Chương
52: Sấm sét
Tiếng sấm rền trên bầu
trời thảo nguyên vang lên hết đợt này đến đợt khác, con trai lão Dương Bì cùng
tôi và Tuyền béo bắt tay hành động đào xác lão Dương Bì lên. Huyệt đào sâu tám
thước, muốn đào lên cũng rất tốn sức, nhưng trong tiếng sấm như đòi mạng ấy,
chúng tôi không dám chậm trễ một phút một giây nào, nên chỉ thoáng chốc sau,
trong hố đất đã lộ ra một lớp vải trắng. Trước đó, chúng tôi đã biết cái xác
này chôn chổng ngược chân lên trời, nhưng không ngờ đào đất lên, liền phát hiện
lớp vải trắng quấn xác này đã bị căng ra thành từng sợi tơ trắng mong manh,
thoạt trông tựa như mấy tầng lưới tơ chằng chịt chồng lên nhau vậy. Có cảm
tưởng như lão Dương Bì sau khi được chôn dưới đất đột nhiên sống lại, vùng vẫy
muốn xé rách tấm vải trắng đang cuốn chặt thân mình nên mới thành ra bộ dạng
chúng tôi đang thấy.
Một
khi đất ngập đến ngực thì dù là người sống cũng sớm tắc thở chết rồi, làm sao
có thể vùng vẫy muốn chui ra được nữa? Cả bọn thấy vậy đều hết sức kinh hãi,
con trai lão Dương Bì lại càng mềm nhũn hai chân, quỳ dưới đất khòc lóc ầm ĩ,
lớn tiếng mắng mình bất hiếu, sao lại đi chôn sống cha ruột thế này.
Tôi mượn ánh sáng của
ngọn đèn dầu, nhìn thấy trong đống trăng trắng dưới hố đất thấp thoáng có vài
sợi lông tơ màu trắng, bên trong tấm vải liệm ấy như thể đang quấn chặt một con
hoàng bì tử vậy. Nhưng chuyện này sao có thể được?
Tôi biết có sự lạ, bèn
mặc kệ anh con trai lão Dương Bì đang khóc lóc ầm ĩ bên cạnh, tự mình nhảy
xuống, định xem cho rõ cái xác bị quấn chặt bằng vải trắng kia phải chăng đã có
biến hóa gì nghiêng trời lệch đất?
Tuyền béo ở bên cạnh
kêu lên: “Nhất này, cẩn thận chút, tôi thấy chuyện này không ổn lắm, hay là
kiếm cái que chọc chọc trước, vậy ổn hơn... sao trong tấm vải trắng này giống
như có cương thi thế nhỉ, lông trắng đâu ra nhiều thế?”
Tôi vừa chầm chậm lại
gần hai bàn chân lộ ra khỏi lớp đất, vừa trả lời Tuyền béo: “Lấy que chọc sợ
hỏng mất thi thể, để tôi xem thử rồi tính sau...”
Trong lúc nói chuyện,
tôi đã cầm ngọn đèn dầu nhích lại gần chỗ cái xác. Cái xác trong lớp vải trắng
kia vốn đang im lìm bất động, nhưng tôi vừa mới tiến đến, đang định giơ ngọn
đèn lên xem cho rõ ràng, bọc vải bỗng bùng nhùng rung động. Dù tôi đã có chuẩn
bị tâm lý từ trước, nhưng gặp phải tình huống bất thình lình như thế, cũng vẫn
giật bắn người, suýt chút nữa thì đánh rơi cả ngọn đèn xuống đất, nào còn kịp
xem cho rõ cái xác ấy ra làm sao nữa? Xuất phát từ bản năng, tựa như gặp phải
rắn rết hay bị giật điện, tôi lập tức xoay người vội nhảy ra khỏi hố đất.
Con trai lão Dương Bì
thấy thế, lại càng sợ đến vỡ mật, nhất thời kinh hãi quá độ quên luôn cả khóc
lóc, há hốc miệng ra hồi lâu mà không ngậm lại được. Tôi và Tuyền béo cũng ngẩn
ra tại chỗ, không biết nên xử lý vụ này ra sao nữa. Chỉ thấy trong hố đất lộ ra
một thứ bị tơ trắng quấn chặt. Vật ấy đang nhúc nhích cựa quậy, chuyển động dần
lên phía trên, tựa hồ như bị vùi dưới đất khó chịu quá, muốn gắng sức chui lên.
Tấm vải trắng kia quấn chặt quá, nên tuy đã bị thứ ở bên trong vùng vẫy đến gần
như rách toác, song vẫn không nhìn rõ thứ ấy là gì, nhưng hình dáng ấy thì
tuyệt đối chẳng thể nào là hai chân người chết được.
Thi thể lão Dương Bì đã
vùi trong đất mười mấy tiếng đồng hồ, tạm không nói đến tấm vải trắng bọc xác
bị rách toác ra, nhưng giờ cái xác ấy không ngờ lại còn động đậy trước mặt ba
người chúng tôi nữa. Con trai lão Dương Bì lộ rõ vẻ kinh hoảng, cho rằng cái
xác của ông lão nhất định đã biến thành cương thi. Trên thảo nguyên này, những
chuyện tà môn kỳ dị về cương thi xưa nay vốn không ít, tuy hầu hết mọi người
đều chưa từng gặp qua, nhưng ai ai cũng có thể kể ra một loạt những câu chuyện
liên quan đến chúng, tỷ như hai cương nam nữ “dã hợp” với nhau như thế nào, tại
sao cương thi lại đột nhiên bật dậy vồ người, rồi móc tim gan, uống máu uống
tủy người ta như thế nào, vì sao đao thương súng ống đều không làm tổn thương
được chúng... vân vân; nay cái xác đột nhiên nhúc nhích như thế, tự nhiên là
khiến anh ta sợ đến phát khiếp lên rồi.
Tôi và Tuyền béo tuy
cũng giật thót mình một cái, nhưng xét cho cùng thì hai đứa bọn tôi đều lớn lên
trong quân khu, cả lúc thiên hạ đại loạn cũng còn vượt qua được, một cái xác
bọc trong vải trắng thế này làm sao chúng tôi lại sợ kia chứ? Huống hồ cái xác
này còn là ông lão Dương Bì đã cùng chúng tôi kinh qua hoạn nạn? Vừa nãy tuy có
luống cuống tay chân một chút, suýt chút nữa đã chạy vọt ra khỏi lều, nhưng bọn
tôi cũng nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, thầm nhủ, xem chừng ông lão Dương Bì
này chết cũng thật ly kỳ, cần phải mở lớp vải trắng kia ra kiểm tra cho rõ ràng
mới được.
Tôi đánh mắt ra hiệu
với Tuyền béo, chuẩn bị tiếp tục đào đất, lôi cả cái xác lên, để xem rốt cuộc
là xảy ra chuyện quái quỷ gì, tôi đây thật chẳng tin có ma quỷ gì sất.
Nhưng anh con trai lão
Dương Bì đã bò rạp ra đất ôm chặt lấy chân tôi, liều mạng ngăn cản, một mực bảo
rằng ngộ nhỡ lão Dương Bì biến thành cương thi bật dậy thật thì cả bọn đều toi
mạng chứ chẳng chơi, tốt nhất cứ nên lấp lại thì hơn.
Tôi thấy anh con trai
lão Dương Bì này cũng hơn ba chục tuổi đầu, bình thường rượu uống được, thịt ăn
nhiều, cả cô vợ người Mông Cổ kia của anh cũng chưa từng nói anh không giống
đàn ông, chẳng hiểu sao lúc này lại rụt rè do dự cứ như đàn bà vậy. Cái xác đã
đào ra được gần một nửa rồi, làm gì có chuyện bảo lấp lại là lấp lại luôn chứ?
Có điều, dù sao anh ta
cũng là người thân trực hệ của lão Dương Bì, chúng tôi cũng không tiện dùng vũ
lực. Tuy trong lòng đang nôn nóng, song tôi vẫn hết sức kiên nhẫn ngọt nhạt
thuyết phục. Từ sau khi đả phá các giá trị thuộc về xã hội cũ, hai năm nay cuộc
vận động thay đổi phong tục đã được triển khai trên phạm vi toàn quốc, lâm
trường và khu chăn nuôi dĩ nhiên cũng phải theo sát tình thế, nhà nào cũng được
phát cho mấy tập sách tuyên truyền, trong đó có một cuốn tên là Nói chuyện khoa
học, bài trừ mê tín. Cuốn sách mỏng dính chỉ hơn ba chục trang, bên trong có
một đoạn giải thích rất tường tận tỉ mỉ về “Người chết rồi tại sao còn cử động”.
Cuốn sách này tôi từng
xem qua, thấy trong nhà anh con trai lão Dương Bì cũng có, bèn bảo anh ta rằng,
đừng thấy trời đang sấm sét mà tưởng lầm, đây tuyệt đối không phải hiện tượng
thi biến đâu. Trong sách Nói chuyện khoa học, bài trừ mê tín có viết rất rõ
ràng, xác chết cử động, là bởi cái xác đó mục rữa quá nhanh, hơi xác chết bị
bít kín trong tấm vải liệm không tản đi đâu được, vì vậy vừa đào đất lên, cái
xác bên trong mới quằn quại run rẩy như bị điện giật. Nếu không mau chóng đưa
thi thể lên, hơi xác chết ấy sớm muộn gì cũng thấm vào đất, gây ra ảnh hưởng
nguy hại đến người sống xung quanh. Người theo chủ nghĩa duy vật xưa nay tuyệt
đối không lừa gạt người khác, nếu anh không tin, sớm muộn gì cũng có ngày phải
hối hận.
Tôi thuận mồm bịa đặt
lăng nhăng, không ngờ lại dọa con trai lão Dương Bì này cuống cả lên. Anh ta
chỉ biết vài chữ bọ, tuy có lĩnh tài liệu tuyên truyền về, nhưng cuốn sách Nói
chuyện khoa học, bài trừ mê tín ấy để ở trong nhà mà đã bao giờ giở ra xem đâu.
Có điều vô văn hóa cũng có cái hay của vô văn hóa, anh ta một mực cho rằng nếu
trong sách đã viết thế, thì đó chắc chắn là khuôn vàng thước ngọc, chắc chắn là
chân lý. Lúc này, anh ta vừa nghe thì ra chuyện này giấy trắng mực đen rõ rành
rành trong sách, liền lập tức tin ngay bảy tám phần, cuối cùng đành buông hai
tay ra, để tôi và Tuyền béo đào xác lão Dương Bì lên.
Tuyền béo bảo anh ta:
“Thế này mới là đúng chứ, người sống có chân lý của người sống, người chết cũng
có chân lý của người chết, không tin theo chân lý làm sao được? Hôm nay chúng
ta phải xem trong lớp vải trắng kia rốt cuộc là chân lý của ai nào.” Nói đoạn,
cậu ta bắt tay đào đất luôn, cái xẻng trong tay chưa kịp hạ xuống, tiếng sấm
bên ngoài đã đột nhiên rền vang, sấm đánh không kịp bưng tai, liên tiếp mấy
phát liền, làm màng nhĩ chúng tôi đau nhói, trong căn lều Mông Cổ đèn lửa lờ mờ
sáng lóa lên từng tia chớp trắng nhạt.
Tôi vội vàng kéo Tuyền
béo ra, lòng thầm nhủ: “Không ổn, sấm sét liên tiếp dội xuống gần đây, tình thế
còn ghê gớm hơn lúc nãy nhiều, tựa như đang nhằm vào căn lều Mông Cổ này mà đánh
xuống, ở trong này rất có khả năng sẽ bị sét đánh trúng, phải mau rút khỏi đây,
đợi khi nào sấm sét ngừng rồi tính cách sau vậy.”
Sấm sét giao nhau liên
hồi kỳ trận, mây dày nặng mà không mưa, mọi người đều biết trận sấm sét này
không phải điềm lành, đêm nay chắc chắn sẽ xảy ra chuyện gì rồi. Nhưng trước
tình hình này, chúng tôi đều không biết phải làm sao, chỉ đành tạm thời lùi lại
nơi nào an toàn rồi tính tiếp. Tuyền béo kéo lê cái xẻng sắt, cùng tôi xốc hai
bên nách con trai lão Dương Bì, định mau chóng chạy ra khỏi căn lều.
Vừa ra đến cửa, bỗng
thấy ánh chớp lóe lên, một quả cầu lửa màu xanh lam bất ngờ chui vọt vào trong
lều nhanh như một ngôi sao băng khiến không ai kịp phản ứng. Quả cầu lửa đó
lướt qua sát sạt trên đỉnh đầu, lao thẳng vào hố đất chôn xác lão Dương Bì, rồi
một mùi khét lẹt thối hoắc nhanh chóng tỏa khắp căn lều.
Chúng tôi tuy phản ứng
chậm mất một nhịp, nhưng vẫn kịp thời co đầu rút cổ, nằm rạp xuống né tránh,
nháy mắt đã thấy mùi khét xộc vào mũi. Tiếng sấm bên ngoài dần ngưng, ngoảnh
đầu lại xem, chỉ thấy chỗ tia sét đánh xuống, thi thể bọc trong tấm vải trắng
đã thành một khúc than đen thui, cháy khét, không thể nhận ra hình hài gì nữa.
Đinh Tư Điềm và con dâu
lão Dương Bì đang ở trong một căn lều khác, nghe thấy động tĩnh có vẻ không ổn,
lo lắng không biết chuyện gì xảy ra, lúc này cũng đã chạy vào xem, thấy cái xác
cháy đen bốc khói nghi ngút trong hố đất thì đều kinh hãi đến thốt không nên
lời. Con trai lão Dương Bì quỳ ở một góc, hai mắt đờ đẫn thất thần, tựa như sợ
quá rồi biến thành đần độn vậy. Thiên lôi đánh xác, chuyện này cuộc là lành hay
dữ đây?
Tôi thầm nhủ, đã là
phúc thì không phải là họa, là họa không tránh nổi, dù sao cũng phải có người
thu liệm xác chết của lão Dương Bì, mở ra xem rốt cuộc là chuyện gì, tại sao
sấm sét lại đánh vào người chết thế này? Nghĩ đoạn, tôi bèn cố nhịn cái mùi vừa
khét vừa thối ấy, cùng Tuyền béo tiếp tục đào đất, đang định đưa tay ra nhấc
xác chết lên, nhưng vừa chạm tay vào, lớp thịt bên ngoài cháy thành than đã
tróc ra rơi xuống, máu tươi đỏ ối chảy túa ra, giờ thì có muốn kéo cái xác ra
cũng không xong, trừ phi phải dùng đến vải bạt lót rồi khiêng ra mới được.
Tôi thấy lão Dương Bì
chết rồi mà còn gặp phải chuyện thế này, trong lòng không khỏi đau như dao cắt,
nhưng sấm sét không thể vô duyên vô cớ đánh xuống thi thể ông già thế này được,
chắc chắn là phải có điều gì cổ quái. Nghĩ tới đây, tôi bèn nghiến răng nghiến
lợi kiểm tra cái xác một cách kỹ lưỡng, liền phát hiện dường như thi thể đã
phình to ra. Sau khi bị sét đánh phải, trông lại còn to hơn lão Dương Bì lúc
sinh thời đến hai ba cỡ. Tấm vải bọc xác là thứ rất dễ cháy, lúc này đã bị
thiêu thành tro bụi, cái xác đen thui như hòn than nhìn ngang nhìn dọc thế nào
cũng không ra hình người.
Lúc mới đào lên, tôi đã
cảm thấy cái thứ lấp ló lộ ra bên trong tấm vải bọc thây ấy tựa như một con
chồn lông vàng rất lớn, có điều lúc ấy chỉ nghĩ là mình bị hoa mắt, lúc này
nhìn kỹ lại, mới phát hiện cái xác bị sét đánh cháy đen này, ngoài lão Dương Bì
ra, quả nhiên còn có thêm một con hoàng bì tử to tướng nữa. Có điều, cả người
và hoàng bì tử đều đã cháy đen, chẳng còn nhìn ra hình hài gì nữa, chỉ có thể
dựa vào những gì sót lại, suy đoán đó là một con chồn lông vàng rất lớn mà
thôi. Nhìn bộ dạng này, dường như trước lúc chết nó đang vùng vẫy muốn chui ra
khỏi lần vải quấn.
Hai con hoàng bì tử già
thành tinh trong động Bách Nhãn đã bị chúng tôi làm thịt rồi, con hoàng bì tử
này ở đâu chui ra nữa? Hay là lão Dương Bì sau khi chết đã biến thành hoàng bì
tử? Cả bọn ngơ ngác nhìn nhau, chẳng ai có thể giải đáp nổi những nghi vấn này,
chỉ không hẹn mà cùng lúc cảm thấy lạnh hết cả sống lưng.
Tuy lúc anh con trai
lão Dương Bì lo liệu việc chôn xác cho ông già, tôi và Tuyền béo đều không có
mặt, nhưng chắc chắn anh ta không thể nào quấn xác bố mình chung với một con
hoàng bì tử được. Tôi không đoán được tình tiết bên trong thế nào, song cũng
biết rõ, chuyện này tuyệt đối không được để lan truyền ra ngoài.
Con trai và con dâu lão
Dương Bì cũng hiểu, chuyện này không thể tiết lộ, chỉ có thể giải thích với
người khác rằng ông già mắc bạo bệnh qua đời, lúc chuẩn bị khâm liệm lại bị sét
đánh trúng, tuyệt không được nhắc đến hoàng bì tử, bằng không sẽ bị chụp mũ là
động hướng mới của đấu tranh giai cấp, lúc ấy thì khó mà đoán biết được sự tình
sẽ phát triển theo hướng nào, tốt nhất là cứ giữ bí mật thì hơn. Sau đấy, cả
bọn nuốt nước mắt thu liệm xác chết, rồi đốt một đống lửa, thiêu sạch sẽ những
phần còn sót lại của cái xác hoàng bì tử. Di thể của lão Dương Bì thì lấy vải
trắng bọc lại lần nữa, đợi người trên tiểu khu xuống khám nghiệm.
Lúc dọn xác, con trai
lão Dương Bì tìm thấy một thứ trong cái xác cháy đen, anh ta không biết đây rốt
cuộc là thứ gì, bèn cầm lại hỏi tôi. Tôi đón lấy xem thử, liền lập tức nhận ra
ngay, không ngờ lại chính là miếng long phù bằng đồng xanh mà lão Dương Bì mang
ở động Bách Nhãn về. Hình rồng mà không có mắt, quả thực là cực kỳ hiếm thấy,
nghe đâu bảo là do đám Nguyên giáo thờ phụng Hoàng đại tiên nhặt được trong
động xác rùa, rất có khả năng là cổ vật dưới biển, cũng không ai biết thứ này
rốt cuộc có tác dụng gì, xưa nay vẫn luôn được đặt trong cái quan tài đồng chứa
xác của Hoàng đại tiên. Lão Dương Bì nói giữ nó lại làm kỷ niệm, lẳng lặng mang
về khu chăn nuôi, rốt cuộc tấm long phù này là thứ gì? Tại sao lão Dương Bì cứ
nằng nặc nhất quyết mang nó trở về như vậy?
Chương 53:
Sinh ly tử biệt
Tấm long phù bằng đồng
xanh này hình dạng kỳ dị bao nhiêu năm nay vẫn đặt bên trong cái rương đồng
chiêu hồn dẫn hồn của Hoàng đại tiên. Cái rương ấy thực tế chính là một cỗ quan
tài bằng đồng, bên trong chứa cái xác hoàng bì tử đã xảy ra thi biến. Đây thực
là một mối họa tày trời. Sau khi lão Dương Bì nhắm mắt xuôi tay, xác ông được
vùi xuống huyệt sâu tám thước, bên cạnh không hiểu sao lại xuất hiện một con
hoàng bì tử, làm trời giáng sấm sét. Nếu chẳng phải anh con trai lão Dương Bì
vẽ rắn thêm chân, trước lúc chôn lại lấy vải trắng quấn mấy lớp quanh xác cha
mình thì thật không biết còn xảy ra chuyện gì nữa. Đã về đến tận đây rồi mà vẫn
bị lũ hoàng bì tử đó quấy rối, lẽ nào là bởi lão Dương Bì lúc sinh tiền đã cầm
theo minh khí bồi táng trong quan tài của Hoàng đại tiên?
Tôi thấy sự việc không
có manh mối, nên cũng chẳng giải thích gì nhiều với anh con trai lão Dương Bì.
Người nhát gan sợ việc, để anh ta biết quá nhiều ngược lại còn tăng thêm gánh
nặng tâm lý. Tôi chỉ bảo anh ta đưa tấm long phù cho mình, rồi quay đi tìm
Tuyền béo và Đinh Tư Điềm bàn tính.
Thảo nguyên về đêm lạnh
thấu xương, cái chết của lão Dương Bì cộng với chuyện giữa đêm trời nổi sấm sét
thiêu cháy thi thể ông già gây tổn thương rất lớn cho Đinh Tư Điềm, cô không
chịu vào lều sưởi ấm, mà lặng lẽ đứng trên bãi cỏ ngước nhìn bầu trời đêm,
không khóc mà cũng không chịu nói năng gì, gương mặt toát lên vẻ sầu muộn không
hề hợp với lứa tuổi của cô chút nào.
Tuyền béo khuyên cô mãi
cũng không được, đành ngồi bên cạnh đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác.
Tôi thấy trạng thái tinh thần của Đinh Tư Điềm rất không ổn, có lẽ cần được yên
tĩnh một mình, nên cũng không làm phiền cô, chỉ bước đến bên cạnh Tuyền béo,
trầm giọng nói với cậu ta: “Các đồng chí, đêm hôm nay, Bí thư đã bị ám sát rồi.”
Đây là một câu điển
hình trong phim điện ảnh của Liên Xô, biểu đạt được một cách đầy đủ sự đau đớn
và phẫn nộ trong lòng tôi lúc này, cái chết của lão Dương Bì nhất định không
phải chuyện ngoài ý muốn, mà khẳng định là do bọn hoàng bì tử chó chết kia gây ra.
Tuyền béo nghe tôi cất
tiếng, lập tức rít liền hai hơi thuốc rồi ném đầu mẩu đi, phẫn nộ nói: “Xem ra
bè lũ phản cách mạng muốn đốt bừng ngọn lửa chiến tranh lên rồi, sư cha nhà nó,
tôi là tôi quyết không nhân nhượng, chi bằng hai chúng ta đêm nay đến tận Mộ
Hoàng Bì Tử, chặt đầu cả lò lũ chồn lớn chồn nhỏ ấy, để máu bọn nhúng nhấn chìm
cả Cung điện Mùa đông.”
Tôi giơ tấm long phù
bằng đồng xanh lên vẫy vẫy: “Lũ hoàng bì tử còn sót lại ở Mộ Hoàng Bì Tử và
động Bách Nhãn nhất định sẽ ẩn trốn rất sâu, sợ rằng muốn tìm được chúng phải
tốn rất nhiều sức lực. Tấm long phù này là vật bồi táng trong quan tài của con
hoàng bì tử thành tinh, tôi thấy chỉ cần có nó trong tay, không sợ không dẫn dụ
được lũ ấy đến. Tới lúc đó, đến một con ta giết một con, đến hai con ta giết
một đôi.
Muốn giết bọn hoàng bì
tử thành tinh ấy thì không thể thiếu thanh bảo đao Khang Hy đã bị ủy ban tịch
thu kia được. Tôi và Tuyền béo đều hết sức ngứa ngáy, bầu máu nóng xông lên đến
cổ họng, chỉ hận không thể lập tức tức đi trộm thanh đao kia về, bày mồi ngon
ngọt dụ cả lò nhà bọn hoàng bì tử ấy đến mà chém giết giải mối hận trong lòng.
Tôi đang nắm chặt tấm
long phù bằng đồng xanh, răng nghiến kèn kẹt, Đinh Tư Điềm đột nhiên bước đến
giật lấy. Tôi không đề phòng, không hiểu cô định làm gì, vươn tay ra định giằng
về: “Thứ này là minh khí trong quan tài, vừa hôi thối vừa đầy âm khí, bạn cầm
làm gì?”
Đinh Tư Điềm cầm tấm
long phù trên tay, nước mắt ròng ròng nói với tôi: “Cái thứ ở trong quan tài
của con chồn lông vàng này các bạn giữ lại làm gì chứ? Nếu cái chết của lão
Dương Bì thật sự có liên quan đến vật này, vậy thì nó sự là đại họa bất tường,
chúng ta lại càng không thể mang nó bên mình được. Hai bạn cho dù giết được mấy
con chồn vàng ấy, nhưng liệu có thể khiến người chết sống lại được không? Vả
lại, ngộ nhỡ hai bạn gặp phải chuyện gì thì sao? Mình không thể mở mắt nhìn hai
bạn lầm lạc bước lên con đường của chủ nghĩa manh động được, mình... mình phải
vứt nó đi, tránh xa cái thứ sao chổi xúi quẩy này càng xa càng tốt.”
Tôi đang hăng máu giết
chóc, không có long phù làm sao dụ hoàng bì tử đến mà giết cho được? Nghe Đinh
Tư Điềm nói thế, tôi vội vàng khuyên ngăn: “Có chuyện gì thì cũng là chuyện của
bọn hoàng bì tử, mình đã được rèn luyện thành sắt thép trong dòng thác lũ đấu
tranh giai cấp rồi, làm sao có thể lật thuyền trong cống rãnh được chứ? Vả lại
trong tấm long phù này dường như còn có huyền cơ gì đó, để lại biết đâu sau này
còn có tác dụng lớn thì sao, ngàn vạn lần chớ nên...”
Nhưng cô nàng Đinh Tư
Điềm này cũng thật không có phép tắc, chưa để tôi nói hết lời, đã vung tay ném
tấm long phù cổ xưa ấy rõ xa, chỉ thấy một cái bóng xanh lục lóe lên trên bầu
trời đêm rồi rơi xuống giữa bãi cỏ hoang rậm rạp mọc cao ngang gối. Lúc này
đang là giữa đêm, trăng lu sao mờ, tôi căn bản không kịp nhìn rõ tấm long phù
ấy rơi xuống nơi nào, chỉ kịp đại khái nắm được phương hướng, vội vàng cùng
Tuyền béo chạy qua tìm kiếm, nhưng cũng chẳng khác nào mò kim đáy biển, tìm mãi
không thấy đâu.
Mãi đến lúc phương Đông
ánh lên sắc trắng như bụng cá, tôi mới buộc lòng từ bỏ tìm kiếm, cùng với Tuyền
béo ngồi phịch xuống đất tức tối lắc đầu chán nản. Sau một đêm vất vả, nỗi bi
phẫn trong lòng ngược lại đã bớt đi khá nhiều, có lẽ tại con hoàng bì tử hại
chết lão Dương Bì đã bị thiên lôi đánh chết, cho dù muốn báo thù rửa hận cũng
chưa chắc đã tìm được mục tiêu nữa rồi. Vả lại, đằng nào tấm long phù cũng đã
mất, thôi thì đành tìm việc đứng đắn mà làm, dù sao cũng còn phải giúp lão
Dương Bì lo liệu hậu sự nữa.
Sau giải phóng, chẳng
ai biết đến lão Dương Bì, ông già chẳng cần ẩn tính mai danh cũng không bị ai
biết đến quá khứ, có lẽ tại thân phận ông quá đỗi tầm thường, quá đỗi phổ biến,
vì vậy cái chết ông cũng nhẹ tựa lông hồng, ngoài ba thanh niên trí thức chúng
tôi cùng con trai con dâu, chẳng có ai để tâm đến việc ông qua đời, lại càng
không có lễ truy điệu chính thức, mọi việc đều qua loa đại khái cho xong.
Lão Dương Bì qua đời
rồi, cũng không thấy có bọn hoàng bì tử đến quấy nhiễu gì. Đến lúc mọi sự giải
quyết hòm hòm, thì tôi và Tuyền béo tính ra đã đi khỏi khu Đại Hưng An Lĩnh
được gần hai chục ngày, không thể không chào tạm biệt Đinh Tư Điềm để trở về
nơi mình tham gia lao động sản xuất. Trước khi đến vùng thảo nguyên này, tôi
còn định cùng Đinh Tư Điềm nói chuyện hôn nhân đại sự. Nam thanh niên trí thức
không có vợ ngại nhất chính là việc nấu cơm, đằng nào cũng đã xác định phải cắm
rễ cách mạng ở vùng Nội Mông Cổ này rồi, thì sớm ngày thành gia lập thất cũng
là giảm bớt gánh nặng cho tổ chức, nếu chưa có gì thì cũng mau chóng báo cáo để
xác định quan hệ yêu đương. Nhưng không ngờ lại xảy ra quá nhiều sự việc ngoài
ý muốn, nhất là cái chết của lão Dương Bì, thành ra chẳng ai còn tâm trạng đâu
mà nói đến chuyện kia nữa, ba người chỉ nhắc nhau giữ gìn sức khỏe, rồi gạt lệ
chia tay.
Chúng tôi không về luôn
trại Cương Cương ở Đại Hưng An Lĩnh, vì lúc đó tuyết lớn đã bít kín đường vào
núi, không đợi đến sang năm tuyết tan thì đừng hòng về được. Tôi định về Phúc
Kiến thăm bố mẹ, họ đều đã bị cắt chức, tôi đi về nông thôn tham gia lao động
sản xuất nửa năm chẳng nhận được thư từ gì, trong lòng không khỏi có chút lo
lắng nhớ nhung, mới tính tranh thủ thời gian này về nhà thăm hỏi xem thế nào.
Nhưng Tuyền béo lại
không muốn về Phúc Kiến, bố mẹ cậu ta đều đã mắc bệnh qua đời trong thời gian
bị cách ly thẩm vấn, người thân duy nhất còn lại chỉ có một bà cô sống ở quân
khu Nam Kinh. Cậu ta muốn tranh thủ kỳ nghỉ tết đến đó thăm bà cô, vì vậy bọn
tôi tính sẽ đi xe lửa từ Hải La Nhĩ đến Bắc Kinh, rồi đổi tàu xuống Nam Kinh.
Lúc bấy giờ bọn tôi đều nghèo mạt rệp, đến Hải La Nhĩ mới sực nhớ ra đã nhẵn
túi, không có tiền mua vé tàu hỏa.
Tuyền béo lắc đầu nói:
“Con bà nó, chúng ta lên núi về quê là vì cái gì chứ? Là vì hưởng ứng lời hiệu
triệu cách mạng của Mao chủ tịch chứ còn gì nữa, làm cách mạng mà đi xe lửa
phải mua vé à? Đây có còn là thiên hạ của nhân dân nữa không? Làm gì có cái lý
ấy chứ? Chúng ta không phải mua vé, đến lúc soát vé, cậu cứ để đấy xem tôi giáo
dục bọn họ thế nào. Thật chẳng ra làm sao cả, đừng quên rằng cái xe lửa này
cũng thuộc về quần chúng nhân dân chúng ta đấy nhé.”
Tôi vội bảo cậu ta:
“Quần chúng cách mạng đi xe lửa vẫn phải mua vé thật đúng là chẳng ra làm sao,
nhưng giờ không phải lúc tham gia hoạt động của Hồng vệ binh thời xưa, ăn ở đi
lại đều miễn phí. Nhân viên nhà xe soát vé cũng chỉ là làm theo chức phận, để
tránh phải nảy sinh mâu thuẫn nội bộ với đồng chí nhân viên soát vé, tôi thấy
chúng ta vẫn nên có sách lược đối phó thì hơn. Dựa theo kinh nghiệm của tôi mà
phân tích, từ Hải La Nhĩ đến Bắc Kinh cũng không đi qua mấy trạm lớn, dọc đường
chẳng soát vé nhiều đâu, chúng ta cứ nhằm lúc chuẩn bị vào trạm lớn thì xuống
tàu đi bộ một đoạn, sau đó lại trà trộn lên thôi.”
Tuyền béo nói: “Tuy
rằng đi xe căng hải vốn là truyền thống của quân và dân ta, nhưng cứ thấy trạm
lớn là đi bộ như cậu nói thì không khéo teo xừ nó cả chân mất. Cuộc vạn lý
trường chinh năm xưa cũng thật vĩ đại, chúng ta làm sao bì được với các cán bộ
lão thành cách mạng, mà giờ các đội ngũ đều được cơ giới hóa cả rồi, có ai đi
xe căng hải nữa đâu chứ? Tôi thấy cứ làm căng, đi tàu chùa cho đỡ rách việc.
Tôi cứ ngồi đấy đấy, thách đứa nào làm gì được.”
Bọn tôi tính toán một
lúc lâu, cuối cùng cũng lý giải một cách sâu sắc câu “một đồng tiền làm khó bậc
anh hùng” nghĩa là như thế nào, không có tiền thì chẳng thể nói gì đến cách với
chẳng mạng nữa. Thật khâm phục các vị tiền bối năm xưa chỉ có đao kiếm gậy gộc
mà giờ phát triển được thành hải lục không quân, xe tăng đại pháo thứ gì cũng
có, đúng là chẳng hề dễ dàng chút nào... hiềm nỗi, chúng tôi nghĩ mãi cũng
chẳng ra cách nào kiếm được tiền cả.
Tôi và Tuyền béo nhất
thời cũng không biết phải làm sao, đang rầu rĩ thì tôi đột nhiên mò thấy trong
túi có thứ gì đó, móc ra xem không ngờ lại là tờ mười đồng. Tuyền béo lục tung
các túi cũng móc ra được mười đồng nữa. Hai thằng đều ngây người ra mất một
lúc, bấy giờ mới sực tỉnh ngộ, chắc chắn tiền này là của Đinh Tư Điềm bỏ vào.
Cô biết bọn tôi không có lộ phí nên đã lẳng lặng nhét một ít vào túi hai thằng
tôi. Nhưng cô lấy đâu ra tiền nhỉ? Hầu hết thanh niên trí thức một ngày làm
được năm công, thông thường mỗi công được ba hào, một tháng thử hỏi kiếm được
bao nhiêu tiền chứ? Đinh Tư Điềm là em út trong nhà, trên cô còn có ba người
anh nữa, nghe nói có hai người đang là sinh viên đại học thì phải đi tham gia
lao động sản xuất. Vì trình độ văn hóa tương đối cao nên đều được sắp xếp làm
những công tác tuyên truyền quan trọng, lương như lương công nhân, mỗi tháng
hơn ba chục đồng, cũng là một khoản khá khả quan. Số tiền này ở nông thôn tiêu
thế nào cũng không hết được, chắc chắn là họ có gửi một ít cho em gái chi dùng
rồi.
Bàn tay cầm tiền của
tôi và Tuyền béo đều run lên, lúc bấy giờ, hai bọn tôi đều không có khái niệm
rõ ràng lắm về tiền bạc, chỉ biết là tiền tốt, có thể mua kẹo mua thuốc, nhưng
tiền không thể có nhiều, nhiều tiền sẽ sinh ra tư tưởng hưởng lạc, tinh thần sa
đọa, tư tưởng hủ bại, cuộc sống thối nát, dễ bước lên con đường tự do hóa của
giai cấp tư sản. Có điều, lúc bấy giờ trong đầu chúng tôi đã nảy sinh một ý
niệm mơ hồ, rằng trong lương lai nhất định phải kiếm nhiều tiền, tiền xấu xa thật
đấy, nhưng có tiền cũng rất hữu dụng.
Cuối cùng cũng có tiền
mua vé tàu hỏa, hai chúng tôi mang theo tâm trạng phức tạp ngồi lên chuyến tàu
về Bắc Kinh, rồi lại vòng xuống Nam Kinh, tiền đã tiêu hết sạch, Tuyền béo lại
mượn của bà cô hai mươi đồng đưa cho tôi, tiễn tôi lên tàu rồi hẹn ở thềm sân
ga, bảo sang năm cứ đến thẳng trại Cương Cương rồi gặp nhau. Lúc ấy phải bẫy
thật nhiều cáo với hoàng bì tử, rồi đến thảo nguyên thăm Đinh Tư Điềm, cùng bàn
việc tham gia cách mạng thế giới.
Xe lửa chầm chậm nhích
bánh, tôi thò tay ra cửa sổ vẫy chào Tuyền béo, không ngờ chia tay lần này lại
là mười mấy năm cách biệt. Khoảng thời gian ấy xảy ra rất nhiều chuyện. Tôi về
đến Phúc Kiến, ngẫu nhiên lại được tuyển vào quân đội. Trong quân yêu cầu kỷ
luật sắt thép, chứ không được tiêu dao tự tại như hồi làm thanh niên trí thức,
thêm nữa là mấy năm đầu tôi lại phải đi làm nhiệm vụ bí mật ở núi Côn Luân,
không thể nào liên lạc được với thế giới bên ngoài. Tới khi được điều đến quân
khu Lan Châu, tôi mới biết tin Đinh Tư Điềm đã không còn trên thế gian này nữa.
Đúng vào mùa đông tôi và Tuyền béo rời khỏi thảo nguyên ấy, một đợt lạnh khủng
khiếp tràn về làm rất nhiều người và súc vật chết cóng, Đinh Tư Điềm cũng gặp
nạn trong bận ấy, đến giờ vẫn chưa tìm được xác.
Thời gian thấm thoắt
thoi đưa, chớp mắt đã mười lăm năm trôi qua, tôi và Tuyền béo đều không muốn
nhớ lại và cũng không dám nhớ lại câu chuyện xưa bi thảm ấy. Mãi đến tận bây
giờ, khi thu dọn hành trang chuẩn bị sang Mỹ, tiện tay lật giở quyển album cũ,
nhìn thấy tấm ảnh này... những chuyện xa xưa phủ bụi thời gian ấy, giờ vẫn hiển
hiện lên thật rõ ràng như thể vừa mới xảy ra hôm qua. Nhìn vật nhớ người, trong
lòng không khỏi bồi hồi xúc cảm. Tôi cứ mân mê nhìn mãi, đột nhiên phát hiện
trong bức ảnh còn có một cái bóng mơ hồ, nhìn thân hình lọm khọm ấy, dường như
là lão Dương Bì thì phải. Không hiểu vì sao, vừa thấy cái bóng mờ mờ của ông
trong tấm ảnh, tôi lập tức cảm thấy nôn nao bất an, trong lòng thầm nhủ, tại
sao trước đây mình lại không để ý đến chi tiết này chứ nhỉ?
Chương 54:
Trùm Trộm Mộ Phái Xả Lĩnh
Bao nhiêu năm nay, tôi
vẫn luôn canh cánh trong lòng những chuyện xảy ra sau khi lão Dương Bì qua đời,
và cả tấm long phù bằng đồng xanh mà Đinh Tư Điềm ném vào lùm cỏ kia nữa. Những
nghi vấn cứ mắc míu mãi ở nơi đáy lòng, nhưng nghĩ đến những chuyện đã qua, tôi
vẫn không khỏi bồi hồi chua xót, lại thêm mấy năm nay bôn ba cực nhọc, rất hiếm
khi có thời gian rảnh rang mà ngồi nhớ lại chuyện xưa. Hôm nay trông thấy bóng
dáng lão Dương Bì trên tấm ảnh cũ này, tôi mới bất giác nhớ lại những lời ông
kể, trong đó có một số chi tiết rất đáng để cân nhắc.
Thời trẻ, lão Dương Bì
từng làm nghề đổ đấu, ông lão đi theo một tay trùm trộm mộ họ Trần, về sau
người này xuống phía Nam thực hiện một vụ làm ăn lớn, không ngờ gặp phải chuyện
bất trắc mà mất tích. Người này liệu có chính là lão mù họ Trần mà chúng tôi
quen biết ở Thiểm Tây không nhỉ? Tay thầy bói mù họ Trần ấy cũng từng đến Vân
Nam trộm mộ? Giờ nghĩ kỹ lại, thấy có rất nhiều dấu hiệu trùng khớp. Chỉ có
điều, tuy tôi đã biết lão mù ấy từng theo đám người phái Xả Lĩnh đến trùng cốc
Vân Nam tìm mộ Hiến Vương, nhưng lão lại chưa bao giờ nói rằng lão là trùm sỏ
của đám trộm mộ ấy cả. Nhưng nghĩ kỹ ra thì cũng hiểu được, dầu sao thì lão
Trần mù này cũng đã hỏng mất đôi mắt, đời này đừng hòng đi đổ đấu được nữa. Giờ
lão đã lấy nghề xem bói để gạt ăn gạt uống của người ta, dĩ nhiên phải tự xưng
mình là Trần Đoàn lão tổ chuyển thế, chứ sao dám thừa nhận trước đây mình từng
là đại thủ lĩnh của một băng trộm mộ cho được?
Nghĩ tới đây, tôi đóng
ập cuốn album lại, đi ra ngoài. Hồi ở động Bách Nhãn, lão Dương Bì đã kể với
tôi rất nhiều chuyện xa xưa, quá nửa đều cực kỳ khó kiểm chứng, nhưng lão thầy
bói họ Trần kia đã trưởng thành từ trong xã hội cũ, có lẽ cũng biết một số
truyền thuyết liên quan đến hoàng bì tử, Quỷ nha môn, tấm long phù bằng đồng
xanh... Điều quan trọng nhất tôi muốn hỏi lão, lão Dương Bì sau khi chết bị sét
đánh như vậy là nguyên cớ gì, cũng coi như để giải mối nghi vấn vẫn mắc míu
trong lòng suốt mười mấy năm nay.
Địa bàn hoạt động của
lão Trần mù nằm ở khu Công viên Đào Nhiên Đình, có điều lão này hành tung rất
khó dò, gần đây lại hầu như không dám công khai lộ mặt ở công viên nữa. Đối
diện với công viên Đào Nhiên Đình là bến xe Nam Bắc Kinh, nghe nói lão ta
thường bày sạp xem bói trong một con ngõ nhỏ phía sau bến xe, tôi phải mất khá
nhiều công sức mới tìm được lão.
Lúc tôi mò được tới
nơi, lão Trần mù đang rờ xương phán mệnh cho một người đàn bà. Chị này khoảng
trên dưới ba mươi gì đấy, béo núng na núng nính, thậm chí còn có vẻ giàu có
nữa, không biết gặp phải nghi nan gì mới đi tìm lão nhân xin được chỉ điểm. Lão
mù rờ tay lên mặt xem tướng, rồi béo mạnh mấy phát vào chỗ sống mũi chị ta,
miệng lẩm nhẩm nói: “Xem hình xem mạo cũng nhiều lối, sao phải xem mặt mới biết
phú quý sang hèn, người mù đây có tiên nhân chỉ, sờ được mạch nguồn tự cốt
xương.”
Người đàn bà bị lão già
gầy trơ xương ấy bóp cho đau cả mặt, vội nói: “Bác nhẹ tay một chút được không?
Sao mà cứ như cái gọng kìm sắt thế?”
Lão mù nói: “Lão phu có
tiên nhân chỉ, có thể cách thịt thấu xương, dù véo mạnh đến mấy thì lũ phàm phu
tục tử cũng không hề cảm giác đau đớn, duy chỉ có thần tiên tinh quần hạ phàm
mới cảm nhận được. Xem ra phu nhân đây nhất định là người có lai lịch rồi,
không biết vị tiên cô này muốn hỏi chuyện gì? Nếu muốn nói chuyện thiên cơ,
mười đồng một câu, tuyệt không tính hơn.”
Người đàn bà ấy tai to
mặt lớn, chắc từ nhỏ đã hay được người ta khen là có phúc tướng, giờ nghe lão
mù gọi mình là tiên cô lại càng tin chắc mình tuyệt đối không phải là người
thường, đúng thực là có lai lịch phi phàm, không khỏi lấy làm khâm phục, lão
già này tuy mù thật, nhưng đúng là liệu sự như thần, vậy là cứ thể tông tốc kể
hết nguyên úy sự tình ra.
Tuy tôi nôn nóng tìm
lão mù nói chuyện, nhưng cũng không tiện quấy phá việc làm ăn của lão, đành
ngồi bên cạnh đợi, nghe một hồi lâu mới hiểu thì ra chồng của người đàn bà này
là con buôn chuyên buôn bán các loại chứng từ, trong nhà có cái cây tiền như
thế nên dĩ nhiên không phải lo cái ăn cái mặc, chỉ là gần đây hai vợ chồng chị
ta liên tiếp gặp phải một giấc mộng kỳ lạ. Trong mơ, có một con chó đen cắn gót
chân chị ta, mỗi lần như thế chị ta đều giật thót mình tỉnh dậy, mình mẩy đầm
đìa mồ hôi. Hai người cùng gặp một cơn ác mộng, không chỉ mất ăn mất ngủ, mệt
mỏi vô cùng, mà chết người hơn nữa là, gót chân bị con chó đen cắn trong mơ dần
dần sưng tấy chảy mủ, bốc mùi hôi thối, đi khắp nơi cầu thầy cầu thuốc mà cũng
không thuyên giảm. Chị ta nghe người ta nói ở gần công viên Đào Nhiên Đình có
vị thần toán mù là Trần Đoàn lão tổ chuyển thế đầu thai, nên mới đặc biệt tìm
đến xin chỉ điểm bến mê, một là hỏi nguyên do của giấc mộng kỳ quái này, hai là
hỏi có cách gì chữa được vết lở loét sưng tấy ở gót chân hay không.
Lão Trần mù lại hỏi
hình dung tướng mạo của chồng chị kia, nghe kể xong, thần sắc lão ta vẫn ung
dung như thể đã nắm rõ được mọi sự trong tay rồi vậy. Chỉ thấy lão ta đung đưa
lắc đầu, bấm đốt ngón tay tính toán: “Quả nhiên không ngoài dự đoán của lão
phu, tiên cô chính là con cá chép vảy vàng ở Dao Đài nơi Thiên Trì chuyển thế,
còn quý phu quân gày gò trơ xương, lại thấp lùn, vốn là con chim sẻ lông vàng
trước xe của Ngọc Đế, đều là linh quan trên thượng giới cả. Hai người xuống
trần kết làm phu thê, vốn là để dứt đi một quãng duyên phận, nhưng hai vợ chồng
các vị kiếp trước lại đắc tội với con Hạo Thiên Khuyển của Nhị Lang Chân Quân.
Con ác cẩu này không chịu buông tha, nên hai người mới thường mơ thấy chó đen
cắn chân, cũng may là để lão phu biết được, bằng không thì họa lớn chẳng còn xa
nữa đâu.”
Người đàn bà béo ú đó
vừa nghe thấy mình và chồng kiếp trước không ngờ lại là hai con súc sinh, cảm
thấy không được thuận tai cho lắm, không khỏi ngờ vực phải chăng lão mù này
đang thuận mồm bịa tạc lung tung để gạt tiền mình.
Lão Trần mù vội vàng
giải thích, lão phu đây lời nói như khuôn vàng thước ngọc, chỉ điểm thiên cơ,
đâu phải là hạng lừa đảo chúng sinh. Mắt ta mù nhưng tâm sáng, nhìn thấy những
thứ người đời không thấy, hiểu cái đạo người đời không hiểu. Đạo là gì chứ, đại
đạo vô hình, sinh ra thiên địa, đại đạo vô tình, vận hành nhật nguyệt, đại đạo
vô danh, nuôi dưỡng vạn vật, ta không biết tên thứ ấy là gì, mới miễn cưỡng gọi
là đạo. Cổ nhân có câu: “Đạo thị vô ngôn, phật thị không.” Ngôn ngữ trên thế
gian này không thể hình dung một cách chuẩn xác đại đạo là gì, tóm lại một điều
là vạn vật trên đời đều thuộc về đại đạo, dù là người là chim chóc, hay thú
vật, cũng đều là định số ở trong đại đạo, chẳng có phân biệt cao quý sang hèn,
lại càng không thể dùng cái sự xấu đẹp mà phân biệt quý hay tiện, chỉ những
hạng tục tử phàm phu vô tri mới cho rằng con người tôn quy, hắc hắc... chữ quý
ấy sao có thể tùy tiện nói ra được chứ.”
Cái này gọi là phi cầm
tẩu thú đều có số, có một số người kiếp trước đều là cầm thú cả, điểm này thì
có thể nhìn ra được từ hình mạo bên ngoài. Đó là tạo hóa của số mệnh, là phúc
phận của mỗi người, có gì mà đáng xấu hổ đâu chứ? Phép rờ xương rờ da xem tướng
người này có một yếu quyết, tướng gầy coi là chim, người béo xem như thú. Chim
thì không ngại thân gầy nhỏ, thú lại trọng nhất là phải béo tốt. Chim béo sao
có thể bay, còn thú gầy làm sao có thể bắt mồi kiếm ăn? Lão mù xổ ra cả một
tràng dài các thứ đông tây kim cổ, cưỡng từ đoạt lý, mở mồm ra là đạo nọ đạo
kia, làm người đàn bà ấy nghe phục sát đất, cuối cùng thậm chí còn bắt đầu lấy
làm vinh hạnh vì kiếp trước hai vợ chồng nhà mình đều là cầm thú nữa.
Nhưng đến đây, lão mù
bỗng đổi giọng, lại phủ định sự phú quý đời này của chị ta. Lão nói, mệnh là
thuyền, vận là gió, “mệnh vận” thực tế là hai việc hoàn toàn khác nhau, tuy có
mệnh phú quý, nhưng lại gặp phải vận đen đủi, thì cũng như có thuyền lớn mà
chẳng có gió trợ lực, cũng chỉ có thể bỏ ở bãi nông, rồi mục nát ra mà thôi. Vợ
chồng hai người đều có mệnh thần tiên tiêu dao, nhưng lại bị vướng vào căn nợ
kiếp trước, con chó đen cắn chân trong mộng, chính là Hắc tinh giáng xuống, vận
rủi sắp giáng xuống đến nơi rồi, thực sự hung hiểm vô cùng, nhẹ thì tan cửa nát
nhà, nặng ắt hãm thân xuống chốn địa ngục A Tỳ, vạn kiếp bất phục.
Người đàn bà ấy sém
chút nữa bị lão Trần mù dọa cho liệt nửa người tại chỗ, vội vàng vừa lạy lục
cầu xin cứu mạng, vừa nhét một nắm tiền vào tay lão ta. Lão mù rờ rờ thấy nhiều
tiền, bấy giờ mới chậm rãi bày mưu tính kế cho chị ta, bảo rằng nhất thiết phải
mau chóng chuyển nhà, trong nhà mới lập một bài vị, trên viết rằng “Quận thủ Lý
Băng ở đây”. Tại sao phải làm vậy? Lý Băng chính là quận thủ của Ba Thục thời
Tần Chiêu Vương. Trong đất Thục có truyền thuyết, Nhị Lang Chân Quân chính là
con trai thứ nhà Lý Băng, có bài vị Lý Quân ở đấy, Hạo Thiên Khuyển sẽ không
dám xâm phạm nữa.
Kế đó, lão mù lại cầm
bút viết lên tờ giấy rách một đơn thuốc: một chỉ vỏ cây tùng núi Long Hổ, ba
hạt Bàn đào, Nam châu Bắc đảm mỗi thứ hai, ba lạng Bách vị thạch, một con cá
sông Hoàng Hà, sắc với nước hồ Động Đình, ba bát còn lại một bát, mỗi ngày uống
một lần, liên tiếp ba ngày ắt sẽ tâm bình khí hòa, vết thương dưới chân liền tự
khỏi.
Chị béo kia nghe mà đần
thối mặt ra, phương thuốc kê toàn những thứ gì thế này? Có mấy vị thậm chí còn
chưa nghe tên bao giờ, sợ rằng có tiền cũng không mua được, chẳng lẽ lại là
linh dược trên trời? Thế này thì biết phải làm sao đây?
Lão mù thấy thế lại
bảo, không ngại không ngại, lão phu đây có dược liệu thay thế được, rồi lại đòi
chị ta thêm một ít tiền nữa, đoạn kiếm một cái bát vỡ châm lửa đốt phương thuốc
ấy ra tro, đưa cho chị kia, dặn dò chia làm ba phần, uống với nước sạch, nhớ
kỹ, nhớ kỹ.
Tôi ngồi bên cạnh nghe
mà không khỏi cười thầm trong bụng. Tôi thấy lão già này gạt đủ tiền bạc, đuổi
chị kia đi rồi, bèn nói, muốn tìm chỗ nào nói chuyện được để hỏi lão mấy việc.
Sau đó, tôi cầm đầu gậy của lão, dắt đến đình nghỉ mát trong công viên Đào
Nhiên Đình, vừa đi vừa hỏi lão ta vừa nãy xem bói cho chị béo kia có chuẩn hay
không.
Ban đầu, tôi tưởng lão
mù này chỉ ăn nói ba hoa phét lác, nhưng nghe lão khuyên chị kia chuyển nhà
ngay lập tức thì cũng khá có lý. Trong chương chữ “Quỷ” của cuốn Thập lục tự âm
dương phong thủy bí thuật, có viết, nếu nằm mơ thấy dưới giường có chó đen hay
chó mèo đen cắn chân, thì nhà ấy ắt là hung trạch, không thể ở. Nếu đào sâu
xuống mấy thước, có khả năng sẽ thấy một khúc đen như than củi, ấy là do trong
nhà này trước có người treo cổ tự tử, vong linh nhập địa hóa thành địa sát rồi
kết tinh lại, hoặc bên dưới nhà ấy có mộ cổ. Căn nhà của chị béo kia có thể là
một căn hung trạch, dọn nhà rời xa chốn thị phi là thượng sách.
Lão mù họ Trần đắc ý ra
mặt, cười hì hì nói: “Dưới đất nhà chị béo ấy có gì lão phu làm sao biết được,
có điều nhà chị ta chuyên làm mấy chuyện đầu cơ trục lợi, chắc chắn đút lót,
tham ô, buôn lậu, biển thủ tiền bạc cũng không ít. Người làm nghề ấy không thể
tránh được, hẳn đã làm rất nhiều chuyện trái với lương tâm. Loại người như thế
lúc nào chẳng hốt hốt hoảng hoảng, ngày đêm nơm nớp lo sợ, vậy nên mới nghi
thần nghi quỷ, dễ bị lừa gạt nhất. Lão phu hai mắt có mù cũng tính ra được quẻ
này, sau đó rờ đến xương cốt liền biết chị này là kẻ cầm thú bất hiếu keo kiệt,
tiền bạc trong nhà đều là của bất nhân bất nghĩa, có lấy cũng chẳng ngại gì.
Nhớ năm xưa khi tụ tập huynh đệ đi đổ đấu, nếu gặp phải hạng phú quý mà bất
nhân thế này, lão phu sớm đã một đao chém sạch, đuổi cái đôi nam nữ xấu xa ấy
xuống Âm tào chịu cực hình rồi...”
Tôi nghe lão mù kể
chuyện năm xưa tụ tập huynh đệ đi đổ đấu, liền thừa cơ hỏi lão có phải đã từng
làm trùm một băng trộm mộ không, có quen biết hai người Thiểm Tây biết hát điệu
Tần Xoang tên là Dương Bì và Dương Nhị Đản hay không?
Lão mù nghe tôi hỏi vậy
thì ngẩn người ra, Xả Lĩnh lực sĩ cùng với Mô Kim hiệu úy và Ban Sơn đạo nhân
cùng tề danh là hạng chuyên đào mồ quật mả. Thời Hán, sau khi quân Xích My bị
trấn ám tiêu diệt, có một bộ phận còn sót lại đã chạy vào rừng làm tặc khấu,
phân tán khắp các vùng, cũng vẫn giết quan tạo phản. Năm xưa quân Xích My từng
lật tung cả lăng tẩm nhà Hán lên, những càn quấn này cũng giữ nguyên truyền
thống ấy, hễ phát hiện cổ mộ là liền tụ tập cướp phá. Trước thời Tống, mỗi khi
Xả Lĩnh lực sĩ đổ đấu, vẫn còn theo phép trước khi hành sự đều lấy chu sa hoặc
máu lợn bôi lên lông mày của quân Xích My, trộm mộ xong mới dùng nước thuốc rửa
sạch. Về sau, vì để giữ bí mật, thói quen nhuộm lông mày trừ tà này mới dần dần
mất đi.
Phái Xả Lĩnh, mỗi đời
đều có một thủ lĩnh, gọi là “đạo khôi”. Khôi ở đây là “khôi thủ”, có nghĩa là
người đứng đầu. Những sự người đông việc lắm không thể không có một người lãnh
đạo, lúc chia tiền tụ nghĩa, mọi việc đều do tay trùm này quyết định, uy vọng
cực cao, thậm chí còn có quyền sinh quyền sát. Thủ lĩnh không chỉ tinh thông
thuật đổ đấu quật mồ, mà còn là đại ca cầm đầu trong giới lục lâm, cũng có thể
coi là nhân vật hô phong hoán vũ. Thời Dân quốc, lão Trần mù này đích thực có
từng làm thủ lĩnh một băng trộm mộ thuộc phái Xả Lĩnh, nhưng những chuyện xa
xưa ấy nếu không nhắc đến thì lão cũng quên mất tiêu rồi.
Dĩ nhiên, lúc đó lão
Trần mù vẫn chưa mù, cũng là nhân vật danh tiếng lẫy lừng trên chốn giang hồ,
dựa vào ba tấc lưỡi không xương, cùng với mỹ danh “Trượng nghĩa khinh tài tức
chết Tống Giang” mà hành tẩu khắp đại giang Nam Bắc. Bấy giờ vì thiên hạ đại loạn,
so với các triều đại trước, thế lực của phái Xả Lĩnh đã cực kỳ suy yếu, nhưng
cũng vẫn khống chế được đám giặc cướp ở Thiểm Tây Hà Nam, cùng mấy tỉnh lớn
vùng Lưỡng Hồ. Sào huyệt đặt ở Hồ Nam, lúc lão Dương Bì và Dương Nhị Đản gia
nhập làm thuộc hạ, cũng là lúc lão Trần mù đang tụ tập huynh đệ đi đối phó với
Tương Tây thi vương trăm năm mới xuất hiện một lần.
Chương 55:
Yêu hóa long
Tôi nghe lão Trần mù kể
chuyện xưa, mới biết lão này không ngờ lại từng là ông trùm của băng trộm mộ Xả
Lĩnh, cũng là một đại nhân vật phong vân một thuở ở vùng Lưỡng Hồ. Nếu không
phải mười mấy năm trước tôi biết một vài chuyện từ chỗ lão Dương Bì, giờ lại
chứng thực với lão Trần, bằng không thì cũng không dám tin lão mù này lại từng
có quá khứ huy hoàng đến thế.
Tôi sắp sang bờ bên kia
đại dương để thực hiện giấc mơ Mỹ, từ nay về sau sẽ là cách xa ngàn dặm, cũng
không biết năm nào tháng nào mới về nước lại nữa. Lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm
tuy đều đã khuất bóng nhiều năm, nhưng những tao ngộ ở động Bách Nhãn mười lăm
năm trước từ đấy đến giờ vẫn là một khối tâm bệnh trong lòng, tôi nào còn lòng
dạ nghe lão mù kể chuyện năm xưa lão ta dẫn theo huynh đệ đối phó Tương Tây thi
vương gì nữa, chỉ muốn hỏi thăm xem lão ta có biết lão Dương Bì rốt cuộc là
người như thế nào, tại sao sau khi chết, ông già còn bị sét đánh xuống thiêu
xác như thế.
Năm đó lão Dương Bì đi
theo lão Trần mù này hành sự, chẳng qua cũng chỉ là một tay thuộc hạ nhỏ nhoi
không đáng để mắt, lão mù cũng không có ấn tượng gì sâu sắc, tôi đành phải kể
lại một lượt những chuyện xảy ra trên thảo nguyên Nội Mông với lão ta.
Tôi kể hết chuyện xưa,
rồi cả chuyện cách đây không lâu, tôi đọc báo biết tin trong triển lãm về tội
ác của quân Nhật trong cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc ở Hải La Nhĩ, có
bày mấy hiện vật chứng minh quân Nhật thời bấy giờ đang nghiên cứu vũ khí vi
khuẩn, nghe đâu cả thế giới cũng chỉ có vài món như thế mà thôi. Ngoài một phòng
phun hơi độc, còn có một lò thiêu xác của Đức sản xuất, cánh cửa lò màu đen ấy
trông rất quen thuộc, vừa nhìn thấy tấm ảnh chụp cái lò đó, tôi liền nghĩ ngay:
“Đây chẳng phải là cái lò thiêu xác đen ngòm mà suýt chút nữa mình chui ra theo
lối ống khói đấy sao?” Xem ra, di tích trong động Bách Nhãn đã bị khai quật từ
lâu rồi, chẳng qua tin tức bị phong tỏa rất kín kẽ, không công khai tuyên
truyền ra mà thôi.
Tất cả những chuyện này
tôi đều kể hết với lão mù, càng nghe gương mặt lão càng có vẻ trầm trọng, đung
đưa bộ râu dê nghĩ ngợi một hồi lâu, cuối cùng cũng nhớ lại hai người lão Dương
Bì và Dương Nhị Đản, liền tả lại cho tôi tướng mạo và khí độ của hai người ấy
thời trẻ.
Muốn tìm mộ cổ chủ yếu
phải dựa vào việc thăm dò tin tức ở trong dân gian, vì vậy dù là Mô Kim hiệu úy
hay là Xả Lĩnh lực sĩ đều không thể không ngụy trang dưới một thân phận khác đi
khắp xóm làng thôn trấn, thông dụng nhất chính là giả làm thầy phong thủy hoặc
thầy bói. Năm xưa, lão Trần mù này đã lịch duyệt giang hồ, kiến đa thức quảng,
lại tinh thông nhiều môn tiểu kỹ, đặc biệt là mấy thuật giang hồ như xem tướng,
bói quẻ, đoán chữ... vì vậy giờ đây lão ta xem tướng đoán mệnh cho người khác,
tuy chỉ để lừa tiền lừa bạc kiếm ăn, song nói năng vẫn có lý lẽ đầy đủ, không
mấy khi lộ ra chút sơ hở nào.
Trên thực tế, việc rờ
mặt xem xương đều là giả trá hết cả, tướng mạo và xương cốt của con người đều
do trời sinh, nếu bảo có tương quan gì đến vận mệnh hay phẩm đức thì thật quá
khiên cưỡng. Có điều những kẻ giang hồ lão luyện như lão Trần mù này, đều có
kinh nghiệm nhìn người riêng. Nhưng phải làm sao mới biết được nhân phẩm của
một người như thế nào chứ?
Người cũng có nhiều
loại người, điểm này thì không sai, nhưng không phải dựa trên thân phận địa vị
mà quyết định ai sang ai hèn ai cao ai thấp. Trên đời có quân tử thì ắt phải có
tiểu nhân, phương pháp nhìn người, chủ yếu là phải dựa vào chí hướng của người
ấy xa hay gần, khí độ sâu rộng hay hạn hẹp thiển cận.
Chí hướng và khí độ của
con người cao thấp khác nhau, tuyệt đối không thể vơ đũa cả nắm. Có người tầm
nhìn hạn hẹp, chỉ vì cái lợi trước mắt, giống như con chim sẻ vậy, ngày nào
cũng chỉ nghĩ đến thức ăn, nhét đầy cái bụng chẳng qua cũng chưa đến trăm hạt
gạo, tiếng kêu của nó, xa nhất cũng không vượt qua được mấy mẫu đất. Đây chính
là khí độ của chim sẻ. Nhưng lại có một số người vừa khéo ngược lại, họ có thể
nhìn xa trông rộng, chí hướng như chim loan chim phượng, một khi sải cánh trên
không là muốn vượt đi ngàn dặm, không phải cây ngô đồng thì không dừng chân
xuống nghỉ, chỉ khi trông thấy vầng chiêu dương sơ sinh mới cất tiếng kêu vang
động đất trời. Khí độ con người có cao có thấp, một nửa là do trời sinh, một
nửa là do bản thân quyết định, sự khác biệt phải nói là vô cùng lớn.
Xả Lĩnh lực sĩ là hạng
nửa trộm nửa cướp, thuộc đạo lục lâm. Tiêu chuẩn nhìn người của bọn họ là, thà
gặp cướp quân tử còn hơn gặp quan tiểu nhân. Thông qua việc quan sát cách nói
năng đi đứng, cùng những hành vi thường ngày, họ phán đoán một người có thích
hợp nhập bọn hay không. Phương diện này tuyệt đối không thể qua loa đại khái,
nhất là để đề phòng trong bọn có nội gián, hoặc hạng tiểu nhân dùng dao đâm lén
sau lưng kẻ khác.
Trong ấn tượng của lão
Trần mù, lão Dương Bì và người anh em Dương Nhị Đản đều là kẻ khí lượng hẹp hòi
kém cỏi, mà tầm nhìn cũng không cao, nói khó nghe một chút, thì hai anh em nhà
này đều có tướng mạo nô tài, chỉ thích hợp làm hạng người ăn kẻ ở thấp hèn, đặc
biệt là tên Dương Nhị Đản, tuy bề ngoài thoạt trông như một tên chăn dê trung
hậu, yên phận, nhưng đấy chỉ là hình dáng bên ngoài, chứ tâm địa khó lường,
trong bụng đầy mưu mô tính toán. Có điều, khí độ của y không đủ, dẫu muốn làm
điều gian trá cũng không đủ tài trí, loại người này lòng dạ xấu xa, cũng có gan
làm chuyện bại hoại, nhưng lại thiếu cốt cách, khó mà thành được đại sự, sau
này cũng chỉ đi phục dịch kẻ khác kết cục chẳng tốt đẹp gì cho cam.
Lão Trần mù này nói
cũng đúng thật, Dương Nhị Đản trước là bị dụ đi làm thổ phỉ, rơi vào tà đạo,
rồi lại đi theo người Nhật làm Hán gian, chơi với lửa rốt cuộc đã tự thiêu
chính mình, cuối cùng chết vô cùng thê thảm. Thì ra, từ mỗi hành vi cử chỉ
thường ngày, cũng có thể nhìn ra một kẻ có tâm thuật bất chính hay không. Có
điều, bản lĩnh nhìn người xét lòng dạ ấy cần có kinh nghiệm và sự từng trải vô
cùng phong phú, thậm chí còn khó hơn xem phong thủy rất nhiều, xét cho cùng thì
vẫn là “họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm.”
Lão mù tiếp đấy lại kể
một số chuyện của hai anh em lão Dương Bì, nhưng cũng không biết gì về sự việc
ở động Bách Nhãn. Tôi bèn hỏi lão về lời dặn dò của lão Dương Bì trươc lúc lâm
chung. Tại sao lại phải đào sâu tám thước, lõa thể chôn chổng ngược chân lên
trời? Tại sao lại bị trời giáng sấm sét đánh xuống như thế? Tại sao trong mộ
lại xuất hiện một con hoàng bì tử to tướng cũng bị sét đánh cháy thành than?
Bao nhiêu năm nay tôi cũng chưa từng gặp chuyện gì giống như thế cả, đến bây
giờ hồi tưởng lại, cũng vẫn mờ mờ mịt mịt, không nghĩ ra được duyên cớ bên
trong.
Lão mù từ sau bận xuống
Vân Nam trộm mộ thì không gặp lại anh em lão Dương Bì nữa, những chuyện xảy ra
về sau, toàn bộ đều do tôi thuật lại. Lão nghe tôi kể những quái sự xảy ra sau
cái chết của lão Dương Bì, nét mặt thoáng lộ vẻ trầm ngâm suy nghĩ. Dường như
lão cũng biết một số sự việc của Nguyên giáo, ngẫm nghĩ một lúc, rồi hừ lạnh
nói: “Người tính rốt cuộc cũng không bằng trời tính...”
Tôi hỏi lão mù, lời này
nghĩa là sao, lẽ nào những chuyện lão Dương Bì sắp đặt trước lúc chết còn có ẩn
tình gì khác.
Lão mù gật đầu nói:
“Nhất tiên sinh cũng là bậc lão làng trong nghề đổ đấu, lên núi xuống rừng,
chắc hẳn cũng gặp đủ loại lăng mộ rồi. Nhưng đã bao giờ tiên sinh nghe nói trên
đời này có chuyện chôn cắm đầu xuống đất mà lại còn lõa thể hay không? Tự nhiên
là không có rồi, bởi đây không phải là cách thức chôn cất mai táng gì cả, lão
Dương Bì này sợ rằng còn có dụng tâm khác.”
Hồi trước lão Trần mù
này cũng có ý đồ trộm mộ Hoàng đại tiên, nhưng vì nhiều nguyên do khác nhau mà
chưa thể động thủ được, Dương Nhị Đản sở dĩ có thể thuận lợi tìm được miếu
Hoàng đại tiên chôn dưới đất, chính là nhờ vào một số đầu mối quan trọng năm
xưa y thăm dò được từ chỗ lão Trần này.
Đám Nguyên giáo thờ
phụng Hoàng đại tiên ấy bắt nguồn từ núi Tiểu Ba Lặc thuộc dãy Đại Hưng An
Lĩnh. Tương truyền trên núi Tiểu Ba Lặc có một con hoàng bì tử toàn thân trắng
như tuyết, thể hình to ngang con chó, miệng nhả hồng châu. Viên châu này là do
sinh linh trải qua thời gian ngưng kết lại, cũng là một thứ báu vật tương tự
như ngưu hoàng. Có một số bọn lừa đảo buôn thần bán thánh liền lợi dụng con
hoàng bì tử này làm chiêu bài, tụ tập chúng nhân kiếm tiền bất chính, lại còn
dùng tà thuật để mê hoặc lòng người.
Về sau, giáo phái này
dần dần lan rộng ra đến những vùng biên viễn hoang vu, dân chúng ngu muội đi
theo vô cùng đông đảo, cuối cùng vì có ý đồ mưu phản nên đã bị quan phủ trấn áp.
Lũ hoàng bì tử thành tinh ấy có thể nhiếp hồn người ta, nhưng chúng sợ nhất là
nghe Lạt ma niệm chú. Quan quân được đại lạt ma của tu viện Trát Thực Luân hiệp
trợ, liền đại khai sát giới, hầu hết giáo đồ Nguyên giáo đều bị vây bắt tiêu
diệt. Đám tàn dư còn lại mang theo di hài của Hoàng đại tiên chạy về nơi thâm
sơn cùng cốc, tu tạo một ngôi miếu Hoàng đại tiên ở chốn hoang vu không dấu
chân người, bên trên là miếu, còn bên dưới thực chất là mộ phần chôn cất cỗ
quan tài chiêu hồn của Hoàng đại tiên.
Cũng không hiểu tại sao
lại trùng hợp thế, ngôi miếu Hoàng đại tiên trong chốn rừng sâu này vừa khéo
lại xây trên đúng mạch vàng, dân đào vàng thời bấy giờ không ai là không tin
Hoàng đại tiên, cho đến khi đào đứt mạch đất làm núi lở sụt xuống chôn vùi cả
ngôi miêu dưới đất đá. Lão Trần đã từng có ý định dẫn theo thủ hạ đi đào ngôi
miêu Hoàng đại tiên đó để lấy nội đan bên trong quan tài đồng, nhưng nghe nói
cỗ quan tài ấy đã bị yểm bùa, kẻ nào mở ra ắt sẽ mất mạng. Khi chưa rõ chân
tướng, lão Trần mù cũng không dám làm ẩu, phỏng chừng trong lúc nói chuyện lão
ta đã lộ ra một ít phong thanh, nên mới để Dương Nhị Đản biết được một vài đầu
mối.
Phần này lão mù kể về
cơ bản là trùng khớp với nội dung tôi nghe được từ miệng lão Dương Bì trong
động Bách Nhãn mười mấy năm trước. Nhưng những chuyện về sau, lão mù cũng chỉ
có thể dựa vào kinh nghiệm và sự từng trải của mình mà suy đoán. Lão đoán rằng,
có thể lão Dương Bì đã phát hiện ra tà thuật gì đó của Nguyên giáo trong động
Bách Nhãn, rồi nảy sinh ham muốn vượt phận mình, dự định đoạt lấy bí mật của
thiên địa tạo hóa. Vì rằng trong Nguyên giáo vốn có thuyết “hóa long”, cho rằng
một người sau khi chết, nếu không mặc gì, chôn chúc đầu xuống đất ở nơi long
khí ngưng kết, bảy ngày sau sẽ có thể mọc vảy mọc vuốt, hóa thành rồng bay lên
trời. Phải chôn cắm đầu xuống đất là bởi đầu là nguồn gốc của tư duy, là căn
nguyên của bách thể, dùng tà pháp này hút lấy long khí trong mạch đất, có thể
khiến con cháu được hưởng phúc ấm trăm đời. Nhưng lão Dương Bì không tích được
cái đức ấy mà lại muốn làm chuyện nghịch thiên, cuối cùng người tính không bằng
trời tính, rốt cuộc cũng chỉ là công toi, chẳng thể hóa thành rồng.
Thuật “hóa long” mà lão
mù nói đến ấy, xét cho cùng cũng chỉ là chuyện hư ảo. Nhưng hồi trước lão đi
trộm mộ, đích thực từng gặp những cái xác được chôn theo nhiều phương thức cổ
quái rồi sinh ra thi biến, trên người mọc ra vảy thịt cũng chẳng phải chuyện gì
ghê gớm. Người khác tin thì tin, nhưng dân làm nghề trộm mộ đổ đấu thì không
nên tin vào những chuyện này. Ngoài khả năng này ra, còn có thể suy đoán theo
chiều hướng khác nữa. Ấy là, lão Dương Bì một mình vào động xác rùa, sau khi mở
giếng vàng ra liền bất tỉnh nhân sự. Vì sinh mạch, long khí trong động Bách
Nhãn đều bị người ngoài phá đi rồi, nên những vật tà ác náu mình ở đây đã ám
lên người ông già. Nếu không phải lão Dương Bì muốn hóa rồng, thì chắc chắn đây
là mưu đồ của tà vật ám quẻ lên người ông lão. Có điều, ý trời khó đoán, chưa
đến bảy ngày thì cái xác đã bị đào lên khỏi lòng đất, bị sét đánh cháy thui rồi.
Sinh linh vạn vật cũng giống như huyệt mạch phong thủy, đều phải có thủy có
chung, một khi tồn tại quá lâu, phạm vào quy luật có sinh ắt có tử, thì ắt sẽ
phải gánh nhận kiếp số. Xem ra là bọn hoàng bì tử trên núi Tiểu Ba Lặc kia khí
số đã tận, muốn trốn cũng không thể nào trốn được.
Tôi cảm thấy khả năng
thứ hai có vẻ lớn hơn một chút, năm đó sau khi ra khỏi động Bách Nhãn, lão
Dương Bì đột nhiên trở nên hết sức kỳ dị, hoàn toàn khác hẳn thường ngày, giờ
nhớ lại mới thấy lạ, khi ấy tôi còn tưởng là ông già hao tổn tâm lực quá độ nên
mới vậy, chỉ nôn nóng muốn đưa ông đến bệnh viện khám bệnh chứ cũng không nghĩ
theo hướng nào khác, làm sao mà ngờ được ông già lại bị hoàng bì tử nhập lên
người cơ chứ.
Nghĩ đến việc người
chết rồi mà còn bị hoàng bì tử lợi dụng, tôi bỗng sực tỉnh ngộ, có lẽ cả hai
khả năng mà lão mù nói đều không tồn tại. Cứ coi như lão Dương Bì có ý đồ táng
xác mình vào huyệt báu phong thủy để tạo phúc ấm cho con cháu đời sau? Nhưng
trong cái lều Mông Cổ ấy làm sao có huyệt phong thủy được? Lẽ nào tấm long phù
bằng đồng xanh mà lão Dương Bì lén lút lấy trong quan tài đồng kia lại là pháp
khí phong thủy thời cổ? Thứ ấy để bên trong quan tài của con chồn lông vàng kia
đã mấy trăm năm, nhất định còn mang theo hơi xác của con hoàng bì tử ấy, không
thể nào tiêu trừ được. Sau đó, long phù được phát hiện ra bên trong cái xác
cháy đen, chắc chắn là trước khi chết lão Dương Bì đã cố nuốt vào trong bụng.
Lũ hoàng bì tử nhận ra mùi của tổ tiên nhà chúng, vậy nên mới có một con hoàng
bì tử chui vào trong xác chết định lấy long phù đi. Những chuyện ma tà yêu quái
gì gì khác thì tôi không tin lắm, nhưng đạo phong thủy vốn cực kỳ thâm ảo,
người thường khó mà hiểu hết cho đành, không hiểu có phải vì tấm long phù kia
nên mới gây ra trận sấm sét đó hay không nhỉ?
Trước đây tôi cho rằng
long phù chỉ là một món minh khí bồi táng cùng Hoàng đại tiên, nhưng sau buổi
nói chuyện dài với lão mù, nghĩ lại kỹ càng hơn từ một góc độ khác, càng nghĩ
càng cảm thấy tấm long phù kia không phải thứ tầm thường. Đáng tiếc, nó đã bị
Đinh Tư Điềm vứt vào lùm cỏ trên thảo nguyên mất rồi. Chuyện cũ đã qua, những
trải nghiệm ấy tựa như một giấc mộng lớn, những suy đoán này rốt cuộc cũng chỉ
là suy đoán phiến diện, chắc gì đã đúng. Trừ phi có thể khiến người chết sống
lại, bằng không chúng tôi vĩnh viễn cũng không có cách nào biết được chân tướng
sự việc năm xưa. Tôi nhớ lại chuyện tấm long phù, bèn thuận miệng hỏi lão mù
xem có biết lá bùa bằng đồng xanh đó rốt cuộc là thứ gì hay không.
Tấm long phù bằng đồng
xanh ấy hình con rồng không có mắt, tạo hình cổ phác, chắc là vật từ mấy nghìn
năm về trước, bên trên có đúc những bùa chú mờ mờ khó thể nhận ra. Tôi cho rằng
những vết khắc bên trên là một loại đạo cụ để giao tiếp với linh giới bằng một
loại ngôn ngữ bí mật nào đó. Thời xưa, có sự phân biệt giữa các loại chất liệu
như đồng, ngọc, đá. Đồng phù tương đối phổ biến, nhưng tấm long phù trong động
Bách Nhãn này lại thuộc loại hiếm thấy, tương truyền là do lũ rùa ở Quy miên
địa mang từ đáy biển lên. Lại nói về Quy miên địa, sau này khi kiến thức phong
thủy của tôi nhiều thêm, mới biết những nơi gọi là Quy miên địa ấy đều do con
người kiến tạo ra bằng cách giết rất nhiều rùa lớn, chôn dưới lòng đất sâu,
người ta có thể thu lấy linh khí trong xương cốt chúng để sử dụng, thuộc vào
loại huyệt phong thủy nhân tạo.
Lão mù nghe tôi miêu tả
lại long phù, ngạc nhiên thốt lên: “Bùa, là thứ dùng để hộ thân, long phù không
có mắt, phỏng có ích gì? Họa long thời phải điểm nhãn chứ nhỉ...” Sau đó dường
như lão lại sực nghĩ ra gì đó, thần sắc đột nhiên trở nên nghiêm trọng: “Ở dưới
biển mang lên? Đáy biển? Đó… đó không phải là không có mắt... mà là không thấy,
lẽ nào là mười sáu quẻ Thiên thời cổ đại?” Vừa nói, lão vừa giơ bốn ngón tay
gầy guộc lên với tôi, làm bốn dấu hiệu khác nhau.
Tôi nghe tới đây càng
cảm thấy tò mò, sao lại có quan hệ với quẻ Thiên mà Chu Công suy diễn ra nữa
chứ? Đang định hỏi cho rõ ràng tường tận, thì lão mù đột nhiên rụt tay lại, sắc
mặt đại biến, giơ mũi ra hướng gió hít hít vài cái như thể bắt được tín hiệu
nguy hiểm trong không khí, đoạn lão vội vàng lật đật đứng lên: “Xảy ra chuyện
lớn rồi, lão phu phải đi đây...”
Dứt lời, lão già đã giơ
gậy trúc dò đường, mò mẫm lẩn vào sau vạt cây rậm rạp trong công viên Đào Nhiên
Đình, thoắt cái đã không thấy bóng dáng đâu nữa. Tôi thầm nhủ, lão mù này sao
nói đi là đi luôn vậy, đang định đuổi theo, nhưng vừa ngước mắt lên, liền thấy
trong công viên bỗng dưng xuất hiện một đám người khí thế hung hăng, toàn là
những bà những cô đeo băng đỏ trong Ủy ban khu dân cư.
Tất cả cùng chỉ chỉ trỏ
trỏ vào gian đình nghỉ mát tôi đang ngồi, nhao nhao kêu rằng lão thầy bói đeo
kính đen ấy rõ ràng ở đây, lúc nãy ở đằng xa vẫn còn trông thấy, sao thoắt cái
đã biến mất đâu rồi. Vừa cãi vã, họ vừa hò nhau đuổi theo, bắt được rồi phải
đưa lão ra đồn công an, cái thứ tư tưởng mê tín phong kiến ấy chuyên làm mục
rỗng linh hồn con người, cứ tin vào lão ta thì làm sao kiến thiết được đất
nước? Mấy bà mấy cô xôn xao một bận, rồi chia làm mấy nhóm đi vây bắt lão Trần
mù.
Tôi thấy tình hình này,
liền lập tức hiểu ra tám chín phần, chắc chắn là việc lão Trần mù đi xem bói
lừa tiền đã bại lộ, mới đến nỗi bị các bà các cô nổi máu truy đuổi đến thế. Có
điều lỗ mũi của lão già này cũng thật linh, quả không hổ danh là tay trùm trộm
mộ phái Xả Lĩnh năm xưa, thuật ngửi đất nghe gió đích thực không ai bì kịp. Để
yểm hộ cho lão rút lui an toàn, tôi vội vàng giả bộ làm một nhân chứng nhiệt
tình, giơ tay chỉ về phía ngược với phía lão mù bỏ chạy, lớn tiếng kêu lên với
đám đàn bà: “Tôi vừa thấy lão già lừa đảo hoạt động mê tín dị đoan ấy chạy ra
phía kia kìa!”
Cả đám các bà các mợ
đeo băng đỏ cứ tưởng thật, liền đuổi theo hướng tôi vừa chỉ. Tôi chỉ đường bậy
bạ, sợ sẽ bị Ủy ban giữ lại hỏi tội, đương nhiên cũng không dám nấn ná ở công
viên ấy nữa, vội băng qua khu vực cây cối rậm rạp đó mà lỉnh đi, tiện thể loanh
quanh tìm kiếm lão Trần mù luôn. Nhưng trong ngoài công viên đều mất hút bóng
dáng lão ta, tôi tìm đến tận tối mịt, mò đến cả nơi ở và những chỗ lão thường
hoạt động tìm thử mà cũng không thấy lão già xuất hiện.
Nguồn doc.178vn.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét