Chương 24: Thành
Ác La Hải đích thực
Shirley Dương nhận định một cách chắc chắn rằng tòa thành cổ như tổ
ong lớn mà chúng tôi đang ở bên trong, không phải là thành Ác La Hải đích thực,
mà là Quỷ động không đáy, đồng thời bảo tôi và Tuyền béo qua xem gáy bố con
Minh Thúc.
Tôi nghĩ bụng thành cổ và
quỷ động phải khác nhau một trời một vực chứ nhỉ? Mà thành Ác La Hải nơi thời
gian ngưng nghỉ và quỷ động sâu không đáy thì đầy rẫy lời nguyền, đều là những
nơi tồn tại ngoài tầm hiểu biết thông thường, cho nên cũng chẳng có gì quá kỳ
lạ.
Tôi qua vén cổ áo sau gáy
Minh Thúc lên, quả nhiên thấy gáy lão ta có một vết hình tròn màu đỏ nhàn nhạt
giống như một nốt phát ban tấy lên từ bên trong, vẫn còn rất mờ nhạt, nếu không
cố ý nhìn, tuyệt đối rất khó phát hiện. Toi lại kiểm tra cổ A Hương, tình hình
cũng giống y như ở cổ Minh Thúc.
Đây chính là dấu ấn nguyền
rủa của Quỷ động không đáy, tuy mới chỉ là bắt đầu, còn chưa quá rõ, nhưng nội
trong một hai tháng, nó sẽ hiện rõ dần lên, và hình thành một dấu ấn trông vừa
giống vòng xoáy, vừa giống nhãn cầu. Người gánh chịu lời nguyền rủa độc ác này,
cũng sẽ giống như chúng tôi, tầm bốn mươi tuổi, hồng cầu trong máu sẽ dần dần
giảm đi, máu trong huyết quản dần biến thành một thứ nước đặc màu vàng, giày vò
con người ta đau đớn như ma đói dưới địa ngục.
Nhưng hai bố con Minh Thúc
hơn một tháng trở lại đây lúc nào cũng ở bên chúng tôi, không thể nào tự mình
tới sa mạc đen Taklamakan ở Tân Cương được, lẽ nào vì cha con họ nhìn thấy tòa
thành tổ ong này, nên mới ứng vào lời nguyền khủng khiếp ấy?
Minh Thúc đầu óc mụ mị hết
cả, không biết chúng tôi đang nói gì, nhưng nghe thấy những từ kiểu như
"nguyền rủa", "quỷ động", cũng lập tức có dự cảm chẳng
lành, bèn rốt ráo hỏi tôi. Tôi nhất thời không có thời giờ để ý đến lão ta, bèn
bảo Tuyền béo kể qua loa cho lão nghe một lượt, đồng thời bảo lão chuẩn bị sẵn
tâm lý. Cháy nhà hàng xóm vỗ tay reo mừng, Tuyền béo cười khẩy rất đểu giả, ôm
vai Minh Thúc bảo: "Lần này thì ta coi như cá nằm trên thớt với nhau cả
rồi, hehe, bọn tôi không thoát được, thì hai vị cũng đừng hòng chạy nổi, muốn
tách đoàn cũng đừng hòng. Mà cái bài "Tôi luộc trứng cho bà con" nó
hát thế nào ấy nhỉ? À đúng rồi, cái này gọi là không phải người một nhà, mà hơn
cả người một nhà đấy ạ, bác đoán thế nào, thì nó là như thế như thế..."
Trong luc Tuyền béo thêm mắm
dặm muối kể lại câu chuyện về Quỷ động không đáy cho Minh Thúc nghe, tôi kéo
Shirley Dương ra một bên, hỏi cô nàng xem rốt cuộc vì sao lại phát hiện ra sự
việc này, vì sao lại nói mọi người bị đôi mắt A Hương gạt.
Shirley Dương dẫn tôi tới
trước mấy bức bích họa trên tấm da người cuối cùng, trỏ tay cho tôi xem nghi
thức hiến tế xương của thần Rắn. Hóa ra nơi chôn cất xương thần Rắn. Hóa ra nơi
chôn cất xương thần Rắn, chính là Quỷ động mà chúng tôi nhìn thấy ở dưới chân
núi thần Traklama ở sa mạc đen.
Những tấm bích họa da nguời
này không thực sự chỉ rõ xương thần Rắn ở Tây vực, nhưng kết hợp với trường thi
Thế giới Chế địch Bảo châu Đại vương thì không khó gì có thể đưa ra phán đoán
như vậy. Ở miền Bắc xa xôi của dãy núi Côn Luân, có hang động trên là Sengkenanun
cất giấu một kho báu có năm chiếc hộp, lần lượt dùng để đặt hài cốt của thần
Rắn. Thần Rắn có hai thần tích, một là sau khi xác thịt đã tan rữa chỉ còn lại
bộ xương, đại não vẫn giữ nguyên sức mạnh "ảo hóa vô biên"; thứ hai
là con mắt lớn mọc trên đầu có thể khiến linh hồn nó trường sinh bất tử, nằm ở
tận cùng trời đất và thời gian. Nó giống như Phượng hoàng, có thể tái sinh ngay
trong thây cốt của mình. Con mắt lớn của thần Rắn có thể mở ra một thông đạo đi
tới cõi "ảo hóa vô biên", cũng chính là con mắt thứ sáu " Vô
giới ma nhãn" mà kinh Phật miêu tả.
Nếu giải thích theo khoa
học, e rằng cõi "ảo hóa vô biên" này chính là không gian số ảo mà các
chuyên gia của Trung tâm Nghiên cứu hiện tượng và Chứng bệnh Đặc biệt Kansas
Hoa Kỳ vẫn nghiên cứu lâu này. Trong truyền thuyết thần thoại, mật Phượng hoàng
là mắt của thần Rắn, nhưng chưa có ai tận mắt chứng kiến không gian số ảo thực
sự có xá cốt hay không, điều này chẳng có cách nào xác định được, có lẽ xá cốt
chỉ là một vật mang tính tượng trưng nào đó.
Trong bức bích họa da người
miêu tả nghi thức cuối cùng, tổ tiên của người Ma quốc lấy con mắt của thần
Rắn, đồng thời nắm được bí mật của nó, sau đó di chuyển tới tận Kelamer ở núi
Côn Luân, lập nên một hệ thống thần quyền tôn giáo rộng lớn. Mỗi khi trong nước
có Quỷ Mẫu có đôi mắt quỷ, liền mở thông đạo trong mắt ra, tiến hành nghi thức
tế lễ phức tạp, đem các nô lệ bị bắt trong chiến tranh ra cúng tế xà cốt. Phàm
những nô lệ dùng mắt thịt nhìn thấy "ảo hóa vô biên" đều sẽ bị đóng
dấu ấn nhãn cầu, sau đó đem nuôi ở trong chuồng như súc vật, cho đến khi máu
của họ đã bị "ảo hóa vô biên" hút sạch, bấy giờ các tín đồ sẽ ăn hết
thịt của họ. Chỉ những kẻ có đức tin bảo thủ như vậy mới được coi là những
thiện nam tín nữ trong sạch, kiên trì tu đạo, sẽ được hạnh phúc, hoan lạc và
quyền lực trong kiếp này, ở kiếp sau cũng được sở hữu phép thần thông xuất
chúng, điều này hoàn toàn khớp với nội dung trong giáo nghĩa của Luân Hồi tông
sau này.
Ở một số nước lân cận Ma
quốc, vô số người dân bị trở thành vật cúng tế xà cốt, nhưng các thầy chủ tế
của Ma quốc đều giỏi sai khiến dã thú và côn trùng, cac nước xung quanh khó bề
đối địch. Cho mãi đến khi Cách Tát Nhĩ Vương bắt tay với Liên Hoa Sinh Đại sư,
phái dũng sĩ trà trộn vào Ma Vực, dùng kế đoạt viên bảo châu mật Phượng Hoàng
kia, thêm nữa là sau đó không lâu, thành Ác La Hải của Ma quốc đột nhiên bị hủy
diệt một cách thần bí, lực lượng đôi bên lập tức đảo ngược, liên quân (trong
trường thi gọi là "hùng sư") quét sạch sào huyệt của yêu ma. Sự tích
của Chế địch Bảo châu Đại vương vẫn được những người hát sử thi trên cao nguyên
miền tuyết phủ xướng ca cho đến tận ngày nay.
Mật Phượng hoàng rất có thể
được truyền vào Trung Nguyên trong thời đại sóng gió kia, nếu Chu Văn Vương bói
rằng nếu Chu Văn Vương bói rằng vật này là vật sinh trường sinh bất tử, thì
cũng có thể nói rằng ấy là có đạo lý vậy.
Cho đến giờ, lai lịch mật
Phượng hoàng về cơ bản đã làm rõ, nhưng thành Ác La Hải mà chúng tôi đang đứng
ở đây là thế nào? Người ở đây đi đâu cả rồi? Vì sao thời gian trong thành ngưng
đọng lại ở một khoảnh khắc?
Shirley Dương nói: "Cư
dân trong thành đi đâu, điều này thì có lẽ chỉ có họ mới biết thôi. Anh Nhất,
tôi nhớ lúc ở trong tháp ma chín tầng anh từng nhắc, Băng Xuyên thủy tinh thi
kia dường như thiếu thứ gì đó, Luân Hồi tông chẳng quản gian khó để đào tháp ma
và Cánh cửa tai họa, những việc ấy là vì cái gì? Lúc đó tình thế rôi loạn,
chúng ta không kịp nghĩ cho kỹ, giờ nhớ lại, cỗ Băng Xuyên thủy tinh thi kia
hình như không có mắt và óc thì phải.
Tôi chỉ nhớ mang máng, da
thịt của xác thủy tinh trong suốt chỉ có lục phủ ngũ tạng màu đỏ hiện bên
trong, giống như khối mã não đỏ tươi. Hóa ra Luân Hồi tông đã moi não và con
mắt yêu ma của cái xác, đặt vào phía sau Cánh cửa tai họa? Luân Hồi tông không
tìm ra nơi mai táng xà cốt, nhưng lại có thể tạo ra một thông đạo, hoặc giả có
thể nói là "hình ảnh trong gương" được chăng?
Shirley Dương nói, phải xem
đến tận phần nghi thức cuối cùng trong bức bích họa da người, cô mới hiểu tường
tận được. Luân Hồi tông muốn kế tục nghi lễ cúng tế của tổ tiên, liền mở tòa
thành cổ vốn đã biến mất trên thế gian này ra. Tòa thành này là ký ức lúc sinh
thời của Quỷ mẫu, lấy một ví dụ, trong lò mổ có con bò Yak vừa bị chặt đầu,
thịt bò đang hầm chín, vết tay đẫm máu còn chưa khô trên cửa, có lẽ không phải
xảy ra trong cùng một thời đoạn, mà đều là những mảnh vụn chắp vá có ấn tượng
sâu sắc in lại trong mắt của Quỷ mẫu, và mụ ta đã sử dụng đôi mắt ma mị tạo ra
một tòa thành ký ức thông qua "không gian số ảo".
Ngay cả Thiết bổng Lạt ma
cũng phải thừa nhận A Hương có đôi mắt nhạy như thú hoang, làm chúng tôi nảy
sinh cảm giác dựa dẫm và tin cậy mù quáng đối với cô em này, nhưng A Hương căn
bản không thể nào biết tòa thành cổ này lại được xây trong "không gian số
ảo" thông qua ký ức. Tuy mắt quỷ lợi dụng năng lượng của Quỷ động, sáng
tạo ra tòa thành ảo ảnh, song nó lại cũng tồn tại một cách chân thực khách
quan, giống như Quỷ động không đáy trong sa mạc đen, người trông thấy nó đều sẽ
trở thành vật cúng tế cho xà cốt. Có thể rời khỏi đó bất cứ lúc nào, nhưng lúc
sắp chết anh vẫn thuộc về nơi đây, có chạy tới cùng trời cuối đất cũng không
thể nào thoát khỏi. Quỷ động là một cơn ác mộng vĩnh cửu vậy! Minh Thúc nghe
những lời phét lác của Tuyền béo thì sợ bạt vía, liền chạy tới hỏi tôi xem có
đúng không.
Tôi giải thích đơn giản
những lời Shirley Dương cho lão ta nghe một lượt. Lão liền trưng bộ mặt như
khóc đám ma nói với tôi: "Chú Nhất ơi ời chú Nhất ơi, ai ngờ sự thể lại ra
nông nỗi này, tôi làm trâu làm ngựa, giống như con chó giằng giật khổ sở cả
đời, mà nào ngờ đến lúc sắp chết rồi cũng lại giống như một con chó, làm đồ
cúng cho xà cốt cơ chứ. Ôi chú ơi, tôi thì coi như xong rồi, nhưng A Hương đáng
thương kia tuổi mới đôi mươi, tôi có lỗi với cha mẹ ruột của em nó, chết không
nhắm mắt được đâu chú ơi..."
Tôi nói với mọi nguời:
"tuy bác Minh Thúc và A Hương bị cuốn vào vụ này, đồng thời tòa thành này
cũng không phải là thành Ác La Hải thực sự, nhưng sự vật luôn có hai mặt của
nó. Nếu không tới đây, chúng ta cũng không có cách nào thấy được các
bức bích họa da người ghi
chép chân tướng của Ma quốc, như vậy chứng tỏ chúng ta
chưa đến nỗi mạt kiếp. Vậy
thì sau đây, tiếp sau đây..."
Shirley Dương tiếp lời tôi
nói, tiếp sau đây chỉ cần tìm ra di tích của Ác La Hải đích thực, tiến hành
nghi thức tương phản trong đàn tế ở tận trong cùng tòa thành, lại dùng mật
Phượng hoàng đóng "ảo hóa vô biên", lời nguyền này sẽ chấm dứt ngay
sau đó. Tôi không tin trên đời này lại có lời nguyền gì, mà cho rằng lời nguyền
của Quỷ động này rất có khả năng là virus lây lan qua mắt, một loại víu gây
bệnh chỉ tồn tại trong "không gian số ảo", cắt đứt mối liên hệ giữa
chúng, là con đường trực tiếp nhất, hiệu
quả nhất.
Minh Thúc vừa nghe bảo có
cách cứu chữa, lập tức phấn chấn tinh thần, vội hỏi làm thế nào mới có thể tìm
thấy di tích thành Ác La Hải đích thực, việc này tối quan trọng, có thể giữ
được tính mạng hay không, đều phụ thuộc cả vào nó.
Bấy giờ tôi cũng đã tỉnh
ngộ, biết chỉ cần đột phá một mắt xích, cả dây xích cũng sẽ rời ra, liền lập
tức vẫy gọi mọi người quay trở lên phía trên, trở về dải nham thạch ngoài
thành. Vậy là cả nhóm thu dọn đồ đạc, vội vàng men theo đường cũ quay về.
Hai bên dải nham thạch, một
bên là thành Ác La Hải bảng lảng sắc chiều, nhưng chỉ là ký ức của Quỷ Mẫu; một
bên là hồ phong hóa với làn nước trong vắt, có thể nhìn thấy rõ bầy cá râu
trắng dài va fnhững hang hốc lỗ chỗ chi chít dưới đáy hồ.
Tương truyền thành Ác La
Hải nằm phía sau Cánh cửa tai họa, hình dạng chân thực của thành này có lẽ hoàn
toàn giống như thành cổ trong ký ức kia, được xây dựng bằng những khối nham
thạch thiên nhieen khổng lồ bị phong hóa. Tất cả mọi người dõi nhìn những hang
hốc tựa như tổ ong duới đáy hồ, chợt đều hiểu ra, do Ma quốc sùng bái vực sâu
và động huyệt, cho nên hang hốc dưới thành đều đã chìm xuống dưới đất, bị nước
nhấn chìm. Mấy nghìn năm bãi bể nương dâu, giờ đã biến thành khoảnh hồ phong
hóa sáng như gương. Còn như truyền thuyết cho rằng cư dân trong thành đã hóa
thành cá, thì có lẽ chỉ là câu chuyện mua vui mà thôi, bảo rằng khi mặt đất lún
xuống họ chết vaflàm mồi cho cá, xem ra còn thuyết phục hơn. Truyền thuyết lại
kể rằng giao long và cá đều rất thích vầy ngọc, lũ giao long vằn đen trắng hung
mãnh kia sở dĩ không ngừng tấn công bầy cá ttrong hồ là do muốn chiếm đoạt viên
ngọc chính là đôi mắt Quỷ mẫu mà người Luân Hồi tông đã đem để dưới đáy hồ.
Đương nhiên trước khi tận
mắt chứng kiên, tất cả chỉ dừng lại ở giai đoạn suy đoán, nhưng có một điều có
thể khẳng định, muốn tìm tới đàn tế, thì phải mạo hiểm chui được vào cái hang
lớn nhất dưới hồ.
Đứng trên tảng nham thạch
màu lục nhìn xuống, hang lớn nhất duới đáy hồ đen như mực, không biết rốt cuộc
sâu đến thế nào, đem so với tòa thành ảo ảnh, ghép lại từ những mảnh vụn ký ức
kia, không khó để thấy chính con mắt đá khổng lồ trên đỉnh tổ ong đã rơi xuống
và tạo nên nó. Khi thành Ác La Hải sụp đổ, tảng đá nặng hàng tấn kia đã thụi vỡ
nóc của thành chủ, xuyên thẳng xuống dưới. Qua kết cấu chúng tôi vừa thấy trong
thành, có thể thấy phía dưới sụp đổ tan hoang, nhưng tảng đá lớn kia cũng chưa
chắc đã găm xuống quá sâu, nước hồ cũng không hề hình thành nên dòng chảy ngầm
hay xoáy nước lớn, bất quá chỉ là ngấm xuống qua các kẽ hở của thành trì đổ
nát, những dấu tích này chứng tỏ nước hồ không sâu lắm. Có điều nếu muốn tiến
xuống điện thần và đàn tế còn sâu hơn cả tổ ong trên kia, thì phải đi xuyên qua
nham động phong hóa có thể đổ sập bất kì lúc nào. Có thể nói việc xuống dưới đó
thực chẳng khác gì đùa giỡn với mạng sống của mình.
Lúc này dấu ấn sau gáy Minh
Thúc đã đậm lên nhiều so với ban nãy, xem ra thời gian còn lại cho chúng tôi
hết sức có hạn, với độ tuổi của lão, trừ phi có thể bỏ chạy tới bờ bên kia đại
dương như giáo sư Trần, còn nếu cứ ở quanh quẩn khi di tích thành cổ này e rằng
không sống nổi quá hai ba ngày.
Minh Thúc nước mắt giàn
giụa, cứ làu bà làu bàu với chúng tôi ,rằng thì là không
xuống thì chết, mà xuống
thì khác nào gí đầu vào nòng súng. Ngoài vũ khí đạn dược cần thiết, thiết bị
chiếu sáng, nhiên liệu đốt cháy, dược phẩm và áo chống rét ra, những thứ còn
lại chúng tôi đều bỏ đi hết. Theo phán đóan của chúng tôi, do di chỉ cũ đã bị
nước nhấn chìm, cho nên bộ não của Băng xuyên thủy tinh thi chắc chắn được Luân
Hồi tông chôn ở phía dưới thành ảo ảnh, còn đôi mắt của nó, có lẽ ở ngay dưới
di chỉ thành Ác La Hải đích thực, nhưng khả năng lớn nhất, nó đã bị vua cá nuốt
vào bụng. Mấy điều này đương nhiên không quan trọng, chỉ cần men theo phế tích,
lặn xuống đàn tế ở dưới đất là được. Nhưng đàn tế của Ma quốc, trải qua bao
tháng năm dằng dặc liệu có còn nguyên vẹn hay không thì khó mà biết chắc được.
Tôi nói với Tuyền béo và
Shirley Dương: "Trước kia khi ta tiến vào Tây Tạng, tôi có mời một vị sư
huynh bói cho một quẻ, trong đó có câu "gặp nước mới có thể đắc Trung
đạo", câu này khi trước tôi còn nửa tin nửa ngờ, song giờ nhìn lại, thì
không có lời nào không ứng nghiệm, chuyến đi lần này ắt chẳng về tay không đâu."
Tuyền béo nói": Hoa
thơm chưa chắc đã đẹp, người làm giỏi chưa chắc đã nói giỏi, tôi chẳng nói gì
nữa đâu, đấy lúc nào đến nơi, hai vị cứ đợi xem tôi thế nào. Quỷ động hay ma
động tôi mặc xác, dù gì ta cũng không phải về tay trắng, có trân châu mã não gì
đi nữa, cũng chắc chắn phải đục khoét mà mang về, chớ có dông dài thêm nữa, đi
thôi, xuống nước thôi!" Nói đoạn liền ngậm thiết bị thở vào mồm, kéo kính
lặn, bật thẳng tưng nhảy xuống hồ phong hóa, làm bọt nước bắn tung lên tựa vô
số hạt ngọc trai trắng muốt, kinh động tới bầy cá đang bơi lượn trong hồ, khiến
chúng lũ lượt lẩn lách đi khắp nơi.
Shirley Dương bảo tôi:
"Ngày xưa nếu tôi không đòi đi sa mạc Tân Cương, có lẽ đã không dẫn đến
những sự việc thế này. Tôi biết anh và anh béo rất rộng lượng phóng khoáng,
những lời xin lỗi hay cảm ơn tôi cũng sẽ không nói nữa, song tôi vẫn muốn dặn anh
một câu, phải hết sức cẩn thận, vào giờ khắc cuối cùng, nhất thiết không
được sơ ý."
Tôi gật đầu với Shirley
Dương, cô nàng cũng từ trên tảng nham thạch nhảy xuống hồ, tôi dặn dò cha con
Minh Thúc đứng sau đôi câu, bảo họ đứng đây chờ đã, đợi sau khi chúng tôi hoàng
thành công việc sẽ quay lại đón hai bố con nói dứt lời cũng tung người nhảy
xuống dưới hồ.
Ngư trận dưới hồ vẫn còn di
chuyển từ từ quanh tường thủy tinh và không hề tản ra khi ba người liên tiếp
nhảy xuống nước.
Chương 25:
Thất lạc
T ôi vừa mới xuống hồ tụ tập với Tuyền béo và Shirley Dương, còn chưa
kịp triển khai hành động, Minh Thúc đã dắt A Hương nhảy xuống. Tôi bảo lão thế
này chỉ thêm nhiễu loạn thôi, hai người cứ ở bên trên đợi là được rồi, xuống
đây cho rắc rối thêm làm gì? Chúng ta lại không có nhiều bình dưỡng khí.
Minh Thúc kéo A Hương, giẫm
ở mép nước nói với tôi: "Giời ạ... đừng nói nữa, vừa nãy ở trên kia thấy
trong rừng có thứ gì đó động đậy, anh sợ hai con giao long kia lại giở thói,
muốn xuống hồ ăn cá, định đứng bên trên nhắc nhở các chú, nhưng mà chân cứ mềm
oặt cả ra, đứng không vững, thành thử mới rớt xuống đây."
Tôi quay đầu lại nhìn cánh
rừng bên hồ, chỉ có gió hiu hiu thổi ra từ khe núi lay động cành cây, không
thấy có động tĩnh gì lạ thường, lập tức hiểu ra ngay. Việc đã sờ sờ trước mắt,
lão chết tiệt lo chúng tôi lặn xuống không lên nữa, tìm được đàn tế rồi sẽ tìm
đường khác thoát thân, bỏ mặc hai bố con lão, mối lo này của lão đâu phải mới
chỉ một hai ngày.
Họ đã xuống dưới đây rồi,
tôi chẳng còn cách nào khác, cũng chẳng thể nào để mặc hộ ngâm mình dưới nước
được, chỉ tội hai bố con nhà lão có mỗi kính lặn, không có bình dưỡng khí, thôi
thì làm theo cách cũ, dùng chung vậy. Vậy là mọi người xúm lại, bàn tính một
lượt, quyết định bơi xuống nham động bị tảng đá lớn đập vỡ, rồi xem chỗ nào
nước ngấm nhiều nhất thì xuống chỗ đó.
Chúng tôi đang định lặn
xuống, bỗng thấy cá trong hồ đột nhiên nháo nhác, những
con cá khác bơi loạn xạ như
lũ nhặng mát đầu, lẩn vào trong nham động ở đáy hồ là trốn tiết trong đó không
ra nữa, còn hàng vạn con cá râu trắng kết thành ngư trận cũng hơi có chút run
rẩy, dường như hết sức căng thẳng.
Tôi lập tức cảm thấy có sự
chẳng lành, thầm nghĩ, xem ra lão Minh này đúng là thằng
phe địch nhảy vào hội bọn
tôi, đã không giúp được gì, lại còn thối mồm.
Ý nghĩ ấy vừa xuất hiện
trong đầu, ngư trận trong hồ đã có một bộ phận bị tan rã, dường như con cá râu
trắng già bên trong kia đã bị thương quá nặng, không thể giữ lũ cá con nữa, mà
lũ cá râu trắng cũng cảm thấy lão tổ tông nhà chúng sắp toi đời đến nơi rồi,
đội hình cũng theo đó mà tan rã, nhưng vẫn còn một bộ phận vây chặt thành một
đám, thà chết cũng không tản ra, có điều quy mô dường như hơi nhỏ một chút.
Tôi đoán một khi ngư trận
tan rã, hoặc giả thế yếu đi, con giao long trên núi sẽ nhanh chóng luồn qua,
không bỏ qua cơ hội cắn chết con cá già kia đâu. Rồi sau đó, trong khoảnh hồ
yên tĩnh này, e rằng sẽ lại dấy lên một luồng sát khí tanh tưởi, chẳng may đôi
bên đánh nhau, giả như con cá già bị cắn chết, bọn tôi có muốn xuống nước cũng
không có cơ hội nữa.
Thời cơ không thể bỏ lỡ,
tôi gấp rút giơ tay làm hiệu, mọi người nhát tề lặn xuống đáy hồ. Phần ngư trận
còn lại đang di chuyển ra giữa hồ, chúng tôi vừa vặn bơi qua phiá dưới. Lũ cá
râu trắng bâu lại xúm xít, con nào con nấy vẻ mặt vô hồn, hai mắt trơ khấc.
Đương nhiên loài cá vốn không bộc lộ tình cảm, nhưng khi nhìn thấy cảnh tượng
này trong cự ly gần dưới đáy nước, chúng tôi lại cảm thấy những con cá râu
trắng giống như từng tốp tướng sĩ cảm tử đang sắp lâm trận, vẻ mặt trơ như gỗ
đá của chúng càng làm tôn lên sắc màu bi tráng.
Ở quãng không sâu lắm dưới
mặt nước hồ chính là miệng hang vỡ trên nóc thành tổ ong. Chúng tôi vừa lặn vào
đó, nước hồ đã bị khuấy lên thành một vòng xoáy, từng dòng nước lẫn máu me,
thịt cá nát và vảy cá bị cuốn vào luồng nước ngầm phía dưới, xả vào trong hang
động ở hai bên dải nham thạch phong hóa.
Tuyền béo giơ tay ra hiệu
với tôi, xem ra phía trên đã bắt đầu đánh nhau, rồi cậu ta chỉ tay xuống phía
dưới, con đường đi xuống bị một quả cầu đá không lồ bịt chặt, có điều không thể
trông ra bọ dạng ban đầu của con mắt nữa, bên trên có tầng tầng lớp lớp những
con phù du trong suốt cùng các laọi cá tép liu riu nằm ở đoạn cuối của chuỗi
thức ăn sinh vật tụ lại, chỉ có thể vòng sang mé bên mà lách qua. Vậy là mọi
người lần lượt sử dụng thiết bị hô hấp, từ từ bơi về phía cửa hang ở mé bên,
càng bơi
sâu vào trong, càng thấy
dòng nước ngầm chảy xuống dưới càng lớn.
Trong một thông đạo của
nham động, Shirley Dương từng bước dò dẫm, xác định hướng nào có thể đi được.
Trực tiếp bơi xuống dưới là nguy hiểm nhát, dải đá phong
hóa hàng ngàn vạn năm này
đang phải chịu đựng một áp lực vô cùng lớn, đã không thể nào chống chịu hơn
nữa, nói không chừng con mắt trên đầu chúng tôi có thể vỡ tung ra bất cứ lúc
nào, và phải người thì chỉ có nước nát thành tương, để cho an toàn, chỉ có cách
bơi xuống mé bên rồi quành lại mới là bảo đảm nhất.
Cuối cùng chúng tôi lặn vào
trong một hang động hơn trăm mét vuông, có vẻ như là một đại sảnh nào đó của
thành cổ trước đây, hơi giống thàn điện, trên nóc có một lỗ hổng lớn, bên trong
ngập nước. Dòng nước ở đây tương đối ổn định,hang động dường như chỉ có lối vào
bên trên, các đường khác đều đã bị đất cát, đá dăm bịt kín hết, tuy nước có thể
ngấm qua, nhưng con người lại không thể lách qua được, Mọi người đành giơ đèn chiếu
soi quanh một vòng, ôxy không còn nhiều, nếu vẫn không tìm ra đường khác, thì
chỉ còn đường chết.
Đúng lúc mọi người như
chuột chạy cùng sào đang cảm thấy lo lắng vô cùng, thì nước hồ trong đại sảnh
đột nhiên đục ngầu. Tôi ngẩng đầu lên nhìn, bất chợt cảm thấy có sự chẳng lành.
Con cá già dài mười mấy mét bị hai con giao long hung dữ cắn chặt lấy không
chịu nhả ra, đang giãy giụa bơi vào đại sảnh ở đáy hồ nơi chúng tôi có mặt.
Con giao long thân dài tầm
bốn mét, tuy nhỏ hơn nhiều so với cá râu trắng già, nhưng sức mạnh thật khủng
khiếp vô cùng, nó vặn mình một cái, đã cắn đứt một mảng thịt trên mình con cá
già. Con cá già bị thương khắp mình, quằn quại giãy chết, cứ thế lôi hai kẻ tử
thù chìm xuống, chốc chốc lại lắc thân mình đập vào vách tường ở đáy nước, hy
vọng có thể bứt chúng ra. Đôi bên quấn chặt lấy nhau, lăn tròn vào trong thần
điện.
Đối diện với những con vật
khổng lồ này, sức mạnh của con người quả thực quá ư bé nhỏ. Tôi đưa tay ra hiệu
cho mọi người mau chóng tản ra, bơi lên mặt nước. Thần điện này tuy rộng rãi,
cũng không chịu nổi sự quăng quật của chúng. Có điều động tác dưới nước chậm
chạp, không đợi cho mọi người kịp tản ra, con cá già đã lôi theo hai con giao
long đụng xuống đáy điện.
Phần đáy của thần điện cũng
là nham thạch phong hóa trắng muốt, con cá râu trắng mình to như con rồng kia,
sau khi bị thương phát rồ, đã trở nên mạnh mẽ khủng khiếp, cái đầu nó lại cứng
chắc vô cùng, đâm thẳng xuống làm vỡ ra một cửa động lớn. Nhưng lớp nền đáy
thần điện cũng rất chắc, đầu cá bị kẹp vào giữa không có cách nào gỡ ra, muốn
lao xuống dưới thì không thể phát lực được, muốn rút đầu lại cũng chẳng xong,
chỉ còn cách quẫy loạn đuôi lên, từng dòng máu đục lập tức nhuốm đỏ nước trong
thần điện.
Mọi kế hoạch đều bị đảo
lộn, chúng tôi sợ bị đuôi cá quất trúng trong lúc hỗn lọan, vội tản ra bốn góc
né tránh. Vì mọi người đều đã tản ra, lại ở duới nước, tôi căn bản không thể
xác định xem những người còn lại còn sống hay không, chỉ biết một mình khấn
nguyện xin bình an.
Hai con giao long, thấy con
cá già khốn đốn, mừng rơn như hóa dại, nhe nanh giơ vuốt lượn một vòng, đang
tính toán xem sẽ khợp vào chỗ nào để kết thúc tính mạng của con cá vua này.
Chúng bị máu loang trong nước kích thích, giống như hít phải thuốc phiện, trông
có vẻ hưng phấn hơi quá độ, có đau đớn một chút cũng không sao, đang lúc như
thế bỗng đột nhiên phát hiện ra trong điện có người, một con liền quẫy đuôi đâm
thẳng xuống như một quả ngư lôi vằn đen trắng.
Hốc rãnh ở đáy điện lúc này
đều đã rạn nứt cả, nước và máu đục ngầu theo đó xối xuống, tầm nhìn lập tức rõ
lên. Tôi cầm đèn chiếu lia một chập, chỉ thấy con giao long vằn đang lao ra, bổ
thẳng về phía Shirley Dương và A Hương các chỗ tôi không xa lắm. Hai người họ
dùng chung một bình dưỡng khí, nấp ở góc điện chờ thời cơ rút lui, nhưng đã không
kịp nữa rồi. Tôi định bơi qua cứu viện, nhưng không thể nào nhanh bằng cong
giao long đang lao như quả ngư lôi kia, vả lại cho dù có tới, một mình tôi cũng
không đủ cho nó bõ dính răng.
Tình thế vô cùng nguy cấp,
đột nhiên áp lực của dòng nước ngầm tăng lên dữ dội, khối nhãn cầu đá nghìn cân
kẹt giữa tổ ong cuối cùng cũng rơi xuống. Con giao long đang bổ nhào về phía
Shirley Dương và A Hương cũng sững sờ trước tảng đá khổng lồ đột ngột rơi, quên
cả né tránh, bị nện thẳng vào giữa thân. Lực đẩy trong nước hồ có hạn, tảng đá
đổ xuống vốn kéo theo nước của cả hồ trút xuống, sau khi nện vào con giao long
cũng chẳng hề chững lại, tức khắc xuyên vỡ nền điện dưới nước, tất cả mọi thứ
trong điện đều bị xối xuống theo dòng nước khổng lồ.
Trong dòng nước, tôi chỉ
cảm thấy đất trời điên đảo, cơ thể như rơi xuống Quỷ động không đáy, bắt gặp
một không gian lớn đến mức khó tưởng tượng, chỉ còn cách nín chặt mồm mũi đề
phòng bị sặc. Trong cơn hoảng hốt, bỗng phát hiện ra khoảng sáng trắng bên dưới
đó, dường như sa vào trạng thái ảo giác với muôn vàn tia sáng rực rỡ lấp lánh,
cũng không biết những người còn lại đã bị xối đi đâu.
Cơ thể tôi rơi xuống một
cái hồ, trên dải nham thạc thấp thoáng có ánh huỳnh quang mờ nhạt, song trông
không thực lắm, nhìn lên có hàng trăm cột nước lớn nhỏ từ các nham động trên
đỉnh đầu trút xuống. Bỗng nhiên cảm thấy có cánh tay kéo giữ mình, tôi định
thần lại nhìn, thì ra là Tuyền béo; gặp người bạn sống chết có nhau, bát chợt
cảm thấy an tâm hơn nhiều, liền vỗ đèn chiếu trên mũ cho sáng, tiếp tục đi tìm
tung tích của ba người còn lại.
Nuớc vẫn tiếp tục cuồn cuộn
tuôn xuống suối sâu ở phía Đông, hơi thả lỏng một chút là rất dễ bị xối trôi
đi. Tôi và Tuyền béo đành bơi lên bờ hồ gần đó trước, lớn tiếng gọi một hồi
lâu, nhưng đều bị át đi trong tiếng nước xối xả. Minh Thúc, A Hương, Shirley
Dương lúc này không biết tăm tích nơi đâu.
Tôi và Tuyền béo bàn bạc,
chắc hắn họ đã bị nước xối về hạ du rồi, phải mau chóng đi vòng xuống tìm, sống
phải thấy người, chết phải thấy xác. Thế giới dưới đất này địa hình địa mạo hết
sức kỳ quái, nằm ngoài tầm hiểu biết của chúng tôi, vừa mới cất bước, đã thấy
một con phù du thủy sinh to cỡ chuồn chuồn ngô, khắp mình nhấp nhánh ánh huỳnh
quang bay qua trên đầu, phải dài hơn sáu tấc, giống như một linh hồn màu trắng đang
bay múa trong không trung.
Một phút lơ là sơ ý, cộng
thêm tinh thần hoảng hốt vì vừa lạc mất mấy người, không chú ý dưới chân là một
dốc đá dăm, hai chúng tôi vừa giẫm lên đã trượt chân lăn tròn, còn chưa kịp
phản ứng thì hẫng một cái đã ngã từ trên cao xuống. Hai thằng lăn thêm chừng
bảy tám mét, rơi vào một cái đệm lớn bồng bềnh xốp xốp, nhát thời đầu óc quay
cuồng, may mà chỗ này rất mềm, ngã xuống cùng không đau, có điều đột nhiên thấy
bất ổn, cảm giác tay như đang sờ lên một tảng thịt, bèn vội trấn tĩnh, nhìn cho
kỹ, hóa ra không phải thịt. Tôi và Tuyền béo liếc nhìn nhau: "Tổ sư cái
này tám phần mười là nấm rồi cậu ạ... nấm Đế vương cao bằng mười tầng lầu."
Trong khoảng không gian
rộng rãi bên dưới, ở mép nước có vô số những con phù du lớn bay liệng. Sinh
mạng của bọn này rất ngắn ngủi, sau khi ấu trùng dưới nước mọc cánh, chỉ sống
được trong bầu không chừng máy chục phút mà thôi. Trong khoảng thời gian đó, cớ
thể chúng liên tục tiết vào không khí một loại bụi huỳnh quang đặc biệt. Sau
khi chúng chết rồi, loại bụi này sẽ vẫn tiếp tục phát sáng một thời gian, cho
nên cả không gian dưới mặt đất lúc này vẫn tràn ngập ánh huỳnh quang màu tráng
mờ ảo nhiệm màu.
Ở lâu một chút, mắt chúng
tôi đã dần thích ứng với ánh huỳnh quang ảm đạm nơi đây, thấy mọi vật xung
quanh không còn mơ hồ như ban đầu nữa. Tôi nhìn tấm đệm lớn mềm nhũn dưới thân
mình, nó vừa giống cái ô lại vừa giống cái lọng, phần giữa ngả trắng, xung
quanh đen sì, quả là một cây nấm khổng lồ hiếm có, đường kính ắt không dưới hai
muơi mét.
Loài nấm này sinh trưởng
rất nhiều ở vùng ẩm thấp dưới lòng đất. Vừa nhìn thấy, tôi và Tuyền béo lập tức
nhớ tới hồi đi cải tạo lao động ở dãy Hưng An Lĩnh. Hồi ấy lên núi hái mộc nhĩ,
trời vừa đổ mưa xong, không ngờ bước vào khe núi liền thấy một cây nấm cao hơn
cả cây thường, mọc sừng sững giữa rừng, hai đứa tôi cứ trầm trồ mãi không thôi.
Người trong thôn gọi nó là "nấm Hoàng đế", nêu may mắn thì tháng Tám
hằng năm có thể thấy được một hoặc hai lần, có điều thứ này mọc lên nhanh mà
lụi đi cũng nhanh, buổi sớm mới nhìn thấy nó, chưa đến trưa có khi đã mất rồi.
Vả lại xung quanh khu rừng có nấm Hoàng Đế rất nguy hiểm, vì mùi của nó rất
quyến rũ, màu sắc lại phong phú, tính chất cũng thật muôn vể, lại vì hiếm, ít
người biết rõ tường tận, thành thử mọi người nhìn thấy cũng coi như chưa nhìn
thấy, đã không dám ăn, lại càng chẳng dám đụng vào, toàn phải đi vòng qua.
Tôi nói với Tuyền béo, cây
nấm này không to bằng cây nấm anh em ta thấy ở Hưng An Lĩnh, nhưng cũng không
nhỏ, chắc đều là loại Hoàng Đế cả. Lăn xuống từ dốc đá dăm ven hồ, giờ muốn leo
lên chắc cũng không thể được rồi, chỗ đá dăm kia quả thực dốc quá, cứ giẫm lên
là trượt, không trụ vững được, thôi đành leo xuống để thóat khỏi cây nấm Hoàng
Đế này đã.
Chương 26: Tôm
Cầu
C húng tôi từ trên đỉnh động lỗ chỗ như cái sàng bị nước xối xuống
đáy, mấy người còn lại đều bị thất lạc cả. Điều tôi lo nhất chính là con giao
long, trong trận hỗ chiến ở đáy hồ phóng hóa, một con dường như đã bị mắt đá
ngàn cân đè chết, nhưng vẫn còn lại một con, tính cả con cá râu trắng chúa, có
lẽ cũng bị dòng nước xiết xối xuống khoảnh hồ dưới đất này cả rồi cũng nên, nếu
Shirley Dương, Minh Thúc và A Hương có ai đó đụng phải chúng, ắt sẽ lành ít dữ
nhiều.
Nghĩ đến đây, tôi và Tuyền
béo đều không dám chần chừ thêm nữa, bất chấp cơ thể đau nhức, bắt đầu bò từ
đỉnh cây nấm Hoàng đế ra rìa mũ nấm quan sát địa hình. Dưới cây nấm Hoàng đế
cao lớn này mọc chi chít nấm nhỏ, màu sắc kích cỡ đều không giống nhau, trải
rộng thành một cánh rừng tuyền nấm, với vô số con phù du to như chuồn chuồn
đuôi dài không khác nào các linh hồn trắng muốt bay lượn như thoi đưa.
Phía xa là tầng thứ hai của
khoảnh hồ dưới đất, lúc tôi vừa rơi xuống, đã cảm giác nước xối xả về phía Đông
hết sức dữ dội, hóa ra khoảnh hồ dưới đất trong động huyệt khổng lồ này phân
làm hai tầng, có khoảng cách rất cao, trên đỉnh động như vòm trời kia có vô số
hốc, hốc lớn thì mười mấy mét, hốc nhỏ thì chưa tới một mét, nước hồ bên trên
và cả nước ngầm trong núi, đều trút từ những hốc này xuống, toàn bộ các cột
nước cùng tuôn vào tầng hồ đầu tiên. Tầng hồ đầu tiên tựa như đáy một cái cái
nồi nghiêng chênh chếch, địa thế phía Đông tương đối thấp, khi đã tràn đầy sẽ
tạo nên một rèm nước lớn đổ xuống tầng hồ thứ hai rộng hơn nhiều ở dưới, ở
những chỗ có thế nước lớn, cứ một khoảnh trắng xen một khoảnh đen, diện mạo rất
khó phân biệt.
Nếu những người kia còn sống,
rất có thể đã bị nước xô xuống tầng hồ thứ hai rồi. Cây nấm Hoàng đế mọc cách
tầng hồ thứ hai không xa, chúng tôi ở trên đó, định nhân địa thế cao dõi mắt
tìm mấy người thất lạc, chỉ thấy trong dòng nước chốc chốc lại có mấy con cá
lớn nhảy vọt lên, không một bóng người. Tôi bảo Tuyền béo ở lại đây trông
chừng, còn mình xuồng trước, đi men hồ tìm một vòng xem sao.
Đúng lúc định dùng cao dao
lính dù găm vào thân nấm để trườn xuống, thì thấy ở tầng hồ phía dưới có người
bơi lên, tuy không thấy rõ mặt mũi, nhưng nhìn qua dáng dấp thì chắc chắn là
Minh Thúc. Lão ta leo lên bờ, nặng nhọc bước mấy bước, ngơ ngác nhìn quanh, rồi
đi thẳng vào khu rừng nấm bên dưới cây nấm Hoàng đế, hình như cũng định leo lên
một chỗ cao để nhìn cho rõ địa hình.
Tôi nói với Tuyền béo, lão
khọm Hồng Kông này cũng cao số thật, lão đã tới đây rồi thì cậu tạm thời chăm
lo cho lão, tôi xuống ven hồ tìm nốt hai người còn lại, sau cùng sẽ tập hợp
quanh cây nấm Hoàng đế nổi bật nhất này.
Tôi đang định xuống, thì
thấy Minh Thúc đi trong đám nấm lổn nhổn được mười mấy mét, chắc vì ban nãy
kinh hãi lại mệt mỏi quá độ, chân đăm đá chân chiêu, ngã đập mặt xuống đất. Lão
nằm nhoài ra trên mặt đất, xoay người lại nắn bóp cánh tay, một lúc lâu sau vẫn
không thấy đứng dậy, hình như có ý bất cẩn, chẳng muốn cố gắng nữa.
Minh Thúc bị ngã, xem ra
cũng chẳng sao cả, tuy nhiên cơ thể lão nặng nề, đã làm kinh động thứ gì gần
quanh đó. Nhờ vào ánh huỳnh quang ảm đạm, tôi và Tuyền béo phát hiện ra vạt nấm
cách chỗ Minh Thúc nằm không xa đột nhiên xô dạt loạn xị, bên trong có một cái
vỏ đen đang từ từ bò dậy. Cái vỏ đen đó hình vòng cung, tùng lớp từng lớp thân
rất dài, tôi chột dạ, bỏ mẹ, trông như rết đại bác ấy, nếu là rết thật, thì con
này phải to biết nhường nào?
Minh Thúc nằm giạng tè he
trên mặt đất, môi mấp máy như độc thoại, có lẽ lại đang oán giời trách phận,
hoàn toàn không biết có nguy hiểm đang ở cận kề. Tôi và Tuyền béo ở trên cây
nấm Hoàng đế bèn hô lên bảo lão cẩn thận, nhưng giọng chúng tôi nhanh chóng bị
tiếng nước chảy nuốt chửng, không đến tận nơi, nói thì lão không thể nghe thấy
được.
Khẩu Remington của tôi đã
bị rơi trong lúc hỗn chiến ở đáy hồ, chỉ còn khấu súng lục, đồ đạc trên mình
Tuyền béo thì chẳng hề sứt mẻ tí gì, súng trường thể thao đeo trên lưng từ đầu
còn nguyên. Tuyền béo đã giơ súng định bắn, tôi đè thân súng cậu ta lại, tầm
bắn của súng trường thể thao tuy xa, nhưng đường kính nòng súng không ổn, bắn
từ khoảng cách này chẳng giải quyết được gì, cho dù là găm được một viên đạn
sát cạnh để nhắc nhở lão ta thì cũng chưa chắc đã cứu được lão. Lão này một khi
đã nhìn thấy con rết to tường như vậy, chắc chắn sẽ sợ run chân, không chạy
được nửa bước, chỉ còn cách tôi phải mau chóng xông xuống cứu lão ta thôi. Mỗi
tội nấm mọc san sát, từ trên cao nhìn thì thấy được Minh Thúc và con rết, nhưng
xuống đến nơi rồi thì tầm nhìn sẽ bị che khuất, buộc phải nhờ Tuyền béo đứng
trên ra hiệu chỉ đường, và lúc nào cần kíp thì bắn yểm hộ mới mong thành công.
Đương nhiên đây là việc
phải tranh thủ từng giây từng phút làm gì có thời gian bàn bạc, tôi chỉ nói với
Tuyền béo một câu: hành động theo tín hiệu của tôi, rồi rút dao lính dù cắm vào
thân nấm, từ trên tán lọng chênh chếch trường xuống. Phía dưới cũng có một vài
cây nấm rất cao to, mũ nằm sắp xếp như bậc thang, gặp những chỗ dốc quá không
thể trụ chân, thì tôi dùng dao lính dù giảm tốc, mau chóng nhảy xuống. Nơi đây
không có mặt đất, chỗ tôi chạm chân cũng là một tầng mũ nấm cỡ ngón tay mọc dày
đặc, xen vào đó là rất nhiều cây nấm to cao hơn một mét.
Tôi ngoái lên nhìn Tuyền
béo, cậu ta đeo cây súng trước ngực đang giơ tay ra hiệu kiểu cờ hải quân vẫn
dùng để trao đổi thông tin. Ngón này chúng tôi học ở Phúc Kiến từ lâu lắm rồi,
rất đơn giản lại trực quan, trông động tác là biết cậu ta bảo đối phương đang
di chuyển chậm chạp, sau đó cậu ta lại làm hiệu chỉ rõ phương hướng.
Tôi huơ huơ tay lên, ý đã
nhận được tín hiệu. Đúng lúc ấy trong rừng nấm thấy lan tỏa một màn sương nhàn
nhạt, tôi sợ là khí độc con rết phóng ra, liền rút mặt nạ phòng độc trong túi
mang theo mình đeo vào, hai tay cầm chắc cây M1911, chúc nòng xuống thấp, mau
chóng tiếp cận vị trí của Minh Thúc.
Sau khi Tuyền béo chỉ trỏ
mấy lượt, tôi đã tìm thấy chỗ Minh Thúc đang nằm. Cách đó không xa có tiếng sột
soạt, nghe như vô số nanh vuốt đang cào cấu, nghe mà hãi hùng, hơn nữa tiếng
nước ở đây đã yếu đi, càng khiến người ta hoang mang bội phần.
Tôi lẳng lặng đến gần, muốn
lôi lão dậy, rồi tức khắc bỏ chạy cho nhanh. Minh Thúc hốt nhiên thấy cái mặt
nạ phòng độc cũng sợ giật nảy lên, có điều lập tức biết là người mình, liền trơ
đôi mắt ngây dại, nhìn tôi cười cười, lồm cồm bò dậy, nhưng hình như hai chân
đã mềm như bún, không sao sai khiến được. Tôi chỉ nôn nóng muốn rời khu vực đầy
rẫy nguy hiểm này, nên ra dấu im lặng, ý bảo không được phát ra bất kỳ tiếng
động nào, rồi cõng lão dậy.
Thế nhưng còn chưa kịp bước
được bước nào, bỗng dưng nghe Minh Thúc trên lưng cười ha hả, tôi sợ rởn cả
người, nghĩ bụng thằng khọm Hồng Kông chó chết này không có ý tốt gì đâu! Lão
già tư bản sống dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân đế quốc thì là người
tốt sao được, quả này thật sự sơ ý quá.
Tôi lập tức bật chân, ngã
ngửa ra sau, đè lưng lên người lão. Cú này tôi vận đủ cả sức lực, chắc phải đè
cho lão sống dở chết dở, vậy mà tiếng cười của lão vẫn sằng sặc không ngớt,
nghe giọng hơi méo, so với tiếng gào khóc của đàn bà còn khó nghe hơn chục lần.
Tôi nghĩ bụng, lão khọm già
này sắp chết rồi mà còn cười thành tiếng, đột nhiên nhớ tới một câu thơ
"cung điện quỷ ma rung chuyển trong tiếng cười ha hả", mẹ kiếp, cất
giọng cười vang trước khi chết là đặc quyền của nhà cách mạng, lão già tư bản
này có tư cách gì mà cười, phải cho ngươi chuyên chính luôn, xem có còn cười
được nữa hay không. Nhưng ngay lúc đó, tôi đã tức khắc phát hiện ra có điều bất
ổn. Tiếng cười của lão không phải do cố tình phát ra.
Tôi vội dùng súng kê lên
đầu Minh Thúc, nhìn kỹ, lão đã cười hết hơi, toàn thân co giật, miệng sùi bọt
trắng, nếu cứ cười nữa e là phải ngồi trên nóc tủ đến nơi, lão này trúng độc
rồi.
Tôi nhìn xung quanh, phát
hiện ra chỗ Minh Thúc vừa ngã mọc đầy những cây nấm nhỏ khác hẳn với xung
quanh, mũ nấm phủ một lớp bụi phấn màu xanh lục, lúc ngã xuống chắc chắn lão ta
đã liếm phải bụi ấy, đây phải chăng là nấm cười trong truyền thuyết? Bụi phấn
ấy lợi hại vậy sao, dính vào mồm một chút, đã ra nông nỗi này, nếu cứ cười kiểu
thế thêm vài phút nữa, chắc chắn sẽ xảy ra án mạng.
Cái khó ló cái khôn, tôi
tát luôn cho lão mấy cái đau điếng, lại rút Bắc địa huyền chu ra đặt vào đầu
mũi lão. Mùi Bắc địa huyền chu rất sốc, Minh Thúc hít phải, liền rùng mình hắt
xì hơi mấy lần, bấy giờ mới nín cười, nhưng cơ mặt đã cười đến nỗi xơ cứng,
nhất thời không hồi phục lại được, nước mắt nước mũi giàn giụa tèm lem, thật là
tả tơi đến độ.
Bỗng một viên đạn của Tuyền
béo bắn vào vạt nấm ở gần đấy. Tôi quay ngoắt đầu lại, thấy Tuyền béo đứng trên
cây nấm Hoàng đế không ngừng huơ súng, như nhắc tôi mau chóng rút khỏi đó.
Dải nấm lớn xung quanh lại
lay động, con rết vỏ đen to tướng kia đã chui ra. Lão Minh vừa đúng nằm phơi ra
trước mặt nó. Tôi vội lùi lại mấy bước, cởi mặt nạ chống độc, thoạt tiên ra
hiệu cho Tuyền béo chớ nổ súng, hoảng hốt nói với lão: "Bác Minh này, sau
lưng bác có con rết, e là nó định xơi bác đấy. Bác xả thân cứu tôi, cả đời tôi
không quên đâu, sau này khi về nhà, tôi nhất định sẽ đốt cho bác thêm ít tiền
giấy. Bác xả thân cứu người, chắc chắn sẽ thành chính quả, tôi chúc mừng bác
trước cái đã!"
Minh Thúc kinh hãi ngây cả
người, vội quay đầu nhìn ra đằng sau, hai con mắt trợn trừng lên ngất lịm. Tôi
vội kéo lão dậy, bảo: "Được rồi, được rồi, không đùa với bố già nữa, con
kia lộ đầu ra rồi, tôi thấy không phải là rết đâu, chỉ là con tôm cầu lớn sống
dưới đất thôi, là sư ăn chay ấy mà. Sư đoàn tôi năm xưa đào được không biết con
ở lòng đất dưới núi Côn Luân, bọn này thường thôi."
Minh Thúc nghe thấy tôi nói
vậy mới nhìn kỹ con vật sau lưng, thì ra là một con tôm cầu thuộc họ chân đốt
dài năm sáu mét, vừa béo vừa to, trước đầu còn có một đôi xúc giác cong cong
cứng chắc, dùng để cảm ứng dò đường, mình mó đen tuyền, chỉ có móng vuốt màu
trắng, dưới tấm thân to béo cũng có hàng trăm cái chân trông giống như rết,
loài này rất ngu đần, chỉ ăn nấm dưới đất mà thôi.
Minh Thúc thở dài một hơi,
chùi bọt mép, cái mạng già coi như đã được lượm từ Quỷ môn quan về, ngượng
nghịu cười với tôi. Tôi hỏi lão có thấy Shirley Dương và A Hương đâu không.
Lão vừa định trả lời, bỗng
nghe tiếng nanh vuốt sột soạt vang lên, hai chúng tôi cùng quay đầu lại nhìn,
cơ thể con tôm cầu kia co lại thành một vòng tròn, vỏ giáp từng đốt từng đốt
hình cung bọc nó lại thành một cái lốp xe. Gân hai bên thái dương tôi giật
giật, đây là tư thể phòng ngự, quanh đây chắc chắn có sự uy hiếp nào đó rất
lớn. Tôi ngẩng đầu nhìn Tuyền béo ở trên cao. Tuyền béo đã không dùng hiệu cờ
nữa, vung cánh tay lên làm động tác: "Nguy hiểm đấy! Mau chạy về đây!"
Trong lùm nấm nhấp nhô rải rác,
con tôm cầu đột nhiên co rúm mình lại, Tuyền béo bên trên cây nấm Hoàng đế cũng
không ngừng vung tay, ra hiệu rút lui khẩn cấp. Tôi thấy tình hình cấp bách,
vội khoác cánh tay Minh Thúc lên vai, vừa dìu vừa lôi lão chạy về phía sau.
Trong lùm nấm sau lưng tôi
vang lên tiếng sột soạt rung động, âm thanh ít nhất cũng phải vang tới từ ba
phía, chỉ có phía bên hồ là không có. Tôi cũng chẳng thiết quay đầu lại nhìn
xem rốt cuộc là con vật gì, lao một mạch điên cuồng về chỗ Tuyền béo đang đứng.
Tuyền béo từ đầu chí cuối chưa nổ súng, chứng tỏ con vật kia còn cách tôi xa,
hoặc giả chưa đuổi tới nơi. Đợi đến lúc chúng tôi leo hết dải nấm bậc thang,
trở lên chỗ cây nấm Hoàng đế, Minh Thúc lập tức ngã vật xuống, thở hổn hà hổn
hển như chiếc quạt cũ rích.
Tôi và Tuyền béo giơ ống
nhòm nhìn về phía con đường vừa lên, trên khoảnh đất trống trong rừng nấm ban
nãy, xuất hiện hàng trăm con "địa quan âm" vừa giống con cáo con vừa
giống chuột tuyết. Loài vật này lông lá rất giống cáo bạc, nanh nhọn móng sắc,
giỏi đào hang, lại bởi tiếng nó gầm gào rất giống hổ, nên tên khoa học của nó
là cọp tuyết. Nhưng lũ này chỉ sống quanh quẩn khu vực suối nóng hoặc đất ẩm,
bản tính giảo hoạt tàn nhẫn, ở vùng Kelamer có người gọi nôm na là sói đất,
hoặc địa quan âm. Trong rất nhiều nhà dân bản địa có đồ dùng sinh hoạt chế từ
lông và da của loài vật này, giá thành cực cao. Vùng Đông Bắc cũng có địa quan
âm, nhưng số lượng ít hơn, lông và da cũng không đẹp bằng những con ở Côn Luân,
mà giống chồn vàng hơn.
Một bầy địa quan âm như một
bức tường vây lớn màu trắng quây chặt con tôm cầu, kỷ luật có vẻ như rất
nghiêm, không con nào manh động mà chỉ thấy nằm phục im lìm. Lát sau, một con
địa quan âm lông bạc bước ra, dường như là thủ lĩnh, nó nhấc chi trước lên đứng
thẳng như người, dùng móng vuốt hẩy con tôm cầu đang nằm yên bất động, sau đó
đi quanh hai vòng, rồi lại quay vào trong bầy.
Lúc này, những con địa quan
âm còn lại mới lần lượt xông lên, áp sát con tôm cầu rồi liền há mồm gí sát,
phả hơi vào khe vỏ cứng đang cuộn chặt của nó. Một lát sau đó, con tôm cầu
dường như không chịu nổi cảm giác buồn nhột, duỗi cái vỏ giáp co chặt ra, nằm
đơ không một chút phản kháng, lập tức bị hơn chục con địa quan âm lật ngửa cho
chổng mặt lên trời, đành để cho chúng tha hồ phanh thây xé xác.
Vì khoảng cách quá xa, ánh
huỳnh quang tuy soi sáng khắp động, nhưng cũng bị yếu đi bởi khoảng không hun
hút bên dưới, tôi và Tuyền béo không có cách nào nhìn rõ xem lũ địa quan âm kia
đã giở chiêu gì, chỉ thấy tôm cầu đáng thương giống như con tôm thường rất lớn,
trong nháy mắt bị lột vỏ, lộ ra thớ thịt trắng bên trong, bị bầy địa quan âm xé
thịt vắt lên lưng cõng vào góc xa.
Tôi và Tuyền béo nhìn nhau,
nằm phục trên tán cây nấm Hoàng đế, mãi không nói ra được lời nào. Hàng trăm
hàng ngàn con địa quan âm chúng tôi cũng chẳng ngán gì, có điều cảnh tượng vừa
rồi, thực không thể nào là hành vi mà loài dã thú địa quan âm này có thể làm
được. Tập tính của chúng là tụ năm tụ bảy với nhau, ít khi quây bầy đông lại
hết sức có trật tự như thế. Điều thực sự không thể hiểu nồi là sau khi xé con
tôm vẫn không hề tranh nhau đánh chén, mà như tiến hành một nghi thức nào đó,
chúng vận chuyển thực phẩm ra chỗ khác. Loài vật này đâu có thói quen cất giữ
thực phẩm như kiến, hành vi này quả thực quá bất thường.
Tuyền béo nghĩ một hồi lâu
rồi nói: "Có khi chúng biết gần đây giá lương thực tăng cao, muốn để dành
một ít đây, đúng là một lũ chỉ lăm lăm đầu cơ tích trữ."
Tôi lắc đầu, đột nhiên có
dự cảm chẳng lành. Trong bức bích họa da người và sự tích Thế giới Chế địch Bảo
châu Đại vương có ghi chép về nghi thức cổ xưa và các truyền thuyết, đều không
chỉ một lần nhắc tới chuyện các vị thầy cúng Ma quốc có thể sai khiến dã thú,
thống lĩnh yêu nô. Việc này không phải không có khả năng, một số thảo dược và
phương thuốc điều chế đã thất truyền thời xưa quả thực có thể khống chi hành vi
đơn giản của dã thú.
Tôi cảm thấy bầy địa quan
âm này rất không bình thường, chắc chắn bị sức mạnh nào đó khống chế, thực phẩm
này cũng không phải mang về ăn, có lẽ có thứ gì đó vẫn đang trông coi đàn tế
dưới đất, nên lũ nô tài này mới vận chuyển thực phẩm về cho nó. Nếu Shirley
Dương và A Hương đi lạc vào đàn tế, bọn họ thân cô thế cô, chắc sẽ gặp phiền
phức rồi.
Thấy bầy địa quan âm đã rời
xa, đại để chắc lại đi tìm thực phẩm khác, Minh Thúc cũng coi như đã thở đủ
rồi, tôi hỏi lão ra xem có thể tự đi được không, nếu không đi được thì ở lại
đây đợi, chúng tôi phải tới khoảnh hồ ở tầng hai tìm hai người thất lạc kia. Có
lẽ trên cây nấm Hoàng đề này có một loại vật chất đặc biệt nào đó, sinh vật
thông thường không dám lại gần, nên ngồi lại đây tương đối an toàn.
Minh Thúc lập tức tỏ rõ
thái độ, lúc bị nước xối từ trong thần điện xuống, không thấy một ai cả, vì bản
thân quá quen với sông nước, từng bơi qua sông qua biển, nên mới không sặc nước
mà giữ được tính mạng, giờ đương nhiên phải cùng mọi người đi tìm, A Hương mà
có mệnh hệ gì, lão chết không nhắm mắt. Thế rồi chúng tôi cùng tụt từ cây nấm
Hoàng đế, quay xuống ven hồ, phù du ở đây càng nhiều hơn, không những trong
không trung mà trên mặt đất cũng phủ dày ấu trùng chưa thoát xác, cả một vùng
chìm trong làn huỳnh quang chết chóc.
Ven hồ còn có mấy địa đạo
thiên nhiên, nước hồ chia nhánh chảy vào, hình thành nên vô số sông ngầm lớn.
Đây mới chỉ là những con sông lộ ra, cộng thêm những dòng chảy ẩn sâu dưới đất,
tạo thành một hệ thống nước chằng chịt.
Có một việc không cần nói
mà ai cũng thấy rõ, hiện giờ về cơ bản chúng tôi đã lạc đường, hoàn toàn không
dám rời quá xa khoảnh hồ hai tầng này. Bốn xung quanh toàn là những nơi chưa
biết, địa chất địa mạo hoàn toàn lạ lẫm, khắp nơi là lũ côn trùng cổ quái chưa
từng thấy, một mái vòm cong như cái sàng, xuống thì dễ, trở lên mới khó, không
có cách nào quay lên được, nghĩ vậy trong lòng lại cảm thấy nặng nề. Shirley
Dương mang theo pháo sáng và súng tín hiệu, lẽ ra phải dùng những công cụ ấy
liên hệ với chúng tôi, sao mãi chẳng thấy động tĩnh gì vậy... Tôi thực sự không
dám nghĩ quẩn.
Khoảnh hồ này quá lớn,
chúng tôi men bờ đi rất lâu, vẫn chưa được non nữa vòng, mãi không thấy tăm hơi
Shirley Dương và A Hương. Tuyền béo gắng gượng được nhưng có cái thói ấy thì
chưa chừa được, tức là không chịu nổi đói, thấy cái gì cũng muốn bắt nướng ăn.
Còn Minh Thúc thì vừa mệt vừa đói, giống như quả bóng da đã xịt hơi, thế là tôi
phải động viên họ, bảo rằng trong hồ này chắc chắn có thứ rất ngon, từ xưa đã
nghe nói trên Long đỉnh có long đan do Tây Vương Mẫu luyện, có khi chúng ta cứ
đi, đến đâu đó lại lượm được cái nồi, ăn một viên thân nhẹ như chim én, ăn hai
viên nhẹ bẫng thành tiên, ăn một vốc thì thọ cùng giời đất.
Tuyền béo nói: "Nhất
này, ngữ chính ủy hạng hai nhà cậu lại giở trò lòe chúng tôi à, tôi nghe cái
lối nói này sao giống mấy câu thằng cha thầy bói họ Trần khoác lác lúc bán đại
lực hoàn thế không biết? Giờ cậu đừng có nhắc tới long đan tiên hoàn gì nữa đi,
chỉ cần cho tôi một vốc đậu xanh, là tôi mãn nguyện rồi."
Tôi nói với Tuyền béo:
"Cậu đúng là thằng tư tưởng tiểu nông chủ nghĩa, bằng lòng với lợi nhỏ,
bột đậu xanh ăn ra gì? Tôi thật không lòe hai vị đâu, nước hồ này tịnh chẳng
phải thứ nước thường, đây là đâu chứ? Trong phong thủy thì đây là Long đỉnh,
nước này đều là nước óc của rồng tổ đấy, không tin cậu xuống uống hai hụm xem
xem, giá trị dinh dưỡng còn cao hơn cả nước cốt đậu ấy chứ, uống quấy quá vài
ngụm cũng có thể đỡ đói đấy."
Minh Thúc nghe chúng tôi
nhắc đến cái ăn, liền nuốt nước miếng, không cho rằng tôi nói đúng, liền nói:
"Nước cốt đậu khó uống lắm, nhớ khi xưa tôi ở Nam Dương, có gì chưa uống
chứ? Đương nhiên là cái gì cũgn uống cả rồi. Chúng tôi ở đó rất trọng phong
thủy, nhưng làm gì có cái lẽ nào nói nơi phong thủy là nước có dinh dưỡng? Làm
gì có cái lý ấy cơ chứ, chú Nhất đúng là nói nhăng nói cuội."
Tôi nghĩ bụng lão khọm già
này vừa nãy chẳng phải sợ như thằng nhãi lên ba sao? Liền bảo lão: "Cái
đạo phong thủy không được chân truyền thì cuối cùng cũng chỉ là giả học, bác
thì hiểu được bao nhiêu đạo thuật này cơ chứ? Tôi nói thật để bác biết nhé, nước
hồ này không những uống rất ngon, mà còn đáng tiền nữa kia, long mạch của Trung
Quốc đáng bao nhiêu tiền? Không phải có núi Côn Luân thì còn lâu mới có cội
nguồn long mạch, không có khoảnh hồ này, rồng tổ Côn Luân chẳng là cái thá gì
cả. Cổ nhân có một lối so sánh hết sức xác đáng, không có Tương Dương, Kinh
Châu chẳng đủ dụng võ, không có Hán Trung, Ba Thục chẳng đủ hiểm ngại, không có
Quan Trung, Hà Nam không thể khư khư một mảnh đất Dự được, ấy bởi hình thế
khiến nó như vậy. Do phong và thủy bản thân tồn tại khách quan, cùng một lẽ như
vậy, nếu không có những mạch nước ngầm này, núi Côn Luân không xưng làm Long
đỉnh. Tuy rằng ngoài những tín đồ của Ma quốc thời cổ ra, có lẽ người ngoài
chưa từng nhìn thấy hệ thống nước ngầm này, song dường như trong tất cả các lý
luận phong thủy, đều đã luận chứng về sự tồn tại của nó, cái này gọi là tạo hóa
của trời đất, là nguyên lý của âm dương."
Chuỗi lý lẽ hùng hồn của
tôi khiến Minh Thúc im bặt, nhưng vừa phân tán sự chú ý, cảm giác mệt mỏi cũng
vợi đi phần nào. Đói thì đành phải nhịn thôi, đợi đến khi tìm được Shirley
Dương và A Hương, mới có thể nghĩ cách cúng tế miếu dạ dày được. Men theo bờ hồ
sắp đi được một vòng, càng đi trong lòng càng thấy sợ, sống không thấy người,
chết không thấy xác, chúng tôi nhìn vào lòng hồ trĩu nặng khí đen, sợ rằng họ
đã bị lũ cá to ăn thịt, hoặc giả bị xối vào một chỗ nào đó còn sâu hơn nữa, tối
om thế này biết tìm đâu đây?
Đúng lúc chúng tôi lo lắng
khôn nguôi, đinh vào mấy dòng sông ngầm kia tìm, đột nhiên giữa lòng hồ tầng
dưới có một cây pháo sáng bay vụt lên. Cây pháo sáng lơ lửng giữa tầng không,
chiếu sáng mặt hồ, những con phù du xung quanh kinh sợ vội quẫy đuôi phát quang
bay tản ra khắp nơi, những vệt sáng nhảy nhót loạn xạ, cảnh tượng rực rỡ xán
lạn giống như pháo hoa bắn giữa màn trời u tối.
Tôi, Minh Thúc và Tuyền béo
vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, ngạc nhiên vì chúng tôi đi vòng quanh hồ tìm mà
không có kết quả, hóa ra là ở giữa lòng hồ tối tăm có một đảo nhỏ, thực sự rất
bất ngờ, mừng là bởi pháo sáng, từ bên đó bắn ra, chứng tỏ ít nhất Shirley
Dương còn sống, có lẽ A Hương cũng ở bên cạnh cô, tuy nhiên nhìn qua màn sáng
trắng nhờn nhợt, thấy giữa hồ chỉ gồ lên một hòn đảo hình như quả đồi, lại
chẳng thấy bóng dáng một ai, ánh sáng yếu dần đi, chưa kịp nhìn cho rõ, đã mất
hút trong bóng tối.
Minh Thúc kinh hãi, trên
đảo không có ai, thì pháo sáng kia do ai bắn ra? Vả lại vì sao bao lâu như thế
mới phát tín hiệu? Những nghi vấn này, không ngoài để nói lên phải chẳng trên
hòn đảo giữa hồ có cạm bẫy, việc làm vừa rồi là nhử mọi người mạo hiểm tiến
lại, hẳn là có âm mưu đen tối, vẫn phải bàn mưu tính kế lâu dài cái đã.
Tôi mặc kệ những lời dò
đoán của lão, nhân lúc pháo sáng còn lửng lơ giữa trời chưa tắt hẳn, liền giơ
kính viễn vọng nhìn kỹ địa hình giữa hồ. Trên đảo quả thực không có ai, nhưng
tôi để ý góc bắn của pháo sáng ban nãy là trục tuyến, chứ không phải lối bắn
hình vòng cung mà chúng tôi vẫn thường áp dụng, ngoài ra độ cao cũng có vấn đề,
điều này chứng tỏ pháo sáng được bắn lên từ dưới mặt nước kia. Trên đảo chắc
chắn có hang động, có khả năng là họ bị vây khốn ở trong đó, việc không thể
chậm trễ, phải mau chóng bơi qua đó cứu viện cho hai cô nàng.
Ba người chỉnh đốn nhanh
vật dụng trên người, lôi chiếc đèn chiếu sáng còn lại ra, một giây cũng không
dám chậm trễ, bơi thục mạng tới đảo, thì phát hiện ra hòn đảo này trơ trụi,
xung quanh không những không có bóng dáng một ai, mà ngay cả trên mặt đất cũng
không có bất kỳ vết tích động huyệt nào, chỉ ở phía sau tảng nham thạch, có một
khẩu M1911 hết đạn rớt lại, vỏ đạn tung tóe khắp nơi, dường như từng xảy ra một
trận kịch chiến, mà đương nhiên chủ nhân của khẩu súng chính là Shirley Dương.
Hòn đảo này to cỡ một sân
bóng, ở giữa nhô lên, giống như chiếc kèn úp ngược, địa hình hết sức kỳ lạ. Tôi
xem xét đá núi dưới chân, nói với Tuyền béo và Minh Thúc: "Đây là một ngọn
núi lửa đã tắt, phía trên là miệng núi lửa, nếu họ vẫn còn sống, có lẽ đã bị
rơi xuống miệng núi lửa rồi." Nói đoạn vội chạy lao lên trước, Tuyền béo
lôi Minh Thúc ục ịch chạy phía sau.
Chạy ra được mấy bước, tôi
phát hiện ra trên dải nham thạch có không ít cây gỗ bách mục nát rải rác, đống
đá gần đây cũng là do bàn tay con người vui lại, lẽ nào trong lòng núi lửa, lại
là đàn tế của thành Ác La Hải?
Đang đi, bỗng nhiên nhìn
thấy trên mặt đất có một bàn tay bị đứt, máu còn chưa khô, đó là bàn tay con
gái, ngón tay có đeo chiếc nhẫn cát tường, chính là thứ Thiết bổng Lạt ma đã
tặng cho A Hương...
Chương 27: Núi
Kích Lôi
T ôi khom người nhặt bàn tay đứt dưới đất lên, có thể khẳng định đây
chính là bàn tay phải của A Hương, đứt lìa cổ tay với những vết răng nham nhở,
hẳn là đã bị cắn đứt bởi một lực khủng khiếp. Chỉ có Shirley Dương mang theo
pháo sáng bên mình, như vậy xem ra cô và A Hương ở cùng nhau, nhất định bọn họ
đã gặp phải con mãnh thú hung bạo nào đó, cuối cùng phải rút lui vào trong
miệng núi lửa chờ cứu viện.
Tuyền béo lôi xềnh xệch
Minh Thúc vốn đã mệt nhừ tử dưới dốc lên, đúng lúc đó, từ đỉnh núi, một con thằn
lằn lửa màu đỏ trườn ra, thè cái lưỡi dài thườn thượt, vẫn còn giữ được những
đặc trưng cổ xưa từ thời kỳ hậu băng hà với hàm răng sắc nhọn.
Tôi và Tuyền béo lập tức
giương súng lên bắn, sau một hồi nổ súng loạn xạ, con thằn lằn lửa bị trúng đạn
vội rút lui, có điều da thịt của nó rắn chắc chỉ kém giao long vằn, vũ khí hạng
nhẹ tuy có thể gây thương tích, nhưng không đủ khiến nó mất mạng. Tuyền béo lần
trong túi rút ra một chập mìn gồm ba ống có chốt kéo, coi như lựu đạn ném về
phía con ôn vật.
Con thằn lằn liên tiếp bị
trúng đạn, vốn định bỏ chạy về phía sau, nhưng thấy cơn mưa đạn bỗng nhiên chấm
dứt, bèn ưỡn ngực xông tới, Tuyền béo ném chập mìn vừa vặn đập trúng đầu nó rơi
xuống đất, con vật leo lên với thế chẻ tre, vừa vặn vồ lên trên.
Do chúng tôi đụng độ con
vật ở vị trí sát miệng núi, cự ly quá gần, mà mìn tháo chốt là nổ ngay, sức
công phá của loại ống mìn này rất lợi hại, đã từng nổ tan tành cả cửa đá, bây
giờ ném ra gần quá, chỉ có nước chết cùng nhau cả thôi. Tôi vội đẩy Minh Thúc
ngã xuống, trên đỉnh đầu vang lên một tiếng nổ lớn, làn khí phụt ra như sóng
hất tung con thằn lằn lên cao, đá vụn rơi rào rào lên người chúng tôi, may mà có
mũ leo núi bảo vệ phần đầu, còn cánh tay lộ ra ngoài đều bị cứa xước mấy vết.
Mùi khói diêm tiêu xộc vào
sặc mũi, con thằn lằn đổ vật ra ở một quãng hơn mười mấy mét, bị nổ cho nát
bụng lòi ruột. Tôi vừa định bảo Tuyền béo nếu cậu định học theo Đổng Tồn Thụy
cũng không sao, nhưng mà tốt nhất tránh người ta xa ra một tí, đừng có lôi bọn
tôi vào đỡ đạn cho cậu, nhưng đúng lúc ấy lại thấy Minh Thúc trợn trừng mắt,
chăm chăm nhìn bàn tay đứt của A Hương. Lòng tôi nặng trĩu, cũng không biết
phải khuyên nhủ làm sao. Chân tay bị đứt lìa ra, nếu trong thời gian ngắn tiến
hành phẫu thuật ngay, còn có thế nối lại được, xong trong môi trường cách biệt
với thế giới bên ngoài thế này, sao có thể phẫu thuật được đây? Huống hồ vết
đứt không phải là vết đứt, căn bản không có cách nào nối lại được, thậm chí còn
không biết lúc này cô bé còn sống hay đã chết.
Minh Thúc lặng đi hồi lâu
mới hỏi tôi: "Đây... là tay của con gái tôi sao?" Cũng chẳng đợi tôi
trả lời, liền gục đầu xuống, vẻ mặt ủ rũ não nề, trông hết sức thương tâm, dường
như tự trách mình ghê lắm.
Tuyền béo cũng thấy bàn tay
đứt, bĩu mồm ra nhìn tôi. Tôi biết ý của cậu ta là hết sức khó xử, làm thế nào
với lão Minh này đây? Tôi xua tay, tỏ ý càng khuyên càng buồn thôi, tốt nhất là
đừng nói gì nữa, mau chóng dìu lão ta lên núi.
Thế rồi tôi và Tuyền béo
mỗi người một bên, xốc nách Minh Thúc, lôi lão lên đỉnh núi như lôi một người
đã chết. Xung quanh miệng núi có vô số hạt cát màu đen, vốn là do dung nham núi
lửa từ màu ghi chuyển sang màu đen, rồi lại vỡ thành tinh thể dạng cát, thời
gian hình thành ít nhất cũng mất mấy trăm vạn năm. Núi lửa đã chết có thể nói
là một cái xác trong tự nhiên, giẫm đi trên nó, như chạm vào những biến đổi to
lớn từ thời viễn cổ một cách chân thực, sẽ khiến người ta nảy sinh cảm giác
trống rỗng đến khó hiểu. Tôi thậm chí còn hơi sợ hãi, cứ lo rằng sẽ nhìn thấy
trong lòng núi lửa có xác của Shirley Dương và A Hương.
Tuy nhiên đường dẫu dại
cũng có điểm tận cùng, lên đến đỉnh núi sẽ phải đối mặt với hiện thực, miệng
núi lửa nhỏ hơn rất nhiều so với trong tưởng tượng của tôi, tháng năm ăn mòn,
khiến miệng hang sụt lở một phần lớn, kích cỡ còn lại chỉ to khoảng bằng ống
khói nhà máy, chẳng trách con thằn lằn kia không bò vào được. Vừa nhìn vào
trong, thấy dưới đáy có ánh huỳnh quang xanh lục, ánh sáng này chúng tôi đã rất
quen, chính là thứ ánh sáng phát ra từ ống huỳnh quang, tôi gọi xuống dưới mấy
tiếng, chưa kịp đợi nghe đáp lại đã leo xuống dưới.
Trong cái miệng núi lửa như
miệng kèn úp này, có rất nhiều kiến trúc dạng giếng tạo bởi đá lên tới đỉnh,
tuy chất liệu gỗ đã mục, nhưng đá khối hình vuông còn rất chắc. Tôi leo xuống
hai ba bước đã xuống tới đáy núi, chỉ thấy Shirley Dương đang ôm A Hương ngồi
trong một góc. Thấy họ vẫn còn sống, tim tôi bấy giờ mới đập bình thường trở
lại.
Vết đứt ở cổ tay của A
Hương đã được Shirley Dương sơ cứu, tôi hỏi Shirley Dương có bị thương không,
vết thương của A Hương có nghiêm trọng không?
Shirley Dương lắc đầu, ý
rằng bản thân cô thì không sao, song tình hình A Hương thì không mấy lạc quan.
Trận hỗ chiến của con cá vua râu trắng với con giao long vằn trong thần điện
dưới đáy nước đã khiến nền điện bị vỡ, nước hồ phong hóa trút hết xuống dưới
lòng đất. Shirley Dương bị dòng nước dữ cuốn vào lòng hồ ở tầng một, vừa mới
ngoi đầu lên hít không khí, thì phát hiện ra A Hương bị nước xối qua bên mình,
thò tay ra kéo cô bé lại, kết quả là cả hai đều bị nước xối xuống khoảnh hồ ở
tầng hai, chưa kịp lên bờ thì gặp ngay con thằn lằn chúa dưới nước. A Hương bị
nó cắn chặt lấy tay, lôi lên hòn đảo núi lửa ở giữa hồ, Shirley Dương đuổi
theo, xạ kích con vật trong cự ly gần mới cứu được cô bé. Do không còn đạn
dược, hai người đành phải rút lui vào trong miệng núi, bấy giờ mới phát hiện ra
bàn tay của A Hương đã bị cắn đứt từ lúc nào không hay, liền cuống quýt băng
bó, nhưng thuốc men không có, không thể cầm máu hết được, đành tạm bó tay, đến
khi bình tĩnh lại mới nhớ ra phải bắn tín hiệu cầu cứu.
Lúc này Minh Thúc và Tuyền
béo cũng lần lượt xuống tới nơi. Tuyền béo thấy mọi người còn sống, liền ngậm
con dao lính dù trong miệng, bò ngược trở lên, định cắt lấy mấy miếng thịt con
thằn lằn, nướng ăn cho đỡ đói, quả thực đói đến nỗi không lê nổi người đi nữa.
Minh Thúc thấy vết thương
của A Hương, sắc mặt kinh hãi trắng bệch, nói với tôi: "Chú Nhất ơi, chú
đừng vì A Hương mất đi bàn tay mà ruồng rẫy nó. Giờ y học phát triển lắm, sau
khi về lắp tay giả vào, rồi lại đeo găng tay sẽ không nhìn ra đâu, con bé chắc
chắn có thể sinh cho chú một thằng con trai... "
Tôi nói với lão: "Khi
cô bé chưa bị thương, tôi cũng nào có bằng lòng cưới cô bé làm vợ, lập trường
của tôi chẳng phải đã nói rõ rồi sao? Tôi kiên quyết phản đối hôn nhân áp đặt,
cha mẹ tôi còn chẳng ép được tôi, bác giờ lại lôi việc này ra nói, cứ làm như
tôi ruồng bỏ em ấy vì thiếu một bàn tay không bằng. Tôi nói lại lần nữa, A Hương
có ba bàn tay, tôi cũng không thể lấy được, có mấy bàn tay đi nữa tôi cũng
không quan tâm đâu."
Minh Thúc nói: "Thôi
thôi, chú đừng có thoái thác nữa, đến chùa nào ăn oản chùa ấy, hai đứa tới Hồng
Kông đi, yêu nhau một thời gian, thì đâu phải là hôn nhân áp đặt. Nếu chú đã
không chê em nó thiếu tay, lẽ nào chú chê em nó không đủ xinh đẹp?"
Shirley Dương hơi cau mày
nói: "Giờ là lúc nào rồi mà còn đôi co những việc thế này? Hai người sao
không nghĩ cho A Hương nhỉ? Trong mắt hai người em Hương chỉ như một món đồ đem
ra đổi chác thôi hay sao? Đừng quên em ấy cũng giống như hai người, có ý thức
tự chủ, cũng là một người biết yêu biết ghét, biết vui buồn, hờn giận... Mau
nghĩ cách chữa trị vết thương cho em ấy đi, nếu cứ để tình hình xấu đi, e là sẽ
không qua được hôm nay đâu!"
Tôi và Minh Thúc bị Shirley
Dương dạy cho một bài, chẳng còn lời gì để nói, cũng biết cứu người là cấp
bách, nhưng trong tình hình thiếu thốn y bác sĩ và thuốc men thế này, muốn chữa
trị cho vết thương nghiêm trọng như vậy, nào có dễ gì. Cánh tay của A Hương đã
được Shirley Dương dùng dây thừng quấn chặt, tạm thời có thể cầm được máu, có
điều đây không phải cách hiệu quả, để lâu e là cả cánh tay cũng đừng hòng giữ
lại được.
Tôi khổ sở không nghĩ ra
cách nào hay, cứ đi đi lại lại. Đang như thế thì nhác thấy chiếc túi Tuyền béo
vứt trên mặt đất, chợt nghĩ ra, coi như cũng có cọng rơm cứu mạng. Lúc này
Tuyền béo đã quay lại, đem xuống mấy lát thịt thằn lằn. Tôi nghĩ bụng thằng cha
Tuyền béo và lão Minh đúng lại bị thịt, không giúp thì thôi, càng giúp càng
rối, thế là bảo hai người họ đi chuẩn bị chút đồ ăn cho mọi người, tôi và
Shirley Dương phụ trách cứu A Hương.
Shirley Dương gỡ băng trên
cổ tay A Hương ra, do không có cồn, tôi đành gỡ vỏ đạn, dùng một chút thuốc
súng đốt lên vết thương, sau đó tìm mấy mảnh mai rùa trong túi Tuyền béo ra,
nghiền nát một phần, hòa với nước sạch, lại dùng băng dính dán chặt, bên ngoài
cuộn vải vào.
Shirley Dương hỏi tôi thứ
này thực có thể chữa vết thương không, tôi nói cứ theo Minh Thúc đã bảo, con
rùa có thể thoát khỏi mai ắt có tính linh, vả lại nó không rời xa chiếc mai đã
thoát ra, lại còn thường xuyên dùng nước bọt liếm lên, cho nên mai rùa này có
thể dùng làm thuốc, ngoài công năng giải độc, làm tan các vết ứ tụ ra, còn có
thể cầm máu, sản sinh cơ thịt. Con gái nuôi của lão ta lần này sống hay chết,
đều phải xem xét mắt lão có đui hay không, nếu như vật này không có hiệu quả
thần kỳ như lão ta nói, chúng ta cũng chẳng có cách nào xoay chuyển bầu trời
cả. Tuy không trực tiếp nguy hiểm đến tính mạng, nhưng bản thân A Hương vốn đã
yếu ớt, lại không có thuốc giảm đau, cô bé có thể sẽ chết vì đau đớn.
A Hương vừa được liệu
thương, đã tỉnh dậy sau cơn hôn mê, đau quá nên cứ khóc tu tu. Tôi an ủi cô bé
rằng: "Vết thương chứng tỏ sắp liền lại em ạ. Mất một bàn tay thực ra cũng
không sao đâu, dù gì thì vẫn còn tay kia mà. Hồi trước anh có mấy chiến hữu
giẫm phải mìn chống bộ binh, cái thứ mìn ấy mới khốn nạn, nó nổi chỉ đủ người
ta tàn phế, chứ không đến nỗi mất mạng, mục đính là vì khiến thương binh trở
thành gánh nặng của đối thủ, họ vẫn trở về nước tham gia lễ trao tặng anh hùng,
cảm động hàng triệu con tim, họ cũng vẫn kết hôn như thường, không có gì lỡ
làng cả... "
Tôi an ủi quấy quá vài câu,
bấy giờ mới ngồi xuống nghỉ, nhân tiện xem xét địa hình nơi đây, ngọn núi lửa
này là núi lửa tự nhiên, thời cổ đã được con người xây sửa. Không gian dưới đáy
không hề nhỏ, chúng tôi hiện ngồi ở vị trí chính giữa, đó là một kiến trúc kiểu
như giếng đá, nhưng có cửa bằng đá, càng hướng ra bốn bên không gian càng hẹp,
đáy giếng cách miệng không cao lắm. Núi lửa đã tắt tuy nằm dưới hồ trong lòng
đất, nhưng bên trong rất khô ráo, không có dấu hiệu bị ngấm nước.
Tuyền béo chất một đống củi
lên đốt, nướng cả xương lẫn thịt con thằn lằn lửa. Nhờ ánh lửa bập bùng, tôi
nhìn thấy trên vách đá có khắc rất nhiều ký hiệu nguyên thủy, giống như các
chòm sao rải rác trên trời, trong đó có một họa đồ tinh vân hình mắt, được nâng
đỡ bởi các nét vằn ngũ trảo thú, chiếu thẳng về phương Đông. Shirley Dương từng
nói với tôi, trên bản đồ Kinh Thánh có một ký hiệu, đàn tế đích thực của thành
Ác La Hải chắc chắn nằm ở mặt Đông cách đây không xa. Trong trường thi Chế địch
Bảo châu Đại vương, nơi này gọi là Magnindon, nghĩa là "núi Kích Lôi Đại
hắc thiên", "Đại hắc thiên" chính là một loại ác ma khống chế
khoáng thạch trong truyền thuyết.
Tôi muốn xác định lại với
Shirley Dương, bèn hỏi cô xem đây có phải là núi Kích Lôi không? Không ngờ câu
hỏi của tôi vừa buột ra khỏi miệng, Minh Thúc ngồi bên cạnh đột nhiên kêu lên:
"Ối giời ôi". Tuyền béo bèn hỏi lão có việc gì mà sửng sốt đến thế.
Trong nháy mắt, mặt lão đã
đổi sắc, truy hỏi cho rốt ráo, mới hay lão này không phải hạng mê tín thông
thường, mà tin sái cổ vào tử vi bát tự. Tên đầy đủ của lão là Lôi Hiển Minh,
nhắc cái địa danh núi Kích Lôi, vậy chẳng phải là công kích lão hay sao?
Tôi và Tuyền béo đều không
nghĩ như vậy, liền tóm cơ hội châm biếm cái thói hay giật mình sợ sệt của lão.
Lão nói một cách trịnh trong: "Sau này các chú sinh con không thể không
tin những lời này, tên của con người ấy, nhỏ thì gắn liền với rủi may họa phúc,
lớn thì bao gồm hết thảy vận mệnh sống chết đấy."
Minh Thúc thấy chúng tôi
không tin, liền nói: "Câu chuyện về gò Lạc Phượng đã quá xa rồi, chuyện xa
xưa ta không nói lại nữa. Đới Lạp, tên trùm sỏ quân thống các cậu đều biết chứ,
người này cũng là một nhân vật đình đám trong nội bộ Quốc dân Đảng đấy. Hồi trẻ
ông ta có mời thầy bói xem bát tự, bói rằng ông ta là tướng hỏa vượng, cần phải
có nước chữa cho, thế rồi nhờ thầy đặt biệt hiệu gọi là Giang Hán Tân, ba chữ
đều có bộ Thủy, cho nên đường quan lộ của ông ta lên như diều gặp gió đấy thôi."
Tôi nói với lão: "Đúng
rồi, lên như diều gặp gió, nhưng mà diều bay loạng choạng, kết quả là máy bay
bị rớt, ông ta đã ngã chết rồi đấy. Đổi tên có tác dụng gì đâu? Bác chớ có lo
chuyện này làm gì."
Minh Thúc một mực phủ nhận,
bảo rằng các chú biết một mà không biết hai. Đới Lạp còn đổi rất nhiều tên, ông
ta là đặc công, có lúc phải dùng tên giả để liên lạc, ông ta từng dùng các tên
như Hổng Miêu, Thẩm Phế Sâm, vân vân, ngay cả tên hiệu cũng đều có bộ Thủy. Các
chú nói xem có phải gặp ma rồi không, duy có mỗi cái hôm máy bay của ông ta rớt
xuống, ma xui quỷ khiến thế nào ông ta lại dùng cái tên "Cao Sùng
Nhạc", chỉ thấy núi mà không thấy nước, phạm vào đại kỵ, kết quả là máy bay
đâm thẳng vào núi vỡ tan tành. Những người thu liệm xác nghe ngóng mới biết,
ngọn núi máy bay đâm phải có tên núi Đới Sơn, khe núi mà thi thể rớt xuống gọi
là khe Khốn Vũ, rõ ràng đó là Quỷ môn quan đã lấy mạng ông ta. Cho nên những
việc thế này quả thực thà tin còn hơn không.
Tuyền béo hỏi: "Bác
đừng bốc phét nữa đi, việc của tay tướng đặc vụ trong quân thống sao bác lại
biết rõ thế? Rốt cuộc là bác làm nghề gì vậy? Nói thẳng nói thật, nhược bằng
lẩn tránh, chúng tôi xử bác nghiêm đấy!"
Minh Thúc vội giải thích,
lão ta không hề có quan hệ gì với ông Đới Lạp kia, những việc này lão nghe được
từ một ông thầy bói hồi còn buôn bán kia, có điều sau đó kiểm tra lại, quả
nhiên không hề nói láo, câu nào cũng đúng sự thật cả. Những trường hợp như vậy
nhiều vô kể. Thôi mau rút đi, bằng không cái mạng già này thế nào cũng bỏ lại
đây.
Tôi nói với lão: "Dọc
đường bác cũng thấy rồi đấy, dưới lòng đất này còn có chỗ nào khác để đi đâu?
Chúng ta chỉ còn cách đi men theo địa đạo phía Đông của ngọn núi lửa này thôi,
hy vọng rằng gần đàn tế có thể có cái cửa sau nào đó, nhưng cũng phải đợi sau
khi chúng ta ăn uống nghỉ ngơi đã rồi hành động, giờ chẳng thể đi đâu được."
Minh Thúc cảm thấy dù sao
cũng không thể tiếp tục đợi trong này, lão đứng ngồi không yên, chỉ muốn mau
chóng rời đi. Lão đi đến phía trước cánh cửa đá phía Đông, thò đầu vào nhìn
trong khe cửa, nhưng ngay lập tức, cứ như thể nhìn thấy thứ gì cực kỳ đáng sợ,
đột ngột sập cửa, lấy lưng chặn khe cửa, trán vã mồ hôi, hạt nào hạt ấy to như
hạt đậu, kinh hoàng kêu lên: "Có người... có người sau cửa, còn ... sống
... sống đấy."
Chương 28:
Địa đạo Trắng
T rông thấy sắc mặt bợt bạt trắng dã của lão, tôi thầm chột dạ, lão
bảo sau cửa có người, tôi lại chẳng thấy có gì đáng sợ, cùng lắm giặc đến thì
đánh, nước đến thì nhảy là được. Điều tôi lo nhất từ đầu đến giờ là trạng thái
tinh thần của Minh Thúc. Từ lúc tới Tây Tạng, liên tiếp có người tử vong, khiến
lão nhát như thỏ đế, hơn nữa cái tên núi Kích Lôi Đại hắc thiên này lại phạm
đúng điều lão kiêng kỵ. Lão này tuy là một thủy thủ già bươn chải bao năm sóng
gió, nhưng lại có nhược điểm chí mạng là thói đa nghi.
Trên đời này có nhiều việc
không thể tin hoàn toàn, cũng lại không thể không tin được, tuy nhiên mê tín
quá mức chỉ tổ gây áp lực tinh thần quá sức chịu đựng, cho dù có bản lĩnh thế
nào, cũng sẽ bị áp lực tâm lý hạn chế, khó lòng thi triển ra được.
Tôi cũng chưa đoán được
hành vi của lão là thật hay giả, có lẽ chỉ là lo bò trắng răng, tự hù dọa mình
cũng nên, nhưng để yên tâm, tôi vẫn phải tới cánh cửa đá quan sát xem thế nào.
Minh Thúc thấy tôi định mở
cửa, cuống quýt ngăn lại: "Ấy chớ, sau cửa có người, nhất thiết không được
mở chú ạ, xem ra không thể nào đi qua đàn tế này được đâu, chú xem hay ta nghĩ
cách tìm đường ra khác."
Tôi đẩy lão ra, nói:
"Cái chốn hàng trăm ngàn năm không có ai qua lại này, sao có thể có người
được? Vả lại con đường ta đi giờ đây là độc đạo, bất kể trong đó có gì, đều
phải mạo hiểm lao vào, bằng không... ". Tôi vốn định bảo lão nếu hôm nay
không tiến vào đàn tế, những người khác còn đỡ, chứ lão khọm già như ông sẽ
chết chắc, nhưng nghĩ lại tốt nhất không nói việc này thì hơn, lão mà sốc hơn
nữa chắc sẽ thành ra tâm thần như giáo sư Trần mất.
Tôi lấp liếm vài câu,
khuyên lão đứng sang một bên, đoạn đến trước cánh cửa đá ở góc trong cùng. Từ
lúc xuống miếu thần trong lòng núi lửa đến giờ, tôi vẫn chưa kịp quan sát kỹ
cánh cửa duy nhất này. Cánh cửa đá không mấy dày dặn hết sức thô sơ, chân cửa
có bi đá chuyển động là chốt đóng mở, trên cửa không có bất kỳ họa tiết trang
trí nào, chỉ có hai con mắt lớn khắc trên vách đá. Totem nhãn cầu trong thành
Tinh Tuyệt và thành Ác La Hải có thể nói chỗ nào cũng có, nhìn mãi cũng nhàm,
còn nhãn cầu phù điêu trên cửa đá thì cực kỳ đặc biệt, với hai mi mắt khép lại,
khác hẳn những con mắt không có mí mà chúng tôi nhìn thấy ở các totem nhãn cầu
trước đây.
Người dân trong thành cổ
này ngày xưa cho rằng con mắt là cội nguồn của sức mạnh luân hồi, vậy phù điêu
con mắt nhắm này tượng trung cho điều gì? Tôi hơi chững người lại, không nghĩ
nhiều về điều kỳ bí bên trong nữa, mà kéo cửa đá ra, rón rén thò nửa người vào,
xem xét động tĩnh. Phía sau cửa đá là một sơn động thiên nhiên vắng lặng, có
rất nhiều khối nham thạch kết tinh hình thành từ thời kỳ biến động có núi lửa,
ánh lên thứ dạ quang nhàn nhạt lạnh lẽo, giống như một địa đạo trắng nhờ nhờ
ngoằn ngoèo trong lòng đất tối tăm, nhìn vào chỉ độ hơn chục mét đã bị che
khuất, rất khó đoán dài bao nhiêu.
Tôi thấy sơn động sau cánh
cửa này tuy có chút quái dị, thuộc kết cấu địa chất vô cùng hiếm thấy, song nào
có như Minh Thúc nói, lấy đâu ra bóng người? Xem chừng tinh thần của lão khọm
Hồng Kông này đã rệu rã cả rồi. Đang định rút người về, đột nhiên nghe thấy xa
xa trong lòng địa đạo trắng có một chuỗi tiếng bước chân chậm chậm vang lên.
Khu vực phía sau cửa đá này
dường như rất vọng âm, tiếng bước chân tuy ở xa, nhưng ghé tai qua cửa là nghe
rõ mồn một. Không lầm được, đúng là tiếng chân người đi, nghe rất nặng nề, như
cả ngàn cân giậm xuống vậy, mỗi bước chạm đất, ruột gan tôi lại run bắn lên
theo.
Âm thanh đó như tiếng sấm
từ xa đến gần, tiết tấu mỗi lúc một gấp, cứ như thể ở tít sâu trong lòng địa đạo
có một gã khổng lồ đang điên cuồng lao tới, tiếng chân giậm đất vang động khiến
người ta hồn xiêu phách lạc. Tim tôi đập nhanh hơn, một cảm giác kinh hãi khó
hiểu dâng lên từ đáy lòng, cuối cùng không thể chịu nổi, không dám nhìn tiếp
nữa, vội rụt ngay người lại, lấy sức đóng "rầm" cửa một tiếng, thì
tiếng bước chân kia dường như cũng im bặt.
Tôi thở một hơi dài, phát
hiện ra trên người vã mồ hôi, nhất thời kinh hồn táng đởm, chẳng thế nào hiểu
nổi ban nãy vì sao lại sợ tiếng bước chân kia đến thế, thầm nghĩ thôi bỏ mẹ,
gặp ma thật rồi, trong sơn động kia chắc chắn có thứ gì đó.
Tôi mau chóng trấn tĩnh
lại, điều tiếp nhịp thở, áp sát tai vào cửa đá lắng nghe.. Sau cửa lại im ắng
đến kỳ lạ, mãi một lúc lâu sau, cũng không thấy gì dị thường, cứ như trong địa
đạo kia là một cõi hư vô yên ắng, không tồn tại bất kỳ thứ gì có sinh mệnh.
Minh Thúc, đứng sau lưng
thấy bộ dạng tôi như vậy, biết là những gì tôi và lão thấy khi lần đầu đẩy cửa
đá ra cũng na ná như nhau thôi, nhưng vẫn mở miệng hỏi tôi là làm sao, nhìn
thấy gì.
Đoàn chúng tôi lúc này vừa
mệt vừa đói, lại có người bị thương, có thể nói là đang ở tận cùng của sức chịu
đựng, trước khi nghỉ ngơi chỉnh đốn lại khó mà hành động tiếp được, hiện tượng
phía sau cánh cửa kia tuy bất thường, nhưng có vẻ như đóng cửa lại thì ở nơi
đây, trong lòng núi lửa này vẫn coi như an toàn, như vậy chẳng bằng tạm thời
không nói rõ gì cả, cho mọi người khỏi hoảng loạn, có vấn đề gì đợi sau khi no
bụng đã hẵng quyết. Vậy là tôi nhìn Minh Thúc lắc đầu, tỏ ý chẳng có gì hết,
giả vờ như mọi chuyện đều bình thường, rồi kéo tay lôi lão ra chỗ Tuyền béo
đang nướng con thằn lằn.
Minh Thúc lúc này đi không
được, ở cũng không xong, lòng lo nơm nớp, mắt vằn tia đỏ, ngồi bên đống lửa lại
nói với tôi về mối nhân quả mê tín giữa việc đặt tên, vận mệnh và địa danh,
khuyên tôi đem mọi người sớm rời khỏi ngọn núi Kích Lôi Đại hắc thiên này.
Tôi chẳng mảy may để ý, chỉ
chăm chăm ăn cho no bụng, nhưng Minh Thúc như bị trúng tà, cứ lải nhải nói mãi
không thôi. Ban đầu lão nói về mấy sự việc nổi tiếng gần đây, thấy tôi không có
bất kỳ phản ứng gì, càng nói càng xa đề, cuối cùng nói về thời Hậu Chu, năm thứ
sáu đời vua Hiển Đức, Chu Thế Tông Sài Vinh dấy đại quân lên phía Bắc phạt
Liêu, để lấy U Châu, chân mệnh thiên tử ngự giá thân chinh, sĩ khí rất hăng, vả
lại hành binh thần tốc, quân dân Khiết Đan không kẻ nào không kinh hãi hoảng
loạn. Quân Liên thấy uy phong mà bỏ chạy, rong ruổi suốt đêm, trong khi quân
Hậu Chu thế như chẻ tre, liên tục hạ được hai châu và ba quan ải, lần lượt là
Mạc Châu, Doanh Châu, Ứ Khẩu quan, Ngõa Kiều quan, Ích Tân quan, trông chừng có
thể thu lấy U châu đến nơi rồi, không ngờ khi qua Ngõa Kiều quan, Sài Vinh đứng
trên cao để dõi nhìn lục sự, thấy ba quân hùng hổ, long nhan lấy làm cả mừng.
Đất ấy có rất nhiều bá tánh đứng ở hai bên đường nghênh đón, Thế Tông Sài Vinh
thấy nơi đây địa hình hiểm ác, chiếm trọn được hình thế, bèn hỏi một vị bô lão
bản địa, nơi này tên gì. Đáp rằng: "Đời đời truyền lại, gọi là Bệnh Long
Đài." Sài Vinh nghe thấy địa danh này, thần sắc lập tức bợt bạt, đêm ấy đổ
bệnh, đành phải bỏ nơi hình thế tốt mà lui binh, lỡ mất thời cơ thu lấy U châu,
còn bản thân ông ta cũng vì bạo bệnh mà chết ở giữa đường quay về, có thể thấy
tên gọi với chuyện may rủi... "
Tôi nghe Minh Thúc lảm nhảm
suốt cả ngày, có một số sự việc chưa từng nghe nói, một số việc dường như có
thật, e rằng những chuyện này đều gây tác dụng tâm lý mà thôi, quốc gia tích
đức thì có đạo, có thể giữ nước ức vạn năm; người làm việc thiện thì được hưởng
thọ. Đế vương thời xưa đều được tung hô là "vạn tuế" cơ mà, có thấy
vị nào sống quá trăm năm đâu, rõ ràng là nói phét bỏ mẹ đi được. Tôi cảm thấy
không thể để lão già này nói tiếp nữa, người nghe bọn tôi rõ vô tâm, nhưng cái
thằng nói lải nhải là lão hẳn là có ý, cuối cùng những việc này chỉ khiến thần
kinh lão thêm căng thẳng mà thôi, vì vậy mới đánh mắt nhìn Tuyền béo, bảo hắn
lấy cục thịt nhét vào mồm lão ta.
Tuyền béo hiểu ý, lập tức
đưa cho Minh Thúc miếng thịt nướng qua mấy lần lửa: "Leo núi tuyết mà
không uống trà bơ, thì cũng giống như chim ưng bị gãy đi một cánh... đương
nhiên trà bơ chúng ta không có mà uống, song thịt này đủ để khiến gân cốt rắn
chắc. Em bảo bác, bác Minh ạ, bác đừng có nghĩ tiêu cực quá đi, nghĩ nhiều thế
làm cái quái gì, há to miệng ra là bác gặm luôn, ăn no rồi còn lên đường. "
Minh Thúc nói với Tuyền
béo: "Thằng béo nhà cậu đã không biết nói năng thì đừng có nói linh tinh
nữa đi được không, ăn no lên đường cái gì? Thế lẽ nào đây là bữa cơm cuối cùng
à, thế thì ai mà nuốt nổi... " Có điều thịt cầm vào tay, mùi thơm nức mũi,
quả thực đói meo rồi, nói chưa hết câu đã không thèm nói nữa, liền há to miệng
gặm nhồm nhoàm, nom cái bộ dạng tơi tả của lão, quả có đôi phần khổ sở, thôi
thì sống hay chết đành phải xem số lão thế nào vậy.
Trong lòng tôi hiểu rõ rằng
nếu một người trong khoảng thời gian ngắn trạng thái tình cảm lên xuống quá mức
thất thường, chắc chắn không phải triệu chứng tốt, song giờ phút này cũng chỉ
có thể lo lắng không đâu, cơ bản không có phương thuốc nào chữa trị được, thôi
thì dù gì cũng coi như đã khiến Minh Thúc yên ổn lại, tôi tranh thủ ra tìm
Shirley Dương để bàn bạc đối sách.
Shirley Dương đang chăm sóc
cho vết thương của A Hương. Mai rùa kia quả thực có hiệu quả kỳ lạ, vết thương
của cô bé trong thời gian ngắn đã liền lại. Chỉ có điều do mất máu quá nhiều,
cơ thể lại hết sức suy nhược, lúc này cô bé đã ngủ mê mệt.
Tôi kể tường tận lại sự
việc sau cánh cửa đá thông tới đàn tế cho Shirley Dương nghe. Cô chưa từng nghe
nói đến địa đạo màu trắng đằng sau cửa đá, trong tất cả các tư liệu thu thập
được trước đây, đều không nhắc đến thông đạo này. Nhưng có thể đoán trước được
một điểm, vùng Kelamer này chắc chắn có chỗ đặc biệt của nó, bằng không người
thành Ác La Hải cũng sẽ không chủ định xây đàn tế Quỷ động ở đây. Chúng tôi
thảo luận một hồi nhưng không có kết quả, xem ra trước mắt đành phải nghỉ ngơi
mấy tiếng đã, sau đó sẽ tiến vào địa đạo, đi bước nào hay bước ấy, ngoài ra,
tình huống này không có nhiều lựa chọn.
Vậy là mọi người ăn no bữa,
lần lượt nghỉ ngơi theo sắp đặt từ trước. Minh Thúc ăn no, cũng không nhiều lời
nữa, nằm xuống là ngủ. Tuy nhiên, trong lòng ai cũng có mối lo riêng, chỉ ngủ
được bốn tiếng, rồi thì đều không ngủ được nữa. Sau khi A Hương tỉnh lại,
Shirley Dương cho cô bé ăn một ít. Tôi chia số vũ khí còn lại cho mọi người,
Tuyền béo thu khẩu M1911 trong tay Minh Thúc, đưa cho Shirley Dương. Lúc này
tôi mới phát hiện ra, chúng tôi chỉ còn lại ba khẩu súng lục, một cây súng hơi
thể thao, đạn dược cũng ít ỏi vô cùng, chia đều mỗi người chỉ bắn được hơn hai
mươi phát, súng mà không có đạn thì chẳng bằng cây củi nhóm lửa. Tổn thất về
trang bị vũ khí lớn hơn nhiều so với dự tính, con đường phía trước vô hình
chung bị phủ lên một bóng đen chẳng lành.
Việc đến nước này, cũng chỉ
còn biết an ủi mình rằng chẳng có ngọn hỏa diệm sơn nào không vượt qua được, cứ
cắm đầu cắm cổ mà đi về phía trước thôi. Shirley Dương thấy phù điêu đôi mắt
nhắm chặt trên cửa đá, nghĩ mãi cũng chẳng ra manh mối gì. Mọi người đành lần
lượt mở chốt bảo hiểm của vũ khí trong tay, vào tư thế sẵn sàng chiến đấu. Đẩy
cánh cửa đá ra rồi, nhưng rút kinh nghiệm lần trước, không ai trong bọn tôi dám
vượt qua nửa bước, mà đứng cả lại ngoài cửa quan sát động tĩnh. Phía sau cửa,
ngoài ánh huỳnh quang màu trắng nhờ nhờ sâu trong động ra, không thấy có bất kỳ
động tĩnh gì.
Lần này mở rộng hẳn cánh
cửa, tôi mới phát hiện ra lưng cửa cũng có phù điêu đôi mắt nhắm, lại còn có
hình vẽ nhãn cầu cổ quái, nhưng đều ở trong trạng thái mi cụp, ở giữa phân làm
hai lớp, một lớp mở và một lớp đóng, phần mắt mở ra, lại thêm hậu cảnh là một
bóng người mơ hồ màu đen. Tôi trông tưởng hiểu mà lại không hiểu, dường như
trong đó ghi lại bí mật của địa đạo tự nhiên này.
Shirley Dương quan sát một
lát, liền hiểu ra nội dung bên trong: "Nguy hiểm lắm, may mà vừa nãy chưa
mạo hiểm tiến vào. Địa đạo thiên nhiên hình thành từ tinh thạch này, chính là
núi Kích Lôi Đại hắc thiên Tà thần trong truyền thuyết. Đây là con đường duy
nhất tiến vào đàn tế của thành Ác La Hải, không có đường rẽ, hễ bước vào đều
phải nhắm mắt mà đi, nếu mở mắt trong địa đạo sẽ ... sẽ xảy ra những sự việc
hết sức đáng sợ."
Tôi hỏi Shirley Dương nếu
mở mắt ra trong địa đạo tinh thạch trắng kia, rốt cuộc sẽ có chuyện gì xảy ra,
Shirley Dương nói không biết, nội dung trên cửa đá, chỉ có tác dụng cảnh cáo chung
chung, cũng rất hàm hồ. Mắt của con người sẽ giải phóng cho Tà thần trong động,
còn như rốt cuộc mở mắt ra sẽ nhìn thấy gì, nội dung trên cánh cửa không nhắc
tới.
Shirley Dương nghĩ một lúc
lại nói, tương truyền Đại hắc thiên là tà linh khống chế đá quặng, đương nhiên
đó chỉ là truyền thuyết, đại để cũng giống như Thủy tinh tự tại sơn, vị thần
tuyết lở. Vật liệu cấu thành nên đoạn địa đạo này rất có thể là một loại nham
thạch kết tinh có chứa nguyên tố đặc biệt. Trong cơ thể con người ẩn chứa rất
nhiều bí mật, đặc biệt là trong đôi mắt có một luồng điện sinh học yếu nào đó
tồn tại. Đơn cử một ví dụ thế này, có một số người hết sức nhạy cảm với ánh
nhìn của người khác, thậm chí có thể cảm giác được người chăm chăm nhìn sau
lưng mình, cảm nhận tinh tế này bắt nguồn từ đây. Tôi nghĩ địa đạo trắng này
chắc chắn không hề đơn giản, có thể nếu mở mắt ra sẽ bị ảnh hưởng của vài
nguyên tố nào đó, nhẹ thì mất thần trí, nặng thì có thể mất mạng.
Ý của Shirley Dương là nếu
muốn vào địa đạo, bắt buộc phải bảo đảm trước khi tới đàn tế không được mở mắt
ra, bằng không hậu quả sẽ khó, mà tưởng tượng được. Tôi cho rằng cách nghĩ của
cô nàng là đứng trên góc độ khoa học, tuy có chút chủ quan võ đoán, song bất
luận Đại hắc thiên rốt cuộc là con gì, thì thôi nhập gia phải tùy tục, muốn đi
qua đây một cách thuận lợi, tốt nhất là cứ làm theo quy định thời xưa.
Nhắm mặt lại, cũng đồng
nghĩa với việc mất thị lực, đi qua địa đạo trong tình trạng như vậy thực sự rất
nguy hiểm, bọn tôi chưa ai có kinh nghiệm này bao giờ. Chúng tôi bàn bạc một
lúc, rồi vẫn quyết định phải mạo hiểm thử xem sao. Tuyền béo dẫn đầu đoàn, tháo
đạn trong súng hơi ra, chống ngược xuống làm gậy dò đường, Minh Thúc và A Hương
đi giữa cho an toàn, nếu không phải trèo đèo lội suối thì A Hương vẫn có thể
gắng đi một mình được. Tôi và Shirley Dương đi sau cùng. Tôi vẫn lo có người
không chịu nổi áp lực do bóng tối đem lại, sẽ mở mắt ra giữa đường, như vậy sẽ
làm liên lụy đến cả đoàn, thế là trước khi tiến vào cửa đá, dùng băng dính dán
lên mắt của mỗi người, sau đó mới khởi hành.
Do không đủ dây thừng, đành
phải để người sau bám vào vai người trước, năm người nối liền thành một chuỗi,
bám sát mé bên trái của địa đạo, dò dẫm từng bước tiến lên.
Tôi ngầm đếm số bước chân,
còn Minh Thúc lại bắt đầu căng thẳng, nói lải nhải luôn mồm, tôi nghĩ bụng cứ
để lão lèm bèm như vậy cũng tốt, giờ thì như hội người mù cả, chỉ có cách nói
chuyện liên hồi, lại cảm nhận qua đôi tay, mới có thể nhận biết được sự tồn tại
của nhau.
Lần nhắm mắt tiến vào địa
đạo này lại không nghe thấy tiếng bước chân khiếp đảm ở sâu bên trong kia nữa.
Shirley Dương nói rằng ở sâu dưới lòng đất trong thung lũng lớn ở Colorado cũng
có một loại tinh thạch có thể phát ra các loại âm thanh, kỳ lạ muôn vẻ, có khi
nghe giống kiểu như tiếng người cười khóc, tiếng muông thú gầm gào rống rít,
nhưng phải áp tai vào đá mới nghe được, gọi là đá "phát thanh". Địa
đạo này có lẽ là chứa vật quấy nhiễu thính giác của con người tương tự như vậy.
Con người dường như có tâm
lý sợ hãi bóng tôi một cách bản năng, chúng tôi vừa đi vừa nói chuyện, chốc
chốc lại dặn nhau không được mở mắt, làm vơi đi áp lực tâm lý do mất thị lực,
nhưng không ai còn biết còn cách đích bao xa, mà các thứ mùi mục rữa, ẩm ướt,
hôi thối trong điạ đạo nồng nặc dần lên, các vách đá lạnh lẽo ghê người, thật
là vô cùng ức chế.
Tuyền béo đi đầu đoàn được
một lúc thì bắt đầu chửi rủa, oán thán rằng đi trong địa đạo này, từng lỗ chân
lông đều cảm thấy khó chịu. Hóa ra không chỉ có tôi có cảm giác này, tất cả mọi
người ai cũng đều như vậy, đó là cảm giác rất kỳ quái.
Chợt nghe Minh Thúc nói:
"Cô Shirley Dương này, cô vừa nói cái cảm giác bị người ta nhìn chằm chằm
vào sẽ khiến bản thân mình hết sức khó chịu, giờ tôi hình như cũng có cảm giác
ấy đấy. Mọi người không cảm thấy có rất nhiều người đang chăm chăm nhìn vào
chúng ta sao? Trên dưới phải trái hình như đâu đâu cũng có người."
Tôi nghe Shirley Dương đáp
lại: "Đúng là có cảm giác như vậy, hy vọng rằng đây chỉ là ảo giác do mắt
không nhìn thấy gì đem lại... Nhưng mà trong động này hình như có gì đó thật."
Lúc này xung quanh xuất
hiện những tiếng động, nghe y như tiếng phì phì của rắn độc, chúng tôi bất giác
dừng chân lại. Tôi cảm giác ngón tay tê cứng, không biết có phải vì bám lên vai
Shirley Dương một lúc lâu nên mỏi hay không. Rồi bỗng trong óc tôi nảy ra một
suy nghĩ rất đáng sợ, thôi chết rồi, thoạt tiên thị giác bị hạn chế trong tình
cảnh bất đắc dĩ, sau đó thính giác, khứu giác, xúc giác đều xuất hiện triệu
chứng lạ, các cảm giác của chúng tôi đều dần dần biến mất.
Nguồn tusach.mobi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét