Chương 22: Hung Thiết
Tôi chưa kịp tung chân
đạp cửa, đã thấy bên ngoài hai ô cửa sổ đó bất thần lộ ra hai cánh tay trắng ơn
ởn, năm ngón tay chầm chậm uốn éo trên mặt kính, phát ra những âm thanh ma sát
chói tai, nghe mà da gà nổi lên khắp người. cẳng chân tôi mới nhấc lên một nửa
liền dừng sững lại, đột nhiên bản lề gỉ sét phát ra một tràng âm thanh quái dị,
cùng với âm thanh ấy, cánh cửa chầm chậm bị đẩy ra từ phía bên ngoài...
Bản lề gỉ hoen gỉ hoét
phát ra những âm thanh “két két két két”, cánh cửa bị đẩy ra từ phía bên ngoài,
tôi chưa bao giờ biết rằng tiếng mở cửa lại đáng sợ đến nhường ấy. Cánh cửa he
hé mở, tựa như có một chậu nước lạnh pha lẫn vụn băng đá xối thẳng vào người
tôi, nhưng qua khe hẹp ấy, chỉ nhìn thấy được một vùng tối đen mờ mịt bên ngoài.
Tôi vẫn muốn kiên trì
xem xem rốt cuộc là kẻ nào đẩy cửa bước vào, nhưng Đinh Tư Điềm và Tuyền béo đỡ
lão Dương Bì ở phía sau đã không trụ nổi, kêu lên một tiếng: “Chạy thôi!” Nói
đoạn, bọn họ liền bắt đầu rút lui vào bên trong. Tôi mất chỗ dựa đằng sau, cũng
không dám làm tàng tiếp tục đứng chặn ở cửa, bèn vội vội vàng vàng xách ngọn
đèn dầu leo lét quay người chạy gấp, nhưng cất chân lên mới cảm giác được cặp
giò mình đã mềm nhũn cả ra rồi.
Người xưa có câu “binh
bại như núi đổ”, hành động triệt thoái tán loạn không có kế hoạch tổ chức là
rất đáng sợ. Mấy người chúng tôi tuy bảo là hò nhau rút lui đấy, nhưng sự thực,
nỗi sợ tựa như bệnh truyền nhiễm lan tràn, không ai ghìm được nhịp tim dồn dập,
thần trí kinh hoảng như con ruồi mất đầu, chen chúc xô đẩy nhau chạy vào bên
trong hành lang. Bọn chúng tôi chạy vào đến chỗ cầu thang cuối hàng lang, suýt
chút nữa là đập đầu vào tường, bấy giờ mới dừng bước.
Tôi giơ đèn dầu lên
nhìn Tuyền béo và Đinh Tư Điềm, mặt hai người đều trắng nhợt, hoàn toàn có thể
hình dung bằng câu “mặt cắt không còn hột máu”, sắc mặt tôi chắc chắn cũng chẳng
hơn gì hai người họ. Lần này đúng là chết toi thật, đầu tiên tại bố cục bên
trong tòa nhà này quá sức kỳ bí, khiến người ta không thể không nảy sinh cảm
giác duy tâm chủ nghĩa, mười phần chắc đến tám chín là trong đây có ma quỷ lộng
hành, chết người nhất là lúc đi lại quên không mang theo mấy cái móng lừa đen.
Cửa tòa nhà này cũng
rất đặc biệt, không ở phía mặt tiền như các tòa nhà bình thường, mà trổ ở đoạn
hẹp của tòa nhà hình chữ nhật. Các căn phòng dọc hai bên hành lang đều bị bít
chặt bằng gạch đá, đoạn hành lang nối liền với cửa ra vào này rất dài, cuối
hàng lang cũng bị bít kín, đi tới đây chỉ còn một lựa chọn duy nhất là lên cầu
thang. Ở chỗ rẽ cuối hành lang, có hai cầu thang một lên một xuống, phỏng chừng
trong tòa nhà này còn có hầm ngầm nữa.
Giống như hành lang,
cầu thang đều thông thoáng, không bị bít kín bằng gạch đá. Chuyện xảy ra ngoài
cửa lúc nãy làm chúng tôi đều mất hết nhuệ khí, nhất thời cũng không dám tính
kế quay lại đường cũ đi ra cửa nữa. Việc đã đến nước này, giờ cũng chỉ còn lại
hai lựa chọn, đi lên tầng hai hoặc xuống hầm ngầm mà thôi.
Vì trong tòa nhà thực
sự quá đỗi tĩnh lặng, chúng tôi ở cuối hành lang không nghe thấy phía cửa sắt
có động tĩnh gì nữa, bấy giờ mới thơ phào một tiếng. Đinh Tư Điềm ôm ngực thở
hổn hển hỏi: “Đừng hoảng hốt, vừa nãy có ai trông rõ... là... là cái gì ở bên
ngoài vào không?”
Tuyền béo trề môi nói
với cô: “Bạn còn hỏi được thế cơ đấy. Vừa nãy chẳng phải bạn đánh trống lui
quân trước tiên còn gì. Tôi còn chưa nhìn rõ bên ngoài có cái gì, thì đã ba chân
bốn cẳng chạy vào trong này với bạn rồi. Tôi thấy, chúng ta lần này đúng là
‘nghe hơi liền bỏ chạy’ thật rồi, không ngờ thanh danh cả đời của tôi, lại bị
hủy cả ở cái chốn hoang vu này.”
Lão Dương Bì đột nhiên
tỉnh lại khỏi cơn hôn mê, thấy mình được Đinh Tư Điềm và Tuyền béo vừa đỡ vừa
kéo, rồi lại mượn ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu quan sát xung quanh, không
hiểu mình đang ở nơi nào, bụng thì phình trướng lên khó chịu vô cùng, trong lòng
đầy hoang mang mơ hồ, vội vàng hỏi tôi: “Chỗ tối om này là đâu thế? Lẽ nào đã
vào điện Diêm La rồi? Không ngờ lão già như tôi, lại cùng mấy người thanh niên
trí thức các cậu...”
Tôi bèn giải thích qua
loa với lão Dương Bì, chợt nghe ngoài cửa vang lên tiếng loảng xoảng, âm thanh
chấn động va đập vào vách tường hồi vọng ong ong đinh tai nhức óc. Nghe âm
thanh này, chắc rằng cửa sắt bên ngoài kia đã bị hạ xuống rồi. Các cửa sổ trong
tòa nhà này đều toàn là đồ rởm, nếu không còn lối ra nào khác, vậy thì chỗ cánh
cửa sắt kia chính là con đường duy nhất để rời khỏi nơi này.
Ai nấy tái mặt, sau
tiếng cửa sắt sập xuống ấy, trong tòa nhà lại không một động tĩnh, hồi lâu sau
chúng tôi mới định thần được. Vừa nãy mọi người đều chỉ lo chạy vào trong, quên
mất rằng bên ngoài kia còn một tầng cửa sắt, một khi đã đóng lại thì khó mà ra
ngoài được. Chỉ nghe Tuyền béo lớn tiếng chửi bới: “Tổ sư cha bố mười tám đời
nhà nó, thế này là muốn nhốt chúng ta chết trong này rồi còn gì, cha chả độc ác
quá là độc ác, đừng để tôi biết là đứa nào làm, tôi mà biết thì nhất định phải
phê con bà nó đấu nó mấy trận cho nó chết cha nó đi.”
Lão Dương Bì hồi trước
ở nhà hầm vùng Tây Bắc, sau đến thảo nguyên mưu sinh lại ở trong lều bạt của
người Mông Cổ, xưa nay chưa bao giờ ở trong nhà bằng xi măng cốt thép, nói theo
lời ông, cảm giác tòa nhà này giống như một cái hộp vậy. Tuy ông không rõ tình
hình cho lắm, nhưng nghe Tuyền béo nói vậy thì cũng đoán ra được bảy tám phần
rồi. Ông già cứ thở dài thở ngắn mãi không thôi, trở về tiểu khu tuy không
tránh khỏi bị phê bình, đấu tố, nhưng thế nào thì cũng đỡ hơn là chết đói ở
trong cái hộp bằng đá này.
Đinh Tư Điềm nói với
tôi: “Rốt cuộc là ai đóng sập cửa sắt xuống vậy, trên đời này có ma quỷ thật
sao? Sớm biết vậy thì vừa nãy chúng ta lẽ ra nên dũng cảm xông ra ngoài rồi.”
Cả bọn mỗi người một câu thảo luận về tình hình trước mắt, có người hối hận, có
người oán thán, lại có người cứ luôn miệng chửi bới, nói đi nói lại rốt cuộc
cũng chẳng được câu nào hữu dụng hết.
Tôi biết trong tòa nhà
tối om tối mịt, trời sáng trời tối e cũng chẳng hay, càng bị nhốt lâu, áp lực
tâm lý sẽ càng lớn, vả lại còn không có thức ăn nước uống, nếu không nghĩ cách
thoát thân, chỉ sợ thật sự phải để lại mấy cái mạng trong tòa nhà quái quỷ này
mất. Nghĩ đoạn, tôi bèn nói với mấy người còn lại: “Mọi người nghe tôi nói mấy
câu đã, hoàn cảnh của chúng ta lúc này đích thực là rất gian nan, tôi nghĩ đây
đều do một loạt những tổn thất trong ngày hôm nay gây ra. Từ xưa, binh pháp đã
có câu rằng, gặp sự quý nhất là thủ vững, gặp thời cơ quý nhất là quyết đoán,
bàn mưu quý nhất là chặt chẽ chu mật. Khi gặp khó khăn và biến cố, quan trọng
nhất là phải giữ vững được nguyên tắc và phương châm từ trước đến giờ, không
thể dao động nghi ngờ và mất lòng tin được; gặp được thời cơ thì nhất định phải
quyết đoán, không thể do dự thoái lui; khi bày mưu tính kế nhất định phải chu
toàn tỉ mỉ, không thể mạo hiểm mù quáng. Nhưng với biểu hiện của chúng ta lúc
này, cả ba điểm trên đều không thể làm được, có điều cái khó mới ló cái khôn,
kể từ bây giờ, muốn từ bị động chuyển thành chủ động, nhất thiết phải quán
triệt ba nguyên tắc trên. Chỉ cần chúng ta đoàn kết chặt chẽ, gặp khó khăn
không dao động, gặp nguy hiểm không thoái lui, khiêm tốn nhún nhường, gan dạ mà
cẩn trọng, cuối cùng chúng ta nhất định sẽ chiến thắng hết thảy kẻ địch và khó
khăn.”
Những lời này là nội
dung bài nói chuyện của một vị thủ trưởng nào đó đăng trên báo, hồi trước bố
tôi có đọc cho nghe một lần, giờ thấy tinh thần mọi người sắp rã ra như nắm cát
khô, liền nhớ lại mà nói ra. Có lẽ lúc này cần có người đứng lên, có lẽ những
lời này đích thực có lý có lẽ, không cần biết là vì nguyên nhân gì, chỉ biết là
rất hữu dụng, cả bọn nghe tôi nói thế, tinh thần đều trấn định hơn trước nhiều.
Lão Dương Bì hỏi tôi
giờ tính phải làm sao? Tôi nói: “Các phòng ốc trong tòa nhà này đều bị gạch đá
xi măng bít kín cả rồi, nhưng chúng ta mới chỉ thấy tầng một, tầng hai tầng ba
và tầng hầm như thế nào thì vẫn chưa biết, nếu dưới hầm có thông đạo hoặc trên
lầu có gian phòng nào chưa bị bít kín, vậy thì có thể tìm cách rời khỏi đây,
quan trọng nhất là nếu gặp phải chuyện gì, chúng ta cũng tuyệt đối không thể
rối loạn.”
Nói đoạn, tôi vung
thanh bảo đao Khang Hy của lão Dương Bì lên, nghe ông già nói, thanh đao này là
vật ngự dụng của Hoàng đế Khang Hy hồi ngài chinh phạt Cát Nhĩ Đan, về sau
thưởng cho vương công Mông Cổ. Thanh đao này cán dài lưỡi dài, thân đao thẳng,
nhọn, không chỉ có rãnh cho máu chảy ra, mà còn chạm trổ một con rồng vàng, vừa
sắc bén lại vừa hoa lệ, tuyệt đối không phải vật thường.
Tôi nói, tuy thanh đao
này thuộc về chế độ cũ, nhưng dù sao cũng là vật của hoàng gia, lại là lợi khí
sắc bén, nhất định là có thể trừ tà tránh ma. Có điều, những lời này chẳng qua
cũng chỉ là thuận mồm đưa đẩy, còn bảo đao Khang Hy này có kỵ tà được hay không
thì tôi đương nhiên không thể biết, chỉ biết rằng trước mắt cần phải làm cho
mọi người cảm thấy có chỗ dựa, bằng không, nếu lại gặp phải hiện tượng dị
thường gì nữa, cả bọn sẽ lại quay đầu co giò mà chạy mất thôi.
Chúng tôi đã hạ được
quyết tâm, bèn lập tức triển khai hành động, đầu tiên cả bọn hy vọng có thể tìm
được một căn phòng nào đấy chưa bị bít kín rồi thoát ra cửa sổ, nếu có thể thì
cố gắng không đi xuống hầm ngầm. Tuy trong tòa nhà tối om như mực, trên lầu
dưới lầu chẳng có gì phân biệt, nhưng hầm ngầm dù sao cũng ở dưới lòng đất. Có
lẽ vì ám thị tâm lý, chúng tôi chọn lên lầu quan sát trước rồi tính sau.
Bốn người vừa lẩm bẩm
chỉ thị tối cao, nói chuyện với nhau cho tăng thêm lòng can đảm, vừa sờ lần cầu
thang đi lên tầng hai. Đinh Tư Điềm nói: “Có ưu thế mà không chuẩn bị thì không
phải là ưu thế thực sự, mọi người để ý mà xem, tất cả dây điện trong tòa nhà
này đều bị cắt đứt cả rồi, xem chừng tòa nhà này hồi trước cũng được sử dụng
thật, không hiểu vì nguyên nhân gì mà lại bỏ hoang thế này.”
Tôi nói: “Tôi thấy tòa
nhà này tuyệt đối không đơn giản chỉ là bị bỏ hoang đâu, bao nhiêu phòng ốc đều
bị bít kín bằng gạch đá xi măng, lại còn dùng giấy niêm phong những kẽ hở trên
cửa sổ từ bên ngoài nữa, rồi cả tấm gương hai mặt lớn ở trước cửa ra vào, tất cả
mọi sắp đặt ấy nhất định là để không cho thứ gì đó tiến vào hoặc thoát ra khỏi
đây. Nhưng chúng ta ở bên trong này một lúc lâu rồi cũng không cảm thấy bức bối
khó thở, chứng tỏ rằng nơi đây vẫn có những lỗ thông gió, thực là khó hiểu kết
sức. Đây gọi là lành thì chẳng đến, đến thì chẳng lành, không hiểu đối phương
kia có ý đồ hữu nghị hay là xâm lược đây?”
Tuyền béo lên tiếng:
“Thế mà còn phải hỏi à, chắc chắn là xâm lược rồi. Người chọc đến ta, ta nhất
định phải chọc lại cho nó chết, mấy cái thứ phản động ấy, không đánh thì không
gục ngã đâu. Nó mà làm tôi tức lên ấy à, tôi dỡ mẹ nó cả tòa nhà này đi, đào
sâu ba thước đất cũng phải tìm thấy cái thứ không dám ló mặt ra đó, đánh cho nó
hộc máu mồm ra.”
Lão Dương Bì thở dài
nói: “Chắc là tại chúng ta ăn thịt các vị thần tiên trong đầm nước rồi, thần
tiên làm sao mà ăn được chứ? Giờ gặp phải báo ứng, bị nhốt trong cái hộp này,
thôi thì đành chịu mệnh đi thôi.”
Tôi nói với lão Dương
Bì: “Mọi quyền lợi đều thuộc về công nông binh chúng ta, thần tiên cái khỉ gì chứ?
Cháu quên không nói với ông, cá ấy chỉ có mình ông ăn thôi, nếu đúng là báo ứng
thì ở đây liên quan gì đến ba đứa chúng cháu đâu chứ? Vả lại, chỗ này cũng
chẳng phải hộp hiếc gì cả, có thể là nhà năm đó bọn Nhật Bản xây nên thôi. Lẽ
nào mọi người không biết nơi đây từng bị người Nhật Bản chiếm đóng? Năm ấy
người anh em của ông vào khu vực động Bách Nhãn này rồi mất tích, liệu có phải
ông ấy bị người Nhật giết rồi hay không?”
Lão Dương Bì trước đây
đâu có nghĩ đến chuyện này, lập tức trợn mắt há hốc miệng ra: “Đánh đổ bọn thổ
hào ác bá rồi, có lẽ nào người anh em mệnh khổ ấy của lão lại bị lũ Nhật Bản
hại mất tính mạng?” Tôi không trả lời lão Dương Bì, trong đầu không ngừng suy
nghĩ về những bí mật phủ trùm lên động Bách Nhãn này. Khó mà suy đoán được nơi
đây rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, nhưng có một điểm tôi có thể khẳng định, tòa
nhà này chắc chắn do người Nhật xây từ thời kháng chiến, ngoài ra, thà để lão
Dương Bì đổ món nợ về người anh em mất tích của ông lên đầu chủ nghĩa quân
phiệt và chủ nghĩa đế quốc còn hơn là mê tín quy kết thành yêu nghiệt tác quái,
như vậy ít nhất cũng có thể khiến ông già hóa bi thương thành sức mạnh, khỏi
phải luôn miệng cằn nhằn chuyện ăn mấy con cá bị báo ứng báo iếc gì đấy.
Trong lúc nói chuyện,
chúng tôi đã đi hết cầu thang tầng hai và tầng ba, các phòng trên hai tầng này
cũng bị bít kín hết loạt, một số chỉ dẫn, biển báo bằng tiếng Nhật toàn bộ đều
bị cạo đi, chỉ còn lại một vài dấu vết rất khó nhận ra. Các hành lang cũng hệt
như tầng một, bị gạch đá bít kín, không thể tiến vào nửa bên kia của tòa nhà,
tại sao lại vậy? Lẽ nào phía bên kia có thứ gì đó? Rất có thể, bên ấy đã bị đổ
gạch đá bít kín đặc giống như mọi gian phòng trong tòa nhà này rồi cũng nên.
Tuy nói không chuẩn bị
thì không tiến lên, nhưng tình cảnh trước mắt, chúng tôi gần như đã là người mù
cưỡi ngựa đui, canh khuya rơi chốn đầm sâu, rơi vào giữa chốn thần bí bốn bề
đều có nguy cơ, lại còn hoàn toàn không biết mình đang phải đối mặt với thứ gì,
xem ra có tìm nữa cũng chẳng có tác dụng. Tôi nghĩ đoạn, bèn dừng lại ở cuối
hành lang tầng hai, quyết định quay xuống dưới hầm ngầm thử một phen coi sao.
Nhưng vừa mới nhấc chân
lên, Đinh Tư Điềm xưa nay vốn rất cẩn thận tinh tế bỗng phát hiện ra một chút
dấu vết trên bức tường gạch. Tường gạch ở các gian phòng nhìn bên ngoài đều
không khác gì nhau, tựa hồ được xây cùng một thời gian, rất chắc chắn, không
thể phá ra được. Có điều, bức tường trên tầng hai này có một chỗ rộng chừng bảy
tám viên gạch vuông khá là đặc biệt, màu gạch tuy không khác xung quanh mấy,
nhưng khoảng tường này lại có gì đó không được hài hòa lắm với cả bức tường còn
lại. Tựa như mức độ cũ mới hơi khác nhau, giữa các viên gạch cũng hơi mấp mô
chứ không được bằng phẳng như những phần tường còn lại, và giữa các viên gạch
cũng không trét xi măng gắn chặt. Nếu không phải Đinh Tư Điềm tinh mắt, tâm tư
cẩn mật thì thực sự rất khó phát hiện. Những viên gạch này từng bị người ta cậy
ra rồi lại nhét trở vào, hay là trong bức tường đặc ruột này cố ý để lại một
thông đạo bí mật?
Ngoài lão Dương Bì vẫn
đang thẫn thờ nhớ lại cảnh ngộ của người em, tôi và Tuyền béo đều lấy làm phấn
chấn trước phát hiện của Đinh Tư Điềm, lập tức ghi một công cho cô. Tuyền béo
tính tình nóng nảy, vừa thấy trên tường có mấy viên gạch lỏng, liền tức thì
muốn động tay động chân dỡ ra ngay.
Tôi ngăn Tuyền béo lại,
rồi ngồi xổm phía trước mảng tường ấy quan sát thật kỹ càng, lấy vỏ đao gõ gõ
lên mấy cái, nhưng thứ gạch này quá dày, nghe tiếng thật khó mà phán đoán ra
được phía bên kia tường là rỗng hay đặc, chỉ có thể khẳng định rằng mấy chục
viên gạch này đích thực có thể gỡ ra khỏi tường. Bên trong bức tường có gì, là
hung hay là cát thì thật khó liệu định. Tôi cắn môi do dự một lát, tình hình
trước mắt đã rơi vào cục diện bế tắc, nếu không dỡ mảng tường gạch này ra xem
cho rõ ràng thì không thể nào giải quyết được. Vả lại, điều quan trọng nhất là
ngọn đèn dầu của chúng tôi chỉ còn lại một chút ánh sáng leo lét nhỏ như hạt
đậu, dầu đốt sắp hết đến nơi, mà dầu bổ sung thêm thì chẳng có. Chẳng những
vậy, nơi này dù là ban ngày ban mặt cũng tối om om, trước khi hoàn toàn không
còn ánh sáng, cần phải gắng sức tìm cách thoát thân, không thì tình hình sẽ
càng thêm nguy cấp.
Chỉ cần có một tia hy
vọng, cũng phải cố gắng nỗ lực hết sức, tôi đã hạ quyết tâm, bèn cùng Tuyền béo
bắt tay vào dỡ những viên gạch lỏng lẻo. Đinh Tư Điềm đứng bên cạnh soi đèn,
lão Dương Bì giúp một tay, đón lấy những viên gạch dỡ xuống xếp sang một bên.
Chỉ có khoảng vài chục
viên gạch lỏng lẻo, tôi và Tuyền béo rút ra mấy viên, liền thấy bên trong còn
có một lớp gạch nữa cũng di chuyển được, phía sau bức tường hai lớp không còn
gạch nữa, hình như có thứ gì đó đen sì sì, lấy đèn chiếu vào không nhìn rõ, đưa
cái vỏ đao gõ lên, nghe phát ra âm thanh kim loại trầm đục. Tuyền béo tính
nóng, chẳng muốn rút từng viên gạch ra nữa, liền thò tay vào gạt để hết cả đám
gạch còn lại, vậy là trên bức tường cuối hành lang tầng hai của tòa nhà kỳ bí
liền xuất hiện một cái hốc vuông vức, rộng chưa đầy một mét vuông.
Chương 23: Ngọn đèn lẻ
loi
Cả bọn tụ lại trước bức
tường, thấy sau hai lớp gạch chẳng có thông đạo, đều không khỏi lấy làm thất
vọng, nhưng ai nấy đều muốn xem rốt cuộc phía sau bức tường này chôn giấu thứ
gì, vậy là bèn lấy bảo đao Khang Hy móc ngọn đèn giơ vào bên trong. Bấy giờ mới
nhìn rõ thì ra trong tường chôn một khối sắt lớn, đen sì sì lạnh lẽo. Bốn chúng
tôi đều hết sức kinh ngạc, lẽ nào sau hai tầng gạch xây kín mít lại còn thêm
một lớp tường bằng sắt nữa ư?
Tôi thò tay rờ lên
trên, đầu ngón tay lập tức cảm nhận một thứ cảm giác nặng nề lạnh buốt, dự cảm
bất thường khiến toàn thân tôi giật bắn lên. Tôi vội vàng định thần lại, rồi
cẩn thận sờ tay thêm lần nữa, phát hiện ra lớp tường bằng sắt này còn có mấy
hàng chữ gồ lên, phải giơ đèn rồi dí sát mắt vào mới nhìn rõ được. Bốn người
lần lượt ghé mắt vào nhìn, đó không phải chữ tiếng Trung, cũng không phải chữ
số, mà cũng tuyệt đối không phải thứ chữ Nhật ngoằn ngoèo như vẽ bùa hay chữ
Hán Nhật.
Cả bọn đều hết sức
hoang mang, vách tường như thể đúc bằng sắt này xem chừng là một lớp vỏ, còn
được chôn giấu bên trong tòa nhà, không hiểu rốt cuộc là rộng chừng nào, dày
bao nhiêu, chữ khắc trên đó là gì? Có lẽ nếu đọc được thì có thể vạch trần được
bí mật bên trong cũng nên nhưng lúc này ngọn đèn dầu trong tay đã chớp chớp lên
mấy cái, rồi tắt phụt liền sau đó.
Đèn dầu vừa tắt, trong
tòa nhà hoàn toàn bị bít kín tức thì trở nên tối mù tối mịt, năm ngón tay giơ
lên trước mặt cũng không thấy rõ. Tôi và ba người còn lại chỉ còn biết nghe
tiếng thở của nhau, trong bóng tối, Đinh Tư Điềm chạm vào tay tôi. Thấy bàn tay
cô lạnh buốt, tôi biết cô đã sợ hãi lắm rồi, bèn có ý an ủi mấy câu, để cô bớt
phần nào lo lắng.
Nhưng vừa nghĩ đến
chuyện sau khi cả bọn vào tòa nhà cổ quái này, cánh cửa sắt kia đột nhiên hạ
xuống, trên cửa sổ hiện ra bàn tay người trắng ởn, rồi cả khối sắt giấu đằng
sau bức tường gạch này nữa, tôi thực không sao nghĩ ra lý do nào có thể khiến
người ta yên tâm để nói với cô. Những hiện tượng không hợp lẽ thường này còn có
thể nói lên điều gì chứ? Rõ ràng đây là một tòa “nhà ma”, việc đến nước này rồi
có muốn không tin cũng không được. Có điều, câu nói này không chỉ tôi không
muốn nói ra, mà trong tình huống này, chắc rằng cũng chẳng có ai muốn nghe hết.
Tôi lấy hộp diêm còn
một nửa trong túi ra quẹt lên một que, trong hoàn cảnh tối tăm tuyệt đối thế
này, dù chỉ có một chút ánh sáng cũng đủ khiến người ta cảm thấy vẫn còn hy
vọng. Tôi mượn ánh lửa đưa mắt nhìn ba người còn lại, mọi người vẫn còn khá
trấn định. Trong hộp chỉ còn khoản hơn hai chục que diêm, dùng hết rồi thì sẽ không
còn ánh sáng nữa, vì vậy nếu không đến lúc cần thiết thì không thể sử dụng.
Lão Dương Bì nhớ lại
mấy chữ vừa trông thấy trên vách sắt, nhưng ông già lại mù chữ, bèn hỏi chúng
tôi: “Trên khối sắt ấy in cái gì thế? Mấy cậu mấy cô đều là thanh niên trí thức
của Mao chủ tịch phái đến, thế có nhận ra được không?”
Que diêm đã cháy hết,
bốn bề lại chìm vào bóng tối vô biên vô tận, tôi vứt que diêm đã thành tro tàn
trên tay đi, vắt óc cố tái hiện lại những chữ lúc nãy trông thấy trong đầu.
Dường như là chữ Tây thì phải, ngoại ngữ thì tôi chỉ học một ít tiếng Nga, có
điều cũng chỉ là trình độ hạng gà, về sau Liên Xô xét lại thì còn hoàn toàn bỏ
luôn. Nhưng bố mẹ Đinh Tư Điềm từng du học ở Liên Xô, nên trình độ tiếng Nga
của cô rất khá. Còn nếu mấy chứ tiếng nước ngoài trên tấm sắt đó mà là tiếng
Anh tiếng Mỹ thì chúng tôi đành chịu. Từ năm 64, đã có một số trường cũng dạy
tiếng Anh, nhưng chẳng theo hệ thống gì, mà chỉ học một số câu ngắn, chẳng hạn
như: vạn thọ vô cương, vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế..., thời đó trường chúng tôi
học đều không có môn này.
Nhưng Đinh Tư Điềm lại
nói một cách khẳng định, đó tuyệt đối không phải tiếng Nga, tiếng Nga có một số
chữ cái rất khác với chữ cái tiếng Anh, điểm này thì cô vẫn nhìn ra được. Lúc
bấy giờ, đương lúc quan hệ Trung Xô rất căng thẳng, ý thức chuẩn bị chiến tranh
của ai nấy đều rất mạnh mẽ, vừa nhắc đến ngoại ngữ, thậm chí còn hoài nghi bên
trong bức tường sắt có bom, nhưng nghĩ kỹ hơn, lại cảm thấy chuyện này không có
khả năng lắm.
Không phải Liên Xô thì
có khả năng là Đế quốc Mỹ rồi, hồi trước trong nhà tôi cũng có một ít chiến lợi
phẩm thu được trên chiến trường kháng Mỹ viện Triều, có bình rượu Tây, hộp
thuốc, thìa bằng thép không gỉ…, đều là những thứ tạp nhạp, vì vậy trình độ
tiếng Anh của tôi chỉ dừng lại ở ba chữ “USA” mà thôi.
Tuyền béo đột nhiên nảy
ra ý tưởng lạ: “Cái thời Thế chiến thứ Hai ấy, Nhật Bản với Đức là đồng minh,
mấy cái chữ này có thể là tiếng Đức không? Cũng có khả năng là vật tư của Mỹ mà
quân đội Nhật cướp được trên chiến trường Thái Bình Dương?”
Tôi nói với Tuyền béo:
“Tiếng Đức thế nào cậu có biết không?” Tuyền béo nói: “Thì tiếng Mỹ chúng ta
cũng có biết đâu, vì vậy tôi nghĩ chỉ cần không phải là tiếng Nga và tiếng
Nhật, thì nó là tiếng nào cũng chẳng quan trọng nữa, đằng nào thì chúng ta cũng
có biết quái đâu.”
Lời của Tuyền béo đã
cho tôi một số gợi ý, nhưng bên trong tòa nhà của người Nhật xây lại có chôn
giấu một khối sắt có in chữ Tây, khối sắt này dùng để làm gì? Tại sao lại chôn
bên trong tường? Hoàn toàn chẳng có đầu mối gì, càng nghĩ càng thấy rối bung
rối bét lên.
Lúc này Đinh Tư Điềm
lại nói với tôi: “Đốt thêm một que diêm được không? Chúng ta xem lại lần nữa.”
Tôi cũng đang có ý này, liền chụm đầu vào chỗ cái hốc trên tường, lấy ra một
que diêm quẹt lên, rồi lại dùng bàn tay khum khum che, để phòng ngọn tửa yếu ớt
bị hơi thở của mọi người làm tắt phụt đi. Ánh sáng vừa lóe lên, vách sắt bên
trong liền lập tức hiển hiện lên trước mắt.
Lần này tuy ánh sáng
rất yếu ớt, nhưng mọi người đều quan sát rất kỹ càng, cuối cùng cũng có thêm
một phát hiện, vừa nãy chỉ để ý đến những chữ kỳ quái trên tấm sắt mà không lưu
ý thấy rằng phía sau hai lớp gạch này không phải là nguyên một tấm sắt khổng
lồ, mà là một cái nắp có thể kéo mở ra được, giống như một cánh cửa sắt thấp tè
vậy. Vừa nãy Tuyền béo gạt bừa cả đống gạch xuống, vẫn còn vài viên chưa bị hất
ra hẳn, phần rìa mép của cái nắp cũng không lộ hẳn ra ngoài, cả phần tay cầm
đúc liền với nó cũng bị mấy viên gạch còn sót che mất.
Phát hiện này khiến cả
bọn đều thở mạnh, que diêm tắt phụt. Tuyền béo lần mò trong bóng tối dỡ hết
những viên gạch còn lại. Trong khi ấy, Đinh Tư Điềm hỏi tôi: “Bát Nhất này, thì
ra đây là một cái nắp có thể đóng mở được, trông như một cánh cửa sắt ấy nhỉ,
nhưng nếu là cửa thì có vẻ hơi nhỏ một chút, phải khom người mới chui vào được.
Nhưng nếu không phải là cửa thì là cái gì, có tác dụng gì nhỉ?”
Lão Dương Bì chen miệng
vào: “Tư Điềm ơi là Tư Điềm, cháu là con gái mà sao tò mò thế vậy? Lão già đây
sống hơn nửa đời người rồi cũng chưa gặp phải thứ gì kỳ quái như thế, lão thấy
phía sau bức tường sắt này nhất định không phải đất lành, bằng không sao mà lại
giấu kỹ như thế? Mở nó ra chỉ sợ sẽ thả lũ ác quỷ ra mất cũng không chừng? Tạo
nghiệt, tạo nghiệt đó, không hiểu đời trước đã đắc tội với thần tiên ở đâu...”
Tôi bèn lựa lời khuyên
giải lão Dương Bì, nói rằng trên đời này vốn chẳng có ma quỷ gì hết, toàn là do
con người tự tưởng tượng ra đấy thôi, những điều xảy ra trong tòa nhà này tuy
rất kỳ quái, nhưng cháu tin rằng vạn sự trên đời đều có căn nguyên, chẳng qua
chúng ta mới chỉ nhìn thấy một góc mà chưa thấy toàn cục, vì vậy mới là người
trong cuộc mê chứ không phải người ngoài cuộc sáng, chúng ta không thể cứ nhắm
mắt chờ chết ở đây được, cháu thấy cầu thần khấn Phật cũng chẳng có ích gì đâu,
đợi lát nữa nếu mở được cái nắp bằng sắt này ra, ngộ nhỡ có xảy ra chuyện gì
thì để cháu với Tuyền béo đảm đương hết.
Lão Dương Bì nói: “Lão
đã già ngần này tuổi đầu rồi, còn sợ gì chứ, chỉ lo cho con bé Tư Điềm, ai
dà... cả đời này lão đều an phận thủ thường, tuy không cắt tóc cạo đầu nhưng
cũng coi như là để tóc tu hành, sao chuyện không may cứ đổ hết lên đầu lão thế
này...” Ông nói được nửa chừng liền không nói nữa, tôi đoán ông già nghĩ đến
chuyện cho dù có trở về được, thì cũng không có cách nào ăn nói với cấp trên về
đám bò ngựa bị mất tích, trong lòng hẳn là đang cay đắng lắm. Tôi phải làm sao
mới nghĩ ra cách giúp ông già và Đinh Tư Điềm bớt phần trách nhiệm này đi đây?
Trong lúc bọn tôi nói
chuyện, Tuyền béo đã dỡ hết số gạch lỏng lẻo, giờ chỉ còn lại phần tường được
trét xi măng đặc kín. Tôi hỏi cậu ta: “Cái nắp này có mở ra được không?” Tuyền
béo đưa tay sờ thử rồi gật gật đầu: “Chắc tám chín phần là mở được, không có
chốt khóa, cũng không hàn chặt vào.”
Tôi rút thanh đao ra,
dặn Đinh Tư Điềm chuẩn bị quẹt diêm chiếu sáng để nhìn rõ xem phía sau cái nắp
bằng sắt này rốt cuộc là chứ gì. Thấy mọi thứ đều đã sẵn sắng, tôi liền vỗ vỗ
lên vai Tuyền béo, cậu ta nhận được tín hiệu, bèn giơ chân đạp lên tường lấy
sức, hai tay kéo mạnh tay nắm ở mép cái nắp nặng trình trịch. Trong bóng tối
vang lên những tiếng “cạch cạch cạch” nặng nề, liền ngay sau đó, một mùi nồng
nặc xộc lên. Thứ mùi này chỉ ngửi một chút đã thấy buồn nôn, muốn khó ngửi thế
nào thì có khó ngửi thế ấy, giống như thể khói than và dầu mỡ trộn lại với nhau
xông thẳng vào lỗ mũi vậy. Bọn chúng tôi vội vàng bịt chặt mũi lại.
Tôi lắng nghe động
tĩnh, vội thấp giọng nói với Đinh Tư Điềm: “Thắp sáng.” Đinh Tư Điềm lập tức
quẹt một que diêm, ánh lửa lóe lên, phía đằng sau cái nắp vừa được kéo nhích
ra, là một tầng gạch đá dày hơn một mét, sâu bên trong nữa là một giếng thẳng
hình trụ hướng lên phía trên, trên không thấy trời, dưới không thấy đất. Mặt
phía bên trong của ống hình trụ này đều là một lớp muội than dày cộm đen sì,
tựa như khói hun quanh năm đóng két lại. Tôi lấy khăn quàng cổ của Đinh Tư Điềm
bịt chặt mũi, chui vào xem thử, chỉ thấy bên dưới tối om om chẳng trông thấy gì
cả, bên trên thì có một mảng mờ mờ ánh sao mông lung, tựa hồ như trên nóc nhà
có một ô cửa sổ trời. Giếng thẳng này rất hẹp, nếu dùng tay chân chống vào vách
bên trong, phỏng chừng có thể nhích dần lên đến vị trí cửa sổ trời phía trên
kia.
Tôi vừa rút ra, Tuyền
béo cũng chui vào ngó thử, lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm liền hỏi tôi phía sau
cái nắp bằng sắt ấy là nơi nào. Tôi không chắc chắn lắm, nhưng cũng trả lời:
“Tôi thấy hình như... là ống khói của một cái lò rất lớn.” Lão Dương Bì chưa từng
thấy cái lò nào lớn như thế cả nên có vẻ không tin lắm, tôi bèn giải thích
thêm: “Năm đó cháu và Tuyền béo cùng với Tư Điềm đi khắp đất nước, có một lần
mải tham quan chiến khu cách mạng, trải nghiệm tinh thần cách mạng đến nỗi cả
ngày chẳng ăn uống gì, lúc về đến nơi tập kết thì cũng đã quá giờ cơm mất rồi.
Nhưng hôm sau bọn cháu còn phải làm cách mạng nữa, nên không thể để bụng đói
được, vậy là Tuyền béo bèn đi trộm một con lợn con trong chuồng của bà con nông
dân, cháu phụ trách bỏ con lợn ấy vào lò gạch đang đốt, định làm món lợn sữa
quay. Khổ nỗi hồi ấy có biết là nhiệt độ trong lò thế nào đâu, kết quả là làm
con lợn béo múp míp cháy hết thành than, về sau bà con dân làng kéo nhau đến
đuổi bắt, bọn cháu liền giở kế địch tiến ta lùi, trốn vào bên trong ống khói
của một lò gạch bỏ hoang đợi đến khi trời sáng mới không bị quần chúng cách
mạng truy cứu tội danh trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa đấy.”
Chuyện lần đó khiến
chúng tôi có ấn tượng trực quan rất sâu sắc với các loại ống khói và lò lửa, cả
đời này chắc cũng không thể nào quên được. Vừa nãy tôi lấy tay quẹt một chút
lên ống khói đằng sau cái nắp sắt ấy, thử vê vê, thấy dinh dính như là khói
dầu. Bên dưới ống này khẳng định là một cái lò lửa khổng lồ, bao nhiêu năm rồi
không sử dụng, tại sao vẫn còn dính nhơm nhớp thế này? Rồi lại cả thứ mùi kinh
tởm khiến người ta muốn nôn mửa đó nữa...
Một ý nghĩ chẳng lành
nổi lên trong đầu tôi, đây rất có thể là lò đốt xác dùng khi hỏa táng. Dù không
phải để đốt xác người, thì ít nhất cũng từng thiêu đốt vô số động vật, nhiệt độ
cao và khói nồng đưa dầu mỡ động vật lên ống khói, sau khi nguội đi đông cứng
lại liền hóa thành chất nhơm nhớp như bây giờ. Bởi thế, trải qua nhiều năm mà
lớp mỡ này vẫn không mất đi, cái nắp sau bức tường ở lầu hai này cũng không
giống như nắp lò, mà chỉ là cửa lối thông dùng để làm sạch ống khói phòng ngừa
tắc nghẽn mà thôi. Chỉ có những lò hỏa táng kiểu cũ mới cần làm vậy, vì mỡ bám
trong ống khói phải dùng nhân công mới làm sạch được. Nghe nói sau khi dùng khí
độc sát hại hàng loạt người Do Thái, bọn Đức Quốc xã thường dùng lò thiêu để xử
lý xác chết, có phải người Nhật cũng nhập khẩu thiết bị này của Đức để hủy thi
diệt tích không nhỉ? Điều chủ yếu nhất thì chúng tôi vẫn chưa làm rõ được, nếu
đây đúng là một cái lò thiêu lớn, vậy thì tại sao phải ngụy trang kỹ lưỡng, rồi
bít kín mít lại như thế? Sợ rằng nguyên nhân bên trong tuyệt đối không chỉ đơn
giản là để che tai che mắt người đời thôi đâu.
Vừa nghĩ rằng đây có
thể là cái lò đã thiêu vô số cái xác, tôi suýt chút nữa thì đã ọe hết đống thịt
chuột nướng ăn hồi tối ra, vội vàng quệt hết chỗ dầu mỡ đen sì dính trên tay
vào quần áo. Nhưng muốn thoát khỏi chốn này, nhất thiết phải có người trèo lên
qua đường ống khói của cái lò đốt xác, mà lại không thể dùng diêm chiếu sáng để
đề phòng trong ống khói chẳng may còn sót lại vật gì dễ cháy, bằng không thì
đúng là tự châm lửa đốt mình. Còn một cách nữa là lần mò xuống hầm ngầm, có
điều dưới ấy chắc là một cái lò lớn bằng sắt thép, chưa chắc đã có đường ra,
hơn nữa bằng vào mấy que diêm còn lại mà đi xuống hầm ngầm thì cũng không được
khả thi cho lắm.
Tôi nói ý định này với
mấy người còn lại, Tuyền béo lập tức phản đối: “Không được, thế này quá là manh
động, tôi bảo chứ, leo lên khó lắm đấy. Tuy nói là sớm muộn gì chúng ta cũng
phải thoát ra khỏi cái lò này, nhưng cảm giác ra khỏi đây vẫn còn sống với bị
cháy thành than khác nhau nhiều lắm đấy nhé. Cái đường này vốn không phải để
cho người sống dùng mà, với lại bên trong ống khói tích một lớp mỡ dày tướng
như thế, leo lên chắc chắn sẽ trơn tuột rơi xuống. Mấy người có lẽ thấy chẳng
sao hết, cùng lắm là ngã vào bụng lò, dù chết hay tàn tật gì thì cũng chẳng
sao, nhưng ngộ nhỡ tôi đây kẹt ở trên đó, muốn lên không được muốn xuống cũng
chẳng xong, chết cứng ở đấy thì chẳng phải là khổ sở lắm sao? Chết cái kiểu uất
ức ấy tôi đây không chịu nổi đâu, mà sợ rằng từ cổ chí kim đều chưa có tiền lệ
nào như thế cả, Tuyền béo tôi đây cũng không muốn phá cái kỷ lục thế giới này
đâu.”
Tôi lắc đầu nói: “Cậu
cứ yên chí, đâu có đó, thịt chó có mắm tôm. Nhất thiết cần phải giải quyết vấn
đề trước mắt, giờ cũng không còn cách nào khác cả đâu. Không phải tôi muốn thể
hiện chủ nghĩa anh hùng cá nhân, nhưng tôi thấy việc đã đến nước này thì chỉ
còn cách mạo hiểm thử một lần thôi. Mọi người cứ ở đây đợi, để tôi đơn thân độc
mã leo len trên ấy, rồi tìm cách mở cửa sắt từ bên ngoài cho cả bọn thoát ra,
chẳng may mà rơi xuống... thì coi như tôi đi trước một bước vậy, chúng ta hẹn
gặp ở kiếp lai sinh.”
Đinh Tư Điềm vội bám
chặt cánh tay tôi khuyên giải: “Bạn đừng đi, ống khói của lò thiêu xác làm sao
mà leo lên được? Dù không ngã chết thì muội than với khói dầu đóng két bên
trong cũng đủ khiến người ta sặc chết rồi, hay là chúng ta nghĩ cách khác đi.”
Tôi cũng chỉ cậy vào
một chút nhiệt huyết bừng bừng nhất thời, sợ rằng do dự một chút rồi sẽ lại
không dám mạo hiểm nữa, người mạnh là do cương quyết, ngựa khỏe là bởi tay roi.
Đã đến thời khắc quyết định, không thể rụt rè như đàn bà được, vậy là tôi mặc
cho Đinh Tư Điềm khuyên ngăn, nhất quyết chui vào, lấy khăn quàng bịt chặt mũi miệng,
ngó đầu ngước nhìn lên trên. Từ chỗ này lên đến lối ra, chỉ cách khoảng một
tầng rưỡi, không xa lắm, thêm nữa là tôi cũng khá tự tin với khả năng leo trèo
của mình, bèn nghiến răng lách mình chui vào trong ống khói.
Ống khói này tuy lớn,
nhưng đấy chỉ là nói một cách tương đối thôi, chứ thực tế thì nhỏ hơn ống khói
ở lò hỏa táng nhiều, trên đầu có ánh sao mờ mịt mông lung. Nhìn thấy miệng ống
khói như cái cửa sổ trời ở bên trên, tôi lại có thêm may phần tự tin, bèn dùng
vỏ đao cạo lên vách, nhanh chóng làm sạch một vòng muội than và dầu mỡ, rồi đạp
chân lên trên để thử lực ma sát. Bên trong ống khói này khá là hẹp, nếu chống
lưng rồi bò nhích dần lên thì cũng không phải khó khăn cho lắm.
Khốn nỗi có những
chuyện thoạt nhìn tưởng dễ đến lúc làm mới thấy khó, mới cạo được một tầng cặn
dầu, trong ống khói đã sặc sụa cay sè đến nỗi tôi không mở nổi mắt ra nữa, mũi
bịt chặt rồi mà vẫn thấy choáng váng kinh khủng, vả lại vách bên trong cứ trơn
tuồn tuột, có sức cũng không giở ra hết được. Tôi phải vừa chống người vào
tường để không rơi xuống, vừa dùng vỏ đao cạo lớp cặn dầu, thực sự là vô cùng
gian nan, mới nhích lên được nửa bước thì cánh tay và cả bắp chân đã muốn run
lên lẩy bẩy rồi.
Tôi phỏng chừng mình
không thể tiếp tục, đành buộc lòng chuẩn bị bỏ cuộc, tính rằng ngẩng đầu lên
nhìn một cái rồi tuột xuống, chẳng ngờ vừa ngước mắt lên, liền trông thấy ở
miệng ống khói từ lúc nào đã xuất hiện một quầng sáng màu đỏ sậm. Mới đầu tôi
tưởng mình hoa mắt, bèn nhắm mắt lại lắc mạnh đầu mấy cái, rồi ngước lên nhìn
lại lần nữa, chỉ thấy một đốm sáng như ngọn đuốc, chớp lóa biến ảo tựa như ngọn
lửa ma trơi đang phiêu hốt lơ lửng phía trên đầu.
Thấy cảnh đó, tôi bỗng
sực nhớ thường nghe người già kể, trong đêm tối tăm, nếu không có chút đèn lửa
nào, bỗng đột nhiên thấy một quầng sáng lẻ loi thì đấy tuyệt trăm phần trăm là
lửa ma chứ không phải ánh đèn, chính thế nên mới có câu: “Trăng sáng chớ độc
hành, đèn lẻ ắt quỷ ma.” Ý nghĩ ấy vừa lóe lên trong đầu, đốm lửa ma trên miệng
ống khói liền bay xuống dưới, tôi thầm hoảng hốt, mả cha nhà nó, thế này không
phải là ném đá xuống giếng à, sao chuyện tà quái gì cũng đổ hết lên đầu chúng
tôi thế này? Tay chân đang chống đỡ cơ thể trượt đi, cả người tôi liền mất
trọng tâm, rơi tụt xuống dưới.
Chương 24: Người thứ
năm
Chuyện xảy ra hoàn toàn
nằm ngoài dự kiến, tựa như sấm nổ giữa trời quang, mắt thấy quầng sáng như đốm
lửa ma trơi kia từ trên bay xuống, hai chân đang đạp vào vách ống khói của tôi
bỗng trượt một cái, thân thể không còn gì chống đỡ tức thì rơi xuống. Tôi biết
rất rõ, nếu rơi xuống bụng lò bên dưới ống khói này thì chắc chắn chẳng phải
điều hay ho gì, cho dù không chết ngay tại chỗ thì cũng phải bong gân gẫy xương
chứ chẳng chơi. Nhưng tôi không ngờ, vì ống khói cực hẹp, mà không khí bên
trong bị nén nhiều năm chưa thoát ra được, nên tốc độ rơi xuống của tôi chậm
hẳn lại, cảm giác bồng bềnh như thể đang trên mây vậy.
Tuyền béo vừa khéo đang
canh ở cửa chui vào chỗ tầng hai để đợi tín hiệu của tôi khi thoát ra được bên
ngoài, tuy trong ống khói tối đen như mực, nhưng cậu ta nghe tiếng liền biết
ngay tôi đã thất bại, vội vàng thò tay vào chộp bừa mấy cú. Tôi rơi quay lưng
về phía Tuyền béo, liền được cậu ta chụp trúng vào cổ áo kéo giật trở về.
Lối thông để vào làm vệ
sinh ống khói ở tầng hai càng chật hẹp hơn, bên ngoài cái nắp bằng sắt còn có
một lớp tường bê tông, đầu tôi va đập lung tung vào mấy góc tường nhưng trong
lúc hỗn loạn cũng không cảm thấy đau đớn mấy. Tôi không phải hạng người bị hổ
đuổi đến đít rồi mà vẫn còn tâm tư quay đầu lại xem là con đực hay con cái
giống Tuyền béo, vừa biết có chuyện không ổn, liền không dám chậm trễ dù chỉ
một giây, nhân đà kéo của Tuyền béo, vội vàng bò ra khỏi lối thông ấy, sau đó
lập tức đóng nắp lại. Trong bóng tối, bốn chúng tôi nghe thấy âm thanh như có
chùy sắt đập mạnh lên cái nắp, phát ra những tiếng “choang choang choang” vọng
mãi.
Nghe chừng có vẻ như
trên miệng ống khói có thứ gì đó, bị âm thanh dùng vỏ đao cạo cặn dầu và muội
than của tôi làm kinh động, đã chui vào trong ống khói. Cái thứ ấy đập mấy cái
bên ngoài lối thông, rồi bỗng im bặt. Quả tim của tôi và ba người còn lại đều
cơ hồ muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, vừa nãy nếu không phải Tuyền béo quyết đoán
nhanh tay, chắc tôi đã rơi vào trong cái lò đốt xác ấy rồi. Dù không bị thương,
thì giờ hẳn cũng bị cái thứ kia đớp phải, chẳng hiểu cái giống trông như đốm
lửa ma trơi ấy là gì nữa?
Đinh Tư Điềm muốn xem
tôi có bị thương không, lại quẹt lên một que diêm. Tôi thấy ánh lửa lóe sáng,
liền vội vàng thổi phù một cái: “Người mình đang dính đầy muội than cặn dầu,
bạn muốn đốt cho mình thành đèn trời chắc?” Nói đoạn, liền cảm thấy trên mặt
mình dinh dính, phỏng chừng là cái đầu bị va đập chảy máu mất rồi. Tôi đưa tay
quẹt quẹt bừa vài lượt, rồi bảo Đinh Tư Điềm tìm mảnh khăn tay băng bó lại giúp.
Lão Dương Bì nói với
tôi: “Đã bảo cậu trai trẻ đừng chui vào cái hang tối om ấy rồi, cậu lại cứ nằng
nặc đòi vào cơ, may mà cậu mạng lớn, thế là có phúc lắm đấy nhé.”
Tuyền béo làu bàu:
“Phúc với cả đức cái gì? Vừa nãy nếu không phải cháu nhanh tay nhanh mắt kéo
cậu ta trở lại, chắc rằng từ nay về sau trong đội ngũ cách mạng không còn ai
tên là Hồ Bát Nhất nữa rồi.”
Tôi cũng lên tiếng,
nói: “Các đồng chí, giờ là lúc nào rồi? Mấy chuyện linh tinh ấy thôi đừng nói
nữa, tuy bảo rằng cái chết không thuộc về giai cấp công nhân thật đấy, nhưng
cái thứ trong ống khói đó, tôi thấy cũng không phải hạng tử tế gì đâu. Đường
ống khói chắc chắn là không còn hy vọng gì nữa rồi. Nhưng chúng ta kiên quyết
không được nản lòng, theo tôi thấy, kế này không được thì ta bày kế khác, giờ
chỉ còn cách lần mò xuống hầm thôi vậy. Không rõ tình hình bên dưới thế nào,
chúng ta chỉ có thể đi bước nào hay bước ấy, lấy bát biến ứng vạn biến, tiếp
theo đây cho dù xảy ra chuyện gì chăng nữa, chúng ta cũng phải chuẩn bị sẵn tư
tưởng là sẽ rất khó khăn đấy nhé.”
Hành lang tối om như
mực, không có đèn nến gì thật đúng là đi một bước nửa bước cũng thấy khó. Nhưng
bất luận ra sao, chúng tôi cũng không nỡ sử dụng chỗ diêm còn lại, thời bấy giờ
ai nấy đều nghèo, không đến bước vạn bất đắc dĩ thì không thể đốt quần áo chiếu
sáng, mà cũng chẳng ai biết đến bao giờ chúng tôi mới nhìn lại được ánh sáng ở
bên ngoài nữa. Cũng may là đang ở trong nhá, cứ lần theo vách tường và lan can
cầu thang mà đi thì cũng xuống được tầng hầm.
Bốn người lần dò từng
bước đi hết cầu thang, không còn lối đi xuống dưới nữa, bấy giờ tôi mới bảo
Đinh Tư Điềm bật một que diêm lên quan sát xung quanh. Căn hầm ngầm này quả
nhiên là gian đốt xác, ngay phía trước chúng tôi là mấy cái bàn có bánh xe để
đẩy xác chết, mấy cái tủ chứa đồ tiêu độc, trừ mùi xác thối, trên bức tường
trắng phớ cạnh tủ treo hai bộ trang phục trông như đồ cách ly phòng nhiễm hòa
chất, có lẽ là của công nhân đốt xác ở đây mặc. Bên cạnh tường là một cái lò
lớn, hai cánh cửa to tướng bằng sắt đúc lạnh tanh đóng kín. Tầng hầm rất rộng,
vừa bước đến trước lò thiêu xác, que diêm đã cháy hết, chúng tôi thậm chí còn
chưa kịp nhìn xem trong gian nhà đốt xác này có di thể của nạn nhân nào chưa bị
tiêu hủy hay không.
Nơi này im lìm lạnh
buốt, không khí dường như cũng ngưng kết thành băng. Ở giữa chốn âm u lạnh lẽo
này, chúng tôi người nào người nấy đều thấp thỏm không yên. Đinh Tư Điềm kéo
kéo vạt áo tôi, hỏi: “Nghe cậu mình kể chuyện hồi trước đánh Nhật ở Sơn Tây,
quân Nhật giết người xong một cái là vứt xác bừa ra đấy, không thì chỉ đào một
cái hố chốn tập thể, nhưng bạn đã bao giờ nghĩ chưa, tại sao bọn Nhật ở đây
giết người xong lại còn phải cho vào lò thiêu xác thành tro bụi nữa nhỉ?”
Tôi nghe cô hỏi thế,
không khỏi thầm nhủ cô gái này thật hiếu kỳ, chuyện gì cũng muốn hỏi đến tận
ngọn tận ngành, bèn thuận mồm đáp bừa: “Thế mà cũng phải hỏi, chắc chắn là bọn
chúng muốn hủy thi diệt tích rồi. Cậu của bạn từng tham gia Bát Lộ quân ở Sơn Tây
à, sao chưa nghe bạn nhắc đến bao giờ nhỉ.” Nhưng nói tới đây, ý nghĩ tôi lại
xoay chuyển, không đúng, trước giờ mình vẫn chưa nghĩ đến vấn đề này. Nghe đồn
quân Nhật rất bủn xỉn, ăn cơm còn chẳng nỡ dùng bát to, hao tốn sức người sức
của xây một cái lò thiêu xác bí mật ở chốn hoang sơn dã lãnh thế này dường như
là điều hoàn toàn không cần thiết. Nếu không phải để hủy thi diệt tích, vậy thì
tại sao phải thiêu xác? Trừ phi là có một số xác chết...
Tôi nghĩ rất có thể ở
khu vực động Bách Nhãn này đã xảy ra sự việc gì đó kinh khủng, bệnh dịch hạch
chăng? Không giống lắm, bức bích họa triệu hoán vong hồn nghìn năm trong huyệt
động, chiếc rương đồng cổ xưa từ Đại Hưng An Lĩnh vận chuyển đến đây, và cả cái
lò thiêu bí mật do bộ đội cấp nước cấp niếc gì của quân Nhật xây dựng nữa, đằng
sau những sự việc đầu óc con người khó thể hình dung này có liên hệ gì với nhau
không? Vả lại, người ở đây đi đâu hết rồi? Chiến bại đầu hàng chăng? Bị quân
Liên Xô tiêu diệt chăng? Hay là đều đã mất tích giống như đàn bò và bầy nhạn
kia? Cái thứ vô hình vô ảnh có thể nuốt lấy các vật sống ấy rốt cuộc là gì? Có
phải là cái bóng đen hình con rồng trên bức bích họa trong huyệt động? Những
khối đá chôn trong huyệt động ấy có tác dụng gì? Cái xác chết đàn bà vẽ trong
bức bích họa có phải đã được quân Nhật đào lên rồi? Ai ở bên ngoài đóng cửa sắt
xuống, có kẻ muốn nhốt chúng tôi trong này sao? Rồi những gian phòng xây gạch
bít kín, cánh cửa sắt chỉ có thể mở từ phía bên ngoài kia nữa? Nghi vấn thực sự
quá nhiều. Nếu chỉ dựa vào tưởng tượng thì tuyệt đối chẳng thể nào suy đoán
được hết những sự việc này.
Tôi hiểu rõ cái lý trăm
nghe không bằng một thấy, thấy bóng chẳng bằng xem hình, có lẽ trong gian đốt
xác ngầm dưới đất này sẽ có một số đầu mối, có điều việc quan trọng nhất phải
làm bây giờ chính là dẫn mọi người thoát khỏi tòa nhà trước đã. Ở đây có hai
chiến hữu quan trọng nhất của tôi, và cả một vị thuộc giai cấp bần hạ trung
nông mà chúng tôi cần phối kết hợp, họ đều tín nhiệm tôi một cách vô điều kiện,
bởi thế, tôi nhất định cũng phải gắng sức không để họ gặp phải bất cứ chuyện gì
ngoài ý muốn.
Tôi vừa nghĩ ngợi vẩn
vơ, vừa lần mò đi tới trước cái xe dùng để chất xác người. Bên trên còn một ít
vải trắng, có lẽ là dùng để bọc xác chết trước khi đem đốt, vừa khéo có thể
dùng chúng để “thắp sáng”. Tôi lấy tấm vải lau qua gương mặt dính đầy cặn dầu,
mặc bộ quần áo có cả mặt nạ phòng độc treo trên tường, rồi cùng ba người còn
lại xé mấy tấm vải bọc xác ra thành từng miếng nhỏ, sau đó dùng đao chẻ cái tủ
đựng đồ tiêu độc thành các thanh gỗ. Sau một hồi bận bịu, cả bọn cuối cùng cũng
làm được mười mấy cây đuốc thô sơ, rồi đốt một cây lên, coi như tạm thời giải
quyết được hoàn cảnh khó khăn người mù cưỡi ngựa đui của chúng tôi lúc này.
Phạm vi chiếu sáng của
đuốc lớn hơn que diêm nhiều, mọi người đều thấy trước mắt sáng hẳn lên, chỉ
thấy trên tường có đủ cả đèn khẩn cấp và các loại dây điện lằng nhằng, chứ
không như bên trên chỉ toàn gạch với xi măng cốt thép. Có điều, những thiết bị
này đều không thể sử dụng được vì không có điện, dưới hầm ngầm tuy lạnh lẽo âm
u, nhưng không khí thậm chí còn thông thoáng hơn cả bên trên, thiết nghĩ chắc
là do cấu trúc đặc thù để lọc khí thông giờ cho cái lò đốt xác này đây.
Chúng tôi vừa đốt đuốc
lên, đang định xem xét kỹ địa hình để nghĩ cách thoát thân, thì cái lò đốt xác
phía sau đột nhiên kêu rầm lên một tiếng, bên trong dường như có thứ gì đó muốn
xông ra ngoài. Tôi biết có thể đó chính là thứ mình trông thấy trong ống khói,
nhưng không biết rốt cuộc nó là thứ gì, cũng may cửa lò đã đóng chốt, dù nó
khỏe mấy cũng không húc bật ra được. Tuy chỉ nghe tiếng chưa thấy hình dáng nó
ra sao, nhưng cũng đủ thấy thanh thế kinh người, thực không phải tầm thường,
chúng tôi đều không khỏi lo lắng cánh cửa lò kiên cố kia sẽ bị phá hỏng.
Tôi giơ đuốc lên xem
xét xung quanh một lượt, trong gian đốt xác không có cửa nào khác, chỉ có một
lối đi duy nhất thẳng đuồn đuột, bèn gọi mọi người: “Tuy rằng chúng ta đã đánh
gấu ở núi Đông, giết lừa ở núi Tây, nhưng hảo hán phải nhịn được cái thiệt thòi
trước mắt, địch tiến thời ta lui, chạy trước đã.” Nói đoạn liền dẫn cả bọn chạy
thẳng vào thông đạo ấy, mặt đất dưới chân là dốc láng xi măng, chắc thiết kế để
tiện đẩy xe chở xác người, cuối lối đi lại có một cánh cửa sắt nặng nề đóng kín
mít, bên trong không có chốt lẫy nào để mở hết.
Chúng tôi vận sức đẩy
cánh cửa sắt chắn lối đi ấy, nhưng chỉ như châu chấu đá xe, không sao khiến nó
nhúc nhích nổi. Tôi và Tuyền béo uể oải nói: “Đứa nào thiết kế ra chỗ chết tiệt
này vậy? Sao cửa kiếc gì chỉ toàn mở được từ bên ngoài thôi là sao!”
Tòa kiến trúc một tầng
ngầm, ba tầng trên mặt đất này gần như là một cái hộp kín ghép bằng gạch đá xi
măng và các tấm sắt, nơi duy nhất không bị chặn là miệng ống khói, nhưng cũng
không thể đi lối ấy được. Nếu giờ mà không tìm được lối ra nữa, thì chỉ còn
nước chờ chết ở trong này thôi vậy. Cả bọn không biết phải làm sao, đành quay
lại chỗ gian đốt xác tiếp tục tìm kiếm lối ra, nhưng bốn vách tường đều cực kỳ
kiên cố, sợ rằng có đem đại pháo đến đây bắn cũng chẳng thủng được, huống hồ
trong tay chúng tôi chỉ có mỗi một khẩu súng cổ lỗ sĩ.
Lúc này, âm thanh trong
lò đốt xác đã tắt, tôi rón ra rón rén bước đến gần, áp tai vào cửa lò lắng nghe
động tĩnh, bên trong dường như có vật gì rất lớn đang cọ vào vách lò. Tôi vẫy
tay ra hiệu cho những người còn lại không được lên tiếng, rồi kéo cả bọn lại
một góc tường rì rầm bàn bạc.
Hoàn cảnh trước mắt tuy
rất đáng lo ngại, nhưng không có nguy hiểm gì trực tiếp, chúng tôi vẫn còn đủ
thời gian thương lượng xem làm sao mới thoát ra khỏi tòa nhà quái quỷ này. Tôi
bảo với ba người kia: “Trong lò thiêu đúng là có cái gì đó, hình như là dã thú,
tôi đoán chừng có thể là một con trăn khổng lồ một mắt. Phỏng chừng lúc tôi leo
lên ống khói đã làm kinh động đến nó, nó mới bò xuống tính nuốt người, giờ bị
khốn bên trong cái lò kia rồi. Vách bên trong lò toàn là cặn dầu với muội than,
nếu không cạo sạch thì dù ba đầu sáu tay cũng đừng hòng leo lên được.”
Bố mẹ Đinh Tư Điềm đi
bộ đội giải ngũ về, đều được phân đến Viện Bảo tàng Tự nhiên công tác, nên cô
cũng hiểu biết tập tính của rất nhiều sinh vật, vừa nghe tôi nói bên trong cái
lò rất có thể là một con trăn khổng lồ, bèn lắc đầu nói: “Chắc là không phải
đâu, môi trường không phù hợp. Ở vùng nằm giữa thảo nguyên và sa mạc này không
thể có trăn khổng lồ được.”
Lão Dương Bì chen miệng
vào: “Lão đã bảo rồi mà các cô các cậu không chịu tin. Đấy là Long vương gia
đó, lần này chúng ta gây họa tày trời rồi. Không chỉ ăn con cháu của Ngài, lại
còn nhốt cả Ngài trong cái lò này nữa, sợ rằng cái vỏ sắt này cũng không ngăn
được...”
Tôi thầm nhủ lão Dương
Bì này đúng là đồ nông dân cổ hủ, trình độ giác ngộ cách mạng quá thấp, nói thế
nào cũng không chịu nghe, thật chẳng khác nào đàn gảy tai trâu hay hát opera
cho lừa, chỉ phí công vô ích. Ông lão đã nhất quyết nghĩ thế, thì tôi cũng
chẳng còn hơi đâu mà đi giải thích làm gì, tình hình trước mắt thật chẳng khác
nào kiến bò chảo nóng, không thể không tính toán đến trường hợp xấu nhất. Bây
giờ chạy lên chạy xuống cũng chưa chắc tìm được lối ra, nhưng thế nào thì cũng
không thể cứ trơ mắt ra chờ chết được, tôi phải tính sao đây?
Nghĩ tới đây, tôi lại
càng nóng ruột, liền bực bội nói với lão Dương Bì: “Làm gì có Long vương với cả
Long bá gì ở đây chứ? Đến một cộng một bằng hai ông còn chẳng biết, sao lại cứ
tin mấy cái truyền thuyết vô căn cứ ấy thế?”
Đinh Tư Điềm vội lên
tiếng khuyên giải: “Bát Nhất, bạn không nên nói ông lão Dương Bì thế chứ, đây
không phải ông mê tín, mà chỉ là tình cảm giai cấp mộc mạc thôi. Thanh niên trí
thức chúng ta về nông thôn tham gia lao động sản xuất là để cho giai cấp bần hạ
trung nông tái giáo dục không phải là đến để giáo dục giai cấp bần hạ trung
nông. Bố mình từng nói, trong lịch sử Trung Quốc, khổ nhất chính là nông dân,
cả đời bị bóc lột áp bức, bán mặt cho đất bán lưng cho giời, nhưng vĩ đại nhất,
chịu đựng giỏi nhất, nhẫn nại nhất cũng chính là nông dân, nếu không có nông
dân thì cũng chẳng có lịch sử Trung Quốc đâu.”
Tôi bị Đinh Tư Điềm nói
cho một hơi dài, lập tức bình tĩnh lại, cũng cảm thấy tuy rằng mình chưa nói gì
quá đáng, nhưng đúng là không nên có thái độ này với ông lão Dương Bì. Tục ngữ
chẳng phải cũng có câu, “lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa
lòng nhau” đó hay sao. Có điều, trước mặt Đinh Tư Điềm tôi cũng không tiện nhận
sai, bèn ậm ừ cho qua, rồi nói với mọi người: “Mấy hôm nay không thực hiện phê và
tự phê rồi, trở về nhất định sẽ bù lại.” Tuyền béo đứng bên cạnh lập tức thừa
cơ móc máy: “Sau khi quay về cậu còn phải tự kiểm điểm lại mình, nghiêm túc học
tập văn kiện, theo kịp tình thế, phê phán tư tưởng cánh hữu ở sâu thẳm trong
lòng cậu, tự giác cải tạo thế giới quan giai cấp tư sản của cậu đi, đồng thời
phải tự giác khai báo các vấn đề lịch sử, vấn đề xuất thân và cả quá trình cậu
nảy sinh tư tưởng danh lợi muốn thoát ly khỏi đội ngũ cách mạng nữa. Cậu đừng
tưởng cậu không khai báo đầy đủ thì tổ chức không biết đấy, tình hình cậu như
thế nào tổ chức đều nắm rõ như lòng bàn tay cả, giờ cho cậu một cơ hội để tự
mình thành thật khai báo, cũng chính là cho cậu một cơ hội nhận được sự khoan
hồng, tốt nhất cậu nên biết điều mà dừng cương ngựa trước vực thẳm, ngàn vạn
lần chớ nên đoạn tuyệt với nhân dân, kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta biết
rằng...”
Tôi vội ngắt lời cậu
ta: “Cái thằng béo nhà cậu mà không đi làm tay sai phản động thì thật lãng phí
cả một tấm thân phì nộn, chúng ta đang bị nhốt trong cái quan tài bằng xi măng
sắt thép kín bưng thế này mà cậu vẫn còn tâm tư bới móc tôi được à? Sư cha nhà
cậu, tôi nói cái gì mà cậu bảo tôi đoạn tuyệt với nhân dân?”
Tuyền béo nói: “Vui vẻ
được thì cứ vui, thủ lợi được thì cứ phải tranh chủ, buồn bực sốt ruột có ích
gì, không phải cũng chẳng thoát ra được sao? Theo tôi thấy, chúng ta phải chuẩn
bị chiến đấu trường kỳ đi thôi, phỏng chừng một hai ngày nữa lão Nghê thấy
chúng ta không về, thế nào chẳng phái người đi tìm? Đợi khi nào họ tìm thấy thì
chúng ta sẽ thoát thôi mà.”
Đinh Tư Điềm nói: “Sợ
là sợ anh ta muốn giấu giếm trách nhiệm cho ông lão Dương Bì, lại cố gắng tranh
thủ cho chúng ta thêm mấy ngày thời gian. Nếu đúng thế, chúng ta không ăn không
uống, liệu có thể cầm cự được bao lâu đây? Mà phải mất bao lâu thì họ mới tìm
được đến chỗ này chứ?”
Tôi nghe Đinh Tư Điềm
nói đến chuyện không ăn không uống, đột nhiên trong óc lóe lên một ý, bèn nói
với Tuyền béo và Đinh Tư Điềm: “Tôi vừa nghĩ ra chiêu này rất độc, cậu còn nhớ
chuyện chúng ta nướng lợn sữa trong lò gạch không, hay là chúng ta lên tầng hai
ném một mồi lửa xuống, đốt bùng cái lò thiêu xác này lên, mặc kệ bên trong đang
nhốt thứ gì, cho nó cháy mẹ nó thành than luôn.”
Lời này vừa thốt ra, ai
nấy đều gật gù khen hay. Thật đúng là người trong cuộc thì mê muội, mãi cũng
chẳng nghĩ ra cách đơn giản này, chỉ cần tìm cách đốt lò thiêu xác lên thôi,
chẳng những có thể thiêu chết thứ bên trong ấy, mà còn có thể lợi dụng ngọn lửa
làm sạch cặn dầu trong ống khói. Như thế thì có thể leo ống khói ra bên ngoài, chỉ
cần một người thoát ra được, vậy là có thể mở cửa sắt từ phía bên ngoài được
rồi.
Cả bọn đang định triển
khai hành động thì ngọn đuốc trong tay Tuyền béo cũng cháy hết. Để sử dụng
nguồn sáng một cách tiết kiệm nhất, mặc dù đã chuẩn bị mười mấy cây đuốc, nhưng
khi nào cây này cháy hết chúng tôi mới đốt cây khác lên. Nghĩ ra cách thoát
thân, ai nấy đều cực kỳ hưng phấn, quên cả việc tiếp lửa cho ngọn đuốc tiếp
theo, Đinh Tư Điềm vội vàng lấy hộp diêm ra định quẹt lửa. Nhưng đúng vào lúc
đó, chợt nghe trong bóng tối vang lên tiếng “sột sà sột soạt” như thể có người
đang bước đi, âm thanh dường như phát ra từ chỗ cửa lò đốt xác.
Trong tòa nhà này ngoại
trừ bốn người sống chúng tôi ra đâu còn ai khác nữa? Thậm chí còn chẳng thấy
con chuột nào, tôi tưởng lão Dương Bì đã lần mò sang phía bên ấy, liền vội đưa
tay ra rờ khắp xung quanh. Lão Dương Bì, Tuyền béo, Đinh Tư Điềm, không thiếu
ai hết, trong bóng tối sao đột nhiên mọc đâu ra một người nữa? Hay là mọc ra
thêm một... con ma?
Âm thanh khe khẽ vang
lên trong bóng tối khiến cả bọn chúng tôi đều dựng hết cả tóc gáy, cái kẻ đột
nhiên lù lù mọc ra ấy rốt cuộc là ai? Hắn ta ở trước cửa lò đốt xác định làm
gì? Trong tôi bỗng dâng lên một dự cảm cực kỳ chẳng lành, lẽ nào có người muốn
mở cái cửa lò ấy ra? Nếu đúng là thế, tôi thật không dám tưởng tượng ra hậu quả
sẽ như thế nào nữa. Nhưng trong căn hầm tối đen như mực, chúng tôi đều chẳng
nhìn thấy gì, cũng chẳng thể nào có hành động ngăn lại. Tôi đành thấp giọng bảo
Đinh Tư Điềm mau quẹt diêm đốt đuốc lên, nhưng lúc này cô cũng vô cùng căng
thẳng, quẹt hai ba cái liền vẫn không thấy cháy, lại càng thêm hoảng loạn, dồn
sức mắm môi mắm lợi quẹt mạnh, không ngờ lại dùng sức quá độ, làm mấy que diêm
còn sót lại trong hộp đều rơi vung vãi hết xuống đất. Lúc này, bỗng nghe trên
cánh cửa lò thiêu xác vang lên tiếng “cách cách” gọn lỏn, chốt cửa đã bị mở ra
rồi.
Chương 25: Trăn vảy gấm
Ngọn đuốc đã tắt, gian
đốt xác lạnh lẽo tối tăm không còn một chút ánh sáng le lói nào, bốn người
chúng tôi đều tụ lại một chỗ, không dám rời nhau nửa bước. Chợt nghe chỗ lò đốt
xác có tiếng chốt sắt chuyển động, ai nấy đều cực kỳ kinh hãi hoảng hốt, trong
lòng lập tức nảy ra một ý nghĩ: “Có ma!”
Dưới hầm tối đen như
mực, bàn tay giơ trước mặt cũng không thấy năm ngón đâu, nhưng tôi biết rất rõ:
“Cửa lò đốt xác mà mở ra, cái thứ bị nhốt bên trong ấy liền được thả ra ngoài,
ở bên trong gian đốt xác sẽ cực kỳ khó đối phó.” Lúc ấy cũng chẳng còn kịp sợ
nữa, vội nhằm hướng tiếng động xông thẳng lên, hy vọng có thể chốt cửa lại
trước khi nó bật ra.
Nhưng phía trước cái lò
đốt xác còn có mấy cái xe để xác chết, loại xe này còn được gọi là “xe thái
bình”. Vừa nãy chúng tôi còn tán chuyện về nguồn gốc của cái tên này, đại để là
vì người ta chết đi liền được giải thoát, bao nhiêu những chuyện tạc lụy của
thế gian đều bỏ lại sau lưng, thanh thản mà thoát khỏi biển khổ mênh mông.
Nhưng thật không thể ngờ rằng, “xe thái bình” lại chẳng hề “thái bình” một chút
nào. Đặc biệt là trong bóng tối mịt mùng chẳng thấy gì hết này, tôi mới lao lên
được vài bước, liền đụng phải một cái xe chất xác, chân vướng vào miếng vải bọc
xác vứt văng dưới đất, loạng choạng ngã lăn kềnh ra.
Chỉ nghe cánh cửa lò đã
được mở chốt kêu “keng” một tiếng, rồi sau đó là tiếng uốn éo trườn bò rợn hết
cả người. Một đốm lửa ma từ từ xuất hiện, đúng lúc ấy, sau lưng tôi cũng sáng
bừng lên. Rốt cuộc, Đinh Tư Điềm đã dùng que diêm duy nhất còn lại đốt cháy ngọn
đuốc quấn bằng vải bọc xác. Tôi nằm sấp dưới đất, mượn ánh lửa nhìn về phía
trước, cửa lò đốt xác đã mở bung ra, bên trong lò vươn ra một cái đầu hình tam
giác, miệng vuông chằn chặn, mắt sáng như gương. Con vật ấy bị mù mất một mắt,
con mắt độc nhất còn lại sáng rực lên như lửa, toàn thân dính đầy cặn dầu trong
lò trông đen sì sì. Vì ánh sáng của ngọn đuốc chỉ có hạn, nên tôi cũng không
nhìn rõ được nó rốt cuộc là con quái vật gì.
Con quái vật độc nhãn
bị nhốt trong ống khói đã lâu, thấy người liền bổ nhào tới, thân thể đen đúa
dường như mọc đầy những vảy là vảy. Nó vừa chuyển động liền mang theo một trận
gió tanh lòm. Tôi thấy tình thế không hay, chẳng kịp đứng dậy, bèn lăn một vòng
chui xuống bên dưới một cái giường sắt để xác chết. Chỉ nghe gió rít vù vù, cái
giường sắt như thể chiếc lá bị gió dập mưa vùi bay vèo ra xa.
Tôi thấy lá chắn không
còn, đành vội vàng loạng chà loạng choạng nhổm dậy né tránh. Lúc này, Tuyền béo
và Đinh Tư Điềm đứng sau lưng tôi đều đần thối cả mặt ra, cái giường sắt rơi
xuống đất đánh “rầm” một tiếng, bọn họ mới giật mình sực tỉnh, lại đốt thêm hai
cây đuốc nữa rồi ra sức vung vẩy hòng xua con quái vật kia lùi lại. Tôi thở
dốc, phát hiện toàn thân con quái vật vừa chui ra từ trong lò đốt xác này đều
dính đầy cặn dầu mỡ, muốn đẩy lui nó, chỉ có cách duy nhất là dùng lửa, vội
vàng cuống lên gọi Tuyền béo mau mau thắp sáng.
Tuyền béo tuy là hạng
lỗ mãng chẳng bao giờ để ý chuyện gì, nhưng cũng không phải loại tầm thường vớ
vẩn, nói gì thì nói cũng là con nhà tướng. Từ nhỏ cậu ta đã từng trải trăm
trận, một mình khiêu chiến cả bọn đông hơn, bao nhiêu trò xấu đều biết hết. Hồi
đi học cấp II đã dám vươn tay ra tát học sinh cấp III, tố chất tâm lý phải nói
là cực tốt. Theo như lời bình của Đinh Tư Điềm hồi đó, cậu ta không chỉ có lý luận
đấu tranh hoàn chỉnh thành thục, mà quý hơn là có tinh thần và khí phách dám
đấu tranh, giỏi đấu tranh, nói trắng ra là con người này ngoài đánh nhau ra,
thì chẳng còn việc gì thích hợp cả.
Lúc này, tôi vừa bảo
dùng lửa, Tuyền béo liền lập tức hiểu ý ngay. Chỉ thấy cậu ta nhảy lên một cái
giường sắt, lợi dụng vị thế trên cao, ném thẳng ngọn đuốc trên tay vào cái bóng
đen ấy. Nhưng quái vật kia lướt đi như gió, thoắt cái đã lách mình né tránh
trong tiếng “xoạt xoạt” những cái vảy mọc dựng khắp toàn thân. Ngọn đuốc của
Tuyền béo ném vào khoảng không, tôi nấp trong góc nhìn thấy hết sức rõ ràng,
thấy đuốc sắp chạm đất, vội vàng bật người lao lên đón lấy, rồi nhằm vào phương
hướng dịch chuyển của con quái vật đó ném vèo đi.
Hướng ấy có một góc
chết, tôi tin chắc cú này nhất định sẽ trúng, cho con quái vật này không còn
đường nào mà né tránh nữa. Nhưng ngọn đuốc chẳng qua chỉ là một khúc gỗ cuộn
thêm mảnh vải bọc xác người, rồi quẹt vào một ít cặn dầu đen dính trên quần áo
tôi lúc leo vào trong ống khói, chỉ cần biên độ động tác lớn một chút là ngọn
lửa đã chập chà chập chờn rồi. Giờ chỉ trong một thoáng đã bị tôi và Tuyền béo
ném đi ném lại hai lần, ngọn đuốc yếu ớt đã bị gió làm tắt phụt, chỉ còn lại
một khúc gỗ ném vào góc tường mà thôi.
Trong chớp mắt, con
quái vật chui từ bên trong lò đốt xác ra đã bò được nửa vòng quanh căn hầm,
cuốn thẳng tới trước mặt Đinh Tư Điềm tựa như một cơn lốc màu đen. Đinh Tư Điềm
đang mải cùng lão Dương Bì đốt mấy cây đuốc còn lại lên để chi viện cho tôi và
Tuyền béo, cô và lão Dương Bì đều ở đầu bên kia căn hầm, có nằm mơ cũng không
ngờ được quái vật lại ập đến nhanh như thế.
Tôi và Tuyền béo đều là
thân thể máu thịt, muốn xông đến chặn đỡ giúp Đinh Tư Điềm cũng không kịp, đành
kêu lên: “Dùng lửa đập bẹp cái đầu chó của nó đi!” Đinh Tư Điềm cầm đuốc bằng
cả hai tay, tạt ngang một cú, hoa lửa bắn tung lên vừa khéo lướt qua thân thể
đen đúa của con quái vật. Trong bóng tối bỗng nghe “phừng” một tiếng, một ngọn
lửa lớn cháy bùng lên, tựa hồ như một con rồng lửa đang quằn quại trong tiếng
kêu bi thiết. Chỉ thấy con rồng lửa dài hơn trượng ấy cuốn mình lại thành một
quả cầu lửa bắn ngược về phía sau. Sức lực con quái vật này mạnh mẽ phi thường,
lại còn đang vùng vẫy giãy chết, đập vào tường mà tường cứ rung lên bần bật.
Khó ngờ nhất là cú va đập ấy lại đập trúng vào đường ống nước ngầm, mấy ống
nước to như bắp tay trẻ con đều vỡ toang, phun nước đen ngòm, trong thoáng chốc
đã chảy lênh láng khắp mặt đất. Quả cầu lửa lăn lộn mấy vòng, ngọn lửa liền tắt
ngúm.
Hệ thống cấp nước trong
gian đốt xác này là để làm vệ sinh, miệng vòi nước còn lắp thêm ống cao su để
xối rửa xác chết, có điều, bên trong các ống kim loại ấy đều đã gỉ hoen gỉ hoét
từ lâu, bị ngoại lực tác động vỡ tung ra tức thì, nước bẩn đọng bên trong tóe
cả ra ngoài. Không ngờ con quái vật ấy va đụng vớ vẩn thế nào lại dập tắt được
ngọn lửa đang thiêu đốt.
Tôi và Tuyền béo nhân
cơ hội ấy vội vàng chạy tới bên cạnh lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm, đốt thêm hai
cây đuốc nữa, bốn người nhìn về phía ống nước vỡ, tất thảy đều ngấm ngầm kinh
hãi. Thì ra lúc ống nước vừa mới vỡ, nước bẩn bên trong chảy ra đục ngầu đen
đúa, nhưng dập lửa thì rất hiệu quả, sau đó nước bắt đầu sạch hơn một chút. Con
quái vật có ánh mắt như đốm lửa kia bị nước xối lên người, lập tức lộ ra nguyên
hình, toàn thân lấm tấm hoa văn như gấm thêu thời cổ, vảy giáp trên người lấp
lóa biến ảo, hai bên hậu môn vẫn còn dấu vết của hai chi sau đã thoái hoá, thân
thể đằng trước to, phía sau thuôn nhỏ, phần đuôi nhọn như mũi kim.
Thì ra đây là một con
trăn vảy gấm, loài này thường chỉ thích ẩn mình trên các tán cây cao, rình bắt
chim chóc hoặc lũ dơi, phàm đến giờ Tý và giờ Ngọ là phun độc, còn lúc bình
thường tuy không có độc, nhưng sức khỏe thì tuyệt luân, có thể quấn chết người
và súc vật rồi nuốt chửng. Con trăn vảy gấm này đã mù một mắt, chỉ thấy trong
con mắt còn lại vằn những tia máu đỏ, lóe lên ánh hung quang lạnh lẽo.
Bố của Đinh Tư Điềm
từng đi bắt thứ này về làm tiêu bản, cô đã tận mắt thấy nó trong viện bảo tàng
rồi. Tôi cũng có nghe cô kể chuyện, loài trăn này đa phần sống ở chốn rừng rậm,
ở những vùng có trăn sinh sống và hoạt động, người dân địa phương đều bảo trông
chúng như cánh tay, có thể bò rất nhanh, hay dựng đứng thân lên mà nuốt sống
con người. Lại có người bảo rằng, trăn là giống to nhất trong họ nhà rắn, tính
cực dâm, phụ nữ mà bị nó cuốn phải, dùng đuôi chọc vào chỗ âm hộ thì chết là
cái chắc, thế nên trăn cũng được coi như một loại dâm long. Thịt trăn có thể
dùng làm thuốc, công hiệu như thần. Phần xương đuôi của trăn được dân gian gọi
là “như ý câu”, hình dáng sau khi thành hình rất giống đồng tiền, nhưng chỉ
trăn đực mới có, mà cũng cực kỳ hiếm gặp, ngàn vàng khó cầu. Các loài trăn
trắng, đen đều không có độc, duy chỉ có loài trăn vảy gấm là phun độc vào
khoảng giờ Tý và giờ Ngọ, nếu phụ nữ trúng độc thì có thể cứu trị như bị rắn
cắn, nhưng có chữa kịp thời và đúng cách thì cũng để lại di chứng về sau.
Hồi ấy, bố Đinh Tư Điềm
dẫn người vào khu rừng ở phương Nam bắt trăn, có một đứa trẻ dân địa phương
đứng cạnh xem, sờ phải túi mật của con trăn chết, về nhà liền bị thụt chim vào
trong, đi chữa trị khắp nơi mà không được. Đại phàm trẻ con dưới mười tuổi,
dương vật vẫn chưa phát triển, tuyệt đối không được chạm vào túi mật trăn, bằng
không sẽ bị thụt chim vào trong bụng, con trăn ấy được mấy tuổi, thì sẽ bị thụt
ngần ấy năm, hết hạn sẽ tự thòi ra. Ngoài chờ đợi ra, thì tuyệt đối không còn
cách nào khác.
Tôi và Tuyền béo thì
mới chỉ nghe tên thôi chứ chưa từng thấy qua giống ấy, nhưng vừa trông thấy cái
đuôi trông như roi sắt của nó, với thân thể mọc đầy vảy giáp, là biết có đến
quá nửa con quái vật này chính là trăn vảy gấm rồi. Loài này xưa nay vẫn sinh
trưởng ở miền Nam, chưa bao giờ xuất hiện ở giữa thảo nguyên phương Bắc, không
biết có phải do bọn Nhật mang đến hay không nữa.
Lão Dương Bì lại càng
chưa bao giờ nghe đến loài vật này, chỉ thấy con trăn toàn thân đầy vảy, liền
đoán ngay nó không phải vật thường, ngỡ rằng đây là độc nhãn Long vương gia hạ
phàm, trong lòng hoảng hốt vô cùng, hai đầu gối liền mềm nhũn ra, quỳ xuống đất
mà cúi lạy xin tha, miệng lẩm nhà lẩm nhẩm: “Tôn thần xin chớ trách tội, chúng
con chỉ là lũ dân thường chăn dê chăn ngựa, không dám làm chuyện phạm pháp, cả
đời không tranh danh không giành lợi, an phận thủ thường, có miếng cơm vào bụng
là tạ ơn trời đất rồi, cầu xin tôn thần tha cho lão hán và mấy cô cậu thanh
niên trí thức này với!”
Con trăn vảy gấm vừa bị
ngọn lửa làm cho kinh hãi, cuộn mình dưới đất khẽ run lên một chặp, cũng không
biết phải làm sao, con mắt duy nhất vẫn nhìn chằm chằm vào Đinh Tư Điềm như thể
chực xông lên. Tôi biết tình hình này cực kỳ không ổn, chỉ cần con quái vật kia
định thần lại là sẽ bổ nhào lên người Đinh Tư Điềm ngay lập tức, vội đưa tay
kéo cổ áo lão Dương Bì, giật cho ông già đứng dậy: “Nó không hiểu những lời
chan chứa tình cảm giai cấp mộc mạc này của ông đâu...”
Bốn người chúng tôi và
con trăn vảy gấm đối mặt với nhau trong ánh lửa lập lòe thoắt sáng thoắt tối và
tiếng nước chảy róc rách. Tuy cảm giác khoảnh khắc ấy dài đằng đẵng, thời gian
tựa hồ như ngưng đọng, nhưng thực tế song phương giằng co trong giây lát, con
trăn vảy gấm kia đã nổi dâm ý, không sao kiềm chế được nữa. Chỉ thấy mắt nó
sáng rực lên ánh đỏ, toàn thân nhổm dậy, bổ nhào về phía Đinh Tư Điềm như một
cơn gió. Tôi một tay cầm đuốc, một tay kéo lão Dương Bì, vốn định bảo tất cả
quay đầu chạy lên tầng một, nhưng thấy không kịp nữa, đành dốc hết sức ra chống
đỡ đòn tấn công của con quái vật.
Tôi, Tuyền béo và Đinh
Tư Điềm cùng giơ đuốc lên tạo thành một bức tường lửa ngăn đà lao hung hãn của
con trăn vảy gấm lại, chỉ thấy trước mắt cuộn lên một trận gió đen, con trăn
vảy gấm đã vòng qua bức tường lửa tới phía sau lưng chúng tôi. Phía sau ba bọn
tôi là một cái tủ kính bỏ không, chỉ nghe gió tanh nổi lên, đầu con trăn khổng
lồ đã vươn ra trên nóc tủ.
Lúc này có muốn quay
lại ngăn chặn thế công của nó cũng không kịp nữa rồi, trong lúc nguy cấp, tôi
và Tuyền béo vội rùn người xuống, dùng lưng thúc mạnh cho cái tủ không đổ kềnh
ra đất. Giá gỗ sơn trắng đổ xuống rầm rầm đè lên thân thể con trăn, tôi vừa
ngoảnh đầu lại, con quái vật đã vặn gãy cả cái tủ, nghển cao đầu bò ra khỏi
đống thủy tinh và vụn gỗ. Động tác của nó cực nhanh cực mạnh, làm vụn thủy tinh
bắn tung ra khắp bốn phía, ngọn đuốc trong tay bốn người chúng tôi bị cơn gió
tạt qua, suýt chút nữa thì tắt lụi. Trong khoảnh khắc sáng tối chập chờn ấy,
chỉ thấy có mấy tia sáng lạnh bắn sớt qua mặt. Tôi và Tuyền béo vội chắn phía
trước lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm, trên mặt đều bị thủy tinh vỡ cứa cho mấy
phát, cảm giác ran rát, nhưng không đau, bèn đưa tay sờ thử, chỉ thấy toàn máu
là máu. Vết thương tuy nông, nhưng chảy rất nhiều máu.
Tôi và Tuyền béo thấy
máu tươi cũng cáu hết cả tiết lên, vung đuốc ném thẳng vào con trăn tởm lợm ấy,
nhân lúc nó né tránh, liền hợp sức nâng một cái xe chất xác lên, lật ngang ra
đè lên người nó. Con trăn ấy di động cực nhanh, phiêu phiêu hốt hốt, mà sức
khỏe thì không ai bì được, bọn tôi chỉ dựa vào mấy cây đuốc trong tay mới cầm
cự với nó được một lúc, tiếp tục thế này, một khi bị nó nhắm được sơ hở, trong
bốn người thế nào cũng có kẻ chết với bị thương, chỉ còn cách dùng xe sắt đè
chặt nó xuống thì mới mong thoát khỏi cục diện bị động chỉ biết né tránh mà
tiến hành phản đòn được.
Chúng tôi nghiến răng
nâng cái xe để xác xông lên trước, mắt thấy sắp đè được nó xuống rồi, nhưng con
trăn vảy gấm này động tác nhanh cứ như gió, khó mà bắt được, chỉ thấy bóng đen
lóa lên, cái xe đã đập vào khoảng không. Con trăn bị mùi hương trên cơ thể Đinh
Tư Điềm thu hút, cũng chẳng buồn quấn lấy chúng tôi, né khỏi đòn tấn công, thừa
cơ lao tới đuổi Đinh Tư Điềm.
Lúc này Đinh Tư Điềm đã
lùi đến bên cạnh lò đốt xác, không chạy đâu được nữa, thấy con trăn lao bổ tới
mình, không khỏi sợ đến tái mét mặt mày. Cũng may, cô xuất thân trong gia đình
quân nhân, lại từng làm Hồng vệ binh, nửa năm nay cũng không uổng công rèn
luyện giữa chốn thảo nguyên trời cao đất rộng, liền vung ngọn đuốc nhằm thẳng
vào đầu con trăn vảy gấm ấy mà ném, miệng còn hét lớn: “Đánh chết con lưu manh
địa chủ phản động phái hữu xét lại nhà mày đi...”
Nhưng con trăn vảy gấm
cuồn cuộn lao tới như cơn gió, ngọn đuốc của Đinh Tư Điềm làm sao ngăn được,
lớp vảy lấp lánh ánh lên giữa một quầng đen, trong chớp mắt đã quấn chặt lấy
Đinh Tư Điềm. Tôi và Tuyền béo dù có lắp thêm cánh bay đến cũng đã quá muộn,
đúng vào thời khắc ngàn cân treo sợi tóc đó, trong hầm chợt vang lên một tiếng
nổ lớn, khói bay mù mịt. Không hiểu từ lúc nào, khẩu súng săn trên tay lão
Dương Bì đã nhả đạn, tiếng súng vang lên điếc cả tai, khói xộc lên nhức cả lỗ
mũi.
Thì ra lão Dương Bì
thấy con trăn vảy gấm tựa hồ Long vương gia giáng phàm ấy, tuy kinh hãi run lên
như cầy sấy, dẫu bị vị “tôn thần” này nuốt chửng, chắc cũng không có gan phản
kháng, nhưng thấy Đinh Tư Điềm gặp nguy hiểm, liền tức khắc quên bẵng sự an nguy
của chính mình. Lý do một là vì ông coi Đinh Tư Điềm như cháu nội, hai là nếu
thanh niên trí thức xảy ra chuyện, thì tức là ông đã không hoàn thành trách
nhiệm với Mao chủ tịch, tuyệt đối đã là sự kiện chính trị trọng đại, việc đến
nước này rồi thì còn để ý gì đến thần với Phật nữa, ông lão không nghĩ ngợi gì
nhiều lập tức giơ súng lên bắn luôn.
Khẩu súng săn này là đồ
cổ, lúc nổ lúc tịt, lần này cũng là mạng Đinh Tư Điềm chưa đến nỗi tuyệt, tiếng
súng vang lên, vừa khéo cứu được tính mạng cô về. Tuy lão Dương Bì lo bắn phải
Đinh Tư Điềm, lúc bóp cò đã chếch nòng súng lên khá cao, hơn nữa loại súng này
thực ra cũng chẳng có khả năng sát thương gì mấy. Nhưng thanh thế khói lửa thì
thật kinh người, con trăn đang quấn lấy Đinh Tư Điềm lập tức bị chấn động, vội
buông cô ra lùi nhanh về phía sau. Nó hoảng loạn thế nào, lại không phân biệt
phương hướng, lao thẳng vào cái lò đốt xác đang mở toang cửa. Tôi vừa khéo đang
xông đến phía trước, liền dùng lưng thúc mạnh đóng sập cửa lại, tiện tay kéo
chốt sắt vào luôn.
Bốn người vừa tai qua
nạn khỏi, thở phì phà phì phò không ai nói được lời nào. Vừa dừng lại, tôi liền
cảm thấy khắp người lạnh toát, bấy giờ mới chú ý thấy quần áo mình đã bị mồ hôi
thấm ướt sũng cả, cũng không hiểu là mồ hôi lạnh túa ra vì sợ, hay mồ hôi chảy
ra lúc quần nhau với con quái vật kia nữa. Cả bọn nghỉ ngơi giây lát, tôi,
Tuyền béo và Đinh Tư Điềm rốt cuộc cũng định thần lại, nhịp tim dồn dập và hơi
thở nặng nề cuối cùng đã hòa dịu phần nào, duy chỉ có lão Dương Bì một tay cầm
đuốc, một tay cầm súng săn, nghiến răng nghiến lợi không nhúc nhích, bộ dạng
như thể cả râu tóc cũng đang dựng đứng cả lên.
Tuyền béo bước đến đỡ
Đinh Tư Điềm dậy, thấy cô không bị thương gì mới yên tâm, rồi lại đi tới bên
cạnh lão Dương Bì vỗ vai ông già một phát: “Được lắm ông ạ, quả không hổ là
giai cấp bần hạ trung nông.” Lão Dương Bì bị cậu ta vỗ cho một cú, ngồi thụp
xuống đất, nét mặt hoang mang ngơ ngẩn, tựa hồ như không tin mình vừa mới cứu
mạng Đinh Tư Điềm.
Con trăn vảy gấm bị
nhốt trở lại vào trong lò đốt xác lại húc cửa thêm mấy lần nữa, nhưng cánh cửa
lò này dày cả nửa mét, nó có khỏe cách mấy cũng không thể xông ra được. Nhưng
tôi vẫn không dám lơ là, giữ chặt chốt thép nơi cửa lò không buông. Vì tôi còn
nhớ rất rõ, mới vừa mới đây thôi, khi ngọn đuốc bị tắt, đã có người mở cái chốt
này ra. Đó là kẻ thứ năm ngoài tôi, Đinh Tư Điềm, Tuyền béo và lão Dương Bì,
chính cái kẻ đang ẩn mình này đã thả con quái vật đó. Nếu để chuyện ấy xảy ra
thêm một lần nữa, sợ rằng chúng tôi không được may mắn như vừa nãy mất. Phỏng
chừng bên trong tòa nhà này nhất định có ẩn giấu gì đó, kẻ kia đã rắp tâm không
muốn chúng tôi sống ra khỏi đây rồi, nếu không nhanh chóng tìm được tên khốn
ấy, phen này cả bọn chúng tôi đừng hòng mà sống sót được.
Chương 26: Âm hồn bất
tán
Tôi biết trong gian đốt
xác này chắc chắn có giấu gì đó, không tìm thấy thứ ấy thì chúng tôi sẽ còn
nhiều phiền phức hơn, vậy là vẫn dựa lưng chặn cửa lò, đảo mắt quét một vòng
khắp gian hầm ngầm. Nhưng ánh sáng của mấy ngọn đuốc trên tay bọn Tuyền béo, Đinh
Tư Điềm không đủ, những chỗ xa và các ngóc ngách vẫn tối om như mực. Càng không
nhìn rõ trong bóng tối rốt cuộc có thứ gì, trong lòng lại càng thấy bất an,
thời bấy giờ vẫn chưa ai biết đến bệnh sợ không gian kín, nhưng bốn người chúng
tôi thực sự đã ở trong cái quan tài bằng xi măng cốt thép này đủ lâu rồi. Đặc
biệt là trong tòa nhà này còn có những hiện tượng dị thường không thể giải
thích nổi, càng nghĩ kỹ, lại càng cảm thấy rợn hết cả người.
Tuyền béo đưa ra chủ ý:
“Các cậu ở dưới này chặn cửa lò lại, để tôi lên tầng hai ném ngọn đuốc vào
trong, thiêu chết bà nó con trăn khốn kiếp này đi, khỏi phải để nó ra ngoài giở
trò lưu manh nữa.”
Tôi gật đầu đồng ý, đã
làm thì làm cho trót, không thiêu chết nó thì cũng không có cách leo ra bằng
đường ống khói. Nhưng lúc này Đinh Tư Điềm lại cản chúng tôi lại, nói: “Đừng
đốt, lò này lửa lớn lắm, đốt cháy lên thì than cũng chẳng còn đâu. Trên mình
trăn vảy gấm có hai món bảo vật, một là ‘như ý câu’ ở xương đuôi, hai là viên
‘phân thủy châu’ ở xương đầu, nghe nói đều là dược liệu trân quý có thể cải tử
hoàn sinh được. Chúng ta đã không tìm được bò với ngựa về rồi, tổn thất này khó
mà bù đắp, nhưng nếu có thể mang hai thứ này về, biết đâu lại được miễn truy
cứu trách nhiệm thì sao.”
Tôi và Tuyền béo đều
nghi ngờ mấy thứ xương trăn xương rắn đấy liệu có giá trị vậy thật không, nhưng
dù sao thì cũng còn hơn là trở về với đôi bàn tay trắng. Còn về việc bắt trăn,
Đinh Tư Điềm từng nghe bố cô kể, trăn vảy gấm thích sống ở những nơi rất cao
như trên ngọn cây, đỉnh tháp, ở xung quanh đấy chắc chắn có một loại thực vật
gọi là “quan âm đằng”. Chỉ có dùng “quan âm đằng” mới bắt được nó, không hiểu
trong tòa nhà này có loại thực vật ấy không, nếu không tìm được thì cứ nghĩ
cách rời khỏi đây trước, rồi kêu người quay lại bắt nó cũng không vội.
Tôi thoáng nghĩ, đã
thấy việc này tuyệt đối không khả thi, bèn nói ngay với Đinh Tư Điềm: “Không
được, làm việc không quyết đoán thì ắt sẽ lưu lại hậu họa về sau, chúng ta phải
thiêu chết nó ngay bây giờ, vật này di chuyển nhanh như gió, người không cản
được, vạn nhất để nó thoát khỏi lò thiêu lần nữa, thì chúng ta phải đi gặp cụ
Mác cụ Lê thật đấy chứ chẳng đùa đâu. Ngoài ra, tòa nhà này ngoài đường ống
khói có còn lối thoát nào nữa đâu?” Thực ra còn một điều quan trọng nhất, đó là
tòa nhà này mười phần thì chắc đến tám chín là có ma. Hơn nữa, từ một loạt các
sự kiên chúng tôi gặp phải đêm nay, có thể thấy rằng những oan hồn oán quỷ đó
tuyệt đối muốn đưa bọn tôi vào chỗ chết. Xét chất lượng không khí trong hầm
ngầm, có thể thấy cánh cửa sắt ở lối ra của gian đốt xác chưa chắc đã đóng suốt
từ đầu, nói không chừng cũng chỉ mới vừa bị đóng lại khi chúng tôi bước vào
đây. Giờ có mấy ngọn đuốc chiếu sáng còn đỡ, một khi đã đốt hết những thứ có
thể đốt rồi, vong linh trong tòa nhà này lại mở cửa lò ra lần nữa, vậy thì chỉ
còn nước chết là cái chắc.
Tôi thực tình không
muốn nói thẳng điều này ra với Đinh Tư Điềm và những người khác, vì trước mắt
áp lực tinh thần của mọi người cơ hồ đã lên đến cực hạn. Nhưng dù không nói
trắng ra, mấy người còn lại cũng đều hiểu được sự lợi hại bên trong thế nào cả
rồi, vậy là cả bọn quyết định dẹp bỏ ý định giết trăn lấy “như ý câu” đó đi.
Khi đang ở trong cảnh khốn cùng, cố gắng hết sức để sinh tồn mới là vấn đề
chính yếu, núi xanh còn đó lo gì thiếu củi đun đâu chứ.
Tôi bảo Tuyền béo cầm
ngọn đuốc lên tầng hai, rôi lại dặn Đinh Tư Điềm đi theo tiếp ứng, sau khi châm
lửa thì lập tức quay lại hầm ngầm này hội hợp với chúng tôi. Tuyền béo tìm thấy
cây bảo đao Khang Hy nằm lăn lóc dưới đất liền giắt vào thắt lưng, cầm đuốc hăm
hở đi ra chỗ câu thang.
Đinh Tư Điềm cũng đi
theo sau cậu ta, nhưng hai người vừa mới nhấc chân được vài bước, lúc đi qua
trước mặt tôi, Đinh Tư Điềm đột nhiên tái mét mặt, giơ hai tay ra kéo giật tôi
và Tuyền béo ra xa khỏi cái lò đốt xác. Tôi lấy làm kỳ quái, đang định hỏi xem
cô làm vậy là ý gì? Nhưng vừa liếc mắt một cái, đã hoàn toàn hiểu rõ tình hình
vừa bất ngờ phát sinh, thì ra chỗ khe cửa lò đang chầm chậm lan ra một làn
sương mù màu vàng sậm. Loài trăn vảy gấm này có thể phun khí độc vào hai giờ Tý
và Ngọ, lúc này có lẽ cũng khoảng giờ Tý rồi. Loại khí độc này vừa mạnh vừa
nồng nặc, ngưng tụ không tan trong căn hầm kín. Khoảng cách giữa bụng lò và lối
lên cầu thang không xa lắm, chỉ trong thoáng chốc đã bị khí độc lấp kín.
Tôi thấy màn khói vàng
đậm đặc dường như rất khó tan, bỗng sực nhớ ra mình vừa thay quần áo trong gian
đốt xác. Bộ quần áo của công nhân đốt xác này là loại đồ bảo hộ liền thân, trên
mũ còn có một mặt nạ lọc khí đơn giản, có thể phòng ngừa khói than và hơi thối
từ xác chết xộc lên mũi. Vì thời bấy giờ, quần áo còn là tài sản rất quan
trọng, không đến nước vạn bất đắc dĩ thì không ai nỡ bỏ, vì vậy bọn Tuyền béo,
Đinh Tư Điềm đều không thay quần áo. Mà vả lại, trong góc gian đốt xác này, chỉ
có hai bộ đồ bảo hộ, một bộ treo ở đầu cầu thang đã bị khí độc phủ kín mất rồi.
Tôi thầm nhủ chuyện đã
đến nước này, thì cũng chỉ còn cách tôi đeo mặt nạ lọc khí vào rồi xông qua màn
hơi độc lên tầng hai phóng hỏa mà thôi, nhưng vừa sờ lên quần áo, tôi liền lạnh
cứng cả người. Thì ra trong lúc hỗn chiến kịch liệt với con trăn, cái mặt nạ
đeo trên bộ quần áo đã rơi mất từ lúc nào chẳng hay.
Khói độc của loài trăn
có thể thông qua ngũ quan xâm nhập cơ thể, độc tính còn lợi hại hơn nọc rắn,
mắt thấy lối ra đã bị phong tỏa, tôi biết đại thế đã mất, bèn cùng ba người còn
lại đưa tay bịt chặt mũi miệng, nhanh chóng rút lui vào sâu bên trong gian đốt
xác. Cách làm này thực ra chẳng khác nào uống nước muối giải khát, càng chạy
lại càng rời xa khỏi lối lên cầu thang.
Tầng ngầm này không hề
thông gió, tuy hầu hết sương độc của con trăn tỏa ra khỏi khe cửa cái lò đốt
xác đều tụ lại ở gần cửa, tốc độ lan vào sâu bên trong gian thiêu xác dần dần
chậm lại, nhưng khí độc vẫn đang từ từ dồn ép về phía chúng tôi.
Trong hầm ngầm tăm tối,
muốn lên trời cũng không được, độn thổ xuống đất càng chẳng xong, dưỡng khí mỗi
lúc một ít hơn. Ngọn đuốc đang cầm trên tay cũng ảm đạm hẳn đi, bốn người đều
vô kế khả thi, chỉ còn biết không ngừng lùi về phía góc tường. Tuyền béo đột
nhiên nhớ ra một chuyện, vội vội vàng vàng nói với Đinh Tư Điềm: “Tư Điềm Tư
Điềm, trước khi chúng ta đi gặp cụ Mác cụ Lê, tớ hỏi bạn chuyện này được không?
Bạn thấy tớ với Bát Nhất, ai có thể cùng bạn thăng hoa tình chiến hữu cách mạng
thuần khiết lên một cung bậc mới thế?”
Đinh Tư Điềm ở sau lưng
chúng tôi, vả lại trong bóng tối tôi cũng không nhìn rõ được gương mặt cô,
không hiểu đang lúc hãm thân nơi tuyệt cảnh lại còn bị hỏi chuyện này, cô sẽ
thấy sợ hãi hay xấu hổ đỏ mặt nữa. Nghĩ đến cảnh sắp phải chết oan chết uổng
trong gian đốt xác âm u lạnh lẽo, tôi cũng không khỏi mong trước lúc chết được
nghe tiếng lòng của Đinh Tư Điềm. Nhưng Đinh Tư Điềm lại kêu lên: “Mình...
nước, các bạn mau nhìn nước bẩn chảy ra từ đường ống kia kìa!”
Giọng cô nghe vừa kinh
ngạc lại vừa mừng rỡ, tựa như nhìn thấy một tia sáng le lói trong bóng tối mênh
mông. Lão Dương Bì giơ đuốc lên chiếu về phía cô nói, thì ra trong lúc không để
ý, chúng tôi đã lùi đến chỗ góc tường có ống nước. Những ống nước han gỉ bị con
trăn vảy gấm va vào vỡ toang, nước bẩn tuôn lênh láng, nhưng giờ cũng đã chảy
hết. Trên mặt đất còn đọng lại khá nhiều nước đen, có điều, ở chỗ đọng nước lại
có mười mấy vòng xoáy nhỏ, nước trong hầm đều thấm xuống qua chỗ này. Vì lỗ
thoát nhiều năm không được khơi thông, nên tốc độ thấm xuống rất chậm, nếu
không phải ống nước bị vỡ toang ra, sợ rằng cũng khó mà phát hiện ra chúng có
tồn tại.
Chúng tôi thấy dưới đất
có lối thoát nước, cơ hồ như người sắp chết đuối vớ được cái phao, Tuyền béo
vội thọc tay xuống vũng nước bẩn sờ thử, mừng rỡ reo lên: “Cha tiên sư bố nhà
nó, không phải ống thoát nước, mà là một cái nắp cống bằng sắt, để tôi thử xem
có nhấc ra được không...”
Tôi thấy khí độc của
con trăn đã lan đến gần, không thể chần chừ thêm một giây phút nào nữa, bèn
giục Tuyền béo mau mau lên. Tuyền béo móc hết bùn đất đọng ở các lỗ thoát nước
trên nắp cống, rồi chọc ngón tay vào đó để kéo. Cậu ta dồn sức vào hai cánh
tay, kéo thử mấy cái, nhưng cái nắp cống như thể mọc rễ ở đó, không chịu nhúc
nhích.
Hơi độc màu vàng như
khói như sương, chỗ chúng tôi đang đứng trong giây lát nữa sẽ bị màn sương độc
ấy bao phủ, cả bọn đã bắt đầu cảm thấy hô hấp khó khăn, khí huyết trong lồng
ngực cuộn trào lên, chỉ muốn há miệng nôn mửa. Mắt thấy bên cạnh có đường cống
thoát nước, nhưng lại không thể chui vào, người nào người nấy cuống quýt cả
lên. Đúng lúc ấy, trong óc tôi chợt lóe lên một ý nghĩ, sực nhớ ra tòa nhà này
xây dựng hết sức cổ quái, tất cả các loại cửa nếu không bị bít kín thì cũng mở
ra phía ngoài giống như cửa cái lò đốt xác kia vậy, lẽ nào cả cửa cống này cũng
thế?
Đinh Tư Điềm cũng nghĩ
giống tôi, ngón tay cô nhỏ, có thể thọc vào lỗ thoát nước, vậy là vội vàng ngồi
xổm xuống nhét tay vào lần mò, quả nhiên sờ thấy bên trong có một cái chốt chặn
ngang, tuy đã gỉ sét, nhưng vẫn nhúc nhắc được. Cô không buồn để ý đến ngón tay
đau đớn, ra sức giật mấy lần, cuối cùng cũng kéo được cái chốt ra, cái nắp cống
thoát nước bằng sắt tức thì tách lìa ra làm hai rơi thõng xuống.
Bên dưới nắp cống thoát
nước là một rãnh rất sâu, toàn bộ đều dùng ống lớn đúc bằng xi măng nối lại với
nhau mà thành. Chúng tôi lúc ấy nào còn để ý bên trong vừa ẩm thấp vừa thối
khắm, vội vàng lần lượt chui vào. Đường thoát nước này cao khoảng hơn hai mét
một chút, tôi là người cuối cùng nhảy xuống, nước bẩn thối rinh bắn tung tóe
khắp người, định đóng cái nắp cống lại, nhưng trong lúc hỗn loạn, cái chốt sắt
không biết đã bị Đinh Tư Điềm ném đi đâu mất rồi. Tôi vẫn chưa cam tâm, thì bọn
lão Dương Bì cứ giục cuống lên, đành phải để đấy vậy.
Nước bẩn trong đường
cống ngầm không nhiều lắm, nhưng phần dưới ống xi măng là một tầng bùn nhão đen
ngòm thối hoắc, cực kỳ lầy lội nhớp nháp, bên trong còn có vô số giòi bọ bị
chúng tôi làm kinh động, bò qua bò lại. Hoàn cảnh tuy kinh tởm thật, nhưng dù
sao cũng có nước lưu động, không bị ủ khí mê tan chết người, chỉ có điều, nếu
không cẩn thận thì rất dễ bị trượt chân ngã nhào. Cả hai phía đường ống đều
không thấy đâu là tận cùng, lại càng không thể phân biệt được phương hướng. Vả
lại, theo lý mà nói thì vùng Mạc Bắc này rất thiếu tài nguyên nước, tại sao
trong đường ống xi măng đã bỏ hoang nhiều năm này vẫn còn nước thải chảy ra,
điểm này thì thật không tài nào đoán ra được, bọn tôi đành tạm gác đấy không
nghĩ nữa, trước mắt cũng chỉ còn biết đi bước nào hay bước ấy mà thôi.
Tôi chỉ vào mặt nước
nói với mọi người: “Tôi thấy con đường lớn này thông thẳng đến tận Bắc Kinh
đấy, chúng ta cứ chọn bừa một bên mà đi thôi, nói gì thì nói, cuối cùng cũng
coi như thoát khỏi tòa nhà quái quỷ ấy rồi. Tôi thà chết ngập trong bùn lầy
dưới cái cống này chứ nhất quyết không quay lại chỗ ấy nữa đâu.”
Tuy giữa đường cống
ngầm và gian đốt xác bên trên không hoàn toàn cách ly hẳn, nhưng hơi độc của
con trăn cũng chỉ có hạn, chỉ cần không gian đủ lớn thì cũng không lo trúng
độc. Trong đường ống xi măng dài mà hẹp ấy, bốn người chúng tôi cứ thế tiến
lên, dẫu rằng con đường phía trước mờ mịt khó đoán, nhưng dù sao cũng tránh xa
được khỏi cái lò đốt xác tràn ngập những oán niệm oan hồn ấy, áp lực đè nặng
lên tâm trí cũng giảm đi phần nào. Tôi Tuyền béo và lão Dương Bì không ngớt
miệng khen ngợi Đinh Tư Điềm, nếu không phải có biểu hiện dũng cảm của cô, sợ
rằng lúc này cả bọn đều trúng độc hết cả rồi. Chết kiểu ấy thật đâu khác gì
những người Do Thái bị chết trong phòng khí độc của bọn Đức Quốc xã, nhưng
chúng tôi thì thậm chí còn chẳng có người thu xác về nữa, thật là đã thảm lại
càng thêm thảm.
Đinh Tư Điềm nói:
“Người mà mình sùng bái nhất chính là anh hùng Xô Viết Nikolai Alexeevich
Ostrovsky, mình chẳng qua chỉ mong có thể làm theo những gì ông ấy nói, khi một
người ngoảnh đầu lại nhìn về quá khứ, sẽ không cảm thấy hối hận vì đã sống
những năm tháng phí hoài, cũng không cảm thấy hổ thẹn vì sự tầm thường của
chính mình.” Tôi học theo mấy người đọc diễn cảm trên đài, đùa đùa với Đinh Tư
Điềm: “Khi ngoảnh đầu nhìn lại quá khứ, mình sẽ không cảm thấy hối hận vì đã
không bò được ra bên ngoài theo đường ống khói của lò thiêu xác, cũng không cảm
thấy tầm thường vì đã chui vào ống cống ngầm hôi thối nồng nặc này đâu.” Nhưng
ngay sau đó, tôi lại nghiêm sắc mặt nói với cả bọn: “Con đường phía trước không
biết lành dữ thế nào, cũng không biết sẽ còn xảy ra chuyện gì, mọi người phải
phấn chấn tinh thần lên, đây mới chỉ là những bước đầu tiên của cuộc trường
chinh vạn lý…”
Tuyền béo cảm thán tiếp
lời tôi: “Đường cách mạng từ nay sẽ càng dài đằng đẵng, càng gian nan, càng
khúc khuỷu gập ghềnh...” Đinh Tư Điềm lại tiếp vào: “Vì vậy chúng ta phải tiết
kiệm, đốt hai cây đuốc phí quá, chỉ dùng một cây thôi được không?”
Đinh Tư Điềm đứt lời
bèn dập luôn cây đuốc đang cầm trên tay mình đi, tổng cộng bọn tôi xé vải làm được
có hơn chục cây đuốc thô sơ, giờ chỉ còn lại bốn năm cây, hơn nữa thời gian
cháy của mỗi cây đều rất ngắn, tính ra chưa chắc đã đốt được nửa tiếng đồng hồ,
thực không biết có thể cầm cự được đến lúc bò ra khỏi đường cống ngầm này hay
không nữa. Trong nhóm bốn người, giờ chỉ còn một cây đuốc trên tay lão Dương Bì
là chiếu sáng. Ông cầm đuốc đi giữa, tôi phát hiện ông già lúc này tinh thần
quắc thước hơn trước nhiều, có lẽ vì lúc nãy ông đã nổ súng cứu Đinh Tư Điềm
trong gian đốt xác. Chuyện tuy hết sức bình thường, nếu đổi lại là tôi và Tuyền
béo, nổ một phát súng thậm chí còn chẳng thèm chớp mắt, nhưng đối với lão Dương
Bì mà nói, đó chẳng khác nào ông đã chiến thắng chính bản thân mình, đồng thời
cũng đã tháo gỡ được nút thắt trong lòng ông. Năm đó, chính vì ông nhất thời
nhu nhược mà đã không xông lên cứu người anh em của mình, sợ rằng bao nhiêu năm
nay ông già tội nghiệp cũng vẫn sống trong bóng đen của sự kiện ấy.
Tôi nghĩ ngợi lung
tung, hết nghĩ chuyện lão Dương Bì, lại nghĩ đến những hiện tượng dị thường xảy
ra gần lò đốt xác, vừa chân thấp chân cao bước theo mọi người tiến lên phía
trước, bỗng vô ý liếc nhìn lên bức vách một cái. Tuyền béo đeo thanh bảo đao
Khang Hy đi đầu, sau đó là lão Dương Bì tay cầm ngọn đuốc, kế tiếp là Đinh Tư
Điềm, tôi đi sau cùng, bốn người đi thành một hàng dọc, bước đi hết sức nhịp
nhàng. Ống cống ngầm bằng xi măng này rất hẹp, vì vậy ánh đuốc chiếu sáng hơn
trong hầm ngầm bên trên rất nhiều, bóng của chúng tôi hắt lên bức vách xi măng
cong cong, bốn người đung đưa bước đi, bóng người trên vách cũng lắc lư lên
xuống. Nhưng, tôi phát hiện trên vách cống ngầm không chỉ có bốn cái bóng, mà
không hiểu từ lúc nào, sau lưng tôi đã có thêm một bóng đen.
Cái bóng đen kia cứ
lẳng lặng theo sau chúng tôi, vừa khéo ở phần rìa của phạm vi ngọn đuốc chiếu
tới. Theo nhịp bước đi của lão Dương Bì, ngọn đuốc bị khí lưu dẫn động làm cho
lúc sáng lúc tối, cái bóng cuối cùng kia cũng tấp ta tấp tểnh khi ẩn khi hiện.
Tôi thấy da đầu mình bắt đầu rợn hết cả lên, lòng thầm than không hay, đúng là
ghét của nào trời trao của ấy, bóng ma trong gian đốt xác kia vẫn bám theo
chúng tôi, âm hồn bất tán. Tôi không dám lên tiếng, chỉ lẳng lặng thả bước chầm
chậm lại, nghiêng tai lắng nghe động tĩnh sau lưng. Nhưng phía sau tôi ngoài
cái lạnh thấu vào tận lục phủ ngũ tạng ra, thì chẳng hề có lấy nửa tiếng động
gì.
Nguồn doc.178vn.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét