bay, sau đó xếp đá chặn kín lỗ hổng lại.
Shirley Dương lấy cành cây
buộc thành cây thánh giá cắm phía trước xác máy bay, ba chúng tôi đứng nghiêm
trước cây thánh giá, Shirley Dương khẽ đọc mấy câu trong Kinh Thánh, mong người
phi công Mỹ hy sinh vì tự do cho nhân loại này được an nghỉ.
Khung cảnh này khiến tôi
nhớ đến ngày nào ở tiền tuyến đứng trước di thể của các chiến hữu đã hy sinh,
chợt thấy sống mũi cay cay, bèn vội chớp chớp mắt, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời.
Tuyền béo bỗng bước lên hai
bước, nói :" Bạn thân yêu hãy yên nghỉ, tôi hiểu tâm nguyện vẫn chưa hoàn
thành của bạn. Chúng tôi xin gánh vác mọi trách nhiệm nặng nề xây dựng sau
chiến tranh huy hoàng. Bạn thân yêu hãy yên nghỉ! Trời xanh mây trắng sẽ hát
lời ca tụng bạn, đỉnh núi cao sẽ gửi đến bạn những vòng hoa. Hoa tươi khắp núi
rừng sẽ cho chúng ta biết ở đây có một liệt sĩ đang yên giấc ngàn thu".
Tôi xưa nay luôn phải chào
thua cái kiểu ăn nói của Tuyền béo, lúc này chẳng biết nên khóc hay nên cười
nữa. Nhìn trời thấy đã gần trưa, nếu còn nấn ná e sẽ không kịp đi tìm lối vào
khê cốc, tôi bèn bảo mọi người hãy lên đường.
Khẩu Thompson nặng thật,
nhưng sau một đêm dài dằng dặc chúng tôi đã hoàn toàn thấm thía được tầm quan
trọng của súng máy khi đi trong rừng sâu. Không kể Shirley Dương chưa quen dùng
cái "máy chữ Chicago" này, tôi và Tuyền béo mỗi người chọn một khẩu,
còn Shirlet Dương tạm thời sử dụng súng hơi "Kiếm Uy" và khẩu súng
lục 64 còn lại. Hộp đạn băng đạn, đem được bao nhiêu thì cố đem, cả những cái
túi nilon đen chống nước bọc bên ngoài mấy khẩu súng chúng tôi cũng mang theo
luôn.
Chúng tôi tiếp tục đi men
theo mạch núi Già Long tiến lên phía trước, vừa đi vừa ăn lương khô cho đỡ đói.
Hành trình hôm nay tương đối nhẹ nhõm, tiếp thu bài học hôm trước, chúng tôi cố
gắng đi men theo những chỗ dốc gần kề mạch núi. Ở khu vực tiếp giáp giữa mạch
núi và rừng cây, thực vật mọc thưa hơn hẳn trong rừng sâu, lại không ẩm ướt
ngột ngạt như trong rừng, cũng không giá lạnh như trên núi quá cao so với mực
nước biển. Những làn gió đưa hương dìu dịu thấm vào lòng khiến người ta bỗng
cảm thấy dễ chịu, đầu óc tỉnh táo, những nỗi mệt nhọc sau một ngày một đêm đã
vợi đi không ít.
Cứ như thế chúng tôi đi về
hướng Tây Bắc chừng bốn năm tiếng đồng hồ thì bắt gặp một vùng cây nở đầy hoa,
những đóa hoa ba màu đỏ, trắng , vàng, to bằng cái bát ăn cơm, vô vàn bươm bướm
đang dập dờn bay lượn. Một dòng suối rộng vừa phải chảy qua vùng cây cối này, ở
tít phía sâu là một cánh rừng dâng cao, nơi đó mọc tập trung những cây cao to,
lớp lớp dày đặc, cao đến gấp rưỡi cây cối ở khu vực phụ cận. Có lẽ dòng suối
quanh co uốn khúc này chính là sông Rắn Bò mà dân địa phương quen gọi. Hầu hết
các nhánh của sông Rắn đều chảy ngầm trong lòng đất, chỉ có nhánh này là lộ
thiên.
Dòng suối chảy qua vùng
rừng cây này, đi qua cánh rừng dâng cao rồi chảy vào sơn cốc âm u tận sâu mãi
phía trong, có ống nhòm cũng không thấy được tình hình bên trong sơn cốc. Tôi
giở bản đồ da người, tìm thử các vật tham chiếu ở gần đó, xác định không có gì
nhầm lẫn, đây chính là lối vào Trùng cốc rồi. Đi qua đoạn này, địa thế sẽ thấp dần,
nước suối chảy xiết hơn, có lẽ con đập được xây từ thời thi công lăng mộ Hiến
vương chắn ở ngay phía trước. Tuy rằng trên mặt đất mọc đầy cỏ dại, hầu hết đều
bị thực vật che phủ hoàn toàn, nhưng vẫn có thể nhìn thấy một số mảnh gạch vỡ,
có lẽ đây là tàn tích của thần đạo dẫn đến ngôi mộ Hiến vương.
Chúng tôi thấy cuối cùng
cũng đã đến Trùng cốc, đều phấn chấn hẳn lên, rảo bước tiến về phía trước, dự
định sẽ dựng lều nghỉ chân ở gần di tích đập nước. Bước vào khu rừng đầy cây
hoa, thoạt đầu thấy những cây thấp muôn hoa đua nở với đủ màu sắc rực rỡ vô
cùng, ở sâu phía trong lại toàn là hoa đỏ lá đỏ thuần một màu, nhìn vào ngỡ là
một đám mây đỏ khổng lồ, đàn bướm phượng vĩ vàng óng bay lượn giữa rừng hoa đỏ.
Nơi đây chẳng khác nào cõi
thần tiên, so với khu rừng âm u cách đây không xa mà chúng tôi vừa qua đêm thì
đúng là hai thế giới khác hẳn. Tuyền béo nói :" Tiếc quá, chẳng rõ chúng
ta đã đánh mất hai cái vợt bắt bướm ở đâu, nếu còn tôi sẽ bắt vài trăm con bướm
đem về Bắc Kinh làm tiêu bản mà bán cũng được một khoản lớn đấy. Xem ra trên
đời này còn khối cách kiếm tiền, nếu không đi đây đi đó mà cứ ru rú trong thành
phố thì sao có thể nghĩ ra được?"
Shirley Dương nói :"
Những cây lá đỏ hoa đỏ này gọi là quyết Dictyocline wilfordit 3, thời gian hình
thành là khoảng trước kỷ thứ ba, cách đây vài chục triệu năm. Các loài thực vật
cùng thời với nó sau bao biến động thăng trầm về cơ bản là đã tuyệt chủng hết
rồi, quyết Dictyocline wilfordit là loài thực vật hiếm hoi sót lại. Chúng chủ
yếu sinh trưởng ở những nơi thiếu ánh sáng và râm mát trong rừng. Những con
bướm lớn dị chủng này có lẽ cũng chỉ quanh đây mới có, một lần anh định bắt vài
trăm con, thì khác nào muốn loài bướm kim tiền và quyết Dictyocline wilfordit
cùng tuyệt diệt?"
Tuyền béo phát cáu :"
Cô thật là ... người như cô sao cứ thích lên lớp cho người khác thế nhỉ! Tôi
chỉ buột miệng nói vậy thôi, chứ nếu bảo ông béo này bắt bướm thật thì sốt ruột
lắm. Bắt bướm mãi rồi cũng hết, đâu có lãi thực như đổ đấu, vớ được một món
minh khí là có thể ăn chơi hưởng lạc nửa đời người!"
Ba chúng tôi vừa trò chuyện
vừa đi xuyên qua rừng hoa, lần theo vết tích của thần đạo cổ xưa, đi đến chỗ
tiếp giáp giữa rừng hoa và rừng cây, đây là lối vào Trùng cốc. Càng tiến đến
gần mộ Hiến vương, các di tích cổ xưa càng thêm rõ rệt.
Ở cửa sơn cốc có hai khối
đá nhẵn trơn đập ngay vào mắt, vì chỗ này bị cánh rừng cây cao kia che khuất
nên đứng ngoài hoàn toàn không nhìn thấy hai khối đá khổng lồ nhẵn thín này.
Không ai ngờ rằng trong rừng rậm thế này lại có hai khối đá lớn, bên trên không
mọc nhánh cây ngọn cỏ nào, trông vừa trơ trọi vừa quái dị.
Chúng tôi ngước mắt quan
sát, đều ngờ ngợ hai khối đá này giống vật gì đó. Nhìn kỹ hơn, thấy trên cả hai
khối đá đều dùng chất liệu màu đen vẽ một con mắt. Nhưng nó không được tạo hình
kiểu nhãn cầu như Mộc trần châu, mà là con mắt có lông mi hẳn hoi, ánh mắt sâu
thẳm uy nghiêm, tuy nét vẽ còn thô vụng nhưng lại rất có thần. Lẽ nào chúng
định nhắc nhở rằng Hiến vương đã chết kia đang dùng đôi mắt của ông ta dõi nhìn
bất cứ ai dám bước vào sơn cốc này?
Shirley Dương bước đến gần
nhìn khối đá, rồi ngoái lại nói với hai chúng tôi :" Đây là hai khối vẫn
thạch tức phần còn lại một thiên thạch tách làm hai, gần đây có sự cố máy bay
rơi, hẳn là có liên quan đến hai khối đá này".
--------------------------------
1 Nguyệt thành: thành nhỏ,
bên ngoài thành chính. Giác lâu: lầu, vọng gác đặt ở bốn góc trên tường thành.
Khuyết đài: lầu dựng trước hai bên cửa hoàng cung. 2 Huyền cung: nơi nghỉ ngơi
thanh tĩnh, ngầm chỉ phần mộ. Thần đạo: đường dẫn đến lăng mộ. 3 Một loài thực
vật cùng họ với dương xỉ.
Nguồn tusach.mobi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét