Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

13 thg 1, 2014

Mộ Hoàng Bì Tử - Chương 48- 51 (Thiên Hạ Bá Xướng)

Chương 48: Thủy đảm

Vừa bị Tuyền béo nhấc lên, cái rương đồng đã long ra, thứ ở bên trong rơi xuống đất, trong mắt chúng tôi thật chẳng khác nào một quả bom nguyên tử rơi xuống cả. Tim tôi nảy bật lên giữa từng không, đầu óc trắng xóa, bốn người chúng tôi, kể cả lão Dương Bì, đều đờ ra tại chỗ.

Ánh mắt chúng tôi đều hướng xuống chỗ chân Tuyền béo, chỉ thấy trong cái rương đồng nát ấy rơi ra cái xác khô của một hoàng bì tử toàn thân lông trắng toát. Con hoàng bì tử này không thể nói là chỉ to hơn đồng loại của nó một chút, thể hình ấy gần như ngang với một con sơn dương cỡ nhỏ rồi. Lông trắng trên người nó dài cỡ hơn một ngón tay, bốn chân cuộn lại, trong lòng ôm một thứ trông như quả trứng. Quả trứng thịt ấy mọc ở ngay trên buồng tim của nó, cũng chẳng hiểu là thứ gì, màu thịt đỏ tươi như máu, khiến người ta vừa nhìn đã dâng lên cảm giác sợ hãi, tưởng như trong quả trứng máu ấy phảng phất đã tích tụ vô số oán niệm của các vong hồn.

Không đợi chúng tôi định thần, quả trứng máu trong lòng con hoàng bì tử kia bị gió âm thổi vào, không ngờ lại chầm chậm nhúc nhích. Đồng thời, giữa đám lông trắng trên mình con chồn ấy xuất hiện vô số con rận màu trắng, thoạt trông như những mảnh giấy bị xé nhỏ li ti. Loại rận sinh trưởng trên cơ thể cương thi này chuyên hút dương khí của người sống, gặp gió liền động, trong chớp mắt đã tản ra khắp trong hang. Chúng tôi lập tức bị lũ rận trông như những vụn băng nhỏ xíu bao vây. Tôi thầm than không ổn, những người trong viện nghiên cứu chắc hẳn đều đã bị thứ này cắn chết, hình như là không ai sống sót cả.
Tình thế biến đổi chỉ trong nháy mắt, trong vòng mấy phút nữa chúng tôi ắt sẽ bị đàn rận này cắn chết. Thứ này không hút máu mà chuyên hút sinh khí của người sống, hơn nữa còn xuyên thủng được cả vải buồm, tốc độ cực nhanh, thật sự là không thể nào phòng bị được. Tôi lấy áo bịt chặt đầu lại, hét lên với ba người kia: “Chạy mau, mau chạy ra chỗ cái cầu!” Nếu kịp thời nhảy xuống nước, để dòng nước xối cho một chập, may ra còn có một tia hy vọng sống sót, chứ ở chỗ đất khô ráo thì chỉ giây lát nữa thôi, chúng tôi sẽ trở thành một phần của cái hang động khổng lồ chứa đầy xác chết này.
Những trải nghiệm gần đây khiến Tuyền béo cực kỳ ghê tởm bọn chồn lông vàng, cậu ta dường như quên mất con chồn trong rương đồng đã chết từ không biết bao nhiêu năm trước rồi, gằn giọng hằn học chửi: “Chết tao cũng phải lôi theo con chó chết nhà mày lót đít!” Dứt lời, cậu ta cũng mặc xác lũ rận đang cắn khắp mình mẩy đau nhói, giơ chân lên giẫm vỡ toác cục máu mọc trên ngực con hoàng bì tử. Máu tanh nồng nặc bắn tung tóe khắp nơi, lũ rận ký sinh trên xác con hoàng bì tử mất đi vật chủ, lập tức chạy tứ tán. Có điều, những con đang bám trên người chúng tôi vẫn cứ tiếp tục hút sinh khí. Tôi vốn định dẫn mọi người chạy ra chỗ cây cầu, nhưng rõ ràng đã không còn thời gian nữa, áng chừng chưa được nửa đường thì đã bị lũ rận này cắn chết rồi. Toàn thân tôi đau như thể bị vô số mũi kim cùng đâm vào rút xương tủy, mỗi lần nhói lên là sức sống lại bớt đi một phần, cả người uể oải như sắp đổ gục xuống đến nơi. Cảm giác đau đớn khó chịu, khiến tôi chỉ biết lăn lộn dưới đất, hy vọng có thể cọ xát cho lũ rận trắng trên người rơi bớt đi.
Lúc này lão Dương Bì chợt gầm lên một tiếng: “Nhảy xuống giếng vàng mới giữ được mạng!” Chúng tôi cũng chẳng kịp nghĩ xem làm sao ông già biết được, đằng nào thì cũng có bệnh vái tứ phương, trước mắt có cái phao cứu sinh nào thì cũng phải chộp lấy thử xem sao đã, vả lại hình như ông già rất rõ mọi sự ở đây, cứ làm theo biết đâu còn có đường sống sót.
Cái hốc có vách bằng gạch khắc hình rồng không mắt ấy ở ngay bên cạnh, bốn người liền tranh nhau nhảy xuống. Bên trong giếng vàng, lửa ma trơi còn nhiều hơn bên ngoài gấp bội, vách giếng đều xây bằng gạch, dưới đáy không có nước. Trong ánh sáng lập lòe của lân tinh, dưới đáy giếng vàng có rất nhiều vật thể lồi lõm gần như trong suốt, chạm tay vào chỉ thấy trơn nhẵn ấm áp, giống như loại đá nào đó, có chỗ đã bị đập phá, cũng có chỗ vẫn còn nguyên vẹn, bên dưới chừng như có nước đang chảy. Cái giếng vàng của ngôi mộ này không sâu lắm, nhưng ngã từ bên trên xuống cũng khá đau, tôi lăn lộn mấy vòng, ngoảnh đầu lại nhìn, trông thấy Đinh Tư Điềm ngã sóng soài bên cạnh. Thân thể cô vốn đã hết sức hư nhược, sau khi bị lũ rận cắn cho tơi bời, ngã xuống giếng, lập tức không nhúc nhích gì được nữa. Tôi định kéo cô chạy vào bên trong, nhưng hai mắt đã tối sầm, muốn vươn tay ra mà thậm chí không sao nhấc nổi cánh tay lên nữa.
Tuyền béo cậy da thô thịt dày, chịu đựng giỏi, vừa kêu oai oái vì đau, vừa vươn hai tay ra lôi cổ áo tôi và Đinh Tư Điềm, ra sức kéo lùi về sau mấy bước, rồi cũng nhanh chóng nằm vật ra đất. Lúc này cậu ta cũng chẳng nói được gì nữa, chỉ còn lại tiếng khò khà khò khè trong cổ họng, cả người lăn lộn quằn quại không thôi.
Từ lúc cái rương đồng đựng con hoàng bì tử bật tung ra, đến lúc chúng tôi bị lũ rận cắn cho gần như không cựa quậy gì được, trước sau chỉ chưa đầy một hai phút đồng hồ, thậm chí còn chưa kịp cảm thấy tuyệt vọng, ý thức đã dần trở nên tê liệt. Con người sống được là nhờ một hơi thở, ấy gọi là tinh, khí, thần, sinh khí mà tản đi mất, thì cũng là lúc gần đất xa trời rồi.
Tôi và Tuyền béo đều trúng phải độc của cây thi sâm, nên đã chuẩn bị tinh thần để chết ở chỗ này rồi, chỉ là không ai chịu nhắc đến, sợ rằng để lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm biết được sẽ đau lòng. Trước lúc này, tôi và Tuyền béo đều cho rằng, nếu không may hai chúng tôi mất mạng vì chất độc, mà có thể cứu được lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm thì cũng không chết uổng. Nếu được vậy, trước lúc chết ngoảnh đầu lại nhìn chuyện cũ, cũng không đến nỗi phải thấy bản thân tầm thường kém cỏi vì không cứu được chiến hữu thân thiết, tự vấn lương tâm không thẹn với lòng, có chết cũng có thể yên lòng mà đi gặp lão Mác lão Lê được rồi.
Không ngờ chất độc trong người Đinh Tư Điềm dường như còn chưa trừ hết, lão Dương Bì lại chạy đến chỗ sâu xa nhất của vùng Quy miên địa này, chúng tôi chẳng những không đưa được hai người họ về khu chăn nuôi, mà rốt cuộc cả bọn lại cùng nhau đâm đầu xuống một chỗ quái quỷ, kết thúc sinh mạng bằng phương thức tàn khốc nhất, thử hỏi, trên đời này còn chuyện gì đáng sợ hơn nữa đây.
Ý thức trong đầu mỗi lúc một thêm mơ hồ, cảm giác không cam chịu trong lòng vẫn ngùn ngụt dâng lên, chết ở chốn này làm sao mà nhắm mắt được? Trong cơn đau đớn như có muôn ngàn mũi kim đâm khắp người, ngón tay cào bới trên mặt đất cơ hồ bật cả móng, nhưng cũng chẳng có cách nào, đã không thể giảm bớt cảm giác đau đớn, mà lại càng không thể thoát khỏi nơi này được.
Bên tai tôi chỉ còn lại tiếng kêu gào đau đớn của đồng bạn, âm thanh còn khó nghe hơn tiếng ré thê thảm của lũ lợn lúc bị chọc tiết, đó là thứ âm thanh phát ra khi cảm giác đau từ tận phế phủ bị mắc kẹt nơi cổ họng, không thể nào được hét ra bên ngoài. Mỗi giây trôi qua chậm chạp dị thường, đúng vào khoảnh khắc tôi đã buông bỏ tất thảy mọi hy vọng, chỉ mong Thần Chết mau mau đến đây, để kết thúc cảm giác đau đớn như thể đang chịu cực hình nơi mười tám tầng địa ngục này thì bỗng nghe lão Dương Bì thở khò khè, đưa tay rút thanh bảo đang Khang Hy bị rớt xuống giếng cùng với chúng tôi, nhằm vào một khối đá trong mờ mờ ở ngay đỉnh đầu mà đâm tới.
Tôi tưởng ông già đau quá phát điên lên rồi, thầm nhủ chi bằng đưa thanh đao đây, để cháu cứa cổ một phát mà chết cho nhẹ nhàng. Nghĩ đoạn, tôi bèn vươn tay ra chộp loạn xạ, định giật thanh đao ấy tự sát, không ngờ vừa giơ tay lên đã đột nhiên cảm thấy mát rượi. Thì ra, lão Dương Bì đã dùng đao đâm vỡ một lớp vỏ đá trong nhờ nhờ, bên trong toàn nước là nước. Thứ nước ấy tựa như ngọc lộ trong bình tiên của Quan âm Bồ tát, chạm vào đâu là hết đau đớn đến đấy.
Cảm giác mát rượi trên cánh tay lan tỏa, khiến tôi dễ chịu lạ thường, đầu óc cũng từ trạng thái nửa tê liệt tỉnh táo lại nhiều. Tôi lập tức hiểu ra, đây không phải nước bình thường, lão Dương Bì bảo chúng tôi nhảy xuống “giếng vàng”, là bởi trong này có “thủy đảm”. Lúc đó, tuy tôi biết “giếng vàng” là nơi sinh khí tụ tập trong huyệt mộ phong thủy, thủy là tượng sinh, vì vậy trong “giếng vàng” có nước chảy là quý nhất. Nhưng tôi vẫn không thể lý giải được hiện tượng nước hóa thành “thủy đảm” này là theo nguyên lý gì.
Sau này tôi đi bộ đội, làm lính công binh, có tìm tòi học hỏi thêm nhiều về địa chất khoáng vật, mới biết trên đời này có một loại khoáng thạch gọi là “thủy đảm mã não”. Mã não là một loại khoáng thạch, tính chất giòn cứng, độ cứng theo thang Mohs bằng 7, chịu mài mòn rất tốt, khoáng thạch mã não có dạng bán trong suốt, là một sản vật sinh ra từ hoạt động của núi lửa cổ, là tập hợp của các tinh thể silicdioxit. Silicdioxit thể keo khi ngưng kết bao bọc xung quanh một đám hơi nước sinh ra do nhiệt độ cao, sau khi nhiệt độ giảm xuống, hơi nước này liền chuyển thành dạng lỏng, từ đó hình thành nên “thủy đảm mã não”. Lượng nước này vĩnh viễn lưu lại bên trong mã não, toàn bộ đều là nước sạch tinh thuần từ một trăm triệu năm về trước.
Trong giếng vàng của ngôi mộ nằm giữa vùng Quy miên địa này có một tầng khoáng vật tương tự như thủy đảm mã não, có điều đây không phải là thủy đảm mã não, mà chỉ là một loại vật chất gần như thế, tầng tinh thể mỏng và giòn hơn nhiều. Đặc biệt hơn, bên trong lớp khoáng vật mỏng bên dưới giếng vàng này lại chứa thứ nước cực kỳ hiếm có, được ngưng kết từ sinh khí, đây mới là nước “sống” đúng nghĩa thực sự, có thể trừ giải trăm thứ độc, trừ trăm loại bệnh, công dụng khởi tử hồi sinh. Người Nhật Bản đã đào đi khá nhiều khoáng thể có chứa nước ở đây, nhưng có lẽ vì thứ này không thể tái sinh, số lượng cũng quá ít, bọn họ mới để lại một ít khoáng vật nguyên dạng để nghiên cứu, nên còn lại được ngần này. Chút ít “thuỷ đảm” sót lại này đã cứu mạng của mấy người chúng tôi.
Lão Dương Bì vung đao đâm loạn xạ, chất lỏng chứa bên trong mạch khoáng chảy tràn ra, làm giếng vàng ngập lên đến chừng nửa mét. Chúng tôi tìm được nẻo sống giữa cõi chết, ngâm mình trong nước, lưng tựa vào vách giếng, nhớ lại cảnh tượng vừa nãy, từ nẻo sống đến cõi chết rồi lại từ cõi chết về nẻo sống, đi một vòng như thế cũng chẳng qua chưa đầy hai, ba phút đồng hồ, vậy mà cảm tưởng đằng đẵng như trời đất đã già cỗi rồi vậy. Đây có lẽ chính là Thuyết tương đối mà người ta vẫn hay nói đến, thời gian hạnh phúc của đời người có trôi qua chậm đến mấy cũng thật ngắn ngủi, còn thời gian đau khổ thì ngắn ngủi đến mấy cũng khiến người ta cảm thấy sao mà đằng đẵng lâu dài.
Lúc đó tôi cũng không ngờ, thứ nước ngưng kết từ sinh khí ấy không chỉ cứu mạng chúng tôi khỏi lũ rận. Cổ nhân thường nói: “Núi cao sông lớn, tương thông với địa khí, ắt sinh ra ngọc tủy, ăn vào thì bất tử”, thứ nước tựa quỳnh tương ngọc dịch này tuy không thể khiến người ta bất tử, nhưng đích thực giải được trăm nghìn loại kỳ đôc, có tác dụng khởi tử hồi sinh.
Chất độc trên người tôi, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đều bất giác được giải trừ, có lẽ vì mạng chưa đến nỗi tuyệt, cũng có lẽ đây chỉ là kỳ tích của giai cấp vô sản, nhưng lúc ấy chúng tôi đều đờ hết cả người, một lúc lâu sau vẫn chưa hiểu mọi việc xảy ra như thế nào. Chỉ thấy rận nổi lềnh phềnh trên mặt nước, con nào con nấy tròn nần nẫn, trắng xóa cả một mảng nước, số lượng phải lên đến hàng vạn cũng không chừng. Tôi bắt mấy con lên, thấy toàn thân con rận trắng như tuyết, hình tròn mà hơi dẹt, mọc tuyền một thứ lông cứng không màu, phần bụng to phình, sáu chân khua loạn, lấy ngón tay bóp mạnh liền chảy ra một thứ nước đen đen.
Lão Dương Bì đột nhiên mở miệng nói với chúng tôi, hồi trước ông già đi đào mồ trộm mả, từng nghe người ta nói đến loại rận sống ký sinh trên cương thi, không ngờ trên đời lại có thứ như thế thật. Nếu không phải trong giếng vàng có thủy đảm cứu mạng, cả bọn đã chết ngắc từ lâu rồi. Thứ rận này vốn không phải vật sống! Con hoàng bì tử kia lúc sống đã luyện được một viên nội đan to như quả trứng bằng máu, lúc chết đi, viên nội đan không bị tiêu biến, mà sinh ra vô số con rận kiểu này, nên gọi chúng là kết tinh của linh khí thì đúng hơn. Bình thường, lũ rận bám vào lông mao của cương thi, gặp người liền sống dậy, nước lửa đều không thể tiêu diệt, chuyên đi hút tinh khí người sống, sau đó bổ trợ về cho viên nội đan kia. Số rận trên một cương thi đủ khiến trong phương viên mười dặm quanh đó không còn lại một người nào sống sót. Cũng may là Tuyền béo đã giẫm nát quả trứng máu ấy, bằng không thì dù chúng tôi có thủy đảm giữ mạng, lũ rận cũng tiếp tục không ngừng sinh ra, cho đến khi nào hút sạch hồn phách của người sống xung quanh mới thôi. Sợ rằng những người trong viện nghiên cứu này đều không đề phòng, nên mới mất mạng hết loạt như thế, cũng may cái mạng của chúng tôi cũng khá lớn. Lão Dương Bì còn cho rằng, nhờ đi cùng thanh niên trí thức của Mao chủ tịch nên ông mới còn sống được đến giờ. Lũ rận này đều đã hút no nước, nhưng viên nội đan bị hủy rồi, chẳng bao lâu nữa chúng sẽ khô kiệt tiêu tán, không uy hiếp người sống được nữa.
Tôi hỏi lão Dương Bì: “Chuyện này rốt cuộc là như thế nào, càng lúc cháu càng thấy mình hồ đồ rồi đấy! Chúng ta đã trải qua khảo nghiệm sinh tử, cũng ngồi chung một con thuyền cả rồi, sống thì cùng sống, chết thì chết chung, không cần phải che giấu chuyện gì nữa.”
Lão Dương Bì khó nhọc đứng lên khỏi làn nước, ông già thừa nhận tuy đã nói gần hết sự thật với chúng tôi, nhưng đích thực cũng còn che giấu ẩn tình. Có điều, giờ không phải lúc nói chuyện này, giếng vàng này cũng không phải nơi an toàn, cần phải mau chóng rời khỏi đây, đợi khi nào ra ngoài nói gì cũng không muộn.
Cả bọn ngâm mình trong làn nước sạch một lúc, tuy toàn thân trên dưới lạnh run bần bật, nhưng vết thương đã hết đau đớn, trong người cũng có thêm mấy phần sức lực. Nghe lão Dương Bì nói nơi đây vẫn còn nguy hiểm, tất cả bèn leo vội lên, người sũng sĩnh ướt như chuột lột. Tôi định quay lại tòa nhà của viện nghiên cứu kiếm vài bộ quần áo khô ráo thay ra, chứ thế này cũng chẳng về được. Cả bọn vừa quay ra đến chỗ hang động đầy xác rùa, đã nghe phía trước có gió nổi lên, từng luồng hắc khí lướt qua trước mắt, vươn tay ra chộp một cái, chỉ thấy toàn là mỡ người chết cháy đen kịt.


Chương 49: Thiệt lậu

Từ hang động chôn xác bên ngoài vẳng vào tiếng gió rít gào, cuốn theo âm thanh như thể quỷ khóc sói tru, lại như rồng gầm hổ hú, làm vách động rung lên bần bật, từng mảng bụi đen bay dập dờn trong không khí. Chúng tôi vung tay đánh tạt một làn khói đen ập vào mặt, chỉ thấy đầu ngón tay trơn trơn dinh dính, đều là mỡ nóng nhẫy, chẳng hiểu là mỡ người hay mỡ bò.
Lão Dương Bì hét lớn: “Con yêu long sắp về ổ rồi!” Nếu bị cơn gió đen này cuốn phải, thì chẳng khác nào bị thiêu đốt bằng nhiệt độ cao trong lò đốt xác, người đang sống sờ sờ chỉ trong chớp mắt sẽ biến thành tro bụi.
Tôi biết chuyện này không phải trò đùa, hai chân guồng liên tục, vừa chạy vừa thúc giục mấy người còn lại chạy cho mau. Cái hang để xác rùa này địa thế bằng phẳng, trận gió nóng ấy lùa vào trong đây thì đừng hòng sống sót, đường sống duy nhất chính là mau chóng nhảy xuống nước ngầm bên dưới cây cầu trước khi trận yêu phong vô hình vô ảnh đó xuất hiện. Lúc này, chẳng ai còn nghĩ được đến nguyên nhân hậu quả gì nữa, đồ đạc trên người thứ gì vứt được thì đều vứt đi hết, càng nhẹ thì chạy càng nhanh.
Âm thanh như thể ngàn vạn con quỷ đang gầm rú trong đêm bên ngoài cửa động càng lúc càng lớn, chúng tôi gần như vừa lăn vừa bò đến bên cạnh cây cầu, rồi men theo chỗ nham thạch ở cạnh chân cầu chui xuống làn nước ngầm lạnh thấu xương tủy. Chỗ nước này không sâu lắm, chỉ ngập chưa đến ngực, cảm giác lũ cá mù mắt lướt qua bên người tựa như có vô vàn bàn tay băng lạnh trơn nhẫy chọc loạn xà ngầu vào thân thể, càng khiến chúng tôi thêm kinh hãi. Ngay phía trên đầu là ngọn nghiệp hỏa vô cùng vô tận của chốn địa ngục A Tỳ rú rít phừng phừng, chỉ cần ló đầu lên khỏi mặt nước, tai liền lập tức nghe thấy tiếng gió nóng dữ tợn lướt vù qua.
Chúng tôi trầm mình xuống đợi một lúc lâu, tiếng gió bên trên đột nhiên im bặt, tất thảy trở về với trạng thái tĩnh lặng ban đầu, bấy giờ, bốn người mới ló đầu lên khỏi dòng nước ngầm, toàn thân ướt sũng. Sau khi xác định đã thật sự an toàn, chúng tôi mới lập cà lập cập leo lên cầu, lạnh đến nỗi ai nấy run bần bật, răng trên đập vào răng dưới, muốn nói mà không sao mở miệng ra nổi, cứ thế lò dò lần ra phía cửa động huyệt. Trong hang chứa xác khổng lồ bên ngoài, gần như tất cả thi thể đều bị “phần phong” thiêu đốt, trở thành tro than đen kịt. Điểm này không ngờ lại giống hệt như truyền thuyết về Quy miên địa, thi thể chôn trong hang động quy tập xác của lũ rùa cuối cùng toàn bộ sẽ vũ hóa phi thăng, không để lại dù chỉ là một mẩu xương nhỏ.
Chúng tôi đi theo đường cũ trở về, lúc này lửa trong tầng ngầm viện nghiên cứu đã tắt, thế lửa cũng không lan tiến mấy tầng bên trên. Trong một gian phòng trên lầu, chúng tôi định lột mấy bộ quần áo của người chết để thay, nhưng rồi lại thấy chẳng thể nào mặc được thứ quần áo đó, đành bỏ lại, rồi đốt một đống lửa sưởi, hong cho khô người. Cả bốn người lạnh tái mét cả mặt, hai môi xanh tím, nhớ lại những gì vừa trải qua trong động Bách Nhãn này, thật đúng là không dám ngoảnh đầu lại. Đặc biệt là lão Dương Bì, ông già thấy thi thể người anh em Dương Nhị Đản của mình bị thiêu rụi cùng vô số xác chết khác trong hầm ngầm, thì hết sức đau xót. Lão Dương Bì quê ở Thiểm Tây, xưa nay theo tục thổ táng, người chết chôn dưới một nấm đất vàng vậy mới có mặt mũi mà đi gặp tổ tông, tư tưởng “nhập thổ vi an” đã bén rễ ăn sâu vào trong suy nghĩ. Lúc này, nửa túi thuốc lá đeo ở cái nõ điếu đã ướt sũng, không có thuốc, tinh thần càng không được yên, chốc chốc ông lão lại lắc đầu, thở ngắn thở dài, thật không biết trong lòng đang nghĩ điều gì nữa.
Tuyền béo thì chẳng hề để tâm chuyện xảy ra hôm nay, lại còn ra điều khuyên bảo mọi người: “Sao ai nấy đều ủ ê sầu thảm chẳng có tí tinh thần nào vậy, chẳng phải chúng ta vẫn đang sống khỏe sống mạnh đấy sao? Lần này không chỉ nhận thức được uy lực tàn khốc vô tình của tự nhiên, mà còn có thể rèn luyện phẩm chất ý chí của bản thân ở trình độ cực cao. Một chút thế này có đáng gì chứ, phải biết rằng, dòng lũ cách mạng mới chỉ vừa bắt đầu thôi, bãi bể mênh mang, chiến trường sau này mới thực sự là nơi chúng ta thể hiện bản sắc anh hùng chân chính.”
Lòng rối như tơ vò, tôi cúi đầu suy nghĩ vẩn vơ, chẳng buồn để ý đến Tuyền béo cứ ra rả hót như khướu bên cạnh. Đinh Tư Điềm lại đang bận rộn kiểm tra thương tích cho cả bọn, vết chém trên vai tôi tuy sâu, nhưng may không phạm đến gân cốt, chỉ cần không bị viêm nhiễm gì thì chắc cũng không nguy hiểm lắm. Tuyền béo thì bị lão Dương Bì cắn mất một miếng thịt to trên cổ, thương thế không nhẹ, cựa quậy mạnh một chút là chỗ vết thương liền rỉ máu, nhưng cậu ta khỏe như gấu đen, da dày như da trâu, nên cũng chẳng coi chút đau đớn ấy vào đâu.
Tuyền béo phát hiện ra vết thương trên bàn tay Đinh Tư Điềm cũng chưa khép miệng. Cô bị thương từ lúc đoạt lấy thanh đao trong cái hang cây. Từ đầu đến giờ, tính ra lúc bốn người đều bị vây khốn trong cái hốc cây, đối mặt với hai con hoàng bì tử biết thuật đọc tâm là nguy hiểm nhất, hồi tưởng lại, nếu chẳng phải nơi đó địa hình chật hẹp, hoàn cảnh đặc thù thì không khéo cả bọn đã chôn xác trong hang cây đó thật rồi.
Tuyền béo nắm được lý, bèn nhất quyết không chịu buông tha lão Dương Bì. Cậu ta bắt ông già phải nhìn thật kỹ vết thương trên tay Đinh Tư Điềm, bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại xinh đẹp như thế, lại bị lưỡi đao cứa cho thấy cả xương, tất cả đều do lão Dương Bì gây ra cả. Cậu ta còn trách móc, bảo nếu ông già chịu nói sự thực ra sớm thì cũng không đến nỗi cả bọn sém chút nữa mất mạng. Chẳng những vậy, giờ cái ông lão Dương Bì đáng ghét ngụy trang thành tầng lớp bần hạ trung nông này dường như vẫn còn đầy một bụng âm mưu ngụy kế chưa nói hết ra với mọi người, thật là đáng căm đáng giận, xem ra ông này đã quyết tâm tuẫn táng cùng giai cấp địa chủ bóc lột rồi, nhất định phải hiệu triệu quần chúng cách mạng cùng hành động, mở đại hội phê đấu mới được.
Đinh Tư Điềm không đồng ý với quan điểm của Tuyền béo: “Mao chủ tịch đã nhiều lần nhấn mạnh, chúng ta phải kiên trì nguyên tắc thực sự cầu thị, mọi người đều bình đẳng trước chân lý. Trong tình hình chân tướng chưa rõ ràng, tuyệt đối không được võ đoán và áp bức nhân dân, thế thì có khác gì quân phiệt đâu chứ. Mình tin ông lão Dương Bì có nỗi khổ riêng, vả lại, Tuyền béo bạn cũng đừng quên, mạng của chúng ta vừa rồi đều do ông ấy cứu về đấy nhé.”
Tuyền béo lập tức nói ngay với Đinh Tư Điềm: “Nguyên tắc mà bạn nói chỉ thích hợp áp dụng cho mâu thuẫn nội bộ trong quần chúng nhân dân, còn vấn đề đường lối thì nhất quyết không thể dung hòa được. Chúng ta cần phải xác định lập trường rõ ràng, tôi thấy lão Dương Bì này bụng dạ khó lường, ai mà biết được trong đầu ông ta có giấu giếm mưu đồ lật lọng gì hay không?” Nói dứt lời, cậu ta lại quay sang hỏi tôi: “Ê Nhất, cậu cũng tỏ thái độ đi chứ, tôi nói có lý không hả?”
Tôi nói với Tuyền béo và Đinh Tư Điềm: “Theo lẽ thường, sự việc đàn bò mất tích không liên quan gì đến bọn mình, nhưng hai hôm nay chúng ta vào sinh ra tử mà không chớp mắt lấy một lần, không ai làm con rùa rụt đầu, đó là vì cái gì chứ? Tôi nghĩ, chính là bởi chúng ta tin rằng lão Dương Bì là bần nông ba đời, thanh niên trí thức chúng ta và giai cấp bần hạ trung nông xưa nay vai kề vai, tim liền tim, thảy đều là giai cấp vô sản cả. Quan điểm của mọi người tôi đều không đồng ý, tuy rằng tôi vẫn bảo lưu ý kiến về thành phần giai cấp của ông lão Dương Bì, thậm chí còn rất nghi ngờ động cơ của ông, không biết rốt cuộc ông có mục đích gì. Song đồng thời, tôi cũng cảm thấy hết sức căng thẳng, lo lắng và bất an trước hành động quá khích của Tuyền béo, vì điều này không hề phù hợp với nguyên tắc về thái độ khách quan trước vấn đề cụ thể, phương pháp phân tích cụ thể của chủ nghĩa Mác - Lê một chút nào cả.”
Tuyền béo vẫn kiên trì đòi đấu tố, kêu toáng lên: “Nhất này, tiên sư nhà cậu, đừng có giở cái trò khách quan với chẳng thái độ với tôi nhé. Đây rõ rành rành là muốn theo chủ nghĩa trung dung điều hòa rồi! Có nói cũng như không, tôi muốn cậu hãy dùng lập trường của con cháu một quân nhân cách mạng chân chính mà bày tỏ thái độ của mình ấy!”
Ba chúng tôi còn đang tranh chấp chưa ngã ngũ thì lão Dương Bì đột nhiên lên tiếng: “Đừng cãi nhau nữa, cãi cái gì chứ? Tôi có chuyện giấu giếm mấy thanh niên trí thức các cô cậu, chỉ vì sợ để vị thủ trưởng họ Nghê kia biết được thôi…”
Một lời này khiến cả bọn đều bất ngờ, không hiểu sao lão Dương Bì lại đột nhiên lôi cả tay thủ trưởng họ Nghê kia vào. Chẳng lẽ tay đó cũng có quan hệ mờ ám gì với khu vực động Bách Nhãn này sao? Nhất thời, ba chúng tôi đều im lặng, để lão Dương Bì nói rõ sự tình, bằng không lúc về đến khu chăn nuôi bị người ta gặng hỏi, thật cũng chẳng biết phải ăn nói thế nào nữa.
Nghe lão Dương Bì giải thích, thì ra ông cũng không có ý giấu giếm chúng tôi sự thực gì, chỉ là trong thời đại cả xã hội đang hừng hực phong trào bài trừ mê tín dị đoan này, đến người có ý thức giác ngộ thấp như ông già cũng biết có một số chuyện không thể nói bừa nói bậy, nói ra rồi sẽ lập tức trở thành cái bia cho tất cả mọi người nhắm vào. Mấy chuyện ông che giấu đều là những tục lệ ở quê, chuyện này để đám thanh niên trí thức nhập gia tùy tục biết cũng không sao, chỉ sợ không may lọt đến tai ủy ban thì phiền phức to.
Lão Dương Bì sở dĩ nắm rõ tình hình khu vực động Bách Nhãn này như lòng bàn tay thế, là bởi sau khi người anh em Dương Nhị Đản của ông lão tìm thấy cái rương đồng kia, mang đến cơ sở nghiên cứu của quân Nhật liền mất tích, tuy ông lão lại nhu nhược nhát gan, không dám tiến vào tra xét chân tướng, song mấy chục năm nay ông cũng chẳng ở không. Năm xưa, ông đi theo tay trộm mộ họ Trần kia cũng học được một ít ngón nghề, biết rằng có rất nhiều con đường tìm long mạch đổ đấu, chẳng hạn như cải trang, thay hình đổi dạng đến những nơi có mộ cổ thăm dò, tìm hiểu đầu mối từ miệng những người dân bản địa, ví như trên núi có truyền thuyết gì, có di tích gì không... qua những đầu mối ấy, một là có thể tìm ra vị trí mộ cổ, hai là cùng có thể từ một khía cạnh khác mà suy luận xem xung quanh mộ cổ có gì nguy hiểm không, dân hắc đạo gọi là “đạp mâm”. Đạp mâm vốn là một môn biểu diễn tạp kỹ trong dân gian, ý chỉ phải cẩn thận, thăm dò hung cát hư thực, trong giới đổ đấu coi cách dùng phương thức này để thăm dò những đầu mối quan trọng là “thiệt lậu”.
Lão Dương Bì ở khu vực xung quanh động Bách Nhãn đã thăm dò được vô số thông tin kiểu này, chắp nối những truyền thuyết dân gian tản mác lại với nhau, rồi dựa trên kinh nghiệm trước đây tiến hành sàng lọc, loại trừ, đã dần dần biết được một chút nội tình đằng sau tấm màn bí mật phủ che động Bách Nhãn.
Thực ra động Bách Nhãn vốn không phải hang động chứa xác hay mồ mả gì của người Tiên Ty cả, bên trong cũng có rất ít xác chết của dân bộ tộc này, nhưng nơi này và động Cát Tiên, đích thực là hai địa thánh địa đại biểu cho Âm và Dương, Sinh và Tử. Bởi người thời cổ sống trên mảnh đất này đã phát hiện có rất nhiều rùa lớn đến đây vùi xác, lại thường có hình ảnh đình đài lầu các như cõi tiên xuất hiện trong hang động, không biết đó chỉ là ảo ảnh do hải khí trong mai rùa sinh ra, liền cho rằng đấy là địa ngục, cõi về của vong linh người chết. Dân du mục xưa nay vẫn coi trọng nhất là thiên táng, không để tâm nhiều đến chuyện nhập thổ vi an, nhưng cũng vẫn có khá đông người thuộc các dân tộc có bối cảnh văn hóa và tôn giáo tín ngưỡng khác nhau đến đây thực hiện nghi thức tế núi.
Cho đến khi ở vùng Đại Hưng An Lĩnh xuất hiện “Nguyên giáo,” “Nguyên” ở đây chính là “Hoàng”, tôn giáo này thờ phụng Nguyên đại tiên, chữ “Hoàng” xung với hành kim, vì vậy không gọi là “Hoàng” mà đổi trại đi thành “Nguyên”, một độ cũng vô cùng thịnh vượng, tín đồ vô số. Tương truyền, đại vu sư (thầy mo) của Nguyên giáo là một nữ tử do Hoàng đại tiên hóa ra, cả ngày đeo mặt nạ ngồi trong điện, thiện nam tín nữ đến lễ bái, cầu gì được đó.
Kỳ thực, kẻ được gọi là Hoàng tiên cô ấy, chẳng qua chỉ là một cái xác vô danh được chế thành vỏ da người, lũ lừa đảo bỏ một con hoàng bì tử vào bên trong, lợi dụng ảo thuật để mê hoặc lòng người. Có điều, lão Dương Bì không biết điểm này, ông già vẫn nói cái xác ấy thực đúng là do Hoàng đại tiên biến ra, nhưng tôi và Tuyền béo thì đã thấy thứ vỏ da người rỗng ruột này trong gian mật thất, nên mới biết được sự ly kỳ khúc chiết bên trong.
Lão Dương Bì nghe tôi kể chuyện con rối da người ấy, cũng có cảm giác như bừng tỉnh ngộ, ngay sau đấy, ông già lại tiếp tục kể về Nguyên giáo. Nguyên giáo hấp thu rất nhiều thuật bùa phép của dân bản địa vùng Đông Bắc, như là thuật nhảy đại thần. Nhảy đại thần chính là một vũ điệu của đạo Shaman, nhưng giáo phái này lại tiến hành một cách cực kỳ bí mật, về sau còn lan rộng ra đến tận thảo nguyên. Khu vực động Bách Nhãn này là vùng trọng yếu tiếp giáp giữa sa mạc và thảo nguyên, bây giờ ở khe núi thường hay có người và súc vật mất tích. Sau khi Hoàng đại tiên chết, đám lừa đảo Nguyên giáo liền rêu rao rằng dưới lòng đất có con yêu long, trốn từ Âm phủ ra tác quái, chỉ cần mang thi thể Hoàng đại tiên chôn ở động Bách Nhãn là sẽ trấn áp được hồn phách nó, nên đã xây một ngôi mộ có giếng vàng phong thủy, táng xác Hoàng đại tiên, cũng chính là con rối da người kia vào đó. Kỳ thực bọn chúng làm vậy, chẳng qua chỉ để chiếm mảnh đất báu quy tập xác rùa, ngưng kết được sinh thủy này mà thôi. Chẳng những thế, chúng còn tuyên truyền rằng, nếu các tín đồ trong giáo quyên góp tiền bạc, sau khi chết táng vào đất này liền có thể vũ hóa phi thăng, kết quả là vô số người dốc cả gia tài vào đó. Nhất thời, người người đều theo, trong hai trăm năm, khu động Bách Nhãn này không biết đã chôn bao nhiêu người chết nữa.
Hoàng đại tiên của Nguyên giáo, như đã nói, trên thực tế chỉ là một cái xác phụ nữ bị khoét rỗng. Ngoài ra giáo phái này còn có một cái rương chiêu hồn bằng đồng, bên trong chứa xác một con hoàng bì tử già đã bị thi biến. Cái rương chiêu hồn này đặt bên trong giếng vàng, xung quanh còn nuôi một số chồn lông vàng để canh giữ. Nghe nói, hồn phách của tất cả người chết trong ngôi mộ tập thể này bị hút cả vào trong cái rương đó, nếu người nhà muốn nói chuyện với những người đã chết nhiều năm, chỉ cần nộp vàng bạc cho Nguyên giáo, Hoàng đại tiên liền có thể dùng cái rương đồng triệu hồi vong hồn trở lại cõi Dương.
Nhưng vật cực tắc phản, Nguyên giáo trải qua thời kỳ cực thịnh, cuối cùng cũng bị giai cấp thông trị trấn áp, dần dần suy bại, đám tín đồ còn sót lại mang theo chiếc rương chiêu hồn lẩn về vùng rừng sâu núi thẳm bên trong dãy Đại Hưng An Lĩnh, xây một ngôi miếu thờ Hoàng đại tiên, tiếp tục những trò thần bí của họ. Bây giờ trong núi có mạch vàng, người tìm vàng cực nhiều, vì từ thời xa xưa đã có truyền thuyết rằng vàng ở trên núi đều do hoàng bì tử cất giấu, vì vậy những người đào vàng ấy đều đến thắp hương cúng bái. Miếu Hoàng đại tiên lại được một độ trung hưng.
Nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang, vì có vài kẻ gan lớn tày trời, không nén nổi tò mò mà lén xem trong cái rương đồng kia rốt cuộc là thứ gì, kết quả khiến cả một vùng quanh đó người chết vô số, mạch vàng trong núi chẳng rõ là đã đào hết hay mọc chân chạy mất mà cũng tan biến luôn, về sau, lại có một trận lở đất chôn vùi ngôi miếu Hoàng đại tiên ấy, không ai còn biết bên trong đó có gì nữa. Cũng chính vì thế, mà nấm đất trong núi Đoàn Sơn ấy mới được gọi là Mộ Hoàng Bì Tử, có điều, rất hiếm người biết nguồn gốc cái tên này, lão Dương Bì cũng chỉ là tình cờ nghe ngóng được mà thôi.
Về sau, quân Quan Đông thành lập một đơn vị bí mật chuyên môn nghiên cứu vũ khí giết người, ở bên ngoài chỉ biết đến với cái tên đơn vị bộ đội cấp nước. Đơn vị này rất có hứng thú với truyền thuyết kể trên, cho rằng cái rương đồng là một loại vũ khí bí mật cổ xưa, đào bới trong động Bách Nhãn mà không thấy, bèn mua chuộc bọn Hán gian đi khắp nơi tìm kiếm, cuối cùng đã giành được về tay. Có điều, khi chiếc rương đồng được mang đến động Bách Nhãn, liền sau đó xảy ra một tai nạn khủng khiếp, người chết sạch sành sanh không sống sót mống nào. Còn người trong viện nghiên cứu này đã chết như thế nào, thì cũng có rất nhiều khả năng, chưa chắc đều do bị lũ rận trong rương đồng hút đến cạn kiệt sinh khí mà chết. Thậm chí, cũng có khả năng là do hai con hoàng bì tử toàn thân lông trắng kia gây ra, bọn chúng biết được trong cái rương đồng ấy là lão tổ tông của mình, bèn bám đuôi theo đến đây rồi hại chết tất cả người sống trong khu vực động Bách Nhãn này chỉ trong một đêm. Với thủ đoạn kỳ dị đáng sợ của chúng, cũng không phải là không thể gây nên sự việc như thế. Từ điểm này có thể nói, hoàng bì tử cũng coi như là có cống hiến cho công cuộc kháng Nhật rồi. Đương nhiên, đây chỉ là suy đoán về sau, trừ phi người chết sống lại, tiết lộ mọi sự việc đã xảy ra ngày hôm đó, bằng không thì chúng tôi vĩnh viễn cũng không thể nào biết được đáp án thực sự. Tóm lại, sự việc người sống trong viện nghiên cứu này chết tiệt hết cả, chắc chắn là có liên quan đến cái rương đồng mà bọn thổ phỉ Nê Hội kia mang tới.
Lão Dương Bì tuy biết cái rương chiêu hồn này đã rơi vào động Bách Nhãn, người anh em ruột thịt của ông tám chín phần cũng đã chết ở trong đó, nhưng bao nhiêu năm nay ông vẫn không đủ dũng khí tiến vào xem thử, bởi xét cho cùng nơi đó cũng là Quỷ nha môn, chỉ có đường vào mà không có lối ra trong truyền thuyết. Vì vậy, ông vẫn ở trên thảo nguyên làm việc lặt vặt mưu sinh, đến sau giải phóng được liệt vào thành phần bần hạ trung nông, chuyển sang làm chăn nuôi, lại càng chẳng có cơ hội đến động Bách Nhãn nữa.
Có điều, trời đất gió mưa khó lường, năm nay các khu chăn nuôi đều bị thiên tai, chỉ có vùng thảo nguyên này là mọi sự bình an, trở thành điển hình thúc đẩy sản xuất cách mạng. Tay thủ trưởng họ Nghê kia còn truyền chỉ thị, ở gần Mông Cổ còn một vùng đồng cỏ lớn để không, cần phải lợi dụng triệt để, chuyển một nhóm dân du mục chịu ảnh hưởng của thiên tai mang theo gia súc đến đó qua mùa đông giá lạnh.
Lão Dương Bì vừa nghe chuyện này đã sợ bủn rủn cả người, nhiều năm nay, cũng bởi các loại truyền thuyết chỉ nghe đã dựng hết cả tóc gáy về động Bách Nhãn, thực sự không ai dám tiến vào khu vực đồi núi ấy cả. Dân du mục đến đây, Ủy ban Cách mạng sớm muộn gì cũng phát hiện ra trong núi có giấu một cái rương chiêu hồn. Chuyện khác thì cũng không nói, nhưng vong hồn của Dương Nhị Đản vẫn còn bị nhốt trong đó, ngoài ra, nói sao thì cũng không thể nào mở mắt trân trân ra đấy nhìn người ta đi vào rồi mất mạng cho được. Nhưng chuyện này làm sao ông già dám nói ra chứ. Bản thân ông cũng không ngờ chuyến này mình lại đi càng lúc càng sâu vào bên trong động Bách Nhãn, đến khi trông thấy thi thể bị thi sâm cuốn lấy của Dương Nhị Đản, ông mới không sao khống chế được cảm xúc, suýt chút nữa mở cái rương đồng đó ra, cũng may là Tuyền béo đã kịp thời cản lại.
Sau đó, nhân lúc chúng tôi đều cực độ mệt mỏi mà ngủ thiếp đi, lão Dương Bì tuổi cao ngủ ít, chỉ mơ màng một lúc rồi tỉnh dậy. Ông già đi theo người họ Trần kia đổ đấu mấy năm cũng không uổng phí, đã học được thuật thoát thân khá tài tình. Ông lấy lưỡi đao cọ đứt dây lưng da trói tay chân mình, rồi lén lút trở lại gian mật thất kia, khóc rống lên với Dương Nhị Đản một chập, còn nhiếc móc y biển khổ sao không biết quay đầu.
Tuyền béo nghe giọng kể thê lương buồn thảm của lão Dương Bì, đột nhiên lại thấy mềm lòng, liền chõ miệng vào khuyên: “Làm thổ phỉ, làm Hán gian mà chết, nhẹ tựa lông hồng...” Đinh Tư Điềm sợ Tuyền béo lỡ mồm, tiếp đấy sẽ nói toàn mấy lời vớ vẩn chọc đúng vào nỗi đau của lão Dương Bì, bèn vội vàng đưa tay bịt miệng cậu ta lại.
Lão Dương Bì thở dài một tiếng, chết đúng là nhẹ tựa lông hồng, người chết để danh, nhạn chết để tiếng, nếu như cái chết còn nhẹ hơn cả sợi lông hồng, đó há chẳng phải là một nỗi bi thương lớn lao lắm hay sao? Lần thứ hai trở lại gian mật thất, nhìn thấy thi thể của Dương Nhị Đản, lão Dương Bì cuối cùng cũng tỉnh ngộ ra được phần nào. Kết cục của người này toàn bộ đều do y tự chuốc lấy, mình đã khuyên y cả trăm cả nghìn lần rồi, anh em ruột thịt, làm như vậy cũng coi như là đã tận tình tận nghĩa. Sau đấy, ông lại lo một thời gian nữa sự việc ở động Bách Nhãn sẽ bị lộ, sợ cái rương bị người nào không hiểu chân tướng vô tình mở ra, làm hại đến tính mạng kẻ vô tội, bèn quyết định đem nó chôn vào giếng vàng bên dưới động rùa, kết quả là bị Tuyền béo vô ý làm vỡ toang, ông già vội cuống cuồng bảo mọi người nhảy xuống dưới giếng vàng, may mắn tìm được đường sống trong cõi chết. Vậy là, cái rương đồng chiêu hồn của Hoàng đại tiên đã bị hoàn toàn phá hủy.
Tôi nghe tới đây, cảm thấy chuyện cái rương đồng đựng xác con chồn vàng có thể chiêu hồn ấy, giờ thật khó mà đoán biết được là đúng hay không. Thời xưa, đám thầy cúng thầy mo thường dùng thủ đoạn này để lừa ăn lừa uống, nhưng chuyện gọi hồn oan lên để tra án thẩm vấn cũng đã có từ thời cổ đại, chẳng ai biết thật giả thế nào. Có điều, tôi thà tin rằng đó chỉ là trò ảo thuật lừa đảo còn hơn, bằng không người chết rồi vẫn không được giải thoát, người sống chỉ cần bỏ tiền ra là có thể gọi lên lục vấn hỏi han, một kẻ theo chủ nghĩa duy vật như tôi thật không tài nào chấp nhận nổi.
Lão Dương Bì không nói với chúng tôi chuyện cái rương chiêu hồn và Hoàng đại tiên, thực tế là bởi lo tay họ Nghê kia biết ra. Ông lão này tuy không hiểu tình hình đấu tranh cho lắm, song cũng hiểu nếu để người ta chụp cái mũ ấy lên đầu thì không chỉ bản thân mình không gánh nổi tội, mà cả nhà con trai cũng phải chịu liên lụy nữa.
Thời trước giải phóng, ông đã theo một tay trùm trộm mộ đổ đấu mấy năm, kiến văn rất rộng, biết được rất nhiều sự việc ly kỳ, chẳng qua bình thường vẫn cứ giấu giếm không để lộ mình mà thôi. Tuy ông không hiểu thuật phong thủy thanh ô, nhưng tiếp xúc với mộ cổ mộ hoang nhiều, cũng nghe hơi nồi chõ được một vài điều cơ bản. Trong mắt các bậc chuyên gia, nước trong giếng vàng là nơi long khí tụ tập, rồng nhả quỳnh tương, có tác dụng khởi tử hồi sinh. Thứ long khí vô hình vô ảnh ở ngoài khe núi kia chính là bắt nguồn từ đây, đối với ông, thứ long khí có thể nuốt lấy mọi sinh vật sống đó, chính là một con rồng thực thụ. Kể tới đây, lão Dương Bì đột nhiên giơ nắm tay lên, xòe ra, để lộ một lá bùa hình con rồng không có mắt bằng đồng xanh cho chúng tôi xem, đồng thời nói ra một thông tin cuối cùng.


Chương 50: Phần phong

Tôi đón lấy tấm long phù trên tay lão Dương Bì xem kỹ, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm cũng tò mò vây quanh nhìn ngó một lúc lâu, nhưng chúng tôi đều không biết rốt cuộc là thứ gì. Tấm long phù này được đánh bằng đồng xanh, công nghệ cũng không thể coi là tinh tế cho lắm, nhưng hình dạng rất quái dị, so với hình rồng người ngày nay vẫn quen thuộc thì khác biệt rất lớn. Tấm bùa rồng dài khoảng hai mươi xăng ti mét, chân có năm móng, đầu có sừng, đuôi xòe, trông hết sức tự nhiên. Đầu rồng không có mắt, là một con rồng mù, nhìn sắc đồng xanh biếc, cầm trên tay thấy nhẹ như tấm bìa bồi, áng chừng là cổ vật được mấy nghìn năm tuổi rồi.
Tôi hỏi lão Dương Bì: “Niên đại của tấm long phù này dường như rất xa xưa, ông lấy ở đâu ra thế? Chẳng lẽ có quan hệ gì với cái hang đầy xác rùa dưới kia?”
Lão Dương Bì đưa đôi mắt đùng đục của mình liếc tấm long phù bằng đồng xanh, nói vật này là minh khí ông nhặt được trong cái quan tài đồng của hoàng bì tử, là đồ bồi táng cho Hoàng đại tiên. Lúc đó, mọi người thoát chết trong giếng vàng, quay trở ra thần hồn vẫn chưa bình tĩnh lại, chẳng ai để ý thấy lão Dương Bì tiện tay dắt dê, vớ được một món minh khí trong cái rương đồng ấy cả.
Năm xưa, lão Dương Bì cũng là thăm dò tin tức từ chỗ một ông thầy mo già, mới biết trên đời này có một lá bùa hình con rồng không mắt như thế. Đạo Shaman trên thảo nguyên đã gần như tuyệt tích từ hồi trước giải phóng, địa vị của các thầy mo hầu hết đã bị các lạt ma thay thế, chỉ có những nơi thâm sơn cùng cốc ở vùng Đại Hưng An Lĩnh mới còn sót lại một vài thầy mo nhảy Shaman. Trong đó, có một vị thầy mo già là con cháu của tín đồ Nguyên giáo, ông ta ít nhiều cũng biết được một số bí mật về giáo phái này. Có điều, ông thầy mo ấy cũng không biết tấm long phù này được giấu bên trong cái rương đồng của Hoàng đại tiên, mà chỉ từng nhắc đến nó trong lúc nói chuyện. Lúc ra khỏi giếng vàng, lão Dương Bì vô ý nhìn thấy long phù rơi từ bên trong quan tài đồng xuống đất, bèn tiện tay nhặt về.
Vậy tấm bùa hình con rồng không có mắt cổ quái bằng đồng xanh này rốt cuộc là gì? Tương truyền, Nguyên giáo tìm được nó trong đống xác rùa vùi chôn trong động Bách Nhãn, lai lịch cụ thể như thế nào thì không ai biết được, rất có khả năng là do đám rùa to kia mang từ biển lên đất liền.
Trong các sách phong thủy cũng không đâu giải thích là Quy miên địa có trước, sau mới có “Quy miên”, hay là có “Quy miên” trước, sau mới thành “Quy miên địa”. Trên thế gian, thực ra vẫn tồn tại những vùng có phong thủy thổ nhưỡng tương tự, song chẳng ai có thể chắc chắn liệu có phải nhờ tiên khí mà lũ rùa mang từ biển lên mà mảnh đất báu này được hình thành hay không. Chính vì lượng rùa lớn tìm đến động Bách Nhãn vùi mình đông vô kể, mà xác mỗi rùa già đã sống nghìn vạn năm đều ngưng tụ một chút hải khí còn sót lại thuở sinh tiền, nên đáy động mới xuất hiện kỳ quan ảo ảnh mà chúng tôi đã thấy. Ngoài ra, còn nghe nói ở đáy biển có một loại “long hỏa” cháy ngầm, thứ âm hỏa này khác hẳn lửa trên mặt đất, gặp nước không tắt, nhiệt độ cực cao, có thể nung chảy cả đồng cả sắt. Lũ rùa sống dưới đáy biển, mai rùa nghìn năm được âm tinh hun đúc, lại thường gặp âm hỏa, hải khí dâng trào, nên trong mai rùa dần cũng tích tụ ẩn chứa một luồng gió nóng vô hình vô ảnh. Rất có thể vì lý do này mà thứ gió đó được gọi là “phần phong” trong kinh sách Phật giáo, chính là thứ âm phong thổi ra từ địa ngục, bất kể vật gì có máu thịt, chỉ cần chạm vào luồng gió này sẽ lập tức vĩnh viễn hóa hư vô.
Chuyện này trong di thư của người Nga kia cũng có đề cập, đáng tiếc là chỉ nói rất qua loa, hơn nữa trong tiếng Nga không có thuật ngữ phong thủy, một số danh từ đều chỉ phiên âm. Cũng may là tôi và lão Dương Bì mỗi người đều biết một ít kiến thức ngoài lề, ít nhiều gì cũng còn suy luận ra được đại khái tình hình. Có điều, cách lý giải của chúng tôi lại không giống nhau. Lão Dương Bì cứ một mực cho rằng, trận “phần phong” do yêu long hóa thành, hoàn toàn đúng như trong các truyền thuyết của Nguyên giáo, vốn đều cho rằng chính là oán niệm của nghiệt long trong động Bách Nhãn chui ra ăn thịt người và súc vật. Quan niệm này tồn tại từ thời xa xưa, e rằng có quan hệ rất lớn với tấm long phù tìm được giữa đống xác rùa. Tuy gốc gác thật sự rất mù mờ không ai rõ ra làm sao, nhưng dường như xuất phát từ đó mà khi xây mộ cho Hoàng đại tiên, người xưa mới khắc ký hiệu rồng mù lên những viên gạch trong giếng vàng.
Tôi lúc ấy chẳng tin trên đời có rồng hay có ma quỷ gì, nhưng lại không có lý do gì để phản bác, chỉ biết rằng trong sách Thập lục tự âm dương phong thủy bí thuật, ở đoạn giảng về long mạch phong thủy, có bàn đến khái niệm Tam đại long mạch: Nam, Bắc, Trung. Long hỏa ở đáy biển là của Nam long, thứ long hỏa này thực chất là do hải khí ngưng tụ sinh ra. Nhưng mấy thứ này trong sách này đều thuộc về phạm trù “Tứ cựu” của xã hội cũ, ngoài những lúc cực kỳ nhàn rỗi mới tiện tay lật giở xem qua vài lượt, còn đâu tôi cũng chưa bao giờ thực sự để tâm nghiền ngẫm, nên căn bản không thể hiểu được ý tứ sâu xa trong từng câu chữ.
Tôi trả miếng bùa bằng đồng lại cho lão Dương Bì, hỏi ông đằng nào cũng không biết thứ này dùng để làm gì, giữ lại phỏng có tác dụng gì? Con rồng bằng đồng này không biết có gì cổ quái hay không nữa? Thêm vào đó, vật này để trong cái rương đồng chung với con chồn lông vàng đã bị thi biến kia không biết bao nhiêu năm rồi, âm khí tích tụ, lại bị mùi thối của xác chết nhiễm vào, để bên cạnh người sống chỉ sợ không được cát tường.
Nhưng lão Dương Bì vẫn kiên quyết không chịu bỏ đi, nhất định giữ lại bên người. Cuộc đời này của ông già dường như có một mối nghiệt duyên không thể giải với cái rương chiêu hồn ấy, cả người anh em ruột thịt cũng chết vì nó, nên thế nào cũng muốn giữ lại chút gì làm kỷ niệm, coi như để có thứ mà ăn nói với chính bản thân mình. Đồng thời ông cũng xin chúng tôi đừng tiết lộ chuyện này ra ngoài.
Tôi đáp ứng lời thỉnh cầu của lão Dương Bì, sau đó cả bọn bắt đầu bàn cách làm thế nào để rời khỏi động Bách Nhãn, rồi cùng nhau nghĩ lời giải thích để trở về khu chăn nuôi còn đùn đẩy trách nhiệm. Giờ sắc trời đã muộn, chuột hoang ở ngoài cửa khe núi nhung nhúc, trời đã tối, lại có một đống du diên, độc trùng săn mồi, chúng tôi đành phải đợi đến sáng mới lên đường.
Có điều, kế hoạch không thể theo kịp tình thế biến đổi, hôm sau trời vừa sáng, đã có một nhóm người đông đảo đến động Bách Nhãn. Thì ra là tay thủ trưởng họ Nghê kia không che giấu được sự việc, ủy ban tiểu khu nghe nói bị mất khá nhiều bò, một nhóm gồm thanh niên trí thức và dân du mục đuổi theo về phía sa mạc Mông Cổ đã hai ngày vẫn không có tin tức gì, thì đâu dám coi thường, lại còn cho rằng đã phát hiện ra động hướng đấu tranh giai cấp mới, thêm nữa tình hình biên giới bấy giờ đang căng thẳng, không thể không cảnh giác, vậy là ngay trong đêm lập tức cầu viện phía quân đội hỗ trợ, một đại đội kỵ binh có dân du mục dẫn đường lần tìm vào khu vực động Bách Nhãn.
Bốn người chúng tôi đều bị thẩm vấn một cách nghiêm khắc, hỏi han đủ đường, may là trước đó bọn tôi đã có chuẩn bị, thống nhất lời khai, vả lại cũng không có ý đồ lừa dối tổ chức, chẳng qua có một số sự thực không có cách nào nói thật ra mà thôi. Nếu cứ y sự thực mà khai với tổ chức, chắc chắn sẽ sinh lớn chuyện, thành ra bọn tôi chỉ một mực nói rằng không đuổi kịp đàn bò, rồi lạc đường trong động Bách Nhãn, lại bị lũ dã thú tấn công nên chỉ biết luẩn quẩn tại chỗ chờ cứu viện. Sau đó tôi còn cao hứng phát huy khả năng thêm mắm dặm muối, báo cáo rằng nhờ có tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam đưa đường dẫn lối và tinh thần không nề gian khổ, không sợ chết chóc, tôi và Tuyền béo đã lợi dụng lò thiêu xác chết của quân đội Nhật Bản bắt sống được một con trăn vảy gấm, trong tình trạng lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm bị thương hôn mê bất tỉnh. Bộ xương của con vật này còn quý giá hơn cả bạch kim, nhưng chúng tôi không dám tham công, toàn bộ công lao này có được cũng đều do sự lãnh đạo chính xác của ủy ban mà ra cả.
Ủy ban Cách mạng vốn định nêu gương khu chăn nuôi này thành điển hình tiên tiến “làm cách mạng tăng gia sản xuất”, nhưng không ngờ lại để thất thoát cả đàn bò lớn, may mà thanh niên trí thức và dân du mục đã cùng nhau hợp tác bắt sống một con trăn vảy gấm, coi như là bù đắp được tổn thất nặng nề, có thể lấy công chuộc tội. Vì vậy, họ cũng cố gắng hết sức để che đậy sự việc. Sau khi thẩm vấn, Ủy ban tiến hành phê bình giáo dục, yêu cầu chúng tôi không lúc nào được quên đấu tranh với chủ nghĩa tư hữu, phê phán nghĩa xét lại, sớm thỉnh thị, chiều báo cáo, thường xuyên tác phê và tự phê, những chuyện khác đều không truy cứu sâu thêm nữa. Có điều, thanh bảo đao Khang Hy mà lão Dương Bì giấu riêng ấy đã bị phát hiện, chúng tôi lắp bắp bảo đó là nhặt được, vậy là liền bị tịch thu tại chỗ. Tiếp sau đó là việc xử lý các di tích ở khu vực động Bách Nhãn, chỗ nào cần niêm phong thì niêm phong, cần thiêu hủy thì thiêu hủy, những chuyện này chúng tôi đều không có quyền hỏi han hay can thiệp.
Sau đó, chúng tôi được đưa đến bệnh viện của tiểu khu chữa trị, may là không người nào tổn thương đến gân cốt, đều chỉ phạm vào da thịt. Tôi và Tuyền béo vốn chỉ định đến thảo nguyên chơi một chuyến, không ngờ lại xảy ra bao theo nhiêu là việc ngoài ý muốn như thế, nhưng khi chúng tôi tưởng rằng tất cả đã kết thúc, thì sự kiện động Bách Nhãn lại vẫn chưa chấm dứt.
Sau khi ra viện, chúng tôi tìm đến lều Mông Cổ của lão Dương Bì thăm ông già. Ông bị thương không nhẹ, nhưng sống chết gì cũng không chịu vào bệnh viện. Ông già bảo hễ cứ nhìn thấy tấm trải giường màu trắng trong bệnh viện là rợn cả người, nên chỉ ở nhà nghỉ ngơi dưỡng thương. Con trai và con dâu ông đều là những người yên phận, hồn hậu, cũng chỉ biết ở nhà tận tâm tận lực chăm sóc cha.
Lão Dương Bì về đến khu chăn nuôi, bệnh tình dường như không có dấu hiệu thuyên giảm mà còn nặng thêm, cả ngày chỉ nằm ho sù sụ. Ông biết tôi và Tuyền béo, Đinh Tư Điềm từ bệnh viện trở về, liền gắng gượng ngồi dậy nói chuyện với ba đứa.
Tôi từng nghe ông nội kể chuyện, ở các vùng nông thôn mạn Thiểm Tây, nông dân xưa nay chẳng bao giờ có thầy lang trị bệnh gì cả, lão nông mà bị sốt, liền đập vỡ cái bát ăn cơm, lấy cạnh sắc của mảnh vỡ cứa một đường trên trán cho chảy máu, coi như là chữa bệnh rồi. Có điều, bây giờ quần chúng nhân dân đã vùng lên làm chủ, cái mẹo nhà quê ấy cổ lỗ từ đời từ đời nào rồi, làm sao còn dùng được nữa? Vì vậy, tôi liền cùng Tuyền béo khuyên lão Dương Bì, bảo rằng thế này không được, không khéo còn bị thương đến nội tạng cũng nên, chi bằng cứ đến bệnh viện kiểm tra xem sao. Bệnh viện nhân dân là nơi để nhân dân chữa bệnh, lại đi theo đường lối Cách mạng Văn hóa là kiên quyết phục vụ cho giai cấp vô sản, chứ đâu phải như cái viện nghiên cứu của bọn Nhật kia chuyên bắt người sống để giải phẫu thí nghiệm, có gì phải sợ đâu?
Đinh Tư Điềm cũng năn nỉ lão Dương Bì mau đến bệnh viện kiểm tra, chỉ mong ông sớm ngày khỏe lại, sau này còn được nghe ông hát Tần xoang và đánh đàn đầu ngựa nữa, sợ bệnh viện mà nằm nhà thì chỉ khiến bệnh tình nặng thêm mà thôi.
Lão Dương Bì sống chết cũng không chịu nghe, cứ nằm trong góc tối ho sù sụ liên hồi. Nghe con trai ông bảo, từ lúc trở về, ông già không cho thắp đèn trong lều, vừa sợ ánh sáng vừa sợ lửa mà chẳng hiểu vì nguyên cớ gì. Thanh niên trí thức có văn hóa, có biết thế này là bệnh gì hay không?
Tôi chỉ mới tốt nghiệp cấp II, làm gì có trình độ văn hóa chứ, nhưng cũng biết bệnh tình thế này thật không nhẹ, nếu còn không đưa đến bệnh viện kiểm tra, không khéo sẽ nguy đến tính mạng cũng nên. Có điều ông già này tính tình quật cường khôn tả, dùng biện pháp mạnh căn bản không xong, tôi đành để Đinh Tư Điềm tiếp tục khuyên giải, áp dụng sách lược tấn công tâm lý.
Chẳng ngờ lão Dương Bì lại như ngọn đèn bùng lên lần cuối trước khi cạn dầu, đột nhiên ngồi bật dậy, gọi cả ba đứa thanh niên trí thức chúng tôi và con trai con dâu đến gần, nói cả tràng dài liên tục trong căn lều Mông Cổ tối tăm. Ông bảo, bệnh của ông thế nào, bản thân ông biết rất rõ. Bệnh này là do Hoàng đại tiên ám quẻ, giờ cứ hễ nhắm mắt lại là thấy Hoàng đại tiên đến đòi mạng, chắc chắn không thể sống quá được đêm nay.
Tôi và bọn Đinh Tư Điềm, Tuyền béo đều cho rằng ông già này bệnh nặng quá sinh ra lẩn thẩn rồi, đến cả con trai và con dâu ông cũng hoang mang chẳng hiểu gì. Chỉ nghe lão Dương Bì lại cất tiếng: “Lão già này lẽ ra phải chết từ mấy chục năm trước, sống được đến nay là lãi lắm rồi, chỉ là sau khi lão chết, sợ Hoàng đại tiên không tha cho mấy người. Không chỉ các cô cậu thanh niên trí thức gặp vận rủi, mà cả con cháu về sau cũng gặp họa diệt môn. Cũng may, ngày xưa lão có học được của một ông thầy mo già cách đối phó với hoàng bì tử, chỉ cần sau khi lão chết, mọi người làm theo lời lão dặn thì mọi sự đều đại cát đại lợi, bằng không sớm muộn gì tất cả cũng bị lũ hoàng bì tử hại chết. Lão già này sống khổ sống sở cả đời, cũng không có thân thích gì, chỉ có mỗi một đứa con trai này thôi, để lại một giọt máu trên đời thật không phải chuyện dễ, xin các cô cậu thanh niên trí thức ngàn vạn lần chớ làm hỏng chuyện này, đừng để nhà họ Dương của lão bị tuyệt ở đây.”
Lão Dương Bì còn đòi dọa cắn lưỡi tự tử để ép buộc chúng tôi phải nghe theo. Tình hình lúc đó chúng tôi hoàn toàn không có sự chuẩn bị, ông già này lại là lão giang hồ, có rất nhiều chuyện biết đấy mà không chịu nói ra, thêm nữa là sau khi trải qua kiếp nạn ở động Bách Nhãn, tôi và Tuyền béo cũng tin rằng trên đời này có một số sự việc đích thực không thể dùng lẽ thường mà lý giải được, nay nghe ông nói thế, cũng không khỏi lấy làm hồ nghi, lẽ nào bọn hoàng bì tử kia vẫn còn chưa chết hết? Nghĩ đến bọn chồn lông vàng có thể đọc được ý nghĩ con người ấy, đến tâm lý vững như tôi cũng phải hơi run lên, nếu thật sự bị chúng nó nhòm ngó, ta ở ngoài sáng, chúng ở trong tối, e rằng khó mà đề phòng cho được, chuyện này khó giải quyết đây.
Con trai lão Dương Bì vừa thực thà vừa hiếu thuận, kế thừa được đặc điểm lớn nhất của lão Dương Bì, chính là nhát gan sợ việc, sinh ra đời từ hồi trước giải phóng, mẹ mất sớm, từ nhỏ đã được Lão Dương Bì nuôi dạy, chứ không phải được trưởng thành trong mưa xuân cách mạng, thành ra tư tưởng mê tín cũng rất nặng nề. Giờ anh ta nghe cha nói đến mấy chuyện này, sợ đến nỗi suýt chút nữa thì vãi cả ra quần, vội rối rít hỏi xem rốt cuộc nên làm sao cho phải.
Lão Dương Bì thở dài, nói ra một phương pháp vô cùng kỳ dị: “Đêm nay sau khi lão chết, chắc hẳn sẽ có hoàng bì tử đến khóc tang, mọi người phải làm thế này, thế này...”



Chương 51: Huyệt sâu tám thước

Lão Dương Bì nói ông học được một cách đối phó với hoàng bì tử ở chỗ một thầy mo đạo Shaman. Lũ hoàng bì tử này là thứ ngàn vạn lần cũng không nên dây dưa vào, cho dù là cứu nó hay hại chết nó, một khi gặp phải con nào có đạo hành cao thâm một chút, là toàn bộ hoàng bì tử trên núi sẽ bám theo quấy nhiễu, dẫu chạy đến chân trời góc biển cũng không tránh được.
Nếu một người lúc sinh tiền đắc tội với Hoàng đại tiên, chỉ có một cách duy nhất để triệt tiêu hoàn toàn lỗi lầm này, bảo vệ cho hậu duệ không phải gánh chịu tai ương. Nhưng cách này quái dị thì khỏi nói, sau khi người chết, phải lập tức đào trong nhà một cái hố sâu tám thước, rồi cởi hết quần áo ra, không được để lại thứ gì, chôn chúc đầu xuống đất, chân chổng lên trời. Vùi lấp xong xuôi, tuyệt đối không được phát tang, phải để nguyên đó bảy ngày bảy đêm, đợi đến ngày tuần đầu tiên thì lại đào ra, phong tục mai táng tẩm liệm thế nào thì cứ theo quy củ thế ấy mà làm, bấy giờ mới chính thức hạ táng.
Nghe nói, người vừa qua đời xong lập tức bị lột hết quần áo chôn chúc đầu xuống đất, linh hồn sẽ tắc thở, đời đời kiếp kiếp không thể siêu sinh. Đêm xuống, bọn hoàng bì tử mò tới, thấy con người chịu làm như vậy, cũng sẽ không truy cứu con cháu người ấy nữa, món nợ này coi như là dứt điểm. Trên đời có ba điều bất hiếu, không con không cháu là điều lớn nhất, để duy trì hương hỏa về sau, bất kể là phải làm gì lão Dương Bì cũng không ân hận. Ông lão nói, nhất thiết phải bảo vệ con cháu, bằng không để Hoàng đại tiên tìm đến, hậu nhân nhà họ Dương chắc chắn tuyệt đường sống sót, không chỉ đồ đạc trong nhà bị hoàng bì tử cướp đi sạch, mà còn bị dồn ép đến chỗ phải treo cổ đổi mạng với một con hoàng bì tử nhép nữa...
Lao Dương Bì dặn dò xong liền cùng con trai ôm nhau khóc rống lên, cảm giác như đã sinh ly tử biệt đến nơi rồi. Còn chúng tôi thì xưa nay chưa từng nghe qua chuyện gì quái đản tà môn như thế. Đến như ông nội tôi cả đời qua lại với giới phong thủy, trộm mộ, “Táng kinh” thuộc làu làu như cháo chảy, mà tôi thậm chí cũng chưa từng nghe ông nhắc đến cái phong tục cổ quái “đào huyệt sâu tám thước, lõa thể chôn ngược” ấy bao giờ. Nhưng lão Dương Bì lại nói với vẻ hết sức trịnh trọng, tựa như sự việc đã đến mức cực kỳ nghiêm trọng, không thể nào vãn hồi. Nhất thời, chúng tôi cũng không biết phải làm sao cho phải.
Tôi, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm lui sang một bên bàn bạc, trước tiên là dù bọn chồn lông vàng kia có thể gây hại người thì chúng nó cũng không có phép thần thông thiên triệt địa đến mức ấy. Vả lại chúng tôi cũng không tin lắm vào chuyện người chết xong còn có linh hồn đầu thai chuyển thế, đều cảm thấy nên ngăn cản hành động phi lý trí này của lão Dương Bì, nếu chết rồi mà còn chôn trong nhà bảy ngày bảy đêm mới moi ra phát tang thì giấy chứng tử biết khai thế nào chứ.
Nhưng sau đó chúng tôi lại nghĩ, cả nhà lão Dương Bì đều rất tin vào chuyện này, ngộ nhỡ hôm nay lão Dương Bì đúng là có làm sao thật, thì trách nhiệm của mấy người ngoài như bọn tôi thật quá lớn, chi bằng cứ tạm thời nhận lời để ông già yên tâm dưỡng bệnh, sau đó mau chóng đi mời bác sĩ đến khám bệnh cho ông. Đây là kế hoãn binh, tuy rằng gạt người là không tốt, nhưng xét đến động cơ thì chẳng có vấn đề gì cả.
Vậy là chúng tôi bèn đồng thanh nhận lời thực hiện tâm nguyện cuối cùng của lão Dương Bì, bảo ông cứ yên tâm, mọi thứ nhất thiết đều làm theo lời ông dặn dò cả. Không ngờ lão Dương Bì còn ép cả bọn chúng tôi phải thề độc, bất đắc dĩ, chúng tôi đành vừa liến thoắng thề thốt, vừa nhủ thầm trong bụng: “Không tính, không tính, không tính...”
Tôi định tìm cơ hội chuồn ra ngoài gọi bác sĩ đến, nhưng lão Dương Bì cứ nhìn chằm chằm cả bọn, không chịu buông tha, dặn đi dặn lại từng chi tiết nhỏ phải làm sau khi ông chết, đến khi chắc chắn mọi người đều đã nhớ kỹ trong đầu rồi, ông già đột nhiên trợn ngược hai mắt, duỗi chân tắt thở.
Lão Dương Bì chết cực kỳ bất ngờ, cả bọn chúng tôi bao gồm cả con trai và con dâu ông nhất thời đều không kịp phản ứng gì, đợi lúc hiểu ra thì mới phát hiện đã quá muộn để cấp cứu mất rồi, chẳng ai có thể cải tử hoàn sinh cả. Cảm giác bi thương cuộn dâng lên trong lòng mỗi người, chúng tôi chỉ còn biết lớn tiếng khóc òa lên, khóc một hồi lâu, con trai lão Dương Bì liền nhờ mấy thanh niên trí thức bọn tôi lo liệu hậu sự, mọi chuyện cứ y theo di ngôn của lão Dương Bì mà thực hiện.
Việc này làm ba chúng tôi lấy làm khó xử, vốn chỉ định kéo dài thời gian để đi tìm bác sĩ về khám cho lão Dương Bì, ai mà ngờ ông già cứ thế đi luôn, chẳng có dấu hiệu gì báo trước. Đây là lần đầu tiên chúng tôi cảm thấy đời người thật vô thường, việc đã đến nước này thì cũng chỉ còn cách thực hiện di ngôn của ông thôi vậy, dù sao người chết là nhất, đây cũng là một sự tôn trọng đối với nguyện vọng lúc sinh tiền của người đã khuất.
Tôi và Tuyền béo cố nén nỗi đau đớn trào dâng, đào một hố sâu trong lều. Những việc cởi hết quần áo trên di thể lão Dương Bì rồi chôn cất không tiện có người ngoài ở đấy, ba đứa thanh niên trí thức liền ra phía ngoài đợi, con trai lão Dương Bì chôn cất cha mình xong, bít kín luôn cửa lều, cũng không nói gì với ai nữa.
Khu chăn nuôi vốn rất thưa người, cũng ít khi có khách ghé thăm, ngoài ba thanh niên trí thức chúng tôi, thì thêm con trai và con dâu lão Dương Bì, tổng cộng cũng chỉ có năm người, tự nhiên là không ai khác biết được chuyện này. Cả bọn đành ẩn nhẫn canh xác ông già, đợi qua bảy ngày sẽ chính thức khâm liệm mai táng.
Tâm trạng của tôi và bọn Tuyền béo, Đinh Tư Điềm đều hết sức nặng nề, ông lão Dương Bì mấy ngày trước vẫn luôn ở bên cạnh mình vào sinh ra tử, không ngờ bảo đi là đã đi ngay, một con người từ sống chuyển sang chết sao lại dễ dàng đến thế? Sự việc quá bất ngờ, đến nỗi khiến người ta không sao chấp nhận nổi hiện thực, bọn tôi ngồi trên đồi cỏ cách căn lều Mông Cổ không xa, nhìn thảo nguyên trải dài vô tận, trong lòng trống trải khôn cùng, cảm giác tựa như có người lấy đao cắt đi thứ gì đó vậy. Đinh Tư Điềm khóc như mưa, hai mắt đã đỏ lựng cả lên.
Tôi và Tuyền béo cũng không có cách nào khuyên cô, Đinh Tư Điềm khóc đến lúc không khóc nổi nữa, lặng lẽ ngồi thần người ra trên đồi cỏ. Ba chúng tôi cứ im lặng như thế, tâm thần ngơ ngẩn, mãi đến hoàng hôn, con dâu lão Dương Bì dọn cơm ra gọi cả bọn về, nhưng cũng chẳng ai còn tâm trạng đâu mà ăn uống. Tối đến, cả bọn lại ngồi quây vào nhau trong một căn lều khác canh cho hết đêm.
Chúng tôi nhớ lão Dương Bì lúc còn sống từng nói, đêm nay ắt có hoàng bì tử đến khóc tang, bất luận là xảy ra chuyện gì quái đản mấy cũng cứ mặc kệ. Tuy sự việc này chẳng có lý lẽ gì, nhưng chúng tôi đều không khỏi cảm thấy thấp thỏm trong lòng, cũng không ai dám chắc trong đêm liệu có xảy ra chuyện gì hay không. Đinh Tư Điềm khóc đến nỗi mệt rũ người, ngủ thiếp đi, trên má vẫn còn đọng giọt nước mắt long lanh. Còn tôi và Tuyền béo thì ngồi bó gối, tay chống mang tai lắng nghe động tĩnh bên ngoài.
Tuyên béo hỏi tôi: “Tôi thấy an táng ông lão Dương Bì thế này là rất không thỏa đáng, ông già này chắc là bệnh nặng quá đâm ra lẩn thẩn rồi, đã đành ông già ấy mê tín dị đoan nặng lắm, nhưng mà chúng ta đều có lý trí, đều đã được trang bị lý luận đấu tranh giai cấp trình độ cao và kinh nghiệm thực tiễn phong phú cơ mà. Lão Dương Bì hồ đồ, nhưng Nhất à, hai thằng chúng ta không thể hồ đồ theo ông ấy được.”
Tôi gật đầu nói: “Tôi cũng không thể đồng thuận cái kiểu chôn người chết lõa thể chổng phộc đầu xuống đất thế được, từ cổ chí kim tôi cũng chưa từng nghe nói đến tiền lệ nào giống thế cả. Nhưng cậu phải biết, người chết như đèn tắt, dù sao chúng ta cũng đã đồng cam cộng khổ, vào sinh ra tử với ông ấy một trận, coi như là chiến hữu rồi. Dẫu rằng trước lúc lâm chung lão Dương Bì có nói nhăng cuội hay không, nếu lúc đó chúng ta không nhận lời thực hiện di ngôn của ông lão, sợ rằng ông ấy sẽ phải mang theo nỗi ân hận sâu sắc mà rời khỏi thế giới này, đó là điều chúng ta muốn nhìn thấy hay sao?”
Tôi và Tuyền béo thảo luận một hồi, thuần túy cũng chỉ là lo chuyện bao đồng, cuối cùng xét thấy, tuân thủ theo lời dặn dò trước lúc lâm chung của lão Dương Bì cũng là ý nguyện của người nhà ông lão, chúng tôi chẳng có tư cách gì can thiệp quá sâu. Mỗi đất mỗi người, mỗi vùng mỗi miền đều có cách sống khác nhau, Trung Quốc rộng lớn như vậy, chắc chắn là có rất nhiều tập tục thủ cựu mà chúng tôi không biết đến. Tuy về mặt lý luận thì nên phê phán những thứ tà đạo dị đoan này, song có một số chuyện vẫn có thể biến báo linh động được, đằng nào cũng chỉ có bảy ngày, sau bảy ngày rồi chính thức làm lễ truy điệu gì gì đấy cũng không muộn. Chỉ cần năm người chúng tôi giữ kín bí mật này, người ngoài làm sao mà biết? Chỉ cần tin tức không lan truyền ra ngoài, thì vấn đề chắc cũng không có gì lớn cả.
Tới đây, chúng tôi chợt nhớ lại cuộc đời lão Dương Bì, cảm thấy từ trong cốt tủy của ông thiếu đi một tinh thần tạo phản, không bao giờ ông thắc mắc, “lẽ nào đám vương hầu khanh tướng ấy trời sinh ra đã cao quý rồi hay sao”[33], cả đời sống nhu nhược hèn yếu, đến lúc chết lại còn sắp xếp hậu sự của mình như thế, thật không biết nên gọi là đáng thương hay đáng buồn nữa, nhưng nói sao thì nói, chuyện này cũng thật làm người ta nghĩ mà thấy khó chịu trong lòng.
Đến sau nửa đêm, bốn phía bên ngoài lều chợt vang lên tiếng gió rít gào, gió mỗi lúc một lớn hơn, bầu không chốc chốc nổi tiếng sấm ì ùng trầm đục. Dây thần kinh của tôi và Tuyền béo tức thì căng ra như dây đàn, tình hình có vẻ không ổn lắm, sợ rằng sắp xảy ra chuyện thật rồi. Chỉ nghe tiếng sấm bên ngoài lớn dần, sét giật liên hồi. Đinh Tư Điềm cũng bị tiếng sấm làm giật mình tỉnh giấc, vội lau nước mắt trên má, nét mặt vô cùng kinh hoảng. Tôi xua xua tay với cô, ý bảo đừng lo lắng, cứ bịt chặt tai vào là không nghe thấy gì nữa.
Lượng mưa trên thảo nguyên vốn đã không nhiều, giờ lại là lúc mùa đông lạnh giá sắp ùa về, tiếng sấm ì ùng như thế này rõ ràng không hợp lẽ thường chút nào. Chúng tôi vốn định cứ lặng lẽ quan sát xem sao, nhưng tiếng sấm dường như đang vây lấy chúng tôi, thế này thì thưc sự không thể ngồi yên được rồi. Chúng tôi không thể không ra ngoài xem thử, vừa ngẩng đầu nhìn liền thấy mây đen nặng nề, khoảng không phía trên căn lều Mông Cổ đang chôn xác lão Dương Bì chớp sáng không ngừng lóe lên rồi tắt lịm.
Con trai lão Dương Bì thấy vậy, sợ đến nỗi ngã ngồi đánh “phịch” xuống đất. Tôi đỡ anh ta lên, hỏi rốt cuộc có chuyện gì, trận sấm sét này hình như rất kỳ lạ thì phải?
Con trai lão Dương Bì ăn nói vụng về, lắp ba lắp bắp một hồi lâu mới nói rõ được sự tình. Thì ra anh ta cảm thấy lột trần lão Dương Bì ra chôn xuống đất không được thỏa đáng cho lắm, kẻ làm con làm vậy thì thực quá bất hiếu, làm sao có thể đối đãi với cha ruột của mình theo cách đó được? Chuyện này ngộ nhỡ mà lộ ra ngoài, anh ta sẽ vĩnh viễn không thể ngẩng đầu làm người được, vì vậy mới nghĩ ra một cách nửa vời, đó là dùng vải trắng bọc lấy thi thể, sau đó mới chôn đầu lộn xuống đất chân chổng lên trời. Đây rõ ràng là không nghe theo lời ông già dặn, đâm ra mới gây nên họa lớn.
Tôi và Tuyền béo ngẩn người đưa mắt nhìn nhau, đều lấy làm lạ, bọc một lớp vải trắng bên ngoài xác chết thì có gì to tát đâu, vậy mà cũng gây ra mưa bão sấm chớp đì đùng thế này ư? Vả lại, nhìn tình hình sấm giăng chớp giật thế này, há chẳng phải là định đánh xuống hay sao?
Mọi người đều hỏi tôi giờ phải tính sao, tiếp tục sấm chớp thế này chắc chắn sẽ có chuyện. Nhưng việc này đã vượt quá tất cả mọi kinh nghiệm mà tôi từng nghe từng thấy, làm sao tôi biết phải làm thế nào đây chứ? Tuyền béo bỗng đưa ra một chủ ý: “Hay là lão Dương Bì trách con trai không nghe lời, đây là lời cảnh tỉnh dành cho chúng ta? Chi bằng mau chóng đào đất lên, dỡ bỏ cái tấm vải lụa trắng ấy đi. Tôi thấy cứ thử một phen đi, biết đâu lại được thì sao?”
Con trai lão Dương Bì là người không có chủ kiến, chỉ biết bảo gì làm nấy, nghe Tuyền béo nói thế, liền tự tát tai mình lia lịa, một mực cho rằng ấy là tại mình không chịu nghe lời dặn dò, sai một ly đi một dặm, cũng không biết giờ mới bổ cứu có kịp hay không nữa. Tôi thấy vậy cũng không biết phải làm sao, trước mắt cũng chỉ còn biết mau chóng sang lều bên kia đào cái xác lão Dương Bì lên vậy.
Bọn chúng tôi liều mình cầm xẻng cầm cuốc chạy đi đào cái hố vừa mới lấp xong lúc chiều lên, mới đào được một nửa thì tiếng sấm đã yếu dần, nhưng thi thoảng trong mây vẫn phát ra những âm thanh ì ùng trầm đục. Đến khi xúc hết bùn đất lên, tất cả những người có mặt ở đó đều kinh hãi ngẩn ra tại chỗ, trong ngôi mộ này rốt cuộc là chôn lão Dương Bì hay chôn hoàng bì tử đây?
Chú thích
[33] Đây là khẩu hiệu của Trần Thắng, Ngô Quảng trong cuộc khởi nghĩa nông dân vào cuối đời Tần.



 Nguồn doc.178vn.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved