Chương 12: Canh cá
Lão Dương Bì quanh năm
chăn dê thả bò trên thảo nguyên, cũng thường hay gặp phải mãnh thú như lũ sói
hay bọn sài lang tấn công ngựa từ phía sau, biết phải ứng phó thế nào, đang bực
mình vừa chưa tìm được cơ hội thu thập con du diên này, không ngờ nó lại tự
dâng đến cửa. Ông già lập tức huýt lên một tiếng, đúng vào khoảnh khắc con du
diên bổ tới mông ngựa, con ngựa già liền khom người về phía trước, chân trước
chống xuống đất, hai chân sau đạp thẳng vào con độc trùng đang lao tới. Cú đạp
này sức không dưới nghìn cân, hất văng con du diên lốm đốm vằn đen ấy lộn mấy
vòng trên không trung, rơi bịch xuống đất rồi lăn thêm mấy vòng nữa.
Con du diên nếm mùi đau
khổ, cũng không dám càn quấy nữa, vội lẩn vào trong bụi cỏ trốn mất. Tôi thấy
lão Dương Bì xuất ra kỳ chiêu giành được thắng lợi, liền hoan hô một tiếng rồi
leo xuống khỏi cành cây, cùng Đinh Tư Điềm kéo Tuyền béo vừa ngã bò lăn bò toài
dưới đất dậy, phủi đi những vỏ cây, cỏ rác bám đầy khắp người, bấy giờ mới nhớ
ra hai con ngựa đã chạy tít vào sâu trong rừng mất rồi. Không tìm được đàn bò,
cộng với con ngựa màu mận vừa bị du diên cắn chết, giờ bốn con ngựa chỉ còn mỗi
con ngựa già, tổn thất càng lúc càng lớn, lão Dương Bì liên tiếp huýt lên mấy
tiếng gọi ngựa, nhưng đợi mãi cũng chẳng thấy động tĩnh gì, chẳng rõ hai con
ngựa ấy đã chạy đi đâu mất rồi.
Đối với khu vực được
gọi là động Bách Nhãn này, lão Dương Bì luôn có một nỗi sợ tiềm tàng ăn sâu vào
tâm thức, nhưng con người có những lúc không còn con đường nào để lựa chọn,
trách nhiệm để tổn thất bò ngựa của tập thể lại càng lớn hơn nỗi sợ ấy bội
phần. Hai năm nay tình thế đấu tranh rất kịch liệt, người ta chụp mũ cho nhau
nhiều vô kể, vạn nhất bị chụp cho mấy cái lên đầu thì cái mạng già của ông coi
như xong. Dẫu sao ông già cũng lớn tuổi rồi, trận quần thảo với con du diên vừa
nãy đã khiến tim ông đập nhanh thình thịch, lồng ngực phập phồng khò khà khò
khè như cái ống bễ vỡ, thêm vào gánh nặng tâm lý quá lớn, hai mắt ông liền như
tối sầm lại.
Đinh Tư Điềm thấy thân
thể lão Dương Bì loạng choạng cơ hồ muốn đổ gục xuống, vội vàng đỡ ông ngồi
dưới gốc cây, xoa xoa lồng ngực giúp hơi thở ông điều hòa trở lại. Nhưng lão
Dương Bì vẫn ho lên sù sụ, hơi thở bị nén ngược trở lại mà ngất đi. Chúng tôi
vội vàng cấp cứu, vừa ấn ngực vừa vỗ lưng, khó khăn lắm mới khiến ông ho ra
được một bãi đờm, cuối cùng cũng hô hấp lại được, nhưng người vẫn mê man thiêm
thiếp, gọi thế nào cũng không thể dậy nổi.
Đinh Tư Điềm đến vùng
thảo nguyên này tham gia lao động sản xuất, từ những ngày đầu đã được cả nhà
lão Dương Bì chăm sóc, cô gần như đã coi ông già như ông nội của mình, lúc này
thấy ông bất tỉnh nhân sự, làm sao mà không lo cuống lên cho đành. Cô khóc thút
thít hỏi tôi làm sao bây giờ? Trong làng tôi có một bác sĩ chân đất biệt hiệu
là “thầy trộn thuốc”, nhiều lần tôi cũng đi giúp ông ta thăm bệnh cho ngựa cho
lừa, vậy nên trong ba đứa tôi, cũng chỉ có tôi là có chút thường thức về y học.
Nhưng đối mặt với lão Dương Bì hôn mê bất tỉnh tôi cũng không biết phải làm
sao, cho dù mau chóng đưa ông về tiểu khu thì cũng phải mất gần một ngày đường,
mà tiểu khu còn cách bệnh viện cũng một ngày đường nữa, đợi đến khi tìm được
bác sĩ thì chắc người cũng toi đời rồi.
Không ngờ, người nhắc
nhở chúng tôi lại là Tuyền béo, cậu ta nói: “Liệu có phải ông già bị đói không
nhỉ? Từ sớm bảnh mắt chúng ta đã vội vội vàng vàng đi đuổi theo đàn bò, đến giờ
mặt trời cũng xuống núi được một nửa rồi, mà có hạt cơm miếng nước nào đâu,
đừng nói là người có tuổi như ông ấy, đến như tôi đây còn chẳng chịu được, cũng
đói đến hoa cả mắt rồi đây này.”
Nghe Tuyền béo nhắc
vậy, tôi và Đinh Tư Điềm cũng cảm thấy bụng sôi lên ùng ục, cả ngày nay không
ăn gì rồi. Từ sáng đến giờ chỉ lo tìm lũ bò về, ai nấy đều sốt ruột cuống cuồng
nên cũng chẳng nghĩ ra là phải ăn cơm nữa. Nhất định là lão Dương Bì bị lao lực
quá độ, rồi lại không ăn không uống, vậy nên mới đói quá mà ngất đi.
Lúc chúng tôi chuẩn bị
xuất phát, lão Dương Bì lo trong một hai ngày không tìm được hết cả đàn bò về,
vậy nên đã mang theo một ít lương khô, thậm chí còn thồ theo cả một cái nồi để
đun nước sôi. Vì lo cho con ngựa già, nên ông chỉ buộc cái nồi không ấy với vài
món đồ nhẹ vặt vãnh lên người nó, lương khô và các vật dụng khác đều do ba con
ngựa còn lại phụ trách. Đen đủi thay, hiện giờ chúng tôi chỉ còn có con ngựa
già này, trên người cũng chẳng có thứ gì có thể ăn được cả.
Tuyền béo bảo, hết cách
rồi, thôi thì thịt ngựa ra ăn vậy, bằng không chúng ta không ra khỏi khu rừng
này được đâu. Đinh Tư Điềm vội vàng ngăn lại. Trên thảo nguyên, những con vật
từng tham gia quân đội, từng lập công đều không thể giết được, chúng đều là bạn
của loài người, thà chết đói cũng không thể ăn thịt ngựa. Lão Dương Bì tỉnh lại
mà biết có người giết ngựa của ông ăn thịt thì không phải chuyện đùa đâu.
Ở chốn hoang sơn trời
tối rất nhanh, mới hơn bốn giờ chiều, mặt trời đã xuống núi, lúc này sắc trời
bắt đầu sầm sì, sương đêm trong rừng dần nồng nặc hơn, ánh sáng mỗi lúc một yếu
đi, quang cảnh xung quanh đã chẳng khác nào đêm tối. Trên đầu chúng tôi thi
thoảng lại có vật thể gì đó bay vù qua, không biết là chim hay dơi nữa. Chúng
phát ra những tiếng kêu thê thiết, khiến người ta nghe mà thấy tóc gáy đều dựng
đứng hết cả lên.
Chúng tôi chẳng còn rõ
đâu là Đông Tây Nam Bắc nữa, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đều nhìn sang phía tôi,
hy vọng tôi sẽ đưa ra chủ ý nào đấy, giờ phải tính sao đây? Tôi thoáng do dự
giây lát, rồi nói với họ: “Tuy rằng ngựa quen đường cũ nhưng trong rừng sương
mù dày đặc quá, nếu chúng ta cứ cắm đầu cắm cổ đi bừa, một là cả người ngựa đều
đã quá mệt, cả ngày nay đã ăn uống nghỉ ngơi gì đâu, tiếp tục đi nữa rất dễ xảy
ra chuyện, hai là nếu lại gặp phải bọn độc trùng rắn rết ẩn mình trong lùm cỏ
hay ác thú như sài lang hổ báo, nhất định cũng chẳng có kết cục tốt đẹp gì. Mao
chủ tịch đã dạy, chúng ta phải cố gắng giảm bớt những hy sinh vô nghĩa và không
cần thiết, vậy nên tôi thấy rằng giờ chúng ta nên đốt một đống lửa ở đây, một
là để phòng bị lũ độc trùng mãnh thú tấn công, hai là để kiếm thứ gì đấy nấu
lên mà ăn, người và ngựa đều nghỉ ngơi lấy lại sức, sáng mai sẽ tiếp tục hành
động.”
Tuyền béo nói: “Phương
án này hay thì có hay đấy, nhưng không chu toàn, các cậu nhìn cái khu rừng này
xem, ngoài vỏ cây rễ cỏ ra thì chỉ có mỗi bùn nhão, đừng nói là có đồ ăn, đến
cả miếng nước sạch còn chẳng thấy nữa là, chúng ta nấu cái của nợ gì đây? Nhưng
không ăn thì thực sự là đi không nổi nữa rồi. Tình trạng này làm tôi nhớ đến
một bài thơ của các bậc tiền bối cách mạng, cái gì mà trời sắp tối, bụng reo
như trống đổ, gạo trong túi còn vài hạt, rau dại đun cùng nước. Năm xưa đội du
kích của tướng quân Trần Nghi gian khổ nhường ấy, nhưng dù sao thì trong túi
cũng còn mấy hạt gạo để nấu chung với rau rừng...”
Tôi nghe Tuyền béo nhắc
đến gạo và rau rừng, bụng lập tức sôi lên ùng ục: “Tuyền béo kia, cậu nói vậy
là có ý gì? Chúng ta đã rơi vào hoàn cảnh này rồi mà cậu còn dám nhắc đến cháo
rau rừng nữa, càng đói thì càng không được nhắc đến việc ăn, bằng không sẽ còn
đói hơn nữa đấy. Nhớ năm xưa, các vị tiền bối cách mạng từng bị đoạn lương ba
tháng, chỉ dựa vào ý chí kiên cường để cầm cự, chúng ta có một chút thế này mà không
khắc phục được ư?”
Lúc này Đinh Tư Điềm
đột nhiên kéo kéo vạt áo tôi, nói: “Bát Nhất, các bạn nghe thử xem, trong rừng
có phải có tiếng nước chảy hay không?” Tôi thầm nhủ, trong cái khu rừng dưới
khe núi này lấy đâu ra tiếng nước chảy gì chứ, có lẽ là bụng của ai đấy sôi lên
òng ọc, làm Đinh Tư Điềm nghe nhầm thôi? Nhưng tập trung lắng nghe, quả nhiên
phía đằng xa có tiếng nước chảy róc rách thật. Có tiếng nước chảy tức là có
dòng nước, cổ họng chúng tôi đều đang khát khô cả ra, hơn nữa nếu như có một con
suối thật, biết đâu bên trong lại có cá, ngoài ra, nếu men theo dòng nước thì
dù trong rừng rậm sương mù mờ mịt này cũng không dễ gì bị lạc đường.
Chúng tôi không chần
chừ thêm giây phút nào nữa, trong túi đeo trên lưng con ngựa già có một cái đèn
dầu, hồi trước giải phóng loại đèn này được gọi là đèn dầu Tây, nhưng thực ra
dầu Tây cũng là dầu hỏa. Ở khu chăn nuôi này không có dầu thông, buổi tối đa
phần đều thắp sáng bằng đèn dầu hỏa loại này. Tôi cầm đèn đi trước tìm đường,
Tuyền béo nâng lão Dương Bì lên lưng ngựa, cậu ta đi bên cạnh đỡ, còn Đinh Tư
Điềm thì cầm dây cương dắt, một đoàn bốn người lần dò từng bước tiến về phía có
tiếng nước chảy róc rách.
Chúng tôi xuyên qua
những tán lá lòe xòe, đi một đoạn không xa lắm, quả nhiên trông thấy một đầm
nước, vì trời tối mà sương mù lại dày đặc, tầm nhìn xa chưa đến chục mét nên
cũng không rõ đầm nước này lớn chừng nào. Có điều nghe tiếng nước chảy ở đằng
xa vẫn rất lớn, tôi phỏng chừng đầm nước cũng không phải loại nhỏ, đứng trên
tảng đá xanh ven bờ nước giơ đèn lên chiếu, chỉ thấy hoa nước cuồn cuộn, dưới
mặt nước có rất nhiều con cá màu đen béo mẫm bị ánh đèn thu hút, lũ lượt kéo
nhau bơi đến.
Người ở Khắc Luân Tả Kỳ
này coi cá như thiên thần, xưa nay không bao giờ bắt cá ăn cá, lũ cá sống trong
các hồ lớn hồ nhỏ trên thảo nguyên này đều rất tự do tự tại, chẳng biết sợ
người, chứ không giống bọn cá trong nội địa, vừa thấy bóng người đã lẩn tít
xuống đáy hồ rồi. Có điều, chúng tôi chẳng để ý được mấy chuyện này nữa, nơi
đây ngoài cá với ngựa ra thì chẳng thứ gì ăn được cả. Trên thảo nguyên hoang
lương này, cá là thần tiên, ngựa là bạn bè, ăn thần tiên hay ăn bạn bè đây? Đối
với những thanh niên trí thức đã từng làm Hồng vệ binh như chúng tôi, đây căn
bản không đáng là một vấn đề để suy nghĩ, không cần do dự đã chọn ngay ăn thịt
thần tiên rồi.
Tôi và Tuyền béo lập
tức xắn tay xắn chân chuẩn bị bắt cá, Đinh Tư Điềm sắp xếp cho lão Dương Bì nằm
nghỉ xong, liền buộc con ngựa già lại, nhặt mấy viên đá nhỏ quây thành bếp lò.
Trong rừng đầy những cành khô lá vụn, giơ tay vơ mấy cái là có một đống, cô
nhanh nhẹn đốt lên một đống lửa, dùng cành cây đỡ cái nồi, đun một ít nước sôi
rửa nồi cho sạch sẽ, sau đó mới đun một ít nước nóng cho mọi người uống.
Với bọn thanh niên trí
thức chưa vợ như tôi với Tuyền béo, nấu cơm đương nhiên là cửa ải khó nhất, tuy
ở chốn hoang dã, nhưng thấy Đinh Tư Điềm sắp xếp mọi thứ đâu ra đó, nhìn bóng
cô bận rộn tíu tít, trong lòng tôi không hiểu sao lại dâng lên một niềm thương
cảm. Nhưng cảm xúc ấy nhanh chóng bị cơn đói xua đi mất tiệt, tôi thương lượng
với Tuyền béo một chút rồi bắt tay vào việc ngay, cá ở đây không sợ người, nên
bớt được rất nhiều phiền phức, khỏi phải khuấy cho nước đục ngầu lên như ở Đại
Hưng An Lĩnh, mà chỉ cần tìm hai cành cây có chạc, rồi lấy thanh bảo đao Khang
Hy của lão Dương Bì vót nhọn làm thành cái xiên cá là xong.
Có xiên cá rồi đương
nhiên cũng không thể xiên bừa xiên bậy xuống nước, mà phải treo cái đèn dầu lên
mặt nước, dẫn dụ bọn cá đen béo mẫm ấy đến, tiếp đó phải kiên nhẫn, dựa vào các
nhân tố như dòng nước, bong bóng nổi lên, bọt nước để xác định được quy luật di
động của lũ cá. Vì không đủ ánh sáng, chúng tôi cũng không hoàn toàn nắm bắt
được hướng bơi của lũ cá, tuy vậy, cũng vẫn đâm được bảy tám con cá đen trong
đầm, những con to hơn một chút còn lại cuối cùng cũng hiểu ra có nguy hiểm, lập
tức bơi tít xuống chỗ nước sâu.
Tôi thấy mấy con cá đều
khá lớn, thêm người nữa ăn cũng vẫn đủ, nhưng con người ta càng đói thì càng
thèm ăn, nhìn thế nào cũng thấy vẫn ít, vậy là chúng tôi đưa cá cho Đinh Tư
Điềm chuẩn bị món ăn, rồi lại lội xuống nước, dùng lại cách cũ, xiên thêm mấy
con từ đằng xa bơi tới, bấy giờ mới cảm thấy đu đủ cho bốn người ăn. Sự thực
là, số cá chúng tôi bắt được ấy đừng nói là bốn người ăn, có thêm bốn người nữa
cũng vẫn thừa thãi nhiều.
Đinh Tư Điềm nói với
chúng tôí, giống cá đen này chỉ cần nướng trên lửa một chút là khô đét lại
chẳng ăn được nên cô lấy đao mổ bụng cá moi nội tạng vứt đi, đánh vẩy sạch sẽ
rồi cắt khúc bỏ vào nước sôi, nấu một nồi canh cá. Hơi nước sôi ùng ục bốc lên,
mùi thơm ngào ngạt trong nồi lan tỏa khắp bốn phía, tuy không có gia vị gì cả,
nhưng lúc này rồi thì còn ai để ý xem mặn hay nhạt nữa đâu. Chúng tôi cố nuốt
nước bọt đè nén cơn đói xuống, trợn mắt trừng trừng lên nhìn mấy khúc cá trong
nồi, nhìn đến nỗi tròng mắt cơ hồ sắp rơi luôn cả vào trong ấy.
Tuyền béo thèm đến nước
miếng nhỏ ròng ròng, cu cậu đưa tay áo lên quẹt quẹt mấy cái, rồi bảo với tôi
và Đinh Tư Điềm: “Nghe nói mấy anh em trong binh đoàn đóng ở hoang mạc phía Bắc
một ngày ba bữa đều uống canh, họ còn viết một bài thơ về canh nữa cơ, trước
khi uống canh để tôi ngâm lên cho các cậu nghe nhá... A! Canh, canh, canh, món
canh cách mạng! Một bữa không uống canh nhớ cuống cuồng, hai bữa không uống
canh thèm phát sốt, ba bữa không uống canh lòng hốt hoảng...”
Cả tôi lẫn Đinh Tư Điềm
đều bị bài thơ của Tuyền béo chọc cho bật cười. Đinh Tư Điềm vui vẻ nói: “Bài
thơ ấy bạn lấy đâu ra vậy? Đấy toàn là chuyện xưa xửa xừa xưa rồi, hồi trước
vùng phía Bắc ấy rất hoang lương, chỉ có cỏ dại chứ không có cây lương thực, về
sau người của binh đoàn dần dà đông lên, xây dựng hoang mạc thành kho lương,
nghe nói giờ ở đấy khá lắm rồi, không cần phải uống canh cả ngày nữa đâu. Mình
có người bạn học làm tiểu đội trưởng bên ấy mà. Phải rồi, các bạn ở liên khu
Hưng An thì ăn uống thế nào?”
Tuyền béo nói, bên chỗ
chúng tôi thì có nhiều món ngon lắm, trên trời có thịt rồng, dưới đất có thịt
lừa chúng tôi đều xơi hết cả rồi, nhưng thấy cũng thường thôi, làm sao ngon
bằng nồi canh cá này được, món cá này hấp dẫn quá, chỉ ngửi mùi thôi cũng đã là
một sự hưởng thụ rồi.
Đinh Tư Điềm ngạc nhiên
hỏi: “Thịt rồng cũng có mà ăn à? Lẽ nào chuyện ông lão Dương Bì nói là sự thật?
Trên đời này có rồng thật sao?” Tôi bèn cười cười giải thích: “Trên trời có
thịt rồng, dưới đất có thịt lừa là câu nói ở vùng Hưng An, thịt rồng ấy thực ra
chỉ là thịt chim trĩ trong núi. Nó còn có một tên tục gọi là phi long, vì mùi
vị rất thơm ngon, thuộc hàng cực phẩm trong các món sơn trân, thế nên mới được
đặt cho cái mỹ danh là thịt rồng, kỳ thực thì cũng không khác gà rừng bình
thường là mấy. Để lần sau mình kiếm một hai con mang tới đây cho bạn nếm xem
thịt rồng có mùi vị thế nào. Có điều Tuyền béo nói đúng ra phết, mình cũng cảm
thấy nồi canh cá này thơm quá đi mất, chưa bỏ gia vị gì mà sao đã thơm thế này
nhỉ? Có lẽ mình đói quá cũng nên, nói gì thì cả đời này mình cũng chưa bao giờ
ngửi được món canh cá nào thơm như thế cả.”
Trong lúc nói chuyện,
canh cá cũng gần chín đến nơi, cả mấy người ngửi mùi đều xao xuyến cả cõi lòng,
đột nhiên nghe tiếng ho khục khặc, lão Dương Bì đã tỉnh lại, ngửi thấy mùi canh
thơm xộc lên mũi: “Ôi cha, thơm quá đi... đang nấu gì đấy, sao thơm thế?”
Chúng tôi quay đầu lại
thấy ông già đã tỉnh, đều thở phào một hơi, xem chừng quả nhiên là đói quá nên
mới bị hôn mê, ngửi mùi canh cá liền tự tỉnh dậy luôn. Tôi thầm nhủ không thể
nói với lão Dương Bì đây là canh cá được, ông già này tuy cũng thuộc giai cấp
bần hạ trung nông, nhưng tư tưởng mê tín ăn sâu bén rễ vẫn còn nặng lắm, cái
đuôi phong kiến chưa cắt đi hết, nếu bảo với ông đây là canh cá, chắc chắn là
ông già không chịu cho chúng tôi uống đâu, chi bằng cứ để ông no nê rồi hẵng
nói sự thật, vậy thì ông muốn nói gì cũng chẳng được nữa rồi.
Nghĩ tới đây, tôi không
đợi Tuyền béo nếm trước, đã giật lấy cái muôi trong tay cậu ta, khẳng khái múc
đầy một muôi canh đưa tới trước mặt lão Dương Bì: “Thanh niên trí thức chúng
cháu hưởng ứng lời hiệu triệu lên núi xuống đồng, chính là để học tập giai cấp
bần hạ trung nông, cần phải chú ý lắng nghe ý kiến của bần hạ trung nông, mời
ông nếm thử trước, rồi bình luận hộ cháu xem món canh này nấu thế nào với ạ.”
Lão Dương Bì có lẽ đói
quá, cũng có lẽ vì món canh này quá thơm ngon, thấy cái muôi đưa tới tận miệng,
bèn không hỏi han gì nữa, nhận lấy rồi húp soạt một phát hết luôn. Ông già liếm
liếm mép, như vẫn chưa đã thèm, bèn lảo đảo bước đến trước cái nồi, múc hết
muôi này đến muôi khác, mà cũng chẳng ngại nóng phỏng mồm, cứ thế húp xì xà xì
xụp một mạch nguyên nửa nồi, cả thịt cá bên trong cũng vớt lên ăn rõ là nhiều.
Tuyền béo thấy vậy thì
cuống lên, cả một nồi to tướng này đủ cho tám người ăn, vậy mà một mình ông già
này đã xơi hết một nửa rồi, ông già khô quắt khô queo này sao mà ăn khỏe kinh
người vậy chứ? Tôi và Đinh Tư Điềm đều ngớ người ra, sao lão Dương Bì ăn cứ như
trúng tà vậy? Tiếp tục ăn thế này chẳng phải sẽ nghẹn chết hay sao? Vậy là
chúng tôi vội ngăn lão Dương Bì lại: “Ông có biết trong nồi này là thịt gì
không? Không hỏi rõ sao đã ăn nhiều thế, đây là thịt cá đen bắt trong đầm nước
lên đấy.”
Lão Dương Bì đã ăn quá
nhiều, nghẹn đến trợn trừng cả mắt lên, vừa nghe thấy là thịt cá liền giật nảy
mình: “Cái gì? Thịt cá đen? Tội lỗi tội lỗi, thần tiên mà cũng dám ăn sao? Ăn
vào báo ứng đó... báo ứng đó…” Nhưng nói thì nói vậy, ông dường như không thể
kiểm soát được cánh tay mình, lại tiếp tục cầm muôi vớt thịt cá lên ăn tiếp.
Tôi thấy hai mắt lão
Dương Bì đỏ vằn lên sắc máu, so với lúc thường tựa như hai người hoàn toàn khác
nhau, một người tuyệt đối không thể uống ngần ấy canh cá mà vẫn như kẻ chết đói
thế được. Ngay lúc ấy, tôi bỗng giật thót mình, một dự cảm chẳng lành chợt dâng
trào lên, nồi canh cá này không thể uống được rồi!
Chương 18: Động Bách
Nhãn
Lão Dương Bì uống thứ
canh cá mùi vị thơm ngon ấy xong, người bỗng như biến thành loài ngạ quỷ vừa ở
chốn A Tỳ địa ngục bò lên dương gian, chỉ sợ người khác tranh ăn với mình, đẩy
tôi và Tuyền béo sang một bên, giữ rịt lấy nửa nồi canh cá còn lại, một tay lấy
muôi múc canh, tay kia chọc thẳng luôn vào nồi canh sôi ùng ục vớt thịt cá lên
ăn. Hai tay cứ liên tục bỏ đồ ăn vào miệng như nước chảy mây trôi, tựa hồ như
cái miệng ông đã biến thành hang động không đáy, bất kể ăn bao nhiêu cá uống
bao nhiêu nước canh cũng không đầy được. Nhưng thịt cá canh cá ấy dù sao cũng
là sự vật hữu hình chứ không phải không khí, lão Dương Bì thực sự đã ăn quá
nhiêu, bụng trướng phình cả lên, lỗ mũi cũng sắp chảy ra canh cá đến nơi.
Tôi, Tuyền béo và Đinh
Tư Điềm ngơ ngác nhìn nhau, đều đần thối mặt ra, đã thấy người ăn khỏe, nhưng
ăn khỏe thế này thì thật đúng là chưa thấy bao giờ. Tuyền béo nhìn mà cơ mặt cứ
giật giật, một mực nói với lão Dương Bì: “Để lại cho cháu một ít, cho cháu một
ít với...” Đinh Tư Điềm đã lờ mờ cảm thấy có gì không ổn, nhưng cô không biết
rốt cuộc xảy ra chuyện gì, cô bám chặt lấy cánh tay tôi lắc mạnh: “Ông...
ông... ấy bị sao vậy? Nếu còn ăn nữa e sẽ mất mạng đó.”
Tôi bị Đinh Tư Điềm lắc
mạnh một cái, bấy giờ mới sực tỉnh, vừa nãy đúng là bị kiểu ăn như quỷ đói của
lão Dương Bì làm cho ngẩn cả người, nồi canh cá này chắc chắn có vấn đề rồi. Lẽ
nào thứ cá được dân địa phương coi như thiên thần này thực sự không ăn được?
Người nào ăn vào sẽ như cuồng ma, ăn mãi cho đến khi nào chết mới thôi?
Mắt thấy lão Dương Bì
sắp tự nhồi cho mình chết nghẹn đến nơi, tôi không kịp nghĩ nhiều, vội bước tới
nhắm chặt cổ áo sau của ông già. Da bụng ông đã to phình lên như cái trống, tựa
hồ bất cứ lúc nào cũng có thể nứt toác ra luôn vậy. Tôi lo mình dùng sức mạnh
quá sẽ tổn thương đến nội tạng của lão Dương Bì, nên chỉ khẽ chụp lấy cổ áo kéo
ông về phía sau, rồi bảo Tuyền béo giật lấy cái muôi ông đang cầm. Lão Dương Bì
đã không còn tỉnh táo, trong miệng trong mũi đều ộc đầy nước canh, bị tôi kéo
một cái liền nằm vật ra đất, miệng sùi bọt trắng, bất tỉnh nhân sự luôn.
Tôi nghĩ cũng may là
chỉ ăn canh cá, giờ xoa bụng cho ông già một chút để nôn ra, rồi đi nhà xí một
phát nữa, chắc cũng không có gì nguy hiểm. Nhưng vừa ngẩng mặt lên, đã phát
hiện Tuyền béo đang cầm cái muôi vừa giật được múc canh cá lên, lại còn lầm bầm
thắc mắc với Đinh Tư Điềm:
“Lẽ nào canh này ngon
thế cơ à? Làm giai cấp bần hạ trung nông ăn không dừng lại được, để mình thử
xem sao…”
Tôi sợ Tuyền béo sẽ đi
vào vết xe đổ của lão Dương Bì, vội co chân đạp đổ luôn nồi canh nóng, phần
canh cá còn lại đều đổ hết cả ra đất, đoạn bảo với Tuyền béo và Đinh Tư Điềm:
“Canh này không ăn được, ăn vào sẽ biến thành quỷ đói đấy.” Đinh Tư Điềm vừa
xoa bụng cho lão Dương Bì vừa nói: “Đúng đấy, mình thấy ông lão Dương Bì dường
như càng ăn càng đói, rõ ràng bụng đã trương phình lên rồi mà ông ấy vẫn hoàn
toàn không có cảm giác, càng ăn lại càng thèm ăn, xem chừng dân du mục trên
thảo nguyên Khắc Luân Tả Kỳ xưa nay không ăn cá cũng là có nguyên nhân của nó
đấy.”
Tôi rất hối hận vì đã
để lão Dương Bì uống hớp canh đầu tiên, lúc bấy giờ chúng tôi căn bản không thể
nào hiểu được bí mật bên trong, chỉ cảm thấy khu rừng sương mù mờ mịt này, cũng
như truyền thuyết về con yêu long ở đây vậy, chỗ nào cũng toát lên vẻ kỳ dị
đáng sợ, khiến người ta không thể lý giải nổi. Rất nhiều năm sau đó, tôi đóng
quân ở Lan Châu, mới biết trên cao nguyên Hoàng Thổ có một loại cá đen rất hiếm
gặp, loại cá đen này béo mẫm thơm ngon lại rất ít xương, dùng nấu canh thì mùi
vị tuyệt hảo vô cùng, song bất cứ ai chỉ cần nếm một miếng, đều sẽ biến thành
quỷ đói đầu thai, càng ăn càng thấy đói, càng ăn lại càng muốn ăn thêm, ăn đến
khi nào vỡ ruột mà chết thì thôi. Về loại cá đen đáng sợ này có rất nhiều
truyền thuyết khác nhau, có thuyết bảo rằng lũ cá ấy là do những người chết đói
trong những năm tháng mất mùa hóa thành, cũng có người bảo giống cá đen này là
con rồng cháu rồng, ai ăn vào đều sẽ bị nguyền rủa.
Về sau khi khoa học
ngày một phát triển, tôi mới biết rằng, thì ra trong thịt của loài cá đen này
có một chất giống như thuốc mê. Con người ta sở dĩ cảm thấy đói khát hay no
căng, đều là bởi ở vùng dưới đồi trong đại não có một đoạn thần kinh kiểm soát
cảm giác này. Một thành phần nào đó của thịt cá đen vừa khéo lại làm đoạn thần
kinh ấy bị tê liệt, khiến người ta lúc nào cũng thấy đói vô cùng, chỉ cần ăn
vào là không thể khống chế được mình nữa. Từ xưa đến nay, những người chết vì
nguyên nhân này thực nhiều vô kể.
Lại nói bấy giờ, đang ở
trong khu rừng rậm gần động Bách Nhãn, chúng tôi phỏng chừng đã bắt nhầm loại
cá đen ấy lên nấu canh, có điều, lúc ấy chúng tôi không hề biết nguyên nhân
này, chỉ cảm thấy không ổn, tuyệt đối không được đụng đến món canh cá ấy mà
thôi.
Lão Dương Bì trướng
bụng hôn mê, xem chừng một chốc một nhát cũng khó lòng tỉnh lại, mà bụng ông
già phình trướng cả lên như thế, cũng không thể kéo đi đâu được, chẳng may mà
vỡ ruột ra thì ở chốn hoang vu không thầy không thuốc này, chúng tôi cũng chỉ
đành nhìn ông hồn về nẻo Tây chứ cũng chẳng biết làm sao.
Nhìn đống canh cá đổ
đầy ra đất và con ngựa già đang gặm cỏ, ba người tôi, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm
đều mặt ủ mày chau, cá ở trong cái đầm này quái dị quá, chắc chắn không ăn được
rồi, nhưng cơn đói thì thực sự khó chịu vô cùng. Lúc này, chúng tôi đều không
khỏi ngưỡng mộ con ngựa già kia, trên thảo nguyên đâu đâu cũng có cỏ, chỉ cần
tùy tiện gặm vài cái là xong, đâu cần phải ăn uống phiền phức như con người.
Trước mắt chỉ còn cách
đợi lão Dương Bì hồi phục lại rồi đi tìm thứ khác bỏ bụng thôi vậy. Màn sương
trong rừng dần nhạt đi, đã loáng thoáng trông thấy trăng sao trên trời rồi,
cũng may là đầm nước này ngoài giống cá không thể ăn kia ra thì cũng không có
gì nguy hiểm nữa. Xung quanh tĩnh lặng như tờ, ba người chúng tôi ngồi quanh
đống lửa, định nói chuyện phiếm để phân tán sự chú ý hòng làm dịu phần nào cơn
đói đang hành hạ. Nhưng mới được một hai câu, chủ đề lại quay sang chuyện ăn
uống, đầu óc chỉ toàn nhớ lại những bữa ăn ngon trong quá khứ. Nhớ năm xưa, ba
chúng tôi từng đi khắp nửa nước Trung Quốc, nào là vịt quay Bắc Kinh, bánh bao
“chó không thèm” ở Thiên Tân, thịt dê Tây An, mì kéo Lan Châu... chúng tôi cứ
thế nhớ lại từng bữa, nhớ lại từng miếng một.
Ba bọn tôi đang nhập
tâm vào chuyện ăn uống, bỗng nghe sau lưng vang lên tiếng loạt soạt như có
chuột, vội vàng quay đầu lại nhìn thử, thì ra nửa nồi canh cá và thịt cá, đầu
cá bị đổ ra đất ấy đã dụ đến mấy con chuột đồng béo núc ních. Bọn này chắc cũng
đói kha khá rồi, không cưỡng lại được sự hấp dẫn của mùi cá thơm ngon, bèn mặc
kệ gần đấy có người, có đống lửa, táo tợn xông lên, ôm lấy miếng thịt cá nằm
lăn lóc dưới đất ăn say ăn sưa.
Lũ chuột này béo mẫm,
da mướt lông mượt, còn có tên tục là “giặc mắt to”, thông thường sống dưới các
hang động bên dưới thảo nguyên, ở những chỗ khô ráo trong rừng cũng thi thoảng
bắt gặp, thể hình béo hơn chuột đồng bình thường nhiều, cũng là một thứ mỹ vị ở
chốn hoang sơn. Tôi vội vung tay ra hiệu cho Tuyền béo và Đinh Tư Điềm chớ có
lên tiếng, rồi tiện tay nhặt một khúc cây to cỡ nắm tay, nhằm chuẩn vào con to
nhất, lẳng lặng đập xuống. Con “giặc mắt to” vẫn cắm cúi mải ăn, nó cũng giống
lão Dương Bì, chỉ lo ăn còn chẳng biết trời trăng gì nữa, không hề né tránh,
lập tức dính đòn ngay.
Tuyền béo cũng nhảy bật
lên, vung gậy lên cùng tôi đánh chuột, trong thoáng chốc đã có bảy tám con nằm
lăn quay đơ dưới gậy. Ba bọn tôi cả mừng, vội bắt tay vào nướng chuột lên ăn,
mỗi con “giặc mắt to” này đều ngang ngửa với con thỏ con, vừa nướng lên đã chảy
mỡ xèo xèo. Đinh Tư Điềm lại bắt đầu lo lắng: “Ngộ ngỡ thịt chuột này cũng
giống cá đen, ăn vào liền biến thành quỷ đói thì sao?”
Tôi bảo với Đinh Tư
Điềm: “Trên thảo nguyên làm gì có truyền thuyết nào cấm ăn giặc mắt to, chẳng
phải đến mùa thu là dân du mục hay bắt những con giặc mắt to béo nhất làm thịt
ăn à? Mình thấy chắc không có vấn đề gì đâu.” Trong lúc chúng tôi nói chuyện,
bên kia Tuyền béo đã xé bay nửa con chuột nướng vẫn chưa chín hẳn. Tôi với Đinh
Tư Điềm vẫn hơi lo lắng, thử nhấp một chút, không phát giác thấy gì lạ, bấy giờ
mới yên tâm ăn thả giàn.
Dân du mục trên thảo
nguyên coi thịt chuột nướng như một món ăn thường ngày, nhưng ở khu Hưng An
Lĩnh, rất nhiều người lại không bao giờ ăn thịt chuột. Thời trước giải phóng,
những người tìm mạch vàng kỵ nhất chính là thịt chuột, tôi cũng từng nghe ông
nội kể, các nghệ nhân đổ đấu cũng không ăn chuột, mà gọi chuột là “vợ”, vì nghề
của họ toàn đào đất bới hang, chẳng khác gì lũ chuột là mấy, có thể coi như là
đồng nghiệp cũng chẳng sai. Vả lại chuột cũng là một trong “Ngũ Đại Tiên”[26], những người ngày ngày
đều chui rúc dưới hầm, dưới hang lại càng không thể đắc tội với lũ chuột được,
bằng không sơ sẩy một chút là bị chôn sống trong hang ngay.
Lúc ấy tôi chẳng bao
giờ có ý định đi làm kẻ trộm mộ, nên chẳng hề ngại ngần việc ăn thịt “giặc mắt
to”, Đinh Tư Điềm thì cũng chẳng tin mấy vị tiên chồn, tiên rắn gì gì đấy,
nhưng cô lại tin rằng trời cao có đức hiếu sinh, phàm chuyện gì cũng không nên
làm quá tuyệt tình. Lấy ví dụ như việc ăn thịt chuột này chẳng hạn, ở quê Đinh
Tư Điềm, thời trước giải phóng từng xảy ra nạn đói, bấy giờ rất nhiều chuột,
tuy không có lương thực để ăn, nhưng chuột thì không hề ít đi chút nào. Vì sự
sống, mọi người phải bắt chuột ăn, cũng không biết đã ăn hết mấy chục vạn con
chuột, cuối cùng mới qua được cơn đói kém ấy. Nhưng con người nơi đó đã ăn thịt
chuột thành thói quen, những lúc lương thực đủ đầy cũng vẫn bắt chuột ăn, chẳng
những vậy mà nhà nhà đều ăn, người người đều ăn, kết quả là một năm nọ đột
nhiên dịch hạch lan tràn, người chết không biết bao nhiêu mà kể. Sau trận dịch
ấy, cả một ngôi làng đều chết tiệt cả, chỉ còn hai người ăn chay là sống sót.
Tuyền béo nói: “Cái gì
mà trời cao có đức hiếu sinh chứ? Tôi thấy chuột chính là bọn ‘bốn hại’[27] tiêu diệt hết bọn
ấy thì không có dịch diếc gì hết nữa. Nhưng mà các cậu đã nghe tin gì chưa, có
người nói trên thế giới này chuột còn nhiều hơn cả người nữa? Xem ra sau khi
tiêu diệt sạch sẽ chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa xét lại và bọn phản động, chúng
ta phải bắt tay vào diệt chuột thôi.” Nói đoạn, cậu ta đột nhiên vớ lấy khẩu
súng săn, cầm ngược đầu, vung báng súng đập xuống một con chuột đang lấp ló nấp
trong hang thò đầu ra nhìn trộm chúng tôi.
Con “giặc mắt to” ấy bị
mùi thơm của canh cá và thịt chuột nướng khiêu khích cho đứng ngồi không yên,
cứ lấp la lấp ló cái đầu bên trong hang chuột, định tìm cơ hội chui ra vụng một
ít thịt cá, thoáng thấy có người vung gậy đập xuống, vội vàng rụt vào bên trong
né tránh. Tuyền béo vừa ăn no xong, cũng muốn tìm cơ hội vận động cho tiêu bớt
nên cú này vận sức rất mạnh, báng súng đập thẳng xuống đất, không ngờ không đập
trúng con “giặc mắt to”, lại khiến tầng đất bên trên sụt một khoảng lớn. Vỏ đất
ở đây rất giòn, bên dưới lại có hang động, vừa đập một cái đã thụt luôn xuống.
Khu rừng này sở dĩ được
gọi là động Bách Nhãn, có lẽ vì bên dưới có rất nhiều hang động hoặc hố sâu,
nhưng nhiều năm nay hoàn cảnh tự nhiên và thủy thổ thay đổi, khiến lá cây, cỏ
dại phủ kín những hang động này, hình thành nên một tầng vỏ đất, vì vậy đến giờ
rất khó có thể trực tiếp tìm thấy hang động, hố sâu nào. Tầng vỏ đất này lại bị
bọn chuột chuyên đào đất bắt giun ăn khoét cho thủng hàng trăm lỗ, bởi thế
Tuyền béo mới chỉ dùng báng súng đập cho một cái đã sụt xuống luôn, cũng không
có gì là lạ cả.
Lúc bấy giờ chúng tôi
đều không ngờ lại xảy ra chuyện như thế, trong lùm cỏ đột nhiên sụt xuống một
mảng đất lớn, quả thực là hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của mọi người. Điều khiến
chúng tôi ngạc nhiên hơn nữa là, bên trong cái hang lớn vừa lộ ra ấy lại chen
nhung nhúc những chuột là chuột, Tuyền béo giơ tay lên chỉ: “Ôi cha chả, bà nội
bà ngoại của con ơi, sao mà lắm chuột to thế này?”
Tôi nhìn theo hướng
ngón tay cậu ta, cũng lập tức rùng mình chấn động, sởn hết cả gai ốc lên. Trong
cái hang toàn là rễ cây với bùn nhão ấy, không ngờ lại có một ngọn “núi chuột”
to đùng ngã ngửa, vô số con “giặc mắt to” chen chúc lại một chỗ, đè chồng lên
nhau, ít nhất cũng phải cao hơn một người bình thường, vả lại không chỉ có
“giặc mắt to”, trong lũ chuột đang chen chúc ấy còn có chuột xám, chuột chó
thảo nguyên, và cả rất nhiều con chuột hoang không thể nhận ra thuộc chủng loại
nào, chút cha chút chít kêu ầm cả lên. Cái hang chuột này thực sự lớn quá sức
tưởng tượng. Bị hang động sụt xuống làm kinh hoảng, đàn chuột như dòng nước lũ
vỡ đê trào ra. Vì số lượng quá nhiều, nên đống lửa chúng tôi đốt lên kia cũng
bị chúng dập tắt trong tức thì. Tôi, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm vội vàng vung
đao, vung gậy xua đuổi vô số con chuột lớn đang xông tới bên cạnh mình. Lũ
chuột bị người xua đập lại càng hỗn loạn hơn, vừa chút cha chút chít vừa chạy
tỏa đi khắp các hướng trong rừng. Một trong các loài thiên địch của chuột hoang
chính là du diên, mà ban đêm lại vừa khéo là thời gian du diên đi săn mồi. Bị
lũ chuột thu hút, chỉ thấy giữa các khe đá, trong lùm cỏ rậm, trong các bụi cây
bỗng xuất hiện mấy con du diên lớn màu vàng xanh, xông thẳng vào giữa bầy chuột
đang tháo chạy ra sức ăn uống.
Khu rừng vốn tĩnh lặng
như cõi chết bỗng nhiên loạn hết cả lên, đang lúc hỗn loạn lại gặp phải bao
nhiêu là thiên địch, nhất thời bọn chuột hoang ấy cũng không biết phải chạy lối
nào, hết sang bên này rồi lại sang bên kia, vòng một vòng lớn trong rừng, nhưng
bốn phương tám hướng đều có lũ du diên ẩn hiện. Dân du mục trên thảo nguyên chỉ
thường thấy những con du diên dài khoảng hai chục xăng ti mét, con nào dài đến
gần một mét đã là vô cùng hiếm thấy. Nhưng ở đây, chúng tôi phát hiện xung
quanh còn có những con du diên đốm hoa dài đến hơn hai mét. Độc tính của những
con này thậm chí còn mạnh hơn rắn độc, nếu lúc này mà chúng tôi cũng chạy loạn
lên ra bên ngoài theo lũ chuột thì chắc chắn sẽ bị bộ hàm đầy chất độc của lũ
du diên cắn phải. Bị cắn rồi là hết cứu, vì căn bản không kịp làm gì thì đã độc
phát thân vong mất rồi.
Thảm trạng của con ngựa
màu mận lúc bị du diên cắn chết, nhớ lại quả thực khiến người ta lạnh hết cả
xương sống. Nếu lúc này vẫn còn mấy con ngựa, chúng tôi may ra vẫn có thể đánh
liều một phen, mạo hiểm cưỡi ngựa xông ra ngoài. Nhưng bên cạnh chỉ còn mỗi một
con ngựa già, giờ cũng đang kinh hoảng tột độ, dây cương của nó bị buộc chặt
vào cành cây, giật mãi không dứt ra được, trong lúc hỗn loạn, chỉ đành không
ngừng tung vó lên đá bay những con chuột và cả du diên lại gần nó ra xa.
Tôi nhặt cái đèn dầu
dưới đất lên, gọi Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đỡ lão Dương Bì đang hôn mê bất
tỉnh chạy vào trong hang chuột vừa lộ ra vì sụt một mảng đất lớn. Lúc này hầu
hết đàn chuột đã chạy ra khỏi cái hang lớn ấy, so với khu rừng đang loạn xà
ngầu những tiếng chí chóe cắn giết lẫn nhau, chỉ có cái hang vừa hôi vừa bẩn
này là chỗ để náu thân duy nhất. Tuyền béo và Đinh Tư Điềm lập tức hiểu ý tôi,
hai người vừa đỡ vừa kéo, lôi lão Dương Bì đang trương bụng to như cái trống
vào trong hang. Tôi vung thanh bảo đao Khang Hy lên, chém một đao đứt lìa sợi
dây cương buộc con ngựa già. Con ngựa được tự do, liền hí dài một tiếng, nhưng
không lập tức xông ra khỏi vòng vây, mà cứ quanh quanh bên hang chuột, không
chịu bỏ lại chủ nhân. Tôi vội vung đao chỉ ra phía bên ngoài khu rừng hét lớn:
“Tự mày chạy đi.”
Con ngựa già ấy như có
linh tính thật, phỏng chừng đã nhận ra với độ cao của nó khó lòng chui vào hang
chuột được, lại thấy các chủ nhân đều đã vào trong tránh nạn, nó hí lên một
tiếng, quay người xông ra phía bên ngoài khu rừng. Tôi thấy con ngựa chạy đi,
liên lập tức chui vào hang chuột, một mùi hôi tanh khó tả tức thì xộc vào lỗ
mũi, tôi vội vàng đưa ống tay áo lên bịt chặt miệng lại.
Bên trong hang chuột
rất sâu, hai bên ẩm thấp và rất chật hẹp, không ngờ lại giống như một đường hầm
ngầm do con người xây dựng, giơ đèn lên soi vào, bên trong sâu hun hút tối om
om chẳng nhìn thấy gì cả, trong hang vẫn còn một vài con chuột to tướng chưa
chạy hết, chốc chốc lại loạt soạt bò qua dưới chân chúng tôi. Bên tai nghe
tiếng du diên bò sồn sột và tiếng kêu bi thảm của lũ chuột đã lan đến gần cửa
hang, tôi thầm nhủ lần này thì coi như đã vào động Bách Nhãn thật rồi, giờ có
muốn không vào cũng không xong. Vậy là tôi không dám chậm trễ, vội vàng giơ mũi
đao chỉ vào bên trong hang động, nói với Tuyền béo và Đinh Tư Điềm: “Chiến
thuật du kích mới là phép mầu giành phần thắng của quân ta, chúng ta cần phải
tìm lấy cơ hội chuyển bại thành thắng trong lúc rút lui, giờ lùi vào bên trong
trước đã, cẩn thận dưới chân đấy nhé.” Năm đó, ba người trẻ tuổi chúng tôi, ôm
đầy một bụng dũng khí sục sôi, mạo hiểm xông vào khu cấm, mới đầu cùng lắm cũng
chỉ có chút căng thẳng bất an, ngoài ra cũng chẳng nghĩ ngợi gì nhiều. Nhưng
bấy giờ, chúng tôi không ai có thể ngờ được, ở cuối cái hang chuột đó, là một
cơn ác mộng khủng khiếp đang chờ đợi chúng tôi.
Chương 19: Tranh khắc
rồng
Chúng tôi lao vào hang
chuột khổng lồ, giơ đèn lên soi chỉ thấy bốn phía xung quanh mình đều là gạch
cổ, viên gạch rất lớn, hình dáng như phiến đá, ngay cả mái vòm trên đỉnh đầu
cũng bằng gạch cổ, có điều đường hầm lát gạch cổ này xây rất giản dị, nhiều chỗ
đá bị sụt lún hủy hoại. Vì thời gian, cộng với các hang hốc ngóc ngách của lũ
chuột hoang cùng rễ cây bên trên đầm xuống, chỉ riêng đoạn đường hầm trước mắt
chúng tôi thôi đã có trăm ngàn lỗ nhỏ, hoàn toàn không giống một đường hầm do
con người kiến tạo. Trong bóng tối và hoảng loạn, chúng tôi cũng không thể nào
phân biệt rõ xem rốt cuộc mình đang ở đâu nữa.
Trong đám rễ cây và bùn
đất trên đỉnh đầu, có vô số sâu bọ và những búi trứng sâu trắng toát, chắc là
vừa nãy bọn chuột chồng chất nhau lên là để ăn trứng sâu này đây. Lũ du diên
kia tuy hung mãnh lại có chất độc, nhưng không giỏi đào đất, thể hình lại quá
lớn để chui vào hang chuột. Nhưng lúc này cái hang lớn mà lũ chuột chiếm cứ đã
bị sụt ra một lỗ lớn, nên lũ du diên lớn nhỏ đều ào ào túa ra lùng bắt bọn
chuột hoang đang chạy tán loạn.
Để tránh bọn du diên
hung hãn ấy, chúng tôi đành phải dần lùi sâu vào trong đường hầm thần bí này,
khó khăn nhất là lão Dương Bì vẫn đang no trướng cả bụng lên, thần trí hoàn
toàn mất hết, Tuyền béo muốn cõng cũng không không thể nào cõng nổi, đành phải
cùng Đinh Tư Điềm kéo lê hai cánh tay ông già. Chẳng những thế, vật dụng chiếu
sáng chỉ có mỗi ngọn đèn dầu cũ kỹ mờ mịt tôi đang cầm, căn bản chẳng thể nào
chiếu xa quá năm bảy bước, vừa phải lần mò tiến lên, lại vừa phải dùng chân đá
văng những con chuột dưới đất, bảo là chạy sâu vào bên trong đường hầm cũng
không chính xác lắm, phải nói là “lết” vào bên trong mới đúng.
Vừa đi được vài bước,
liền nghe lũ chuột phía sau lại nháo lên một chặp, nghĩ hẳn là đã có du diên chui
vào đường hầm này rồi, tôi vội đưa mắt nhìn quanh, thấy phía trước có mấy phiến
gạch cổ đã bị rễ cây chen xuống làm lỏng hết cả ra rồi, chỉ cần thêm một chút
ngoại lực vào, đoạn đường hầm này chắc chắn sẽ sập xuống chứ chẳng nghi. Việc
đã đến nước này chỉ còn cách xuất chiêu mạo hiểm, nếu bị chôn sống ở đây thì
cũng đành chịu vậy thôi. Thế là tôi vội giục Tuyền béo và Đinh Tư Điềm kéo lão
Dương Bì đi nhanh lên, càng nhanh càng tốt, cứ mặc kệ động tĩnh phía sau, rồi
tra thanh bảo đao Khang Hy vào vỏ, chĩa chuôi đao lên nhè mấy viên gạch trên
đỉnh đầu mà vừa cậy vừa gõ.
Vừa nạy được hai viên
gạch xuống, bùn đất và đá vụn bên trên liền rơi xuống rào rào, tôi không dám ở
lại lâu, vội vàng nhảy ra xa. Bỗng nghe “ầm ầm” một tiếng, ngay sau đó nóc
đường hầm đã sập xuống, đè chết vô số chuột lớn chuột nhỏ bên dưới. Bọn du diên
kia tạm thời không vượt qua đây được rồi, tôi đưa tay quẹt mồ hôi trên trán,
rồi xoay nguời đuổi theo bọn Tuyền béo đã đi trước được một quãng.
Tuyền béo thấy phía sau
có tiếng đất đá rào rào, liền hỏi tôi có phải đã chọc cho sập đường hầm rồi
không. Tôi nói, đường quay lại coi như bị cắt đứt rồi, chỉ có thể hy vọng ở đầu
bên kia có lối ra khác thôi. Trước tình cảnh ấy, ba người chúng tôi ít nhiều gì
cũng hơi rối loạn, đường hầm này tối tăm mù mịt lại chẳng thấy tận cùng đâu,
cũng chẳng rõ có lối ra nào khác hay không. Tuy rằng nơi này có rất nhiều “giặc
mắt to” chạy ra chạy vào, nhưng cửa hang bọn “giặc mắt to” chui ra được, thì
chúng tôi lại không chui ra được. Phải như bị chôn sống trong cái động chuột
hôi thối bẩn thỉu này, thì thật cũng không khỏi chết quá uất ức rồi.
Ông nội tôi thời trước
xem phong thủy mưu sinh, từng quen biết một vài nghệ nhân hành nghề đổ đấu trộm
mộ. Tôi có nghe ông kể, nghề trộm mộ là cái nghề qua lại giữa hai giới Âm
Dương, phàm đã làm nghề này đều là kẻ gan góc cùng mình, nhưng cũng có những sự
việc khiến cho họ cực kỳ khiếp sợ, mà sợ nhất chính là bị chôn sống dưới lòng
đất, đó là cái chết bi thảm nhất.
Có điều, trong những
người làm nghề đổ đấu ấy, có Mô Kim hiệu úy rất giỏi xem tướng đất, có thể
“ngoài nhìn hình núi, trong xét mạch đất”, dù là trên mặt đất hay dưới lòng
đất, đều có thể phán đoán ra địa hình địa mạch. Trong mắt của Mô Kim hiệu úy,
vũ trụ có cửa lớn đóng mở, núi sông có tính có tình, họ coi núi sông như một
tồn tại có sinh mạng, “núi là cơ thể, đá là xương cốt, rừng là áo quần, cỏ cây
là lông tóc, nước là huyết mạch, sương khói là thần thái, mây mù là khí sắc”,
chỉ cần nắm được mệnh mạch của núi sông, thì cũng nhất định có thể tìm thấy
“sinh môn” nơi tuyệt cảnh.
Thời đó tôi vẫn chưa
hiểu được những bí thuật phong thủy thâm ảo ấy, chỉ nhớ ông nội đại khái từng
nói như thế, trong lòng không khỏi thầm ngưỡng mộ Mô Kim hiệu úy. Chuyện trong
thiên hạ phúc họa khổ lường, hung cát nan phân, nếu có Mô Kim hiệu úy ở đây,
liệu họ có biết được con đường hầm tối đen như mực này thông đến đâu không nhỉ?
Thậm chí tôi còn có cảm giác, đường hầm lát gạch cổ này rất giống “mộ đạo”
trong các câu chuyện về giặc trộm mộ, không chừng ở tận cùng con đường này, sẽ
có một cỗ quan tài lớn cũng nên.
Tôi vừa nghĩ ngợi lung
tung vừa thay cho Đinh Tư Điềm, cùng với Tuyền béo đỡ lão Dương Bì. Đinh Tư
Điềm cầm súng săn, giơ đèn dầu soi đường cho cả bọn, ba người lần mò chầm chậm
tiến lên phía trước, tôi tình cờ nói ý nghĩ vừa hiện lên trong đầu ấy ra với
họ. Đinh Tư Điềm ngạc nhên nói: “Hồi trước tham gia hoạt động ‘nối liền’, cũng
có nghe bạn kể chuyện phong thủy trộm mộ, lẽ nào tổ tiên nhà bạn làm nghề này
thật?”
Không đợi tôi trả lời.
Tuyền béo đã lên tiếng đáp thay: “Ông nội cậu Nhất này là đại địa chủ sau khi
bị quần chúng cách mạng phát hiện, đã bị phê đấu phê điếc rồi giẫm đạp be bét
nhừ tử ra rồi, lại còn chụp cho cậu ta cái mũ con hiền cháu thảo của giai cấp
địa chủ, bằng không thì sao cậu ta lại không vào bộ đội chứ. Nhà tớ thì vừa
khéo hoàn toàn trái ngược, thực ra tổ tiên nhà tớ đều là dân quê chân đất đi ăn
xin ăn mày, nghèo như vậy lại còn không đủ vinh quang rồi chắc? Nhưng ông già
tớ lại có vấn đề lịch sử vẫn chưa làm rõ ràng, đến giờ vẫn chưa xét minh bạch
được là phản đối lịch sử hay phản đối hiện tại, kết quả là tớ cũng bị chụp cho
cái mũ, là mầm mống của chủ nghĩa xét lại, mới chuyên thôi chứ chưa hồng, thế
nên cũng không được vào bộ đội. Bạn nói xem, tớ đây một trái tim hồng sáng
trong thế này, lẽ nào lại còn không rõ như ban ngày hay sao? Tiên sư cha bố, tớ
đây có chọc vào ai đâu chứ?”
Lời của Tuyền béo chọc
đúng vào chỗ đau chung, ba chúng tôi đều thần sắc ảm đạm. Tôi thầm nhủ, mấy
chuyện chó chết này thì có gì hay ho mà nhắc lại chứ, nói càng nhiều càng khó
chịu, phải mau chóng lảng sang chuyện khác mới được, vậy là bèn nói với Tuyền
béo và Đinh Tư Điềm: “Ông nội tôi đúng là có mấy mẫu ruộng bạc màu, nhưng cũng
đâu phải địa chủ địa chiếc gì. Mà ông cũng không làm nghề trộm mộ, chẳng qua
chỉ quen biết với một số cao thủ đổ đấu, lại tận mắt trông thấy ‘bánh tông bự’
rồi mà thôi.” Tôi e hai người không hiểu tiếng lóng trong nghề, lại giải thích
đổ đấu tức là trộm mộ, bánh tông là thi thể bên trong mộ phần. Nghe ông tôi
bảo, thường thường vẫn nói trên đời có ba trăm sáu mươi nghề, nghề nào cũng có
Trạng nguyên, nhưng thực ra các ngành nghề truyền thống có thể tự thành một hệ
thống của Trung Quốc, tổng cộng chỉ có bảy mươi hai nghề, mỗi nghề đều có lai
lịch truyền thừa và tổ sư gia, chẳng hạn như: đồ tể, thợ may, thợ mộc, trộm mộ,
cướp đường..., trong đó nghề nào là lợi hại nhất có biết không? Có câu rất
chuẩn rằng: “bảy mươi hai nghề, trộm mộ đứng đầu”, vì những tri thức, kỹ thuật,
gan dạ, tay nghề mà nghề trộm mộ cần phải có, cùng với sự nguy hiểm cũng như
hồi báo, đều vượt trên bảy mươi mốt nghề còn lại rất nhiều. Chẳng những vậy,
người đời cũng công nhận “đổ đấu trộm mộ, Mô Kim đứng đầu”, vì vậy Mô Kim hiệu
úy mới là vua trong các vua ngành nghề truyền thống Trung Quốc.
Tuyền béo chẳng hiểu gì
nhưng lại cố giả vờ hiểu: “Ồ, nói vòng vo mãi thì ra cậu cảm thấy chúng ta đang
đi vào trong một cái mộ cổ chứ gì? Thực ra tôi thấy trộm mộ cũng chẳng có gì
đáng sợ, mộ cổ không phải là chỗ chôn người chết thôi sao, toàn là đám đế vương
khanh tướng tài tử giai nhân của xã hội phong kiến, chẳng phải là đã bị đánh đổ
hết rồi à?”
Đinh Tư Điềm cũng nói:
“Đúng thế, các cuộc khởi nghĩa nông dân thời xưa, toàn là đến đào lăng tẩm của
đế vương lên trước, điều này cũng thể hiện tinh thần vô úy và sự khinh miệt của
giai cấp nông dân với vương quyền phong kiến, và khí khái quyết tâm thề không
đội chung trời với giai cấp thống trị.” Có điều, tuy ngoài miệng Đinh Tư Điềm
nói thế, nhưng dù sao cô cũng là con gái, dẫu có tham gia Hồng vệ binh, nhưng
chung quy cũng không thể gan lớn tày trời như tôi và Tuyền béo được. Bởi thế,
cô vẫn chưa thể khắc phục được tâm lý sợ hãi đối với mộ cổ, lại hỏi tôi xem
trong những ngôi mộ cổ thì thường có gì?
Lúc mới vào địa đạo này
tôi cũng có hơi hoảng, nhưng đi được một đoạn, thì đã dần dần thích ứng với
hoàn cảnh bức bối, tối tăm trong đường hầm, lòng can đảm cũng tăng lên nhiều,
thấy Đinh Tư Điềm hỏi trong mộ thường có gì, liền nửa đùa nửa thật đáp: “Chắc
là giống trong hoàng cung ấy, có rất nhiều tượng điêu khắc, vòi phun nước gì gì
đó.” Nói đoạn, lại sực nhớ đến chuyện gặp ma trong ngôi cổ mộ ở sâu trong núi
Đại Hưng An Lĩnh, vậy là bèn thêm mắm dặm muối vào cho hai người kia tưởng
tượng: “Những điêu khắc ấy toàn là hình các cô gái thời xưa, không những xinh
đẹp yểu điệu, mà còn toàn hở mông không mặc quần áo gì, đều khắc từ đá Đại Lý
hết, tớ đây tận mắt trông thấy rồi.”
Tuyền béo và Đinh Tư
Điềm hoàn toàn không hiểu mấy chuyện này, cũng không biết tôi nói thật hay bốc
phét, cứ mắt tròn mắt dẹt không nói được gì, tôi lại tiếp tục tán thêm: “Bây
giờ phải xác định kỷ luật rõ ràng thôi, lát nữa ngộ nhỡ không may đúng là đã
lạc vào mộ cổ thì chúng ta không thể hành sự bừa bãi theo cảm tính, cho dù trộm
mộ cũng không được hủy hoại các di tích văn vật, nổ súng vung đao cũng không
được nhằm vào các tượng lõa thể trên tường, đặc biệt là cậu đấy Tuyền béo,
tuyệt đối không được tùy tiện sờ lung tung lên những bức tượng cung nữ lõa thể
bằng đá Đại Lý đâu đấy, toàn là bánh tông để bẫy giai cấp vô sản chúng ta cả
đó.”
Tôi nói bằng giọng cực
kỳ trịnh trọng, dọa cho Tuyền béo sợ lắp ba lắp bắp: “Thề có Mao chủ tịch, tôi
tuyệt đối không sờ, được rồi, chúng ta chỉ nhìn chứ không sờ, đứa nào sờ là con
đứa kia... à, không đúng, chúng ta cũng là giai cấp vô sản, tại sao chúng ta
lại không được sờ chứ?”
Lúc này Đinh Tư Điềm
chợt lên tiếng xen vào: “Đồng chí Lenin, bạn chắc chắn cái hang toàn chuột là
chuột này là một ngôi mộ cổ chứ?” Tôi nhún vai đáp lời: “Thực ra mình cũng
không rõ, vừa nãy sợ mọi người căng thẳng nên mới nói linh tinh mấy câu cho yên
tâm thôi, nói trắng ra, mình thấy chỗ này vừa có thể là mộ cổ lại vừa có khả
năng không phải là mộ cổ. Đây rốt cuộc là nơi nào thì chỉ có trời mới hiểu, có
quỷ ma mới biết.”
Tuyền béo tức tối
nghiến răng kèn kẹt: “Thì ra lúc nãy cậu toàn nói nhăng nói cuội thôi hả, cái
gì mà vừa có khả năng là, lại vừa có thể không phải hả?” Trong lúc nói chuyện,
chúng tôi đã bất giác đi tới cuối con đường hầm, chỗ này đã không còn những
viên gạch lớn cổ phác, nứt vỡ toang toác ra nữa, mà là một hang động thiên
nhiên hình vòm. Hang động này cũng không lớn lắm, chỉ khoảng hơn trăm mét
vuông, vòng xung quanh là những cửa địa đạo, quy mô hình dáng đều tương đồng
với đường hầm chúng tôi vừa chui vào. Người đứng ở đây, căn bản không thể phân
biệt được phương hướng Đông Tây Nam Bắc.
Tôi và Tuyền béo đỡ lão
Dương Bì đi một lúc lâu, cánh tay đã hơi tê mỏi, phát hiện ra nơi này không ngờ
lại có rất nhiều lối rẽ, nhất thời cũng không biết phải tính sao, vậy là bèn
đặt ông lão xuống trước. Lão Dương Bì đang mê man, miệng vẫn lắp bắp nói nhảm,
tựa hồ như đang tiếc thương cho lù bò lũ ngựa. Một phen chạy loạn vừa nãy, có
thể cũng giúp ông tiêu đi phần nào thức ăn trong bụng rồi.
Đinh Tư Điềm lo lắng
giơ đèn lên quan sát, rầu rầu nói: “Thế này thì như là vào mê cung dưới đất rồi
còn gì, có phải chúng ta đã vào trung tâm của mê cung rồi không, tại sao mọi
đường hầm đều thông tới đây thế?”
Tôi xoa xoa cánh tay tê
rần đảo mắt quan sát tứ bề xung quanh, cũng không biết đây là nơi nào, nhưng
chắc chắn không phải mộ cổ, mà cũng không phải mê cung dưới lòng đất gì. Các
đường hầm xung quanh hang động này tỏa ra khắp phía, tôi đã đếm thử, tổng cộng
có chẵn mười cái, không hơn không kém. Càng quan sát, chúng tôi lại càng thấy
bố cục của hang động này kỳ quái lạ thường, giữa hang có một tấm bình phong
thiên nhiên bằng đá xanh, trông như một bức tường đá. Trong khoảng đất xung
quanh tấm bình phong đá ấy, có chôn rất nhiều tảng đá lớn, hình dạng khác nhau,
kích cỡ cũng bất đồng, chôn bừa bãi không theo quy luật gì hết, khiến chúng tôi
chẳng thể nào nhìn ra được điều thâm ảo bên trong.
Tuyền béo vừa nhìn một
cái đã nói ở đây chôn đá Đại Lý đấy à? Không phải nói có tượng đàn bà con gái
bằng đá sao? Sao lại khắc thành hình củ khoai tây hết thế này? Tôi không thèm
để ý đến lời của cậu ta, trong lòng không ngừng thắc mắc, kẻ nào ăn no rỗi hơi
lại chôn nhiều đá tảng ở trong cái hang này làm gì nhỉ?
Tôi còn chưa hết ngạc
nhiên, thì Đinh Tư Điềm đã không nén được sự tò mò, giơ đèn dầu bước lại gần
bức tường đá trơn nhẵn quan sát thử, phát hiện ra trên tấm bình phong bằng đá
xanh thiên nhiên ấy có khắc rất nhiều đồ án. Đây có vẻ như là một tấm bia đá
được chôn một nửa dưới đất, vậy là cô vội vàng gọi tôi và Tuyền béo lại gần xem
xét.
Trên mặt đá trơn nhẵn
không có chữ nghĩa gì, nhưng hai mặt đều khắc những hình vẽ rất tinh tế, đã bị
bong tróc hư tổn khá nhiều, màu sắc vốn có cũng mờ tịt đến độ gần như không còn
gì. Có điều, tình trạng đó cũng không ảnh hưởng gì đến việc quan sát hình vẽ
khắc trên mặt đá, chỉ hiềm là nội dung những hình vẽ này thể hiện thật quá đỗi
kỳ lạ dị thường, khiến người ta khó thể nào tin nổi. Tôi chỉ liếc nhìn mấy cái,
đã có cảm giác hơi thở mình trở nên nặng nhọc khó chịu.
Một mặt khắc hình đồi
núi trập trùng, thung lũng ở giữa là rừng cây rậm rạp, nhìn đặc điểm địa hình
ấy, hình như chính là khu vực động Bách Nhãn chúng tôi đang đứng đây. Xung
quanh khu đồi núi vẽ một cái bóng đen hình rồng, trông như thể một con rồng đen
nhe nanh múa vuốt nuốt lấy người và súc vật quanh đấy. Nghĩ đến đàn bò và lũ
chim nhạn không dưng mất tích, chúng tôi đều biêt nội dung khắc trên phiến đá
này không phải là giả, chẳng qua là, có lẽ người xưa khi điêu khắc nên bức
tranh này cũng chỉ biết vùng quanh đây có người và súc vật mất tích một cách
thần bí, mà không hiểu được điều bí ẩn bên trong, thành thử đã hư cấu thành một
bóng đen hình rồng ẩn hiện trên bầu không như vậy.
Lúc trên thảo nguyên,
chúng tôi thấy bầy nhạn biến mất trong tầng mây, sau đó liền cảm thấy hai tai ù
ù đau nhức, nếu không phải mấy con ngựa cảnh giác, sợ rằng giờ đây mười phần
đến tám chín là đã bị cái bóng hình rồng trong tranh ấy nuốt mất rồi. Nhưng lúc
ấy bốn người tám con mắt, rõ ràng đều thấy trên thảo nguyên thoáng đãng mênh
mông chẳng có gì cả, tại sao mắt thường lại không thấy nó chứ? Cái bóng hình
con rồng này rốt cuộc đại biểu cho bí mật gì? Lẽ nào là vong linh của một con
rồng thời cổ tác yêu tác quái? Người xưa để lại ám thị thần bí thế này, hậu
nhân chúng tôi thật khó mà nắm bắt được chân tướng.
Tuyền béo nhìn kiểu
cưỡi ngựa xem hoa, chẳng hề cảm thấy những hình khắc cổ xưa trên bức vách đá
này có gì đặc biệt, tùy tiện liếc mấy cái rồi lấy trong túi ra một điếu thuốc
hiệu Tân Công nhăn nhúm, ngồi xuống bên cạnh lão Dương Bì nghỉ ngơi hút thuốc.
Đinh Tư Điềm còn tò mò
hơn cả tôi, nhìn những hình vẽ thần bí trên bức vách, trong lòng cô chỉ toàn
nghi vấn, liền hỏi tôi có suy nghĩ gì? Tôi nói, đầu tiên tôi không tin trên đời
này có rồng cho lắm, tuy thời xưa có rất nhiều sự kiện nhìn thấy rồng, nhưng
đại bộ phận toàn chỉ là những chuyện bịa đặt nói không thành có. Thời tôi học
cấp II, còn nhớ có lần đã xảy ra vụ chấn động suốt một thời gian dài, nghe đồn
dân trong núi đào giếng, đào được một con rồng đang thoi thóp. Lúc ấy có rất
nhiều người vác dao vác kiếm đến cắt thịt rồng, lại còn có lời kể rằng, cắt
thịt rồng cũng được, mang về nhà ăn cũng được, nhưng lúc cắt thì tuyệt không
được nhắc đến chữ “rồng”, hễ nhắc đến chữ “rồng”, trên trời lập tức sẽ có mây
mù sấm chớp, kẻ nào lỡ lời ắt sẽ bị sét đánh chết ngay tại chỗ. Lại còn nghe
đâu rằng, những người tuổi rắn tuổi rồng đều không được đến xem, tóm lại là
chuyện gì cũng có hết. Về sau thì chân tướng được chứng thực, cái gọi là rồng
ấy, chẳng qua chỉ là một con trăn lớn bị thương lúc người dân kia đào giếng mà
thôi.
Vách đá lớn có khắc
hình rồng này không hiểu là di tích từ triều nào đại nào thời xa xưa, xem ra
truyền thuyết về yêu long ăn thịt người và gia súc ở vùng phụ cận động Bách
Nhãn này của dân du mục tuyệt đối không phải là vô căn vô cứ, chó đâu có sủa
chỗ không người. Chỉ là, tôi cảm thấy đó rất có khả năng là một hiện tượng tự
nhiên cực kỳ hiếm gặp, thời bấy giờ vẫn chưa được người đời hiểu hết ngọn
ngành. Nhưng rốt cuộc là lực lượng gì mới có thể làm cho sinh linh tan biến đi
trong vô hình vô ảnh như vậy? Dựa vào tôi và Đinh Tư Điềm, làm sao có thể tham
thấu được huyền cơ trong đó, phân tích bừa bậy mấy câu đều thấy chẳng hợp lý gì
cả, vậy là đành bỏ đấy.
Đinh Tư Điềm đi sang
phía bên kia bức tường, quan sát hình khắc trên đó. Nghi vấn trong đầu mỗi lúc
một lớn hơn, tôi không đi theo cô ấy sang ngay, mà quay lại chỗ Tuyền béo xin
điếu thuốc. Loại thuốc Tân Công rẻ tiền này là do bọn tôi đem con Hoàng tiên cô
bắt được đi đổi lấy, chất lượng cực kém, mà lại còn nặng, rất dễ sặc. Đã vậy, chúng
tôi lại tiếc rẻ không nỡ hút luôn, còn trộn thêm một nửa lá khô vào sợi thuốc,
một điếu xẻ thành hai, hút một hơi liền cảm thấy thần hồn điên đảo, như thể vừa
rơi vào giữa bãi sương mù rộng năm dặm vậy.
Tôi rít hai hơi thuốc,
cảm thấy đầu óc tỉnh táo hơn nhiều, bèn đi tới bên cạnh Đinh Tư Điềm, cùng cô
quan sát hình khắc ở mặt bên kia tấm bình phong đá, hy vọng là có nội dung gì
đấy hữu dụng một chút. Nhưng vừa đứng vững, mới ngước nhìn lên một cái, điếu
thuốc trộn lá cây trên tay tôi liền suýt chút nữa rơi xuống đất. Phía bên này,
không ngờ lại có hình khắc của Hoàng tiên cô!
Chương 20: Dẫn Hồn Kê
Thông đạo ngầm dưới
lòng đất bị vô số chuột hoang chiếm lĩnh này, nối liền với một huyệt động giống
như một gian đại sảnh ngầm, bên trong chôn rất nhiều tảng đá lớn, xung quanh
còn có rất nhiều thông đạo tương tự nhau, tôi có nằm mơ cũng không thể nào ngờ
được, trên bức tường đá ở huyệt động này, lại khắc hình Hoàng tiên cô giống hệt
như trong miếu thờ hoàng bì tử kia.
Chúng tôi đã chú ý đến
hình khắc ở mặt bên này ngay từ lúc mới phát hiện ra tấm bình phong thiên nhiên
bằng đá xanh, có điều niên đại của những nét khắc này đã quá lâu, bị bong tróc
lu mờ đi rất nhiều, nếu không lấy tay áo lau sạch bụi đất bám bên trên thì thật
khó lòng mà nhận ra được.
Tôi đứng ngay sát phía
trước bức bình phong đá ấy, mượn ánh đèn mờ mờ u ám, vừa ngước lên một cái đã
chú ý ngay đến gương mặt chồn lông vàng kỳ dị tà ác kia. Hình vẽ thân thể đàn
bà, đầu hoàng bì tử này, khiến người ta thoạt nhìn liền dâng lên một thứ cảm
giác khó chịu đè nén. Vì quá bất ngờ, suýt chút nữa tôi đánh rơi điếu thuốc
trên tay xuống đất, vội vàng bấm ngón tay giữ chặt đầu mẩu thuốc, đưa lên miệng
rít mạnh một hơi, hòng làm cho tâm trạng kinh ngạc pha bất ngờ của mình từ từ
bình ổn lại.
Sợi thuốc lá pha lẫn
với lá cây khô, rít vào một hơi rồi phả khói ra, hệt như ống bễ lúc vừa đốt lò
than, làm Đinh Tư Điềm đứng bên cạnh ho sù sụ. Cô vung tay xua khói thuốc: “Lẽ
nào bạn không thể hút bớt đi một chút à? Trẻ như vậy đã nghiện thuốc lá, sau
này hối tiếc thì cũng quá muộn màng rồi.” Tôi cảm thấy Đinh Tư Điềm khắp người
toàn là ưu điểm, duy chỉ có một khuyết điểm nhỏ, ấy chính là cô không thể chấp
nhận người khác hút thuốc. Năm đó, khi thấy tôi và Tuyền béo hút thuốc, cô suốt
ngày kể đi kể lại chuyện đồng chí Lenin cai thuốc thế nào. Thời trẻ, đồng chí
Lenin rất khó khăn, vả lại còn nghiện thuốc lá nặng nữa, có lần mẹ Lenin nói:
“Vladimir Ilych thân mến, lẽ nào con không thể hút bớt đi một chút sao?” Quả
không hổ danh là mẹ của vĩ nhân, lời nói ra cũng khác hẳn người thường, bà
không trực tiếp bảo, con có thể không hút thuốc nữa được không? Mà chỉ nói, có
thể hút bớt đi một chút được không? Thật đúng là một lời triết ngôn vĩ đại, vừa
dịu dàng lương thiện, lại vừa biểu thị mình luôn ủng hộ đối phương, không hổ là
phụ nữ trong phụ nữ. Sau khi nghe câu nói đầy tình cảm sâu đậm ấy của mẹ, đồng
chí Lenin không bao giờ hút thuốc nữa.
Lúc này Đinh Tư Điềm
lại lôi chuyện ấy ra, khuyên tôi nên noi gương theo bậc vĩ nhân mà cai thuốc
đi. Nhưng tâm tư của tôi đều để cả lên bức họa Hoàng tiên cô kia rồi, căn bản
chẳng hề để ý đến lời cô nói, hai mắt cứ nhìn dính chằm chằm vào hình khắc trên
tường đá, lẩm bẩm nửa tự giễu mình, nửa trả lời Đinh Tư Điềm một cách ứng phó:
“Ừm... không phải chỉ là cai thuốc lá thôi sao? Mình cảm thấy cai thuốc chẳng
khó khăn gì cả, khoảng nửa năm nay mình đã cai hơn trăm lần rồi...”
Đinh Tư Điềm thấy tôi
trả lời lơ đễnh, mà chỉ tập trung toàn bộ tinh thần vào bức tường đá, bèn cũng
nhìn theo ánh mắt tôi. Hình khắc trên bức tường cực kỳ phức tạp lằng nhằng,
hình tượng tà ác yêu dị của Hoàng tiên cô chỉ là một nhân vật trong số đó. Đinh
Tư Điềm nhìn rõ gương mặt chồn lông vàng đáng ghét ấy, cũng giật thót mình, vội
đưa tay lên bịt miệng, suýt chút nữa thì kêu lên thành tiếng.
Người đàn bà đầu chồn
lông vàng ấy, hình thái cử chỉ hết sức kỳ dị, tựa hồ như đang lẩm bẩm niệm chú
thi triển tà thuật gì đó, phía trước mặt nó có một cái rương lớn chạm trổ hoa
văn cổ kính, nắp rương nửa mở nửa đóng. Chính giữa mặt tường đá bên này, có một
người đàn bà nằm thẳng đờ, người nữ này đầu đeo mặt nạ, mặc áo nhiều lớp rất
hoa mỹ, trông tư thế nằm hết sức cứng nhắc, tựa như một cái xác được dày công
trang điểm.
Bên dưới cái xác và
Hoàng tiên cô, có một con chim lông dài trông nửa như con gà nửa như con trĩ,
đang nâng một bóng người mơ hồ bay lên trên. Tôi đi tham gia lao động ở vùng
núi Đông Bắc nửa năm nay, tuy ở chốn hoang vu, nhưng cũng được biết rất nhiều
tập tục thần bí vẫn còn tồn giữ của những người dân thuộc tầng đáy xã hội cũ.
Quan sát con chim cổ quái ấy một hồi, tôi bỗng phát giác hình thái này rất
giống con “dẫn hồn kê” trong truyền thuyết của dân vùng Đại Hưng An Lĩnh.
Tương truyền rằng,
người chết rồi thì hóa thành ma, ma thuộc về đất, tinh khí thuộc về trời, xác
thịt thuộc về đất, máu thuộc về nước, mạch thuộc về đầm, tiếng thuộc về sấm,
động tác thuộc về gió, mắt thuộc về nhật nguyệt, xương cốt thuộc về cây cối,
gân thuộc về núi, răng thuộc về đá, mỡ thuộc về sương, lông tóc thuộc về cỏ,
khí thở hóa thành vong linh, quy về chốn u minh.
Con người sống được là
nhờ một hơi thở không dứt, một khi người chết ngừng thở, hơi thở sẽ lập tức
chìm vào đại địa mênh mang. Theo quan niệm của dân vùng đó, nếu trong nhà có
người qua đời, phải lập tức giết ngay một con gà trống, rồi lấy máu gà bôi khắp
thi thể. Tương truyền hồn của gà trống có thể mang vong linh hồn phách của
người chết bay lên, không bị rơi vào luân hồi thụ kiếp, ở làng nơi tôi đến lao
động, cũng có tục “nhảy đại thần”, là một loại hình Shaman, còn có cả “thần
bà”, “thần hán” chuyên phụ trách việc làm “dẫn hồn kê” cho người chết. Trong
vận động cách mạng, những người này đều dính phốt, ở đại hội phê đấu, bọn họ
khai nhận tội trạng, tôi mới biết được có những tục này.
Lúc này, Tuyền béo thấy
tôi và Đinh Tư Điềm cứ trố mắt ra xem mãi, liền cũng nhổm đít đứng dậy lại xem
cho vui. Ba bọn tôi thấy nội dung khắc trên bức bình phong bằng đá xanh thiên
nhiên này thật kỳ quái hoang đường, thực khó mà xét ra được lẽ bí ảo sâu xa bên
trong, đành dựa vào những gì mắt thấy mà suy đoán. Dường như nội dung khắc trên
đây là diễn tả Hoàng tiên cô đang thi triển tà thuật, lợi dụng một loại pháp
môn kiểu như “dẫn hồn kê” để cứu vong linh của người nữ đeo mặt nạ này lên khỏi
chốn Âm tào Địa phủ, ý đồ phục sinh cho cô ta. Còn cái rương kia, đại khái
chính là ngọn nguồn của tà thuật.
Điều này hoàn toàn khác
hẳn với suy đoán lúc trước của tôi, xem ra cái động Bách Nhãn được bao vây bởi
vô số truyền thuyết ly kỳ này tuyệt chẳng phải nơi giấu báu vật của bọn trộm mộ
Nê Hội kia. Bọn họ tốn bao công sức đào lấy cái rương trong Mộ Hoàng Bì Tử rồi
lại vận chuyển đến tận sâu trong thảo nguyên này, lẽ nào là muốn chiêu hồn gọi
dậy một kẻ đã chết từ trăm ngàn năm trước?
Nghĩ tới đây, tôi không
khỏi giật mình đánh thót một cái, cũng càng lúc càng thêm hiếu kỳ. Nom bức bình
phong đá thiên nhiên này cũng có niên đại rất lâu đời rồi, chắc hẳn cái xác nữ
đeo mặt nạ kia phải là cổ nhân chứ chẳng sai, cô ta rốt cuộc là người như thế
nào? Giờ đang ở đâu rồi? Sau khi bọn tặc phỉ Nê Hội tới đây, rốt cuộc đã xảy ra
chuyện gì? Liệu có liên quan đến truyền thuyết người và súc vật mất tích xung
quanh động Bách Nhãn này không? Còn nữa... những suy nghĩ cứ liên tiếp nổi lên
rồi lại chìm xuống trong đầu tôi, nhưng càng dằn vặt suy tư thì lại càng chẳng
thấy có đầu mối nào cả.
Tuyền béo bất thần vỗ
đùi đánh đét một cái: “Êu Nhất, tôi bảo này, vừa sực nhớ ra một chuyện, cậu xem
mấy viên đá chôn ở đây thấy giống cái gì không? Càng nhìn tôi lại càng thấy
quen mắt, hình như chúng ta thấy ở đâu rồi ấy nhỉ?”
Tôi tập trung chú ý vào
cái rương của Hoàng tiên cô, đang suy đoán không hiểu bên trong ấy đựng thứ ly
kỳ cổ quái gì đây, mới nghĩ được một nửa thì bỗng dưng bị lời Tuyền béo làm đứt
mạch, liền thuận thế hướng ánh mắt về phía mấy tảng đá lớn chôn dưới đất, bỗng
nhiên nhớ ra rất nhiều hộ ở vùng núi sâu Đại Hưng An Lĩnh, phàm là nhà cũ,
trong góc nhà đều có đặt một tảng đá hình tròn thế này. Có nhà dùng đất bùn
chôn lấp một nửa, có nhà thì cứ thế để nguyên. Đám thanh niên trí thức chúng
tôi lúc mới đến đều chẳng thể hiểu nổi tại sao lại vác đá để trong nhà, cảm
thấy việc làm này chẳng có ý nghĩa gì, về sau khi quen thân với dân làng, thăm
dò nhiều lần mới biết được, thì ra những tảng đá này đều có từ thời trước giải
phóng, hồi xưa mọi người đều dùng cách này để kỵ tà xua ma. Sách cổ có ghi
rằng: “Chôn đá bốn góc, trong nhà không có ma quỷ”, những tảng đá này đều dùng
để trấn ma quỷ cả. Ở vùng Đông Bắc, truyền thuyết về cương thi, ma treo cổ tác
oai tác quái rất nhiều, để được bình yên, những người sống giữa vùng hoang sơn
dã lãnh đã dần dần hình thành nên tập tục này, còn cụ thể bắt nguồn từ niên đại
nào thì giờ cũng không thể khảo chứng được.
Tôi và Tuyền béo nhớ
đến chuyện ấy, không khỏi hoài nghi trong hang động chôn rất nhiều đá thế này,
chính là dùng để trấn áp những loài quỷ mị. Đồng thời, câu chuyện của chúng tôi
cũng khiến Đinh Tư Điềm hơi căng thẳng, cô nói: “Đừng nói mấy chuyện ấy nữa,
mình thấy sống lưng lạnh buốt cả rồi đây này. Thế bây giờ chúng ta tính sao
đây? Không thể quay lại được nữa rồi, chỗ này tổng cộng có mười thông đạo, còn
lại chín cái, rốt cuộc là đi lối nào mới ra ngoài được đây nhỉ?”
Tôi phát hiện lá gan
của Đinh Tư Điềm đúng là đã nhỏ đi nhiều, có lẽ vì tổn thất về bò và ngựa quá
lớn, khiến cô không thể vững lòng được nữa. Tôi đoán, tâm trạng của cô cũng
không khác lão Dương Bì là mấy, khu chăn nuôi xảy ra sự cố tất phải gánh vác
trách nhiệm, mà cách duy nhất để giảm nhẹ phần trách nhiệm này chính là tìm lại
lũ bò và ngựa đã mất. Nhưng đàn bò mất tích và lũ ngựa kinh hoảng tháo chạy,
vừa khéo lại chạy đúng vào khu vực mà dân du mục quanh đây đều coi là “cấm
khu”, những truyền thuyết kinh khủng về động Bách Nhãn từ lâu đã thấm sâu vào
cốt tủy của người bản địa, tiến lên hay thoái lui, quả thực là một lựa chọn vô
cùng khó khăn. Nhưng ở thời đại đặc biệt này, nỗi lo sợ rốt cuộc cũng không
mạnh mẽ bằng cảm giác trách nhiệm đè nặng trong lòng, nếu đứng ở góc độ của cô
và lão Dương Bì mà suy nghĩ một chút, áp lực tâm lý bọn họ đang phải chịu đựng
nhất định là rất lớn, chắc hẳn trong đầu cũng đang không ngừng đấu tranh tư
tưởng kịch liệt lắm.
Đinh Tư Điềm của ngày
xưa thì không như vậy, bấy giờ vẫn còn là thiếu niên, ý chí bốc đồng lắm. Có
lần chúng tôi đến một vùng nọ, khéo gặp dịp một thầy giáo ở đấy dẫn cả đám học
sinh cấp II đi đào mộ, chủ ngôi mộ ấy là một danh nhân cuối thời nhà Thanh, thi
thể bị kéo ra, treo ngược lên cành cây thị chúng, để quần chúng cách mạng nhìn
thấy gương mặt xấu xa của đảng bảo hoàng lớn nhất trong lịch sử. Tôi và bọn
Đinh Tư Điềm, Tuyền béo nghe tin liền đi cả đêm đến nơi tham quan, đêm hôm ấy
trăng lu gió lớn, đám người vẫn hưng phấn sục sôi nhìn cái xác cổ treo ngược
trên cành. Bấy giờ, cũng không thấy cô có nửa phần sợ hãi gì cả.
Tôi định thần lại, nói
với Đinh Tư Điềm và Tuyền béo: “Cái huyệt động này không phải là chỗ nên ở lâu,
chúng ta xem tình trạng ông lão Dương Bì thế nào trước đã, rồi mau chóng nghĩ
cách ra khỏi đây.” Nói đoạn, chúng tôi bước lại gần chỗ lão Dương Bì, bụng ông
vẫn trướng phình lên chưa tiêu hết. Thuở bấy giờ, chúng tôi đều không có thường
thức về y học, không biết sự vận động của ổ bụng và ruột chủ yếu do thần kinh
thực vật chi phối, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng bởi vận động của mạch máu
trong ruột. Sau khi ăn uống quá độ, rất dễ xảy ra hiện tượng ruột trướng, huyết
quản nở to, vì vậy sự vận chuyển của máu trong ruột cũng chịu ảnh hưởng nhất
định.
Cách duy nhất chúng tôi
có thể làm là đỡ ông dậy rồi mát xa phần bụng. Thần trí lão Dương Bì cũng ít
nhiều khôi phục được một chút. Điều khiến ông canh cánh không yên nhất là mấy
con ngựa, ba con ngựa còn lại đều đã lần lượt chạy cả vào trong khu rừng phía
trên động Bách Nhãn rồi, mất ngựa thì muốn về mục trường cũng rất khó khăn. Tôi
chỉ biết an ủi ông, nhất định sẽ nhanh chóng tìm lại được lũ ngựa.
Thấy lão Dương Bì đã
đỡ, tôi bèn cùng Tuyền béo, Đinh Tư Điềm thương lượng xem nên đi lối nào. Xung
quanh huyệt động này có mười thông đạo, cấu tạo gần như giống hệt nhau. Chúng
tôi vào đây qua một đường hầm đã sụt, đường ấy đã không còn nữa, những đường
hầm khác có lối ra hay không thì cũng chưa biết, nhưng huyệt động này có lẽ
không phải mộ cổ, xây dựng không kiên cố lắm, khả năng tìm được lối ra có lẽ là
khá lớn. Tôi nghĩ, chỗ này đã có những sự vật tượng trưng để trấn hồn, phản
phách, mà dường như đâu đâu cũng có liên can đến vong hồn, quỷ hồn, vậy thì
mười đường hầm này, rất có khả năng đại biểu cho thập đạo chốn Âm tào. Ở bên
trong thì không thể phân biệt được đâu là Đông Tây Nam Bắc, đành chọn bừa một
cái mà đi vậy.
Tuyền béo hỏi: “Cái cậu
Nhất này lại nói bậy phải không? Đừng có đoán bừa đấy nhé, dựa vào cái gì mà
cậu bảo Âm phủ có mười đạo? Sao không phải chín đạo hay mười một đạo?”
Tôi nói: “Còn nhớ ông
tổ nhà tôi hồi xưa có tấm ‘Âm phủ thủy lục đồ’. Trên ấy vẽ chốn âm gian có đúng
mười đạo, còn tại sao không phải chín hay mười một, thì nghe nói là vì thời
Đường thiên hạ chia ra làm mười đạo, âm gian và dương gian đối xứng, vì vậy
dưới cõi âm cũng có mười đạo. Có điều, mười đường hầm này có phải đúng vậy
không thì tôi cũng không chắc, tư tưởng của người xưa chúng ta làm sao lĩnh hội
được hết? Đằng nào nếu muốn biến bị động thành chủ động, thì cũng phải tự mình
vào đó mà xem xem nếu may mắn thì biết đâu lại gặp chỗ đường hầm sập xuống mà
leo ra ngoài được.”
Tuyền béo ngẫm nghĩ
thấy tôi nói cũng rất có lý, lúc này cả bọn cũng đã nghỉ ngơi hòm hòm, vậy là
tôi lại cùng Tuyền béo đỡ lão Dương Bì, đánh dấu vào cửa đường hầm chúng tôi đã
đi qua lúc tới đây, rồi tùy tiện chọn bừa một lối chui vào. Dưới lòng đất rất
ẩm ướt, làm chúng tôi đều thấy đau đầu, lũ chuột chạy thành đàn thành đội lại
càng đáng ghét hơn, dọc lối đi trong những kẽ gạch, đều có rất nhiều hang
chuột, chắc rằng cũng có thể thông lên mặt đất, nhưng chỉ có lũ chuột thì mới
đi lối ấy được mà thôi.
Mới đi được một đoạn
ngắn, đường hầm đã bị sạt lở bít kín lối đi, chúng tôi đành quay đầu trở lại,
chọn một thông đạo khác, cuối cùng cũng phát hiện có một giếng trời thông lên
bên trên, nhưng rất chật hẹp, chỉ chui lọt một người. Tôi men theo những bậc
thang đá dốc đứng lần mò lên trên, liền nhận ra cửa lối thông này bị một tảng
đá màu xám bít chặt, đưa tay sờ thử, thì hóa ra phiến đá xám ấy lại là một khối
xi măng lớn, bên trên còn đánh một đai sắt. Kỳ quái nhất là trên bề mặt tấm xi
măng lại có dãy số viết bằng chữ Latin, giống như một dạng phiên hiệu gì đó,
tôi nôn nóng muốn thoát ra khỏi chốn địa huyệt ẩm ướt này, nên cũng không để ý xem
những số hiệu ấy mang hàm nghĩa gì, vội vàng ngậm cái đèn dầu nơi miệng, đưa
cánh tay dồn sức đẩy mạnh. Tấm xi măng nặng nề bị đẩy ra một khe nhỏ, gió lạnh
trên mặt đất luồn vào, nhưng tôi dồn hết cả sức lực bình sinh ra rồi mà tấm xi
măng vẫn không chịu nhúc nhích thêm chút nào nữa.
Tôi leo xuống dưới, kể
lại tình hình bên trên cho hai người còn lại, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đều lấy
làm ngạc nhiên: “Cậu không nhìn lầm đấy chứ? Động Bách Nhãn này là di tích cổ,
tuy không biết là để làm gì, nhưng sao lại có tấm xi măng rồi lại còn có cả
phiên hiệu phiên hiếc gì nữa?” Có điều, chữ số của người Tây rốt cuộc được
truyền nhập vào Trung Quốc từ thời nào thì chúng tôi cũng không rõ lắm, mà cũng
không định khảo chứng thêm về vấn đề này, ai nấy đều chỉ muốn mau chóng thoát
thân.
Trong ba chúng tôi thì
Tuyền béo khỏe nhất, tôi không làm gì được tấm xi măng che bên trên kia, đành
để cậu ta lên thử một phen. Tuyền béo cởi bỏ áo ngoài và mũ, xắn tay áo leo
lên, chỉ nghe cậu ta vận khí dồn sức, vừa lầm bầm chửi bới vừa đẩy tấm xi măng,
gân cốt nổi lên cuồn cuộn, sức lực đã vận hết cả ra, miệng hét lớn: “Mở...”
cuối cùng đã đẩy được tấm xi măng sang một bên, ánh sao ảm đạm bên ngoài lập
tức rưới xuống. Chúng tôi thở hắt ra một hơi, trong lòng không khỏi trào lên
cảm giác như được tái sinh.
Tuyền béo bò lên trước,
tôi và Đinh Tư Điềm ở bên dưới đẩy lão Dương Bì lên cho cậu ta đỡ lôi ra ngoài,
sau đó cũng trèo lên theo. Chỉ thấy bên ngoài ánh trăng mờ mịt, rừng cây trập
trùng, xem ra chúng tôi vẫn đang ở trong khu rừng bên trên động Bách Nhãn, nơi
này không thấy có du diên và chuột hoang, xung quanh tĩnh mịch như tờ.
Nhân lúc tôi và Tuyền
béo đưa mắt nhìn quanh để nhận rõ phương hướng, Đinh Tư Điềm giơ ngọn đèn dầu
lên tò mò quan sát cái nắp bằng xi măng kia: “Ủa... phía trên này ngoài số hiệu
ra còn có chữ nữa... Bộ đội cấp nước[28] B3916...”
Chú thích
[28] Thời thế chiến
thứ Hai, quân Nhật đã lập nên một cơ quan quân sự bí mật chuyên nghiên cứu và
chuẩn bị chiến tranh vi khuẩn, bên dưới có một số đơn vị độc lập, vì lý do bảo
mật, nên trong đối nội và đối ngoại nhất loạt đều gọi bằng giả danh, như bộ đội
phòng dịch, bộ đội cấp nước.
Chương 21:
Đinh Tư Điềm giơ ngọn
đèn dầu đã gần hết nhiên liệu, mượn ánh sáng từ ngọn lửa leo lét nhỏ như hạt
đậu, cố gắng đọc hàng chữ mờ mờ lưu lại trên nắp xi măng: “Bộ đội cấp nước?
3916? Đây là ý gì nhỉ? Hay là công trình của quân đội?”
Tôi và Tuyền béo nghe
cô nói thế, liền quỳ xuống xem cái nắp bằng xi măng. Đây là một tấm xi măng
dẹt, dường như được làm ra với mục đích đậy kín miệng hố này, nhưng không đậy
khít chặt, nếu dùng xà beng ở bên trên nậy thì có thể dễ dàng mở ra được. Hai
mặt của tấm xi măng đều có số hiệu, rõ ràng là vật liệu của một công trình kiến
trúc nào đó rồi.
Từ thời Tần, để tiện
cho việc giám sát quản lý, đã có quy định phải khắc họ tên người thợ lên gạch
ngói, nhưng nhìn ngang nhìn dọc thế nào tấm xi măng này cũng chẳng hề giống cổ
vật, cái gì mà “bộ đội cấp nước” chứ? Lẽ nào đây là đồ quân dụng? 3916 là phiên
hiệu của đội quân ấy ư? Tôi thầm nhủ, lẽ nào đã có một đội quân tiến hành đào
bới trong cái huyệt động chôn đầy đá trấn tà trấn quỷ ấy? Nghĩ đoạn tôi đưa mắt
nhìn Tuyền béo và Đinh Tư Điềm, hai người bọn họ cũng đều lấy làm nghi hoặc,
không đoán ra được thứ này dùng để làm gì.
Tôi nói với bọn họ:
“Tạm thời đừng nghĩ đến phiên hiệu trên tấm xi măng này nữa, bí mật ẩn giấu bên
trong động Bách Nhãn thực sự quá nhiều, dẫu ba người chúng ta mỗi người mọc
thêm một cái đầu, sáu cái đầu gộp lại nghĩ vỡ óc ra cũng không hiểu nổi đâu.
Đằng nào cũng không hiểu được thì thôi khỏi cần tốn công nghĩ làm gì cho mệt,
tôi thấy trong rừng này bốn bề đều là nguy cơ, vạn nhất lại gặp phải bọn độc
trùng du diên du diếc thì phiền phức lắm. Nhưng địa hình trong rừng lại phức
tạp vô cùng, chúng ta đã mất ngựa, lại phải vác theo lão Dương Bì, lần mò đi
trong đêm là điều không thể rồi, giờ chỉ còn cách tìm chỗ nào đấy tương đối an
toàn cho qua đêm nay rồi tính tiếp thôi vậy.”
Đinh Tư Điềm nhìn bầu
trời ánh sao mờ mịt, lo lắng nói với tôi: “Mình cảm thấy đêm nay thật sự sẽ rất
dài, chúng ta đến cả cái đồng hồ cũng không có, cũng không biết giờ là mấy giờ
rồi, còn phải đợi bao lâu nữa thì trời mới sáng đây. Nói đoạn, cô liền tắt đèn
đi, trong rừng ít nhiều vẫn còn ánh sao leo lét, cô định tiết kiệm chút dầu
cuối cùng này để dùng cho trường hợp khẩn cấp.
Tôi cũng ngẩng đầu lên
nhìn bầu không, ánh trăng sao tuy ảm đạm lu mờ, nhưng may là mấy ngôi sao chủ
yếu vẫn có thể lờ mờ nhận ra được. Trước tiên tôi tìm cán gáo của chòm sao Bắc
Đẩu để xác định phương hướng, sau đó tìm được Tam Tinh[29] đang lập lòe ở
phía Đông. Ban đêm ở vùng Đông Bắc đều dựa vào vị trí của Tam Tinh để đoán thời
gian. Nhìn vị trí lúc này của ba ngôi sao ấy, tôi đoán giờ mới khoảng chừng
mười giờ tối. Ở chốn hoang sơn dã lãnh trời tối rất sớm, đêm đen đã thay thế
ban ngày được sáu bảy tiếng đồng hồ rồi mà vẫn chưa đến nửa đêm.
Tuyền béo cũng biết
cách quan sát Tam Tinh suy đoán thời gian, cậu ta gập ngón tay tính toán, thấy
ít nhất cũng phải bảy tiếng nữa trời mới sáng được. Lâu như vậy, ở đâu mới có
thể an toàn đây? Ngẫm nghĩ một lúc, cậu ta bèn đề nghị chi bằng trở lại cái
hang động lúc nãy cho qua một đêm, đến khi trời sáng mới tìm đường rời khỏi đây.
Nhưng ba bọn tôi vừa
nghĩ đến đàn chuột đông đúc, rồi hoàn cảnh ẩm thấp hôi ám, những khối đá trấn
ma, và cả nguy cơ có thể sụp lở bất cứ lúc nào trong hang động ấy, lại còn cả
bức bích họa khắc hình Hoàng tiên cô toát lên đầy tà khí đó nữa, liền lập tức
dập tắt ý định đó ngay. Tôi thấy bên cạnh có một cây cổ thụ lớn, bèn quyết định
trèo lên quan sát địa hình xung quanh, rồi mới tính toán.
Nghĩ đoạn, tôi bước đến
dưới gốc cây, dùng cả tay lẫn chân, bám vào thân cây leo lên trên. Lúc này
sương mù trong rừng đã tan, tôi đứng trên chỗ chạc ba, hai tay ôm lấy tán cây
chìa ra, cúi đầu nhìn xuống dưới. Ở vị trí này đã không nhìn rõ được mặt Đinh
Tư Điềm và Tuyền béo rồi, tôi vẫy vẫy tay với họ, rồi cũng chẳng buồn để ý xem
hai người kia có thấy hay không, ngẩng đầu quan sát địa hình xung quanh.
Mây đen che kín cả vầng
nguyệt, bầu không chỉ có mấy ngôi sao leo lét, nhìn một hồi lâu cũng chỉ thấy
quanh đấy toàn cây cối mịt mờ, chẳng có chốn nào khả dĩ dung thân. Trong tình
cảnh tối tăm mù mịt thế này, con người bao giờ cũng cố gắng trợn to mắt ra một
cách vô thức, muốn nhìn cho rõ hơn một chút, nhưng đã trợn cay cả mắt rồi mà
cũng chẳng thấy gì hết.
Tôi ôm thân cây, đưa
tay dụi dụi mắt, rồi lại ngoẹo cổ nhìn sang hướng khác. Đúng lúc ấy, tầng mây
trên trời trôi nhẹ, ánh trăng lành lạnh như nước chiếu qua áng mây đen mỏng
mảnh. Nhân khoảnh khắc ngắn ngủi có ánh trăng mông lung ấy, tôi phát hiện ra ở
đằng sau mình, cùng lắm chỉ cách mấy gốc cây, sừng sững một cái bóng mơ hồ, tựa
hồ như một tòa kiến trúc. Tất cả phòng ốc đều không có ánh đèn, tử khí trầm
trầm, vì vậy cũng chỉ nhìn thấy đường nét mờ mờ của một công trình kiến trúc mà
thôi.
Đang căng mắt ra muốn
nhìn cho rõ hơn, thì mây đã lại che mất ánh trăng, chỗ nào hơi xa một chút lại
biến thành một đám đen kịt mờ mờ, cả đường nét cũng chẳng thấy gì nữa. Vì trước
đó đã phát hiện một tấm xi măng có khắc phiên hiệu của đơn vị bộ đội, nên lúc
này tôi cũng không quá ngạc nhiên khi phát hiện ra một dãy phòng ốc, có điều
thực sự cũng không ngờ là nó lại ở gần chúng tôi đến thế.
Tôi vốn muốn đợi thêm
một lúc nữa, đợi lúc ánh trăng lộ ra rồi nhìn cho rõ hơn, nhưng Tuyền béo và
Đinh Tư Điềm ở bên dưới lo tôi sẩy chân ngã, cứ cuống quýt giục xuống. Vậy là
tôi bèn bám vào thân cây tuột xuống, thuật lại những gì nhìn thấy trên đó cho
hai người kia nghe: Ở phía bên kia có một công trình trông từa tựa như phòng
ốc, nhưng bên trong không đèn không đuốc, không có động tĩnh gì cả. Nếu đúng là
có phòng ốc, dù bên trong không có người, chì ít nhất cũng có bốn bức tường với
cái mái, nói không chừng còn kiếm được cái gì ăn, dù gì cũng tốt hơn ở trong
rừng vừa tối tăm vừa lạnh lẽo. Cuối cùng, ba chúng tôi đều nhất trí đến đó đợi
tới khi trời sáng.
Tôi chỉ rõ phương
hướng, rồi ba người cùng khênh lão Dương Bì chầm chậm đi qua đó, đi được một lúc,
tôi bỗng phát giác ra phía sau có người đi theo mình, nhưng ngoảnh đầu thì lại
chẳng thấy có động tĩnh gì hết. Tôi đoán chắc là mình nghe nhầm, nên cũng không
để chuyện này trong lòng, lại dẫn cả bọn đi băng qua bãi cỏ hoang mọc cao ngang
đầu gối, ngay phía trước mặt là một tòa nhà cao ba tầng.
Tòa nhà này nhìn bề
ngoài hết sức bình tường, nhưng toát lên một vẻ kỳ dị khó tả, hình thức không
giống Trung Quốc cũng không giống của người Tây, cửa sổ đều bằng kính, vẫn còn
khá nguyên vẹn, tuyệt đối là một kiến trúc cận đại. Tuyền béo bám vào cửa sổ
chồm người lên xem một hồi lâu, bên trong không có chút ánh sáng nào, rốt cuộc
cũng chẳng nhìn được gì hết, chỉ là trên tất cả các cửa sổ đều dán giấy niêm
phong, bên trên có một số ký hiệu và chữ tiếng Nhật kỳ quái.
Đinh Tư Điềm nói với
tôi: “Tòa nhà này không giống nhà kiểu Tây, cũng không phải nhà kiểu Trung Quốc
hiện đại, trong ấn tượng của mình, chỉ có người Nhật mới xây nhà theo phong
cách kỳ cục này thôi, người Liên Xô thì chắc chắn không thể tới vùng này xây
nhà được, đây phỏng chừng có lẽ là doanh trại của bộ đội cấp nước gì đó chăng?”
Thời kháng chiến, khu vực này từng nằm trong phạm vi khống chế của quân Nhật,
rất có khả năng đây là trại lính hay kiến trúc gì đó tương tự. Thời kỳ đó,
người Nhật chuyên bắt chước Âu Mỹ, rất sính ngoại, cảm thấy Âu Mỹ cái gì cũng
tốt, đến cả nhà cửa cũng ít nhiều hấp thu một chút đặc điểm phong cách kiến
trúc của người Tây, nếu đúng là thế thật, thì tòa nhà này ít nhất cũng bỏ hoang
phế hai chục năm nay rồi.
Tôi gật gật đầu không
nói gì, trong lòng thầm nhủ, thì ra chỗ này đã bị bọn Nhật chiếm đóng, liệu bọn
phỉ Nê Hội kia có phải là Hán gian không nhỉ? Đào được đồ tốt thì mang đến đây
để hiếu kính cho bọn quỷ Nhật? Không biết trong tòa nhà này có ẩn giấu bí mật
gì hay không? Có điều, mấy chuyện này chỉ suy đoán không thôi thì không thể
chắc chắn được, có chuyện gì thì để tới khi trời sáng rồi tính sau vậy. Nghĩ
đoạn, tôi gọi Tuyền béo cõng lão Dương Bì lên, men theo vách tường đi tìm cửa
ra vào.
Tòa nhà trước mắt chúng
tôi không khác gì các nhà dân cư kiểu cũ bình thường, chỉ có ba tầng, nhìn từ
bên ngoài thì mỗi tầng có khoảng hai mươi cửa sổ, toàn bộ đều đóng chặt, bên
trong tĩnh lặng như tờ. Tuyền béo nói: “Chỗ này khá đấy, chúng ta vào trong rồi
đóng chặt cửa lại, thứ quái quỷ gì cũng đừng hòng vào được, cứ đợi đến khi trời
sáng rồi hãy đi cũng không muộn.”
Chúng tôi đều biết tập
tính của bọn du diên sống ở quanh đây là “ban ngày ngủ, ban đêm săn mồi, ngửi
mùi tanh liền động”, chỉ cần đợi đến lúc trời sáng mới ra khỏi rừng thì không
phải lo lắng gì nữa. Thấy tòa nhà này chắc chắn nguyên vẹn, tôi, Tuyền béo và
Đinh Tư Điềm đều cảm thấy đây là nơi rất tốt để náu mình, cửa cũng không khóa,
chỉ khép hờ. Đây là loại cửa hai cánh chung bản lề, trên cửa có bốn ô kính nhỏ
hình vuông, nhưng trước cửa lại không hề có biển báo hay chỉ dẫn nào.
Để cả bọn thêm vững dạ,
tôi giơ chân đạp hai cánh cửa bật mở. Vì nhiều năm không mở ra đóng vào, bản lề
trên cửa đều đã gỉ sét hết, phát ra những tiếng kẽo ca kẽo kẹt khó nghe vô
cùng. Bên trong cũng đã bao năm không có người đi lại, khắp nơi đâu đâu cũng
toàn bụi, các góc nhà đầy muội tro, không khí ô trọc, lan tỏa khắp không gian
một thứ mùi ẩm mốc. Tuy cũng là nơi u ám mốc meo, nhưng so với cái hang động ẩm
thấp tanh hôi kia, thì nơi này cũng tốt hơn nhiều lắm rồi.
Tôi với Tuyền béo mỗi
người xốc một cánh tay lão Dương Bì, cất bước đi thẳng vào hành lang sau cánh
cửa. Bên trong tòa nhà quả thực quá tồi, Đinh Tư Điềm tuy không nỡ lãng phí
thêm dầu đốt đèn nữa, song cũng đành phải thắp lên chiếu sáng, vừa đi vừa quan
sát kết cấu trong nhà. Chỉ thấy bên trong cánh cửa có lắp một cái gương lớn,
làm hành lang vốn khá rộng rãi bị chắn đi mất hơn nửa, trước gương có cửa sắt,
cửa sắt không buông xuống, cần đóng mở cửa đặt phía bên ngoài, từ bên trong
không thể đóng mở được, trông giống như một nhà ngục. Nhìn cấu tạo của cửa sắt,
có lẽ là loại đóng mở bằng van khí, không cần điện cũng điều khiển được. Có
những trang bị kiểu này, chứng tỏ tòa nhà nhất định từng là một công trình bí
mật được canh giữ chặt chẽ. Tường bên trong nhà đều được sơn màu xám trắng, nền
đất láng xi măng, điều kỳ lạ duy nhất là, tất cả các cánh cửa ở đây đều đã bị
bít kín bằng gạch đá, ngoài hành lang ra, không còn bất cứ phòng nào nữa.
Ba người chúng tôi đều
rất lấy làm lạ, xây nhà lên không phải để cho người ở hay sao? Nhìn từ bên
ngoài tòa nhà này chẳng có gì đáng chú ý, sao tất cả các cửa phòng bên trong
đều bị lấy đá bít kín thế này? Chúng tôi đi tới chỗ cầu thang, phát hiện cầu
thang không bị bít lại. Phỏng chừng không gian trong tòa nhà này chỉ có hành
lang và cầu thang, cửa sổ bên ngoài đều chỉ là làm cho có vậy thôi.
Chúng tôi bất giác dừng
lại trước bậc cầu thang, không sao bước tiếp được nữa, kiến trúc trông như tòa
nhà mà lại không giống tòa nhà này thật sự khiến người ta khó lòng tưởng tượng,
thậm chí tôi còn nghi ngờ không hiểu đây có phải trại lính do người Nhật xây
nên nữa hay không? Ai lại ăn no rỗi hơi xây một tòa nhà không có phòng ốc gì
thế này. Đây rõ ràng là một cục xi măng sắt thép chẳng có tác dụng gì cả.
Đinh Tư Điềm đột nhiên
hỏi: “Phải rồi, đồng chí Lenin ơi, mình nhớ bạn và Tuyền béo từng nói, ở chỗ
các bạn tham gia lao động sản xuất ấy, có phong tục đặt đá trong nhà để trấn...
trấn... ma quỷ phải không? Chỗ này... chỗ này... phòng nào cũng chất đầy những
gạch đá, liệu… liệu có phải...”
Tôi và Tuyền béo cố ý
nhại cái điệu lắp bắp của Đinh Tư Điềm, cười cười bảo: “Bạn… bạn... bạn...
xem... sợ đến nói lắp rồi kìa. Đó toàn là những phong tục mê tín cổ lỗ sĩ, sao
lại coi là thật được. Vả lại, trong nhà chôn đá trấn ma, là để người ta có thể
yên tâm mà sống trong căn nhà ấy. Nhưng mỗi phòng trong tòa nhà này chất kín
đặc gạch đá, đừng nói là người ở, đến một con giặc mắt to cũng không chui vào
được, lẽ nào mấy người đó đều sống ở hành lang chắc? Làm gì có kiểu đá trấn tà trấn
ma gì thế chứ? Làm thế này thì chi bằng dỡ mẹ nó cả tòa nhà xuống cho xong.”
Đinh Tư Điềm giận dỗi
nói: “Các bạn đừng nhại mình nữa có được không, mình lo lắng thật mà, có lẽ tòa
nhà này không thể dỡ đi được, bằng không sẽ xảy ra chuyện gì đó rất khủng
khiếp, chỉ có thể dùng gạch đá chất đầy bịt kín các gian phòng lại...”
Tôi nghĩ bụng trí tưởng
tượng của Đinh Tư Điềm phong phú quá đi, phải “chủng ngừa” cho cô nàng một mũi
mới được, cứ nghi thần nghi quỷ thế này thì nhất định không thể cầm cự qua được
đêm nay. Nghĩ đoạn, tôi bèn tiện tay rút ra cuổn sách Đỏ, dõng dạc nói với cô:
“Chúng ta đi theo vầng hồng tiến lên phía trước, nếu có kẻ thù giai cấp gì đấy
muốn mượn xác hoàn hồn, thì đấu tố cho chúng nó một trận.”
Tuyền béo cũng chõ mồm
vào: “Đúng thế, không chỉ đấu tố cho chúng nó một trận, mà còn giẫm đạp một
nghìn một vạn phát nữa, cho vĩnh viễn không thể ngóc đầu dậy..., nhưng mà nói
đi thì phải nói lại, tôi cũng cảm thấy tòa nhà này đúng là không được ổn cho
lắm, cứ như một cái quan tài bằng xi măng cốt thép ấy.”
Tôi thấy đến cả Tuyền
béo giờ cũng không còn vững dạ nữa, e rằng tòa nhà cũng có chút tà môn thật, có
trời mới biết là xây lên làm quỷ gì. Kỳ thực, trong lòng tôi cũng rất run,
nhưng người có thể ngã chứ thể diện không thể mất, phải tìm cách xuống nước mới
được, nghĩ đoạn bèn nắm chặt cuốn sách Đỏ nói: “Chúng ta tuy chẳng hề sợ hãi
bọn đế quốc xét lại và phản động hung hăng càn quấy, nhưng nơi này bốn phía
không thông gió, cửa rả đều bít kín mít, không gian chật hẹp bức bối, có khác
nào đường hầm lúc nhúc chuột đồng ngoài kia, tôi thấy chi bằng chúng ta ra bên
ngoài qua đêm mới là thượng sách.”
Những người còn lại đều
tỏ ý tán đồng, thật ra cũng chẳng ai muốn ở lại trong cái cục xi măng trông như
hộp chứa hài cốt hôi hám này thêm nữa, vậy là cả bọn liền quay ngược trở lại
chỗ cánh cửa. Nhìn thấy hai ô cửa sổ nhỏ trên cánh cửa tôi mới nghĩ, chắc cả
tòa nhà này chỉ có ô cửa sổ trên cửa lớn là thật, từ bên ngoài nhìn vào chỉ
thấy một vùng tối om om, từ bên trong nhìn ra cũng thấy tối đen như mực nốt.
Tôi đưa tay định đẩy
cửa, bỗng một tràng những tiếng “bình, bình, bình” từ bên ngoài vẳng vào, như
thể có người gõ cửa, tiếng động không lớn lắm, nhưng vang lên giữa đêm thanh
vắng thật khiến người ta kinh tâm động phách. Tôi giật nảy mình, cánh tay đang
giơ ra đẩy cửa rụt ngay về. Khu động Bách Nhãn này hiếm dấu chân người, cả bốn
chúng tôi đều đang ở đây, thế thì ai đang gõ cửa ngoài kia nhỉ?
Có điều, tiềm thức nói
với tôi rằng, điều này tuyệt đối không thể, hai cánh cửa này đâu có khóa, chỉ
đẩy khẽ một cái là mở ra rồi, ai muốn vào đây căn bản không cần phải gõ cửa,
trừ phi đó không phải là người? Nghĩ tới đây, trán tôi bắt đầu thấy mồ hôi ròng
ròng chảy xuống, xem chừng có những chuyện không tin cũng không được mất rồi.
Vừa nghĩ, tôi vừa bất giác lùi lại mấy bước.
Ba người ngơ ngác nhìn
nhau, đều không dám lên tiếng. Tiếng gõ cửa bên ngoài ngưng lại một chút, tựa
hồ đang đợi hồi đáp, rồi lại vang lên ba tiếng “bình, bình, bình”, tiếng sau
liền với tiếng trước, như thể đang cố ý giày vò dây thần kinh căng thẳng như
dây đàn của chúng tôi. Tuyền béo sợ hãi giật thót cả người, nhưng tính cách cậu
ta là không bao giờ để lộ ra mình sợ hãi, không ngờ lại lấy hết can đảm, cất
tiếng gắt gỏng quát lên: “Ai đấy? Đừng có mà gõ nữa, trong này không có ai đâu!”
Tiếng gõ bên ngoài lập
tức im bặt, chúng tôi ở trong nhà đều dỏng tai lên lắng nghe, khoảnh khắc ấy
dường như cả không khí cũng đông đặc lại, tĩnh lặng đến độ dù chỉ một sợi tóc
rơi xuống cũng có thể nghe thấy rất rõ ràng. Nhưng bầu không khí tĩnh lặng ấy
chỉ kéo dài được chưa đến ba giây, tiếng gõ cửa “bình, bình, bình” lại vang lên
lần nữa.
Dây thần kinh của tôi
nảy bật lên, bỗng sực nhớ ra hồi canh lâm trường, cũng từng gặp phải chuyện nửa
đêm ma gõ cửa thế này, lần đó chắc chắn là do lũ hoàng bì tử giở trò. Nghĩ tới
chuyện ấy, tôi lập tức không thấy sợ nữa, máu xông lên não, liền rút phăng cây
bảo đao Khang Hy ra, xông lên trước, định giơ chân đạp bay cửa ra, thử xem xem
rốt cuộc là cái thứ mẹ gì đang giở trò.
Chú thích
[29] Ba ngôi sao sáng
nhất của chòm Thợ Săn.
Nguồn doc.178vn.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét